You are on page 1of 6

Đặc điểm tôn giáo Việt Nam

- Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều thành phần dân tộc cũng là quốc gia đa
tôn giáo. Mỗi tôn giáo có lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, cơ sở thờ
tự, vị trí, vai trò xã hội và đặc điểm khác nhau, đó là do nước ta nằm giữa ngã
ba Đông Dương, là nơi giao lưu giữa các luồng tư tưởng, văn hoá khác nhau, có
địa hình phong phú đa dạng, lại ở vùng nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên vừa ưu
đãi vừa đe doạ cộng đồng người sống ở đây. Do đó thường nãy sinh tâm lý sợ
hãi, nhờ cậy vào lực lượng tự nhiên.

- Việt Nam có lịch sử lâu đời và nền văn minh hình thành sớm, lại kề bên hai
nền văn minh lớn của loài người là Trung Hoa và Ấn Độ, nên tín ngưỡng, tôn
giáo có ảnh hưởng sâu đậm từ hai nền văn minh này.

- Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, nhưng người có cộng lớn trong
việc giúp dân, cứu nước được cả cộng đồng tôn sùng và đời đời thờ phụng.
Trong tâm thức của người Việt luôn tiềm ẩn, chứa đựng đạo lý “uống nước, nhớ
nguồn”. Điều đó thể hiện rất rõ trong đời sống, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo
của họ.

- Từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đó đã tác động sâu sắc đến tín
ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có những
đặc điểm sau:

+ Một là, Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau đang tồn tại. Đó là do điều kiện địa lý nước ta thuận lợi cho việc giao
lưu của nhiều luồng tư tưởng, văn hoá khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng
của hai nền văn minh lớn của thế giới là Trung Hoa và Ấn Độ. Nước ta có nhiều
dân tộc cư trú (54 dân tộc) ở nhiều khu vực khác nhau, với điều kiện tự nhiên,
khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Hơn nữa, bản tính
người Việt luôn cởi mở, khoan dung nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều
hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Từ những hình thức tôn giáo tín
ngưỡng sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo phương Đông cổ đại đến phương Tây
cận, hiện đại, tất cả đã và đang cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản
địa của nhiều dân tộc, bộ tộc khác nhau. Để chứng minh cho việc Việt Nam là
một nước có nhiều tôn giáo thì dưới đây là các hình ảnh về các tôn giáo thường

gặp ở Việt Nam. Đầu tiên là Phật giáo

Gác chuông chùa Quảng Nghiêm Phật A-di-đà chùa Bút Tháp

Công giáo

Nhà thờ Lớn Hà Nội với kiến trúc Gothique Rước kiệu Đức Mẹ theo lối truyền thống Việt Nam

Tin Lành
Nhà thờ Tin Lành ở Tiền Giang Bên trong Nhà thờ Tin Lành Đà Lạt

Cao đài

Tòa Thánh Tây Ninh

Hòa Hảo

Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo ở tỉnh An Giang

Ấn Độ giáo
Đền Ganesh tại Po Nagar, Nha Trang

Hồi giáo

Một thánh đường Hồi giáo Chăm Islam của người Chăm ở Châu Đốc, An Giang.

+ Hai là, tính đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo Việt
Nam. Điều đó được biểu hiện: Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện diện
của một số vị thần, thánh, tiên, phật,…của nhiều tôn giáo. Đối với người Việt
Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo của họ. Người ta không chỉ thờ
phụng ở đình, chùa, miếu, mà còn khấn vái “tứ phương”, kể cả những gốc cây,
mô đất, khúc sông,…Về phía giáo sĩ: ở Việt Nam có nhiều tăng ni, phật tử
thông thạo giáo lý Phật giáo, đồng thời cũng triết thuyết Khổng Mạnh và nghiên
cứu cả đạo giáo. Giáo lý cùa các tôn giáo lớn ở Việt Nam có không ít những
điều khác biệt và trong lịch sử đã xuất hiện những mâu thuẩn nhất định, nhưng
nhìn chung, chưa có sự đối đầu dẫn đến chiến tranh tôn giáo. Tín ngưỡng tôn
giáo Việt Nam là hòa đồng, đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Truyền thống “Tam giáo
đồng nguyên”, “Ngũ chi hợp nhất” được kết tinh trong đạo Cao đài. Những tôn
giáo độc thần như: Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo du nhập vào nước ta cũng
như tôn giáo nội sinh như: Cao Đài, Hòa Hảo ít nhiều đều có tính đan xen, hòa
đồng dung hợp với nhau với tín ngưỡng bản địa.

+ Ba là, yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Lịch sử Việt
Nam là lịch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong xã
hội không chỉ vì họ gánh vác công việc nặng nề đó là thay chồng nuôi con ở hậu
phương mà còn có thể xông pha trận mạc. Ở nước ta, dù mẫu quyền được thay
thế bởi phụ quyền từ lâu, nhưng tàn dư chế độ này còn kéo dài dai dẵng đến tận
ngày nay. Hơn nữa, ở một xứ sở thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa
nước, người mẹ biểu tượng cho ước muốn phong đăng, phồn thực; hình tượng
của sự sinh sôi, nãy nở, sự trường tôn của giống nòi, sự bao dung của lòng đất.
Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm trong tín ngưỡng, tôn giáo
Việt Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ.

+ Bốn là, thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước. Con
người Việt Nam vốn có yêu nước, trọng tình “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng thấm đượm tinh
thần ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành ba cộng đồng gắn bó với nhau là gia
đình, làng xóm và quốc gia. Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu,
song nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã khuất.
Làng xóm có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ. Mỗi làng có phong tục, lối sống
riêng. Trong phạm vi làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa phương
và việc thờ cúng này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người. Những người có công
với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính.
Để minh chứng cho điều trên đó chính là việc thờ Thành hoàng. Thành hoàng là
vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay
không có họ tên và lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ
tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ
nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.

+ Năm là, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động. Nước ta
là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ hầu hết là nông
dân. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hiểu giáo lý không sâu sắc
nhưng lại chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín
ngưõng một cách nhiệt tâm.

+ Sáu là, một số tôn giáo bị các thế lực thù địch phản động trong và ngoài nước
lợi dụng vì mục đích chính trị. Tôn giáo nào cũng có 2 mặt: nhân thức tư tưởng
và chính trị. Chính vì vậy, tuy mức độ có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử
nào thì các giai cấp thống trị, bóc lột vẫn chú ý sử dụng tôn giáo vì mục đích
ngoài tôn giáo. Các thế lực trong và ngoài nước đang âm mưu sử dụng ngọn cờ
nhân quyền gắn với tôn giáo hong xóm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì
vậy, một mặt phải đáp ứng đúng như cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân,
mặt khác phải luôn cảnh giác với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù
địch.

+ Bảy là, hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây có biểu hiện mang tính
chất thị trường. Những năm qua, nhờ có công cuộc đổi mới mà đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao nhưng cũng kéo theo nhưng hoạt
động của các tôn giáo sôi nổi hơn trước, việc xây mới, sửa chũa cơ sở thờ tự
diễn ra khó kiểm soát. Hiện tượng “buôn thần, ban thánh” có dấu hiệu bùng
phát làm tiêu tốn tiền bạc, thời gian, sức khoẻ của nhân dân. Hiện nay đã xuất
hiện một số chức sắc, tín đồ các tôn giáo có biểu hiện suy thoái đạo đức, lợi
dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín dị đoan, kiếm tiền bất chính.

You might also like