You are on page 1of 206

PGS.TS.

LÊ THANH SƠN (Chủ biên)


PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG

KỸ NĂNG
LẬP LUẬN VÀ TRANH LUẬN

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC HUẾ


Huế, 2020

i
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia
Việt Nam

Lê Thanh Sơn
Kỹ năng lập luận và tranh luận / Lê Thanh Sơn (ch.b.), Đoàn
Đức Lương. - Huế : Đại học Huế, 2020. - 307tr. ; 21cm

Thư mục: tr. 307

1. Lập luận 2. Tranh luận 3. Kĩ năng

808.53 - dc23

DUF0320p-CIP

Mã số sách: TK/71-2020
ii
LỜI NÓI ĐẦU

Các mối quan hệ trong xã hội dù ở bất kỳ lĩnh vực nào


của đời sống: từ đạo đức, văn hóa, giáo dục… đến chính trị,
khoa học, kinh tế, luật pháp… luôn luôn làm nảy sinh, xuất
hiện những tình huống phức tạp, chứa đựng những mâu thuẫn
đòi hỏi phải giải quyết. Đối thoại, tranh luận phản biện là
cách giải quyết các mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ –
ngôn từ, là phương thức ôn hòa để hóa giải mâu thuẫn, cân
bằng các mối quan hệ, san bằng cách biệt, giúp tiếp cận và
làm sáng tỏ chân lý, tạo động lực để xã hội phát triển và là
phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong thế giới tiến bộ.
Là hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, kỹ năng tranh
luận luôn gắn bó tự nhiên, giao thoa và song hành cùng kỹ
năng lập luận và kỹ năng tư duy phản biện để hình thành nhóm
kỹ năng tư duy – ngôn ngữ. Đây là nhóm kỹ năng vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, trong đó có thể coi
kỹ năng tư duy phản biện là khối óc và kỹ năng lập luận là
dòng máu, là hơi thở để duy trì “sức sống” cho đối thoại,
tranh luận.
Sau cuốn “Kỹ năng tư duy phản biện” được xuất bản
vào năm 2018, cuốn “Kỹ năng lập luận và tranh luận” được
xuất bản lần này với hy vọng sẽ góp phần cung cấp những tài
liệu liên quan cần thiết phục vụ cho mục tiêu nói trên.
Về nội dung, cuốn sách có 5 chương và có thể được chia
thành hai phần: phần thứ nhất gồm các chương 1, 2 và 3 trình
bày các kiến thức và kỹ năng lập luận nói chung và lập luận
iii
pháp lý nói riêng. Phần thứ hai gồm các chương 4 và 5 trình
bày các kiến thức và kỹ năng tranh luận.
Với nhiệm vụ của một tài liệu huấn luyện kỹ năng – như
tiêu đề của cuốn sách – chúng tôi tập trung quan tâm đến việc
giúp người đọc thực hành để nâng cao đồng thời kỹ năng lập
luận và tranh luận, mà trọng tâm là:
- Kỹ năng phân tích (thành phần, cấu trúc) và đánh giá
chất lượng một lập luận, xác định vai trò và mối quan hệ giữa
các luận cứ và giữa luận cứ với kết luận trong một lập luận,
kỹ năng vận dụng các loại lý lẽ, kết hợp linh hoạt các phương
thức lập luận, biết cách phát hiện và khắc phục các lỗi trong
một lập luận, vận dụng thành thạo các thủ thuật tăng cường
hiệu quả lập luận… làm cơ sở để tự mình hình thành và xây
dựng lập luận sắc bén, có sức mạnh thuyết phục, đáp ứng
được những đòi hỏi của thực tiễn và hoạt động nghề nghiệp,
kể cả những lập luận trong các hoạt động pháp lý, một lĩnh
vực điển hình đòi hỏi hội tụ những yêu cầu cao nhất, nghiêm
ngặt và có tính đặc thù về kỹ năng lập luận.
- Dựa trên nền móng của kỹ năng tư duy phản biện và
kỹ năng lập luận, biết vận dụng một cách tổng hợp và linh
hoạt các kỹ năng cốt lõi, mang lại hiệu quả, khiến đối phương
phải “tâm phục, khẩu phục” trong tranh luận, đó là: kỹ năng
lựa chọn, sắp xếp các luận cứ, luận điểm để xây dựng lập luận
“thấu tình, đạt lý”, kỹ năng chứng minh và bác bỏ, kỹ năng
sử dụng các thủ thuật phản biện, kỹ năng kiểm soát cảm xúc,
kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong tranh luận.
Không chỉ là những kỹ năng có tính công cụ, lập luận và
tranh luận còn là những kỹ năng “nền”, là cơ sở để hình thành
iv
và phát triển các kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và kỹ
năng hợp tác, mà theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF – 2015)
đây là những kỹ năng hình thành nên nhóm kỹ năng hội nhập,
là hành trang của công dân trong thế kỷ 21. Vì vậy, việc rèn
luyện và nâng cao kỹ năng lập luận và tranh luận là một trong
những phương pháp hiệu quả để nâng cao năng lực và giá trị
bản thân, đó không chỉ là thước đo để đánh giá phẩm chất và
thái độ sống của mỗi người mà còn là “nguồn lực” để phát
triển trong một thế giới đầy biến động và bất định.
Trong cuốn sách, chúng tôi ưu tiên trích dẫn nhiều ví dụ
minh họa cũng như các bài tập có nội dung liên quan đến lĩnh
vực Luật nhằm giúp sinh viên chuyên ngành Luật thuận lợi
khi sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, học tập. Tuy
nhiên, điều đó không gây trở ngại đáng kể với những người
có chuyên môn ngoài lĩnh vực Luật.
Xin chân thành cám ơn Thạc sĩ, Luật sư Hoàng Ngọc
Thanh (Công ty Luật TNHH Hoàng Ngọc Thanh và cộng sự)
đã đóng góp nhiều ý kiến có giá trị, góp phần hoàn thiện nội
dung cuốn sách.
Chúng tôi xin trân trọng tiếp thu và cám ơn những ý kiến
đóng góp, phê bình của các chuyên gia, của bạn đọc giúp sửa
chữa, bổ sung, chỉnh lý nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung
cuốn sách cho những lần tái bản sau.
Mọi ý kiến trao đổi, góp ý, phê bình xin vui lòng chuyển
về địa chỉ: lethanhson.dhh@gmail.com

CÁC TÁC GIẢ

v
vi
MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu iii
Mục lục vii
Chương 1. Một số nội dung cơ bản về lập luận 1
1.1. Những vấn đề chung về lập luận 1
1.1.1. Khái niệm về lập luận 1
1.1.2. Phân biệt lập luận với các dạng phát ngôn khác 3
1.2. Vai trò của lập luận 9
1.3. Lập luận theo logic hình thức và lập luận đời thường 10
1.4. Các thành phần trong một lập luận 16
1.4.1. Luận cứ 16
1.4.2. Kết luận 18
1.4.3. Các yếu tố chỉ dẫn lập luận 18
1.4.4. Nhận diện những thành phần không đóng vai 22
trò hình thành nên lập luận
1.5. Cấu trúc của một lập luận 24
1.5.1. Quan hệ giữa các luận cứ với nhau và giữa 25
luận cứ với kết luận
1.5.2. Lập sơ đồ biểu diễn cấu trúc lập luận 31

vii
1.6. Các hình thức lập luận 37
1.6.1. Lập luận diễn dịch 37
1.6.2. Lập luận quy nạp 42
1.6.3. Lập luận hỗn hợp 47
1.6.4. Lập luận phản đề 48
1.7. Giả định và hàm ý trong lập luận 48
1.8. Lý lẽ trong lập luận đời thường 55
1.8.1. Lý lẽ khách quan 55
1.8.2. Lý lẽ cá nhân (lý lẽ nội tại) 57
1.8.3. Lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội 59
Câu hỏi và Bài tập chương 1 69
Chương 2. Lập luận pháp lý 81
2.1. Đặc điểm cơ bản của lập luận pháp lý 81
2.1.1. Dạng thức lập luận 82
2.1.2. Mục đích và kết quả lập luận 83
2.1.3. Lý lẽ sử dụng và phương pháp lập luận 84
2.1.4. Tính chất của lập luận 86
2.2. Các yêu cầu của lập luận pháp lý 87
2.2.1. Yêu cầu về lý lẽ 87
2.2.2. Yêu cầu về ngôn ngữ 101

viii
2.3. Trình bày một lập luận pháp lý theo phương 109
pháp IRAC (hoặc CRAC)
Câu hỏi và Bài tập chương 2 118
Chương 3. Rèn luyện kỹ năng lập luận 139
3.1. Tính logic – sức sống của một lập luận 139
3.2. Rèn luyện kỹ năng nhạy bén xác định cấu trúc 141
lập luận
3.2.1. Xác định chính xác và đầy đủ kết luận và các 141
luận cứ của lập luận
3.2.2. Hiểu rõ vai trò, ảnh hưởng của các luận cứ 146
với kết luận
3.2.3. Xác định và đánh giá tính vững chắc của giả định 149
3.3. Rèn luyện kỹ năng phát hiện lỗi của lập luận 152
3.3.1. Các lỗi trong luận cứ 152
3.3.2. Các lỗi của kết luận 159
3.3.3. Các lỗi do vi phạm quan hệ logic giữa luận 161
cứ với kết luận
3.4. Nắm vững và vận dụng thành thạo các thủ thuật 162
tăng cường hiệu quả lập luận
3.4.1. Các thủ thuật tăng cường sức mạnh của luận cứ 162
3.4.2. Các chiến thuật tăng cường hiệu quả lập luận khác 171

ix
3.4.3. Nghệ thuật hùng biện trong lập luận 174
Câu hỏi và Bài tập chương 3 176
Chương 4. Kỹ năng tranh luận 194
4.1. Những vấn đề chung về tranh luận 194
4.1.1. Khái niệm về tranh luận 194
4.1.2. Các hình thức tranh luận trong đời sống 200
4.2. Vai trò của tranh luận trong đời sống và xã hội 204
4.3. Các khái niệm và mô hình cấu trúc của lập luận 208
trong tranh luận
4.4. Các đặc điểm cơ bản của tranh luận 212
4.4.1. Tính trí tuệ 212
4.4.2. Tính đối lập 213
4.4.3. Tính tương tác 214
4.4.4. Tính cạnh tranh 216
4.4.5. Tính văn hóa 217
4.5. Các yêu cầu của tranh luận 218
4.5.1. Phải có thái độ khách quan, công bằng 218
4.5.2. Phải nhanh nhạy và linh hoạt trong tư duy 219
4.5.3. Phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc sảo trong ngôn 220
ngữ và lập luận

x
4.5.4. Phải có thái độ khiêm tốn, tôn trọng và cầu thị 221
Câu hỏi và Bài tập chương 4 224
Chương 5. Rèn luyện kỹ năng tranh luận 237
5.1. Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh luận 237
5.1.1. Nắm vững và bám sát vấn đề cốt lõi 238
5.1.2. Chủ động kiểm soát chiều hướng diễn biến 239
của cuộc tranh luận
5.2. Rèn luyện kỹ năng chứng minh và bác bỏ trong 240
tranh luận
5.2.1. Các thành phần của phép chứng minh 241
5.2.2. Các phương pháp chứng minh 242
5.2.3. Các phương pháp bác bỏ 247
5.2.4. Quy trình 4 bước trình bày lập luận đồng 256
tình/bác bỏ
5.3. Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm 259
xúc khi tranh luận
5.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ khi 261
tranh luận
5.5. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ khi 262
tranh luận
5.6. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ 264
thuật phản biện
xi
5.6.1. Các thủ thuật tấn công vào lập luận của đối phương 264
5.6.2. Các thủ thuật tác động vào tâm lý, cảm xúc 272
của đối phương
Câu hỏi và Bài tập chương 5 278
TÀI LIỆU THAM KHẢO 307

xii
Chương 1.

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ LẬP LUẬN

1.1. Những vấn đề chung về lập luận


1.1.1. Khái niệm lập luận
Trong logic học, lập luận là suy luận (suy diễn logic), là
một “hình thức cơ bản của tư duy mà từ một hay nhiều phán
đoán đã có (tiền đề), người ta đưa ra được phán đoán mới
(kết luận)”.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì lập luận là “… trình bày
lý lẽ một cách có hệ thống, có logic nhằm chứng minh cho
một kết luận về một vấn đề”1. Còn theo tác giả Nguyễn Đức
Dân thì: “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ
ngôn ngữ, người nói đưa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người
nghe đến một hệ thống xác tín nào đó; rút ra một (một số) kết
luận hay chấp nhận một (một số) kết luận nào đó”2.
Như vậy, lập luận là một hành động ngôn ngữ, dựa trên
những căn cứ (sự kiện, bằng chứng, chân lý…) đã được thừa
nhận, thông qua việc sử dụng, sắp xếp các lý lẽ, cách diễn đạt,
cách phản hồi… để dẫn dắt đến những kết luận nhằm đạt
được mục đích (chứng minh, thuyết phục, tạo dựng niềm tin…)
trong quá trình giao tiếp.
Chứng minh, thuyết phục là mục đích mà lập luận hướng
tới. Tuy nhiên, không phải bất cứ nỗ lực chứng minh, thuyết
1
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, tr.195.
2
Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, NXB Giáo dục, tr.165.
1
phục nào cũng đều là những lập luận. Điều này sẽ được xem
xét và phân tích khi nghiên cứu cấu trúc của lập luận.
Để hiểu rõ hơn khái niệm lập luận, ta xét 2 phát biểu sau đây:
a/. “Đây là một giao dịch hợp pháp”.
b/. “Đây là một giao dịch hợp pháp vì nó thỏa mãn các điều
kiện quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005”.
Phát biểu a là một khẳng định, chỉ có nhiệm vụ cung
cấp thông tin. Nhưng phát biểu b là một lập luận vì trong phát
biểu này, điều khẳng định (“Đây là một giao dịch hợp pháp”)
đã được hỗ trợ bởi bằng chứng (“vì nó thỏa mãn các điều kiện
quy định tại Điều 122 BLDS năm 2005”). Ở đây, tính “hợp
pháp” của giao dịch được hỗ trợ bởi tiền đề, đó là căn cứ pháp
lý được quy định trong BLDS.
Trong một lập luận, kết luận thường là:
* Một lời khẳng định/phủ định.
Ví dụ: “Mọi người phạm tội đều có hành vi vi phạm
pháp luật. Nam là người phạm tội. Vậy, Nam có hành vi vi
phạm pháp luật”.
* Một khuyến cáo/đề nghị/lời khuyên.
Ví dụ: “Phát triển năng lượng hạt nhân đòi hỏi vốn đầu
tư lớn. Đây cũng là nguồn năng lượng có sức mạnh hủy diệt,
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhân loại đã chứng kiến nhiều bài học
đau lòng về thảm họa hạt nhân. Cần thận trọng cân nhắc khi
lựa chọn phát triển năng lượng hạt nhân”.
* Một câu hỏi có tính định hướng để người nghe/đọc tự
rút ra câu trả lời theo hướng mong muốn của người hỏi.
2
Ví dụ: “Hàng hóa do Công ty A sản xuất là hàng hóa
thuộc danh mục Nhà nước cấm sản xuất, buôn bán, lưu hành,
sử dụng theo Điều 199 Bộ luật Hình sự. Chẳng lẽ anh vẫn
không công nhận đó là hàng cấm?”.
1.1.2. Phân biệt lập luận với các dạng phát ngôn khác
1.1.2.1. Phân biệt lập luận với giải thích và tóm tắt
Mục đích thuyết phục là một trong những chỉ dấu quan
trọng đầu tiên để nhận diện một lập luận. Vì thế, nếu một mệnh
đề không đưa ra được kết luận với mục đích thuyết phục người
nghe/đọc đến một nhận thức hay hành động, thì đó là dấu
hiệu cho thấy mệnh đề đó có nhiều khả năng không phải là
một lập luận. Ta xét 2 ví dụ sau1:
Ví dụ 1: “Theo thỏa thuận, bà Th. sẽ trả số nợ 50 triệu
đồng cho ông K. trước 12 giờ ngày 23/3/2012. Tuy nhiên, do
gặp trục trặc trong quá trình thu hồi vốn nên đến 8 giờ ngày
24/3/2012 bà Th. mới có đủ số tiền. Vì vậy, đến 9 giờ ngày
24/3/2012 bà Th. mới hoàn trả đủ số tiến nợ cho ông K”.
Trong ví dụ này có hai căn cứ được đưa ra (thời hạn bà
Th. phải trả nợ và thời hạn bà Th. thu hồi đủ tiền) để hướng
đến kết luận (đưa ra lý do bà Th. bị chậm trễ trong việc trả
nợ). Tuy nhiên, kết luận này rõ ràng không nhằm đến mục
đích thuyết phục một điều gì. Các lý do đưa ra chỉ có nhiệm
vụ giải thích cho kết luận cuối cùng mà thôi.

