Professional Documents
Culture Documents
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là khám phá ảnh hưởng của những hiệu ứng – hậu
quả của Lockdown đến năng suất lao động của nhân viên văn phòng tại TP Hồ
Chí Minh hậu COVID-19. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương
pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng với 203 mẫu được khảo sát
tại TP Hồ Chí Minh. Kết quả đã chỉ ra 4 yếu tố có ảnh hưởng đến năng suất lao
động của nhân viên văn phòng bao gồm: môi trường làm việc, tâm sinh lý, cân
bằng giữa công việc và cuộc sống, cơ sở vật chất. Trên cơ sở đó, một số hàm ý
quản trị được đề xuất cho nhà quản trị tại các tổ chức cũng như tại các doanh
nghiệp có thể cân nhắc đề ra các giải pháp, phương pháp và chính sách nhằm
nâng cao năng suất lao động của nhân viên văn phòng.
TỪ KHOÁ: Những hiệu ứng – hậu quả, năng suất lao động, lockdown, nhân
viên văn phòng
CHỈ SỐ PHÂN LOẠI:
Influence of effects - consequences of Lockdown on office staff's productivity in
Ho Chi Minh city
Minh Phung Hoang Tran*, Thuy Thi Thanh Dao, Nhu Thai Thanh Vo,
Anh Tran Tram Phan
University of Finance and Marketing
Received; accepted
ABSTRACT
The objective of the study is to explore the effects of Lockdown on the
1
productivity of office workers in Ho Chi Minh City after COVID-19. The
research methods used are qualitative and quantitative methods with 203 samples
surveyed in Ho Chi Minh City. The results have shown four factors that affect the
productivity of office workers, including: working environment,
psychophysiology, work-life balance, and facilities. On that basis, a number of
managerial implications are proposed for managers at organizations as well as in
enterprises to consider proposing solutions, methods and policies to improve
productivity of office staff.
KEYWORDS: effects – consequences, productivity, lockdown, office staff
CLASSIFICATION NUMBER:
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch Coronavirus 2019 (COVID-19) đã gây ra những tác động mạnh mẽ ở
khắp mọi nơi trên thế giới, hầu hết công việc buộc phải chuyển dần sang hình thức làm
việc tại nhà (WFH). Theo Mustajab và cộng sự (2020), đây là sự nỗ lực để ngăn chặn
sự lây lan của COVID-19 cũng như thích ứng với chính sách giãn cách xã hội
(lockdown) ở nhiều quốc gia trên thế giới, làm ảnh hưởng đến năng suất của nhân viên
[1].
Điều đáng quan tâm ở đây là năng suất của nhân viên là một trong những yếu tố
có ảnh hưởng gián tiếp lẫn trực tiếp đến doanh thu cũng như lợi nhuận của doanh
nghiệp đó [2]. Bởi vì theo Nguyễn Thị Hương (2020) nguồn nhân lực được hiểu là
nguồn lực của mỗi con người hay chúng ta có thể hiểu là trong mỗi doanh nghiệp -
mỗi tế bào của kinh tế thì nguồn nhân lực có vai trò quan trọng (“doanh nghiệp là tế
bào của kinh tế” - Nguyễn Thành Nam (2016) [3, 4]. Do đó, có thể khẳng định rằng
năng suất lao động là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định đến sự tăng
trưởng của doanh nghiệp (Trần Thị Thanh Hương (2021)) [5]
Nhân viên văn phòng là một trong những nguồn lực có góp phần cho sự phát
triển của doanh nghiệp. Vai trò chủ yếu của nhân viên văn phòng là trung tâm tiếp
nhận, truyền đạt thông tin, phối hợp các qui trình hoạt động của công ty. Từ đó nhân
viên văn phòng là cánh tay đắc lực của các cấp quản lý, hỗ trợ thực hiện chính sách
quản lý, hỗ trợ đội ngũ cán bộ quản lý hoàn thành nhiệm vụ.
Trong đại dịch Covid 19 hiện nay, năng suất của nhân viên văn phòng phần
nhiều bị tác động bởi các yếu tố về tâm lý, môi trường, gia đình,v.v. Một vài thói quen
2
sinh hoạt cũng như những tác động khi phải làm việc tại nhà (WFH) trong một khoảng
thời gian dài sẽ dần hình thành và gây ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất làm việc của
nhân viên.
