You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

-------***-------

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ


Học phần: Kinh tế đầu tư – Mã học phần: KTE311

Tên đề tài:
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG

Nhóm thực hiện: Nhóm số 14 – KTE311(GĐ2–HK1-2021).2

STT Họ và tên sinh viên Mã sinh viên

1 Trần Khắc Hòa ( NT ) 2014110105

2 Trần Đức Huy 2014110117

3 Nguyễn Thị Cẩm Ly 2014110161

4 Lê Nguyễn Minh Thảo 2014310130

5 Đỗ Thị Hà Trang 2014110242

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Việt Hoa


Hà Nội, tháng 12 năm 2021
Phân công và đánh giá công việc các thành viên nhóm 14
Các thành viên tự đánh giá và
đánh giá thành viên khác Chữ
Tên

STT thành MSSV Công việc 
viên Khắc Đức Cẩm Minh Hà xác
Hòa Huy Ly Thảo Trang nhận

10 10 10 10
Trần Viết chính sách đất
Khắc đai, định hướng
1 2014110105
Hòa chính sách thu hút
(NT) FDI,

9,5 9,5 9,5 9,5


Viết thực trạng vốn
Trần
FDI vào VN,
2 Đức 2014110117
Chính sách công
Huy
nghệ, 

9,5 9 9,5 9,5


Viết nguyên nhân,
Nguyễ
diễn biến chiến
n Thị
3 2014110161 tranh thương mại,
Cẩm
chính sách lao
Ly
động, 

10 10 10 10
Lê Viết tác động chiến
Nguyễ tranh thương mại tới
4 n 2014310130 kinh tế VN, kinh tế
Minh toàn cầu, chính sách
Thảo Công nghệ

Viết Cơ hội và thách 9,5 9 9,5 9,5


thức của chiến tranh
Đỗ Thị
thương mại đến
5 Hà 2014110242
nguồn vốn FDI vào
Trang
VN, chính sách lao
động
CÁC CÔNG VIỆC CỦA NHÓM ĐỂ HOÀN THÀNH BÀI TIỂU LUẬN
Công việc

Viết đề
cương
chi tiết
Thảo luận và lời
Người ý tưởng đề Lên dàn ý mở đầu Chỉnh sửa
thực tài tiểu luận DL Viết tiểu luận tiểu luận Lên bài
hiện DL 4/11 DL 13/11 14/11 DL 30/11 DL 1/12 DL 2/12

Viết, chính sách đất


đai, định hướng chính - tổng hợp
sách thu hút FDI, - chỉnh sửa
Khắc Sắp xếp bố
Hòa cục

Viết thực trạng vốn


chỉnh sửa
FDI vào VN,
Chính sách công chính sách
Đức nghệ, thành tựu thu
công nghệ
Huy hút fdi

- làm bảng
Viết nguyên nhân, chữ viết tắt,
Cả nhóm diễn biến chiến tranh Chỉnh sửa Cả nhóm
đã hoàn Cả nhóm đã làm tốt thương mại, chính sách đã làm
Cẩm Ly thành tốt chính sách lao động, lao động tốt
Viết tác động chiến
tranh thương mại
tới kinh tế VN,
kinh tế toàn cầu, -Tổng hợp,
chính sách chỉnh sửa
Công nghệ. các chính
Cơ hội của chiến sách
Minh tranh thương mại đến - kiểm tra
Thảo thu hút fdi tổng thể
-làm mục lục
Viết Cơ hội và - Chỉnh sửa
thách thức của chiến chính sách
tranh thương mại lao động,
đến nguồn vốn FDI sửa lại cơ hội,
Hà vào VN, thách thức
Trang chính sách lao động
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt..................................................................................................
Lời mở đầu...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2021...................................................................................3
1.1. Thực trạng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2021.............................3
1.2. Phân tích một số chính sách thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 -
2021........................................................................................................................... 4
1.2.1. Chính sách đất đai......................................................................................5
1.2.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.............................6
1.2.3. Chính sách lao động...................................................................................6
1.3. Đánh giá một số chính sách thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 –
2021........................................................................................................................... 8
1.3.1. Chính sách đất đai......................................................................................8
1.3.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo...........................10
1.3.3. Chính sách lao động.................................................................................10
CHƯƠNG 2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THU HÚT NGUỒN VỐN
FDI VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI
MỸ - TRUNG............................................................................................................. 13
2.1. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung............................................................13
2.1.1. Nguyên nhân.............................................................................................13
2.1.2. Diễn biến...................................................................................................15
2.1.3. Tác động....................................................................................................16
2.2. Cơ hội và thách thức của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đến dòng
vốn FDI vào Việt Nam...........................................................................................18
2.2.1. Cơ hội........................................................................................................18
2.2.2. Thách thức................................................................................................19
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI
VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH .....THƯƠNG MẠI MỸ -
TRUNG....................................................................................................................... 21
3.1. Định hướng chính sách thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 2022 – 2030.21
3.2. Giải pháp điều chỉnh chính sách thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung....................................................................21
3.2.1. Chính sách đất đai....................................................................................21
3.2.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo...........................22
3.2.3. Chính sách lao động.................................................................................24
Kết luận .....................................................................................................................26
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................28

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

European-Vietnam Free Trade Hiệp định thương mại tự do Châu


EVFTA
Agreement Âu – Việt Nam

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển


OECD
Cooperation and Development Kinh tế
Regional Comprehensive Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
RCEP
Economic Partnership diện Khu vực

SHTT Sở hữu trí tuệ

United Nations Conference on Hội nghị liên hợp quốc về thương


UNCTAD
Trade and Development mại và phát triển

WTO Word Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới


LỜI MỞ ĐẦU
1) Tính cấp thiết của đề tài
Mỹ - Trung được xem là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay chi phối hầu
hết các mối quan hệ thương mại song phương và đa phương toàn cầu. Ảnh hưởng của
cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung lên nền kinh tế thế giới là điều mà nhiều
người có thể mường tượng được. Bộ phận dự báo và phân tích kinh tế (EIU) của The
Economist nhận định từ đầu năm 2018, chiến tranh thương mại đang trở thành nguy cơ
lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Sự leo thang căng thẳng của hai ông lớn
trong nền kinh tế tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của nền kinh tế thế giới trong đó có
Việt Nam. Mang đến nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam đặc biệt
trong lĩnh vực FDI. Khi mà nguồn vốn FDI có xu hướng dịch chuyển từ Trung Quốc
sang các nước khác .Việt Nam là quốc gia được đánh giá cao trong khu vực, được
nhiều tập đoàn đa quốc gia lựa chọn bởi vị trí chiến lược, chi phí nhân công thấp,
nguồn nhân lực dồi dào, môi trường vĩ mô và chính trị ổn định cùng với đó nền kinh tế
ngày càng hội nhập dựa vào các hiệp định thương mại tự do như EVFTA, RCEP...
giúp các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng thị trường tốt hơn. Theo Báo cáo đầu tư
2021 của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại – Phát triển (UNCTAD) công bố,
Việt Nam lần đầu tiên lọt top 20 nền kinh tế thu hút vốn FDI nhiều nhất thế giới. Tuy
nhiên các chính sách thu hút FDI hiện nay vẫn còn một số vấn đề như là vấn đề mở
cửa đối với lao động nước ngoài, việc ứng dụng công nghệ, quyền sử dụng đất đai với
các doanh nghiệp FDI còn hạn chế, các quy định về thuê đất, luật sở hữu trí tuệ còn
nhiều bất cập chưa được phù hợp với chủ trương hội nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy
nhóm em đã lựa chọn đề tài “ Điều chỉnh chính sách thu hút FDI vào Việt Nam
trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung” để chỉ ra những hạn chế trong
chính sách hiện nay, tìm hiểu những cơ hội và thách thức của chiến tranh thương mại
đến dòng vốn FDI vào Việt Nam, qua đó đề xuất các giải pháp phù hợp tăng cường
khả năng thu hút vốn FDI trong thời gian tới.
2) Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm đề xuất chính sách phù hợp để thu hút nguồn vốn FDI vào Việt
Nam trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu

1
- Tìm hiểu thực trạng chính sách thu hút FDI tại Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá cơ hội và thách thức của Việt Nam với việc thu hút vốn FDI trong bối cảnh
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
- Đề xuất điều chỉnh một số chính sách thu hút FDI trong bối cảnh dịch chuyển FDI
bởi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu : Chính sách thu hút FDI của Việt Nam
b) Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Việt Nam
Thời gian: 2010 – 2021 đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2022 - 2030
Nội dung: Chính sách thu hút FDI của Việt Nam, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
4) Phương pháp nghiên cứu
Phân tích định tính kết hợp với phân tích tổng hợp với số liệu được tổng hợp từ nhiều
nguồn khác nhau như các bài báo, tạp chí kinh tế, các báo cáo tổng hợp về FDI, Tổng
cục thống kê, Ngân hàng thế giới ( Word Bank) và một số trang mạng khác.
5) Kết cấu chuyên đề
Chương 1: THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010 - 2021
Chương 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THU HÚT NGUỒN VỐN FDI
VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ -
TRUNG
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI VÀO
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG
Thông qua việc nghiên cứu về đề tài FDI chúng em cũng mong muốn học tập và trao
đổi, mở rộng thêm vốn kiến thức về chuyên ngành Kinh tế Đầu tư. Tuy nhiên do trình
độ và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu xót.
Chúng em mong nhận được sự góp ý của cô để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Cuối
cùng, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô TS. Nguyễn Thị Việt Hoa đã
theo dõi sát sao hỗ trợ chúng em trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.

2
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2021

1.1. Thực trạng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2021
Sau 30 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam đã không ngừng tăng. Năm 2010, vốn đầu tư thực hiện đạt
11 tỷ USD, tới năm 2015 đã đạt 14,5 tỷ USD, và tới năm 2016 đã đạt 15,8 tỷ USD.
Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam đã thu hút được trên 25.000 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký hơn 333 tỷ USD. Đến nay, 129 quốc
gia/vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa
phương, vốn FDI cũng đã được đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất kinh doanh của
Việt Nam (Bộ Tài chính, 2018). Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư năm 2019, vốn FDI vào Việt Nam năm 2019 đạt 38,95 tỷ USD, tăng
7,2% so với năm 2018. Trong đó, số dự án đăng ký góp vốn mới được cấp giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư là 3883 dự án với giá trị 16,75 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành
một trong những quốc gia hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Với lợi thế cạnh tranh về
môi trường đầu tư thông thoáng, môi trường chính trị ổn định, môi trường kinh tế vĩ
mô phát triển ổn định, nguồn nhân lực dồi dào với chi phí thấp, Việt Nam là một trong
những quốc gia hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ các lợi thế đó,  dòng vốn FDI
vào Việt Nam giai đoạn 2010-2020 có xu hướng tăng lên, đặc biệt là sau khi Việt Nam
tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương.
Giai đoạn từ năm 2010 - 2014 vốn FDI đăng ký dao động liên tục và tăng nhẹ
từ 19,89 tỷ USD năm 2010 lên 21,92 tỷ USD vào năm 2014. Từ sau năm 2015 tổng
vốn FDI đăng ký vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ và liên tục, nếu tổng vốn đầu tư vào
Việt Nam năm 2015 là 22,7 tỷ USD, thì đến năm 2019 con số này tăng lên 38,95 tỷ
USD. Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu bị ảnh
hưởng nghiêm trọng nên vốn FDI đăng ký vào Việt Nam có sự sụt giảm, chỉ đạt 28,53
tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019. (nguồn: Cục đầu tư nước ngoài năm 2020)

