Professional Documents
Culture Documents
Đề 1
Đề 1
Với thể thơ bảy chữ được sử dụng hợp lí, Huy Cận đã cất lên những vần thơ như một khúc hát tươi
trẻ, khỏe khoắn, làm người đọc cảm nhận được sức mạnh con người trong trời đất bao la:
Ở đây, tác giả đã làm nổi bật được sức mạnh và khí thế hùng hồn, khỏe khoắn của lớp trai tráng khi ra khơi
với những động từ mạnh được đặt đúng chỗ như: “lái”, “lướt”. Không những vậy, nhà thơ còn sử dụng phép
liên tưởng vô cùng độc đáo và sang tạo ở hình ảnh con thuyền “lái gió”, “lướt giữa mây cao với biển bằng”,
như muốn cho độc giả thấy rõ hơn vẻ đẹp của người lao động khi sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ. Phải
chăng, đây là sự chủ động làm chủ thiên nhiên của người lao động hay thực chất đó là nét đẹp kì vĩ, hào
hùng của thiên nhiên khi sóng đôi với con người?
Huy Cận thực sự là một cây bút rất đặc biệt khi ông có thể lồng vào những câu thơ lãng mạn kia hình ảnh của
một trận ra quân đầy khí thế và dũng mãnh như vậy. Câu thơ sử dụng các từ ngữ “dò”, “dàn”, “đan”, “vây
giăng” rất khéo léo và hợp lí, như hiện lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động,
rất chân thực nhưng hoành tráng, kì vĩ lạ thường. Điều đó giúp ta thấy được sự háo hức, hăng say, miệt mài
của những người lao động đã và đang cố gắng từng ngày để xây dựng quê hương, đất nước.
Tuy khổ thơ chỉ vỏn vẹn 4 câu 7 chữ, nhưng đã đủ để khiến chúng ta phải tự hào về con người, thiên
nhiên, đất trời nước ta. Qua đó, chúng ta cũng thấy được sự khéo léo, tinh tế của Huy Cận khi sử dụng các
biện pháp tu từ độc đáo; thể thơ bảy chữ hợp lí; giọng thơ khỏe khoắn, tràn trề sức sống; bút pháp lãng mạn
xen lẫn hiện thực; hình ảnh giàu sức gợi cảm;... Đoạn trích đã khép lại nhưng mở ra cho ta một ngọn động
lực mới, thúc đẩy ta phải biết cố gắng cống hiến, làm việc vì quê hương, đất nước.
Đề 2: cảm nhận của em về đoạn thơ sau
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, tác giả giúp ta cảm nhận được vẻ
đẹp lớn lao và hùng vĩ của con người trước thiên nhiên, vũ trụ, lồng ghép trong đó là sự hạnh phúc, tự hào khi
dược cống hiến, đóng góp xây dựng quê hương, đất nước:
Bằng phép nhân hóa độc đáo, cùng với cấu trúc đầu cuối tương ứng hợp lí, nhà thơ cho ta cảm nhận được
một tinh thần lạc quan, yêu đời, tươi vui của ngư dân khi kết thúc một chuyến ra khơi đầy thành quả. Câu thơ
trên còn được tác giả thổi vào một vẻ đẹp rất hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên trong buổi bình minh thông
qua biện pháp nói quá vô cùng tinh tế “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Bên cạnh đó, nhà thơ giúp
chúng ta hình dung được vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên, vũ
trụ qua ngôn từ: “chạy đua”, “câu hát căng buồm”. Đó chính là vẻ đẹp thực thụ của người lao động, luoon
hăng hái, say mê lao động để góp công sức xây dựng quê hương đát nước.
Có thể nói, ngòi bút của Huy Cận vô cùng thú vị và sắc sảo khi sử dụng bút pháp lãng mạn xen lẫn hiện thực để
gợi tả màu nắng ấm của bình minh. Cách đặt biện pháp nhân hóa để xây dựng vẻ đẹp tươi sáng, rạng rỡ của
mặt trời đã hiện lên trong mắt người đọc sự tươi vui, phấn khởi, hạnh phúc bên thành quả lao động của ngư
dân. Câu thơ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” phần naò làm rõ khát vọng chinh phục thiên nhiên của
người lao động, nhưng cũng muốn vẽ lên cái giàu và đjep của quê hương thông qua từ láy “huy hoàng”. Hai
câu thơ tuy không quá hùng vĩ, lớn lao như hai câu thơ trước, nhưng nó cho chúng ta thấy được một niềm tin
tươi sáng của người lao động về công cuộc xây dựng, đóng góp cho quê hương, đất nước.