Hiện nay dịch bệnh đang chuyển biến tích cực, số ca nhiễm bệnh dần được
kiểm soát tốt hơn đồng nghĩa với việc cuộc sống của chúng ta sẽ trở lại với quỹ đạo cũ,
chuỗi ngày làm việc tại nhà (WFH) cũng sẽ kết thúc. Thế nhưng, sự chuyển biến trong
thói quen sinh hoạt hằng ngày một lần nữa lại bị thay đổi và chắc chắn sẽ gây tác động
đến năng suất lao động nhân viên. Và câu hỏi đặt ra ở đây là những yếu tố gây ảnh
hưởng đến năng suất của nhân viên là gì? Đây là vấn đề “nóng” cần phải được kiểm
soát trong thời gian sớm nhất. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có bài
nghiên cứu nào về vấn đề này vì cậy, để giúp các doanh nghiệp ứng phó kịp thời cũng
như đưa ra các chính sách phù hợp cho các vấn đề về năng suất của nhân viên sau đại
dịch Covid-19, nhóm sẽ nghiên cứu tập trung vào việc nêu ra và phân tích các yếu tố,
hiệu ứng của lockdown tác động đến năng suất làm việc của nhân viên văn phòng tại
thành phố Hồ Chí Minh sau Covid-19.
3
Năng suất là hiệu quả sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ được thể hiện bằng một số
biện pháp. Các phép đo năng suất thường được thể hiện dưới dạng tỷ lệ đầu ra tổng
hợp với một đầu vào duy nhất hoặc đầu vào tổng hợp được sử dụng trong quá trình sản
xuất, tức là đầu ra trên một đơn vị đầu vào, thường trong một khoảng thời gian cụ thể.
Ví dụ phổ biến nhất là thước đo năng suất lao động (tổng hợp), ví dụ, chẳng hạn như
GDP trên mỗi công nhân. Có nhiều định nghĩa khác nhau về năng suất (bao gồm cả
những định nghĩa không được định nghĩa là tỷ lệ đầu ra so với đầu vào) và sự lựa chọn
trong số đó phụ thuộc vào mục đích của việc đo lường năng suất và/hoặc tính khả
dụng của dữ liệu. Nguồn chính của sự khác biệt giữa các biện pháp năng suất khác
nhau cũng thường liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) với cách đầu ra và đầu vào được
tổng hợp thành vô hướng để có được thước đo năng suất theo tỷ lệ như vậy [9].
Năng suất lao động được định nghĩa là tổng sản phẩm quốc nội hoặc giá trị gia
tăng trên mỗi người được tuyển dụng khi có dữ liệu về giờ làm việc” [10], là giá trị mà
mỗi người tạo ra trên mỗi đơn vị đầu vào của mình [11]. Năng suất lao động cá nhân là
mức năng suất của cá nhân người lao động, được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất
hoàn thành trên một đơn vị lao động hao phí cho sản xuất sản phẩm đó (đơn vị lao
động hao phí được tính theo người, ngày-người và giờ-người) [12].
Nghiên cứu của Afrianty và cộng sự (2021) [13] chỉ ra rằng, khả năng kỹ thuật
số tác động đến năng suất lao động của nhân viên chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố bao
gồm: các yếu tố tổ chức (đào tạo về CNTT, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, sự hỗ trợ từ
quản lý) và các yếu tố cá nhân (định hướng kỹ thuật số) (hình 1).
4
Hình 1. Mô hình nghiên cứu của Afrianty và cộng sự [13]
Farooq và Sultana (2021) [14] đã nghiên cứu ra mô hình với biến độc lập WFH
và biến điều tiết giới tính ảnh hưởng đến năng suất lao động. Cụ thể, nhóm nghiên cứu
cho rằng WFH tác động tiêu cực đến năng suất lao động (hình 2).
Nghiên cứu của Prasetyaningtyas và cộng sự (2020) [15] đã chứng minh yếu tố
làm việc tại nhà có thể tác động trực tiếp đến năng suất lao động hoặc có thể tác động
5
gián tiếp qua 2 yếu tố: cân bằng giữa cuộc sống và công việc, mức độ hài lòng với
công việc (hình 3).
Sau khi tham khảo và xem xét các mô hình nghiên cứu trên, nhóm tác giả đề
xuất mô hình nghiên cứu gồm 5 nhân tố chính: (1) Cân bằng giữa công việc và cuộc
sống; (2) Môi trường làm việc; (3) Khối lượng công việc; (4) Tâm sinh lý; (5) Cơ sở
6
vật chất (hình 4).
