You are on page 1of 12

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ


MÔN:LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT
ĐỀ BÀI: 08

HỌ VÀ TÊN :Trần Anh Quân


MSSV :453215
LỚP : 4532
NHÓM : A

Hà Nội, 2020

1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................................3
B. BÀI LÀM..........................................................................................................................4
Câu 1: Tóm tắt nội dung bài viết “Tập tục và pháp luật” của tác giả Nguyễn Minh Đoan
(Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003).......................................................................4
Tập tục trong xã hội.......................................................................................................4
Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục..........................................5
Tập tục trong quan hệ với pháp luật...............................................................................6
Một số kiến nghị.............................................................................................................7
Câu 2: Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa pháp luật và
tập quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê Vương Long trong bài viết: “Pháp luật
và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội” (Tạp chí Luật học, số 2/2001)...................7
2.1. Định nghĩa, khái niệm.............................................................................................7
2.2. Sự giống nhau giữa pháp luật và tập tục.................................................................8
2.3. Sự khác biệt.............................................................................................................9
Câu 3: Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam hiện nay..........9
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................13

2
A. MỞ ĐẦU
Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam vô cùng phong phú. 54 anh em
dân tộc trải dài trên khắp mọi miền đất nước hình chữ S, mỗi dân tộc lại có
những nét văn hóa, những phong tục khác nhau. Cùng với pháp luật, tập tục là
công cụ hữu hiệu, quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
trong đời sống của con người. Giữa pháp luật và tập tục có mối quan hệ vô
cùng chặt chẽ. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề bài số 8 để
làm. Đề bài: “Thông qua bài viết: “Tập tục và pháp luật” của tác giả Nguyễn
Minh Đoan (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003), em hãy:
1. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ (Không quá 3 trang A4)
2. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa pháp
luật và tập quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê Vương Long trong bài
viết: “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội” (Tạp chí Luật
học, số 2/2001).
3. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam hiện nay.”