Tuy khổ thơ đã khép lại nhưng trong em vẫn dạt dào với nhiều cảm xúc lẫn lộn. Với bút pháp hienj thực
xen lẫn lãng mạn; giọng thơ hào hùng, khỏe khoắn; hình ảnh thơ gợi cảm;... 4 câu thơ đã đưa ta đến với một
vẻ đẹp huy hoàng, tráng lệ của thiên nhiên mà ẩn trong đó là nét đẹp hào hùng, vạm vỡ và náo nức, phấn
khởi của người lao động khi đóng góp cho quê huong, đất nước. Khúc tráng ca hào hùng về hình ảnh người
lao động ấy sẽ mãi là khúc ca đẹp nhất trong lòng độc giả mỗi khi nhắc đến “đoàn thuyền đánh cá”.
Đề 3: cảm nhận của em về đoạn thơ sau
Với lối thơ chọn lọc tinh tế cả hình ảnh lẫn ngôn từ, chỉ vỏn vẹn 7 câu thơ mà cho người đọc hiểu được
cặn kẽ nguồn gốc của tình đồng đội, cảm nhận được sựu giản dị, mộc mạc nơi người lính. Thế mới thấy đúng
đắn làm sao khi nói phong cách thơ của Chính Hữu cảm xúc luôn hiện hữu trong mỗi ca từ. Không chỉ là dồn
nén cảm xúc, hình ảnh thơ trong hai câu đầu còn thể hiện rất rõ cảnh ngộ tương đồng, khó khăn của những
người lính cách mạng:
Qua cấu trúc sóng đôi “quê hương anh-làng tôi”, tác giả cho ta thấy một sự liên kết đặc biệt giữa những người
lính trước khi họ trở thành chí cốt của nhau. Sự liên kết này vốn không thể xuất phát từ cảnh ngộ hay xuất
thân bởi câu thành ngữ hàm súc và hình ảnh thơ cô đọng của Chính Hữu đã gợi lên trong ta nguồn gốc duyên
hải miền Trung “nước mặn đồng chua” và trung du Bắc Bộ “đất cày lên sỏi đá” riêng biệt. Và rằng cái liên kết
ấy chẳng nhẽ là sự khốn khó từ giai cấp nông dân? Chính điều này đã dấy lên một câu hỏi trong lòng độc giả,
liệu các anh đã có sự liên kết vô hình ấy từ bao giờ và vì điều gì. Đó là lí tưởng chiến đấu vì đất nước.
Chính Hữu phải nói rằng rất tinh tế khi chọn lọc, chắt chiu những từ ngữ đắt giá như “xa lạ”, “tự phương trời”,
“chẳng hẹn quen nhau”, điều đó đã vẽ lên trong lòng độc giả nét lạ lẫm của các anh lính khi lần đầu gặp gỡ.
Nhưng nhờ vào sự tương đồng về ý chí chiến đấu được nhà thơ làm rõ qua phép điệp từ “súng” và “đầu”, các
anh trở thành những tri kỉ của nhau. Vẻ đẹp ấy không chỉ là biểu tượng của tình đồng đội gắn bó mà còn là
tình yêu, sự cảm thông sâu sắc lẫn nhau, một điều không thể thiếu khi trở thành một đôi bạn nghĩa tình:
“Đồng chí!”
Tác giả một lần nữa phải khiến ta khâm phục. CHỉ với một câu thơ đặc biệt, chỉ với một từ “đồng chí”, nhưng
câu thơ ấy lại trào lên trong lòng người đọc một cảm xúc thật khó tả. Đây không chỉ là câu thơ liên kết cả toan
bài, đây còn là câu gọi được cất lên trong lòng những người lính, như sự liên kết giữa họ với nhau. CHính Hữu
ắt phải là một nhà thơ rất dạt dào cảm xúc về kháng chến, người lính cách mạng mới có thể viết ra những lời
thơ cô đọng mà giàu cảm xúc đến thế.