Hình 1: Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 (đơn vị tỷ USD)

Không chỉ gia tăng về số vốn đăng ký, mà vốn FDI thực hiện cũng tăng cao hơn

3
trong giai đoạn 2015- 2019, từ 14,5 tỷ USD lên 20,38 tỷ USD; số dự án đầu tư đăng ký
mới tăng từ 1.843 dự án năm 2015 lên 3.883 dự án năm 2019. (nguồn: Cục đầu tư
nước ngoài năm 2020)
Đến năm 2020, do chịu ảnh hưởng chung của đại dịch Covid-19, hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng lên các dự án FDI vào Việt Nam
có sự sụt giảm cả về vốn đăng ký, và các dự án đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện chỉ
sụt giảm nhẹ, đạt 98% so với năm 2019. Tính đến 20/9 năm 2021, tổng vốn đăng ký
cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ
USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020 bất chấp sự bùng nổ của dịch Covid 19.
(nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài)
Về lĩnh vực đầu tư
Trong giai đoạn 2010 - 2020, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành
lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo luôn là lĩnh vực thu hút được nhiều sự
quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng
thêm luôn dao động trong khoảng 13 - 24 tỷ USD, chiếm tỷ lệ phần trăm cao trong
tổng số vốn đầu tư đăng ký (40 - 70%). Ngoài ra, các lĩnh vực như kinh doanh bất
động sản, bán buôn, bán lẻ hay sản xuất phân phối điện cũng khá nổi bật trong các
ngành nhận được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều
sự quan tâm nhất của nhà đầu tư nước ngoài với 800 dự án cấp mới, 680 dự án điều
chỉnh vốn đầu tư và 1268 lượt góp vốn, mua cổ phần với tổng số vốn là 13,601 tỷ
USD, chiếm 47,67% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt và
hơi nước đứng thứ 2 đạt 5,1426 tỷ USD chiếm 18,03% tổng vốn đầu tư. Hoạt động
kinh doanh bất động sản đứng thứ 3 với 4,18495 tỷ USD chiếm 14,67% tổng vốn đầu
tư. Nhìn chung, các ngành công nghệ chế biến, kinh doanh bất động sản, sản xuất và
phân phối điện, dịch vụ lưu trú ăn uống,… là những ngành thu hút vốn đầu tư FDI vào
nhiều nhất.
Về đối tác đầu tư
Trong giai đoạn 2016 - 2020, số quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam
ngày càng tăng lên, tính đến cuối năm 2020 thì con số này lên tới 139 quốc gia và
vùng lãnh thổ, tổng số vốn đăng ký trên 377 tỷ USD với tổng số 33.148 dự án từ các
quốc gia và vùng lãnh thổ. Có 10 quốc gia cam kết với số vốn trên 10 tỷ USD. Trong
đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 69,3 tỷ USD và 9.149 dự án đầu tư
(chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư), Nhật Bản đứng thứ hai với 60,1 tỷ USD và 4.674 dự
án đầu tư (chiếm gần 15,9% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông, Trung Quốc chiếm 14,8%, 8,9%, 6,6% và 4,7%.(nguồn Tổng cục
Thống kê)

4
1.2. Phân tích một số chính sách thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 -2021
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế của các nước nhận đầu tư. FDI tạo cơ hội tiếp cận các nguồn vốn và
việc làm, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất,... Chính vì những lợi ích này nên
khuyến khích đầu tư nước ngoài là một chủ trương lớn của các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2020 đã ban hành
nhiều chính sách để thu hút nguồn vốn FDI, trong đó bao gồm một số chính sách như
sau:

1.2.1. Chính sách đất đai


Tại hội nghị trực tuyến về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 19 NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương khóa XI và tổng kết thi hành luật đất đai (7/12/2021) Bộ trưởng
Trần Hồng Hà cho rằng 10 năm tổ chức thực hiện nghị quyết số 19 NQ/TW và 8 năm
thi hành luật đất đai, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực, trong đó có quyền sử
dụng đất đã từng bước phát triển để cùng với thị trường vốn, thị trường lao động, khoa
học công nghệ cấu thành một chỉnh thể của cơ cấu thị trường. Các quy định về ưu đãi
đất đai đã góp phần thực hiện chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng cần được
ưu đãi, hỗ trợ các lĩnh vực cần được khuyến khích đầu tư. Đồng thời chính sách ưu đãi
đất đai đã và đang phát huy vai trò như là một công cụ nhằm thu hút đầu tư.
Luật Đất đai 2013 thay thế cho Luật Đất đai năm 2003, đã mở cửa cho các nhà
đầu tưu FDI tham gia vào thị trường bất động sản ( Khoản 7 điều 5 Luật Đất đai 2013),
điều chỉnh tăng cường sự bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong
nước. Luật Đất đai 2013 tiếp tục khẳng định đặc điểm đặc thù của Việt Nam đó là: Đất
đai là tài sản của quốc gia, thuộc quyền sở hữu toàn dân, được đại diện và quản lý bởi
nhà nước, các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu đất đai. Tuy nhiên hiện
nay các nhà đầu tư nước ngoài có quyền như nhà đầu tư trong nước khi thực hiện các
giao dịch liên quan đến đất đai. Theo quy định của bộ luật, Việt kiều và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có thể được giao đất để đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc
kết hợp cho thuê.
Luật Đất đai năm 2013 bổ sung trường hợp nhận quyền sử dụng đất của
doanh nghiệp liên doanh thông qua nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Quy định
này đã thể hiện sự mở rộng về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, là sự cụ thể hóa chủ trương “Khuyến khích việc cho thuê, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư”.
Trong năm 2017, Để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả
nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao, Chính phủ đã ban
hành nghị định số 35/2017/NĐ-CP quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất,
5
thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với những ưu đãi cao hơn mức ưu
đãi của các dự án đầu tư thường.

1.2.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2011 đã khẳng định phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng
nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển
nhanh, bền vững của đất nước; tăng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào
tăng trưởng. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã chỉ ra định hướng
phát triển khoa học, công nghệ của nước ta trong giai đoạn hiện nay là phát triển năng
lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho những ngành, lĩnh
vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực. Nhà
nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học,
công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn
lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. 
Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Khoa học và Công nghệ và hiện còn hiệu
lực, trong đó nhiệm vụ được đề ra là nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm
chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao và tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ
của thế giới để tạo ra, ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới để từ đó giúp phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam. Theo đó, tại điều 6, Luật đã đề ra những chính sách của Nhà
nước về phát triển khoa học và công nghệ như ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc
gia cho phát triển khoa học và công nghệ; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ
công nghệ;... Và tại khoản 5 điều 69, Luật đã chỉ rõ Nhà nước thành lập, khuyến khích
tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển
giao công nghệ. Luật Khoa học và Công nghệ cũng đề cập chính sách thu hút FDI như
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy
định của pháp luật về công nghệ cao (khoản 2, điều 57). Năm 2014, Chính phủ Việt
Nam ban hành Nghị định số 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút người Việt Nam ở
nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại
Việt Nam và một số điều trong Nghị định đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2020 bởi
Nghị định số 27/2020/NĐ-CP (còn hiệu lực), trong đó đã đề ra các chính sách ưu đãi
về lương, nhà ở, khen thưởng để có thể thu hút cá nhân sinh sống tại nước ngoài hỗ trợ
phát triển khoa học - công nghệ Việt Nam. Qua đó, Việt Nam có thêm cơ hội hội nhập
quốc tế về khoa học - công nghệ và giúp Việt Nam trở thành một điểm đến thu hút hơn

6
với các doanh nghiệp FDI. 
Những hướng đi của chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của
Nhà nước đã góp phần giúp khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt được nhiều tiến
bộ và thành tựu nổi bật trong những năm qua, đóng góp thiết thực cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh, cải thiện an sinh xã
hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững
tạo điều kiện thuận lợi để thu hút FDI.

1.2.3. Chính sách lao động


Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng
cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao
động. Hiểu được sự quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, nhiều biện pháp đã
được Chính phủ đưa ra nhằm cải thiện và nâng cao trình độ của người lao động- một
trong những yếu tố then chốt trong thu hút FDI vào Việt Nam.
Trong những năm qua, hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực
đã được ban hành tương đối đầy đủ và ngày càng được hoàn thiện. Cụ thể, Quốc hội
đã ban hành Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật
Giáo dục năm 2019, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức… Chính phủ cũng đã
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật, đồng thời ban
hành nhiều cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Có thể kể đến như Quyết
định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược
phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã nhấn mạnh việc đưa nhân lực Việt
Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội
nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta
lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận
trình độ các nước phát triển trên thế giới.
Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng chỉ ra được
nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực, đảm bảo yêu cầu nhân lực thực hiện
thành công đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển nhanh những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh quốc tế;
đồng thời nêu ra các giải pháp phát triển nhân lực, hình thành đội ngũ nhân lực chất
lượng cao theo chuẩn khu vực và từng bước tiến tới chuẩn quốc tế. Hệ thống văn bản
này đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi và tạo động lực cho việc thúc đẩy phát triển
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng giúp Việt Nam trở thành nơi thu hút
FDI. 
Ngoài các quyết định nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của nước
ta, các quyết định về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam cũng là một trong
7
những vấn đề được Chính Phủ rất quan tâm. Từ năm 2003, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 105/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành thêm các Nghị định khác như Nghị định
34/2008/NĐ-CP, Nghị định 46/2011/NĐ-CP. Ngày 03/2/2016, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 11/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong đó, Nghị định mới này đã
có những điểm tiến bộ hơn. Như là: Quy định chi tiết khái niệm các chức danh chuyên
gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành. Đặc biệt, Nghị định số 11/2016/NĐ-CP quy định
rằng: Đối với người lao động nước ngoài, vẫn có thể xin giấy phép dù chưa có bằng
đại học. Chính điều này đã khiến Nghị định 11/2016 được đánh giá là rất thoáng rất
tích cực, góp phần thúc đẩy và phát triển nền kinh tế Việt Nam khi tạo điều kiện thuận
lợi để người nước ngoài chú ý đến Việt Nam. Đây được xem là chính sách thu hút đầu
tư từ nước ngoài của chính phủ Việt Nam.