3
B. BÀI LÀM
Câu 1: Tóm tắt nội dung bài viết “Tập tục và pháp luật” của tác giả Nguyễn
Minh Đoan (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003)
1.1. Tập tục trong xã hội
Dân tộc ta có nhiều thuật ngữ để chỉ những cách xử sự hay hành vi được lặp
đi lặp lại nhiều lần thành thói quen, được nhiều được nhiều người thừa nhận
và tuân theo như “tập quán”, “phong tục”, “luật tục”, “tập tục”… Chúng ta đã
tìm ra một số cách hiểu về những thuật ngữ trên:
Tập quán có thể được xem như những tác phong, ứng xử được lặp lại theo
thời gian, trở thành thói quen, nên có chỗ đứng vững chắc trong xã hội. Tập
quán bao hàm những thói quen về sản xuất và sinh hoạt trong đời sống xã hội;
có phạm vi điều chỉnh rộng; chỉ là những việc đáng để làm theo nên tính bắt
buộc không cao.
Phong tục được xem như “tập quán và nếp sống có ý nghĩa từ lâu đời và ăn
sâu vào đời sống”1 , “thói quen trong xã hội” 2. Khác với tập quán, phong tục
có tính bắt buộc nghiêm ngặt đối với mọi thành viên trong cộng đồng; mang
trong mình những khuôn mẫu ứng xử là những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ,
khoa học của cả cộng đồng, xã hội, bởi vậy người vi phạm có thể phải chịu
hình phạt rất nghiêm khắc. Như vậy, dù bắt nguồn từ tập quán nhưng phong
tục có mục đích, tính bắt buộc cao hơn; có biện pháp bảo đảm nghiêm khắc.
Luật tục chỉ những quy ước có giá trị và tính bắt buộc gần như pháp luật
nhưng không phải pháp luật (do không phải do Nhà nước ban hành). Nếu cho
rằng các lề lối (quy tắc) được đặt ra để điều chỉnh hành vi của con người là
“luật”, thì tập quán, phong tục cũng có thể được gọi là “luật tục”. Luật tục
trước hết là tập quán, nhưng chỉ là những tập quán đã trở thành quy ước
chung của cả cộng đồng và được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp
nghiêm khắc mà cộng đồng nhất trí; mọi chủ thể trong cộng đồng đều phải
tuân theo. Cách giải thích như vậy cho thấy “luật tục” gần đồng nghĩa với
“phong tục”.
Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán,
tục là phong tục). Trong một số trường hợp, phân biệt rạch ròi tập quán hay
phong tục là rất khó khăn, bởi phong tục được phát triển từ tập quán, nhưng
trong những giai đoạn hoặc điều kiện nhất định khi mà tính bắt buộc và
những biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện phong tục mất dần thì phong tục
1
Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội
2
Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
4
có thể trở lại thành tập quán.Vậy nên cách nói này vừa bao quát, vừa ngắn
gọn. Sự ra đời và tồn tại của tập tục là tất yếu khách quan; không thể thiếu đối
với đời sống. Đời sống sinh hoạt cộng đồng đòi hỏi những quy tắc để giải
quyết tranh chấp, những hành vi vi phạm quy ước… Những quy ước ấy được
mỗi cộng đồng dân cư thừa nhận và thực hiện, bởi vậy nó mang tính cục bộ,
địa phương. Hình thức phổ biến của tập tục là truyền miệng nên tập tục có
tính uyển chuyển, tính xác định không cao, dẫn đến việc áp dụng nhiều khi
không thống nhất, dễ tùy tiện. Hình thức thành văn đầu tiên của tập tục có lẽ
là hương ước (hương biên, hương khoán, hương lệ, tục lệ, cựu khoán, điều
ước, điều lệ, lệ làng…). Các quy ước này có vai trò vô cùng lớn, là chuẩn
mực cho hành vi của con người, công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
“tri thức dân gian về quản lý cộng đồng”3.
Tuy nhiên, vai trò của tập tục ngày càng bị thu hẹp lại. Nhà nước, xã hội ngày
càng can thiệp nhiều hơn vào các lĩnh vực tự quản của các cộng đồng trong
đó có việc xây dựng những quy ước để điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến
cộng đồng. Đây là môt nguyên nhân dẫn đến tập tục bị mai một, lãng quên
một số bị ngăn cấm, một số lạc hậu không còn phù hợp… Gần đây, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, nhiều tập tục, truyền thống văn hóa tốt
đẹp đã được khôi phục. Có thể nói, ở nước ta hiện nay, tập tục đã, đang và sẽ
còn tiếp tục thể hiện vai trò tích cực và những giá trị xã hội của mình trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục
Tập tục là những quy ước tổng hợp nhiều vấn đề khác nhau của đời sống,
trong đó thường có nội dung đề cập đến những quy tắc, quy định, cách ứng xử
cần tuân theo và xác định những hình thức khen, thưởng hoặc xử lý những vi
phạm, các cách thức và biện pháp trừng phạt. Chủ yếu liên quan đến đời sống
cộng đồng nên nội dung tập tục tập trung vào các lĩnh vực chính của đời sống
xã hội.
Những biện pháp xử lý vi phạm tập tục rất khắc nghiệt, có tác dụng răn đe
rất lớn, thường gây hậu quả bất lợi cho chủ thể vi phạm về mặt kinh tế, danh
dự. Bời vậy số người vi phạm tập tục trên thực tế rất ít.
Tập tục thường được người đứng đầu cộng đồng tổ chức thực hiện và được
sự ủng hộ, giúp đỡ của cả cộng đồng, diễn ra rất nghiêm minh. Nếu việc phân
xử theo tập tục của người có thẩm quyền có biểu hiện sự không công minh
3
Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
5
hay thiên vị thì các thành viên của cộng đồng sẽ có ý kiến không đồng tình,
phản đối và không tín nhiệm người phân xử đó nữa.
Mục đích của hầu hết các tập tục là hướng thiện, tuy nhiên cũng tồn tại một
số tập tục có phần phản tiến bộ, có hại cho xã hội, cản trở việc thực hiện pháp
luật Nhà nước.
Tập tục do các bậc tiền nhân để lại nên rất được mọi người tôn trọng, tự
giác thực hiện, coi đó là những tiêu chuẩn đúng đắn, chính xác, công bằng mà
mỗi người cũng như cả cộng đồng đều có nghĩa vụ tuân theo. Nghĩa vụ chấp
hành không chỉ có tính bắt buộc đối với những người liên quan mà còn liên
quan trực tiếp mà những người thân trong cộng đồng cũng phải tham gia. Đối
với nhiều cộng đồng dân cư, tập tục thường được sử dụng trước tiên. Chỉ khi
nào những vụ việc ấy có liên quan đến pháp luật mà các tập tục không thể giải
quyết được thì nhân dân mới nhờ cậy đến chính quyền để giải quyết bằng
pháp luật.
1.3. Tập tục trong quan hệ với pháp luật
Tập tục hình thành và tồn tại trước khi có pháp luật như là một nhu cầu tất
nhiên của đời sống cộng đồng xã hội. Khi pháp luật xuất hiện, nó chỉ thay thế
một phần chứ không thay thế hoàn toàn tập tục, tập tục vẫn không mất đi.
Trong thực tế, có những trường hợp pháp luật không thể giải quyết triệt để
mà cần có sự kết hợp giữa pháp luật với tập tục để đưa ra quy định. Do vậy,
nên kết hợp hài hòa giữa pháp luật và tập tục trong giải quyết những tranh
chấp, mâu thuẫn và có tính đến ý chí của các bên.
Tập tục và pháp luật có sự thống nhất về mục đích, có những chức năng
tương tự nhau, đều là những công cụ điều chỉnh luôn hỗ trợ lẫn nhau trong
việc phục vụ mục đích chung của cộng đồng. Quan hệ giữa tập tục với pháp
luật thể hiện trên cả ba phương diện là xây dựng pháp luật, thực hiện pháp
luật và hoạt động xét xử:
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, một số tập tục có thể được thừa nhận
thành pháp luật. Khi chưa có pháp luật thì tập tục là công chủ yếu để điều
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Do vậy khi xuất hiện pháp luật thì rất
nhiều tập tục đã được luật hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước.