1
Dẫn từ “Tình huống pháp lý và thực tiễn tố tụng”, Hồ Ngọc Diệp - NXB
Phương Đông, 2016.
3
Ví dụ 2: “Ngày 4/8/2014, trong khi đang làm việc tại
nhà máy, chị M. nhặt được chiếc ví bên trong có nhiều tài sản
là nữ trang kim loại màu vàng. Cùng ngày, Ban giám đốc nhà
máy lập biên bản tạm giữ số tài sản đó, nhưng đến nay đã
hơn 2 tháng vẫn chưa có kết luận gì. Ngày 5/9/2014, Công an
phường X. lập biên bản tạm giữ số vàng trên và chuyển hồ sơ
đến Công an Thành phố H. để thụ lý giải quyết theo thẩm
quyền. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại cơ quan Công an
vẫn chưa có thông tin phản hồi với chị M. Như vậy, từ khi chị
M. nhặt được tài sản, các tổ chức có thẩm quyền đã trực tiếp
xem xét xử lý nhưng chưa đưa ra kết luận nào về sự việc”.
Với ví dụ này, nội dung được nói đến sau từ “Như vậy”
không phải là một kết luận mà thực chất chỉ là việc tóm tắt lại
những nội dung đã nêu trước đó, không đưa ra thông tin hoặc
phán đoán gì mới. Vì vậy, đây không phải là một lập luận.
Để thấy rõ hơn sự khác nhau, ta xét ví dụ 3 tương tự với
ví dụ 2:
Ví dụ 3: “Ngày 4/8/2014, trong khi đang làm việc tại
nhà máy, chị M. nhặt được chiếc ví bên trong có nhiều tài sản
là nữ trang kim loại màu vàng. Cùng ngày, Ban giám đốc nhà
máy lập biên bản tạm giữ số tài sản đó, nhưng đến nay đã
hơn 2 tháng vẫn chưa có kết luận gì. Ngày 05/9/2014, Công
an phường X. lập biên bản tạm giữ số vàng trên và chuyển hồ
sơ đến Công an Thành phố H. để thụ lý giải quyết theo thẩm
quyền. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại cơ quan Công an
vẫn chưa có thông tin phản hồi với chị M. Do đó, căn cứ vào
4
các quy định của pháp luật, chị M. hoàn toàn có quyền
khiếu nại về thái độ vô trách nhiệm của các cơ quan liên
quan đối với sự việc này”.
Trong ví dụ này, câu cuối cùng không phải là sự tổng
kết những nội dung đã nêu ở phía trước (như trong ví dụ 2)
mà là một kết luận. Đó là kết luận về thái độ thiếu trách nhiệm
của các cơ quan có liên quan trong sự việc này, đồng thời hướng
mục đích đến việc thuyết phục, tìm sự đồng thuận với người
đọc/nghe trong trường hợp chị M. có khiếu nại. Vì vậy, nội
dung của ví dụ 3 là một lập luận.
1.1.2.2. Phân biệt lập luận với miêu tả và trần thuật
Ta xét hai ví dụ sau đây:
Ví dụ 41: “Theo Điều 3 Thông tư số 28/2013 ngày
05/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì tiền giả là
những loại tiền làm giống như tiền Việt Nam nhưng không
phải do Ngân hàng Nhà nước tổ chức in, đúc, phát hành”.
Ví dụ 5. “Từ trước đến nay, ai cũng phải thừa nhận An
là người rất trung thực”.
Các phát ngôn trong hai ví dụ trên là những phát ngôn
miêu tả, trần thuật có mục đích thông báo cho người đọc/nghe
thông tin về sự vật, hiện tượng mà không đưa ra bất kỳ một
kết luận nào. Tính đúng/sai, chân thực/không chân thực của
sự vật, hiện tượng được đánh giá dựa vào thực tế mà nó phản

1
Dẫn từ “Tình huống pháp lý và thực tiễn tố tụng”, Hồ Ngọc Diệp - NXB
Phương Đông, 2016.
5
ánh. Như vậy, trong khi lập luận có mục đích chứng minh,
thuyết phục người đọc/nghe thông qua kết luận mà nó đưa ra,
thì miêu tả, trần thuật chỉ có mục đích thông báo hoặc đưa ra
nhận định về các sự vật, sự việc, hiện tượng của đời sống.
Tuy vậy, trong thực tế nhiều khi phát ngôn miêu tả, trần
thuật không chỉ cung cấp thông tin được thể hiện trực tiếp ở
nội dung mà nó diễn tả, mà còn hàm chứa “phía sau” thông
tin đó một kết luận mà nó muốn hướng đến.
Chẳng hạn, trong ví dụ 4, bản thân nội dung chỉ mang
đến một thông tin (cho biết thế nào là tiền giả theo quan điểm
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), không hàm ý định
hướng đến một kết luận cụ thể nào. Tuy nhiên, nếu đặt trong
một văn cảnh giao tiếp cụ thể – ví dụ trong phiên tòa xét xử
tội tàng trữ ngoại tệ giả – thì phát ngôn này có thể hướng đến
một thái độ, một kết luận. Giả định, nếu trong phiên tòa nói
trên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ hướng dẫn tại điểm 3,
Mục I Nghị quyết số 02/2003/NQ–HĐTP ngày 17/4/2003 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 1999 (theo đó, tiền giả bao gồm tiền Việt Nam đồng giả
và ngoại tệ giả) để kết tội bị cáo “… phạm tội làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành tiền giả” theo Điều 280 BLHS năm
2009 cũng như Điều 207 BLHS năm 2015 và “… bị phạt tù
từ ba năm đến bảy năm…”, thì phát ngôn này thể hiện rõ sự
không đồng tình với kết luận của HĐXX. Theo quan điểm
của phát ngôn này thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – với tư

6
cách là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền
tệ – chỉ xem tiền giả là tiền Việt Nam đồng, nghĩa là tiền
ngoại tệ giả không có trong khái niệm tiền giả. Do đó, hành vi
tàng trữ ngoại tệ giả không thuộc phạm vi điều chỉnh của
thông tư này.
Tương tự, phát ngôn ở ví dụ 5 nếu đặt trong ngữ cảnh
dư luận có ý kiến cho rằng An là một người giả dối, không
trung thực thì phát biểu này là sự phủ định ý kiến của dư luận.
Những phát ngôn miêu tả, trần thuật có mục đích thông
báo, nhưng lại hàm ẩn một sự đánh giá, một kết luận được gọi
là những lập luận hàm ngôn.
Lập luận hàm ngôn là lời nói có nghĩa ẩn bên trong, tự
nó chưa phải là một lập luận đích thực mà chỉ chứa đựng tiềm
năng lập luận. Chỉ khi nào từ các phát ngôn miêu tả, trần thuật
người phát ngôn đi đến một kết luận trực tiếp, “hiển ngôn” – là
khi nghĩa của lời nói biểu hiện trực tiếp ra ngoài – thì phát ngôn
đó mới trở thành lập luận đích thực.
Trong các văn bản nghị luận khoa học, chính trị – xã hội
hay lập luận pháp lý, để đạt được mục đích thuyết phục người
đọc, người nghe chấp nhận các kết luận thì nhất thiết các kết
luận đó phải được rút ra một cách rõ ràng, minh định, tránh nhận
thức mơ hồ hay gây hiểu nhầm. Vì vậy, yêu cầu lập luận được
sử dụng trong các trường hợp này phải là lập luận hiển ngôn.
1.1.2.3. Phân biệt lập luận với một số câu có dạng thức tương
tự với lập luận
Dưới đây là một số dạng câu tuy không phải là một lập
7
luận, nhưng có dạng thức tương tự như lập luận, vì vậy dễ gây
nhầm lẫn.
* Câu minh họa.
Ví dụ: “Trường chúng tôi có rất nhiều đơn vị trực
thuộc. Trong đó có các Phòng, Ban chức năng, các Khoa đào
tạo, các Trung tâm, các bộ phận cơ hữu khác”. Trong ví dụ
này, toàn bộ phần nội dung của câu sau chỉ có nhiệm vụ minh
họa cho câu đầu tiên (“Trường chúng tôi có rất nhiều đơn vị
trực thuộc”).
* Câu điều kiện (Nếu…thì).
Ví dụ: “Nếu muốn đi du học, Bạn phải học tiếng Anh”.
Trong ví dụ này, không có kết luận nào được đưa ra và vì thế
đây không phải là một lập luận.
Tuy nhiên, mệnh đề: “Nếu muốn đi du học, Bạn phải
học tiếng Anh. Bạn đã không học tiếng Anh. Vì vậy, Bạn
không thể đi du học” lại là một lập luận. Ở đây, kết luận “Bạn
không thể đi du học” được hỗ trợ bởi 2 tiền đề, đó là: “Nếu
muốn đi du học, Bạn phải học tiếng Anh” và “Bạn đã không
học tiếng Anh”.
* Câu ở dạng “Báo cáo”.
Ví dụ: “Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng nhìn chung
Giáo dục Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi những khó khăn,
thách thức. Đặc biệt là những tồn tại, yếu kém về chất lượng
giáo dục”.
Những dạng câu báo cáo chỉ có giá trị cung cấp thông tin.
8
* Câu ở dạng “Tuyên bố không có căn cứ”.
Ví dụ: “Dịch bệnh không phải là điều đáng để con
người phải hoảng loạn. Quanh ta diễn ra biết bao điều khủng
khiếp. Cái cảm giác mình không còn là chính mình, không
biết mình là ai, sống mà không làm chủ và định hướng được
chính cuộc đời mình thì đó quả là một cảm giác kinh hoàng,
rất đáng sợ”.
Dễ dàng thấy trong ví dụ này, không có một tiền đề nào
đóng vai trò hỗ trợ cho kết luận “Dịch bệnh không phải là điều
đáng để con người phải hoảng loạn”.
1.2. Vai trò của lập luận
Lập luận là một hoạt động có mục đích: người đưa ra
lập luận luôn nhắm đến việc mong muốn thuyết phục người
nghe tin tưởng vào một điều gì đó hoặc hành động theo cách
nào đó.
Lập luận có vai trò quan trọng trong giao tiếp ngôn ngữ,
diễn ra ở mọi nơi và ở mọi lĩnh vực, là công cụ để đạt được
mục tiêu truyền tải thông điệp với hiệu quả cao nhất: giúp các
đối tượng giao tiếp thấu hiểu lẫn nhau, tránh những thông tin
sai lệch hoặc cách hiểu sai lệch, giúp khẳng định những ý
kiến, quan điểm đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, quan điểm
sai lầm, giúp thuyết phục, lôi kéo sự đồng tình của người
khác… Trình độ lập luận là sự kết hợp hài hòa năng lực nhận
thức, đánh giá, tổng hợp, phân tích, suy luận, phán đoán… về
các hiện tượng, sự vật, sự việc diễn ra không ngừng và đa
dạng trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống. Do đó, trình độ
9
lập luận là thước đo năng lực trí tuệ, năng lực tư duy logic, kỹ
năng ngôn ngữ của mỗi người, là phẩm chất, là thước đo mức
độ trưởng thành của con người.
Với những người hoạt động trong lĩnh vực liên quan
đến Pháp luật, năng lực lập luận là yêu cầu, là đòi hỏi có tính
bắt buộc. Lập luận được sử dụng phổ biến và đòi hỏi chất
lượng cao trong hoạt động tư pháp (với ý nghĩa là hoạt động
của các cơ quan tư pháp: điều tra, truy tố, xét xử nhằm thực
hiện các hoạt động tố tụng do pháp luật quy định và thuộc
trách nhiệm của họ), điển hình là trong các cuộc tranh luận
nhằm chứng minh cho một hoặc nhiều luận điểm cũng như để
phản bác ý kiến sai trái của người khác. Vì vậy, với những
người hoạt động trong lĩnh vực này, sử dụng tinh thông và
nhuần nhuyễn kỹ năng lập luận là điều kiện tối cần thiết, có
ảnh hưởng quyết định đến thành công hay thất bại của công
việc hàng ngày và cả sự nghiệp. Có thể nói, bất cứ hoạt động
nào trong lĩnh vực liên quan đến luật pháp cũng luôn đòi hỏi
kỹ năng lập luận để chứng minh/bác bỏ, khẳng định/phủ định.
Đặc biệt, một luật sư không chỉ cần có kiến thức pháp luật uyên
thâm, tư duy pháp lý vững vàng mà còn cần được trang bị năng
lực lập luận sắc sảo, chặt chẽ, thuyết phục để đủ sức bảo vệ
quyền lợi vật chất, tinh thần và tính mạng của thân chủ.
1.3. Lập luận theo logic hình thức và lập luận đời thường
Về mục đích lập luận, theo Lê Thị Hồng Vân1, có thể

1
Lê Thị Hồng Vân… (2017), Giáo trình Kỹ năng nghiên cứu và lập luận,
NXB Hồng Đức, tr.102-104.
10
chia lập luận thành 2 loại: lập luận để chứng minh một chân
lý và lập luận để thuyết phục.
- Loại thứ nhất: thuộc dạng lập luận theo logic hình
thức (hay lập luận theo diễn từ chuẩn). Đặc trưng của dạng
lập luận này là phương pháp suy luận tuân thủ theo một
khuôn mẫu logic xác định và chặt chẽ. Ở đây, chân lý được
khẳng định qua các tiền đề và các quy tắc suy diễn theo ngôn
ngữ đã được công thức hóa, mang tính phổ quát, với ý nghĩa
là mọi nơi, mọi người dùng những ngôn ngữ tự nhiên khác
nhau cũng đều lập luận theo một mô thức chung mang tính
phổ quát như vậy. Dạng lập luận này được sử dụng phổ biến
trong các lĩnh vực khoa học với các lý lẽ được sử dụng là
những định lý, định luật, quy tắc… Với mục đích nhằm khẳng
định giá trị chân lý, khẳng định tính đúng - sai của sự kiện,
nên giá trị của lập luận được đánh giá dựa trên mức độ chặt chẽ
và chính xác, mức độ đúng đắn, chân xác của các tiền đề cũng
như sự phù hợp với các quy tắc logic khi suy diễn.
- Loại thứ hai: thuộc dạng lập luận theo logic phi hình
thức (thường gọi là lập luận đời thường, hay lập luận theo lẽ
thường). Mục đích của dạng lập luận này không chỉ nhằm
khẳng định tính đúng – sai của chân lý (thậm chí nhiều khi
không thể xác định theo tiêu chí đúng – sai) mà quan trọng
hơn còn là nhằm đạt được hiệu quả thuyết phục, tạo dựng
niềm tin, cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai”, từ đó làm thay
đổi nhận thức, từ bỏ những xác tín cũ, tin và nghe theo những
điều được người nói đưa ra. Đây là dạng lập luận thường
11
được sử dụng trong tranh luận, phản biện. Dạng lập luận này
dựa trên những căn cứ, lý lẽ chủ yếu, có tầm quan trọng hàng
đầu, đó là:
- Những logic đời thường, không có tính tất yếu (ví dụ:
những lý lẽ về quan hệ nhân quả như “Ở hiền, gặp lành”,
“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Ở bầu thì tròn, ở ống
thì dài”…; lý lẽ về số mạng như “Trời kêu ai nấy dạ”,
“Duyên phận do trời định…”; lý lẽ về dòng dõi như “Con
nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”, “Cha nào, con
nấy”… Đó là những lẽ thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”).
- Những tri thức văn hóa, tâm lý, đạo đức, lý lẽ, kinh
nghiệm sống, phong tục tập quán, các thói quen ứng xử truyền
thống, nhân sinh quan… của một cộng đồng, một dân tộc,
được hầu hết các thành viên sống trong cộng đồng đó tôn
trọng, thừa nhận và tuân thủ như một lẽ hiển nhiên (ví dụ:
“Chị ngã. em nâng”, “Đóng cửa bảo nhau”, “Có phúc có
phần”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Tay đứt ruột
xót”, “Lực bất tòng tâm”, “Phép vua thua lệ làng”, “Bán
anh em xa mua láng giềng gần”…).
Cũng vì lý do đó mà lập luận theo lý lẽ đời thường
không tất yếu đúng ở mọi nơi, mọi lúc mà còn tùy thuộc vào
tri thức, kinh nghiệm, nhân sinh quan, văn hóa ứng xử của
từng cộng đồng, dân tộc, từng ngữ cảnh giao tiếp. Dưới đây là
một số ví dụ về lập luận đời thường:
Trong phiên tòa vụ đại án Phạm Công Danh, bị cáo
12
Hoàng Đình Quyết – nguyên Phó Giám đốc Ngân hàng Xây
dựng Việt Nam (VNCB), chi nhánh Sài Gòn – với mong
muốn được giảm nhẹ hình phạt – đã lập luận trong lời nói sau
cùng trước Tòa: “Từ đời ông đến bố của bị cáo là người theo
cách mạng, có truyền thống yêu nước. Bị cáo luôn được răn
dạy sống sao cho có ích với xã hội… Nhưng tiếc thay, mọi sự
không như ý muốn, bị cáo không thành công và đã để lại hậu
quả nặng nề ở VNCB… bị cáo mong muốn HĐXX giảm nhẹ
hình phạt cho các thuộc cấp của mình”1.
Hoặc như lời trần tình trước HĐXX của bị cáo Lý Xuân
Hải – nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) –
trong vụ án trên, khi cho rằng mình hoàn toàn không có động
cơ phạm tội, chẳng qua chỉ là quá tin tưởng và tuân thủ vào
lãnh đạo Ngân hàng: “Với những người lãnh đạo như vậy, tôi
không có lương tâm nào làm trái được”2.
Như vậy, có thể định nghĩa lập luận theo logic phi hình
thức hay lập luận đời thường như sau: “Lập luận đời thường
là lập luận dựa trên các lý lẽ thực tiễn, phổ quát trong đời
thường nhằm mục đích thuyết phục người khác chấp nhận kết
luận mà mình đưa ra”.
Bảng 1.1 trình bày những điểm khác nhau cơ bản giữa
hai loại lập luận3:

1, 2
Báo điện tử Một Thế giới, ngày 30/8/2016.
3
Lê Thị Hồng Vân, Sđd, tr.103.
13
Bảng 1.1. Phân biệt lập luận theo logic hình thức
và lập luận đời thường.

