You are on page 1of 96

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
CHỦ ĐỀ 4. Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Liên hệ với những biến đổi trong các mối quan hệ gia đình trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

LỚP L11--- NHÓM 06 --- HK212


NGÀY NỘP: ………

Giảng viên hướng dẫn: TS. An Thị Ngọc Trinh

Sinh viên thực hiện Mã số sinh Điểm số


viên
Phan Tuấn Hoàn 2011218
Mai Huy Hoàng 1913432
Doãn Thị Cẩm Hường 2013409
Bùi Ngọc Hữu 1913667
Cao Sỹ Huy 1913498

Thành phố Hồ Chí Minh –


2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: . Tên nhóm: . Năm học:

Đề tài:
CHỦ ĐỀ 4. Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với những biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện
nay.

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
BTL BTL
1 100%
2 100%
3 100%
4 100%
Họ và tên nhóm trưởng: , Số ĐT:. Email:
Nhận xét của GV: .........................................................................................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................................................................................................................
NHÓM TRƯỞNG
GIẢNG VIÊN (Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ,
tên)
MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................1

1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................2

1.3. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................2

1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2

1.5. Kết cấu của đề tài.........................................................................................2

PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG


THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.....................................................3

1.1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình..............................................3

1.1.1. Khái niệm về gia đình............................................................................3

1.1.1.1. Lịch sử hình thành quan niệm gia đình...............................................3

1.1.1.2. Kết luận về quan niệm gia đình...........................................................5

1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội.............................................................6

1.1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội..............................................................6

1.1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên....................................................................7

1.1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.......................................7

1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình............................................................8

1.1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người..................................................8

1.1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục........................................................8

1.1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng..............................................9

1.1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình 10

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....11
i
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội..........................................................................11

1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội........................................................................11

1.2.3. Cơ sở văn hóa......................................................................................12

1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ.....................................................................13

1.2.4.1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.............................................................13

1.2.4.2. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng............................13

1.2.4.3. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý..................................................15

Tiểu kết Chương 1.....................................................................................................15

Chương 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP...................17

2.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội 17

2.1.1. Biến đổi quy mô, kết cấu gia đình.......................................................17

2.1.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình.......................18

2.1.2.1. Biến đổi chức năng tái sản xuất ra con người...................................18

2.1.2.2. Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng...............................18

2.1.2.3. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa).........................................20

2.1.2.4. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm .21

2.1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình............................................23

2.1.3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng..............................23

2.1.3.2. Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của
gia đình 24

2.2. Tác động của những biến đổi trên đối với gia đình Việt Nam...............26

2.2.1. Tác động tích cực................................................................................26

2.2.2. Nguyên nhân.......................................................................................30

2.2.3. Tác động tiêu cực................................................................................32

ii
2.2.4. Nguyên nhân.......................................................................................41

2.3. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................................................................46

Tiểu kết Chương 2.....................................................................................................53

PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................54

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................56

iii
PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài


Gia đình không chỉ là tế bào “tự nhiên” của xã hội mà còn là một đơn vị kinh tế
của xã hội. Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trò quyết định đối với sự
hình thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình được
tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa
dân tộc. Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con trẻ, có trách
nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích.
Gia đình còn là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của
con người Việt Nam. Tại đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Gia đình là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp phần chăm lo
xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm
công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần
quốc tế chân chính”.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì gia đình ở
Việt Nam cũng có những sự biến đổi nhất định. Những biến đổi về quy mô và kết cấu
của gia đình, quy mô gia đình càng ngày nhỏ đi đáp ứng được nhu cầu và điều kiện
của thời đại mới, bình đẳng giới cũng được đề cao, đồng thời giảm bớt mâu thuẫn giữa
các thế hệ với nhau, giúp gia đình thích nghi hơn so với thời đại mới. Với những thành
tựu đáng kể về y học hiện đại, việc sinh con cũng dễ dàng và có kiểm soát hơn. Kinh tế
gia đình ngày càng phát triển và có nhiều đóng góp quan trọng cho xã hội. Xã hội hiện
đại, kéo theo tư tưởng giáo dục thay đổi hiện đại hơn, dễ dàng hơn trong việc truyền
tải các giá trị tốt đẹp của người Việt Nam cho các thế hệ trẻ. Tuy nhiên, đi kèm với
những tiến bộ và thuận lợi thì vẫn còn tồn tại thách thức trong quá trình biến đổi. Như
là giá trị gia đình truyền thống bị coi nhẹ, tạo ra sự ngăn cách giữa các thế hệ trong
một đại gia đình. Tạo ra khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Giáo dục và xã hội hóa
có sự du nhập của các văn hóa nước ngoài không phù hợp với các giá trị truyền thống

1
của người Việt Nam.

2
Biến chất về các giá trị gia đình dẫn đến xuất hiện càng nhiều những hiện tượng tiêu
cực trong gia đình.

Bởi vậy, nghiên cứu về gia đình nhằm xây dựng những luận cứ khoa học cho
việc củng cố và phát triển gia đình là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.Và đây là lý do nhóm chọn
đề tài “” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học.

1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Vấn đề gia đình trong thời kì quá độ
Không gian: Việt Nam.
Thời gian: 2005 - 2021.

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình.

Thứ hai, làm rõ cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, làm rõ sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và đề xuất phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên
cứu như trừu tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp, thống kê mô tả, mô hình hóa.

1.5. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
- Chương 2: Sự biến đổi của gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội – thực trạng và giải pháp.

3
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH


TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI

1.1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình


1.1.1. Khái niệm về gia đình
1.1.1.1. Lịch sử hình thành quan niệm gia đình

Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội. Ngay
từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình
luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia
đình.

Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số
nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống
lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn
hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc
bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế
theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.

Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm
lý, văn hóa, kinh tế, khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ
mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể
đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ
có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.

Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể
xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có

4
vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người.

5
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên
của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con
nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng
những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội
về tái sản xuất con người.

Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng:
“Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh
sôi, nảy nở
- đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”1.

Khẳng định trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, gia đình là tế
bào của xã hội, gia đình tham gia vào mọi quá trình sản xuất và luôn chịu sự tác động
trở lại của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, Nghiên cứu di sản lý luận của C. Mác
và Ph. Ăngghen, chúng ta thấy, trong suốt tiến trình xây dựng quan niệm duy vật về
lịch sử, bao giờ các ông cũng dựa vào những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện
thực này thường được các ông sử dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để
nghiên cứu, mổ xẻ các quá trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn,
các xu hướng vận động và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu
hiện một cách cụ thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù con người,
phạm trù sở hữu. Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù này đều có liên quan đến
phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các ông, gia đình là tế bào của xã hội,
tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ
việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo ra sự khác
biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Và, ngược lại, các quá trình sản xuất,
tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo dục và đào tạo, v.v. đều tác động
trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình.Gia đình là
một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã
hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề

6
1
Ths. Phạm Thị Bình (18/07/2018), Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về gia đình trong mối quan hệ với
sự phát triển kinh tế - xã hội, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ph-
angghen/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-niem-cua-c-mac-va-ph-angghen-ve-gia-dinh-trong-moi-quan-he-
voi-su-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-3192, truy cập ngày 10/10/2021.

7
cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình
phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu
tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và
con cái, đó là gia đình”1.

Trong Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ con người đã được hình thành trong
lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ
phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu tự nhiên để tồn tại và cũng để
nhằm thỏa mãn những nhu cầu không ngừng nảy sinh của con người. Quan hệ thứ hai
là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, quan hệ phản ánh
các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản
xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ thứ ba là quan hệ gia
đình. Theo các ông, quan hệ gia đình đã tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển
của lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra
những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con
cái. Cũng theo các ông, ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng
tồn tại bên nhau: "Sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao
động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay
ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ với xã
hội" 2.

1.1.1.2. Kết luận về quan niệm gia đình

Từ đó, rút ra cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn
nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Đây là mối quan hệ
tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Ngoài
ra, còn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với cháu chắt, giữa anh chị em
với nhau, giữa cô, dì, chú bác với cháu v.v... Những mối quan hệ này tồn tại trong sự
gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách
nhiệm

8
1
Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995), C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.41.
2
Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995), C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 19, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.500.

9
của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý. Quan hệ hôn nhân là cơ sở,
nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự
tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một
dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh
mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.

Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi
(người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia
đình. Dù hình thành từ hình thức nào, trong gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ nuôi
dưỡng, đó là sự quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình cả
về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng
liêng giữa các thành viên trong gia đình.

Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình.
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội

Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:“Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực
phẩm, quần áo, nhà ởvà những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt
khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã
hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước
nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát
triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”1.

Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người,
gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể-xã hội. Không

1
Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995), C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 21, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.44.

10
có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Vì
vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia
đình tốt.

Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chếđộ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình
đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của
gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa thuận trong gia đình, thì
mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội và ngược
lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh
phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

1.1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên.

Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của
mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách,
thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.

1.1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội

Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Chỉ trong gia đình,
mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau mà không cộng đồng nào có được và có thể thay thế.

Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã
hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các
thành viên của xã hội. Không có cá nhân bên ngoài gia đình, cũng không thể có cá
nhân bên ngoài xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ
xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân
học được và thực hiện quan hệ xã hội.

11
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá
nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nhân cách v.v... Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự
hợp tác của các thành viên trong gia đình.

Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo
yêu cầu của mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc
điểm của gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để
củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền đã có
những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung
thành với người chồng, người cha-những người đàn ông trong gia đình. Trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người
được giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một
chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa”1.
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
1.1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng
không chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện chức năng
này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế,
một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ
đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc
vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay
khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.

1.1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

12
1
Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.531.

13
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức
năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời
thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người.
Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha
mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường
để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một
môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ
thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ
hưởng giá trị văn hóa, chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Đây là chức
năng hết sức quan trọng, mặc dù, trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường,
các đoàn thể, chính quyền v.v..) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay
thế chức năng giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào
việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng
nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước
được xã hội hóa.

Vì vậy, giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của
gia đình không gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với
xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết
hợp với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy,
cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội
hoặc ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển
toàn diện. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha,
làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn,
đặc biệt là phương pháp giáo dục.

1.1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

14
Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế
khác không có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp
vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất và sưc slao động, mà còn là một đơn vị
tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để
duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia
đình.

Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của
gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia
đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự
giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của
mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải vật
chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối
với sự phát triển của xã hội.

1.1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là
nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con
người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định
đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ
tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.

Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị. Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân
tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng

15
được thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng
tạo và

16
thụhưởng những giá trịvăn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ
chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước
và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và
quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

Việc thủ tiêu chế độ bóc lột, từng bước xác lập và củng cố hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân là yếu tố
cơ bản và quan trọng nhất để từng bước xóa bỏ những tập quán hôn nhân cũ chịu ảnh
hưởng nặng nề của các giai cấp thống trị trong xã hội cũ, xoá bỏ cơ sở kinh tế của tình
trạng bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên
trong gia đình.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt từng bước hình thành hoàn thiện và phát triển các cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, mặt khác, tạo ra những điều kiện, những cơ
hội để phát huy mọi tiềm năng của mọi gia đình, mọi thành viên trong xã hội. Phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn là tiền đề để từng bước giải quyết đúng đắn
giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm
nghèo. Điều đó cũng tạo ra những cơ sở, điều kiện phát triển gia đình, từng bước khắc
phục những hạn chế, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, hình thành các
yếu tố tích cực trong gia đình, thực hiện bước chuyển từ gia đình truyền thống sang gia
đình mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Cùng với sự xác lập và từng bước phát triển kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa
chú ý đến việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện một hệ thống pháp luật,
trong đó có Luật hôn nhân và gia đình. Cùng với hệ thống chính sách và pháp luật
được xây dựng, ban hành nhằm đảm bảo thực hiện lợi ích của mọi công dân, trong đó
có phụ nữ, Luật hôn nhân và gia đình ngày càng hoàn thiện đã thực sự là cơ sở pháp lý
cho quá trình thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, xây dựng gia

17
đình bình

18
đẳng, dân chủ, bảo đảm cuộc sống gia đình, hạnh phúc và bền vững. Với sự ra đời và
hoàn thiện của hệ thống pháp luật và chính sách bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được sự thừa nhận và
bảo vệ của pháp luật - cơ sở trực tiếp của xây dựng gia đình hạnh phúc trong chủ nghĩa
xã hội. Chính điều đó đã tạo ra ngày càng đầy đủ hơn những cơ sở để gia đình có thể
kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống trong quan hệ tình yêu, hôn nhân của mỗi
dân tộc, vừa phát triển những nhân tố mới, tích cực hơn của hôn nhân, gia đình hiện
đại.

Cùng với phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nhà nước xã hội
chủ nghĩa cũng chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống các chính sách
xã hội trên các lĩnh vực dân số, kế hoạch hoá gia đình, việc làm, y tế và chăm sóc sức
khoẻ, bảo hiểm xã hội... Những chính sách này được xây dựng, từng bước đi vào cuộc
sống mà kết quả của nó là việc tạo ra những điều kiện và tiền đề quan trọng đối với
những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong hình thức tổ chức, quy mô, kết cấu
trong gia đình.
1.2.3. Cơ sở văn hóa

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản về
nhiều mặt trong đời sống của nhân dân, tất nhiên về cả đời sống văn hóa, tinh thần
cũng có nhiều biến đổi không ngừng theo thời gian. Những giá trị văn hóa được xây
dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân từng bước hình thành
và dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội, song song với đó
các yếu tố văn hóa cũng như phong tục tập quán và lối sống cổ hủ, lạc hậu do xã hội
cũ để lại cũng từng bước bị loại bỏ.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giáo dục và đào tạo, phát triển khoa
học - công nghệ luôn được coi là quốc sách hàng đầu, tạo ra ngày càng nhiều cơ hội,
điều kiện phát huy đầy đủ khả năng mỗi công dân, mỗi gia đình. Cùng với phát triển
khoa học - công nghệ, một hệ thống chiến lược và chính sách phát triển giáo dục - đào
tạo, nâng cao dân trí cũng được nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện. Các thành
viên xã hội, mọi gia đình đều được hưởng những thành quả do chính sách phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí. Dân trí cao là một tiền đề xã hội quan trọng để xây dựng

19
gia đình bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc.

20
Phải có cơ sở văn hóa và cơ sở văn hóa phải kết hợp với cả cơ sở kinh tế, chính
trị thì việc việc xây dựng gia đình kiểu mới trong trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội mới không bị lệch lạc và có thể đạt hiệu quả cao.
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
1.2.4.1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

Hôn nhân sẽ đảm bảo được sự tự nguyện và tiến bộ nếu dựa trên cơ sở là tình
yêu chân chính. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có nghĩa là mỗi bên đều có quyền lựa
chọn người mà mình kết hôn cùng. Sự tự nguyện xuất phát từ bản thân mỗi người và
không ai có quyền ép buộc họ làm trái ý chí của mình. Bất kể người ép buộc họ là bên
kia hay bất cứ ai khác khiến họ kết hôn với người mà mình không muốn đều sẽ vi
phạm nguyên tắc tự nguyện và không được pháp luật công nhận. Hôn nhân tự nguyện
không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có
trách nhiệm trong việc kết hôn.

Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và
nữ không còn nữa. Cuộc sống hôn nhân nếu đạt được hạnh phúc, hòa thuận là những
gì mà các bên trong quan hệ hôn nhân hướng tới. Tuy nhiên, nếu trong hôn nhân phát
sinh mâu thuẫn không thể dung hòa mà bản thân vợ, chồng mong muốn chấm dứt cuộc
sống chung thì họ có quyền yêu cầu ly hôn. Việc kết hôn dựa trên cơ sở tình yêu giữa
nam và nữ, việc ly hôn dựa trên thực chất quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được
nữa. Tuy nhiên hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu
quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn
chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly
hôn vì những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.

1.2.4.2. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Vì vậy, hôn nhân tiến bộ
là hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Thực hiện hôn nhân một vợ một
chồng cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm và đạo đức.

Cùng với sự phát triển của xã hội, các hình thái gia đình cũng phát triển theo.
Hôn nhân một vợ một chồng cũng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người
21
tuy nhiên phát triển nhất và tồn tại một cách đầy đủ nhất là trong xã hội chủ nghĩa, chế
độ hôn nhân một vợ một chồng được coi là hình thái gia đình tiến bộ.

Tuy nhiên chế độ hôn nhân một vợ một chồng trong các xã hội trước lại giả tạo
và khá mâu thuẫn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khi mà chế độ mẫu quyền thay bằng
chế độ phụ quyền, người mẹ không còn vai trò như trước thì một vợ một chồng chỉ đặt
ra với người vợ chứ không đặt ra với người chồng.

Đến xã hội phong kiến, vị trí gia trưởng của người chồng trong gia đình ngày
càng được củng cố một cách vững chắc. Một vợ một chồng có chăng chỉ về phía đàn
bà, pháp luật vẫn cho phép người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Điều này thể hiện
sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân trong thời kỳ phong kiến và
gây nên nhiều đau khổ cho người phụ nữ.

Đến Nhà nước tư bản, lần đầu tiên nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đã
được thừa nhận trong các văn bản pháp luật. Chế độ đa thê đã bị bãi bỏ thay vào đó là
hình thái hôn nhân một vợ một chồng ở cả hai phía, cả người vợ và người chồng,
nhưng xét về bản chất hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê, trên thực
tế nguyên tắc đó đã bị phá vỡ do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai.

Ngay trong xã hội tư bản, hôn nhân một vợ một chồng tồn tại cũng chưa thực sự
đúng với bản chất của nó. Nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hôn nhân
một vợ một chồng mới thể hiện và tồn tại một cách đầy đủ nhất. Thực hiện chế độ hôn
nhân một vợ một chồng là thực hiện giải phóng đối với người phụ nữ, thể hiện sự bình
đẳng giữa nam và nữ giữa vợ và chồng, tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng được tự do lựa
chọn những vấn đề riêng và chính đáng. Và đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc
giải quyết các vấn đề chung của gia đình. Hướng đến xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc, bình đẳng tiến bộ và bền vững.

Vợ chồng bình đẳng góp phần xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong tư
tưởng lạc hậu lỗi thời, khẳng định quyền bình đẳng về mọi mặt giữa nam và nữ, góp
phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng còn thể hiện rõ
quan điểm của Nhà nước Việt Nam là không phân biệt dân tộc, tôn giáo, quốc tịch
trong quan hệ hôn nhân. Quan hệ vợ chồng bình đẳng còn là cơ sở cho sự bình đẳng
trong những mối quan hệ tiến bộ giữa cha mẹ và con cái. Tuy nhiên do có sự khác
22
nhau về

23
nhiều phương diện giữa các thế hệ nên không tránh khỏi mâu thuẫn. Vì vậy, việc giải
quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được mọi người ngày càng quan tâm, chú
ý và chia sẻ hơn.

1.2.4.3. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,
nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước
vào quan hệ xã hội thì phải có sự thừa nhận của xã hội và điều đó được biểu hiện bằng
thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện
sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với
gia đình, xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp nhằm ngăn chặn những cá nhân
lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu không chính
đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong
hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược
lại, là cơ sở vững chắc để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Gia đình là “tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là
môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách" 1, trong bất kì thời
điểm nào, gia đình đều là mối quan tâm hàng đầu của mỗi người cũng như toàn xã hội.
Bởi vì gia đình là tổ ấm của mỗi người, là nơi chúng ta được yêu thương và chia sẻ
tình yêu thương. Gia đình mang tính liên kết chặt chẽ, gắn bó, quan hệ máu thịt giữa
các thành viên trong gia đình. Gia đình là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt
đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội. Gia đình là nơi đầu tiên và cũng là nơi cuối cùng thực
hiện chức năng về tình cảm và giáo dục đạo đức, lối sống cho con người. Ngoài ra, gia
đình còn thực hiện chức năng về kinh tế, đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất
nước. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như trong bối cảnh hội nhập và
phát triển tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện để gia đình Việt Nam phát triển như:các
chính sách về bảo

24
1
Phùng Văn Mùi (28/06/2005). Gia đình, cái nôi nuôi dưỡng đời người, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/gia-
dinh-cai-noi- nuoi-duong-doi-nguoi-403537, truy cập ngày 07/10/2021.

25
hiểm y tế và việc làm, kế hoạch hóa dân số, sự tiến bộ trong chế độ hôn nhân,.. Tuy
nhiên vấn đề gia đình và giáo dục gia đình cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, ảnh
hưởng của kinh tế - xã hội, của tệ nạn xã hội, của văn hóa ngoại, của công nghệ số,
mạng xã hội đã làm cho các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình lỏng lẻo,
truyền thống tốt đẹp trong gia đình bị phá vỡ, chá mẹ ít dành ra thời gian để quan tâm,
chăm sóc con cái. Vì vậy hơn bao giờ hết cần phải tăng cường vai trò của gia đình
trong việc giáo dục đạo đức, lối sống thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

26
Chương 2

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.1.1. Biến đổi quy mô, kết cấu gia đình

Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là gia đình quá độ trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong
quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái
mới là một tất yếu. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ
biến ở các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ
vai trò chủ đạo trước đây.

Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn
tại đến ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô gia đình
hiện đại đã ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sống chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước,
cá biệt còn có số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt
nhân quy mô nhỏ.

Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều
kiện của thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư
của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích
cực, thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã
hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.

Tất nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự
ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong
việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội

27
ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng mình với mục
đích kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít đi.
Con người dường như rơi vào vòng xoáy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình
đánh mất đi tình cảm gia đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao
tiếp với nhau hơn, làm cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo.

2.1.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình
2.1.2.1. Biến đổi chức năng tái sản xuất ra con người

Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình
tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh
con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà
nước, tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao động của xã hội. Ở nước ta, từ
những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng
rộng rãi các phương tiện và biện pháp kỹ thuật tránh thai và tiến hành kiểm soát dân số
thông qua Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ
nên có từ 1 đến 2 con. Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, dân số Việt Nam đang chuyển
sang giai đoạn già hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền vững của
xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ
hai con.

Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất
nông nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên
ba phương diện: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối
dõi thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức
sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai
của các cặp vợ chồng. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có
con hay không có con, có con trai hay không có con trai như gia đình truyền thống.

2.1.2.2. Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển
mang tính bước ngoặt 1: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức
là từ một đơn vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn
28
vị mà

29
sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội. Thứ hai, từ đơn
vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia
thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị
trường toàn cầu.

Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng
hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng
chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần
lớn có quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính. Chức năng kinh tế, vai trò gia
đình trong tổ chức lao động ở các vùng nông thôn ngày càng bị hạn chế trong những
điều kiện dân số ngày càng đông, đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp. Sự dôi dư lao
động ngày càng nhiều đã đẩy một tỷ lệ lớn những người trong độ tuổi lao động đi tìm
kiếm công việc ở bên ngoài, đi tới các khu công nghiệp hay ra thành phố. Ở thành phố
Hà Nội hiện nay, ước tính: “có khoảng 80-85.000 phụ nữ từ các vùng nông thôn ra
làm nghề giúp việc gia đình. Từ đó, gia đình dần mất đi vai trò của đơn vị sản xuất và
vai trò là đơn vị tiêu dùng ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Một nghiên cứu khác của
nhóm tác giả Đặng Thị Ánh Tuyết, Hà Việt Hùng và Phan Thuận (2016) cho thấy,
trong quá trình hiện đại hóa, các chức năng gia đình đang thay đổi khá mạnh mẽ,
trong đó sự biến đổi chức năng kinh tế của gia đình đã dẫn tới sự thay đổi các chức
năng khác của gia đình. Khi bước sang xã hội công nghiệp hiện đại, gia đình có thay
đổi nhanh chóng. Gia đình không còn thực hiện nhiều chức năng như trước nữa, mà
có sự chuyển giao bớt các chức năng của gia đình cho các thể chế khác. Gia đình mất
đi nhiều chức năng và các thành viên của gia đình tham gia vào tất cả những chức
năng của gia đình, nhưng với tư cách cá nhân, không phải với tư cách thành viên gia
đình. Một đặc điểm nổi bật trong biến đổi gia đình ở các xã hội công nghiệp hóa là
sản xuất tách rời khỏi nhà ở, các thành viên gia đình rời nhà đi làm để kiếm thu nhập
mua các hàng hóa mà trước kia gia đình có thể sản xuất được”1.

1
ThS. Phan Thuận. (04/07/2018), Chức năng gia đình và sự biến đổi từ tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng,
http://gopfp.gov.vn/chi-tiet-an-pham/-/chi-tiet/chuc-nang-gia-%C4%91inh-va-su-bien-%C4%91oi-%0Atu-tiep-
can-ly-thuyet-cau-truc-chuc-nang-8404-3309.html, truy cập ngày 10/10/2021.

30
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình tăng
lên làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội. Các gia
đình Việt Nam đang tiến tới tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra, tức là sử dụng
hàng hóa và dịch vụ xã hội.

Sự biến đổi chức năng kinh tế hộ gia đình Việt Nam thể hiện khá rõ nét trong
những năm gần đây. Theo điều tra nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản cho thấy, số
hộ ở nông thôn hoạt động ở lĩnh vực nông, lâm và thủy sản có xu hướng giảm và số hộ
hoạt động ở lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên. “Năm 2006, có 71,06% số hộ ở
nông thôn hoạt động ở lĩnh vực nông, lâm và thủy sản thì đến năm 2011, tỷ lệ này là
62,15%. Trong khi đó, tỷ lệ hộ nông thôn hoạt động công nghiệp tăng từ 10,18% năm
2006 lên 15,03% năm 2011; tỷ lệ ở hộ nông thôn hoạt động dịch vụ tăng từ 14,92%
năm 2006 lên 18,41% năm 2011. Ở đồng bằng sông Hồng, tình trạng chuyển đổi này
cũng diễn ra khá nhanh. Kết quả thống kê cho thấy, nếu năm 2006 có 60,50% hộ gia
đình hoạt động trong ngành nghề nông, lâm và thủy sản thì đến năm 2011 chỉ còn
47,44%; trong khi đó, tỷ lệ hộ công nghiệp và xây dựng ở nông thôn tăng từ 16,09%
năm 2006 lên 23,48% năm 2011, tỷ lệ hộ dịch vụ tăng từ 16,94% năm 2006 lên
21,37% năm 2011. Kết quả này phản ánh sự biến đổi về cơ cấu nghề nghiệp ở nông
thôn, hộ gia đình từ một đơn vị sản xuất tự cấp, tự túc đã chuyển sang đơn vị tiêu
dùng. Xu hướng thay đổi ở đồng bằng sông Hồng diễn ra khá nhanh so với cả nước”1.

2.1.2.3. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa).

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã
hội thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục
tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa
giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy
sinh của cá nhân cho cộng đồng.

Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia
đình cho giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ
nặng

1
TS Đặng Ánh Tuyết. (30/07/2015), Xu hướng biến đổi chức năng kinh tế hộ gia đình nông thôn Việt Nam,
31
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1027-xu-huong-bien-doi-chuc-nang-kinh-te-ho-gia-dinh-
nong-thon-viet-nam.html, truy cập ngày 10/10/2021.

32
về giáo dục đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục
kiến thức khoa học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.

Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh
tế hiện nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng
sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong nhà trường, làm cho sự
kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong việc rèn
luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có lời giải hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay. Những
tác động trên đây làm giảm sút đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiện chức năng
xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua.

Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm...
cũng cho thấy phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong
việc chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Ở thành phố, nhiều bậc phụ huynh có rất ít thời gian dành cho con cái. Nhiều gia
đình phải phó mặc cho người giúp việc. Phần lớn các trường tiểu học và trung học cơ
sở đã tổ chức học bán trú cả ngày, nên hầu như việc học hành, dạy dỗ con cái từ nhà
trẻ, mẫu giáo trở lên là các gia đình dường như giao cho nhà trường và xã hội. Ở các
vùng thôn quê, nhiều bậc cha mẹ phải đi làm ăn xa nên việc nuôi dạy con cái thường
phải dựa vào ông bà, bà con họ hàng hay thậm chí con cái họ phải tự lo cuộc sống
hàng ngày.

2.1.2.4. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm

Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng
buộc của các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; cha mẹ và con
cái; sự hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi phối bởi các mối
quan hệ hòa hợp tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo hạnh phúc
cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuộc sống
chung.

Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng
lên, do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là

33
đơn vị tình cảm. Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động
đến sự tồn tại, bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là việc bảo vệ
chăm

34
sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt với rất nhiều
khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có
một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn
cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia
đình.

Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu
nghèo sâu sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích lũy tài
sản, đất đai, tư liệu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình trở
thành lao động làm thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư
liệu sản xuất khác, không có khả năng tích lũy tài sản, mở rộng sản xuất. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu
hướng ngày càng gia tăng.

Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của
con trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp,
biện pháp nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho
các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình,
xây dựng những chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung
và phương pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng
trong giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa
nhu cầu tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan
niệm truyền thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái. Nó
đòi hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các
thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.

Cùng với sự đẩy mạnh quá trình đô thị hoá, làn sống di cư từ nông thôn ra thành
thị khi người dân ở nông thôn bị mất đất-ngày càng ồ ạt. Một số thành viên trong các
gia đình nông thôn, nhiều nhất là thanh niên, đã rời bỏ nông thôn, từ bỏ nghề nông để
đổ xô về thành phố, thị xã, thị trấn tìm kiếm việc làm, sinh sống ngày một đông. Chính
vì sự phân tán về nơi cư trú và lối sống thị thành mới đã khiến cho sự gắn bó, mối liên
kết giữa họ với các thành viên trong gia đình- vốn trước đây chặt chẽ- cũng dần có

35
phần bị lơi lỏng và ngày càng trở nên lỏng lẻo hơn. Do đó, có thể nói, quá trình đô thị
hoá đã

36
tách các thành viên trong gia đình ra khỏi vòng tay yêu thương của người thân. Thực
tế đó, đã làm cho mối quan hệ huyết thống ngày càng phai nhạt.

Một vấn đề nữa là, tình cảm vợ chồng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi nhịp
sống hiện nay. Các cặp vợ chồng mãi lao vào cuộc sống vì “cơm áo, gạo tiền” đã bỏ
quên sự chia sẻ tình cảm với nhau. Chính điều đó đã khiến không ít cặp vợ chồng lựa
chọn quyết định ly hôn khi tình yêu trong hôn nhân đã bị nguội lạnh. “Số vụ ly hôn
tăng lên hàng năm là một bằng chứng thực tế. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hôn
thì năm 2005 đã tăng lên 65.929 vụ và 90.092 vụ vào năm 2009, con số này tăng lên
18.308 vụ vào năm 2013 và 27.948 vụ của năm 2017. Trong đó, đáng báo động tình
hình ly hôn ở đông bằng sông Cửu Long cao nhất của cả nước, có khoảng 8.830 vụ
năm 2017 so với 4.951 vụ của đồng bằng sông Hồng, 5.686 vụ của Đông Nam bộ”1.