6
Trong thực hiện và áp dụng pháp luật, một số tập tục có thể được áp dụng
để giái quyết vụ việc. Trong một số trường hợp, khi quy định về một vấn đề
phức tạp đã và đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà
làm luật có thể trù liệu là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa
phương. Hoặc khi pháp luật chưa hoặc không quy định về một số vấn đề, các
chủ thể có thẩm quyền được phép áp dụng theo tập tục mặc dù pháp luật
không chỉ định rõ tập tục cụ thể nào. Việc áp dụng tập tục phải bảo đảm tính
hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích của nhân dân và phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Một số tập tục không liên quan đến lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh nên
cũng không xem xét việc nó có trái hay không trái pháp luật
Pháp luật ngăn cấm, loại bỏ những tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã
hội. Các tập tục có hại cho tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với pháp luật, có
hại cho tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với văn hóa tốt đẹp của dân tộc thì sẽ
bị pháp luật kìm hãm, cấm đoán hoặc loại trừ.
1.4. Một số kiến nghị
Nhà nước nên tiến hành tập hợp những tập tục quan trọng, có giá trị, từ đó
chọn lọc để giữ gìn, phát huy những tập tục tốt đẹp, loại trừ những tập tục có
hại, cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời. Cần chú trọng đúng mức tới việc xây dựng hương
ước mới và nên quy định những vấn đề cụ thể và mang tính nguyên tắc; củng
cố vị trí, vai trò của những người đứng đầu của cộng đồng. Những người này
cần là người yêu ước ,có uy tín cao, có trình độ, đạo đức tốt, hiểu biết những
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Câu 2: Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ
giữa pháp luật và tập quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê Vương
Long trong bài viết: “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã
hội” (Tạp chí Luật học, số 2/2001).

2.1. Định nghĩa, khái niệm


- Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán,
tục là phong tục). Phong tục tập quán là những thói quen trong ứng xử của
cộng đồng hay những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát
trong một cộng đồng dân cư, được lưu truyền chủ yếu theo phương thức
truyền miệng, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục
của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.