Lập luận theo logic


Tiêu chí Lập luận theo logic
phi hình thức
so sánh hình thức
(Lập luận đời thường)
Dựa trên các luận cứ Dựa trên những lý lẽ thực
khoa học (các chân lý tiễn (quan niệm, phong
khoa học đã được chứng tục, tập quán, kinh nghiệm,
minh: định lý, định luật, thói quen ứng xử…) được
Phương
quy luật, tư tưởng…) có một dân tộc, một cộng
tiện lập
tính phổ quát toàn nhân đồng thừa nhận.
luận
loại; là các số liệu, sự
kiện, chứng cứ… đã
được kiểm chứng nên
tất yếu đúng.
Tuân thủ các quy tắc Vận dụng linh hoạt các lý
Phương
suy diễn logic hình thức lẽ thực tiễn; không bị giới
pháp lập
chặt chẽ, theo khuôn hạn theo những khuôn mẫu
luận
mẫu cố định. chặt chẽ.
- Quan hệ lập luận xảy - Quan hệ lập luận diễn ra
ra giữa các mệnh đề. giữa các hành động ở lời,
tức tự thân nội dung miêu
Quan hệ tả đã có giá trị lập luận
lập luận (định hướng cho kết luận).
- Giữa luận cứ và kết - Giá trị lập luận có thể
luận có quan hệ logic không được suy ra một
nên kết luận được suy cách tất yếu từ các luận cứ,
14
ra một cách tất yếu từ mà phụ thuộc vào ngữ
luận cứ. cảnh của lời và định hướng
của người nói.
Tất yếu đúng ở mọi Không tất yếu đúng ở mọi
Tính phổ nơi, mọi lúc (vì là chân nơi, mọi lúc (tùy thuộc vào
quát của lý khoa học nên có tính tri thức, kinh nghiệm, văn
lập luận khách quan, phổ quát hóa của từng cộng đồng,
và tất yếu). từng ngữ cảnh giao tiếp).
- Chặt chẽ, không có - Không chặt chẽ, có phản
Tính giá
phản lập luận. lập luận.
trị của
- Chỉ có hai khả năng: - Có các khả năng khác.
lập luận
đúng/sai.
Tính mục - Đánh giá, khẳng định - Thuyết phục, thay đổi,
đích của chân lý đúng/sai, củng cố long tin, làm cho
lập luận có/không. người khác nghe theo mình.
- Hướng đến giá trị - Hướng đến tính hiệu quả.
chân lý.

Trong thực tế, bên cạnh việc sử dụng phương thức lập
luận theo logic hình thức, chúng ta rất thường xuyên sử dụng
lập luận theo lý lẽ đời thường. Cần lưu ý rằng, sự phân biệt
như trên không phải để đối lập giữa hai dạng lập luận này.
Mối quan hệ giữa hai dạng thức lập luận này là mối quan hệ
giữa cái phổ quát và cái cụ thể. Bởi lẽ, lập luận theo lý lẽ đời
thường muốn có giá trị thuyết phục thì trước hết cũng phải
tuân thủ các quy luật cơ bản của tư duy, tức là vẫn phải tuân
thủ những khuôn mẫu chung của phép suy luận logic hình
thức. Không những thế, dựa trên nền tảng của các quy luật và
15
nguyên tắc chung của tư duy, lập luận đời thường còn vận
dụng các lý lẽ của thực tiễn đời sống gắn với môi trường văn
hóa và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng để đạt được
các mục đích trong những tình huống giao tiếp cụ thể.
1.4. Các thành phần trong một lập luận
Trong logic hình thức, phép suy luận bao gồm hai thành
phần cơ bản là tiền đề và kết luận.
- Tiền đề: là những tri thức, những phán đoán đã biết
hoặc được thừa nhận, là cơ sở và chỗ dựa để rút ra tri thức mới.
- Kết luận: là phán đoán, là tri thức mới được rút ra như
một tất yếu từ tiền đề đã cho.
Lập luận là hoạt động suy luận được hiện thực hóa bằng
ngôn ngữ (nói/viết), do vậy về hình thức thành phần của lập
luận cũng tương tự như suy luận, bao gồm: luận cứ và kết luận.
Ngoài ra, trong lập luận có thể có các yếu tố chỉ dẫn lập luận.
1.4.1. Luận cứ
Luận cứ có vai trò như tiền đề của một phép suy luận.
Trong lập luận, luận cứ là lý lẽ, chứng cứ (bằng chứng), là
phương tiện quan trọng được sử dụng làm căn cứ để rút ra kết
luận và để chứng minh cho kết luận. Luận cứ được rút ra từ
đối tượng chứng minh nhằm mục tiêu làm sáng tỏ những sự
kiện, sự việc mà chủ thể chứng minh hướng đến. Sức mạnh
thuyết phục của lập luận phụ thuộc vào độ tin cậy của luận cứ
cũng như cách tổ chức, sắp xếp trình tự của các luận cứ trong
16
lập luận nhằm đảm bảo sự gắn kết giữa các luận cứ với nhau
và với kết luận.
Luận cứ bao gồm chứng cứ và lý lẽ.
1.4.1.1. Chứng cứ
Chứng cứ còn được gọi là các luận cứ thực tế. Đó là các
số liệu, sự kiện, bằng chứng thu thập được từ thực tế hoặc từ
kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học. Ví dụ: trong một
vụ án giết người, chứng cứ có thể là các vết thương trên thân
thể nạn nhân, các tang vật gây án thu được từ hiện trường…
hay trong nghiên cứu về nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu,
chứng cứ là các số liệu thu được qua nhiều năm về mối quan
hệ giữa hàm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và sự tăng
nhiệt độ trái đất…
Trong hoạt động tư pháp, chứng cứ trong lập luận có vai
trò đặc biệt quan trọng, là đòi hỏi không thể thiếu đối với hoạt
động chứng minh, là phương tiện để làm sáng tỏ bản chất của
các vụ việc.
1.4.1.2. Lý lẽ
Lý lẽ có 2 loại là: lý lẽ khoa học và lý lẽ đời thường.
a/. Lý lẽ khoa học (hay luận cứ logic) là những chân lý
phổ quát, đã được khoa học chứng minh, khẳng định. Đó là:
các tư tưởng, các luận điểm khoa học, các định lý, nguyên lý,
tiên đề, định luật, quy luật… các phán đoán đúng/sai, logic đã
được kiểm chứng và thừa nhận, tất yếu đúng ở mọi nơi, mọi lúc.
b/. Lý lẽ đời thường (hay lẽ thường) là những kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm văn hóa, là phong tục, các thói quen, chuẩn
17
mực ứng xử được đúc kết từ hoàn cảnh thực tiễn cụ thể, được
một cộng đồng thừa nhận nên không tất yếu đúng ở mọi nơi,
mọi lúc, trong mọi mối quan hệ.
1.4.2. Kết luận
Kết luận là những khẳng định/phủ định được rút ra từ
các luận cứ. Nội dung kết luận là thông tin quan trọng và cơ
bản nhất của lập luận, là điều cần chứng minh, thuyết phục.
Trong một lập luận ở cấp độ đoạn văn, kết luận là chủ đề cần
chứng minh, giải thích, thuyết phục và được gọi là luận đề.
Luận đề có thể bao gồm một số kết luận, luận điểm (là
các ý chính có nhiệm vụ giải thích, làm sáng tỏ luận đề). Mỗi
kết luận, luận điểm thể hiện một phần nội dung của luận đề
hay một phần nội dung của văn bản.
1.4.3. Các yếu tố chỉ dẫn lập luận
Đó là từ (cụm từ) đóng vai trò định hướng, chỉ dẫn lập
luận, bao gồm:
1.4.3.1. Tác tử lập luận
Theo Nguyễn Đức Dân1 thì tác tử lập luận là những yếu
tố khi tác động vào phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa,
làm thay đổi tiềm năng lập luận của phát ngôn. Khi trong phát
ngôn có tác tử lập luận thì kết luận về các sự kiện, sự việc mà
phát ngôn đề cập đến chỉ được rút ra theo một hướng mà
không thể theo hướng ngược lại.

1
Nguyễn Đức Dân, Sđd, tr.176.
18
Ví dụ:
(6a). “Phạm tội này phải ngồi tù những 3 năm, đừng dại!”.
(6b). “Phạm tội này chỉ ngồi tù 3 năm, ngán gì!”.
(7a). “Bây giờ đã 10 giờ rồi, nên đi thôi”.
(7b). “Bây giờ mới 10 giờ, chưa nên đi”.
Các từ chỉ hình thái những/chỉ, đã/mới là các tác tử lập
luận đóng vai trò định hướng lập luận dẫn đến những kết luận
theo hai chiều trái ngược nhau.
Tác tử không chỉ có vai trò định hướng mà còn có thể
làm đảo hướng lập luận:
(8a). “Ngôi nhà này hơi xa nhưng có vườn nên tôi vẫn mua”.
Nếu không có tác tử nhưng thì lập luận sẽ là “không
mua”. Sự có mặt của tác tử nhưng đã dẫn đến kết luận theo
hướng ngược lại (đảo hướng) là “vẫn mua”.
Trong lập luận có tác tử nhưng, hướng của lập luận là
do hướng của luận cứ đứng sau (nên tôi vẫn mua) quyết định.
Do đó, nếu đảo vị trí của hai luận cứ trong câu 8a, ta sẽ có kết
luận ngược lại:
(8b). “Ngôi nhà này (tuy) có vườn nhưng hơi xa nên tôi
không mua”.
Trong tiếng Việt, các liên từ: nhưng, song, tuy nhiên, tuy
vậy… có vai trò thông báo và thực hiện đảo hướng lập luận,
khiến cho lập luận phải dẫn đến kết luận khác với điều đáng
ra phải thế.

19
1.4.3.2. Kết tử lập luận
Kết tử lập luận là những từ hay tổ hợp từ có vai trò liên
kết các luận cứ với nhau và với kết luận để tạo thành một lập
luận; kết tử là dấu hiệu cho phép nhận diện, xác định luận cứ
và kết luận trong lập luận.
Ví dụ 9: “Do ý thức chấp hành luật giao thông của
người dân không nghiêm nên tai nạn xảy ra khá thường xuyên
và ngày càng nghiêm trọng”.
Ví dụ 10: “Nếu là hành động phòng vệ chính đáng thì
không phạm tội”.
Ví dụ 11: “Bị cáo đã cố tình phạm tội, khi bị phát hiện
lại tìm cách che giấu, chối tội nên phải nghiêm khắc trừng trị”.
Tùy thuộc mối quan hệ giữa kết tử với luận cứ hay với
kết luận, ta chia kết tử thành 2 loại: kết tử dẫn nhập luận cứ
và kết tử dẫn nhập kết luận.
- Kết tử dẫn nhập luận cứ: là kết tử luôn đứng trước
luận cứ, thường đó là các liên từ: bởi, bởi vì, vì, do, nếu, tuy…
- Kết tử dẫn nhập kết luận: là kết tử luôn đứng trước kết
luận có vai trò nối luận cứ với kết luận, phản ánh mối quan hệ
nhân – quả giữa luận cứ và kết luận, đó là các liên từ: nên,
cho nên, thì, do đó, bởi vậy, vậy nên, vì thế…
Trong 2 ví dụ sau, các từ có một gạch chân là kết tử dẫn
nhập luận cứ và có hai gạch chân là kết tử dẫn nhập kết luận.
Ví dụ 12: “Nếu không có sự lôi kéo, không chế, gây áp
lực của cấp trên thì anh ấy không thể phạm tội”.

20
Ví dụ 13: “Do bị cáo gây án trong lúc bị bệnh tâm thần
nặng cho nên bị cáo không phải chịu bất cứ hình phạt nào”.
Bảng 1.2. Một số kết tử dẫn nhập luận cứ
và dẫn nhập kết luận thường gặp.
Kết tử dẫn nhập luận cứ Kết tử dẫn nhập kết luận
- Vì, Tại vì - Vả lại - Kết quả là - Chúng ta có
- Do, Lý do là - Thêm vào đó - Rõ ràng là kết luận
- Nếu - Với thông tin - Hậu quả là - Cho nên, Nên
- Như đã nói - Tuy - Thì - … cho thấy
rằng
- Bởi, Bởi vì - Tuy rằng - Vậy nên
- Chứng minh
- Mặc dù - Hơn nữa… - Vì vậy
rằng…
- Nói ngắn
- Do đó
gọn là…
Như vậy, trong khi luận cứ và kết luận là 2 thành tố cơ
bản, không thể thiếu, có nhiệm vụ hình thành, là cơ sở để
đánh giá lập luận thì các yếu tố chỉ dẫn lập luận chỉ đóng vai
trò định hướng, chỉ dẫn lập luận mà thôi. Tuy vậy, trong thực
tế do thói quen tĩnh lược ngôn ngữ nên không phải lúc nào kết
tử lập luận cũng xuất hiện trong một lập luận. Đó là những
trường hợp vắng kết tử dẫn nhập luận cứ hoặc vắng kết tử dẫn
nhập kết luận hoặc vắng cả hai. Dưới đây là các ví dụ:
- Vắng kết tử dẫn nhập luận cứ: “Không tôn trọng
pháp luật nên nó phải chịu hậu quả”.
- Vắng kết tử dẫn nhập kết luận: “Vì là cấp dưới, tôi
không thể làm khác ý ông ta được”.
21
- Vắng cả kết tử dẫn nhập luận cứ và dẫn nhập kết luận:
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
1.4.4. Nhận diện những thành phần không đóng vai trò
hình thành nên lập luận
Với một lập luận ở cấp độ đoạn văn (hoặc ở quy mô lớn
hơn là văn bản), bên cạnh những thành phần hình thành nên
lập luận (luận cứ, kết luận, có thể có các yếu tố chỉ dẫn lập
luận), còn có sự tham gia của những thành phần khác, thường
với vai trò minh họa, mô tả, giải thích… Việc nhận diện và
phân biệt rạch ròi các thành phần này trong tư duy không chỉ
giúp nhanh chóng nhìn nhận một cách chính xác, đầy đủ lập
luận mà còn tránh những nhầm lẫn, tránh “lạc lối”, thậm chí
hiểu sai khi đánh giá và nhận định các nội dung của lập luận.
Để làm ví dụ, ta xét đoạn lập luận sau đây:
“Theo chúng tôi, việc kháng cáo của bị đơn dân sự là
không có sơ sở pháp lý và thực tiễn. Trước khi đưa ra xét xử
chính thức vào sáng ngày 24/5/2005, Tòa cấp sơ thẩm đã tiến
hành quá trình thủ tục mời hòa giải theo đúng quy định tại
Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự, trong đó: hai lần triệu tập
hòa giải tại bút lục 42, 49 và bút lục 55; bốn lần phối hợp
niêm yết giấy triệu tập bị đơn tại UBND phường H. tại các
bút lục 50, 54, 60 và 64, lập biên bản hòa giải bất thành do bị
đơn dân sự vắng mặt không lý do 2 lần tại bút lục 53 và 56;
quyết định hoãn phiên tòa 1 lần tại bút lục 63 ngày 05/5/2005
theo giấy triệu tập lần thứ tư mà bị đơn vắng mặt tại bút lục
số 3. Bị đơn đã coi thường pháp luật, cố tình né tránh tiếp