2.1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình


2.1.3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng

Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại,
toàn cầu hóa... khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng
- gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục trước hôn
nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi
kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình,
xâm hại tình dục... Từ đó, dẫn tới hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi
nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia
đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú... Ngoài ra, sức ép
từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều...) cũng
khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã hội.

Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản

1
ThS. Phan Thuận. (04/07/2018), Chức năng gia đình và sự biến đổi từ tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng,
http://gopfp.gov.vn/chi-tiet-an-pham/-/chi-tiet/chuc-nang-gia-%C4%91inh-va-su-bien-%C4%91oi-%0Atu-tiep-
can-ly-thuyet-cau-truc-chuc-nang-8404-3309.html, truy cập ngày 10/10/2021.

37
của gia đình, người quyết định các công việc quan trọng của gia đình, kể cả quyền dạy
vợ, đánh con.

Trong gia đình Việt Nam hiện nay, không còn một mô hình duy nhất là đàn ông
làm chủ gia đình. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì
còn có ít nhất hai mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ
làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia
đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội,
được các thành viên trong gia đình coi trọng. Ngoài ra, mô hình người chủ gia đình
phải là người kiếm ra nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người
lãnh đạo gia đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.

Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất là hôn
nhân hiện đại dựa trên tình yêu để kết hôn. “Kết quả nghiên cứu cho thấy, không có sự
khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm quan trọng của tình yêu với
sự gắn kết hôn nhân (trong số người được khảo sát có 89,7% số người được hỏi cho
rằng tình yêu là quan trọng và rất quan trọng). Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ
người đánh giá thấp tiêu chí này nhất thuộc về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc
Kinh, người đi làm, người sống ở đô thị, ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển
và mức độ hiện đại hóa cao”1.

Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá cao
tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích ứng với sự thay
đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng.

2.1.3.2. Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của
gia đình

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như các
giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình cũng không ngừng biến đổi. Trong gia đình
truyền thống, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông bà,
cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình hiện đại, việc giáo dục trẻ em gần như phó

1
PGS. TS. Trần Thị Minh Thi (10/06/2020), Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay và một số khuyến
nghị chính sách, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816737/nhung-bien-doi-
cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen-nghi-chinh-sach.aspx, truy cập ngày 10/10/2021.
38
mặc cho nhà trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ. Ngược
lại, người cao tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng với con cháu, cho
nên nhu cầu về tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy mô gia đình bị
biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm.

Những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho
gia đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi cùng
chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu
hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ thường
hướng tới những giá trị hiện đại, có xu hướng phủ nhận yếu tố truyền thống. Gia đình
càng nhiều thế hệ, mâu thuẫn thế hệ càng lớn.

Ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có như: bạo
lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá hoại sự
bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. Ngoài ra,
các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới... cũng
đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.

Cùng với đó là những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung hoặc riêng
trong gia đình. Sự xuất hiện các nhân tố mới, như di cư lao động, tôn trọng tự do cá
nhân, sự độc lập về kinh tế giữa bố mẹ và con cái trong đời sống gia đình hiện đại
cũng góp phần làm chuyển dịch từ gia đình lớn nhiều thế hệ (ông bà - cha mẹ - con
cháu) sang gia đình nhỏ (1 hoặc 2 thế hệ).

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có
con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay,
hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng
với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp
luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hôn và có con.
Quyền làm mẹ không chỉ thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của
sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.

Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách nhiệm,
chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng nghe tâm

39
tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện đại hóa
càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đô thị, có việc làm, có học vấn
cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và trân
trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, người phụ
nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam giới, thể hiện trong tỷ lệ được người chồng
chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu vực
Đông Nam Bộ đạt điểm số trung bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng nghe
những mối quan tâm, tâm tư của vợ/chồng. Còn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu số, có
mức sống thấp, ở nông thôn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc cho rằng bạn đời
coi thường hoặc đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc đóng góp của họ đối với
gia đình.

2.2. Tác động của những biến đổi trên đối với gia đình Việt Nam

2.2.1. Tác động tích cực

Sự tôn trọng cuộc sống riêng tư cho các thành viên, phát triển tài năng cá nhân
tốt hơn, giảm đi vấn đề trọng nam khinh nữ hoặc các mâu thuẫn thường gặp trong loại
hình gia đình truyền thống…là những điểm sáng dễ thấy ở gia đình Việt hôm nay.
Nhận định rất hay của PGS.TS Đỗ Ngọc Anh đã cho thấy rõ hơn điều trên: “Mô hình
gia đình hạt nhân là xu hướng chính của thực trạng phát triển gia đình Việt Nam, mô
hình này phát triển vượt trội so với các mô hình gia đình khác. Cơ chế vận hành của
mô hình gia đình hạt nhân linh hoạt, gọn nhẹ do sự ràng buộc giữa các mối quan hệ
huyết thống trong gia đình khá đơn giản. Các thành viên trong gia đình hạt nhân có
nhiều “không gian riêng” hơn để thể hiện, phát huy những cá tính, sở thích cá
nhân…”1. Không chỉ vậy, “Gia đình chính là tế bào của xã hội, là một đơn vị nhỏ
nhất của xã hội…”2, góp phần giúp xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình
hình mới, thời đại mới.

1
Kiều Giang (26/02/2021), Biến đổi về cấu trúc và chức năng các gia đình Việt ngày càng sâu sắc,
http://baovanhoa.vn/gia-%C4%91inh/artmid/424/articleid/37708/bien-doi-ve-cau-truc-va-chuc-nang-cac-gia-

40
dinh-viet-ngay-cang-sau-sac, ngày truy cập 27/09/2021.
2
Báo Bắc Giang (28/06/2021), Bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của gia đình trong điều kiện hiện nay,
https://bvhttdl.gov.vn/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-truyen-thong-cua-gia-dinh-trong-dieu-kien-hien-nay-
20210628080820829.htm, ngày truy cập 27/09/2021.

41
Có thể nói, một gia đình chỉ có hai thế hệ: cha mẹ - con cái lẽ hiển nhiên sẽ tồn
tại ít xung đột hơn so với một gia đình có ba, bốn thế hệ. Hơn nữa, người phụ nữ giờ
đây cũng được cởi bỏ những rào cản xưa cũ hơn, có nhiều cơ hội thể hiện tài năng,
thậm chí làm chủ kinh tế gia đình và nhờ đó nâng cao địa vị bình đẳng với chồng.

Kế đến phải nhắc đó là sự biến động trong mức sinh Việt Nam hiện nay cải thiện
ở một số điểm: “...Trong vòng 30 năm qua, mức sinh của Việt Nam đã giảm gần một
nửa. Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 3,8 con/phụ nữ vào năm 1989 xuống còn 2,09
con/phụ nữ vào năm 2019. Việt Nam vẫn duy trì mức sinh ổn định ở mức thay thế
trong hơn một thập kỷ qua, xu hướng sinh hai con vẫn là phổ biến.” 1. Áp dụng “sinh
đủ 2 con” giúp cuộc sống hôn nhân được bền vững hơn khi không phải quá quan trọng
về yếu tố sinh con như trong gia đình truyền thống: có hay không có con, là con trai
hay không. Điều này khiến áp lực sinh con ở phụ nữ được giảm đi phần nào, việc sinh
đẻ cũng đã chuyển tù hành vi mang tính tự nhiên, bản năng sang hành vi có kế hoạch,
văn minh, từ bị động sang chủ động. Mức sinh giảm cũng giúp nâng cao chất lượng
sinh đẻ hơn thay vì số lượng con nhiều, chất lượng thấp, khiến cho mỗi gia đình thấy
được trách nhiệm trong vấn đề sinh đẻ phải có sự đầy đủ hơn. Ở khía cạnh khác, “…
Sinh đẻ ít nên dân số tăng chậm lại, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước…”2.

Khi nền kinh tế nhiều thành phần xuất hiện trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, các gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của gia đình và của
xã hội được cải thiện đáng kể. Khi nhìn xa hơn nữa, ta thấy nhiều việc làm mới, những
ngành nghề mới,nhất được sinh ra trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ đời sống.
Thương mại điện tử là một trong những hình thức phổ biến thời gian gần đây, cụ thể là
kinh doanh online được nhiều gia đình trẻ chọn để làm công việc chính của mình, hoặc
có thể chọn là “nghề tay trái”. Thu nhập tương đối ổn định, góp phần cải thiện mức
sống

1
Ly Vũ (18/12/2020), Sau 30 năm, mức sinh của Việt Nam giảm gần một nửa, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-
hoi/sau-30-nam-muc-sinh-cua-viet-nam-giam-gan-mot-nua-628673/, ngày truy cập 01/10/2021.
2
Nguyễn Thị Nhiên (12/02/2019), Kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam trong tình hình mới: Tầm quan trọng của
chính sách đúng đắn và toàn diện, https://moh.gov.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia/-
/asset_publisher/7ng11fEWgASC/content/ke-hoach-hoa-gia-inh-o-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi-tam-quan-
42
trong-cua-chinh-sach-ung-an-va-toan-dien, truy cập ngày 01/10/2021.

43
của các hộ gia đình và có xu hướng phát triển hơn trong tương lai. Đồng thời, nhu cầu
tiêu dùng các gia đình Việt Nam đang chuyển hướng “tiêu dùng sản phẩm do người
khác làm ra”, tức lả sử dụng hàng hóa và dịch vụ xã hội so với trước kia. Gia đình Việt
Nam đã có những diễn biến tích cực trong thực tế cụ thể như: “…Kết quả khảo sát của
Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao về nơi chon mua sản phẩm cho thấy,
nếu như năm 2017 tỷ lệ người tiêu dùng chọn mua online chiếm 0,9% thì chỉ sau một
năm, tỷ lệ người iêu dùng chọn mua online đã tăng gấp ba lần (2,7%). Khách hàng
phần lớn là những người trẻ thuộc thể hệ 8x, 9x, hoặc sinh năm 2000 và tập trung ở
khu vực thành thị. Họ còn tham gia vào việc mua bán trên các mạng xã hội ngày cảng
nhiều như Facebook, Zalo, một thị trường mang tính tương tác cao, kết nồi rộng,
thuận tiện trong giao thương ...Không chỉ các gia đỉnh, các doanh nghiệp quan tâm
đên thương mại điện tử, cũng thu hút sự quan tâm của chính quyền các thành phố.
Năm 2017, UBND thành phô Hà Nội đã ban hành kế hoạch số 59/KH-UBND về việc
triển khai phát triển thương mại điện tử trên địa bàn thành phố. Theo kế hoạch này,
doanh thu bán lẻ trực tuyển sẽ chiêm 7% tông mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng trên địa bàn thành phó trong năm 2017, tăng 1% so với năm 2016. Hà
Nội cũng sẽ triền khai nhiều biện pháp nhằm đạt được tỷ lệ người dân tham gia mua.
trực tuyên 63% trên số người sử dụng Internet, tăng 3% so với năm 2016. Bán hàng
online phát triện còn tạo công ăn việc làm cho đội ngũ đông đảo những người chuyển
hàng (Shipper) có thêm thu nhập cho gia đình. Việt Nam có lực lượng đông đảo lao
đông làm việc ở khu vực phi chính thức. Năm 2017 có hơn 18 triệu lao đông làm việc
trong lĩnh vực này, chiếm hơn 38% tổng số lực lượng lao động của cả nước…”1.

Sự khác biệt thấy rõ ở việc gia đình (đặc biệt là những gia đỉnh thuộc khu vực
kinh tế phi chính thức) kinh doanh đã có thêm lợi nhuận với hiệu quả cao hơn, thời
gian, công sức cũng như chi phí được giảm hẳn. Xay bột hoặc giã cốm được thay thế
bằng các máy móc, thiết bị điện tiết kiệm công sức trong các làng nghề ẩm thực truyền
thống như làng Mơ làm đậu phụ, làng Vòng làm cốm. Khoa học công nghệ dù ít hay
nhiều thì ứng dụng vào vô số các loại hình công việc khác nhau. Uber, Grab, GoViet…
là những ví dụ điển

44
1
Hoàng Bá Thịnh, Đoàn Thị Thanh Huyền (2019). Tác động của khoa học công nghệ đến chức năng gia đình
hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 – tháng 3, trang 82-90.

45
hình cho việc công nghệ số hỗ trợ cá nhân làm việc linh hoạt, có thể làm việc kiểu bán
thời gian, làm thêm, thậm chí toàn thời gian. Những hộ gia đỉnh có thể quảng bá sản
phẩm nhà làm rộng rãi, thuận lợi tiếp cận thị trường cũng như ký kết hợp đồng nhanh
gọn. Mỗi gia đình Việt đã và đang đóng vai trò cực kì quan trọng trong đơn vị tiêu
dùng của xã hội.

Thêm vào đó, những năm gần đây, giáo dục gia đình hiện đại thể hiện tính đa
dạng hơn, nội dung giáo dục bao gồm lý thuyết và thực tiễn. Điều đó nghĩa là trẻ sẽ
vừa được học về kiến thức khoa học hiện đại, trang bị khả năng hòa nhập với thế giới,
vừa học về đạo đức, ứng xử với mọi người trong gia đình, họ hàng, làng xóm... Đồng
thời, giáo dục gia đình còn mang tính nhiều chiều bởi vì ngoài ảnh hưởng từ phía cá
nhân đối với cá nhân (cha mẹ và con, ông bà và cháu ) hay sự ảnh hưởng của cả tập
thể, gia đình liên kết với nhau sẽ làm tác động đến từng cá nhân qua lối sống, nếp sống
ở mỗi gia đình. Qua khả năng các thành viên của gia đình có thể tiếp xúc rộng rãi với
các mối quan hệ trong xã hội và có sự giáo dục lẫn nhau giữa các thành viên trong gia
đình không phân biệt thế hệ, giới tính…có thể góp phần cải thiện việc giáo dục gia
đình ở nhiều góc độ hơn. Những tính chất trên tạo nên nét sinh động, phong phú, phù
hợp với tâm lý, nhu cầu của mỗi thành viên trong gia đình trong công cuộc giáo dục
gia đình, dần mang tới những biểu hiện lạc quan trong việc thực hiện chức năng giáo
dục của gia đình. Ở nội dung giáo dục gia đình Việt Nam thời kì đổi mới được nghiên
cứu bởi Th.S Phạm Thị Thu Hồng mang đến những kết quả như sau: “…Nội dung
giáo dục gia đình hướng vào giáo dục đạo đức là số 1: 95%, giáo dục nghề nghiệp:
68%; giáo dục học vấn cao: 31%. Ngoài nội dung giáo dục đạo đức, đại bộ phận các
thành phần gia đình đều quan tâm, lo lắng giáo dục nghề nghiệp, tạo cho con cái có
công ăn việc làm, không phải sa vào con đường thất nghiệp dẫn đến các tệ nạn xã hội.
Còn trình độ học vấn cao vẫn là điều tốt, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh, khả năng
của số đông gia đình không đáp ứng được cho con cái, mặt khác thực tế cho thấy rằng
không phải có trình độ học vấn, văn hóa cao là có công ăn việc làm, là có thu nhập
cao, là làm giàu được. Nó là điều kiện quan trọng nhưng không phải tiên quyết. Như
vậy mục tiêu và nghĩa vụ giáo dục của gia đình

46
là hướng tới con người có đạo đức, có nghề nghiệp, biết làm kinh tế dựa trên một trình
độ học vấn nhất định…”1.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo cũng nói đôi nét về sự biến đổi đặc biệt này trong
giáo dục con trẻ: “…Văn hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng
đều có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các
thành viên trong gia đình. Bầu không khí tâm lý – đạo đức của gia đình tác động trực
tiếp đến nếp nghĩ, lối sống của trẻ. Mọi xung khắc của các cá nhân trong gia đình,
nhất là giữa bố và mẹ, đều ảnh hưởng đến con cái. Trong nếp nghĩ của trẻ nhỏ luôn
lưu giữ hình dáng, lời ăn tiếng nói của cha mẹ. Trong gia đình, ngoài các mối quan hệ
nói trên còn có mối quan hệ giữa ông bà và các cháu, anh chị và các em. Mối quan hệ
này càng bền chặt thì càng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của các cá nhân
trong gia đình. Các bậc lớn tuổi phải làm gương, tự điều chỉnh hành vi của mình thì
mới đáp ứng được vấn đề đạo đức, văn hóa và các mối quan hệ đặt ra trong phạm vi
gia đình. Cái nôi của giáo dục đạo đức chính là gia đình. Thông qua cách giáo dục,
mối quan hệ, ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, trẻ con sẽ tiếp thu và từ đó
định hình cách thức ứng xử theo chuẩn gia đình…”2.