1.3. Đánh giá một số chính sách thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2021

1.3.1. Chính sách đất đai


Thời gian vừa qua, những quy định về doanh nghiệp FDI trong pháp luật đất đai
nước ta đã không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hiệu
quả công tác quản lý, sử dụng đất đai đối với các doanh nghiệp FDI, góp phần thể chế
hóa đầy đủ chính sách của Đảng về thu hút đầu tư nước ngoài trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế. Đặc biệt đã thiết lập sự bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai của các
doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước góp phần tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp FDI yên tâm sử dụng đất ổn định, thực hiện các dự án đầu tư.
Tuy nhiên,chính sách đất đai áp dụng với lĩnh vực FDI vẫn còn một số vướng
mắc , hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, khái niệm “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” trong Luật Đất
đai 2013 không thống nhất với những quy định trong pháp luật đầu tư hiện hành. Theo
đó, Luật Đất đai năm 2013 đưa ra quy định về khái niệm “Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài” là chủ thể sử dụng đất gồm ba nhóm sau:
i) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài;
ii) Doanh nghiệp liên doanh;
iii) Doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại
theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Luật Đất đai 2013 đã không thể khái quát hết được những tổ chức kinh tế có
thành viên là chủ thể nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam, ví dụ như những hợp tác xã

8
có thành viên là người nước ngoài. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư hiện hành (Luật Đầu tư
2020 thay thế cho Luật Đầu tư 2014) không sử dụng khái niệm “Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài”, mà sử dụng khái niệm “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài” với nội dung thể hiện tính khái quát cao và phù hợp hơn với thực tiễn. Điều này
không chỉ tạo ra sự thiếu thống nhất giữa pháp luật đất đai và pháp luật đầu tư mà còn
gây ra khó khăn đối với quá trình thực hiện quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, cũng như tác động tiêu cực đến hiệu quả của công tác quản lý,
sử dụng đất đai và thu hút đầu tư nước ngoài ở nước ta.
Thứ hai, chưa bảo đảm bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai giữa doanh nghiệp
FDI với tổ chức kinh tế trong nước.Theo quy định của Luật Đất đai 2013, doanh
nghiệp FDI chỉ có thể nhận quyền sử dụng đất từ thị trường thông qua ba hình thức, đó
là: Nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất; Nhận góp vốn bằng
quyền sử dụng đất; Thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. (Điều 73 – Luật đất đai 2013). Bên cạnh
đó, việc tiếp cận đất đai từ ba hình thức trên của doanh nghiệp FDI cũng bị giới hạn
hơn rất nhiều so với tổ chức kinh tế trong nước. Thực tế, phương thức tiếp cận đất đai
của doanh nghiệp FDI chủ yếu thông qua thị trường sơ cấp. Doanh nghiệp FDI dường
như chưa được tiếp cận đất đai cho mục đích đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại thị
trường sử dụng đất thứ cấp. Những rào cản này đã đi ngược lại các cam kết của Việt
Nam trong hội nhập quốc tế, tác động tiêu cực đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư,
kinh doanh và hạn chế năng lực cạnh tranh thu hút FDI.
Thứ ba, quy định cụ thể về các trường hợp nhận quyền sử dụng đất của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa bảo đảm tính hợp lý. Luật Đất đai 2013 đã quy
định cụ thể hơn so với Luật Đất đai 2003 về trường hợp nhận góp vốn bằng quyền sử
dụng đất của doanh nghiệp FDI (Điều 183). Tuy nhiên, trong những quy định này còn
thiếu thống nhất trong việc xác định loại doanh nghiệp FDI (chỉ doanh nghiệp liên
doanh hay tất cả các loại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) được nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, quy định về diện chủ thể được góp vốn bằng
quyền sử dụng đất với doanh nghiệp FDI còn chưa hợp lý khi chỉ cho phép loại hình
doanh nghiệp nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ tổ chức kinh tế trong nước mà
không ghi nhận quyền đó với các loại chủ thể khác. Nội dung này thể hiện sự thiếu
bình đẳng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước khi thực hiện hình thức
nhận quyền sử dụng đất thông qua giao dịch góp vốn.
Thứ tư, doanh nghiệp FDI khó tiếp cận đất nông nghiệp để xây dựng vùng
nguyên liệu ổn định; các dịch vụ hỗ trợ Logistic và cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Thực tế, với quy định doanh nghiệp, nhà đầu tư nước
ngoài không thuộc đối tượng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông
9
nghiệp, chưa được thuê đất nông nghiệp trực tiếp của hộ dân. Với nhà đầu tư nước
ngoài vấn đề quan tâm là tích tụ đất đai, tập trung quỹ đất để phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao. Áp dụng công nghệ cao cần gắn với quy mô đủ lớn, nhưng
với quy định về hạn mức giao đất như hiện nay, diện tích sản xuất đất nông nghiệp vẫn
nhỏ. Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) trong
cuộc trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Chính phủ cho biết “Các doanh nghiệp FDI
muốn đầu tư vào chăn nuôi cũng đang mắc kẹt trong tiếp cận đất sản xuất. Thời gian
qua, hàng loạt doanh nghiệp đến từ Newzealand, Australia muốn đầu tư vào Việt Nam
nhưng họ đòi hỏi có vùng chăn nuôi gia súc ăn cỏ rộng từ 500 ha trở lên”. Hạn chế về
quy định sử dụng đất đai với diện tích lớn khiến việc thu hút các dự án FDI lớn gặp
khó, nhà đầu tư nản chí.

1.3.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
Mục tiêu của chính sách khoa học - công nghệ và đổi là thu hút công nghệ, máy
móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá -
hiện đại hóa đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện
nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh của công nghệ. Luật Đầu Tư số
61/2020/QH14 (Luật Đầu Tư 2020), được Quốc Hội ký ban hành vào ngày
17/06/2020, thay thế cho Luật Đầu Tư số 67/2014/QH13 và có hiệu lực từ ngày
01/01/2021, đã có những thay đổi đáng chú ý về các chính sách ưu đãi đầu tư và được
kỳ vọng sẽ mang lại làn gió mới cho các nhà đầu tư tiềm năng, đặc biệt là các doanh
nghiệp nước ngoài đang có xu hướng dịch chuyển sản xuất từ các nước trong và ngoài
khu vực sang Việt Nam sau đại dịch Covid-19. Điều này được khẳng định chương III:
Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các
cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy
nhiên, có một vài vấn đề sau mà chính sách này chưa giải quyết được triệt để để có thể
đạt những mục tiêu đã đề ra.
Vấn đề ứng dụng công nghệ của doanh nghiệp trong nước, tuy Nhà nước cũng
đã có những biện pháp để tăng khả năng sản xuất của doanh nghiệp như theo thông
báo số 76/TB-VPCP năm 2016 về kết luận của Thủ tướng tại hội nghị thủ tướng chính
phủ với doanh nghiệp đã đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ về tín dụng cho
các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, để đầu tư khoa học công nghệ.
Nhưng thực tế phần lớn các phụ tùng, nguyên vật liệu và dịch vụ đi kèm cho sản xuất
của các doanh nghiệp FDI là được nhập khẩu thay vì được cung ứng bởi các doanh
nghiệp trong nước. Nguồn đầu vào cho sản xuất Việt Nam vẫn chưa chủ động được,
thêm vào đó là đất nước phải nhập khẩu 91,2% tư liệu sản xuất (nguồn: Tổng cục Hải
quan năm 2020), điều này làm cho giá trị gia tăng trong nước không cao, điều này có
thể giải thích phần nào do thâm dụng lao động ở Việt Nam vẫn khá lớn kể cả doanh
10
nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, doanh nghiệp FDI cũng cần sự
phát triển trong công nghệ của nước sở tại để có thể phát triển doanh nghiệp của mình
và họ cũng cần các doanh nghiệp trong nước có trình độ nhất định để có thể hoàn thiện
quy trình sản xuất đáp ứng yêu cầu của họ.  
Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, trong năm 2020, theo số liệu của Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, chỉ có khoảng 6% doanh nghiệp FDI sử dụng các công
nghệ tiên tiến của các nước phát triển ở châu Âu nhưng có khoảng 30% đến 45%
doanh nghiệp FDI ở Việt Nam sử dụng công nghệ cũ xuất hiện từ những năm 2000
của Trung Quốc, các công nghệ này thường là công nghệ trung bình hoặc là trung bình
tiên tiến của khu vực. Các doanh nghiệp FDI tập trung vào mua công nghệ hơn là
nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, điều này làm cho việc thu hút và chuyển
giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Có rất nhiều
nguyên nhân cho sự việc này, trong đó không thể không kể đến vấn đề quyền SHTT ở
Việt Nam. Vì để các công ty đa quốc gia sẵn sàng chia sẻ công nghệ với doanh nghiệp
trong nước hay các doanh nghiệp FDI có động lực thực hiện các hoạt động R&D trong
nước thì họ cần được bảo hộ quyền SHTT từ Việt Nam. 
Trong khi đó, xếp hạng bảo hộ SHTT của Việt Nam đứng ở 105 trong số 141
quốc gia trên thế giới (GCR, 2019). Thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều nỗ
lực để hạn chế hiện tượng xâm phạm quyền SHTT như 21/10/2021 Việt Nam đã được
sửa đổi và bổ sung nhiều để khắc phục những bất cập trong việc thi hành Luật SHTT.
Tuy nhiên việc thực thi các điều luật đó ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong
bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, để thu hút nhiều dự án FDI có chất
lượng hơn, có công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch hơn thay vì các dự án FDI từ Trung
Quốc chuyển dịch vào Việt Nam nhưng mang theo công nghệ thấp, ảnh hưởng đến
môi trường thì Việt Nam cần cố gắng hơn nữa trong việc bảo hộ quyền SHTT, điều
này vô cùng quan trọng đối với Việt Nam để có thể thu hút nguồn FDI có tác động lan
tỏa công nghệ.

1.3.3. Chính sách lao động


Sau công văn của Chính phủ về việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
nhằm thu hút vốn đầu tư FDI vào Việt Nam, nguồn nhân lực của đất nước được tăng
cường cả về quy mô và chất lượng. Theo báo cáo tại hội thảo “Chuyển đổi lao động và
phát triển nguồn nhân lực số trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045” ngày 17/11/2021, lực lượng lao động cả nước tăng từ
50,4 triệu người năm 2010 lên 56,2 triệu người năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
từ 40% năm 2010 tăng lên khoảng 65% năm 2020. Nhân lực chất lượng cao cũng tăng
đáng kể, trong đó có một số ngành đạt trình độ khu vực và quốc tế như y tế, cơ khí,
công nghệ, xây dựng. Tuy có nhiều sự phát triển theo chiều hướng tốt, nhưng các
11
chính sách về lao động tại Việt Nam vẫn còn nhiều tồn đọng, mà trong đó quan trọng
nhất là chất lượng nguồn nhân lực lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế:
Hiện nay, chính sách việc làm cho người lao động chủ yếu mới chú trọng đến tạo
việc làm theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến chất
lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay
nghề. Giải quyết việc làm hiện nay còn mang tính liên ngành, tổng hợp, chưa rõ rệt.
Bên cạnh đó, những chính sách được ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây chồng
chéo. Việc vận dụng các chính sách việc làm trong thực hiện còn nhiều bất cập, một số
chính sách chưa phát huy được hiệu quả, dẫn đến chỉ tiêu đào tạo nghề, quản lý thị
trường lao động còn yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
FDI.
Hiện nay vẫn chưa có chính sách cụ thể nào được đưa ra để giải quyết vấn đề chỗ
ở cho người lao động, khiến cho người lao động không được cung cấp nơi ở ổn định,
đảm bảo mà thường phải ở nơi xa khu công nghiệp hoặc không an toàn. Điều này dẫn
đến nguồn cung lao động bị ngưng trệ khi có những yếu tố bên ngoài tác động như đại
dịch.
Ngoài những bất cập nói chung về chất lượng nguồn lao động của nước ta, chúng
ta cũng không thể không nhắc đến những bất cập trong chính sách quản lý lao động
nước ngoài tại Việt Nam. Thị trường lao động mở cửa đã thu hút không ít người nước
ngoài vào Việt Nam làm việc, là tín hiệu tốt trong việc hội nhập thị trường lao động
thế giới.
Tuy nhiên, các chính sách quản lý lao động tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, khi
hệ thống pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam còn nhiều quy định
chưa bảo đảm tính khả thi, như: Chưa có văn bản luật riêng về lao động nước ngoài tại
Việt Nam; Thiếu các quy định riêng quy định về quyền, nghĩa vụ của người lao động
nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, nghị định 11/2016/NĐ-CP cũng đã bộc lộ những
hạn chế nhất định:
Quy định về thời hạn lao động nước ngoài mà không có sự phân biệt lao động
ngắn hạn hay dài hạn tại Việt Nam là chưa phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như
thông lệ quốc tế. Kinh nghiệm của các nước phát triển như như Vương quốc Anh, Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức… cho thấy, các quốc gia này đều có cơ chế thu hút những
người giàu có (có nhiều tài sản, mỗi nước có định lượng riêng về khối lượng tài sản)
hoặc thu hút những nhà khoa học, những sinh viên ưu tú,… cho phép họ  được định cư
và làm việc lâu dài. Việt Nam đang thiếu vắng các quy định này và chưa có cơ chế ưu
tiên cho những đối tượng là lao động chất lượng cao được đào tạo bài bản, khoa học
tại các nền kinh tế phát triển hoặc ưu tiên những đối tượng có nguồn vốn, tài sản lớn
đến sinh sống và làm việc lâu dài.
12
Độ chuyên sâu và tính đồng bộ của văn bản pháp luật: Có thể thấy, nhiều năm
qua dù Nhà nước ta đã cố gắng khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định của
pháp luật, tuy nhiên, do sự chồng chéo trong các quy định của pháp luật tại nước ta
khiến cho các nhà thầu có cơ hội sử dụng lao động “chui” làm việc ở các dự án, dẫn
đến hiệu quả quản lý nhà nước vẫn còn thấp.
Ngoài ra, Việt Nam mới chỉ mở cửa, cấp phép cho các lao động cấp cao như
nhóm lao động chuyên gia, hay giám đốc điều hành. Còn đối với nhóm lao động cấp
thấp, Việt Nam vẫn chưa có chính sách mở cửa. Chính vì vậy đã dẫn đến hiện tượng
bên cạnh số lượng lao động được cấp phép thì số lao động không được cấp giấy phép
lao động vẫn còn nhiều. Để xảy ra sự bất cập này, cho thấy công tác phối hợp, thông
tin giữa các bộ, ngành, địa phương chưa được coi trọng, thiếu chủ động, còn chồng
chéo; công tác nắm tình hình cư trú của người nước ngoài còn hạn chế.