7
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, do nhà
nước ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, là
công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản theo ý chí
và lợi ích của giai cấp thống trị.
2.2. Sự giống nhau giữa pháp luật và tập tục
Sau khi tổng hợp, xem xét và nghiên cứu hai bài viết, tôi nhận ra được một
số điểm tương đồng trong quan điểm của hai tác giả về mối quan hệ giữa
pháp luật và tập quán:
Trước hết, khi nói về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán trong hoạt
động xây dựng pháp luật, cả hai người cùng đồng ý rằng một số tập tục có thể
được Nhà nước thừa nhận và nâng lên thành pháp luật. Tác giả Nguyễn Minh
Đoan cho rằng nguyên nhân là do trước khi pháp luật xuất hiện thì tập quán là
công cụ chủ yếu để điều chỉnh quan hệ xã hội, khi pháp luật xuất hiện thì các
tập quán ấy được Nhà nước luật hóa. Còn tác giả Nguyễn Minh Long bổ sung
thêm về điều kiện để một tập quán có thể được nâng lên thành pháp luật như
tập quán phải hữu ích, được sử dụng rộng rãi trong đời sống, phù hợp với
truyền thống dân tộc,…
Bên cạnh đó, cả hai tác giả đều tán thành rằng: trong thực tiễn và áp dụng
pháp luật, một số tập tục có thể được áp dụng. Khi quy định về một vấn đề
phức tạp đã và đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà
làm luật có thể trù liệu là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa
phương. Hoặc khi pháp luật chưa hoặc không quy định về một số vấn đề, các
chủ thể có thẩm quyền được phép áp dụng theo tập tục mặc dù pháp luật
không chỉ định rõ tập tục cụ thể nào. Cả hai tác giả đều trích dẫn Điều 14 Bộ
Luật Dân sự 1997 để chứng minh cho luận điểm này: “Trong trường hợp
pháp luật không quy định và các bên không thỏa thuận thì có thể áp dụng
những tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật, nhưng không được trái
với những nguyên tắc trong bộ luật này”. Hai người đều đồng ý rằng, việc áp
dụng tập tục phải bảo đảm tính hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích của nhân dân và phù
hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Các tập quán tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc được pháp luật bảo vệ,
những tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã hội thì bị pháp luật ngăn cấm,
loại bỏ.