22
nhận giấy triệu tập của Tòa, kể cả lần có mặt tại nhà nhưng
vẫn khinh nhờn giấy triệu tập bằng thái độ từ chối không chịu
ký nhận, thể hiện qua các chứng cứ và nhân chứng sau: tại
bút lục số 43 (theo yêu cầu xác nhận của Tòa án, Công an
phường H.) đã xác nhận: “Đương sự S. hiện còn cư trú tại địa
phương (hộ KT3) vào ngày 03/3/2005 tức là có mặt tại địa
chỉ cư trú trước các thời điểm Tòa phát giấy triệu tập, nhưng
đã cố tình né tránh để khỏi phải nhận Giấy triệu tập của Tòa.
Tại bút lục số 1 (khi có giấy triệu tập lần hai vào ngày 08/3/2005)
UBND phường H. có cử cán bộ tên P. trực tiếp đến nhà giao
giấy triệu tập những bị đơn dù có mặt tại nhà vẫn không ký
nhận, vì vậy UBND phường đã xác nhận: “đương sự có mặt
tại địa phương nhưng không ký nhận giấy triệu tập”. Cần nói
thêm là bị đơn dân sự không thể nói rằng không biết bà E.
kiện nội dung gì, bởi trong thực tế đã có nhiều lần bà E. đòi
nợ, đòi nhà ông S. và đã làm đơn kiện ông S. tại UBND
phường 20, quận T. về căn nhà và các khoản nợ này vào ngày
13/11/2003. Bà E. cũng điện thoại nhiều lần thông báo với
ông S. là sẽ đưa ông ra Tòa. Hơn nữa, vào giờ cuối cùng bị
đơn cũng có mặt tại Tòa sơ thẩm”1.
Với đoạn lập luận này, câu đầu tiên: “Theo chúng tôi,
việc kháng cáo của bị đơn dân sự là không có sơ sở pháp lý
và thực tiễn” chính là kết luận (K)”.
Đoạn tiếp theo bắt đầu từ “Trước khi đưa ra xét xử…”
đến “… tại bút lục số 3” trình bày các bằng chứng về việc

1
Dẫn từ http://www.hcmcbar.org
23
trước khi chính thức xét xử, Tòa sơ thẩm đã tiến hành các thủ
tục mời hòa giải theo đúng quy định của pháp luật. Đây là luận
cứ thứ nhất (L1).
Đoạn tiếp theo từ “Bị đơn đã coi thường pháp luật…”
đến “ký nhận giấy triệu tập” trình bày các chứng cứ về việc
bị đơn cố tình né tránh giấy triệu tập của Tòa. Đây là luận cứ
thứ hai (L2).
Đoạn cuối cùng, từ “Cần nói thêm là…” đến hết, có
mục đích khẳng định việc bị đơn đã biết rõ lý do vì sao bị bà
E. kiện ra Tòa. Luận cứ này có tác dụng làm tăng sức mạnh
của luận cứ L2, do vậy góp phần hỗ trợ cho kết luận.
Với các phân tích trên, có thể viết gọn lại nội dung đoạn
lập luận trên đây như sau:
“Theo chúng tôi, việc kháng cáo của bị đơn dân sự là
không có sơ sở pháp lý và thực tiễn bởi các lý do sau: trước
khi xét xử chính thức, Tòa sơ thẩm đã thực hiện các thủ tục
hòa giải chặt chẽ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Bị đơn hoàn toàn nhận thức rõ lý do bị bà E. kiện ra Tòa
nhưng đã cố tình né tránh, từ chối tiếp nhận giấy triệu tập
của Tòa. Mặt khác, Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự đã quy
định “bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn
vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử khi vắng mặt họ”.
Những nội dung nằm ngoài đoạn lập luận đã rút gọn là
những nội dung không đóng vai trò hình thành nên lập luận,
nghĩa là không làm thay đổi bản chất và tinh thần của lập luận,
mà chỉ có tác dụng minh họa, làm rõ hơn những nội dung có
trong lập luận.
24
1.5. Cấu trúc của một lập luận
1.5.1. Quan hệ giữa các luận cứ với nhau và giữa luận cứ với
kết luận
Mỗi kết luận trong lập luận có thể được hình thành từ
một hoặc nhiều luận cứ. Chất lượng của luận cứ cũng như
mối quan hệ giữa các luận cứ trong lập luận có ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu lực của lập luận. Để thuận tiện, trong các ví dụ
sau đây ta ký hiệu K là kết luận và L (kèm theo chỉ số) là các
luận cứ tương ứng.
Trong những lập luận có nhiều luận cứ, giữa các luận cứ
trong lập luận phải có quan hệ đồng hướng lập luận, nghĩa là
phải cùng hướng đến một giá trị của kết luận (đúng/sai,
tốt/xấu, khen/chê, nên/không nên…). Trong logic hình thức
thì đây là sự tuân thủ yêu cầu của luật cấm mâu thuẫn. Có 2
trường hợp đồng hướng lập luận:
1.5.1.1. Luận cứ đồng hướng tương hợp (cùng phạm trù)
Ví dụ: “Cơ sở đào tạo chỉ lo mở rộng quy mô, không
quan tâm đầu tư bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
cho giảng viên (L1); giảng viên không ý thức đầy đủ bổn phận
của mình với chất lượng đào tạo (L2); cơ quan quản lý buông
lỏng trách nhiệm, không thực thi đầy đủ và kịp thời chức năng
kiểm soát, đánh giá chất lượng đầu ra (L3). Có thể nói, sự suy
giảm chất lượng đào tạo bắt nguồn từ yếu tố con người của
toàn hệ thống (K)”.
Trong ví dụ này, các luận cứ (L1, L2, L3) đều phản ánh
cùng một phạm trù, đó là yếu tố con người.
25
1.5.1.2. Luận cứ đồng hướng không tương hợp (không cùng
phạm trù)
Ví dụ: “Ngôi nhà có thiết kế đẹp, thoáng mát, tiện nghi
(L1), vừa nằm ở khu dân cư có tiếng an ninh, vừa gần chợ và
trường học (L2). Đây lại là thời điểm giá nhà đất đang xuống
rất thấp (L3). Vì thế, theo tôi anh nên mua (K)”.
Ở đây, mỗi luận cứ phản ánh một dấu hiệu khác nhau về
ngôi nhà. Luận cứ L1 liên quan đến kiến trúc ngôi nhà; luận
cứ L2 liên quan đến vị trí, tình trạng an ninh khu vực có ngôi
nhà; luận cứ L3 liên quan đến giá cả của ngôi nhà.
Trong một lập luận có nhiều luận cứ, mặc dù các luận
cứ đều có nhiệm vụ là hỗ trợ, làm chỗ dựa cho việc hình
thành kết luận, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các luận cứ
đối với kết luận có thể sẽ không như nhau. Nói khác đi, tùy
thuộc vào chất lượng mà hiệu lực của mỗi luận cứ trong lập
luận cũng khác nhau.
Ví dụ: “Án oan sai xuất hiện ngày càng nhiều trước hết
là do những hạn chế về năng lực của cán bộ ngành Tòa án
(L1), họ bị rối trong mớ bòng bong và không tìm ra cách xử lý
vấn đề khi xem xét sự việc. Nguyên nhân thứ hai là thái độ vô
trách nhiệm đối với nhiệm vụ (L2): không khó bắt gặp tình
trạng làm qua loa, đại khái, nhiều khi rất cẩu thả. Nhưng
điều nguy hại hơn cả chính là động cơ mờ ám không trong
sáng, thậm chí xấu xa khi thực thi nhiệm vụ (L3). Vì lợi ích
của mình, họ sẵn sàng bóp méo sự thật, ngụy tạo chứng cứ, ép
cung… và xử án theo ý chí của họ. Vì thế, tình trạng án oan sai
là nguyên nhân làm xói mòn, mà hậu quả lâu dài có thể dẫn
đến triệt tiêu lòng tin của người dân vào pháp luật (K)”.
26
Trong ví dụ trên, để đi đến kết luận: “tình trạng án oan
sai nguyên nhân làm xói mòn, mà hậu quả lâu dài có thể dẫn
đến triệt tiêu lòng tin của nhân dân vào pháp luật”, ta có 3
luận cứ (cũng là 3 nguyên nhân). Trong đó, luận cứ L3: “động
cơ mờ ám, không trong sáng, thậm chí xấu xa khi thực thi
nhiệm vụ” là nguyên nhân trực tiếp và có tác động mạnh nhất
đến việc làm “triệt tiêu lòng tin của nhân dân vào pháp luật”.
Nếu trình độ và trách nhiệm công vụ yếu kém chỉ có thể làm
suy giảm lòng tin thì chính động cơ “mờ ám, không trong
sáng, thậm chí xấu xa” mới thực sự là nguyên nhân làm xói
mòn, dẫn đến làm hủy diệt lòng tin của người dân vào pháp
luật. Ta nói rằng, đối với kết luận K, luận cứ L3 là luận cứ có
hiệu lực hỗ trợ mạnh nhất.
Về mối quan hệ giữa các luận cứ, có 2 trường hợp:
- Luận cứ hoạt động độc lập: nghĩa là kết luận có thể
được rút ra chỉ cần dựa trên luận cứ đó mà không đòi hỏi có
sự hỗ trợ của các luận cứ khác.
Ví dụ: “Đa số người dân thiếu ý thức tự giác chấp hành
Luật Giao thông (L1), một bộ phận không nhỏ cảnh sát giao
thông thiếu nghiêm khắc trong việc kiểm tra, xử lý các hành
vi vi phạm Luật giao thông (L2), hạ tầng giao thông không
đảm bảo, nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng (L3). Vì vậy, tình
trạng tai nạn giao thông chắc chắn sẽ còn gia tăng trong thời
gian tới (K)”.
Với ví dụ này, một luận cứ bất kỳ đều đảm bảo, cho
phép rút ra kết luận để hình thành lập luận, mặc dù hiệu lực
27
chung của lập luận có thể suy giảm do vắng mặt các luận cứ
khác. Ví dụ: ta có thể nói: “Đa số người dân thiếu ý thức tự
giác chấp hành Luật giao thông. Vì vậy, tình trạng tai nạn
giao thông chắc chắn sẽ còn gia tăng trong thời gian tới”.
Tương tự, có thể rút ra kết luận K từ luận cứ L2 hoặc L3.
- Các luận cứ không hoạt động độc lập mà bị ràng buộc
với nhau. Nghĩa là kết luận không thể được rút ra nếu chỉ dựa
trên một luận cứ, mà cần có sự kết hợp với một hay một số
luận cứ khác.
Ví dụ: “Theo Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người
bị hại là người bị thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra (L1).
Ngân hàng Sacombank chỉ làm dịch vụ nhận tiền gởi kỳ hạn
có trả lãi cho Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Quận 10
mà thôi (L2). Số tiền gần 7 tỷ đồng mà bị cáo chiếm đoạt tại
tài khoản trên là tài sản của Ban bồi thường giải phóng mặt
bằng Quận 10 (L3). Vì vậy, theo quy định của pháp luật,
không phải Sacombank mà chính Ban bồi thường giải phóng
mặt bằng Quận 10 mới là người bị hại trong vụ án này (K)”.
Với ví dụ này, việc loại bỏ bất kỳ một luận cứ nào cũng
đều không đảm bảo cho sự hiện diện của kết luận. Chỉ khi có
sự kết hợp đồng thời các luận cứ L1, L2 và L3 với nhau, ta mới
có thể rút ra kết luận K như trên.
Chính sự ràng buộc giữa các luận cứ mà các lập luận
trong đó các luận cứ hoạt động ràng buộc nhau dễ bị tấn công,
bẻ gãy hơn so với các lập luận mà trong đó các luận cứ hoạt
động độc lập.
Lưu ý rằng, trong một lập luận có thể có bao gồm cả hai
28
loại luận cứ: luận cứ hoạt động độc lập và luận cứ hoạt động
có sự ràng buộc với luận cứ khác.
Ví dụ: “Công an là lực lượng có chức năng, có nghiệp
vụ và được trang bị đầy đủ phương tiện để trấn áp tội phạm.
Tội phạm chỉ sợ công an vì chúng hiểu rằng khi sa lưới pháp
luật, hành vi tội phạm của chúng sẽ bị trả giá. Người dân có
bổn phận và trách nhiệm phòng ngừa tội phạm, bảo vệ sức
khỏe, tính mạng và tài sản của mình. Hơn nữa, không phải
ai cũng có nghĩa vụ và khả năng trở thành Lục Vân Tiên. Do
đó, việc trấn áp và bắt giữ tội phạm là nghĩa vụ của ngành
Công an”.
Trong lập luận này, tiền đề cho kết luận K: “Do đó, việc
trấn áp và bắt giữ tội phạm là nghĩa vụ của ngành Công an”
có các luận cứ:
- “Công an là lực lượng có chức năng, có nghiệp vụ và
được trang bị đầy đủ phương tiện để trấn áp tội phạm” (L1).
- “Tội phạm chỉ sợ công an vì chúng hiểu rằng khi sa lưới
pháp luật, hành vi tội phạm của chúng sẽ bị trả giá” (L2).
- “Người dân có bổn phận và trách nhiệm phòng ngừa tội
phạm, bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của mình” (L3).
- “Không phải ai cũng có nghĩa vụ và khả năng trở
thành Lục Vân Tiên” (L4).
Các luận cứ L1, L2, L4 là những luận cứ có thể hoạt động
độc lập, nghĩa là nếu chỉ xuất phát từ từng mỗi luận cứ ta
cũng có thể rút ra được kết luận K, mặc dù có thể thấy hiệu
lực của các lập luận không như nhau. Tuy nhiên, một mình
29
luận cứ L3 chưa cho phép đi đến kết luận bởi nội dung của
luận cứ L3 chưa thể hiện yếu tố “nghĩa vụ”, “trách nhiệm” của
người dân đối với việc bắt giữ và trấn áp tội phạm. Nếu kết
hợp L3 với luận cứ khác, ví dụ L4, thì lập luận nhận được:
“Người dân có bổn phận và trách nhiệm phòng ngừa tội
phạm, bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của mình. Hơn
nữa, không phải ai cũng có nghĩa vụ và khả năng trở thành
Lục Vân Tiên. Do đó, việc trấn áp và bắt giữ tội phạm là nghĩa
vụ của ngành Công an” sẽ trở nên sáng sủa và logic.
Các ví dụ trên đây cũng cho thấy tùy thuộc vào mục
đích cần hướng đến mà trong một lập luận, kết luận có thể
nằm ở cuối, ở đầu hoặc xen kẽ giữa các luận cứ. Trong trường
hợp hiệu lực của các luận cứ không như nhau, kết luận thường
nằm ngay sát luận cứ có hiệu lực lập luận cao nhất. Trong các
ví dụ đưa ra sau đây, luận cứ có gạch chân là luận cứ được coi
là có hiệu lực mạnh nhất đối với kết luận.
- “Là người có chủ trương sai trái (L1), khi bị phát hiện
lại tìm cách đối phó (L2). Đặc biệt, thái độ khai báo ngoan
cố, không thành khẩn (L3). Do vậy, cần phải thẳng tay nghiêm
trị (K)”.
- “Do hiểu biết pháp luật hạn chế (L1), lại thiếu sự quan
tâm chăm lo giáo dục của gia đình (L2), nên một bộ phận
thanh, thiếu niên đã vi phạm pháp luật (K). Ngoài ra, phải kể
đến sự thiếu nghiêm minh của những chế tài nhằm ngăn ngừa
những hành vi phạm pháp (L3)”.
- “Tôi xin khẳng định: thân chủ của tôi hoàn toàn vô tội
(K). Trước hết, đề nghị Tòa quan tâm xem xét các dấu hiệu
30
ngoại phạm mà chúng tôi đã đưa ra trong phiên tòa sơ thẩm
(L1). Trong quá khứ, giữa bị cáo và người bị hại hoàn toàn
không có thù oán gì (L2). Hơn nữa, chúng ta vẫn chưa xác
định được động cơ nào dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi
phạm tội này (L3)”.
1.5.2. Lập sơ đồ biểu diễn cấu trúc lập luận
Để thuận tiện trong việc phân tích, xem xét và đánh giá
mối quan hệ tầng bậc giữa các thành phần trong một lập luận,
ta có thể biểu diễn cấu trúc quan hệ giữa luận cứ và kết luận
trong một lập luận dưới dạng sơ đồ. Trong sơ đồ, các luận cứ
hoạt động độc lập được diễn tả bởi mũi tên liền nét, còn các
luận cứ hoạt động không độc lập (có sự ràng buộc với luận cứ
khác) được diễn tả bởi mũi tên không liền nét.
Ví dụ: “Chính sự hạn chế trong việc hiểu biết pháp luật
(L) nên một bộ phận thanh, thiếu niên đã vi phạm pháp luật (K).
Lập luận này được diến tả bởi sơ đồ:
L K