Đoạn trích đã khép lại nhưng dường như còn tồn lại trong lòng người đọc chút dư vị ấm nóng. Đó
phải chăng là sự tinh tế và kheo léo của nhà thơ khi chắt lọc hình ảnh, ngôn từ một cách hàm xúc và cô đọng,
hay là tình yêu của người đọc về cái giản dị, bình thường của sự hình thành tình đồng đội của các anh lính
cách mạng? Qua đoạn thơ, em cảm nhận được các chiến sĩ, những người lính cách mạng một vẻ đẹp giản dị,
mộc mạc nhưng cũng không kém phần cao cả và đẹp đẽ. Lúc này, em mới thấm câu thơ của Chế Lan Viên:
Tác giả đã vận dụng rất hiệu quả lối thơ 7 chữ, đem đến cho ngừi đọc thấy được sự gắn kết của các anh lính
lái xe. Họ không cần biết người đồng chí kia là ai, cũng chẳng cần biết họ có ở trong quân đoàn của mình hay
không, chỉ cần biết rằng, đó là những người lính cung chiến đấu vì miền Nam, thì chúng ta là bạn bè. Thêm
vào đó, cách diễn lời thơ tự nhiên, vui tươi đã làm nười đọc hiểu rằng, sự khốc liệt của chiến tranh có thể hủy
hoại tất cả xe cộ, phương tiện di chuyển của tiểu đội, nhưng không thể hủy hoại đi sự gắn kết kì lạ giữa những
anh lính lái xe với khát vọng danhf độc lập cho đất nước. Ngoài ra, tác giả còn vận dụng từ ngữ rất mộc mạc,
chân thật tô đậm thêm nét hồn nhiên, tươi trẻ, pha chút tinh nghịch của những anh lính lsi xe khi “bắt tay
nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
Với cách nói dí dỏm, những lời thơ tựa lời kể, tự nhiên, mộc mạc, tác giả đã khắc họa nét đẹp lạc quan, gắn
kết và tình nghĩa anh em gắn bó giữa những người lính lái xe “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Tác giả đã
vận dụng đúng chỗ từ láy “chông chênh”, càng tô đậm rong lòng người đọc sự khó khăn, gian lao suốt con
đường mà các anh lái xe. Nhưng chính nhịp thơ 2/2/2, với phép lặp “lại đi”, nhà thơ gợi lên trong lòng độc giả
hình ảnh những anh linnhs lái xe ung dung, hiên ngang, tự tin bước đi vì biết rằng “lại đi, lại đi” trời sẽ thêm
“xanh”.
Phạm TIến Duật có một hồn thơ rất hóm hỉnh, tươi vui, yêu đời, lạc quan và không kém phần tinh
nghịch. Đoạn thơ trên đã rất xuất sắc miêu tả hồn thơ của ông. Với thể thơ bảy chữ hơp lí, phương thức biểu
đạt đúng đắn, hình ảnh thơ phóng khoáng, ngôn từ mộc mạc chân chất, nhà thơ đã vô cùng thành công khắc
họa biểu tượng của thế hệ trả Việt Nam thm gia kháng chiến. Đoạn trích khép lại, nhưng ddoogj lại trong ta
những dư vị khó quên về sự ngoan cường, bình tĩnh, ý chí mãnh liệt của thế hệ cha anh ta. Chúng ta càng phải
ra sức học tập, rèn luyện, phát triển để tiếp nối công sức gây dựng đất nước và để lại cho thế hệ mai sau.
Khí nhớ về người bà kính mến của mình, tác giả, với thể thơ tự do, đã gợi tả cho người đọc thấy tình
cảm sâu sắc mình dành cho người bà qua những kỉ niệm nhỏ được cất giữ rất cẩn thận và tỉ mỉ. Tuy chỉ mới
lên tám, nhưng nhà thơ vẫn nhớ rất sâu đậm những kỉ niệm với người bà của mình:
Cách sử dụng cụm từ “tám năm ròng” và hình ảnh “cùng bà nhóm lửa”, tác giả đã gợi lên trong lòng người
đọc sự khốn khó, gian nan của cuộc sống lúc bấy giờ nhưng bà luon đồng hành cùng cháu, “nhóm lửa” giữ ấm
cho cháu, thể hiện sự kính yêu, biết ơn mà tác cgiar dành cho người bà của mình. Mặc dù còn nhỏ, nhưng
những âu yếm, yêu thương của người bà tác giả không thể không nhớ. Với cách sử dụng lỗi thơ tự do, tình
cảm của tác giả như dạt dào, cuồn trào theo từng câu chữ, đến người đọc cũng phải cảm động khi tác giả nhớ
cả những câu chuyện bà kể. Đó là tình cảm kính trọng, yêu thương, mà tác giả muốn gửi gắm.
Vì phải sống trong thời kì chiến tranh, nên tác giả phải thường xuyên ở cùng bà. Nhưng cách ngắt nhịp 4/4
đều đặn và sự gắn kết hình ảnh “cháu-bà” đã cho độc giả cảm nhận được đứa cháu được nhận tình yêu
thương rất to lớn từ người bà, không hề vì thiếu vắng cha mẹ mà mất mát tình thương. Bởi vì thế, người cháu
vô cùng biết ơn bà đã làm đẹp cho khoảng thời gian thơ ấu, được bà “dạy”, “chăm”, “bảo”.