2.2.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân đầu tiên và có yếu tố ảnh hưởng lớn tạo nên những tác động tích
cực là nhờ vào công tác kế hoạch hóa gia đình, các chương trình chính sách khác mà
Nhà nước đặt ra đi đôi với điều kiện y tế phát triển. Trước đây, mức sinh ở nước ta quá
cao, tốc độ tăng dân số rất nhanh vì ta luôn có tư tưởng ở xã hội truyền thống, nền kinh
tế nông nghiệp là chủ đạo nên nhà càng đông người càng có thu nhập cao. Tuy nhiên
sự tăng nhanh trong khi tình hình kinh tế-xã hội đang còn yếu kém thì việc phát triển
đất nước sẽ rất khó khăn. Bởi vậy, các điều khoản luật pháp, các chính sách dân số, kế
hoạch hóa gia đình... ra đời, vài ví dụ như các khẩu hiệu tuyên truyền ở vài năm trước
là nên sinh từ 1-2 con và dần chuyển thành nên sinh đủ 2 con, khoảng cách sinh con
nên từ 3-

1
Th.S Phạm Thị Thu Hồng (12/2005), Giáo trình Giáo dục Gia Đình,
http://thuvien.tcdktcnsl.edu.vn/files/products/giao_trinh_giao_duc_gia_dinh_126.pdf, ngày truy cập 12/2005,
truy cập ngày 04/10/2021.

47
2
Phan Thị Hồng Xuân (15/09/2020). Giáo dục gia đình là nền tảng xây dựng nhân cách con người Việt Nam. Tạp
Chí Văn Hoá Phật Giáo Phiên Bản Điện Tử, số 352 – tháng 9, trang 53 đến hết.

48
5 năm, chính sách bình đẳng giới... Tại Việt Nam, đổi mới hệ thống y tế cơ sở đã được
Đảng, Chính phủ và ngành y tế xác định là vấn đề trọng tâm ưu tiên để hướng tới mục
tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân cũng như các Mục tiêu Phát triển Bền vững
về y tế. Năng lực cung ứng dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu được cải thiện; hệ thống y tế cơ sở đáp ứng linh hoạt và hiệu quả hơn. Tiếp đó
là sự tương tác giữa các tuyến chăm sóc sức khỏe trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn,
góp phần khắc phục tình trạng quá tải ở tuyến trên và trong khi tuyến dưới hoạt động
dưới công suất. Không chỉ vậy, ngành y tế cũng đang có những bước đột phá mạnh mẽ
trong việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 trong công tác quản lý y
tế và chăm sóc sức khỏe người dân…Khi đó, y tế đảm bảo việc tuyên truyền, giáo dục
và phục vụ công tác sinh đẻ một cách tối ưu nhất, hiệu quả nhất. Số lượng con trong
mỗi gia đình lúc này sẽ ít hơn so với thời kì cũ, thực hiện sinh sản có trách nhiệm và
chất lượng hơn. Một phần nhờ những điều trên mà quy mô gia đình Việt dần thu nhỏ
hơn, hoặc khi hội nhập các kiểu gia đình khác nhau (số ít đơn thân, đa số là gia đình
hạt nhân) quá phổ biến nên nó đã len lỏi trong đời sống và gia đình cứ thế bị cuốn theo
mà thích nghi với thời đại để không bị lạc hậu, tụt lùi phía sau. Số lượng thành viên
trong mỗi gia đình ít đi đưa đến một điểm sáng là ít mâu thuẫn hơn gia đình mở rộng.
Có thể vì ít thành viên, gánh nặng thực hiện các chức năng trong gia đình lớn khiến ta
có quá ít thời gian với nhau để có những cuộc xung đột. Tuy nhiên nếu nhìn về góc độ
tích cực hơn, gia đình ít người sẽ có thời gian quan tâm đặc biệt hơn, khoảng cách thế
hệ nhỏ giúp hiểu nhau rõ hơn, việc dành tình cảm không phải chia sẻ quá nhiều.
Nguyên nhân tiếp theo, hiện đại đi đôi với “công bằng,dân chủ, văn minh” là điều mà
không chỉ Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung luôn hướng đến. Tư tưởng mới với
những chính sách mới đấy mạnh năng lực phát triển của người phụ nữ đã mở ra cơ hội
tuyệt vời đến với họ. Tạo nên một vị thế nhất định trong xã hội, đặt biệt là chỗ đứng
vững chắc trong gia đình để họ tự tin thể hiện bản thân có gì hơn so với trước đây.

Ở lĩnh vực kinh tế gia đình có những biến chuyển tích cực do Đảng và Nhà nước
đã đề ra các chính sách kinh tế – xã hội tạo mọi điều kiện cho các gia đình làm giàu
chính đáng từ lao động của mình. Kinh tế gia đình Việt Nam hiện đại được đánh giá
đúng với vai trò của nó cũng như Đảng và Nhà nước có những chính sách khuyến
khích
49
và bảo vệ kinh tế gia đình. Ta có thể thấy thời kì CNH – HĐH có sự phát triển ấn
tượng của khoa học công nghệ, nó mang lại sự tiện lợi, nhanh chóng nên dễ dàng đi
vào đời sống gia đình. Thành viên trong gia đình, đặc biệt là giới trẻ có sự cập nhật xu
thế rất đáng kinh ngạc, giúp sử dụng công nghệ dễ dàng và có thể chia sẻ lại cho
những thành viên còn lại trong gia đình. Có thể dùng hình thức tra cứu online hay sử
dụng các dịch vụ tư vấn, hướng dẫn từ các ban ngành, chính quyền để biết cách sử
dụng công nghệ và kỹ thuật số. Từ đó khả năng kinh doanh của hộ gia đình được cải
thiện hiệu quả rất cao, mang về nhiều lợi nhuận và tiết kiệm chi phí, thời gian. Mặt
khác, chính vì thị trường toàn cầu đang phát triển theo nền kinh tế hàng hóa, cùng với
sự tăng thu nhập đáng kể từ gia đình hiện nay mà vai trò của gia đình trong tiêu dùng
xã hội đã trở nên cực kì quan trọng.

Hội nhập kinh tế làm cho mức sống con người được nâng cao hơn, chất lượng
cuộc sống được cải thiện giúp các bậc cha mẹ, gia đình nâng cao hơn sự tự đầu tư tài
chính cho giáo dục con cái mình. Họ có đủ điều kiện để cho con đi học thêm các kĩ
năng mềm khi còn nhỏ (múa hát, chơi thể thao...), các kĩ năng bảo vệ bản thân, học
ngôn ngữ, những kiến thức thực tế cần thiết kết hợp bồi dưỡng thêm kiến thức lý
thuyết ở trường. Họ có thể cho con đi du học thời gian dài hoặc ngắn, lựa chọn môi
trường học tập phù hợp nhất để con họ phát triển tốt cả về tri thức và nhân cách sau
này. Hơn nữa khi mức sống được cải thiện, nhu cầu hưởng thụ của họ tăng lên và
mang những nét cá nhân hơn. Mỗi một thành viên trong gia đình, chứ không chỉ riêng
lớp trẻ, đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình
thích, không phải bận tâm đến sự nhận xét của người khác

2.2.3. Tác động tiêu cực

Mặt tác động tiêu cực đầu tiên khi sự biến đổi xuất hiện đó là sự tương tác giữa
các thành viên trong gia đình không cao, khoảng cách lớn dễ khiến tình cảm gia đình
bị đánh mất. Khả năng hỗ trợ, giúp đỡ giữa các thế hệ trong cùng gia đình hạn chế và
việc trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong gia đình gặp nhiều khó
khăn. Ngày nay, xã hội đang phát triển ngày một nhanh, thời gian gìn giữ mối quan hệ
gia đình lại càng ít đi.

50
Khía cạnh tiêu cực của việc sinh đẻ trong gia đình dù xưa hay nay đều tồn tại ở
một dạng riêng của nó, “…Trước năm (5, 7 năm) nếu phụ nữ không đẻ con trai thì bị
đánh, bắt đẻ thêm nếu không đẻ được thì gửi ngoài hoặc bỏ vợ. Nhiều phụ nữ thích
con gái hơn nhưng không yên lòng vì sợ chồng đi với gái lại cố đẻ. Bạo lực gia đình
tăng lên” (Phỏng vấn nhóm nữ, thị trấn Đoan Hùng, Phú Thọ) …” 1. Sau khi biến đổi
với mức tỉ lệ sinh giảm đáng kể ở Việt Nam, chức năng tái sản xuất ra con người ngày
nay không còn là yêu cầu tất yếu ở mọi gia đình. Vợ chồng lấy nhau không cần sinh
con, hoặc họ sẽ xin con nuôi hoặc sẽ dùng quy trình thụ tinh ống nghiệm... Vấn đề gia
đình không sinh được con trai gặp áp lực nặng nề vì bị “tuyệt tự” của trước đây thì bây
giờ nhiều gia đình lại mong ước có con gái. Báo Công An Nhân Dân Online đã viết:
“…Chi phí nuôi con được coi là một trong những áp lực lớn nhất lên tâm lý “ngại đẻ”
không chỉ ở các đô thị lớn ở Việt Nam, mà còn là xu hướng toàn cầu. Theo khảo sát
năm 2019 của Viện Sức khỏe và Xã hội Hàn Quốc (nước có tỷ lệ sinh thấp nhất châu
Á), bất ổn kinh tế và việc nuôi dạy trẻ là trở ngại lớn nhất khiến nam giới và phụ nữ ở
độ tuổi 19 đến 49 lựa chọn không có con…Tại Việt Nam, số liệu của Tổng cục Dân số
- Kế hoạch hóa cho thấy quốc gia đang có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Việt
Nam bước vào thời kỳ già hóa dân số vào năm 2011 và được dự báo sẽ trở thành nước
có dân số già vào năm 2038, khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20%. Mức tăng
dân số của Việt Nam đang giảm dần đều. Trong một thập kỷ gần đây, dân số tăng
trung bình 1% mỗi năm. Ở Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh, nhiều cặp vợ chồng từ tỉnh
lẻ lên thành phố lập nghiệp với hai bàn tay trắng, không có hỗ trợ của bố mẹ, người
thân. “Nhiều người bạn của tôi không dám đẻ vì nhà cửa đi thuê chật chội, bố mẹ ở
xa, thiếu tiền thuê giúp việc. Hầu hết đang trong quá trình gây dựng sự nghiệp, nên họ
không có cả thời gian cho bản thân, nói gì việc chăm sóc và dạy bảo con”, chị Nga,
một nhà báo chia sẻ. Ngoài ra, nhận thức của nhiều phụ nữ Việt thay đổi, khi họ ưu
tiên thời gian để chăm sóc và thỏa mãn các nhu cầu bản thân, hơn là tư tưởng hy sinh
cho chồng con như trước kia. “Nhiều phụ nữ quyết định sinh ít con hoặc không sinh
con, vì họ quan niệm “ chất lượng hơn số lượng”, chị Nga nói thêm…”2. Bài báo với
tựa “Bức tranh tổng thể về thực trạng

1
Vũ Hào Quang (2006). Gia đình Việt Nam_Quan hệ, quyền lực và xu hướng biến đổi, Nxb: Đại học quốc gia Hà
Nội.

51
2
Bảo Châu (22/03/2021), Ngại sinh con thời COVID-19, https://cand.com.vn/Chuyen-de/Ngai-sinh-con-thoi-
COVID-19-i599573/, ngày truy cập 06/10/2021.

52
mức sinh ở Việt Nam” cũng góp ít nhận xét về tình hình sinh sản rằng: “…Theo kết
quả từ cuộc TĐT, ASFR của phụ nữ nhóm 25-29 tuổi có mức sinh cao nhất, bình quân
cứ 1000 phụ nữ trong nhóm tuổi này thì có 130 trẻ sinh sống; tiếp đến là nhóm phụ nữ
từ 20-24 tuổi với ASFR là 120 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ; và nhóm phụ nữ từ 30-34
tuổi có ASFR là 84 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ. Như vậy, phần lớn phụ nữ Việt Nam
sinh con ở độ tuổi từ 20 đến 29...Kết quả điều tra cũng cho thấy, ASFR của khu vực
thành thị không những thấp hơn mà còn có độ “trễ” so với khu vực nông thôn, nghĩa
là phụ nữ thành thị sinh muộn và sinh ít con hơn phụ nữ nông thôn. Ở khu vực thành
thị, mức sinh cao nhất thuộc về phụ nữ 25-29 tuổi với 127 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ;
trong khi ở khu vực nông thôn, mức sinh cao nhất thuộc về nhóm tuổi 20-24 với 147
trẻ sinh sống/1000 phụ nữ. Nếu so với mức sinh của phụ nữ cùng nhóm tuổi 20-24 ở
khu vực thành thị thì con số được sinh ra của những phụ nữ sống ở khu vực nông thôn
cao gần gấp đôi (147 trẻ em sinh sống/1000 phụ nữ so với 78 trẻ em sinh sống/1000
phụ nữ) …”1.

Ngoài ít sinh đẻ thì còn một hiện trạng phải cân nhắc nữa là: “…Mức độ mất cân
bằng giới tính khi sinh hiện tại sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu dân số trong tương lai như dư
thừa số lượng nam thanh niên. Dự báo cho thấy, nếu TSGTKS vẫn giữ nguyên như
hiện nay, số nam giới từ 15-49 tuổi sẽ dư thừa năm 2034 là 1,5 triệu người, năm 2059
là 2,5 triệu người. Nếu TSGTKS giảm nhanh và đạt mức bình thường vào năm 2039,
số nam giới từ 15-49 tuổi sẽ dư thừa vào năm 2034 là 1,5 triệu người, năm 2059 là 1,8
triệu người…”2. Với con số dự báo trên, tương lai nam giới ở Việt Nam rất có thể rơi
vào tình trạng không thể lấy vợ là nữ, xuất hiện hiện tượng ngược đãi phụ nữ, nguy cơ
tăng cao các tệ nạn xã hội... Cùng với xu thế hiện đại hiện nay, phụ nữ cũng đã xuất
hiện tư tưởng không muốn kết hôn.

Bên cạnh đó, dù kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong nền kinh tế quốc dân ở thời đại mới, đặc trưng của nó lại là nguyên nhân gây nên
trở ngại trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Cạnh tranh với các nước trong khu vực và
trên thế giới trở nên vô cùng khó khăn trong quá trình đưa các sản phẩm hàng hóa ra
thị trường.