Dưới đây là sơ đồ biểu diễn các lập luận trong các ví dụ


đã xét ở phần trước.
- “Đa số người dân thiếu ý thức tự giác chấp hành luật
giao thông (L1), một bộ phận không nhỏ cảnh sát giao thông
thiếu nghiêm khắc trong việc kiểm tra, xử lý các hành vi vi
phạm luật giao thông (L2), hạ tầng giao thông không đảm
bảo, nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng (L3). Do đó, dự báo
tình trạng tai nạn giao thông sẽ còn gia tăng trong thời gian
tới (K)”.
31
L1

L2 K

L3

- “Theo Điều 51 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì người bị


hại là người bị thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra (L1).
Ngân hàng Sacombank chỉ làm dịch vụ nhận tiền gởi kỳ hạn
có trả lãi cho Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Quận 10
mà thôi (L2). Số tiền gần 7 tỷ đồng mà bị cáo chiếm đoạt tại
tài khoản trên là tài sản của Ban bồi thường giải phóng mặt
bằng Quận 10 (L3). Vì vậy, theo quy định của pháp luật,
không phải Sacombank mà chính Ban bồi thường giải phóng
mặt bằng Quận 10 mới là người bị hại trong vụ án này (K)”.
L1

L2 K

L3

- “Công an là lực lượng có chức năng, có nghiệp vụ và


được trang bị đầy đủ phương tiện để trấn áp tội phạm (L1).
Tội phạm chỉ sợ công an vì chúng hiểu rằng khi sa lưới pháp
luật, hành vi tội phạm của chúng sẽ bị trả giá (L2). Người dân
có bổn phận và trách nhiệm phòng ngừa tội phạm, bảo vệ sức
khỏe, tính mạng và tài sản của mình (L3). Hơn nữa, không
phải ai cũng có nghĩa vụ và khả năng trở thành Lục Vân Tiên
(L4). Do đó, việc trấn áp và bắt giữ tội phạm là nghĩa vụ của
ngành Công an (K)”.
32
L1
L2
K
L3
L4
Đối với những lập luận đơn giản, việc xây dựng sơ đồ
biểu diễn cấu trúc lập luận có thể là việc làm không cần thiết.
Tuy nhiên, với những lập luận phức tạp, chứa nhiều thành
phần trong nội dung lập luận, mỗi thành phần không chỉ có
một mà có nhiều thành tố, thì việc phân tích, biểu diễn lập
luận dưới dạng hình ảnh, sơ đồ là phương pháp trực quan,
sinh động, có tác động tích cực, giúp việc nhận diện, nắm bắt
nội dung của lập luận chính xác, nhạy bén. Đây là một kỹ
năng rất quan trọng để trau dồi tính chính xác và độ sắc bén
trong tư duy khi phân tích, đánh giá lập luận, đặc biệt là với
những lập luận mà trong đó mỗi luận cứ cũng là một lập luận
(lập luận trong lập luận).
Để minh họa, ta xét ví dụ sau đây. Trong ví dụ này, ta gọi
lập luận được hình thành từ luận cứ là lập luận con để phân
biệt với lập luận ban đầu là lập luận lớn (hay lập luận chính).
Khi đó, kết luận của lập luận con được gọi là tiểu kết luận (ký
hiệu là TK).
Ví dụ1: “Đã đến lúc Pháp luật cần thừa nhận hôn nhân
đồng tính. Ai cũng biết giới tính của mỗi người là do bẩm
sinh, không ai có quyền lựa chọn. Hơn nữa, tình yêu không
phân biệt giới tính. Bởi vậy, dù thuộc giới tính nào thì họ
cũng không có lỗi và hôn nhân cần được xem là quyền chính
1
Theo báo Dân trí, ngày 15/7/2012.
33
đáng của mỗi người. Nếu Pháp luật không thừa nhận, người
đồng tính sẽ phải tìm bình phong bằng cách lập gia đình với
người khác giới. Lập gia đình nhưng không có tình yêu, do đó
họ vẫn duy trì mối quan hệ đồng tính của mình. Hôn nhân
được Luật pháp công nhận sẽ dễ bị đổ vỡ hoặc gánh chịu
những bi kịch nặng nề. Do đó, nếu không công nhận hôn
nhân đồng tính thì hậu quả tiêu cực còn lớn hơn rất nhiều.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận hôn nhân
đồng tính. Một khảo sát ở Việt Nam cho thấy có đến 71,1%
người đồng tính mong muốn Pháp luật Việt Nam thừa nhận
hôn nhân đồng tính. Điều đó chứng tỏ việc công nhận hôn
nhân đồng tình đã trở thành xu thế phổ biến”.
Đây là một lập luận ủng hộ cho việc nên công nhận hôn
nhân đồng tính. Kết luận chính của lập luận này (K) là: “Đã đến
lúc Pháp luật cần thừa nhận hôn nhân đồng tính”.
Xác định các thành phần trong lập luận con từ các luận
cứ (L):
- Luận cứ L1: “Ai cũng biết giới tính của mỗi người là
do bẩm sinh, không ai có quyền lựa chọn. Hơn nữa, tình yêu
không phân biệt giới tính. Bởi vậy, dù thuộc giới tính nào thì
họ cũng không có lỗi và hôn nhân cần được xem là quyền
chính đáng của mỗi người” là một lập luận, gồm 2 luận cứ là:
“Ai cũng biết giới tính của mỗi người là do bẩm sinh,
không ai có quyền lựa chọn”
và: “tình yêu không phân biệt giới tính”.
Từ đó, TK1: “dù thuộc giới tính nào thì họ cũng không
34
có lỗi và hôn nhân cần được xem là quyền chính đáng của
mỗi người”.
- Luận cứ L2: “Nếu Pháp luật không thừa nhận, người
đồng tính sẽ phải tìm bình phong bằng cách lập gia đình với
người khác giới. Lập gia đình nhưng không có tình yêu, do đó
họ vẫn duy trì mối quan hệ đồng tính của mình. Hôn nhân
được Luật pháp công nhận sẽ dễ bị đổ vỡ hoặc gánh chịu
những bi kịch nặng nề. Do đó, nếu không công nhận hôn
nhân đồng tính thì hậu quả tiêu cực còn lớn hơn rất nhiều”
cũng là một lập luận, gồm 2 luận cứ là:
“Nếu Pháp luật không thừa nhận, người đồng tính sẽ phải
tìm bình phong bằng cách lập gia đình với người khác giới”
và: “Hôn nhân được Luật pháp công nhận sẽ dễ bị đổ vỡ
hoặc gánh chịu những bi kịch nặng nề”.
Do đó, TK2: “nếu không công nhận hôn nhân đồng tính
thì hậu quả tiêu cực còn lớn hơn rất nhiều”.
- Luận cứ L3: “Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã
công nhận hôn nhân đồng tính. Một khảo sát ở Việt Nam cho
thấy có đến 71,1% người đồng tính mong muốn Pháp luật
Việt Nam thừa nhận hôn nhân đồng tính. Điều đó chứng tỏ
việc công nhận hôn nhân đồng tình đã trở thành xu thế phổ
biến” là một lập luận, cũng gồm 2 luận cứ là:
“Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận
hôn nhân đồng tính”.
và “Một khảo sát ở Việt Nam cho thấy có đến 71,1% người
đồng tính mong muốn Pháp luật Việt Nam thừa nhận hôn
nhân đồng tính”.
35
Vậy, TK3: “Điều đó chứng tỏ việc công nhận hôn nhân
đồng tình đã trở thành xu thế phổ biến”.
Sơ đồ mô tả toàn bộ lập luận như sau:

“Ai cũng biết giới tính


của mỗi người là do “dù thuộc giới tính
bẩm sinh, không ai có nào thì họ cũng
quyền lựa chọn” không có lỗi và hôn
nhân cần được xem
là quyền chính đáng
“tình yêu không phân
“tình của mỗi người”
biệtyêu
giớikhông
tính”phân
biệt giới tính”
(TK1)
“Nếu Pháp luật không
thừa nhận, người đồng
tính sẽ phải tìm bình “nếu không công “Đã đến
phong bằng cách lập gia nhận hôn nhân lúc Pháp
đình với người khác giới” đồng tính thì hậu luật cần
quả tiêu cực còn thừa nhận
lớn hơn rất nhiều hôn nhân
“Hôn nhân được Luật so với việc công đồng tính”
pháp công nhận sẽ dễ bị nhận”
đổ vỡ hoặc gánh chịu
(K)
những bi kịch nặng nề” (TK2)

“Hiện nay, nhiều quốc


gia trên thế giới đã
công nhận hôn nhân
đồng tính” “Điều đó chứng
tỏ việc công nhận
“Một khảo sát ở Việt hôn nhân đồng
Nam cho thấy có đến tình đã trở thành
71,1% người đồng tính xu thế phổ biến”
mong muốn Pháp luật
Việt Nam thừa nhận (TK3)
hôn nhân đồng tính”

(L)
36
Trong một lập luận có thể có nhiều tiểu kết luận (TK),
nhưng thường chỉ có một kết luận chính (K).
1.6. Các hình thức lập luận
Tùy vào cách thức liên kết về nội dung giữa luận cứ với
kết luận, ta có các hình thức lập luận sau:
1.6.1. Lập luận diễn dịch
Lập luận diễn dịch là lập luận xuất phát từ luận điểm có
tính khái quát, chân lý, chuẩn mực để dẫn đến kết luận mang
tính riêng biệt, cụ thể (từ cái chung đến cái riêng).
Ta xét các ví dụ:
Ví dụ 1: “Tham nhũng là vấn đề hiện đang được đặc
biệt quan tâm ở châu Á. Việc Chính phủ Hàn Quốc bắt giam
hai cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tội nhận hối lộ được coi
là hành động mở đầu cho chiến dịch thanh trừng tội phạm
tham nhũng trong hàng ngũ quan chức. Giới lập pháp ở Đài
Loan hiện cũng phải công khai tài sản của mình và rồi đây
các viên chức cao cấp trong Chính phủ cũng sẽ phải làm điều
đó. Cũng do tham nhũng, Đảng Dân chủ tự do cầm quyền ở
Nhật Bản đã mất đa số ghế tại hạ viện và dấu hiệu suy giảm
uy tín vẫn chưa dừng lại”1.
Lập luận này có thể được biểu diễn bởi sơ đồ:

1
Theo báo Tuổi trẻ, ngày 05/8/1993.
37
Tham nhũng là vấn đề hiện đang được TIỀN ĐỀ
(Khái quát, khuôn khổ)
đặc biệt quan tâm ở châu Á.

Việc Chính phủ Giới lập pháp ở Cũng do tham


Hàn Quốc bắt Đài Loan hiện những, Đảng Dân
giam hai cựu Bộ cũng phải công chủ tự do cầm quyền
trưởng… được coi khai tài sản của ở Nhật Bản đã mất
là hành động mở mình và rồi đây đa số ghế tại hạ
đầu cho chiến dịch các viên chức cao viện và dấu hiệu
thanh trừng tội cấp trong Chính suy giảm uy tín
phạm tham nhũng phủ cũng sẽ phải vẫn chưa dừng lại.
trong hàng ngũ làm điều đó.
quan chức.

KẾT LUẬN
(Cụ thể, riêng biệt)

Ví dụ 2: “Điểm a, khoản 2 Điều 35 Luật Giao thông


đường bộ năm 2008 quy định lòng lề đường, vỉa hè được sử
dụng cho mục đích giao thông, không một cá nhân, tổ chức
nào được tự ý lấn chiếm để sử dụng cho mục đích cá nhân. Ở
Thành phố này, có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào
cảnh tượng họp chợ, mua bán ngay trên lề đường. Đây là
những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng và khá phổ
biến của người dân Thành phố”.
Lập luận diễn dịch trong ví dụ này có cấu trúc của một
tam đoạn luận với 2 mệnh đề là các tiền đề:

38
- Mệnh đề chính: “Điểm a, khoản 2 Điều 35 Luật Giao
thông đường bộ năm 2008 quy định lòng lề đường, vỉa hè
được sử dụng cho mục đích giao thông, không một cá nhân,
tổ chức nào được tự ý lấn chiếm để sử dụng cho mục đích cá
nhân”, biểu diễn khuôn khổ chuẩn mực có tính khái quát.
- Mệnh đề phụ: “Ở Thành phố này, có thể bắt gặp ở bất
cứ đâu, bất cứ lúc nào cảnh tượng họp chợ, mua bán ngay
trên lề đường”, diễn tả quan sát cụ thể.
Cuối cùng là mệnh đề kết luận của lập luận: “Đây là
những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng và khá phổ
biến của người dân Thành phố”.
Lập luận trên được biểu diễn bằng sơ đồ sau:

Ở Thành phố này,


có thể bắt gặp ở
Điểm a, khoản 2 Điều
bất cứ đâu, bất cứ
35 Luật Giao thông
lúc nào cảnh tượng
đường bộ năm 2008
họp chợ, mua bán
quy định lòng lề
ngay trên lề đường Đây là những
đường, vỉa hè được sử
dụng cho mục đích hành vi vi phạm
(Quan sát cụ thể)
giao thông, không pháp luật nghiêm
một cá nhân, tổ chức trọng và khá phổ
nào được tự ý lấn biến của người
chiếm để sử dụng cho dân Thành phố.
mục đích cá nhân.
(KẾT LUẬN)
(Chuẩn mực, khái quát)

(TIỀN ĐỀ)

39
Đặc điểm quan trọng của lập luận diễn dịch là từ tiền đề
đúng luôn dẫn đến kết luận đúng, nếu lập luận tuân thủ quy
luật, quy tắc logic. Vì vậy, khi những tiền đề càng mang tính
khái quát, chuẩn mực, càng chân xác, tin cậy và phổ quát
thì kết luận nhận được sẽ càng vững vàng, chắc chắn.
Cấu trúc chung của dạng lập luận diễn dịch có thể tóm
tắt bởi sơ đồ:

KHÁI QUÁT, CHUẨN MỰC

QUAN SÁT CỤ THỂ

KẾT LUẬN

Hình 1.1. Sơ đồ biểu diễn lập luận diễn dịch

Các kết luận do kết quả của lập luận diễn dịch có thể
nhận được xuất phát không phải từ một mà từ một số tiền đề
có tính khái quát, chuẩn mực kết hợp với một số quan sát cụ
thể. Dạng lập luận này thường gặp trong các văn bản pháp lý.
Để làm ví dụ, có thể lấy trích dẫn lập luận của Luật sư Phan
Trung Hoài khi bác bỏ những cáo buộc trong bản án sơ thẩm
số 34/2011/HSST ngày 22/6/2011 tuyên phạt ông Vũ Đình
Châu mức án 8 năm 6 tháng tù tổng hợp cả 3 tội “thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (2 năm tù), “cố ý làm trái

40
quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” (6 năm tù) và “che giấu tội phạm” (6 tháng tù) như sau1:
“Thứ nhất, bản án sơ thẩm đánh giá sai lệch bản chất
giao dịch giữa Công ty Xổ số kiến thiết (CTXSKT) và Công ty
Tấn Lợi, có dấu hiệu hình sự hóa quan hệ dân sự - kinh tế,
quy buộc tội danh “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng” đối với ông Vũ Đình Châu không bảo đảm căn cứ
pháp lý.
Thứ hai, về mặt pháp lý, đây thực chất là giao dịch dân
sự - kinh tế hợp pháp, phù hợp về hình thức và nội dung được
quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, đang được các bên
triển khai và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, thể
hiện qua các chứng cứ, tài liệu.
Thứ ba, bản án sơ thẩm đã xác định hậu quả thiệt hại do
hành vi “thiếu trách nhiệm…” là thiếu căn cứ, cách thức và
phương pháp xác định thiệt hại là tùy tiện.
Căn cứ theo Điều 251 BLTTHS năm 2003, do có một
trong những căn cứ được quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều
107 BLTTHS, chúng tôi xin trân trọng kính đề nghị HĐXX
phúc thẩm quyết định chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông
Vũ Đình Châu và quan điểm bào chữa của luật sư:

1
Bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ông Vũ Đình Châu trong vụ án
xảy ra tại Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết tỉnh Bình Dương tại phiên
tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
15/12/2011 (Dẫn từ http://www.hcmcbar.org).
41
1) Tuyên bố ông Vũ Đình Châu không phạm cả 3 tội
“Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” và “Che giấu tội phạm”;
2) Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, trả tự
do cho ông Vũ Đình Châu ngay tại phiên tòa, khôi phục toàn
bộ các quyền và lợi ích hợp pháp của ông Vũ Đình Châu theo
quy định của pháp luật”.
Lập luận trên đây có thể diễn tả vắn tắt qua sơ đồ:

Căn cứ:
- Điều 251 BLTTHS năm 2003...
KHÁI QUÁT, CHUẨN MỰC
-Điểm 1 và điểm 2 Điều 107
BLTTHS....

Thứ nhất…
Thứ hai… QUAN SÁT CỤ THỂ
Thứ ba...

... đề nghị Hội đồng xét xử phúc


thẩm...
1. Tuyên bố... KẾT LUẬN

2. Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm...