Sau khi phân tích EFA với 26 biến quan sát của 5 biến độc lập, các biến quan
sát được nhóm thành 5 nhân tố. Chỉ số KMO= 0.912 thỏa điều kiện 0.5 ≤ KMO ≤ 1
8
chứng tỏ phân tích khám phá nhân tố là thích hợp. Tiếp theo đó, kiểm định Bartlett có
ý nghĩa (Sig = 0.000 < 0.05) nên kết luận được rằng các biến quan sát có tương quan
với nhau trong nhân tố. Tổng phương sai trích là 66.998% và giá trị Eigenvalues của
tất cả các nhóm nhân tố đều lớn hơn 1. Điều này cho thấy thang đo đã rút trích được
đúng với số lượng thành phần trong mô hình lý thuyết đề xuất và đúng với kỳ vọng mà
mô hình lý thuyết đã đặt ra. Như vậy, thang đo đạt được giá trị phân biệt trên tất cả các
yếu tố độc lập của mô hình. Đồng thời, tất cả biến quan sát được rút trích vào các nhân
tố đều có trọng số tải nhân tố (Factor loadings) đạt tiêu chuẩn lớn hơn 0.5 và chênh
lệch trọng số tải giữa các nhân tố đều nhỏ hơn 0.3 cho thấy thang đo đạt được giá trị
hội tụ.
Tiếp đến là biến phụ thuộc, phân tích EFA cho thấy chỉ số KMO = 0.791 thỏa
mãn 0.5 ≤ KMO ≤ 1 chứng tỏ phân tích khám phá nhân tố là thích hợp. Kết quả của
kiểm định Bartlett cũng có ý nghĩa (Sig = 0.000 < 0.05) nên kết luận được rằng các
biến quan sát có tương quan với nhau trong nhân tố. Tổng phương sai trích đạt
70.489%>50% cho thấy các nhân tố giải thích hơn 50% biến thiên của dữ liệu và trị số
Eigenvalues của nhóm nhân tố đạt 2.820 > 1 đều thỏa mãn yêu cầu về thống kê. Ngoài
ra, bốn biến quan sát đều có hệ số tải Factor loadings > 0.5 và chênh lệch trọng số tải
giữa các nhân tố đều nhỏ hơn 0.3. Kết quả phân tích cho ta thấy thang đo về năng suất
lao động đạt được cả giá trị phân biệt và hội tụ nên thang đo này sẽ được giữ nguyên
bốn biến quan sát để tiếp tục thực hiện bước phân tích tiếp theo.
Tiếp theo, các nhân tố được đưa vào để kiểm định tương quan và hồi quy. Kết
quả phân tích cho thấy, giá trị Sig. giữa từng biến độc lập với biến phụ thuộc đều nhỏ
hơn 0.05 cho thấy tương quan không loại biến nào. Như vậy có mối liên hệ tuyến tính
giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc. Xét về hệ số tương quan Pearson giữa NSLĐ
và các biến độc lập tương đối cao (thấp nhất cũng là 0.513), trong đó yếu tố cân bằng
công việc và cuộc sống tương quan mạnh nhất đến NSLĐ (0.723), tiếp đến là yếu tố
cơ sở vật chất (0.688), theo sau đó là yếu tố tâm sinh lý (0.630), yếu tố môi trường làm
việc là (0.624) và cuối cùng là yếu tố khối lượng công việc là 0.513. Do đó có thể kết
luận các biến độc lập này có thể đưa vào mô hình hồi quy để giải thích cho sự thay đổi
của biến phụ thuộc là NSLĐ của nhân viên văn phòng tại TP Hồ Chí Minh.
9
Phân tích hồi quy được thực hiện với 5 biến độc lập là: môi trường làm việc
(MT); Tâm sinh lý (TL); cân bằng giữa công việc và cuộc sống (CB); khối lượng công
việc (KL); cơ sở vật chất (CS) và biến phụ thuộc là năng suất lao động (NS). Phương
pháp đưa vào một lượt (phương pháp Enter) được dùng để phân tích hồi quy.
Kết quả bảng 1 cho thấy, giá trị trung bình của các nhân tố đều trên 3, trong đó
biến Tâm sinh lý (TL) đạt giá trị trung bình cao nhất 4.2623.
Mô hình hồi quy có dạng: Y = β0 + βiXi (*)
Trong đó: Y là biến phụ thuộc, β0 là hằng số, βi là tham số đi với biến độc lập X
(i=1:n).