53
1
Nguyễn Hồng Sâm (2020), Bức tranh tổng thể về thực trạng mức sinh ở Việt Nam, http://baochinhphu.vn/Doi-
song/Buc-tranh-tong-the-ve-thuc-trang-muc-sinh-o-Viet-Nam/397811.vgp, ngày truy cập 06/10/2021.
2
Ly Vũ (18/12/2020), Sau 30 năm, mức sinh của Việt Nam giảm gần một nửa, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-
hoi/sau-30-nam-muc-sinh-cua-viet-nam-giam-gan-mot-nua-628673/, ngày truy cập 06/10/2021.

54
Nếu muốn chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong
kinh tế thị trường hiện đại thì cần phải đề ra những giải pháp khắc phục tối ưu hơn.

Qua các năm, chức năng kinh tế, vai trò gia đình trong tổ chức lao động ở các
vùng nông thôn ngày càng bị hạn chế. Vấn nạn giảm sút nghiêm trọng những công
việc lao động truyền thống ở nông thôn, cũng như thiếu cả những nỗ lực của chính
quyền nhằm tạo ra công việc mới như một giải pháp thay thế đã dẫn đến hiện tượng
lao động nông thôn rời bỏ làng quê. Một tỷ lệ lớn những người trong độ tuổi lao động
bị dư thừa và đẩy đi tìm kiếm công việc ở bên ngoài, đi tới các khu công nghiệp hay ra
thành phố lớn vồn đã quá tải. “… Ở thành phố Hà Nội hiện nay, ước tính có khoảng
80-85.000 phụ nữ từ các vùng nông thôn ra làm nghề giúp việc gia đình…” 1. “…. Số
liệu điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2014 cho thấy: trong vòng 5 năm trước thời
điểm điều tra có 1,7% tương ứng với 1,4 triệu người dĩ cư trọng huyện; 2,0% tương
ứng 1,6 triệu người di cư giữa các huyện; 3,1% tương ứng 26 triệu người đĩ cư giữa
các tỉnh [ồ, tr40]. Trong hơn 5,6 triệu người từ 5 tuổi trở lên dĩ cự, thì có 29,0% dĩ cư
từ nông thôn đên thành thị, 28.8% di cư từ: nông thôn đến nông thôn, 30,1% là di cư
từ thành thị đền thành thị, 12,1% là dĩ cư từ thành thị đền nông thôn. Có hiện tượng
trẻ hóa trong di cự, tuôi di cư trung bình là 27 (dĩ cư khác huyện) và 25 (di cư khác
tỉnh) điều này làm suy giảm nguôn nhân lực ở các làng mạc hay thị trần nhỏ…” 2. Vai
trò của gia đình là đơn vị sản xuất do đó mà dần bị đánh mất, trong khi, vai trò là đơn
vị tiêu dùng ngày càng rõ ràng hơn. Điều này có thể dẫn đến lối sống của gia đình
được quyết định tùy thuộc vào công việc hay mức thu nhập của các thành viên trong
gia đình và tiêu chuẩn tiêu dùng của gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa
mãn sinh hoạt của gia đình. Đối với các gia đình ở nông thôn thì chức năng sản xuất và
chức năng tiêu dùng của gia đình không bị phân chia rạch ròi nhưng dưới cơ chế xã
hội lấy việc sản xuất phục vụ cho sự trao đổi thì việc xản xuất tự cung tự cấp của gia
đình cũng bị suy giảm. Mặt trái đem đến nữa là gia đỉnh khuyết thể hệ (chi có thể hệ
ông bà và cháu) và gia đình không đầy đủ (thiếu

1
ThS. Phan Thuận (04/07/2018), Chức năng gia đình và sự biến đổi từ tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng,
http://gopfp.gov.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=8404, ngày truy cập 06/10/2021.
2
Tổng Cục Thống Kê (2019), Thông cáo báo chí kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019,
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/,
55
ngày truy cập 06/10/2021.

56
vắng cha, mẹ hoặc cả hai, kéo theo sự tan vỡ của các gia đỉnh truyền thống, gia đỉnh
mở rộng tăng lên. Không chỉ vậy, thay đổi trong chức năng kinh tế của gia đình có thể
kéo theo sự thay đổi của các chức năng khác. Thích nghi với xã hội hiện đại, gia đình
thay đổi nhanh chóng không còn thực hiện nhiều chức năng như gia đình truyền thống,
các thành viên tham gia vào tất cả những chức năng của gia đình, nhưng với tư cách cá
nhân, không phải với tư cách thành viên gia đình.

Trong quá trình CNH - HĐH, tiêu chuẩn của việc dưỡng dục con cái đang tiếp
tục tăng theo. Sự quan tâm của cha mẹ đối với việc học của con cái cũng được thu hút,
tập trung cao hơn. Tuy nhiên, sự quan tâm này không giống nhau giữa các khu vực,
vùng, miền và dân tộc. Cha mẹ ở thành thị chăm lo đến việc học của con cao hơn so
với nông thôn. “…Tây Bắc là vùng có tỉ lệ cha mẹ ít quan tâm hơn so với các vùng còn
lại, người Hmông là dân tộc có tỉ lệ cha mẹ quan tâm tới việc học của con cái thấp
nhất. Ngoài ra cũng cần phải chú ý đến những dữ kiện sau: các nhóm cha mẹ có học
vấn cao và có thu nhập cao thì mức độ quan tâm đến việc học của con nhiều hơn và
trẻ em ở độ tuổi 7 - 14 thì nhận được sự quan tâm của cha mẹ đến việc học hơn là trẻ
em trong độ tuổi 15 – 17...”1. Có thể nói những thiếu sót từ phía gia đình trong việc
thực hiện chức năng giáo dục của gia đình được thể hiện qua việc lựa chọn phương
pháp quản lý, giáo dục không đúng, thiếu hiểu biết và kinh nghiệm trong cách thức
dạy con cái, thiếu trách nhiệm, ỷ lại cho nhà trường và xã hội, cũng như việc thiếu thời
gian dành cho giáo dục con. Chức năng xã hội hóa, vai trò gia đình trong việc nuôi dạy
con cái cũng bị suy giảm. Hiện tượng gia đình hạt nhân làm chặn đứng cơ hội truyền
thụ những hiểu biết về việc nuôi dạy con cái từ thế hệ ông bà cho thế hệ cha mẹ. Ở
thành phố, nhiều bậc phụ huynh có rất ít thời gian dành cho con cái, nhiều gia đình
phải phó mặc cho người giúp việc và thiết bị điện tử. Phần lớn các trường tiểu học và
trung học cơ sở đã tổ chức học bán trú cả ngày, nên trong gia đình hiện đại, việc học
hành, dạy dỗ con cái từ nhà trẻ, mẫu giáo trở lên gần như phó mặc cho nhà trường và
xã hội. Cha mẹ giao phó mà không hiểu rõ ở nhà trường vẫn xuất hiện tình trạng thiếu
trách nhiệm trong quản lý, giáo dục trẻ. Cũng có không ít gia đình tiếp thu những
phương pháp giáo dục cởi mở hơn với con trẻ, chỉ

1
Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Tổng cục Thống

57
kê, Viện Gia đình và Giới thuộc Viện KHXHVN và qũy nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) (2006). Mối quan
tâm của cha mẹ đối với con. Báo cáo điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, số 3 – tháng 6, trang 30

58
khuyên bảo, giải thích, thậm chí nuông chiều, chỉ cốt để con trẻ nhận thức được những
điều mà họ cho là đúng đắn. Thêm vào đó, tâm lí xem thường giáo dục đạo đức gia
đình ngày càng nhiều, tác động đáng kể tới sự phá vỡ nền tảng đạo đức gia đình. Tình
trạng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức và cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã
gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc cũng như hiệu quả giáo dục trong nhà trường và tại gia
đình rất đáng quan ngại khi sụt giảm ngày càng nhiều.

Xã hội tuy đã trở nên hiện đại nhưng vẫn tồn tại sự trừng phạt hay vũ lực để giáo
dục con với tỷ lệ khá lớn. Khi bậc phụ huynh làm như vậy đối với những mức độ khác
nhau sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh thần khác nhau. Còn quá
nhiều gia đình vẫn đang chật vật trong việc giáo dục con em mình. “…Có một tỷ lệ
không nhỏ các bậc cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của
con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc
lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 (SAVY
2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 - 17 cho biết đã bị người trong
gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia
đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc
lỗi trong 12 tháng trước khảo sát…”1. Khi truyền thống và kỷ cương nề nếp gia đình
bị nới lỏng, gia đình mất dần đi chức năng kiểm soát trẻ em, dễ sinh ra những hành vi
làm trái pháp luật hoặc có nguy cơ làm trái pháp luật ở trẻ. Những hiện trạng xấu trong
gia đình cứ tiếp diễn sẽ dẫn tới hành vi rối nhiễu, trầm cảm, tâm lý lệch lạc, phạm
pháp, gia tăng nhiều trẻ em lang thang, hư hỏng, rơi vào các tệ nạn xã hội… Về lâu
dài, nếu không khắc phục thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng đạo đức xã hội,
nhân cách con người Việt Nam hiện đại. “…Theo báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, tội phạm trẻ em bị phát hiện năm 1996 tăng gấp 2 lần so với năm 1990, gấp
3,2 lần so với năm 1986 (ủy ban Bảo vệ chăm sóc Trẻ em Việt Nam, 1999). Số trẻ em
phải đưa vào trường giáo dưỡng hằng năm cũng gia tăng. So sánh năm 1996 với năm
2002 thì số học sinh vào các trường giáo dưỡng đã tăng hơn 8 lần (Phạm Xuân Sơn,
2003). Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000 số trẻ em phạm pháp hình sự là
2.181 em, số trẻ em có dấu hiệu phạm pháp

1
Nguyễn Hữu Minh (2015), Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 –
59
tháng 3, trang 56.

60
là 5.421 em (Phạm Phương Thảo, 2000). ở Thành phố Hà Nội, từ năm 1995 đến tháng
3.2000 phát hiện có 3.820 em làm trái pháp luật, 999 em sử dụng chất gây nghiện, 113
em hoạt động mại dâm. Riêng từ năm 1999 tới tháng 3.2000, có 731 vụ với 1.009 em
chưa thành niên làm trái pháp luật, có 17.837 em làm trái pháp luật được giáo dục tại
cộng đồng, 976 em được đưa tới trường giáo dưỡng (ủy ban nhân dân Thành phố Hà
Nội, 2000). Trong phạm vi cả nước, năm 1999 có 14.346 trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi
làm trái pháp luật; 6 tháng đầu năm 2000 theo thống kê chưa đầy đủ có 11.538 trẻ em
làm trái pháp luật (Nguyễn Trọng Yên, 2001). Trong số trẻ em làm trái pháp luật, 30%
ở trong gia đình có bố mẹ nghiện ma túy, ham mê cờ bạc, 21% trong gia đình làm ăn
phi pháp, 8% có anh chị em có tiền án, tiền sự, 10,2% mồ côi cả cha lẫn mẹ, 32% mồ
côi bố hoặc mẹ, 7,3% có bố mẹ ly hôn, 49% bị gia đình chửi mắng đánh đập, 21%
được nuông chiều quá, 71% không được gia đình quản lý chăm sóc đúng mức (Nguyễn
Quang Vinh, 1996)…”1.

Tiếp theo phải kể đến là sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo. Tình trạng kẻ
giàu người nghèo tiếp tục diễn ra sâu sắc, nhiều trẻ em trong các gia đình nghèo bị thất
học, phải rời xa gia đình lao động giúp việc cho gia đình khá giả khác, phải làm việc
nặng nhọc... dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cả về mối liên hệ tình cảm cha mẹ - con
cái, không được tiếp nhận hoặc tiếp nhận không đầy đủ sự giáo dục của gia đình. Tuy
nhiên, không chỉ ở các gia đình neo đơn, đang gặp khó khăn về kinh tế, mà ngay cả ở
những gia đình “ăn nên làm ra” thì thiếu vắng sự chăm sóc, giáo dục của các bậc cha
mẹ đối với con cái, dù họ vẫn sống cùng nhà với các con vẫn hiện diện. Ngoài ra, cơ
may cho một số hộ gia đình xuất hiện, tăng thêm thu nhập, đất đai, mở rộng quy mô
sản suất, tư liệu sản xuất... khiến họ trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình
trở thành lao động làm thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất và các tư
sản xuất khác, không có khả năng tích lũy tài sản, mở rộng sản xuất. Những con số
thông kê thực tế giai đoạn 2008 – 2018 về thu nhập bình quân đầu người/tháng phân
theo 5 nhóm thu nhập của Việt Nam đã chứng tỏ một phần rằng gia đình Việt Nam ở
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội có sự chênh lệch giàu nghèo khá cao: “…thu nhập
ở cả thành thị và

1
TS. Lê Ngọc Văn (13/05/2021), Vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay,

61
https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/vai-net-ve-thuc-trang-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-p24518.html, ngày truy
cập 07/10/2021.

62
nông thôn đều có xu hướng tăng, hệ số chênh lệch giữa hai khu vực này đang có xu
hướng giảm xuống. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 (giàu nhất) và nhóm 1 (nghèo
nhất) ở thành thị thấp nhất là 7,41 lần và cao nhất là 8,28 lần và có xu hướng ngày
càng giảm; ở khu vực nông thôn thấp nhất là 6,91 lần và cao nhất là 9 lần và sự chênh
lệch này có xu hướng tăng lên. Ở khu vực nông thôn, khi kinh tế ngày càng phát triển,
sự thay đổi về cơ cấu lao động trong các ngành nghề ở khu vực này ngày càng lớn dẫn
đến khoảng cách thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ngày càng lớn. Số lần chênh lệch
thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở khu vực thành thị có xu hướng giảm, ở nông thôn
có xu hướng tăng, cho thấy mức bất bình đẳng thu nhập trong khu vực nông thôn cao
hơn khu vực thành thị khi nền kinh tế phát triển...”1.

Các chức năng vốn có của gia đình đang dần bị “tước đoạt” khi ngàng dịch vụ xã
hội cứ thế phát triển. Ở gia đình hiện đai, chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình
cảm của mỗi cá nhân trở nên hết sức trọng yếu mà không thiết chế xã hội nào gánh vác
có hiệu quả Tuy nhiên trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối
mặt với những thách thức, biến đổi lớn. Rất nhiều mặt trái gia đình Việt đang phải
gánh chịu như: quan hệ vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân,
ngoại tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết
hôn… Một ví dụ cụ thể là hiện tượng ngoại tình, ly thân, ly hôn ở nước ta những năm
qua có tốc độ tăng quá nhanh chính là hệ quả của những kỳ vọng ấy. Dù họ biết con trẻ
sẽ bị thiệt thòi khi gia đình tan vỡ, nhưng hạnh phúc lứa đôi là điều được đề cao hơn cả
trong xã hội ngày nay, hạnh phúc không còn đồng nghĩa với việc họ sẽ quyết liệt chia
tay. Đặc biệt xuất hiện ở nhiều gia đình trẻ, nhiều cặp vợ chồng vừa kết hôn xong đã
vội vã chia tay. Trong nhiều lý do dẫn đến việc ly hôn của các ông bố bà mẹ trẻ, thật
ngạc nhiên khi có những lý do hết sức đơn giản như xuất phát từ một cuộc cãi cọ, hay
không thích thì chia tay. Đáng chú ý, một tỷ lệ khá lớn trong số những người chủ động
ly hôn là phụ nữ - đặc biệt những người có khả năng độc lập về kinh tế. Biết bao giá trị
truyền thống của gia đình đã bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay
và hiện tượng gia tăng

1
TS.Nguyễn Thị Thái Hưng (12/07/2020), Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến
63
nghị, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/bat-binh-dang-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-khuyen-
nghi-73240.htm, ngày truy cập 07/10/2021.