1.6.2. Lập luận quy nạp


Ngược lại với lập luận diễn dịch, lập luận quy nạp là lập
luận đi từ những quan sát cụ thể, đơn lẻ, riêng biệt để dẫn đến
42
kết luận mang tính khái quát, phổ biến (từ cái riêng đến cái
chung). Dưới đây là một số ví dụ:
Ví dụ 1: Lời trần tình của bị cáo Nguyễn Xuân Sơn
trong phiên tòa xét xử vụ đại án Ngân hàng Oceanbank:
“Thực ra bị cáo là con người hiền lành, tốt tính. Không chỉ
trong công việc mà cả trong quan hệ bạn bè, suốt bao nhiêu
năm công tác lúc nào cũng nhiệt tình vì đơn vị công tác, vì
đồng chí, đồng nghiệp. Bị cáo cũng có ảnh hưởng rất tốt
trong giới doanh nghiệp, họ rất tin yêu, quý mến… Quy cho
bị cáo tội chiếm đoạt thì oan quá”1.
Ví dụ 2: “Thưa quý tòa, tại thời điểm xảy ra sự việc bị
cáo chỉ là phó phòng địa chính, chỉ là tham mưu giúp việc, ý
kiến của bị cáo chỉ là ý kiến của một cá nhân và chỉ mang
tính tham khảo. Ai cũng biết quyết định chỉ được Chủ tịch
UBND Thành phố ký ban hành nếu có sự thống nhất bằng
văn bản của Hội đồng tư vấn gồm đại diện của các Ban,
Ngành có liên quan. Vì thế, nếu cho rằng hậu quả làm thiệt
hại hơn 10 tỷ đồng trong vụ án này là thuộc trách nhiệm của
bị cáo thì rất vô lý và không khách quan”2.
Trong các ví dụ trên, kết luận (phần gạch dưới) được rút
ra từ những chi tiết, quan sát cụ thể. Có thể mô tả bằng các sơ
đồ tương ứng như sau:

1
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27/4/2018.
2
http://www.hcmcbar.org
43
Với ví dụ 1:

Quy cho bị cáo tội chiếm đoạt thì oan quá

Không chỉ trong công


… bị cáo là việc mà cả trong quan Bị cáo cũng có ảnh
con người hiền hệ bạn bè, suốt bao hưởng rất tốt trong
lành, tốt tính nhiêu năm công tác lúc giới doanh nghiệp,
nào cũng nhiệt tình vì họ rất tin yêu, quý
đơn vị công tác, vì mến.
đồng chí, đồng nghiệp

Sơ đồ này có dạng:

KẾT LUẬN

QUAN QUAN QUAN QUAN


SÁT CỤ SÁT CỤ SÁT CỤ …….. SÁT CỤ
THỂ 1 THỂ 2 THỂ 3 THỂ …

Với ví dụ 2:

44
nếu cho rằng hậu quả làm thiệt hại hơn 10 tỷ đồng trong vụ án
này là thuộc trách nhiệm của bị cáo thì rất vô lý và không
khách quan.

Ai cũng biết quyết định chỉ được Chủ


tịch UBND Thành phố ký ban hành
nếu có sự thống nhất bằng văn bản
của Hội đồng tư vấn gồm đại diện của
các Ban, Ngành có liên quan

bị cáo chỉ là phó chỉ là tham mưu ý kiến của bị cáo chỉ là ý
phòng địa chính giúp việc kiến của một cá nhân và
chỉ mang tính tham khảo

Như vậy, cũng như lập luận diễn dịch, các dữ liệu quan sát
cụ thể trong lập luận quy nạp có thể được kết nối với các căn cứ
đối chiếu, so sánh để rút ra kết luận theo sơ đồ:

KẾT LUẬN

CĂN CỨ ĐỐI CHIẾU,


SO SÁNH

QUAN SÁT QUAN SÁT QUAN SÁT QUAN SÁT


……..
CỤ THỂ 1 CỤ THỂ 2 CỤ THỂ 3 CỤ THỂ…

Hình 1.2. Sơ đồ biểu diễn lập luận quy nạp


45
Khác với lập luận diễn dịch, trong lập luận quy nạp cho
dù các tiền đề là đúng đắn thì kết luận cũng chỉ đúng với
một xác xuất nào đó mà thôi. Nói khác đi, kết luận mà lập
luận quy nạp nhận được luôn tiềm ẩn rủi ro. Do đó để tránh
mắc sai lầm, khi xây dựng lập luận quy nạp cần đảm bảo các
yêu cầu sau:
- Phải khái quát được dấu hiệu bản chất của các sự vật,
hiện tượng, sự việc.
- Chỉ có thể áp dụng cho một nhóm đối tượng cùng loại.
- Kết luận phải được rút ra từ một số lượng mẫu đủ lớn
và phải được kiểm chứng từ thực tế.
Tóm lại, trong mối quan hệ giữa luận cứ và kết luận thì
lập luận diễn dịch và lập luận quy nạp là 2 hình thức lập luận
trái ngược nhau và có thể được biểu diễn bởi sơ đồ:

(Tiền đề) KHÁI QUÁT, (Kết luận)


PHỔ BIẾN
Tiền đề (khái quát, Tiền đề (cụ thể, đơn
phổ biến) càng chuẩn lẻ) càng phong phú,
mực, càng chắc chắn càng rộng, càng bao
thì giá trị của Kết quát… thì Kết luận
luận (cụ thể, đơn lẻ) (khái quát, phổ biến)
càng cao. có xác suất càng lớn.

(Kết luận) CỤ THỂ, ĐƠN LẺ (Tiền đề)

DIỄN DỊCH QUY NẠP

Hình 1.3. Quan hệ giữa lập luận diễn dịch và lập luận quy nạp

46
1.6.3. Lập luận hỗn hợp
Lập luận hỗn hợp là dạng lập luận phối hợp giữa lập
luận diễn dịch và lập luận quy nạp, gồm 2 bước:
- Bước 1: đi từ khái quát đến cụ thể. Thông qua việc mở
đầu bằng cách nêu luận điểm khái quát (bậc 1), sau đó là các
luận cứ diễn giải, thuyết trình.
- Bước 2: đi từ cụ thể đến khái quát. Từ các luận cứ
được nêu ra để đi đến kết luận có tính nâng cao (bậc 2).
Ví dụ1: Thái độ “làng nhàng” là một trở lực rất lớn cho
sự phát triển xã hội (Bậc 1). Một mặt, “làng nhàng” làm cho
xã hội không đủ khả năng phát hiện, sáng tạo các tri thức mới
hoặc cập nhật, ứng dụng các thành tựu tri thức mới mẻ,
phong phú của nhân loại để làm thay đổi số mệnh cộng đồng.
Mặt khác, trong môi trường “làng nhàng”, cái mới, nếu có,
cũng thiếu môi trường thuận lợi để đơm bông, kết trái. Sự
“làng nhàng” còn góp phần tạo nên một xã hội thụ động. Với
một con người cụ thể, nếu năng lực và thái độ sống của anh
ta chỉ ở mức “làng nhàng”, anh ta luôn luôn lệ thuộc vào một
đối tượng khác. Đối tượng ấy có thể là quyền lực, là truyền
thống, là đám đông, kể cả… thần thánh. Khi những cá thể lệ
thuộc, bị động chiếm đa số, họ sẽ trở thành gánh nặng cho xã
hội. Sự lan tỏa sức ì chắc chắn sẽ diễn ra, ảnh hưởng tiêu cực
đến tính năng động xã hội của bộ phận còn lại, biến sức ì
thành đặc tính trội của cộng đồng... Một xã hội “làng nhàng”
là một xã hội không tự quyết được vận mệnh của mình và
thường hứng chịu những rủi ro, bất trắc từ bên ngoài (Bậc 2)”.
1
Đặng Hoàng Giang, “Thời báo kinh tế Sài Gòn”, ngày 23/2/2015.
47
1.6.4. Lập luận phản đề
Đây là dạng lập luận thông qua dùng lý lẽ để phản bác
lại luận điểm đối lập, từ đó khẳng định luận điểm đã đưa ra
ban đầu.
Ví dụ: “Bản án sơ thẩm số…., ngày….. xét xử về việc….
của Tòa án nhân dân quận X, Thành phố P, tuyên xử chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn….
- Căn cứ vào Điều…, Luật…
- Theo quy định tại Điều…, Luật…
- Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng
như lời trình bày của nguyên đơn…
…….
Như vậy, có thể thấy việc Tòa chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là hoàn toàn không có căn cứ và vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng”.
1.7. Giả định và hàm ý trong lập luận
Các luận cứ là căn cứ, là cơ sở có nhiệm vụ hỗ trợ cho
việc rút ra những kết luận, những khẳng định/phủ định hàm
chứa trong luận đề. Tuy nhiên, quá trình dẫn dắt đến những
kết luận còn liên quan và phụ thuộc vào một yếu tố khác, đó
là các giả định. Giả định là phần lập luận mà người nói (hoặc
viết) không đưa ra (ẩn tàng), nghĩa là không hiện diện trong
lập luận nhưng được xem như “hiển nhiên đúng”, là một niềm
tin không được phát biểu thành lời nhưng có ảnh hưởng đến
48
việc hình thành kết luận. Giả định được ví như cầu nối vô hình,
là “chất keo” gắn chặt luận cứ và kết luận, là nhân tố quyết
định độ vững chắc, tin cậy của một lập luận. Mỗi lập luận có
thể có nhiều hơn một giả định.
Chúng ta xét ví dụ sau: “Bạn Hòa đạt được điểm cao
trong kỳ thi Tuyển sinh đại học. Bởi vậy, chắc chắn Hòa sẽ có
kết quả rất tốt khi tốt nghiệp đại học”.
Với lập luận này, chúng ta có:
Kết luận: “Chắc chắn Hòa sẽ có kết quả rất tốt khi tốt
nghiệp đại học”.
Luận cứ: “Bạn Hòa đạt được điểm cao trong kỳ thi
Tuyển sinh đại học”.
Giả định: kết quả của kỳ thi Tuyển sinh đại học là yếu
tố duy nhất quyết định kết quả của quá trình học đại học. Nói
khác đi, giả định ở đây phải là: một người có kết quả đầu vào
Tuyển sinh đại học tốt chắc chắn cũng sẽ có kết quả học tập
tốt ở bậc đại học.
Có thể thấy nếu không có giả định nêu trên thì không
thể rút ra kết luận như trong lập luận này được.
Khác với giả định, hàm ý là những suy diễn mang tính
chủ quan, không bị ràng buộc và cũng không ảnh hưởng đến
giá trị của lập luận mà người nói/nghe có thể đưa (hoặc không
đưa) ra. Chẳng hạn, trong ví dụ nêu trên, hàm ý của người
đọc/nghe có thể là:
- “Học ở bậc đại học đâu đơn giản thế được!”.
49
- “Khối đứa đậu đại học ngon lành mà vẫn không thể
tốt nghiệp được đấy!”.
-“Chẳng lẽ chỉ cần có kết quả Tuyển sinh tốt là có thể
tốt nghiệp đại học mà chẳng cần học hành gì nữa sao?”…
Do hàm ý là những suy diễn mang tính chủ quan nên
nội dung, giá trị của hàm ý phụ thuộc vào văn hóa, trình độ,
tập quán… của mỗi người.
Như vậy, mặc dù không hiện diện, không được nhắc đến
trong lập luận, nhưng với hầu hết các trường hợp, giả định
được xem là thành tố không thể thiếu, có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc xác định kết luận, được xem như những mắt xích ẩn
giấu trong cấu trúc lập luận, có vai trò như một “chất keo”,
kết nối một cách logic luận cứ với kết luận. Từ giả định có thể
suy diễn đến các hàm ý liên quan. Vì vậy, cùng với các luận
cứ, giả định là một trong những điểm cần được hết sức quan
tâm xác định, phân tích và làm sáng tỏ, bởi đây là những cơ
sở chứa đựng những thông tin có giá trị cao để chỉ ra những
điểm đúng/sai, hợp lý/không hợp lý, khả thi/bất khả thi…
được thể hiện trong lập luận. Nhận diện và làm sáng tỏ các
giả định trong lập luận là yêu cầu và là công việc cần thiết,
góp phần nâng cao chất lượng lập luận.
Để thấy rõ hơn sự khác nhau giữa giả định và hàm ý, ta
xét thêm ví dụ sau đây:
Trước việc TAND tỉnh Bình Thuận bồi thường cho
“người tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén hơn 10 tỷ đồng do phải
chịu án oan sai, một lập luận cho rằng: “Hơn 10 tỷ đồng là
mồ hôi, nước mắt của người dân. Không thể làm thế được”.
50
Đây là một lập luận có cấu trúc khá đơn giản. Kết luận:
“Không thể làm thế được” được rút ra dựa trên luận cứ: “Hơn
10 tỷ đồng là mồ hôi, nước mắt của người dân”. Người lập
luận đã ngầm định rằng tiền được sử dụng để bồi thường án
oan sai là tiền từ ngân sách, nghĩa là tiền từ nguồn thuế do
người dân đóng góp (là mồ hôi, nước mắt của người dân).
Như vậy, kết luận “Không thể làm thế được” chỉ đúng nếu
chấp nhận điều kiện lấy tiền ngân sách để bồi thường án oan
sai là điều không được phép làm. Nói khác đi, giả định của
lập luận này là: sử dụng tiền ngân sách để bồi thường án
oan sai là việc làm sai. Vì đó là việc làm sai nên mới có kết
luận là không thể làm thế được.
Với lập luận này, có thể có nhiều hàm ý khác nhau.
Chẳng hạn:
- “Ai xử sai thì người đó phải đền chứ, sao lại dùng tiền
Nhà nước để đền?”.
- “Quản lý ngân sách mà tùy tiện vậy sao?”.
- “Xử sai, sao bắt dân phải chịu?”…
Trong một lập luận có cấu trúc phức tạp với nhiều luận
cứ, có thể với mỗi luận cứ sẽ tồn tại một giả định. Xác định
đầy đủ, chính xác các giả định trong lập luận là một kỹ năng
vô cùng quan trọng và cần thiết để tăng cường hiệu lực, sức
thuyết phục của lập luận trong việc khẳng định/phủ định kết
luận mà lập luận đưa ra.
Xét ví dụ: “Việc cố gắng dẹp bỏ các chợ tự phát lấn
chiếm lòng lề đường là nhiệm vụ “bất khả thi” của các cơ
51
quan chức năng. Chợ tự phát mọc lên xuất phát từ nhu cầu
mưu sinh của người dân, là cách để họ duy trì cuộc sống. Vì
thế, dẹp nơi này thì họ sẽ tránh và tìm đến nơi khác. Hơn nữa,
chợ tự phát còn là sự đáp ứng quy luật cung - cầu. Với rất
nhiều người, mua thức ăn ở những chợ nhỏ lẻ đã trở thành
thói quen bởi không chỉ giá cả rẻ hơn mà còn vừa nhanh, vừa
thuận lợi. Một số địa phương đã áp dụng các chế tài mạnh
như xử phạt, tịch thu phương tiện buôn bán của những người
lấn chiếm lòng lề đường… Tuy nhiên, do không đủ lực lượng
và phương tiện để túc trực 24/24 nên chỉ sau một thời gian
ngắn, tình trạng vi phạm lại tái diễn như cũ”.
Trong lập luận này, ta có:
Kết luận chính (K): “Việc cố gắng dẹp bỏ các chợ tự
phát lấn chiếm lòng lề đường là nhiệm vụ “bất khả thi” của
các cơ quan chức năng”.
Để xác định các giả định của mỗi lập luận con, trước hết
ta phải xác định các luận cứ của lập luận chính, nghĩa là phải
xác định được các lập luận con. Với lập luận này, ta có 3 luận
cứ (L) – cũng là 3 lập luận con – đó là:
- L1: “Chợ tự phát mọc lên xuất phát từ nhu cầu mưu
sinh của người dân, là cách để họ duy trì cuộc sống. Vì thế,
dẹp nơi này thì họ sẽ tránh và tìm đến nơi khác”.
Ở đây, luận cứ “Chợ tự phát mọc lên xuất phát từ nhu
cầu mưu sinh của người dân, là cách để họ duy trì cuộc
sống” dẫn đến TK1: “Vì thế, dẹp nơi này thì họ sẽ tránh và
tìm đến nơi khác”.