CHƯƠNG 2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THU HÚT NGUỒN


VỐN FDI VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH
THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG

2.1. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung

2.1.1. Nguyên nhân


Nguyên nhân sâu xa
Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa
2 cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới. Dự báo, đến năm 2030, GDP danh nghĩa của
Trung Quốc sẽ vượt Mỹ. Song, nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP của
Trung Quốc hiện nay đã vượt Mỹ. Mỹ và Trung Quốc cũng là 2 cường quốc thương
mại: Mỹ là nước nhập khẩu lớn nhất và xuất khẩu thứ nhì thế giới; Trung Quốc là
nước xuất khẩu lớn nhất và nhập khẩu thứ nhì thế giới. Những năm gần đây, sự cạnh
tranh giữa 2 siêu cường càng trở nên gay gắt trong bối cảnh sức mạnh của Mỹ có dấu
hiệu suy giảm trong khi Trung Quốc đang bộc lộ tham vọng thay thế Mỹ ở vị trí thống
lĩnh bàn cờ địa chính trị thế giới.
Nguyên nhân cụ thể
Các vấn đề sau đây được xem là những nguyên nhân cụ thể gây ra căng thẳng thương
mại Mỹ - Trung, đặc biệt từ sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) năm 2001.
Thứ nhất, chính sách bảo hộ của chính quyền Tổng thống Trump.
Từ khi lên cầm quyền, Tổng thống Donald Trump đã theo đuổi chính sách bảo hộ mậu

13
dịch với mục tiêu “nước Mỹ trên hết” và “làm nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Chính sách bảo
hộ mậu dịch này không chỉ dẫn đến chiến tranh thương mại với Trung Quốc, mà còn
dẫn đến xung đột thương mại với những nước được xem là đồng minh của Mỹ (như
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc) hay láng giềng gần của Mỹ (như Canada, Mexico).Ngay
sau khi nhậm chức, ông Trump đã rút khỏi hoặc yêu cầu đàm phán lại một loạt hiệp
định thương mại tự do (FTA) mà Mỹ đã ký kết hoặc đang thực thi.
Thứ hai, thâm hụt thương mại lớn của Mỹ với Trung Quốc.
Thâm hụt thương mại của Mỹ được xem là nguyên nhân trực tiếp gây căng thẳng
thương mại Mỹ - Trung. Năm 2017, Mỹ nhập khẩu 506 tỷ USD hàng hóa từ Trung
Quốc, trong khi chỉ xuất khẩu 131 tỷ USD hàng hóa sang Trung Quốc. Như vậy, thâm
hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc lên đến 375 tỷ USD. Đáng lưu ý là thâm hụt
thương mại của Mỹ với Trung Quốc liên tục tăng từ khi Trung Quốc gia nhập WTO
(từ 100 tỷ USD năm 2001 lên 375 tỷ USD năm 2017). Chính quyền Mỹ đã nhiều lần
yêu cầu Trung Quốc giảm thặng dư thương mại với Mỹ. Trung Quốc đáp trả rằng để
giảm thâm hụt thương mại, chính Mỹ cần tăng cường hoạt động xuất khẩu của mình.
Thứ ba, tham vọng của Trung Quốc trở thành quốc gia công nghệ số một thế
giới.
Mặc dù thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc được xem là nguyên nhân bên
ngoài của cuộc chiến tranh thương mại, song vấn đề cốt lõi của căng thẳng giữa hai
nước chính là Mỹ lo ngại về tham vọng của Trung Quốc trở thành quốc gia công nghệ
hàng đầu thế giới. Với mục tiêu trở thành nền kinh tế tiên tiến trên thế giới, không phụ
thuộc vào nhập khẩu các công nghệ then chốt từ các đối thủ cạnh tranh chính, Trung
Quốc hiện đang đổ hàng tỷ USD vào chương trình "Sản xuất tại Trung Quốc 2025
(Made in China 2025)" để tạo động lực phát triển các ngành công nghệ trọng yếu,
trong đó có người máy, trí tuệ nhân tạo, hàng không vũ trụ, ô tô chạy điện, công nghệ
Internet 5G.
Nghịch lý là tham vọng của Trung Quốc rất lớn trong khi trình độ công nghệ lại còn
nhiều hạn chế. Để thực thi chiến lược "Sản xuất tại Trung Quốc 2025", các công ty
Trung Quốc phải dựa vào các công nghệ cốt lõi từ Mỹ. Mỹ cáo buộc Trung Quốc bằng
những thỏa thuận ngầm đang buộc các công ty Mỹ phải chuyển giao công nghệ cho
các đối tác Trung Quốc trong liên doanh. Trung Quốc bác bỏ cáo buộc này. Tuy nhiên,
Mỹ còn cáo buộc Trung Quốc tìm mọi cách lấy công nghệ của Mỹ thông qua các
phương thức như nhập khẩu công nghệ hay thậm chí ăn cắp công nghệ. Một phương
thức nữa được các công ty lớn của Trung Quốc (ví dụ như ZTE, Huawei, China
Mobile) sử dụng để có công nghệ cao của Mỹ là thông qua mua bán, sáp nhập với các
công ty Mỹ.

14
Thứ tư, tình trạng vi phạm bản quyền nghiêm trọng ở Trung Quốc.
Mỹ nhiều lần cáo buộc về tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nghiêm trọng ở
Trung Quốc, đặc biệt là đối với bản quyền của các công ty Mỹ. Chính quyền Mỹ cho
rằng, các công ty Mỹ đã mất nhiều tỷ USD mỗi năm do việc ăn cắp bí mật thương mại
của Trung Quốc. Điều này xuất phát từ khả năng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ rất yếu
kém của hệ thống pháp luật Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc hiện nay đẩy mạnh
công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, song phần lớn tiến bộ tập trung ở mảng bản
quyền tác giả và nhãn hiệu, trong khi tình trạng bắt buộc chuyển giao công nghệ trong
các lĩnh vực công nghiệp then chốt vẫn tràn lan.
Thứ năm, các biện pháp hạn chế đầu tư của Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra cam kết là sẽ nới lỏng giới hạn chủ sở hữu nước
ngoài trong các lĩnh vực sản xuất ô tô, đóng tàu và máy bay càng sớm càng tốt; đồng
thời hứa thúc đẩy các biện pháp đã công bố nhằm mở cửa lĩnh vực tài chính của nước
này. Tuy nhiên, Mỹ tỏ ra hoài nghi cam kết trên, bởi Trung Quốc đã từng đưa ra những
hứa hẹn tương tự khi gia nhập WTO năm 2001, song không thực thi. Nhờ đó, các công
ty Trung Quốc đã tận dụng thời gian dài hàng chục năm được bảo hộ để tạo lập vị thế
thống lĩnh tại thị trường nội địa, đồng thời có khả năng tiến ra đầu tư ở nước ngoài.

2.1.2. Diễn biến


Ngày 23/3/2018, Hoa Kỳ áp dụng đánh thuế 50 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc.
Đáp trả hành động của Mỹ, ngày 2/4/2018, Trung Quốc đã áp đặt thuế đối với 128 sản
phẩm của Mỹ, bao gồm: Phế liệu nhôm, máy bay, ô tô, sản phẩm thịt lợn và đậu nành
(có thuế suất 25%), cũng như trái cây, hạt và ống thép (15%). Sau hành động của
Trung Quốc, ngày 5/4/2018, Hoa Kỳ xem xét áp thuế 100 tỷ USD trong các mức thuế
bổ sung. Xung đột thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra ngày càng căng thẳng
hơn, khi Trung Quốc hủy đơn hàng mua đậu tương của Mỹ. Ngày 15/6/2018, Hoa Kỳ
tuyên bố sẽ áp đặt mức thuế 25% trên 50 tỷ USD xuất khẩu của Trung Quốc. Trong
đó, 34 tỷ USD sẽ bắt đầu vào ngày 6/7/2018, 16 tỷ USD còn lại sẽ tính từ ngày sau đó.
(nguồn: Viện Chiến lược và chính sách tài chính)
Ngoài ra, Hoa Kỳ còn công bố và áp đặt các hạn chế đầu tư và tăng cường kiểm
soát xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao sang Trung Quốc. Trung Quốc cáo buộc
Mỹ đã châm ngòi cho một cuộc chiến thương mại và Trung Quốc sẽ đáp trả với mức
thuế tương tự đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ, bắt đầu từ ngày 6/7/2018. Đáp lại ngày
9/7/2018, Hoa Kỳ tuyên bố áp đặt thêm 10% thuế quan đối với hàng nhập khẩu trị giá
200 tỷ USD nếu Trung Quốc trả đũa các mức thuế của Mỹ. Trung Quốc đáp trả sẽ
"phản công cứng rắn". Theo đó, Trung Quốc đã kích hoạt mức thuế trả đũa cho cùng
một số tiền. Và tình hình hiện nay cho thấy, căng thẳng thương mại vẫn còn tiếp diễn,

15
và chưa có dấu hiệu sẽ dừng lại. Từ 22/3/2018 – 1/9/2019, Mỹ và Trung Quốc liên tục
tăng thuế lên các hàng hóa của nhau. Ngày 13/12/2019 Mỹ và Trung Quốc đạt được
thỏa thuận giai đoạn 1, Trung Quốc và Mỹ đã cắt giảm thuế quan trả đũa, mối quan hệ
hai bên đã có phần dịu bớt căng thẳng. Ngày 18/8/2020, Tổng thống Trump tuyên bố
hủy cuộc đối thoại thương mại với Trung Quốc vì thất vọng với cách Bắc Kinh xử lý
đại dịch toàn cầu. Ngày 20/1/2021 ông Biden chính thức nhậm chức tổng thống Mỹ,
Ngày 18/3/2021 (theo giờ Mỹ), tại bang Alaska, phái đoàn ngoại giao cấp cao Mỹ và
Trung Quốc đã gặp nhau lần đầu tiên kể từ khi Tổng thống Joe Biden nhậm chức, các
quan chức ngoại giao cấp cao hai bên công kích trực tiếp lẫn nhau trong cuộc họp. Các
quan chức trong chính quyền của Tổng thống Biden cam kết sẽ tiếp tục chống lại hành
vi thương mại "lạm dụng" của Trung Quốc. Ở phía bên kia, Ngoại trưởng Vương Nghị
đã cảnh báo Washington rằng Trung Quốc sẽ không dung thứ việc các thế lực nước
ngoài vượt qua "lằn ranh đỏ" trong vấn đề Đài Loan và Hong Kong. Ngày 15/11/2021
đã diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh trực tuyến giữa Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình nhưng cuộc gặp không đạt được được bước tiến đáng kể
trong việc giải quyết những tranh chấp kéo dài trong cuộc chiến thương mại Mỹ -
Trung.