64
số hộ gia đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú…Tâm lý
đại đa số người trong xã hội cảm thấy hôn nhân hiện đại thật khó khăn.

Bình đẳng giới cũng đang là một vấn đề nhức nhối. Công cuộc bình đẳng giới
ngoài xã hội đã chẳng dễ dàng, thì bình đẳng trong gia đình lại càng khó hơn. Đàn ông
vẫn còn nhiều người bị sốc với lối văn hóa mới “sao đổi ngôi”, họ đôi lúc mất tự tin,
mất uy quyền hay sợ vợ con coi thường là điều dễ gặp. Có người đánh vợ, đánh con
hoặc sa đà vào rượu chè. Ở một góc khác, bản thân người phụ nữ ngày nay, dù hãnh
diện về sự tiến bộ, về những đóng góp to lớn cho gia đình vẫn kèm theo một nỗi ấm
ức. Con người không chỉ mong muốn được tôn trọng, đối xử bình đẳng mà còn cần sự
đồng cảm, sẻ chia hiểu biết, cảm xúc, sở thích và đặc biệt sự hoà hợp trong đời sống
tình dục vợ chồng. Vì vậy, ngoài chữ nhẫn học được từ truyền thống, các thành viên
của gia đình hiện đại còn phải có năng lực làm mới đời sống hôn nhân.

Biến đổi theo hướng cá tính hoá ngày càng sâu sắc là đặc trưng của mọi quan hệ
trong gia đình hiện đại đang diễn ra. Ở đó, vai trò người này được định nghĩa qua
người kia, quyền lợi người này nằm trong lợi ích người khác. Cũng chính vì vậy, hạnh
phúc hay bất hạnh ở mỗi ngôi nhà không tạo nên bởi công lao hay lầm lỗi của riêng ai,
mà phụ thuộc vào sự chung tay giữ gìn hay phá huỷ của tất cả các thành viên cùng
chung sống. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì chuyện tình cảm từ đây
giữa các gia đình sống thuần tuý ở nông thôn, ở vùng ven và gia đình sống ở đô thị
cũng có sự khác biệt. Đối với gia đình nông dân, thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình cảm
thường chỉ bao hàm vợ chồng sống chung thuỷ, có trách nhiệm và con cái chăm chỉ,
hiếu thảo. Trong lúc đó đô thị, nhu cầu này khá phức tạp. Những đứa con không chỉ
cần sự yêu thương chăm sóc mà còn mong tìm thấy “người bạn lớn” tin cậy ở các bậc
phụ huynh. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ còn một con
tăng lên thì đời sống tâm lý- tình cảm của nhiều trẻ em và cả người lớn cũng sẽ kém
phong phú hơn. Không chỉ thế, cuộc sống gia đình luôn có nguy cơ cũ đi, mất sức hấp
dẫn. Đối với người cao tuổi, sự biến đổi trong gia đình Việt Nam đã đẩy người cao
tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm. Họ luôn có nguy cơ bị đưa vào
viện dưỡng lão, trung tâm hay các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chứ không nhận được
nhiều sự quan tâm của người thân nữa. Đại bộ phận con cái có sự thăm nom, chăm sóc

65
thường xuyên về mặt tinh thần

66
đối với người cao tuổi. Trong cuộc sống, những lúc buồn, vui, người cao tuổi chủ yếu
chia sẻ với người thân của mình trong gia đình. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận con
cháu mới chỉ quan tâm đến đời sống vật chất của các cụ, còn cuộc sống tinh thần thì bỏ
bê. Đặc biệt cần quan tâm là một bộ phận người cao tuổi đang phải trải qua các hành vi
bạo lực về thể chất, tinh thần và kinh tế do con cháu gây ra. Hiện tượng bạo lực đối với
người cao tuổi gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với người cao tuổi và gia đình,
xã hội. Nhiều người cao tuổi sẽ phải sống một mình và tự chăm sóc cho bản thân, phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn về tài chính và bệnh tật.

Sau cùng thì những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất
đặt ra cho gia đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ. Thực tế cho thấy những
yếu tồ này sẽ làm cho các cá nhân cảm thấy gò bó mất tự do khi cùng chung sống với
nhau, cuộc sống của gia đình luôn đặt trong tình trạng căng thẳng. Kết quả dẫn đến sự
khó hòa hợp về lối sống, đôi khi có thể dẫn đến những sự va chạm, bất đồng, khiến
cho những người trẻ cảm thấy không thoải mái, không thể tự mình quyết định các vấn
đề riêng mà phải thông qua ý kiến những người lớn tuổi. Trong khi đó, vẫn có các
trường hợp ngoại lệ là lớp trẻ trở nên độc lập hơn, cái tôi cá nhân phát triển hơn, họ
muốn được tự do nói lên những suy nghĩ của mình, tiếp thu những giá trị hiện đại. Lẽ
tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích cực, tốt đẹp, khó
tránh được có những cái không phù hợp với truyền thống, bởi vậy cần tiếp thu có chọn
lọc. Việc những xung đột thế hệ ngày càng trở nên phổ biến làm cho gia đình truyền
thống cũng dần mất đi và đến bây giờ chỉ còn tồn tại với số lượng rất ít.

2.2.4. Nguyên nhân

Đầu tiên, do cấu trúc gia đình Việt Nam ngày nay cũng đang tất yếu “hiện đại
hóa” hơn, với quy mô ngày càng thu nhỏ là gia đình “hạt nhân”. Số lượng thành viên ít
hơn so với gia đình mở rộng, không còn sống chung nhiều người mà sống tách biệt
làm cho sự tiếp xúc gặp mặt các thành viên cách xa thế hệ nhau, họ hàng không còn
nhiều. Khi thành viên nào gặp khó khăn, bệnh tật sẽ rất khó khăn để những người còn
lại hỗ trợ kịp thời, đôi khi gây nên tâm lý cô đơn hay mối nguy hiểm về tính mạng
không lường trước được. Trước kia, ông bà cận kề con cháu nên việc chỉ dạy được

67
theo sát hơn, đạo đức

68
con người Việt Nam cũng như nghề truyền thống của gia đình có cơ hội được tiếp
nhận hoàn toàn cao hơn. Hơn nữa, vì đồng tiền mưu sinh, ba mẹ cứ mãi loay hoay
kiếm sống, lơ là việc chăm lo trẻ nhỏ, người già trong nhà. Thời gian dành cho gia
đình cứ dần ít hơn bao giờ hết. Việc chi trả phí sinh hoạt và vô số những khoản khác
đè nặng lên vai những người trụ cột kinh tế trong gia đình, tạo nên áp lực cực kì lớn.

Về vấn đề sinh sản, do chi phí sinh vô cùng lớn và quá trình nuôi dưỡng 1 đứa trẻ
khi chưa đảm bảo kinh tế sẽ khiến cho các gia đình trẻ chật vât ở giai đoạn hiện nay,
cho nên những cặp vợ chồng Việt Nam hay có tâm lý quan ngại không muốn có con.
Hoặc đối với người muốn sinh thì họ quyết sẽ sinh ít bởi “chất lượng hơn số lượng”.
Mặt khác, người phụ nữ hay là người đàn ông trưởng thành đến tuổi lập gia đình sinh
con vẫn đang trên con đường xây dựng sự nghiệp và hoàn thiện bản thân. Họ vẫn chưa
muốn ổn định lại, vẫn đang còn suy nghĩ cho bản thân chứ chưa dành cho gia đình và
dẫn đến việc kết hôn trễ.. Cho nên nước ta đang có xu hướng già hóa dân số những
năm gần đây làm xuất hiện khẩu hiệu quen thuộc “sinh đủ 2 con”. Ngoài ra, “trọng
nam khinh nữ” ở Việt Nam đã có dấu hiệu suy giảm đáng kể nhưng tư tưởng truyền
thống đó đã ăn sâu vào trong tâm trí người Việt quá lâu, sinh con trai để nối dõi tông
đường, có người thờ phụng ông bà tổ tiên. Điều này giải thích cho viêc mất cân bằng
giới tính hiện nay.

Nhắc tới khía cạnh kinh tế gia đình, bản thân nền kinh tế này phần lớn có quy mô
nhỏ, lao động ít và tự sản xuất nên mới dễ gặp trở ngại khi cạnh tranh ra bên ngoài.
Một nguyên nhân nằm trong lĩnh vực kinh tế gia đình nữa là sự tăng dân số. Dân số
Việt Nam vượt ngưỡng 90 triệu người đầu thế kỉ 21, điều kiện dân số ngày càng đông
đi đôi với đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp. Phát sinh ra việc di dân, sản xuất lúc
này tách rời khỏi nhà ở, các thành viên gia đình rời nhà đi làm để kiếm thu nhập mua
các hàng hóa mà trước kia gia đình có thể sản xuất được. CNH – HĐH lên một tầm
cao mới trong tương lai dễ kéo theo nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề tăng cao,
suy ra đòi hỏi nguồn nhân lực phải đáp ứng đầy đủ các tư chất cần thiết. Thêm vào đó,
sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đã làm tăng kì vọng xã hội đối với tiêu chuẩn chất
lượng của việc dưỡng dục con cái. Khi nói có sự chênh lệch việc quan tâm học tập của
con, chung quy là do ở các vùng thôn quê, nhiều bậc cha mẹ phải đi làm ăn xa nên

69
việc nuôi dạy con cái thường phải dựa vào ông bà, bà con họ hàng hay thậm chí con
cái họ phải tự lo cuộc

70
sống hàng ngày. Điều quan trọng ở đây cần biết gia đình được xác định là nguyên
nhân đầu tiên và chủ yếu bởi môi trường sống trong gia đình có tác động đầu tiên và
ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của trẻ em. Ta thấy được xã hội
biến đổi nhanh chóng, trong gia đình đang nảy sinh nhiều xáo trộn trong chức năng
dưỡng dục con cái và xã hội hóa. Họ thể hiện những biểu hiện lúng túng, sai sót đáng
tiếc khi chưa thích nghi được với nhịp sống hiện đại, lúng túng trong cách giáo dục
con cái. Nhà trường và gia đình có phương pháp dạy chưa đúng, nội dung giáo dục đạo
đức chỉ ở mức chung chung…Thế hệ trẻ mới lập gia đình cho dù có nhận được sự giúp
đỡ của bố mẹ nhưng họ vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ, xung quanh việc nuôi dạy
con cái vì giới trẻ ngày nay trông cậy vào tri thức khoa học và chuyên môn hơn là dựa
vào sự hiểu biết của thế hệ cha mẹ. Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở nước ta trong
thời kỳ hội nhập đưa ra những chính sách chưa thực sự đồng bộ, và những ảnh hưởng
tiêu cực,…khiến hiệu quả giáo dục đi xuống ở trường và ở nhà. Nguyên nhân tiếp theo
là những tác động tích cực của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa, chúng tạo ra những
ngành nghề mới, thể loại kinh doanh gia đình mới. Nếu gia đình nào nắm bắt cơ hội
nhanh chóng thì sẽ có thêm của cải, nhưng phần lớn dân ta là người lao động đi làm
thuê, chưa thể tiếp cận kịp thời với máy móc, thiết bị có công nghệ hiện đại sẽ dần bị
thụt lùi. Cho nên mới có sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc.

Trong thời gian qua, tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện
đại, toàn cầu hóa… một phần đẩy mạnh các dịch vụ xã hội phát triển vượt bậc, ví dụ
như tâm sự qua điện thoại hoặc chia sẻ tâm tư qua tin nhắn,..với sự thú vị, mới lạ.
Những điều đó đã gây ra việc gánh chịu mặt trái trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
Hôn nhân ở giới trẻ đổ vỡ nhanh và nhiều vì nhận thức về hạnh phúc gia đình của họ
chưa thực sự đúng đắn. Còn thêm hiện tượng ngoại tình có thể có nhiều nguyên nhân
nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu vẫn do con người đã đặt nhiều kỳ vọng vào chức
năng tâm sinh lý, tình cảm của gia đình, nhưng họ lại thiếu thời gian và công sức đóng
góp vào việc thực hiện nó. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, trẻ em
sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục…Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống
hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều, sinh con ngoài giá
thú…).

71
Thực hiện nam nữ bình đẳng, đặc biệt là trong gia đình trong thực tế khó bởi nó
vốn là lô cốt cố thủ của quyền uy gia trưởng và tư tưởng trọng nam khinh nữ. Người
dân Việt Nam được truyền thụ qua nhiều thế hệ, cả bằng ý thức và vô thức, những
khuôn mẫu mang tính định kiến về giới. Đàn ông phải thế này, đàn bà phải thế kia. Có
không ít người đàn ông tự hào với việc “xuống Đông - Đông tĩnh, lên Đoài - Đoài
yên” nhưng bên trong ai hiểu được, họ cảm thấy mệt mỏi vì phải “gồng lên”, theo kịp
những chuẩn mực nam tính, như phải mạnh mẽ, phải quyết đoán và nhất là đủ sức làm
trụ cột kinh tế. Khi không đạt được chuẩn mực “như người ta nói”, người đàn ông hay
có cách xử sự biến chất cũng để che dấu mặc cảm này. Vì không được nhờ chồng là lí
do cho việc người phụ nữ thấy ấm ức dù hãnh diện về sự tiến bộ, về những đóng góp
to lớn cho gia đình. Họ kém cỏi có thể bị chồng chê nhưng định kiến giới cũng khiến
bao nhiêu người phụ nữ thành đạt không có hạnh phúc. Bên cạnh đó, có lẽ do họ quá
thất vọng về người chồng “thiếu chuẩn mực nam tính” hoặc chính chồng họ lại đi tìm
một người đàn bà khác yếu đuối hơn để thể hiện mình.

Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì chuyện tình cảm có
một số tác động xấu vì ai cũng ý thức được quyền lợi của mình, đặc biệt quyền có một
mảnh trời riêng. Nhưng cường điệu quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ một cộng đồng
người vốn tồn tại được nhờ tình yêu thương. Không chỉ thế, do đặc điểm giao tiếp rộng
rãi, do sự phát triển cá tính ngày càng sâu sắc nên cuộc sống gia đình bị tẻ nhạt, cũ đi.
Với nguyên nhân thiếu về tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia đình mà đời
sống tâm lý, tình cảm của nhiều trẻ em và người lớn cũng kém phong phú hơn. Nói cụ
thể hơn về người cao tuổi, trước đây họ được sống cùng với con cháu, được chăm sóc
khi ốm đau bệnh tật, vì vậy mà nhu cầu về tâm sinh lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ.
Điều đó lí giải vì sao ngày nay người già lại đối mặt với nhiều mặt trái. Một bộ phận
con cháu mới chỉ quan tâm đến đời sống vật chất của các cụ, còn cuộc sống tinh thần
thì bỏ bê. Lý do chính là con cháu thiếu thời gian, không sẵn sàng lắng nghe và giữa
hai bên thiếu sự quan tâm chung. Đáng tiếc hơn có cả những hành vị bạo lực với người
cao tuổi, các nguyên nhân chủ yếu góp phần dung dưỡng các hành vi đó là sự tôn thờ
giá trị đồng tiền ở một số người, sự khác biệt về lối sống và sự thiếu quan tâm của các
cấp chính quyền đoàn thể đối với mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Trước
đây người cao tuổi
72
thường sống chung với con cháu trong gia đình mở rộng và điều này đã trở thành thứ
bản sắc riêng ở các gia đình Việt Nam. Việc chăm sóc của con cái đặc biệt có ý nghĩa
về mặt tinh thần đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, hệ thống trợ giúp của gia đình cho
người cao tuổi trong tương lai gần sẽ gặp những trở ngại do những biến động của quy
mô dân số và xu thế hạt nhân hóa gia đình. Việc giảm số con trong gia đình sẽ làm
giảm nguồn hỗ trợ cho cha mẹ khi tuổi già. Sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao
động xã hội, nhiều thanh niên di cư tìm kiếm việc làm khiến cho người cao tuổi càng
cô đơn và thiếu nơi nương tựa.