52
Giả định cho luận cứ L1 (G1) có thể là: “Người dân chỉ
có thể mưu sinh bằng cách buôn bán ở chợ tự phát” (hiểu
theo nghĩa đó là cách duy nhất).
- L2: “Hơn nữa, chợ tự phát còn là sự đáp ứng quy luật
cung - cầu. Với rất nhiều người, mua thức ăn ở những chợ
nhỏ lẻ đã trở thành thói quen bởi không chỉ giá cả rẻ hơn mà
còn vừa nhanh, vừa thuận lợi”.
Tiểu kết luận TK2: “chợ tự phát còn là sự đáp ứng quy
luật cung - cầu” với luận cứ hỗ trợ: “mua thức ăn ở những
chợ nhỏ lẻ đã trở thành thói quen bởi không chỉ giá cả rẻ hơn
mà còn vừa nhanh, vừa thuận lợi”.
Giả định cho L2 (G2): “Mua bán ở chợ tự phát giữa lòng
lề đường là một giải pháp đáp ứng quy luật cung - cầu”.
- L3: “Một số địa phương đã áp dụng các chế tài mạnh
như xử phạt, tịch thu phương tiện buôn bán của những người
lấn chiếm lòng lề đường… Tuy nhiên, do không đủ lực lượng
và phương tiện để túc trực 24/24 nên chỉ sau một thời gian
ngắn, tình trạng vi phạm lại tái diễn như cũ”.
Trong L3, TK3 là: “chỉ sau một thời gian ngắn, tình
trạng vi phạm lại tái diễn như cũ” với luận cứ được dẫn ra:
“do không đủ lực lượng và phương tiện để túc trực 24/24”.
Giả định cho L3 (G3): “Khi không đủ lực lượng và phương
tiện thì không thể khắc phục được tình trạng chợ tự phát lấn
chiếm lòng lề đường”.
Từ phân tích trên, ta có thể diễn tả cấu trúc của lập luận
này bằng sơ đồ sau:

53
Chợ tự phát mọc lên Dẹp nơi này
xuất phát từ nhu cầu (G1) thì họ sẽ
mưu sinh của người tránh và tìm
dân, là cách để họ đến nơi khác
duy trì cuộc sống.
(TK1)

(L1)
(TK1)
Việc cố gắng
mua thức ăn ở(L1) dẹp bỏ các chợ
những chợ nhỏ lẻ chợ tự phát tự phát lấn chiếm
đã trở thành thói (G2) còn là sự đáp lòng lề đường
quen bởi không chỉ ứng quy luật là nhiệm vụ
giá cả rẻ hơn mà cung - cầu “bất khả thi”
còn vừa nhanh, vừa của các cơ quan
thuận lợi (TK2) chức năng.

(L2) (K)

chỉ sau một


… do không đủ lực thời gian ngắn,
(G3)
lượng và phương tình trạng vi
tiện để túc trực 24/24 phạm lại tái
diễn như cũ.

(TK3)

(L3)

(L)

54
1.8. Lý lẽ trong lập luận đời thường
Trong khi lập luận theo logic hình thức dựa trên các
luận cứ khoa học, đã được chứng minh, luôn tất yếu đúng thì
lý lẽ trong lập luận đời thường lại là những chân lý thông
thường, có tính kinh nghiệm, không mang tính tất yếu, bắt
buộc. Cùng một hiện tượng, một sự việc nhưng tùy thuộc vào
không gian, thời gian, từng dân tộc, từng nền văn hóa… mà
cách đánh giá, nhìn nhận giá trị cũng khác nhau. Lý lẽ đời
thường không thể chứng minh được tính đúng/sai theo tiêu
chuẩn logic chặt chẽ, nhưng lại được cho là hợp lý theo cách
nghĩ, lối sống, phong tục tập quán, tâm lý và chuẩn mực đạo
đức… của một cộng đồng, một dân tộc. Lý lẽ đời thường
xuất hiện phổ biến trong mọi mặt đời sống xã hội, trở thành
kinh nghiệm, bài học, chân lý hiển nhiên và được nhiều người
thừa nhận.
Theo Lê Thị Hồng Vân, lý lẽ trong lập luận đời thường
bao gồm1:
1.8.1. Lý lẽ khách quan
Trong lập luận đời thường, lý lẽ khách quan là các luận
cứ có cơ sở trong thực tế khách quan, tồn tại xác thực trong
đời sống, làm căn cứ để đánh giá có/không, đúng/sai. Đó là
các văn bản, số liệu, sự kiện, chứng cứ trực tiếp, tồn tại xác
thực trong thực tế khách quan, bao gồm:
a/. Những chứng cứ thực tế có được qua việc xem xét,
điều tra cụ thể, chính xác các sự việc trong thực tế như: diễn
biến sự việc, bằng chứng, các số liệu, bút tích…
1
Lê Thị Hồng Vân, sđd, tr.127.
55
b/. Các văn bản, điều luật, quy chế, quy định, điều lệ…
liên quan đến sự việc hoặc cách phán quyết trước đây về
những sự việc tương tự (án lệ trong xử án).
Lý lẽ khách quan là loại lý lẽ có sức thuyết phục cao
trong lập luận vì nó dựa trên các căn cứ đã được thừa nhận
hiển nhiên, các bằng chứng tồn tại cụ thể, xác thực trong thực
tế, có quan hệ nhân quả trực tiếp với sự việc, chứ không phải
do suy diễn cảm tính. Vì vậy, đây là loại lý lẽ giúp cho lập
luận chặt chẽ, có cơ sở vững chắc, khó lòng bác bỏ.
Ví dụ: “Điều 82 Bộ luật Tố tụng Dân sự (TTDS) quy
định rõ những tài liệu, hiện vật được xem là nguồn chứng cứ
trong tố tụng dân sự. Theo đó, chứng cứ để giải quyết vụ án
dân sự được thu thập từ các nguồn sau đây:
- Các tài liệu đọc được, nghe - Biên bản ghi kết quả thẩm
được, nhìn được. định tại chỗ.
- Các vật chứng. - Tập quán.
- Lời khai của đương sự và của - Kết quả định giá tài sản.
người làm chứng.

- Kết luận giám định. - Các nguồn khác mà pháp


luật có quy định.

Chẳng hạn, trong một vụ án tai nạn giao thông, người bị


hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại được một người
cung cấp băng ghi hình diễn biến hiện trường vụ tai nạn giao
thông. Đây là chứng cứ thực tế rất giá trị để xác định nguyên
nhân gây ra vụ tai nạn.
56
1.8.2. Lý lẽ cá nhân (lý lẽ nội tại)
Khác với lý lẽ khách quan, lý lẽ cá nhân là lý lẽ dựa vào
các hành vi cá nhân, dựa vào nhân thân để phán xét về con
người. Dưới đây là các loại lý lẽ cá nhân được sử dụng trong
lập luận với mục đích thuyết phục.
1.8.2.1. Lý lẽ hành vi cá nhân
Lý lẽ hành vi cá nhân coi hành vi cá nhân là những
chứng cứ làm luận chứng cho quy luật nhân quả: lấy phẩm
chất của con người để đánh giá hành vi của họ (nhìn người
đoán việc) và ngược lại, lấy hành vi của một người để suy ra
phẩm chất của người đó (nhìn việc đoán người). Có 4 loại lý
lẽ chung trong lập luận:
+/. Lập luận căn cứ trên hành động: từ hành động để
đánh giá, quy kết về phẩm chất của một người.
Loại 1: nếu một người có hành động (+) thì đó là cơ sở
để đánh giá người đó có phẩm chất (+).
Loại 2: nếu một người có hành động (–) thì đó là cơ sở
để lập luận rằng người đó có phẩm chất (–).
+/. Lập luận căn cứ trên phẩm chất: từ phẩm chất để
đánh giá hành động của một người.
Loại 3: nếu một người có phẩm chất (+) thì đó là cơ sở
để khẳng định hành động của người đó (+).
Loại 4: nếu một người có phẩm chất (–) thì đó là cơ sở
để khẳng định hành động của người đó (–).

57
(Ký hiệu (+) để chỉ những thuộc tính dương như tốt đẹp,
tích cực… và ký hiệu (–) để chỉ những thuộc tính âm như
xấu, tiêu cực…).
Phát ngôn cũng là một loại hành động (hành động ngôn
ngữ - hành vi ở lời), là một loại hành động đặc biệt, do đó từ
bốn loại lý lẽ trên ta cũng có bốn loại lý lẽ tương tự áp dụng
cho việc đánh giá phẩm chất của một người thông qua lời nói:
Loại 1: lời nói có phẩm chất (+) thì con người cũng có
phẩm chất (+).
Loại 2: lời nói có phẩm chất (–) thì con người cũng có
phẩm chất (–).
Loại 3: con người có phẩm chất (+) thì lời nói cũng có
phẩm chất (+).
Loại 4: con người có phẩm chất (–) thì lời nói cũng có
phẩm chất (–).
Ví dụ: “Anh ta đã từng có hai tiền án về tội làm hàng
giả. Vì vậy, việc tiếp tục tham gia vào các hoạt động vi phạm
pháp luật như trong vụ án này chỉ còn là vấn đề thời gian,
làm sao tôi có thể tin những điều anh ta nói?”.
Hay: “Là những cựu quân nhân, đã từng vào sinh ra tử,
họ không bao giờ bán rẻ danh dự và phẩm giá để đồng lõa
với những kẻ cơ hội, tham nhũng”.
Hoặc lời của bị cáo Nguyễn Đức Kiên trong vụ án Ngân
hàng ACB1: “Tôi không bỏ chạy, tôi không trốn chạy trách
nhiệm… dù thời gian đó hộ chiếu của tôi dài hạn, tôi có quan
hệ khắp nơi, tôi chờ cái gì sẽ đến với mình, tôi chịu trách

1
Báo Pháp luật và xã hội, ngày 03/6/2014.
58
nhiệm với những gì mình làm”. Hay: “Vào những năm thị
trường chứng khoán Việt Nam mới bắt đầu, có rất nhiều kẽ
hở để có thể thao túng, tôi biết nhưng tôi không làm”.
1.8.2.2. Lý lẽ nhân thân
Với mục đích thuyết phục, các lập luận thường hay sử
dụng một loại lý lẽ dựa trên quan hệ nhân quả là lý lẽ nhân
thân. Lý lẽ loại này thường thấy trong các hoạt động tố tụng,
như lập luận của Luật sư để gỡ tội cho thân chủ.
Ví dụ: “Bị cáo có nhân thân tốt, cha là liệt sỹ trong
kháng chiến chống Mỹ, các anh chị em đều là cán bộ, viên
chức nhà nước, đều là Đảng viên”.
Hay như lời của cựu Chủ tịch MobiFone trong vụ án
AVG mới đây: “Tôi chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị
cáo ở MobiFone, họ là những người lãnh đạo ưu tú đã xây
dựng MobiFone trong những ngày đầu tiên để trở thành
mạng di động ưa thích nhất, đạt danh hiệu Anh hùng Lao
động trong thời kỳ đổi mới, tích cực nộp ngân sách Nhà nước
có hiệu quả nhất”1.
1.8.3. Lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội
Với mục đích thuyết phục, lập luận đời thường sử dụng
(riêng rẽ hoặc kết hợp) các lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội
như sau:
1.8.3.1. Lý lẽ đạo đức
Lý lẽ đạo đức là loại lý lẽ dựa trên các quy tắc đạo đức
1
Báo Dân trí, ngày 21/12/2019.
59
truyền thống, các quy tắc nhân đạo nói chung trong giao tiếp,
ứng xử. Nhìn chung, đó là những chuẩn mực đạo đức, là
nguyên tắc nền tảng ứng xử trong các mối quan hệ xã hội.
Ví dụ: “Anh ấy với tôi là bạn bè chí cốt, sống chết có
nhau. Trước đây, dù trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh,
chúng tôi vẫn gắn bó bên nhau. Không có lý do gì bây giờ
anh ấy gặp khó khăn thì tôi lại bỏ mặc”…
Hay: “Tôi là cha nên tôi phải làm tất cả, hy sinh tất cả
vì con”.
Đó là những chuẩn mực đạo đức đã được mọi người trong
xã hội chấp nhận, tuân thủ và hành động một cách tự nguyện.
Mọi sự vi phạm đều bị cộng đồng phản đối, lên án. Ngược lại,
dẫu có những hành động sai lầm nhưng vẫn tôn trọng và giữ
trọn những chuẩn mực đạo đức đó thì những hành động sai
lầm cũng dễ được cảm thông. Vì vậy, sử dụng loại lý lẽ này
trong lập luận thường là cách để tìm kiếm sự đồng tình, nhằm
thuyết phục người khác chấp nhận ý kiến của mình.
1.8.3.2. Lý lẽ quyền uy
Khác với các hành động mang tính tự nguyện theo lý lẽ
đạo đức, hành động theo lý lẽ quyền uy là các hành động
mang tính bắt buộc, chịu sức ép, áp lực từ trên xuống. Đây là
loại lý lẽ thường được sử dụng làm chỗ dựa cho những lập
luận được đưa ra để bào chữa cho những hành động mà người
thực hiện không muốn làm, dẫu biết là sai trái mà vẫn phải
làm chỉ vì chịu sự phụ thuộc vào thế lực, quyền uy của người
khác. Chẳng hạn, trong vụ án Minh Phụng – Epco, Trần Thị
60
Thương (vợ của Minh Phụng), là giám đốc một Công ty con
của Minh Phụng đã thanh minh: “Tôi làm theo lệnh của
chồng chứ không biết gì cả”. Luật sư của Trần Thị Thương
cũng lập luận để biện hộ cho thân chủ của mình: “Trần Thị
Thương gần như lệ thuộc hoàn toàn vào chồng. Thông
thường là giám đốc thì phải độc lập điều hành hoàn toàn hoạt
động của Công ty, thế nhưng với Trần Thị Thương thì không
phải như vậy, làm giám đốc là theo yêu cầu của chồng”1.
Trong lập luận, nếu bằng lý lẽ đạo đức người ta có thể
tìm thấy sự đồng cảm, đồng tình nơi người nghe, thì bằng lý
lẽ quyền uy người ta có thể tìm được sự cảm thông nơi người
nghe ở mức độ nào đó khi hiểu rằng: dù là ai thì cũng khó có
thể làm khác trong hoàn cảnh tương tự như vậy.
1.8.3.3. Lý lẽ theo số đông
Lý lẽ theo số đông dựa trên tâm lý ứng xử cộng đồng
đúc kết thành kinh nghiệm như: “Nước nổi, bèo trôi”; “Nhập
gia tùy tục”; “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”; “Đi với
bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”; “Ớt nào mà ớt
chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”; “Lụt lút
cả làng”… Đây là loại lý lẽ cho rằng việc thực hiện một hành
vi nào đó là vì theo thông lệ nhiều người vẫn làm, đã làm,
kiểu như: “Lâu nay mọi người đều làm như vậy”; “Nếu
không làm thì người khác cũng làm”; “Vì thấy mọi người
khen đẹp (tốt)”; “Người khác cũng làm vậy sao không phạt
mà lại phạt tôi?”…
1
Báo Người lao động, ngày 17/7/1999.
61
Lý lẽ số đông được sử dụng phổ biến và tỏ ra khá hiệu
quả trong các hoạt động quảng cáo. Chẳng hạn: “Đây là loại
bột giặt (kem đánh răng) từ lâu đã được người dân của nhiều
Quốc gia trên thế giới tin dùng”, hay: “Từ nhiều năm nay,
sản phẩm của chúng tôi đã trở nên thân thiết với mọi nhà”.
Trong một số trường hợp, lý lẽ theo số đông cũng được
sử dụng nhằm mục đích biện hộ, chối tội. Dưới đây là một số
ví dụ:
Trong vụ án Tân Trường Sanh, bị cáo Phùng Long Thất
(Trưởng phòng Điều tra chống buôn lậu V, Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh) đã đưa ra lý lẽ để biện hộ cho hành
vi nhận tiền hối lộ của mình rằng: “Tòa buộc tôi phải chết
trong khi Hải quan ai cũng làm như tôi. Tiền tôi nhận pháp
luật cấm nhưng xã hội thừa nhận, mọi người biết, Tổng cục
Hải quan cũng biết”1.
Hoặc như bị cáo Nguyễn Xuân Sơn trong vụ án Ocean
Bank, trước câu hỏi của HĐXX về việc có biết quy định món
quà biếu trên 500 nghìn đồng là bị cấm theo Luật Chống tham
nhũng hay không, cũng đã lập luận rằng: “Bị cáo cũng thấy
truyền thống chi quà dịp lễ tết cho lãnh đạo, doanh nghiệp bị
nền kinh tế thị trường làm cho méo mó, đấy cũng là nỗi khổ
của doanh nghiệp… đưa quà bé thì chẳng ai phân tích, đánh
giá gì nhưng mình cũng tự cảm thấy không tương xứng”2.
Tuy nhiên, trong lập luận tại tòa nếu việc viện dẫn lý lẽ