2.1.3. Tác động 

2.1.3.1 Kinh tế toàn cầu 


Với sự cạnh tranh gay gắt giữa hai quốc gia đứng đầu thế giới về nhiều mặt thì
ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung lên nền kinh tế thế giới là điều
không thể tránh khỏi. Thật vậy, IMF đã chỉ ra sự leo thang căng thẳng của cuộc chiến
này có thể làm suy giảm đáng kể tâm lý thị trường tài chính và kinh doanh và gây
nguy hiểm cho sự phục hồi dự kiến trong tăng trưởng toàn cầu. Thêm vào đó, các rào
cản thương mại cao làm phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu và làm chậm tốc phổ biến các
công nghệ mới, hệ quả là làm giảm năng suất và phúc lợi toàn cầu. 
Bởi vì lo ngại về chiến tranh thương mại cũng như là tính bất định trong chính
sách thương mại của Mỹ như chính sách nhập cư và bảo hộ, các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên toàn thế giới cũng đã có động thái phản ứng lại. Cụ thể là vào năm
2019, tức sau một năm từ khi cuộc chiến bắt đầu, tổng vốn FDI toàn cầu giảm 20% lên
đến 572 tỷ USD (nguồn: OECD). Tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu sau một năm kể từ
cuộc chiến tranh đã giảm từ 3.3% xuống còn 2.9% và theo nghiên cứu của WTO
(2020), nếu cuộc chiến này vẫn còn tiếp tục thì sẽ làm giảm GDP thế giới 0.13% vào
năm 2023 và 0.2% vào năm 2030. Năm 2021, trong một bản tóm tắt chính sách của
Liên Hợp Quốc đã chỉ ra rằng các cú sốc thương mại được thúc đẩy bởi thuế quan giữa

16
Mỹ và Trung Quốc làm mất đi giá trị tăng trưởng của chuỗi giá trị toàn cầu từ ba đến
năm năm.

2.1.3.2 Kinh tế Việt Nam


Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, Trung
Quốc lại còn là thị trường nhập khẩu lớn nhất, vì vậy đối với chiến tranh thương mại
Mỹ - Trung thì các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đã đưa ra ý kiến rằng Việt
Nam là đất nước chịu nhiều tác động trong cuộc chiến này, theo cả hướng tích cực và
tiêu cực.
Để tránh thuế cao đánh vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đến Mỹ, các công
ty, doanh nghiệp Mỹ đã chuyển hướng sang nhập khẩu một số mặt hàng của Việt Nam
như hàng dệt may, đồ gỗ, cá khô,... để hưởng thuế thấp hơn. Theo số liệu thống kê của
Tổng cục Hải quan Việt Nam, chỉ sau một năm kể từ cuộc chiến, điện thoại di động
nhập khẩu từ Việt Nam sang Mỹ tăng gấp bốn lần và mặt hàng máy tính thì tăng đến
79%. Nhìn chung, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng 27,3% chỉ trong sáu tháng
đầu năm 2019, đây là một tác động tích cực rõ ràng của cuộc chiến thương mại này đối
với Việt Nam. Tính đến hết tháng 10 năm 2021, tổng kim ngạch trao đổi thương mại
song phương Việt Nam và Mỹ đã đạt 89,6 tỷ USD, khiến Việt Nam trở thành đối tác
thương mại lớn thứ 10 của Mỹ (nguồn: Tổng cục Hải quan). Qua đây, có thể thấy
rằng, cuộc chiến này đã giúp Việt Nam có thể phát triển việc xuất khẩu hàng hóa của
mình nhiều hơn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, thu hút thêm vốn
FDI vào các ngành này, giúp cải thiện cán cân thương mại và tăng GDP của đất nước.
Tuy nhiên, tác động này có hai mặt, mặt tiêu cực là Việt Nam liên tục xuất siêu
sang Mỹ, chỉ trong 9 tháng đầu năm 2021 Việt Nam đã xuất siêu hơn 57 tỷ USD
(nguồn: Tổng cục Hải quan). Điều này có thể sẽ khiến Mỹ áp dụng các biện pháp
trừng phạt thương mại với Việt Nam như Mỹ đã làm với Trung Quốc nhưng ở mức độ
và quy mô thấp hơn. Trong khi đó, sức ép thuế của Mỹ với Trung Quốc cũng khiến đất
nước tỷ dân này phải điều chỉnh dòng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường khác, trong
đó có Việt Nam và thêm vào đó là tăng tiêu thụ trong nước. Việc này khiến thâm hụt
thương mại của Việt Nam với Trung Quốc càng thêm nặng nề khi trong 8 tháng đầu
năm 2019, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đã giảm 2%. Thêm vào
đó, việc hàng Trung Quốc đổ vào thị trường Việt Nam cũng gây sức ép cạnh tranh với
các doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó, cuộc chiến này cũng mang đến những vấn
đề cho Việt Nam như gian lận và trốn thuế của doanh nghiệp Trung Quốc. Cụ thể,
trong những năm gần đây, có hiện tượng doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất gỗ đội lốt
hàng Việt để xuất khẩu sang Mỹ nhằm trốn thuế. Điều này có thể ảnh hưởng đến
thương mại Việt - Mỹ và đến ngành xuất khẩu gỗ của Việt Nam, một trong những

17
ngành đang mang lại ngoại tệ lớn cho đất nước, nếu Mỹ áp dụng những chính sách với
Việt Nam để hạn chế hiện tượng này. Vì vậy những lợi ích Việt Nam nhận được hiện
tại là trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có thể sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ theo chiều
hướng tiêu cực. 
Đối với thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam, khi chiến tranh thương mại
bùng nổ, tỷ giá VND/NDT liên tiếp giảm do Trung Quốc liên tục hạ giá nhân dân tệ để
có thể đối phó với phần bị thiệt hại do thuế nhập khẩu từ Mỹ. Điều này đã làm tăng
thêm sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc tại Việt Nam, gây áp lực lên doanh
nghiệp trong nước. Trong khi đó, đồng USD trở nên có giá trị, phần nào ảnh hưởng
đến việc xuất khẩu đang phát triển mạnh của Việt Nam trong thời gian đó khi những
nhà bán lẻ Mỹ buộc phải tăng giá, gây khó khăn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây đồng USD đã yếu đi, đồng nhân dân tệ lại liên tục tăng giá trị, những
điều này có thể bù đắp được những khó khăn liên quan đến tỷ giá của Việt Nam.
Đối với thị trường chứng khoán, trong năm 2018, các nhà đầu tư gián tiếp nước
ngoài đã liên tục rút vốn, có khi chỉ trong vòng tháng 7/2018 các nhà đầu tư nước
ngoài đã liên tục bán trên cả sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh với tổng giá trị gần 1.669 tỷ đồng (nguồn: Tạp
chí Tài chính). Tình trạng này xảy ra có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tác động
của chiến tranh thương mại.
Qua đây có thể nhận xét được rằng, Việt Nam là một quốc gia được hưởng lợi và
có những cơ hội đáng kể trong cuộc chiến thương mại này, nhưng đi kèm với những
cơ hội đó là kèm cả những thách thức, khó khăn cần được giải quyết. Vì vậy, để có thể
tận dụng cơ hội này một cách triệt để thì nhà nước cũng như doanh nghiệp Việt Nam
cần hành động quyết liệt, chủ động.

2.2. Cơ hội và thách thức của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đến dòng vốn
FDI vào Việt Nam
2.2.1. Cơ hội 
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ảnh hưởng khá sâu sắc đến thương mại
toàn cầu và cũng ảnh hưởng không kém đến sự dịch chuyển của dòng vốn FDI. Lý do
là, cả Trung Quốc và Mỹ đều là những nhà đầu tư, nhà sản xuất có ảnh hưởng lớn trên
thế giới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhận định: “ Việc Mỹ áp thuế với Trung Quốc có
thể dẫn đến xu hướng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang các quốc gia ổn định
hơn. Với ưu thế về vị trí địa lý, chính sách, Việt Nam có thể sẽ là ưu tiên khi Trung
Quốc chuyển hướng đầu tư.”
Thứ nhất, trong thời gian gần đây lượng vốn đầu tư của Trung Quốc ra bên
ngoài khá lớn trong đó có Việt Nam đó là hệ quả của chiến lược “ Trung Quốc + 1”.
18
Các công ty đa quốc gia hoạt động tại Trung Quốc phải tìm cách chuyển cơ sở sản
xuất của mình sang các nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam. Và trong bối cảnh
chiến tranh thương mại càng làm cho dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam nhiều hơn khi
các tập đoàn, doanh nghiệp Trung Quốc có nhu cầu dịch chuyển địa điểm sản xuất để
tránh mức thuế suất cao, và tận dụng được nguyên tắc xuất xứ từ Việt Nam tại FTA
thế hệ mới. Dòng vốn FDI từ Trung Quốc hướng tới Việt Nam dự đoán sẽ tiếp tục
tăng. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký
cấp mới, tăng thêm và vốn góp mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đã đạt 38 tỷ
USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2018. Đây cũng là con số cao nhất trong vòng 10
năm gần đây. (nguồn: Cục đầu tư nước ngoài). Năm 2020 đạt 28,5 tỷ USD, giảm 25%
so với năm 2019 do ảnh hưởng bởi dịch Covid 19 nhưng Việt Nam lần đầu lọt top 20
nước thu hút FDI nhất thế giới (theo UNCTAD). Năm 2021, cuộc chiến thương mại
Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn, cộng với đó là chi phí lao động ngày càng cao ở Trung
Quốc, điều này càng làm tăng sức hút của Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài,
điều này góp phần giúp Việt Nam dù vẫn đang phải đối phó với ảnh hưởng của dịch
COVID-19 nhưng trong 10 tháng của năm 2021 vẫn có 23,74 tỷ USD vốn FDI đổ vào
Việt Nam, vốn đăng ký thêm tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước.
Thứ hai, trong bối cảnh chiến tranh thương mại, các quốc gia phát triển như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc ... đã ban hành chính sách ưu đãi và hỗ trợ các công ty
đa quốc gia dịch chuyển dây chuyền sản xuất về nước hoặc đầu tư sang nước thứ ba
nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nhằm tránh sự phụ thuộc vào một đối tác. Việt
Nam hiện đang có cơ hội rất lớn để đón làn sóng chuyển dịch này do có nhiều lợi thế
về môi trường đầu tư. Điển hình là việc hãng công nghệ hàng đầu thế giới Apple đang
tăng cường hoạt động sản xuất và liên hệ với thị trường Việt Nam, thông qua việc 3
đối tác chính là Foxconn, Winstron và gần đây là Luxshare đã chính thức hiện diện tại
Việt Nam.
Thứ ba, sự hấp dẫn và lợi thế của môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay đến từ
các yếu tố nội tại của nền kinh tế và tác động của yếu tố bên ngoài. Các điểm lợi thế,
thuận lợi sẵn có của môi trường đầu tư Việt Nam như chính trị ổn định, kinh tế tăng
trưởng nhanh và bền vững, nguồn nhân lực dồi dào, thị trường rộng lớn, chi phí cạnh
tranh, chính sách ưu đãi hấp dẫn, nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng, vị trí
địa lý thuận lợi đặc biệt là gần Trung Quốc. Bên cạnh đó là sự nỗ lực của cả hệ thống
chính trị từ Trung ương đến địa phương trong việc cải thiện môi trường đầu tư, cải
cách chính sách, thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu
tư hoạt động thành công tại Việt Nam.
Như vậy có thể nói cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã tạo ra những cơ
hội nhất định cho nền kinh tế Việt Nam, rất thuận lợi để nước ta huy động được nguồn
19
vốn FDI theo hướng chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội hơn, đặc biệt có cơ hội để
thu hút các FDI “thế hệ mới” chuyển giao và tiếp nhận các công nghệ tiên tiến và học
tập mô hình quản lý của các doanh nghiệp FDI hàng đầu thế giới. Từng bước đạt được
mục tiêu của nền “kinh tế xanh”, nâng cao cải thiện được rất nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô và tạo ra đời sống vật chất và tính thần ngày càng tốt hơn cho xã hội.