Hệ số hồi quy
Hệ số hồi
Hệ số hồi quy chưa Thống kê đa
quy chuẩn
chuẩn hoá cộng tuyến
hoá
VIF(Hệ
Mô hình t Sig. số
Độ
Sai số phóng
B Beta chấp
chuẩn đại
nhận
phương
sai
1 Hằng số 0.323 0.203 1.590 0.113
MT 0.141 0.059 0.144 2.391 0.018 0.485 2.062
TL 0.193 0.058 0.194 3.342 0.001 0.522 1.914
CB 0.329 0.065 0.340 5.036 0.000 0.387 2.585
10
KL 0.032 0.049 0.037 0.661 0.509 0.559 1.790
CS 0.232 0.056 0.257 4.142 0.000 0.455 2.197
a. Biến phụ thuộc: NS
Phân tích hồi quy (Bảng 2) cho thấy 4 yếu tố môi trường làm việc, tâm sinh lý,
cân bằng công việc và cuộc sống, cơ sở vật chất đều có hệ số Sig. < 0.05. Theo đó, 4
biến độc lập nêu trên có tương quan thuận chiều với biến phụ thuộc NSLĐ của nhân
viên văn phòng tại TP Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, kiểm định t trong phân tích hồi quy
đã chỉ ra giá trị Sig. của biến độc lập KL là 0.509 lớn hơn 0.05, do đó loại biến này ra
khỏi mô hình.
Hệ số VIF < 10 cho thấy các biến độc lập không có quan hệ chặt chẽ với nhau
nên không có hiện tượng đa cộng tuyến, do đó mối quan hệ giữa các biến độc lập
không có ảnh hưởng đến kết quả mô hình.
Hệ số R2 hiệu chỉnh là 0.654 cho thấy 5 biến độc lập đưa vào ảnh hưởng 65.4%
sự thay đổi của biến phụ thuộc. Hệ số Durbin-Watson có giá trị là 1.997 (Bảng 3) nằm
trong khoảng cho phép từ 1 đến 3 có thể kết luận không có hiện tượng tự tương quan
trong mô hình.
Bảng 4: Kiểm định về sự phù hợp của mô hình hồi quy
ANOVAa
Mô hình Tổng các df Trung bình F Sig.
bình phương bình
phương
1 Hồi quy 81.233 5 16.247 74.337 .000b
Phần dư 43.055 197 0.219
11
Tổng 124.288 202
Để kiểm định sự phù hợp của mô hình, giá trị F ở bảng ANOVA được xem xét.
Sig. của F = 0.00 < 0.05, điều này có nghĩa là kết hợp của các biến thể hiện có trong
mô hình có thể giải thích được thay đổi của biến phụ thuộc hay nói cách khác có ít
nhất một biến độc lập nào đó có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc.
Từ kết quả phân tích hồi quy và đánh giá sự phù hợp của mô hình hồi quy, mối
quan hệ giữa biến phụ thuộc và 4 biến độc lập được biểu diễn bằng phương trình hồi
quy như sau:
NSLĐ = 0.144*MT + 0.194*TL + 0.340*CB + 0.257*CS
Kết quả chỉ ra 4 nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động lần lượt từ cao đến
thấp cụ thể: Cân bằng giữa công việc & cuộc sống (0.340), Cơ sở vật chất (0.257),
Tâm sinh lý (0.194), Môi trường làm việc (0.144).
13
lành mạnh, cải thiện về mặt tâm sinh lý của nhân viên, các nhà quản trị có thể cân nhắc
tổ chức cuộc thi về đề tài ăn uống lành mạnh với phần quà hấp dẫn.
Thứ tư, yếu tố “Môi trường làm việc” có tác động sau cùng đến năng suất lao
động của nhân viên văn phòng với hệ số Beta là 0.144. Con số này cho thấy yếu tố môi
trường có tác động thuận chiều đến năng suất lao động của nhân viên văn phòng, tuy
nhiên, tác động này không phải là một tác động mạnh do hệ số Beta khá thấp nhưng
theo điều tra xã hội học thì vẫn chấp nhận được. Bên cạnh đó, vì đây là yếu tố có tác
động cùng chiều với năng suất lao động nên các nhà quả trị có thể chú trọng vào môi
trường làm việc tại các văn phòng, tại nơi làm việc. Tạo môi trường làm việc thoải
mái, thuận tiện nhất cho nhân viên của mình. Cụ thể, các nhà quản trị có thể tận dụng
nguồn ánh sáng tự nhiên, tạo các khu vực phòng cách âm cũng như lắp đặt các thiết bị
lọc không khí hiện đại. Bên cạnh đó, có thể đa dạng không gian làm việc và tích hợp
phòng làm việc đa năng.
Tóm lại, nghiên cứu đã khám phá thành công 4 yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
lao động của nhân viên văn phòng tại TP Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất ra một số
chính sách quản trị để nâng cao năng suất lao động của nhân viên văn phòng. Trong
thời gian tới, nhóm nghiên cứu sẽ nghiên cứu lặp đi lặp lại nhiều lần với kích thước
mẫu rộng hơn và thời gian khảo sát sẽ dài hơn. Bên cạnh đó, thực hiện những buổi
phỏng vấn sâu để có thể tìm ra những yếu tố khác có ảnh hưởng đến năng suất lao
động khi làm việc tại nhà.
15