Trong biến đổi quan hệ gia đình, mâu thuẫn diễn ra do có sự khác biệt về tuổi tác,
tư tưởng, quan niệm, lối sống Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, do
vậy họ có xu hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức và cách nghĩ của mình đối với những
người trẻ. Đồng thời, lớp trẻ do tiếp cận nhiều hơn với các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
các trào lưu văn hóa mới từ nước ngoài nên hướng tới thay đổi về suy nghĩ và nhận
thức, Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của người già thì cảm thấy khó chịu, cho rằng
những người già là cổ hủ, lạc hậu, thích dạy bảo. Sự chênh nhau về thế hệ này khiến
cho xu hướng tách ra ở riêng tăng cao, khi đó mỗi cá nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu
tự do của riêng mình, có thể hành động theo ý muốn của bản thân. Vợ chồng ít quan
tâm đến nhau hơn, anh em ít gần nhau hơn. Nhiều mâu thuẫn cha mẹ con cái, anh em
xảy ra chỉ vì miếng đất, tiền bạc hay quyền lợi kinh tế.

Cuối cùng, đâu chỉ có gia đình mà pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng nên
cũng phải chịu một phần trách nhiệm cho những mặt tối trên. Bởi lẽ, pháp luật là một
trong các cơ sở hình thành nên đạo đức gia đình. Đối với cá nhân, thiếu hiểu biết pháp
luật dẫn đến người phạm pháp không hiểu hành vi của mình là phạm tội, người bị hại
lại cam chịu cho rằng đó là số phận, ngay cả người biết luật nhưng cố tình không thực
hiện. Trong khi đó, ở bộ máy quản lý, nhận thức, năng lực của cán bộ và nhân dân còn
hạn chế, khả năng sử dụng hệ thống pháp luật chưa được kiện toàn mang tính chuyên
nghiệp. Những biểu hiện này cho thấy pháp luật đang lỏng lẻo, cần phải được khắc
phục nhanh chóng, giúp giảm bớt nguy cơ xảy ra các vấn nạn đau lòng của xã hội. Đối
với khuyết điểm của tình hình luật pháp gây nên những ảnh hưởng xấu, TS. Chu Thị
Hoa đã đưa ra nhận xét: “…khi mà hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng và

73
hoàn thiện một

74
cách cơ bản, thì việc thi hành pháp luật lại còn nhiều khiếm khuyết, làm giảm hiệu lực
thực tế của các văn bản pháp luật và hiện trở thành mối quan tâm sâu sắc của xã hội.
Tình trạng vi phạm pháp luật, tình trạng né tránh pháp luật, lợi dụng pháp luật đang
diễn ra khá phổ biến cả trong xã hội lẫn trong các cơ quan nhà nước, thậm chí trong
cả các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc thực hiện pháp luật không nghiêm đã khiến
lòng tin của nhân dân đối với tính thượng tôn của pháp luật, đối với hệ thống cơ quan
nhà nước, nhất là cơ quan quản lý hành chính và cơ quan tư pháp suy giảm nghiêm
trọng. Luật ban hành nhiều song không được triển khai thi hành hoặc thi hành không
đầy đủ, không nghiêm chỉnh đang là thực tiễn đáng lo ngại hiện nay. Điều này cũng
phản ánh sự cắt khúc giữa xây dựng, hoàn thiện pháp luật với thi hành pháp luật…”1.

2.3. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về
xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam.

Tăng cường công tác tuyên truyền, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành và cộng đồng về vị trí, vai trò của gia đình trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc. Đề cao tính chủ động và trách nhiệm tham gia của từng sở, ngành, đoàn thể đối
với việc thực hiện các nhiệm vụ công tác, việc hỗ trợ, xây dựng, phát triển gia đình,
việc thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến lĩnh vực gia đình thuộc phạm vi trách nhiệm
của các sở, ngành, đoàn thể, địa phương. Đẩy mạnh việc tổ chức, chỉ đạo, quản lý,
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến gia đình, bảo đảm cho
các gia đình được tiếp cận đầy đủ các chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước liên
quan đến gia đình. Về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các gia đình, các cơ quan,
những người thi hành công vụ liên quan đến gia đình để bảo đảm, thúc đẩy việc thực
hiện chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình.
Trong đó, tập trung tuyên truyền về Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng chống
bạo lực gia đình, Luật

1
TS. Chu Thị Hoa. (21/11/2019), Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp

75
luật ở VN hiện nay, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2516, ngày truy cập
07/10/2021.

76
bình đẳng giới... Đồng thời, tiếp tục phát động phong trào thi đua “Xây dựng gia đình
ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “Toàn dân 5 đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân tích cực xây dựng nông thôn mới”.

Đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp
luật về hôn nhân và gia đình; các chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình; kiến thức, kỹ
năng xây dựng gia đình; các rủi ro đối với gia đình, giúp người dân chủ động phòng
ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình.. Huy động sự tham gia của cộng đồng dân
cư, các tổ chức xã hội, các dòng họ, gia đình, cá nhân vào việc hỗ trợ hoặc tạo điều
kiện giúp cho các gia đình nâng cao nhận thức và có thêm cơ hội, điều kiện tham gia
vào các hoạt động xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, , tích cực đóng góp
cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Khi công tác tuyên truyền và giáo dục
được phát huy thì ý thức của cộng đồng sẽ ngày càng nâng lên và việc xây dựng gia
đình mới sẽ dễ dàng hơn. Bởi, khi thực hiện sẽ giúp nâng cao nhận thức của mọi thành
viên trong gia đình và xã hội về vị trí, vai trò của gia đình và những giá trị tích cực của
đạo đức văn hóa gia đình truyền thống, làm cho mọi người hiểu rõ gia đình là cái tồn
tại bền vững trong mọi hình thái kinh tế - xã hội, là một tế bào của xã hội, gia đình
phải mãi mãi là cái nôi nuôi dưỡng, bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn con người từ nhỏ
đến lúc trưởng thành. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và sự chỉ đạo của
chính quyền các cấp và sự phối hợp chặt chẽ của Măt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân đối với công tác gia đình. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp cần xác định
công tác gia đình là một trong những nội dung quan trọng trong các kế hoạch và
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt xem đây là nhiệm vụ
thường xuyên. Ở mặt pháp luật, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực và tính chuyên
nghiệp của đội ngũ công chức. Ngoài ra còn phải luôn đề cao đổi mới và nâng cao hiệu
quả cơ chế phối hợp của cả hệ thống chính trị trong hoạt động tổ chức thi hành pháp
luật. Đẩy mạnh thực hiện xây dựng, ban hành cũng như áp dụng thống nhất những tiêu
chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật trong hệ thống quản lý chất lượng hoạt động
tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.

Xây dựng dữ liệu số quốc gia về gia đình làm cơ sở cho việc hoạch định chính
sách, chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu

77
khoa học về gia đình; hoạch định, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách về gia
đình; sáng tác các tác phẩm văn học-nghệ thuật về chủ đề gia đình. Tiếp theo, phổ biến
kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người dân Việt Nam đang ủng hộ tới các
nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản lý nhà nước về gia đình. Chỉ khi làm như
thế mới giúp giữ gìn, phát huy và định hướng dư luận xã hội cho các giá trị gia đình
trong thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì ta làm như vậy mới nắm rõ
được thực tế các giá trị của gia đình hiện nay, đặc biệt là những khác biệt xã hội về giá
trị gia đình thuộc các mức hiện đại hóa khác nhau, trong các bối cảnh văn hóa khác
nhau. Đồng thời, xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ
mới, hướng tới xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam thịnh vượng, tiến bộ, hạnh
phúc và văn minh.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế
hộ gia đình.

Công nghiệp hóa cần tạo cơ hội công bằng để tất cả các hộ gia đình ở mọi vùng,
miền, tất cả các dân tộc, khu vực thành thị và nông thôn, nhóm hộ giàu và hộ nghèo
đều có thể tham gia vào quá trình phát triển. Quan điểm này cũng phù hợp với mục
tiêu tăng trưởng toàn diện mà Việt Nam đang hướng tới, đó là “không ai bị bỏ lại phía
sau” trong quá trình phát triển. Cần nắm bắt đúng xu hướng biến đổi chức năng kinh tế
của gia đình để có những chính sách phù hợp, thúc đẩy những yếu tố tích cực và giảm
thiểu những yếu tố tác động tiêu cực tới chức năng kinh tế gia đình. Ngoài ra, tiếp tục
triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua; tôn vinh các gia đình làm ăn kinh tế giỏi,
gia đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh.

Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản đối với gia đình, hỗ trợ gia
đình phát triển bền vững, hạnh phúc và thực hiện bình đẳng giới. Huy động các cá
nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ gia đình và chăm lo giúp
đỡ, hỗ trợ các gia đình nghèo, khó khăn; bảo đảm gia đình được tiếp cận dịch vụ xã
hội cơ bản công bằng, bình đẳng, thuận lợi. Có thể thấy, hiện nay vấn đề tài chính cho
an sinh xã hội với ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phát huy sự tham gia đóng
góp của doanh nghiệp, người dân và cộng đồng xã hội đã làm tốt thì cứ tiếp tục quan
tâm, theo sát. Cần ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình như tạo điều kiện cho các

78
hộ gia đình dễ dàng vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm xóa đói giảm nghèo, vươn lên
làm giàu chính

79
đáng, Cộng thêm việc quan tâm giải quyết tốt các chính sách gia đình đối với gia đình
chính sách, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó
khăn, gia đình các dân tộc thiểu số,gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa,.. Bảo
đảm cho mỗi gia đình có đủ điều kiện vật chất để nuôi dưỡng và cho con cái được học
hành đến nơi đến chốn, được chăm sóc sức khỏe cả thể chất và tinh thần. Giải quyết
từng bước các điều kiện tồn tại của gia đình như nhà ở, việc làm, đồng thời xây dựng
các quan hệ ứng xử sao cho thích hợp với mọi lứa tuổi, với vai trò và trách nhiệm của
mỗi thành viên.Trong đó, cần ưu tiên, tạo điều kiện để các gia đình khu vực nông thôn,
miền núi, khu vực đặc biệt khó khăn nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.

Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội lấy gia đình là trọng tâm, đẩy
mạnh các chương trình phát triển kinh tế gia đình. Tích cực khai thác, khuyến khích
các thành viên trong gia đình hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh cũng như
trong cuộc sống nhằm duy trì giá trị truyền thống gắn kết giữa các thành viên trong gia
đình Việt Nam. Khi kinh tế ổn định, gia đình không chỉ thực hiện tốt các chức năng
khác, mà còn là tế bào “lành mạnh” cho xã hội.

Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại và gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.

Xây dựng gia đình văn hóa mới cần nối tiếp các giá trị văn hoá, đạo đức, nếp
sống truyền thống tốt đẹp. Nhớ ơn bố mẹ, kính trọng ông bà, thương yêu con cháu, vợ
chồng hòa thuận, lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy
chung, hiếu nghĩa, hiếu học… là những tình cảm tự nhiên vốn có phải được giữ gìn,
củng cố và phát huy mạnh mẽ. Song song đó, nhận diện, đẩy lùi những tư tưởng, quan
niệm đã trở nên bất cập, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của cá nhân, gia đình như tư
tưởng trọng nam khinh nữ, sự áp đặt của thế hệ đi trước, sự gia trưởng, tính bè phái địa
phương, thói quen dựa dẫm, bao bọc... là việc làm cần thiết, có ý nghĩa. Ta thấy rằng
những gì tiếp thu của gia đình quá khứ đều nhằm bổ sung và làm phong phú thêm cho
gia đình hiện đại mới.

Ở một khía cạnh khác, gia đình còn liên quan và chịu ảnh hưởng của tình hình
quốc tế, nhất là ngày nay, khi có những phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng
giao lưu quốc tế. Nhiều hiện tượng tiêu cực khắp các châu lục đang diễn ra, những lo
80
lắng cho mọi người và tác hại đến sự phát triển gia đình lành mạnh của gia đình ở
nhiều quốc gia, như tính thực dụng trong tình yêu, quan hệ tình dục phóng đãng…
nhưng, xã hội mới cũng mang lại nhiều nội dung tiến bộ đến cho gia đình như: dân chủ
hóa các quan hệ trong gia đình, sự tôn trọng nhân cách của các thành viên khác, hiện
đại hóa nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình, cộng đồng hổ trợ gia đình phát
triển, hình thức gia đình hạt nhân tăng lên, thu hẹp quy mô gia đình …Trong đó, một
góc nhỏ có sự cần thiết của việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự
thoát khỏi các định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân, hướng phụ nữ tới
những giá trị được tôn trọng, được hạnh phúc, được thể hiện bản thân, đồng thời đóng
góp tốt cho xã hội. Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, có hệ thống dịch vụ hỗ
trợ (ví dụ như hệ thống nhà trẻ chăm sóc ban ngày…), giúp phụ nữ sẵn sàng và thuận
lợi hơn trong việc tham gia xã hội.

Để xây dựng gia đình mới phải ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, mạnh dạn
lựa chọn và xử lý đúng đắn những yếu tố mới nãy sinh. Quan trọng hơn, mở rộng giao
lưu, hợp tác, không ngừng tiếp thu, bổ sung những giá trị mới, tiến bộ thông qua quá
trình giao lưu học hỏi với các nước trong khu vực và quốc tế trên cơ sở, nền tảng của
những giá trị văn hóa truyền thống. Điển hình đó là tinh thần dân chủ, tự do trong sáng
tạo, tôn trọng quyền con người, lối sống văn minh theo pháp luật, gắn trách nhiệm cá
nhân với cộng đồng, xã hội, thực thi tốt kỷ luật, kỷ cương,..Trong khi đó, trang bị tinh
thần chủ động, có tri thức, bản lĩnh, kinh nghiệm sẽ giúp dễ ứng phó với những tình
huống mới, phức tạp nảy sinh. gia tăng sức mạnh và khả năng thích ứng của mỗi cá
nhân, mỗi gia đình trước những biến động của thời đại.

Ngăn chặn sự xâm lấn của văn hóa không lành mạnh, lối sống ngoại lai. Xử lý
và tiếp thu những vấn đề của thời đại không phải là cách tân đơn giản mà phải phù hợp
với truyền thống của dân tộc, của gia đình và sự phát triển chung của xã hội.. Trong
gia đình mọi thành viên cần phải dựa vào nhau, an ủi, khuyến khích, động viên nhau,
sẻ chia với nhau mọi nỗi đau buồn và niềm vui sướng. Nâng cao tinh thần, ý thức trách
nhiệm của mỗi thành viên gia đình trong xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ,
văn minh. Phát huy tinh thần gương mẫu của các thế hệ đi trước, những tấm gương
sáng về đạo đức, tri thức của ông bà, cha mẹ trong giáo dục dạy bảo con cháu. Định
hướng năng lực
81
thẩm mỹ, hướng thế hệ trẻ đến những điều tốt đẹp của chân, thiện, mỹ thông qua các
phương tiện truyền thông, các xuất bản phẩm, các chương trình văn hóa, văn nghệ,
giáo dục đào tạo. Tóm lại, tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình
thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.

Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình
văn hóa.

Gia đình văn hóa là một mô hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay là chỉ tiêu
mà nhiều gia đình Việt Nam mong muốn hướng đến. Đó là, gia đình ấm no, hòa thuận,
tiến bộ, khỏe mạnh và hạnh phúc; Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; Thực hiện kế
hoạch hóa gia đình; Đoàn kết tương tương trợ trong cộng đồng dân cư. Thực hiện hôn
nhân tiến bộ trên cơ sở tình yêu chân chính và tự nguyện, xây dựng gia đình dân chủ,
bình đẳng, hòa thuận, yêu thương và chia sẻ. Tăng cường vai trò của giáo dục gia đình
trong giáo dục đạo đức gia đình thì sự phối hợp giữa giáo dục gia đình với việc hỗ trợ
của cộng đồng và nhà trường là hết sức cần thiết. làm bàn đạp để tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam thời kỳ mới. Bậc phụ huynh
cần xem xét hoàn cảnh gia đình và điều chỉnh cách ứng xử sao cho phù hợp của các
thành viên trong gia đình (đặc biệt giữa cha mẹ và con cái) để có những hoạt động giáo
dục hợp lý, hiệu quả hơn. Đặc biệt, ở giai đoạn thiếu niên đòi hỏi sự quan tâm nhiều
hơn từ phía gia đình, xã hội để định hình & phát triển nhân cách. Cách tốt nhất là phải
thay đổi nhận thức, tăng cường kiến thức của cả cha mẹ và vị thành niên trong sự quan
tâm đến trẻ vị thành niên. Vì sự thiếu hụt kiến thức của các phụ huynh về đặc điểm
phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn này hay không
nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả lại trở thành nguyên nhân
quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái.

Với những gì đang thực hiện tốt thì tiếp tục đẩy mạnh hơn các phong trào xây
dựng gia đình văn hoá, phải cụ thể hóa hơn các tiêu chí để đánh giá khách quan, đúng
thực chất các gia đình văn hoá. Việc đánh giá xếp loại gia đình văn hóa phải được gắn
chặt chẽ với việc đánh giá như: xếp loại cơ quan văn hoá, tổ chức đảng trong sạch
vững mạnh, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng
năm,.Cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cấp cơ sở cần đi sâu nắm bắt tình

82
hình cụ thể của

83
từng hộ gia đình, thường xuyên động viên giúp đỡ các gia đình, bảo đảm xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.

Kế tiếp là cần xác định phong trào xây dựng gia đình văn hóa và công tác gia
đình là hai lĩnh vực không thể tách rời, được thực hiện lồng ghép với nhau. Trên thực
tế, các tiêu chí thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa đều được xây dựng
trên cơ sở giá trị văn hóa gia đình, đạo đức, lối sống, những hành vi, chuẩn mực của
các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với cộng đồng xã hội. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về gia đình và phong trào xây dựng gia đình
văn hóa trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp
với tình hình thực tiễn tại địa phương. Ngoài ra, thường xuyên chủ động tiếp thu ý kiến
của cấp cơ sở và kịp thời điều chỉnh các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa khi không
còn phù hợp, gây trở ngại, khó khăn trong quá trình thực hiện phong trào. Trong lúc
tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng Gia đình văn hóa, cũng phải phòng, chống
quyết liệt những hiện tượng tiêu cực xâm hại. Cần có những biện pháp loại trừ những
sản phẩm độc hại trong các ấn phẩm văn hóa, nghệ thuật... Tất cả đều phải được làm
thường xuyên và bài bản mang tính liên ngành và có sự chung tay góp sức của toàn xã
hội.

Thêm một điểm nữa, chú trọng xây dựng và biểu dương các điển hình tiên tiến,
các gia đình văn hóa tiêu biểu, nhân rộng việc làm tốt, mô hình hay trên tất cả lĩnh vực
đời sống xã hội nhằm tạo hiệu ứng tích cực, người thật việc thật, có sức lan tỏa mạnh
mẽ trong cộng đồng. Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các mô hình sinh
hoạt hội, nhóm, câu lạc bộ tuyên truyền trên toàn tỉnh nhằm trực tiếp đưa những chủ
trương, chính sách của Nhà nước đến với từng gia đình, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục đạo đức, lối sống trong gia đình, xây dựng gia đình văn hóa no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh.

Muốn vậy, trong xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, bên cạnh việc khắc phục
những hạn chế, thiết nghĩ cần hướng phong trào đi vào chiều sâu hay hướng đến
những mục tiêu cao hơn. Đó là hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào
việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Nâng
cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức

84
và xã hội học tập. Đặc biệt, cần xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi
người, mọi

85
người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật. Chú trọng nâng cao thể lực, tầm vóc, gắn giáo dục thể
chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu,
cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu
đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người...Ở đây, cần tránh xu hướng chạy
theo thành tích, phản ánh không thực chất phong trào và chất lượng gia đình văn hóa.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trước tác động của bối cảnh mới hiện nay, các giá trị gia đình Việt Nam đang có
những biến đổi nhất định cần được nhận biết, đánh giá, từ đó đưa ra những khuyến
nghị chính sách phù hợp nhằm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, góp phần vào
thành công của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có thể
nói, với tiếp cận cấu trúc chức năng, gia đình được coi là một đơn vị quan trọng và
thực hiện những chức năng cơ bản, then chốt đối với xã hội. Gia đình không chỉ có
mối quan hệ với các thiết chế xã hội khác mà các yếu tố thành thiết chế gia đình cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với ý nghĩa này, gia đình là yếu tố cấu thành cơ cấu
xã hội của một xã hội và thực hiện một số chức năng cơ bản của nó. Cơ cấu xã hội này
tạo ra bối cảnh chung về văn hóa và tổ chức, đến lượt mình, bối cảnh này ảnh hưởng
đến đời sống gia đình. Lẽ đó, biến đổi xã hội sẽ kéo sự biến đổi chức năng của gia đình
là một tất yếu. Một khi gia đình thay đổi về cấu trúc thì các yếu tố cấu thành nên gia
đình cũng theo đó mà thay đổi. Cách tiếp cận cấu trúc chức năng cho thấy, gia đình là
một thiết chết xã hội và có đầy đủ những chức năng cơ bản của nó. Đồng thời, gia đình
luôn có mối quan hệ với các thiết chế xã hội khác và cũng chịu tác động của bối cảnh
xã hội mà nó đang tham gia. Do đó, những biến đổi kinh tế-xã hội đã diễn ra mạnh mẽ
trên mọi khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội kéo theo sự biến đổi của gia đình, biến
đổi chức năng của gia đình. Nhìn chung, các chức năng cơ bản của gia đình như chức
năng kinh tế, chức năng sinh sản, chức năng giáo dục - xã hội hóa; chức năng tâm -
sinh lý, tình cảm… được phục hồi, có điều kiện thực hiện tốt hơn và có vai trò đặc biệt
quan trọng không chỉ đối với từng thành viên gia đình mà còn tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, thực tế nhiều gia đình
đã không tuân thủ các chức năng đó.

86
PHẦN KẾT LUẬN

C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng các quan hệ tồn tại
đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn tại bên nhau. Với chức năng sinh con đẻ cái,
quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Và, theo ý nghĩa đó,
gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể
người thành xã hội và khi xã hội loài người được hình thành thì những hoạt động của
nó thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình thức, cấu
trúc cũng như vai trò của nó đối với xã hội.

Nhóm đã phân tích rõ được về vị trí của gia đình trong xã hội là vô cùng quan
trọng. Gia đình không chỉ giúp sản xuất ra nhiều tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản
xuất ra con người để tạo nên “cơ thể” xã hội. Đồng thời, còn là môi trường tốt để mỗi
cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Bên cạnh
đó, gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội, môi trường đầu tiên cho việc dạy điều
hay, lẽ phải, ứng xử văn hóa, giao tiếp lịch sự của mỗi cá nhân. Vì vậy muốn xây dựng
xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội
tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”. Không chỉ vậy, các chức
năng của gia đình đã được nhóm liệt kê để khẳng định việc củng cố nền tảng gia đình
là phải thực hiện tốt các chức năng cơ bản và đó luôn là mối quan tâm hàng đầu của ta.
Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những chức năng
đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế
được.

Hơn nữa, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những cơ sở xây dựng gia
đình khác như thế nào so với các gia đình trong các chế độ tồn tại sự đối kháng giai
cấp là điều được giải quyết tiếp theo. Thể hiện qua 4 lĩnh vực chính gồm kinh tế- xã
hội, chính trị - xã hội, cơ sở văn hóa và chế độ hôn nhân tiến bộ. Ta cần phải có cơ sở
văn hóa và cơ sở văn hóa phải kết hợp với cả cơ sở kinh tế, chính trị thì việc việc xây
dựng gia đình kiểu mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mới không bị lệch
lạc và có thể đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, hôn nhân khi tiến bộ đảm bảo đầy đủ 3 khía
cạnh: tự nguyện, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng cũng như được đảm bảo về
mặt pháp lý.

87
Hiện nay, quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ sang gia đình hạt nhân,
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại, đáp
ứng những nhu cầu và điều kiện của thời đại mới đặt ra. Ở 4 chức năng cơ bản, nhóm
đã chỉ ra trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, biến đổi trong gia đình đã ảnh hưởng
không nhỏ đối với các chức năng đó, Sinh sản và số lượng con trong mỗi gia đình
giảm đáng kể, phân hóa giàu nghèo sâu sắc, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang
tăng lên hay những khía cạnh mớ trong hôn nhân, tệ nạn gia đình,.. là một vài biểu
hiện đặc trưng trong thời đại ngày nay. Chúng tồn tại cả ưu và nhược điểm, ở đây
nhóm đã đưa ra có phần thiên về nét ảnh hưởng xấu hơn, sự bền vững của gia đình bị
phá hoại, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. Tuy nhiên, nếu các
chức năng được toàn thể gia đình, nhà trường và xã hội ý thức thực hiện một cách có
hiệu quả hơn thì chắc rằng đất nước sẽ ngày càng phát triển toàn diện hơn, nâng cao về
đạo đức lối sống, trí tuệ của người Việt.

88
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Bắc Giang (28/06/2021), Bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của gia
đình trong điều kiện hiện nay, https://bvhttdl.gov.vn/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-
truyen-thong-cua-gia-dinh-trong-dieu-kien-hien-nay-20210628080820829.htm,
ngày truy cập 27/09/2021.
2. Bảo Châu. (22/03/2021). Ngại sinh con thời COVID-19,
https://cand.com.vn/Chuyen-de/Ngai-sinh-con-thoi-COVID-19-i599573/, truy
cập ngày 06/10/2021.
3. Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995), C.Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.41.
4. Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập (1995), C.Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.500.
5. Hoàng Bá Thịnh, Đoàn Thị Thanh Huyền (2019), Tác động của khoa học công
nghệ đến chức năng gia đình hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3
– tháng 3, trang 82-90.
6. Kiều Giang (26/02/2021), Biến đổi về cấu trúc và chức năng các gia đình Việt
ngày càng sâu sắc, http://baovanhoa.vn/gia-
%C4%91inh/artmid/424/articleid/37708/bien-doi-ve-cau-truc-va-chuc-nang-
cac-gia-dinh-viet-ngay-cang-sau-sac, truy cập ngày 27/09/2021.
7. Ly Vũ. (18/12/2020), Sau 30 năm, mức sinh của Việt Nam giảm gần một nửa,
https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/sau-30-nam-muc-sinh-cua-viet-nam-giam-
gan-mot-nua-628673/, truy cập ngày 01/10/2021.
8. Nguyễn Hồng Sâm (11/06/2020). Bức tranh tổng thể về thực trạng mức sinh ở
Việt Nam, http://baochinhphu.vn/Doi-song/Buc-tranh-tong-the-ve-thuc-trang-
muc-sinh-o-Viet-Nam/397811.vgp, ngày truy cập 06/10/2021.
9. Nguyễn Hữu Minh (2015), Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – tháng 3, trang 56.
10. Nguyễn Thị Nhiên. (12/02/20219). Kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam trong
tình hình mới: Tầm quan trọng của chính sách đúng đắn và toàn diện,
https://moh.gov.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia/-
89
/asset_publisher/7ng11fEWgASC/content/ke-hoach-hoa-gia-inh-o-viet-nam-
trong-tinh-hinh-moi-tam-quan-trong-cua-chinh-sach-ung-an-va-toan-dien, truy
cập ngày 01/10/2021.
11. Phan Thị Hồng Xuân (15/09/2020). Giáo dục gia đình là nền tảng xây dựng
nhân cách con người Việt Nam. Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo Phiên Bản Điện
Tử, số 352 – tháng 9, trang 53 đến hết
12. Phùng Văn Mùi (28/06/2005). Gia đình, cái nôi nuôi dưỡng đời người,
https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/gia-dinh-cai-noi-nuoi-duong-doi-nguoi-
403537, truy cập ngày 07/10/2021.
13. PGS. TS. Trần Thị Minh Thi (10/06/2020), Những biến đổi của gia đình Việt
Nam hiện nay và một số khuyến nghị chính sách,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-
/2018/816737/nhung-bien-doi-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-
khuyen-nghi-chinh-sach.aspx, truy cập ngày 10/10/2021.
14. ThS. Phan Thuận (04/07/2018), Chức năng gia đình và sự biến đổi từ tiếp cận
lý thuyết cấu trúc chức năng,
http://gopfp.gov.vn/chi-tiet-an-pham/-/chi-tiet/chuc- nang-gia-%C4%91inh-va-
su-bien-%C4%91oi-%0Atu-tiep-can-ly-thuyet-cau- truc-chuc-nang-8404-
3309.html, truy cập ngày 06/10/2021.
15. Th.S Phạm Thị Thu Hồng (12/2005), Giáo trình Giáo dục Gia Đình,
http://thuvien.tcdktcnsl.edu.vn/files/products/giao_trinh_giao_duc_gia_dinh_12
6.pdf, truy cập ngày 04/10/2021.
16. TS. Chu Thị Hoa (21/11/2019), Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật ở VN hiện nay,
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2516, truy
cập ngày 07/10/2021.
17. TS. Đặng Ánh Tuyết (30/07/2015), Xu hướng biến đổi chức năng kinh tế hộ
gia đình nông thôn Việt Nam,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc- tien/item/1027-xu-huong-bien-
doi-chuc-nang-kinh-te-ho-gia-dinh-nong-thon- viet-nam.html, truy cập ngày
10/10/2021.

90
18. TS. Lê Ngọc Văn (13/05/2021), Vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện
nay, https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/vai-net-ve-thuc-trang-gia-dinh-viet-
nam-hien-nay-p24518.html, truy cập ngày 07/10/2021.
19. TS. Nguyễn Thị Thái Hưng (12/07/2020), Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/bat-
binh-dang-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-khuyen-nghi-
73240.htm, truy cập ngày 07/10/2021.
20. Tổng Cục Thống Kê (19/12/2019), Thông cáo báo chí kết quả tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2019, https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-
chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/, truy cập ngày
06/10/2021.
21. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
phối hợp cùng Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới thuộc Viện
KHXHVN và qũy nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) (2006). Mối quan tâm
của cha mẹ đối với con. Báo cáo điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, số 3 –
tháng 6, trang 30
22. Vũ Hào Quang. (2006). Gia đình Việt Nam_Quan hệ, quyền lực và xu hướng
biến đổi, Nxb: Đại học quốc gia Hà Nội.

91

You might also like