2.2.2. Thách thức


Thứ nhất, dưới tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, các doanh
nghiệp Trung Quốc đổ bộ vào Việt Nam vừa tránh được mức thuế quan rất cao của
Mỹ, lại tận dụng được nguyên tắc xuất xứ từ Việt Nam. Sẽ rất có khả năng có nhiều
hơn những vụ doanh nghiệp Trung Quốc gắn mác hàng hóa sản xuất tại Việt Nam cho
hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc với những cách tinh vi và khi bị Mỹ phát hiện Việt
Nam sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề giống như ngành thép đã từng bị áp thuế rất
cao. Nguy cơ Việt Nam có thể trở thành đối tượng thứ ba sau Trung Quốc và Mexico
bị Mỹ áp thuế trừng phạt lên hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Ảnh hưởng không
chỉ tới các doanh nghiệp đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam, mà tới cả các doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu khác của Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam cũng cần phải tính đến rủi ro trở thành điểm dịch chuyển
các công nghệ lạc hậu của các nhà đầu tư, tiềm ẩn nguy cơ trở thành “bãi rác công
nghệ”, đặc biệt là với dòng vốn FDI từ Trung Quốc đẩy các công nghệ lỗi thời, tiềm ẩn
nguy cơ ô nhiễm môi trường sang các quốc gia kém phát triển hơn, đặc biệt là các
nước láng giếng như Việt Nam.
Thứ ba, do sự chuyển dịch của FDI từ Trung Quốc sang các nước khác trong
trong đó có Việt Nam, tạo nên áp lực hạ tầng, xã hội ở một số địa phương. Hiện nay ở
Việt Nam môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh mặc dù đã được cải thiện, tuy
nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế. Vốn đầu tư nước
ngoài vẫn tiếp tục đổ nhiều vào Việt Nam nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn than phiền
môi trường đầu tư còn gặp nhiều vấn đề như thủ tục hành chính rườm rà, hạ tầng và
công nghiệp phụ trợ yếu kém,...
Thứ tư, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của công nghệ là vô
cùng to lớn trong sự phát triển kinh tế cũng như thu hút nguồn vốn nước ngoài. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế trong công nghiệp hiện đại hóa. .Việt Nam có
dân số lớn, tuổi đời trẻ, nhưng chưa tới 20% lực lượng lao động hiện nay có trình độ
chuyên môn. Trên 700.000 việc làm mới cần được tạo ra mỗi năm chỉ để bắt kịp tốc độ
tăng của lực lượng lao động. Do vậy, hoạt động lắp ráp-chế tạo thâm dụng lao động
tay nghề thấp (như may mặc hoặc điện tử tiêu dùng) sẽ tiếp tục là một nguồn tạo việc

20
làm quy mô lớn, đặc biệt ở những tỉnh thành còn tụt hậu. Việc thiếu hụt nguồn cung
lao động có tay nghề và chuyên môn cao sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút các FDI mới.
Thứ năm, trước làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI có xu hướng đổ bộ
vào Việt Nam tăng lên trong thời gian tới, đã khiến cho giá thuê đất các khu công
nghiệp hay thuê nhà xưởng tăng mạnh. Nếu không theo dõi chặt chẽ , không ổn định
giá thuê đất ở mức hợp lý thì chúng ta sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút
FDI. Trong vài năm qua chi phí thuê mặt bằng tại các khu công nghiệp trọng điểm liên
tục tăng gấp 3 - 4 lần thậm chí có nhiều địa phương tăng cả chục lần.

Hình 2: Giá thuê đất tại các khu công nghiệp 2020

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT
FDI VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH
THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG

3.1. Định hướng chính sách thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 2022 – 2030
Tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cùng với ảnh hưởng của dịch
Covid 19 đã giúp Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với một luồng vốn FDI lớn vào
nền kinh tế. Hiện nay vốn FDI mới chỉ tập trung vào lĩnh vực sản xuất, còn các lĩnh
vực khác vẫn còn hạn chế.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đã nhận định
“Phải ưu tiên những dự án FDI có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường,
sử dụng lao động có kỹ năng; đầu tư vào những ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển;
có liên kết, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát
triển, và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu”. Theo đó mục tiêu cho giai
đoạn tới là việc tập trung thu hút FDI chất lượng tốt hơn, tận dụng tốt xu thế hiện đại.
Đó là ưu tiên tập trung thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến thân thiện với môi trường, công nghệ thông tin và viễn thông, điện
tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, ô tô, máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị
công nghiệp, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ, R&D, internet vạn vật (IoT)… Thu hút
FDI tập trung vào các ngành như công nghiệp chế biến, nông nghiệp công nghệ cao;
thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng cao, dịch vụ
21
tài chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác; Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật,
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh... Ngoài ra tiếp tục nâng
cao hơn nữa mối liên hệ giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
3.2. Giải pháp điều chỉnh chính sách thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung

3.2.1. Chính sách đất đai


Trên cơ sở phân tích, đánh giá một cách toàn diện những bất cập, hạn chế trong
quy định pháp luật hiện hành về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp FDI, để bảo
đảm thể chế hóa đầy đủ chính sách của nhà nước về thu hút đầu tư nước ngoài trong
bối cảnh đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, cần sửa đổi các quy định theo hướng sau:
Thứ nhất, thay thế thuật ngữ “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” bằng
thuật ngữ “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” như quy định của Luật Đầu tư
2020 để bảo đảm tính khoa học và sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, tạo tiền đề
cho việc thực hiện quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trên thực tế được chính xác và hiệu quả.
Thứ hai, sửa đổi các quy định về những trường hợp nhận quyền sử dụng đất
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm bảo đảm sự bình đẳng với doanh
nghiệp trong nước ở cả phương thức tiếp cận đất đai trực tiếp từ nhà nước và phương
thức tiếp cận đất đai từ thị trường trên cơ sở thể chế hóa triệt để chủ trương “Thực hiện
nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình
thức sở hữu, thành phần kinh tế”.Quy định chi tiết, cụ thể hơn về các trường hợp nhận
quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm sự phù hợp
với pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp. Bổ sung quy định về một số trường
hợp nhận quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để bảo đảm
sự toàn diện trong điều chỉnh pháp luật đối với quyền tiếp cận đất đai của loại chủ thể
này. Như cần bổ sung trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hình
thành do các nhà đầu tư trong nước góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nhà đầu tư nước
ngoài chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối dẫn đến bên Việt Nam chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Thứ ba, nhà nước cần có những chính sách cởi mở hơn như yêu cầu quy hoạch
sử dụng đất ở các địa phương theo hướng mở rộng hạn điền, quy hoạch các điều kiện
để hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao như chế độ nước tưới, kênh mương, hỗ
trợ hạ tầng… Đi đến bãi bỏ hoặc nới rộng hạn mức giao đất, hạn mức nhận quyền sử
dụng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp lớn, doanh
22
nghiệp FDI có được “đất sạch” trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Để các vùng, các địa phương triển khai xây dựng cánh đồng mẫu lớn, khu nguyên liệu,
chăn nuôi tập trung và các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, bước đầu có thể
thí điểm cho doanh nghiệp FDI liên kết với nông dân, hợp tác xã thuê đất ngắn hạn, từ
3-5 năm. Sau đó cần nỗ lực, tích cực phát huy vai trò của chính quyền địa phương, vận
động người nông dân thấy được hiệu quả, chủ động hợp tác, đồng thời là cầu nối giữa
người nông dân và doanh nghiệp, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.
Thứ tư, trước tình trạng giá thuê đất bị đẩy lên cao do ảnh hưởng bởi dự đoán
khả năng thu hút FDI tăng mạnh trong bối cảnh chiến tranh thương mại, cần có chính
sách bình ổn giá thuê đất can thiệp trước tình trạng giá thuê đất đang tăng cao ngất
ngưởng, cần có kế hoạch mở rộng quy mô các khu công nghiệp với diện tích đất tự
nhiên cho thuê lớn hơn. Nhờ đó các doanh nghiệp FDI sẽ có nhiều lựa chọn hơn, mức
giá có thể được điều chỉnh theo hướng tích cực hơn.