8
Hơn nữa, khi đề ra những kiến nghị, hai tác giả đều cho rằng Nhà nước nên
tiến hành sưu tầm, tập hợp những tập tục điển hình, tích cực; loại trừ những
tập tục lạc hậu, ảnh hưởng xấu tới trật tự xã hội; cần phải chú trọng, quan tâm
đúng mức đối với việc xây dựng hương ước mới và chuẩn hóa lệ làng, luật tục
trong điều kiện hiện nay.
2.3. Sự khác biệt
Dù có nhiều tương đồng trong quan điểm nhưng khi đọc hai bài viết ta cũng
có thể thấy những bất đồng về quan điểm về mối quan hệ giữa tập quán và
pháp luật trong điều chình quan hệ xã hội:
Tác giả Lê Vương Long cho rằng, dù là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
như pháp luật nhưng tập quán có phạm vi tác động, tính bắt buộc, các biện
pháp bảo đảm thấp hơn, còn mang tính bảo thủ, được lưu truyền chủ yếu
thông qua hình thức truyền miệng, không có quy định cụ thể, nên quá trình áp
dụng còn thụ động, tùy tiện. Do vậy, tập quán có thể cản trở quá trình thi hành
pháp luật. Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Minh Đoan lại cho rằng, tập tục có tính
bắt buộc, răn đe rất lớn vì nó gắn liền với đời sống sinh hoạt và sản xuất; hình
thành, tồn tại trước pháp luật. Do đó, nó có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc điều chỉnh quan hệ xã hội.
Câu 3: Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam
hiện nay.
Đã từ rất lâu rồi, những tập tục đã in sâu trong tâm thức của người Việt
Nam, nó giống như hành vi hàng ngày của chúng ta vậy. Bởi vậy, hiện nay,
pháp luật đã thừa nhận một số tập tục, nâng các tập tục ấy thành pháp luật, áp
dụng thực hiện trong đời sống. Trong Hiến pháp vai trò, vị trí của phong tục,
tập quán, hương ước, luật tục đã được khẳng định. Điều này thể hiện qua các
nội dung sau:
Thứ nhất, điều 56 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng
định các dân tộc trên đất nước ta có quyền giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Mà
như chúng ta biết luật tục cũng chính là thành tố của văn hóa và phong tục,
tập quán của các dân tộc. Và một trong những nghĩa vụ của công dân theo
điều 79 của Hiến pháp năm 1992 là chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng
đồng.
Để cụ thể hóa những quy định trong Hiến pháp, ngày 19 tháng 6 năm 1998
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/1998/CT-TTG về việc xây
9
dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân
cứ. Tiếp đó là sự ra đời của Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-
VCHTT-UBTƯMTTQVN hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện Hương
ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư
Một cơ sở pháp lý nữa cũng rất quan trọng để tập tục tồn tại đó chính là Bộ
luật dân sự. Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp
pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp
dụng tập quán…” Và điều 8 cũng chỉ rõ việc lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự phải đảm bảo gìn giữ bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục,
tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết tương thân, tương ái… Ngoài ra,
Bộ luật dân sự cũng đã chỉ rõ một số trường hợp phải áp dụng tập quán để xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên. Chẳng hạn khoản 4 điều 603 Bộ luật
dân sự năm 2015 quy định việc bồi thường theo tập quán đối với thiệt hại do
gia súc thả rông gây ra: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây
thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”. Như vậy Bộ luật dân sự đã gián tiếp
thừa nhận tập quán, trong trường hợp đó nó đã trở thành tập quán pháp.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã hội. Pháp
luật ta hiện đang cố gắng kìm hãm, cấm đoán hoặc loại trừ các tập tục có hại
cho tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với pháp luật, có hại cho tiến bộ xã hội
hay đạo đức, trái với văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ như để hạn chế tập
tục cổ hủ “trọng nam kinh nữ”, Điều 17 Mục 1 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có
liên quan.”
Qua đây, ta thấy được mối quan hệ và những tác động giữa pháp luật và
phong tục tập quán được thể hiện một cách rõ nét qua chính thực tế ở nước ta.
Hơn thế nữa, những mặt tích cực hay hạn chế của phong tục tập quán trong
thời đại mới cũng được pháp luật kế thừa, phát huy hay sửa đổi sao cho phù
hợp với thực tế Việt Nam, điều đó cũng cho thấy vai trò to lớn của cả pháp
luật và phong tục tập quán trong xã hội

10
C. KẾT LUẬN

Trong giai đoạn xây dựng, bảo vệ và hoàn thiện Nhà nước ở nước ta hiện nay,
pháp luật giữ vị trí quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.Cùng với
pháp luật còn có rất nhiều công cụ điều chỉnh khác,trong đó phải kể đến các
tập tục. Một hệ thống pháp luật dù hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể đạt
hiệu quả cao nhất nếu không có niềm tin của đại bộ phận nhân dân. Vì vậy,
muốn hoàn thiện bộ máy nhà nước cần biết kết hợp với phong tục tập
quán,biết chắt lọc tính ưu việt của nó đề cùng pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội. Pháp luật với nội dung, bản chất, chức năng của mình chứa
đựng những tri thức dân gian, giá trị truyền thống sẽ giúp nâng cao được đời
sống pháp lí, ngăn chặn những hủ tục lạc hậu, giữ gìn trật tự xã hội, ngăn
chặn văn hóa ngoại lai xâm nhập, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc.

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà
Nội
2.Đào Duy Anh, Hán – Việt từ điển, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
3.Nguyễn Minh Đoan (2003), “Tập tục và pháp luật”, Nghiên cứu lập pháp
(Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (12), tr. 26-32.
4.Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội
5.Lê Vương Long (2001), “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã
hội”, Luật học, (02), tr. 27-32.

Văn bản pháp luật:


1.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001
2.Bộ luật dân sự năm 2005
3.Bộ luật dân sự năm 2015
4.Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
5.Chỉ thị số 14/1998/CT-TTG về việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy
ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cứ
6.Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-VCHTT-UBTƯMTTQVN hướng
dẫn việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp,
cụm dân cư

12

You might also like