Câu thơ ấy tưởng như lời trách mắng tu hú đã để lại những hoang vắng, rợn ngợp, lạnh lẽo nơi bà ở của đứa
cháu, nhưng thực chất là mượn lời để tác giả tự trách bản thân. Với phép ẩn dụ “tu hú” và câu hỏi tu từ đặt
đúng chỗ, tác giả giúp người đọc hieur rõ hơn về nỗi khổ tâm luôn dày vò đưa cháu khi xa nhà. Qua đó, độc
giả còn thấy roc được lỗi sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ của tác giả đối với người bà, quê hương, đất
nước.
Qua đoạn trích trên, với thể thơ tự do và giọng thơ mộc mạc, giản dị, chân chất, Bằng Việt đã cho các
độc giả thấy được tình yêu thương, kính trọng, wuys mến, biết ơn vô hạn với người bà của mình khi xa nhà.
Bên cạnh đó, tác giả cũng gửi gắm vào những vần thơ ấy nỗi nhớ quê hương, đất nước và người bà, dấy lên
trong lòng người đọc một dư vị khó tả dù đoạnt rích đã khép lại. Trong chúng ta, ai ai cũng sẽ có một nơi được
gọi là nhà, nơi chứa đựng những niềm ui nhỏ bé, và chứa đụng cả những người mà chúng ta yêu quý, nơi sinh
ra để ta nhớ về.
“Đêm nay...
....trăng treo”
Tác giả đã sử dụng thành công bút pháp hiện thự xen lẫn lãng mạn vào các câu thơ làm cho người đọc
cảm nhận được vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội vào những lúc nguy hiểm và nét đẹp đến từ tâm hồn thi sĩ
ẩn chứa trong mỗi chiến sĩ. Trước hết chính là sự khó khăn gian lao mà các anh phải trải qua trong khi chiến
đấu nhưng nhờ vào tình bạn gắn bó giữa những người đồng chí, tất cả đều được vượt qua, kể cả là cái rét đến
buốt giá của rừng rậm
Nhờ việc đặt đúng chỗ cụm từ “rừng hoang sương muối” giàu sức biểu cảm, tác giả đã đưa người đọc đến với
nỗi lạnh lẽo và hoang vắng rợn ngợp của chiến trường Trường Sơn, giúp ta thấu hiểu hơn về sự dũng cảm, gan
dạ của người lính cách mạng. Bên cạnh đó, việc sử dụng lối thơ tự do đã phát huy tác dụng triệt để trong câu
thơ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, làm người đọc thấm hơn về sự gắn kết keo sơn của những người lính,
dù cho phải đương đầu với bao nhiêu hiểm nguy, chỉ cần có nhau, các anh sẵn sàng vượt qua tất cả. Đó chính
là biểu tượng cao đẹp của chiến sĩ cách mạng. Không những vậy, các anh còn có một tâm hồn vô cùng thi sĩ,
thơ mộng được bieur hiện qua câu thơ:
Phải là một người có sự am hiểu rất sâu sắc về chiến trường và là người có sự hòa quyện, thống nhất sâu sắc
giữa cuộc đời thi sĩ và cách mạng mới có thể vẽ lên trong lòng độc giả một khung cảnh nửa thực nửa hư như
vậy. Với cách chắt lọc ngôn từ tinh tế, hình ảnh thơ giàu sức gợi tả và biểu cảm, một khung cảnh vừa thơ
mộng vừa chân thực như hiện lên trước mát người đọc. Đó là những người chiến sĩ, họ không kiềm mình
được trước vẻ đẹp của ánh trăng khó thấy tronh cánh rừng Trường Sơn rậm rạp nhưng cũng không quên
nhiệm vụ làm người lính cách mạng. Nhờ thế, ánh trăng như lấp lửng trên đầu súng, đầu súng như treo ngược
vầng trăng.
Đoạn thơ chỉ vỏn vẹn 3 câu chữ, nhưng đã mang đến cho người đọc những cảm xúc thật khó tả. Với bút
pháp hieenj thực xen lẫn lãng mạn, hình ảnh thơ giàu sức gợi cảm, ngôn từ cô đọng, hàm súc,... Chính Hữu đã
cho ta thấy được vẻ đẹp của những người lính cách mạng, tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn của họ và
biểu tượng sức mạnh đến từ chính tâm hồn của những chiến sĩ. Có thể nói, đoạn thơ đã vô cùng thành công
đưa người đọc đến với gần hơn vẻ đẹp biểu tượng của những người lính, một vẻ đẹp của sự dũng cảm, sẻ
chia và trách nhiệm.