3.2.2. Chính sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
Về vấn đề ứng dụng công nghệ của doanh nghiệp trong nước, việc phát triển
khả năng sản xuất của doanh nghiệp trong nước qua ứng dụng công nghệ vào trong sản
xuất là rất cần thiết để có thể đưa Việt Nam trở thành một môi trường đầu tư hấp dẫn
hơn, thu hút được nhiều FDI hơn trong bối cảnh hiện nay. Để thực hiện việc này, hành
động cải cách chính sách cần thực hiện là nâng cao năng lực doanh nghiệp, đặc biệt
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các doanh nghiệp này cần có khả năng thích nghi
nhanh chóng đối với những thay đổi không ngừng của thị trường. Tuy nhiên, chính
sách khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam tập trung vào đổi mới
sáng tạo dựa trên R&D mà ít tập trung vào đổi mới sáng tạo phi R&D, bao gồm hoạt
động tiếp nhận và phổ biến công nghệ. Trong khi đó, có các quốc gia đã triển khai
thành công nhiều chính sách để tăng cường năng lực doanh nghiệp và thúc đẩy hoạt
động đổi mới sáng tạo phi R&D, không những vậy, chính sách còn thúc đẩy việc tiếp
nhận và hấp thu công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Ví dụ như Cải thiện
Quản lý theo Nhóm tại Colombia, công cụ chính sách này bao gồm tư vấn chuyên môn
trực tiếp về chiến lược quản lý, kinh doanh và khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp.
Việc áp dụng công cụ này giúp giải quyết vấn đề về khả năng hấp thụ công nghệ của
doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các doanh nghiệp
này thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các mạng lưới thông tin, hay không đủ
năng lực để xoay xở với những thay đổi của thị trường,... Do đó, việc thực hiện công
cụ chính sách này giúp tăng khả năng của doanh nghiệp trong việc tích hợp công nghệ
vào quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm và hiệu quả trong chính sách
của các quốc gia khác có thể thấy tầm quan trọng của hoạt động đổi mới sáng tạo phi

23
R&D, vì vậy chính sách hiện tại của Việt Nam cần khuyến khích đổi mới sáng tạo phi
R&D hơn. Bắt đầu từ cải cách các tập quán tổ chức và quản lý cơ bản, tiếp theo là áp
dụng cũng như đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn kinh doanh và dịch vụ hỗ trợ ứng dụng
công nghệ mới nhằm trang bị cho doanh nghiệp khả năng ứng dụng hoặc tạo ra công
nghệ; cung cấp thông tin, tri thức về cách áp dụng các công nghệ mới giúp nâng cao
năng lực hấp thụ công nghệ. Thêm vào đó là cung cấp dịch vụ đổi mới công nghệ hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ, để từ đó những doanh nghiệp này
có thể áp dụng các tri thức công nghệ phức tạp hơn gắn với Công nghiệp 4.0.     
Về vấn đề sở hữu trí tuệ, các hành động cải cách chính sách có thể thực hiện
để phần nào cải thiện tình trạng này là tăng cường thực thi quyền SHTT, đặc biệt thực
thi mạnh hơn quyền tác giả trên môi trường trực tuyến. Pháp luật Việt Nam quy định
thực thi quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự, hành chính và hình sự, tuy nhiên việc
thực thi còn phụ thuộc nhiều vào thủ tục hành chính nên chưa thực sự mang tính răn đe
và có nhiều hạn chế do chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan và hệ
thống thực thi còn rất phức tạp vì hiện luật SHTT chưa có quy định riêng về cơ chế
giải quyết tranh chấp quyền SHTT và việc giải quyết được dựa trên trình tự, thủ tục
theo quy định trong luật tố tụng hình sự. Trong khi đó, các nước trên thế giới rất đề
cao quyền SHTT cũng như nghiêm ngặt trong việc thi hành việc bảo hộ quyền này. Ví
dụ điển hình là Trung Quốc, khi họ đối mặt với những thách thức tương tự, họ đã tăng
cường thực thi việc bảo hộ quyền SHTT bằng việc thiết lập một tòa án riêng về SHTT,
củng cố các đơn vị thực thi chuyên ngành và áp dụng các hình phạt đáng kể hơn cho
người vi phạm. Qua đó cho thấy, để có thể cải thiện thực thi bảo hộ sáng chế và quyền
sở hữu công nghiệp thì cần thành lập tòa án chuyên trách về SHTT tại Việt Nam và
Tòa án cần có cơ chế pháp lý riêng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền
SHTT. Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường năng lực tổng thể của hệ thống bảo hộ
SHTT bằng cách đào tạo, tập huấn chuyên môn các Thẩm phán một cách đầy đủ và
hiệu quả vì hiện tại Việt Nam chưa có Thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực này. Thêm
vào đó, cần cải thiện các chuẩn mực trong thực thi quyền SHTT và đơn giản các thủ
tục liên quan đến giải quyết tranh chấp SHTT theo hướng dễ tiếp cận hơn để thúc đẩy
các doanh nghiệp sử dụng.

3.2.3. Chính sách lao động


Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về lao động. Chính sách
việc làm phải tiếp tục hướng vào giải phóng lao động, khuyến khích các lĩnh vực,
ngành nghề và các hình thức hoạt động có khả năng thu hút người lao động. Bổ sung
các chính sách khuyến khích sự phát triển kinh tế tư nhân như: chính sách thuế, thị
trường, công nghệ, tín dụng, hợp tác quốc tế cần được thúc đẩy hoàn thiện. Chính sách

24
thị trường lao động phải được hoàn thiện theo định hướng thông thoáng, thông suốt,
thống nhất, đảm bảo người lao động được tự do di chuyển và hành nghề, tự do ký kết
hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật Nhà nước. Chính sách tiền lương, tiền
công cũng cần được hoàn thiện để điều tiết thị trường lao động
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng
việc làm. Gắn với chất lượng nguồn nhân lực phải phát triển toàn bộ hệ thống giáo dục
và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chú trọng
đồng thời vào trình độ ngôn ngữ và kỹ năng mềm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao
động về nhân lực chuyên môn kỹ thuật cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đồng thời, tạo điều kiện cho người lao động tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm dễ
dàng hơn trong thị trường lao động. Ví dụ: Các trường đại học, cao đẳng cần được trao
nhiều quyền tự chủ hơn để đáp ứng nhu cầu của ngành, tìm kiếm sự cộng tác và tài trợ
của doanh nghiệp, khuyến khích nghiên cứu ứng dụng.
Thứ ba, tăng cường kết nối cung - cầu lao động. Đa dạng các hình thức tư vấn,
giới thiệu việc làm, ký kết thỏa thuận cung ứng lao động với doanh nghiệp FDI, tăng
cường đưa thông tin lao động, việc làm về cơ sở, vùng sâu, vùng xa... Qua đó, nâng
cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động, thực hiện tốt công tác giới thiệu việc làm,
nhằm củng cố giá trị của lao động Việt Nam đối với những nhà đầu tư đang tìm cách
đầu tư vào Việt Nam..
Ngoài những chính sách phát triển nguồn nhân lực trong nước, cần chú trọng
các chính sách đối với quản lý lao động nước ngoài, tạo điều kiện tốt nhất để các
doanh nghiệp đầu tư FDI vào Việt Nam. Một số giải pháp, phương hướng được đưa ra
như:
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến xuất nhập cảnh,
đấu thầu. Về lâu dài, nghiên cứu xây dựng Luật về người lao động nước ngoài tại Việt
Nam, quy định rõ nội dung điều chỉnh pháp luật đối với việc tiếp nhận, quản lý, bảo
đảm chính sách, chế độ cho người lao động nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho công tác
quản lý Nhà nước về lao động.
Đồng thời, sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục hành chính trong quản lý
giấy phép lao động của người lao động nước ngoài. Hoàn thiện các quy định trong xử
lý vi phạm đối với người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài.
Quy định về công việc, vị trí được phép tuyển dụng người lao động nước ngoài. Hoàn
thiện các quy định về hợp đồng lao động đối với lao động nước ngoài làm việc ở trong
các khu công nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người
lao động nước ngoài làm việc theo các hình thức hợp đồng lao động mà pháp luật quy
định hiện hành.

25
Hiện nay, ở các quốc gia ASEAN có hai mô hình thanh tra lao động: Một là mô
hình thanh tra hợp nhất (thanh tra chung), trong đó thanh tra lao động chịu trách nhiệm
về mọi vấn đề như việc làm, quan hệ lao động, an toàn sức khoẻ nghề nghiệp, vệ sinh
lao động.... Hai là mô hình thanh tra hai hệ thống lao động, trong đó ít nhất hai cơ
quan khác nhau thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm về thanh tra lao động. Hiện nay ở
nước ta đang áp dụng mô hình thanh tra hợp nhất. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả
công tác thanh tra lao động, cần nghiên cứu thí điểm mô hình thanh tra phụ trách theo
nhóm công việc như nhóm về lao động di cư; nhóm về vệ sinh lao động,.... Đồng thời,
đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra hướng dẫn, kịp thời chấn chỉnh các địa phương trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam.
Các cơ quan quản lý tuyển dụng lao động nước ngoài phải chủ động tìm kiếm
và cung ứng nguồn lao động cho các doanh nghiệp FDI. Giám sát chặt chẽ các điều
kiện, tiêu chuẩn, yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp FDI, để đảm bảo rằng,
trong trường hợp lao động trong nước không đáp ứng được thì những điều kiện, tiêu
chuẩn, yêu cầu đó phải được lao động nước ngoài đáp ứng đầy đủ. 

26
KẾT LUẬN
Như vậy, đề tài đã đi đến đích cuối cùng là đề xuất chính sách thu hút FDI vào
Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Sau khi thực hiện đề tài
nhóm có rút ra một số kết luận quan trọng như sau.
Thứ nhất là tình hình thu hút FDI tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2021, nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có xu hướng tăng dần và nhóm đã đưa ra
được những đánh giá thực trạng của một số nhóm chính sách thu hút FDI giai đoạn
2010 – 2021. Chính sách đất đai nước ta đã dần mở cửa cho các nhà đầu tư FDI tham
gia vào thị trường bất động sản, thiết lập sự bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai của
các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước. Chính sách khoa học công
nghệ và đổi mới sáng tạo đã đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Chính sách lao động đã giúp
nâng cao chất lượng tay nghề, kỹ năng cho người lao động từ đó đáp ứng được nhu
cầu lao động cần thiết cho xã hội.
Tuy nhiên nhóm nhận thấy vẫn còn những mặt hạn chế còn tồn đọng trong
chính sách thu hút FDI hiện nay. Chính sách đất đai vẫn còn các quy định về doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong Luật Đất đai năm 2013 còn tồn tại những hạn
chế, bất cập; quy định về sử dụng đất với diện tích lớn vẫn còn khó khăn. Đối với
chính sách khoa học công nghệ và đổi mới, các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa
ứng dụng tốt khoa học công nghệ dù đã được nhà nước hỗ trợ về tín dụng để đầu tư
khoa học công nghệ và luật SHTT chưa được thực hiện tốt nên các doanh nghiệp FDI
tập trung vào mua công nghệ hơn là đổi mới công nghệ, khiến việc chuyển giao công
nghệ từ khu vực FDI không đạt được hiệu quả như mong đợi. Về chính sách lao
động, chất lượng lao động tay nghề cao chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp FDI, việc mở cửa cấp phép cho lao động nước ngoài vẫn còn hạn chế.
Thứ hai, những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung trong giai đoạn 2018 đến nay đã có tác động lớn đến sự dịch chuyển của dòng
vốn FDI khi các doanh nghiệp FDI quyết định mở rộng đầu tư sang các nước thứ ba
trong đó có Việt Nam. Trước làn sóng FDI đổ bộ vào Việt Nam nhóm đã chỉ ra cơ hội
cho Việt Nam là dòng vốn FDI có xu hướng dịch chuyển từ Trung Quốc vào Việt Nam
trong thời gian tới. Tuy nhiên, nó cũng mang lại những thách thức cho Việt Nam, đó là
nguy cơ trở thành điểm dịch chuyển của các công nghệ lạc hậu từ Trung Quốc, tình
trạng gian lận thương mại vi phạm quyền SHTT, cơ sở hạ tầng, trình độ lao động vẫn
còn chưa đủ đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư, tình trạng bong bóng bất động sản
gia tăng nhanh, giá thuê đất các khu công nghiệp liên tục tăng.

27
Thứ ba, từ những mặt hạn chế còn tồn đọng trong chính sách thu hút FDI và cơ
hội, thách thức của làn sóng FDI bởi tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
nhóm có đề xuất một số thay đổi hoàn thiện tốt hơn các chính sách thu hút FDI để đón
các nguồn vốn FDI mới bổ sung vào nguồn vốn đầu tư phát triển, đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế, tạo cơ hội tiếp cận các nguồn vốn và việc làm, chuyển giao công nghệ,
kỹ thuật sản xuất,...và nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Cụ thể chính sách đất đai cần
sửa đổi bổ sung sửa đổi các quy định về doanh nghiệp nước ngoài để phù hợp với luật
đầu tư hiện hành, cần có chính sách bình ổn giá thuê đất để tránh hiện tượng giá đát
tăng phi mã, mở rộng hoặc bãi bỏ hạn mức giao đất tạo điều kiện hỗ trợ các doanh
nghiệp FDI có đất sạch để sử dụng. Đối với chính sách khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo cần khuyến khích các Doanh nghiệp trong nước ứng dụng công nghệ
đổi mới sáng tạo , liên kết tốt với các doanh nghiệp FDI, tăng cường thực thi luật
SHTT để bảo hộ sáng chế và quyền sở hữu công nghệ của các doanh nghiệp FDI. Về
chính sách lao động cần có các chính sách nâng cao chất lượng việc làm, chú trọng
đào tạo nhân lực có chuyên môn kỹ thuật, trình dộ ngoại ngữ. Hoàn thiện các quy định
về tuyển dụng lao động nước ngoài
Với những nỗ lực cao nhất có thể để đưa ra được các giải pháp điều chỉnh chính
sách thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
nhóm chúng em hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ giúp các cơ quan nhà nước
sẽ có những điều chỉnh chính sách kịp thời tăng cao khả năng thu hút nguồn vốn FDI
trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Trong quá trình thực hiện nghiên
cứu đề tài do vẫn còn những hạn chế về mặt lý luận, kiến thức nên không tránh khỏi
sai xót. Chúng em mong nhận được sự góp ý giúp đỡ thêm của cô TS. Nguyễn Thị
Việt Hoa và ý kiến đóng góp của các bạn để hoàn thành bài tiểu luận một cách tốt
nhất.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Anh Hoa (2019). "Việt Nam giữa vòng xoáy thương chiến Mỹ - Trung" - Kỳ I: Cuộc
đấu ngoài tâm bão. Báo Đầu tư. Xem tại: https://moit.gov.vn/tin-tuc/70-nam-nganh-
cong-thuong/loat-bai-3-ky-viet-nam-giua-vong-xoay-thuong-chien-my-trung-.html
2. Anh Nhi – (2021) – Gía thuê đất khu công nghiệp tăng: Ngoại khó tới, nội khó vào
– VnEconomy - (online) xem tại: https://vneconomy.vn/gia-thue-dat-khu-cong-nghiep-
tang-ngoai-kho-toi-noi-kho-vao.htm (truy cập : 15/06/2021).
3. Bộ công thương (2020). Chuyển giao công nghệ từ FDI: Chưa như mong đợi. Xem
tại:https://moit.gov.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe/chuyen-giao-cong-nghe-tu-fdi-chua-
nhu-mong-doi2.html
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới (2018), Chiến lược và định hướng
chiến lược thu hút FDI thế hệ mới giai đoạn 2018 - 2030. [online]. Xem tại:
https://www.academia.edu/37853070/Chi%E1%BA%BFn_l%C6%B0%E1%BB
%A3c_v%C3%A0_%C4%90%E1%BB%8Bnh_h%C6%B0%E1%BB%9Bng_Chi
%E1%BA%BFn_l%C6%B0%E1%BB%A3c_Thu_h%C3%BAt_FDI_th%E1%BA
%BF_h%E1%BB%87_m%E1%BB%9Bi_giai_%C4%91o%E1%BA%A1n_2018-
2030
5. Dữ liệu và số liệu thống kê chủ đề Đầu tư và Xây dựng (2021). Một số giải pháp thu
hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tổng cục thống kê. Xem tại:
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/10/mot-so-giai-phap-thu-
hut-von-dau-tu-nuoc-ngoai-tai-viet-nam/
6. Đỗ Phong (2021) – Đề nghị sửa đổi Luật Đất đai trong năm 2022 với 11 nhóm chính
sách – VnEconomy (online) xem tại: https://vneconomy.vn/de-nghi-sua-doi-luat-dat-
dai-trong-nam-2022-voi-11-nhom-chinh-sach.htm?fbclid=IwAR3oATCPmsuNb-
LiSrQblAatHJBDFeYLPvZrEKCgPsl0NPrdKgSrT4nDkAU (truy cập : 15/07/2021)
7. Kiều Linh (2018). 30 năm thu hút FDI: Thành công nhưng vẫn còn những thua thiệt.
[online] Xem tại: https://vneconomy.vn/30-nam-thu-hut-fdi-thanh-cong-nhung-van-
con-nhung-thua-thiet.htm
8. Luật Minh Khuê (2021). Chính sách khoa học công nghệ là gì ? Nội dung chính
sách khoa học, công nghệ trong hiến pháp ?. Xem tại: https://luatminhkhue.vn/chinh-
sach-khoa-hoc-cong-nghe-la-gi-noi-dung-chinh-sach-khoa-hoc-cong-nghe-trong-hien
phap.aspx?
fbclid=IwAR130CrzWLm5OiZE3DzUq3wjl6BRaZwFoQmccSaIzOeScOGl9LqrsKZf
5rQ

29
9. Ngân hàng thế giới (2020). Báo cáo Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt
Nam và báo cáo tóm tắt chính sách năm 2020. Xem
tại:  https://documents1.worldbank.org/curated/en/888571629870442576/pdf/Vietnam-
Science-Technology-and-Innovation-Report-Policy-Brief.pdf 
10. Ngô Trần Xuất (2018). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
điểm miền trung trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội. [online] Xem tại:
https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-an-thu-hut-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-
tai-vung-kinh-te-mien-trung
11. PGS, TS. Đào Minh Phúc (2020). Xu hướng dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung
Quốc và giải pháp thu hút đầu tư cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 21/2020. Xem
tại: http://tapchinganhang.gov.vn/xu-huong-dich-chuyen-dau-tu-ra-khoi-trung-quoc-
va-giai-phap-thu-hut-dau-tu-cho-viet-nam.htm
12. PGS.TS. Mạc Văn Tiến - Ths. Nguyễn Thị Bích Thúy - 2018 - “ Cơ cấu dân số
vàng và lao động giá rẻ: Lợi thế của Việt Nam khi hội nhập ?” xem tại “
http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/co-cau-dan-so-vang-va-lao-dong-gia-re-loi-the-cua-
viet-nam-khi-hoi-nhap-60
13. PGS, TS. Huỳnh Thành Đạt (2021). Đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách để khoa
học và công nghệ trở thành khâu đột phá đưa đất nước phát triển mạnh mẽ. Báo Nhân
dân. Xem tại:https://nhandan.vn/khoahoc-congnghe/doi-moi-tu-duy-co-che-chinh-
sach-de-khoa-hoc-va-cong-nghe-tro-thanh-khau-dot-pha-dua-dat-nuoc-phat-trien-
manh-me-632703/?fbclid=IwAR3ERrUVlX2fIbIEWuCrlX-F4r0FgolqI1PDJiKFfX-
uhbYqoSi4LICnzaE
14. Quốc hội 2013 - Luật Đất đai 2013 số 45/2013/QH13
15. Quốc hội 2020 - Luật Đầu tư 2020, số 61/2020/QH14
16. ThS.NCS. Trần Thị Bích Nga – 01/06/2020 – “Hoàn thiện pháp luật về quản lý
nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”- Tạp chí công
thương (online) xem tại: Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài làm việc ở Việt Nam hiện nay (tapchicongthuong.vn)
17. ThS. Tạ Đình Tuyên (2021). Mô hình Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ của một
số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam. Tạp chí Tòa án. Xem
tại:https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat-the-gioi/mo-hinh-toa-chuyen-trach-ve-so-
huu-tri-tue-cua-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi-va-khuyen-nghi-doi-voi-viet-nam
18. ThS. Trần Thị Long (2020). Chiến tranh thương mại Trung - Mỹ và ảnh hưởng đối
với Việt Nam. Tạp chí công thương. Xem
tại: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chien-tranh-thuong-mai-trung-my-va-anh-
huong-doi-voi-viet-nam-69628.htm
30
19. Trần Thị Dung - 2021 - “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững” – Tạp chí
công thương (online), xem tại: Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam hiện nay (tapchicongthuong.vn)
20. Trịnh Dũng, Văn Toản (2021). Nâng cao mức độ bảo hộ và thực thi quyền sở hữu
trí tuệ. Báo Nhân dân. Xem tại:https://nhandan.vn/khoahoc-congnghe/nang-cao-muc-
do-bao-ho-va-thuc-thi-quyen-so-huu-tri-tue-670472/
21. TS. Nguyễn Minh Phong (2020). Ðể tăng sức hút dòng vốn FDI chất lượng cao.
Báo Nhân dân. Xem tại:https://nhandan.vn/cung-suy-ngam/e-tang-suc-hut-dong-von-
fdi-chat-luong-cao-617708/
22. Tuấn Anh, (12/2021) “Giải mã nguyên nhân căng thẳng thương mại Mỹ - Trung”
VietnamNet.vn. [online] Xem tại: https://vietnamnet.vn/vn/the-gioi/binh-luan-quoc-
te/nhung-van-de-mau-chot-gay-cang-thang-thuong-mai-my-trung-446974.html
23. Uyên Hương (2021) – Gian lận xuất xứ nhằm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam
đang tăng- VietnamPlus (online) xem tại: https://www.vietnamplus.vn/gian-lan-xuat-
xu-nham-vao-hang-hoa-xuat-khau-tu-viet-nam-dang-tang/726791.vnp (truy cập :
15/7/2021)
24. VAFIE - 2020 - “Hai yếu tố tạo sức hút của Việt Nam trong làn sóng dịch chuyển
từ Trung Quốc” - xem tại “https://vafie.org.vn/hai-yeu-to-tao-suc-hut-cua-viet-nam-
trong-lan-song-dich-chuyen-tu-trung-quoc/”
25. Văn Nguyễn (2021) – Chậm tiến độ hơn 1000 dự án: Phải gỡ “nút thắt giải phóng
mặt bằng – Báo xây dựng (online) xem tại: https://baoxaydung.com.vn/cham-tien-do-
o-hon-1000-du-an-phai-go-nut-that-giai-phong-mat-bang-319103.html (
26. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - Trung tâm Thông tin tư liệu (2017),
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Một số vấn đề về thực trạng và giải pháp. [online]. Xem
tại:http://ciem.org.vn/Content/files/VNEP/FDI_VNEP_tong%20quan_chi%20Ta
%20Thao.pdf
Tài liệu nước ngoài
1. Eddy Bekkers and Sofia Schroeter (2020). An economic analysis of the US-China
trade Conflict. World Trade Organization. Available at:  
https://www.wto.org/english/res_e/reser_e/ersd202004_e.pdf
2. Eugenio Cerutti, Gita Gopinath, and Adil Mohommad (2019). The Impact of US-
China Trade Tensions. International Monetary Fund Blog. Available at: 
https://blogs.imf.org/2019/05/23/the-impact-of-us-china-trade-tensions/
3. B.W. Setser, “US-China Trade War: How We Got Here?” [online]. Available at:
https://www.cfr.org/blog/us-china-trade-war-how-we-got-here

31
4. S. Rossman, “What is a Trade War? And Why is Trump Targeting China?”. USA
Today. [online], Available at:
https://www.usatoday.com/story/money/nation-now/2018/04/06/trade-war-trump-us-
china-tariffs/492616002

32

You might also like