1
Báo Người lao động, ngày 24/4/1999.
2
Theo www.CafeF.vn
62
đạo đức và lý lẽ quyền uy có thể nhận được sự đồng cảm của
người nghe và đem lại hiệu quả thuyết phục đáng kể, thì lý lẽ
theo số đông thường vấp phải sự phản bác, do đó không phải
bao giờ cũng có hiệu quả thuyết phục như mong muốn.
1.8.3.4. Lý lẽ theo thang độ đánh giá
Cơ sở của loại lập luận theo thang độ đánh giá là những
lý lẽ dựa trên sự sắp xếp thang độ của các sự vật theo một
thuộc tính nào đó (như: hơn/kém; tốt/xấu; nhiều/ít; đắt/rẻ,
sang/hèn; mạnh/yếu; cao/thấp…) nhằm giúp người nghe đối
chiếu, so sánh để dẫn đến kết luận có tính thuyết phục trong
lập luận. Lý lẽ này được dùng khá quen thuộc trong lập luận
đời thường và có sức thuyết phục đáng kể, nhất là trong hoạt
động tố tụng khi lập luận để kết tội hoặc gỡ tội.
Ví dụ: “Đến anh chị em ruột thịt mà không đùm bọc
nhau thì nói gì đến người ngoài”.
Lập luận này dựa trên thang độ đánh giá với tiêu chí là
mức độ thân/sơ về tình cảm. Từ đó, thừa nhận một “chuẩn
mực” mang tính tất yếu: đã là anh chị em ruột thịt thì không
thể không thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nếu không tìm thấy
sự yêu thương, chăm sóc, đùm bọc giữa những người thân
ruột thịt thì không thể có cơ hội tìm thấy điều đó trong quan
hệ với người ngoài.
Trong tranh luận ở một số phiên tòa, lập luận theo thang
độ đánh giá thường được sử dụng với mục đích mong giảm
nhẹ tội. Ví dụ: “Chúng ta đã từng tha thứ cho kẻ thù thì tại
sao không thể tha thứ cho những người hôm qua còn là đồng
63
đội”1. Với lập luận này, thang độ được đưa ra là sự đối lập về
thái độ ứng xử với đồng chí, đồng đội và với kẻ thù.
Có thể biểu diễn các lập luận ở hai ví dụ trên dưới dạng
sơ đồ như sau:
Anh chị em Đồng đội THA THỨ
ĐÙM BỌC
ruột thịt

0 0

Người ngoài KHÔNG ĐÙM BỌC Kẻ thù KHÔNG THA THỨ

Tuy nhiên, lý lẽ theo thang độ đánh giá không phải lúc


nào cũng là luận cứ vững chắc, đảm bảo cho sự chặt chẽ trong
hoạt động chứng minh, nghĩa là lý lẽ này vẫn có thể bị phủ
định, bác bỏ. Lý do là một hành động, một sự việc trong thực
tế có thể được nhận thức, đánh giá theo những góc độ, quan
điểm khác nhau, do vậy sẽ được đặt vào các thang độ “đo lường”
hoàn toàn khác nhau. Với cùng một sự vật, hiện tượng, nếu
chiếu theo thang độ này thì có thể mang đến một giá trị xác
tín nhất định nào đó, nhưng khi đặt vào thang độ khác thì giá
trị có thể bị thay đổi, nhiều khi bị đảo ngược.
Để minh họa có thể lấy sự việc một người nhặt được của
rơi có giá trị, đã tự nguyện đem giao nộp để trả lại cho người
bị mất. Sự việc này làm xuất hiện hai cách đánh giá với hai
lập luận như sau:
1
Báo Người lao động, ngày 21/4/1999.
64
- Lập luận 1: cần có hình thức khen thưởng xứng đáng
để khuyến khích, động viên, tôn vinh những tấm gương thật
thà, không tham lam tài sản của người khác (xét trong thang
độ khi nhặt được của rơi, người ta thường không trả lại và
những việc làm tốt như vậy là hành động hiếm hoi).
- Lập luận 2: tài sản nhặt được không phải của mình thì
việc trả lại tài sản cho người bị mất là việc làm bình thường,
không có lý do gì để khen thưởng. Nếu không trả lại, anh sẽ
bị phạm tội vô cớ chiếm đoạt tài sản của người khác và bị xử
lý theo Pháp luật (xét trong thang độ quy định của pháp luật,
chiếm giữ tài sản không phải sở hữu của mình là hành vi vi
phạm phát luật).
Rõ ràng, có sự khác biệt đến mức đối lập về cách đánh
giá (và cách hành xử) giữa hai lập luận trên trước cùng một
hành vi (trả lại của rơi nhặt được) khi đặt sự việc vào 2 thang
độ khác nhau. Có thể mô tả sự khác biệt của hai lập luận này
bằng sơ đồ dưới đây:
(TRẢ LẠI)
KHEN THƯỞNG BÌNH THƯỜNG

BÌNH THƯỜNG PHẠM TỘI


(KHÔNG TRẢ LẠI)
(Lập luận 1) (Lập luận 2)

65
Ở hai thang độ khác nhau, công có thể chuyển thành tội
và ngược lại.
Cũng vì vậy mà dù đặc tính có thang độ là đặc tính quan
trọng nhất của các lý lẽ đời thường, nhưng việc sử dụng luôn
đòi hỏi phải biết cách chọn lựa phù hợp, linh hoạt và khéo léo
thì mới đem lại hiệu quả thuyết phục cao.

66
TÓM TẮT CHƯƠNG 1

1. Lập luận là một hành động ngôn ngữ, dựa trên


những căn cứ (sự kiện, bằng chứng, chân lý…) đã được
thừa nhận, thông qua việc sử dụng, sắp xếp các lý lẽ, cách
diễn đạt, cách phản hồi… để dẫn dắt đến những kết luận.
Mục đích của lập luận là chứng minh, thuyết phục.
2. Giữa lập luận theo logic hình thức và lập luận đời
thường có sự khác nhau về mục đích, phương pháp, quan
hệ, tính phổ quát, tính giá trị.
3. Thành phần lập luận gồm: luận cứ (chứng cứ và lý
lẽ), kết luận và có thể cả các yếu tố chỉ dẫn lập luận.
4. Quan hệ giữa các luận cứ là quan hệ đồng hướng
lập luận, tuy nhiên hiệu lực lập luận có thể khác nhau. Để
dẫn đến kết luận, các luận cứ có thể có vai trò độc lập hoặc
cần có sự liên kết, ràng buộc lẫn nhau.
5. Các hình thức lập luận gồm: lập luận diễn dịch, lập
luận quy nạp, lập luận hỗn hợp và lập luận phản đề. Trong
đó, thường gặp là lập luận diễn dịch và lập luận quy nạp.
- Lập luận diễn dịch: từ những tiền đề mang tính khái
quát, phổ biến, chuẩn mực để dẫn đến kết luận mang tính
riêng biệt, cụ thể (từ cái chung đến cái riêng).
- Lập luận quy nạp: từ những quan sát cụ thể, đơn lẻ,
riêng biệt để dẫn đến kết luận mang tính khái quát, phổ biến
(từ cái riêng đến cái chung).
67
Với lập luận diễn dịch: từ tiền đề đúng luôn dẫn đến
kết luận đúng (nếu lập luận tuân thủ quy luật, quy tắc
logic). Ngược lại, trong lập luận quy nạp dù tiền đề là đúng
đắn, ta cũng chỉ nhận được kết luận đúng với một xác suất
nào đó.
6. Giả định trong lập luận là luận cứ “ẩn tàng”, không
hiện diện trong lập luận nhưng là thành tố không thể thiếu
để rút ra kết luận. Giả định là yếu tố quan trọng quyết định
đến độ vững chắc, tin cậy của kết luận.
7. Bên cạnh lý lẽ theo logic hình thức, lý lẽ đời thường
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức thuyết phục
của lập luận và được sử dụng phổ biến trong các hoạt động
tranh luận.

68
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 1

A. CÂU HỎI

1. Thế nào là một lập luận? Mục đích chủ yếu của lập
luận là gì?
2. Phân biệt và chỉ ra mối quan hệ giữa lập luận theo
logic hình thức và lập luận theo logic không hình thức (lập
luận đời thường).
3. Nêu các thành phần trong một lập luận và cho biết vai
trò của mỗi thành phần.
4. Làm thế nào để nhận biết được kết luận trong một lập
luận?
5. Trình bày các hình thức lập luận. Nêu sự khác nhau
giữa các hình thức lập luận đó.
6. Thế nào là một giả định của lập luận? Giả định có vai
trò quan trọng như thế nào đối với một lập luận?
7. Hãy nêu các loại lý lẽ trong lập luận đời thường và
cho ví dụ minh họa.
B. BÀI TẬP
I. Trong các trích đoạn sau đây, trường hợp nào là một
lập luận? Nếu là lập luận hãy xác định kết luận và luận cứ.
1. “Giáo viên ít quan tâm gợi mở, tạo điều kiện cho học
sinh, sinh viên trao đổi, tranh luận, phản biện. Bản thân người
học cũng chưa xác định đầy đủ mục đích của việc học tập là để
nâng cao năng lực tư duy của bản thân. Hơn nữa, đòi hỏi của
69
thế giới việc làm về kỹ năng tư duy của người lao động chưa
đủ sức gây áp lực với nhà trường”.
2. “Cần nghiêm khắc hơn nữa trong việc xử phạt vi
phạm tốc độ của các phương tiện giao thông ở các khu dân
cư. Tình trạng xe chạy quá tốc độ gây nguy hiểm ngày càng
gia tăng. Các biển báo giới hạn tốc độ hầu như không có tác
dụng. Những đối tượng vi phạm ngày càng công khai coi
thường pháp luật và ngang nhiên tái phạm”.
3. “A bán nhà cho B, hẹn sẽ giao nhà sau 03 tháng, nếu
quá hạn sẽ bị phạt kể từ ngày đáng lẽ giao nhà cho đến ngày
giao thực sự. Hai bên đã đồng ý ghi giá bán căn nhà bằng
USD, nhưng khi trả tiền bán thì sẽ quy đổi sang VNĐ theo hối
suất ngày thanh toán do Ngân hàng Nhà nước công bố. Sau
đó, A giao nhà trễ và bị phạt tiễn lãi. A muốn trả lãi theo
USD là 4%/năm, B đòi trả theo tiền VNĐ 11,5%/năm. Vì thế,
mâu thuẫn giữa A và B vẫn chưa có cách xử lý ”.
4. “Duy trì tính độc lập của thẩm phán là điều không
phải dễ. Họ cũng là con người, có gia đình, quan hệ bạn bè,
có họ hàng thân thích. Tương tự, họ không thể đứng ngoài
những quan hệ quản lý hành chính, những ràng buộc, ảnh
hưởng của quan chức trong các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội. Xuất phát từ lý do đó, nhiều thẩm phán
bị vật chất, quyền lực cám dỗ, bao che, ô dù cho những người vi
phạm pháp luật. Tính “độc lập và tuân theo pháp luật” của các
thẩm phán trong hoạt động xét xử bị ảnh hưởng tiêu cực”.
70
5. “Cơ chế thị trường đòi hỏi tính minh bạch trong giao
dịch. Nếu coi sinh viên là người mua, nhà trường phải trao
quyền cho các em giám sát chất lượng dịch vụ mà các em bỏ
tiền ra mua. Cụ thể, nhà trường phải công khai báo cáo tài
chính, liệt kê cụ thể khoản thu - chi và việc sử dụng các khoản
tăng thu từ học phí như thế nào”.
6. “Luật sư gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro khi bào
chữa cho bị cáo trong một số vụ án hình sự bị dư luận xã hội
lên án mạnh mẽ như giết người, hiếp dâm... Gia đình bị hại
thường có cách nhìn không thiện cảm, có lời nói xúc phạm,
thậm chí có hành vi đe dọa luật sư. Tại một số phiên tòa đã
xảy ra tình trạng bị cáo hoặc các đương sự hành hung hay
lăng mạ luật sư. Một số trường hợp, chủ tọa phiên tòa có biểu
hiện thiếu tôn trọng luật sư. Nghề luật sư là nghề tiềm ẩn
nhiều tủi ro và nguy hiểm”.
7. “Năm 2013, bà A ủy quyền cho ông B bán cho bà X
một thửa đất số 424 ở huyện H. giá 400 triệu đồng. Vụ mua
bán được đưa ra Văn phòng Công chứng V. Bà X đã trả hết
tiền. Trong khi làm thủ tục đăng bộ thì bà X được thông báo
là ông Y đã mua miếng thửa đó năm 2011, với một người
được ủy quyền khác, cũng công chứng tại Văn phòng Công
chứng V. Như vậy, bà A đã lấy tiền từ hai người cho một thửa
đất và Văn phòng V đã công chứng một thửa đất cho hai
người”.
8. “Tâm thiện, tâm ác đều có tác động làm thay đổi rất
nhiều đến kết quả tư duy. Bởi thế, một trong những yếu tố có
ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tư duy là cái Tâm. Có

71
người mang động cơ cá nhân ích kỷ trong mình rất mạnh;
nghĩ gì, nói gì cũng đều lấy mình làm trung tâm, đều vơ vét
hết mọi cái cho mình. Họ mờ mắt, không thấy gì xung quanh
mình. Với họ, tư duy và tâm hồn luôn ngập tràn vị kỷ, hẹp hòi.
Song cũng có rất nhiều người có tâm hướng thiện, trong
sáng, luôn nghĩ đến những điều tốt lành cho bản thân, cho
mọi người và cho cộng đồng. Họ thường xúc động khi nhìn
thấy người khác đau khổ và vui mừng trước hạnh phúc của
mọi người. Với những người đó, tư duy bao giờ cũng phát
triển theo hướng lành mạnh”.
9. “Điều 177 BLDS định nghĩa “vật chia được” là vật
khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử
dụng ban đầu. Các loại tài sản như: gạo, muối, xăng dầu… là
vật chia được. Đối với loại tài sản này, việc phong tỏa một
phần tài sản không ảnh hưởng đến giá trị cũng như công
năng của phần tài sản còn lại. Chẳng hạn, Công ty X có tài
sản 5.000 tấn gạo, Tòa án quyết định phong tỏa một phần tài
sản là 2.000 tấn. Công ty X vẫn có thể mua bán, chuyển
nhượng 3.000 tấn còn lại mà hoàn toàn không bị ảnh hưởng
bởi quyết định phong tỏa tài sản của Tòa án”.
10. “Trong vụ án này, bà K. đã thế chấp căn nhà số 60A
đường T.B.T. cho Ngân hàng Thương mại cổ phần N để vay
tiền. Thế nhưng, trong quá trình giải quyết vụ án, việc Tòa án
hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không đưa Ngân hàng N
vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bỏ sót người tham gia tố tụng. Nhất là khi tài sản
thế chấp là căn nhà số 60A đường T.B.T đã bị án phúc thẩm
72
kiến nghị UBND quận G, thành phố H xem xét quản lý theo
diện tài sản không có người thừa kế. Đây là ví dụ về một sai
lầm nghiêm trọng trong tố tụng”.
II. Hãy biên tập các đoạn lập luận sau đây để nhận được
một lập luận ngắn gọn hơn.
1. “Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhiều tình
tiết chứng tỏ bị cáo Lê Minh Hoàng chỉ thiếu tinh thần trách
nhiệm. Lý do chủ yếu là khối lượng công việc quá lớn, lại
kiêm nhiệm nhiều chức vụ nên đã không thể quán xuyến và
làm tròn trách nhiệm được giao. Rất nhiều cán bộ, công nhân
của Công ty cũng thừa nhận điều này. Về nhận thức chủ
quan, bị cáo có sai lầm là hiểu và vận dụng không đúng các
quy định của pháp luật về đấu thầu và phân cấp quản lý của
Công ty, xuất phát từ động cơ, mục đích là nôn nóng triển
khai thực hiện công nghệ mới, hiện đại lần đầu tiên áp dụng
tại Việt Nam theo chủ trương của Tổng công ty. Thực ra,
những trường hợp nôn nóng với công việc nhưng lại gây hậu
quả xấu không phải bây giờ mới có, chỉ khác là hậu quả mà
bị cáo Hoàng gây ra nghiêm trọng hơn nhiều. Bị cáo hoàn
toàn không có ý thức cố tình làm trái các quy định về quản lý
kinh tế của Nhà Nước, không có mục đích tư lợi. Chúng tôi
nhận thấy lời những khai này là xuất phát từ đáy lòng của
bị cáo”.
2. “Trong các vụ án hình sự, vai trò của luật sư vẫn
chưa được tôn trọng. Lời bào chữa cùng các đề nghị của luật
sư ít khi được HĐXX xem xét. Có trường hợp, luật sư mới bắt
đầu tranh luận, thì thẩm phán yêu cầu luật sư phát biểu ngắn
73
gọn hoặc đang tranh luận thì bị ngắt lời, mặc dù phần tranh
luận có tầm quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của bị cáo.
Nhiều trường hợp, tuy không ngắt lời nhưng thẩm phán cũng
không có thiện chí lắng nghe ý kiến của luật sư. Tòa án xét xử
thường chỉ dựa trên hồ sơ của cơ quan điều tra và bản cáo
trạng của Viện kiểm sát (VKS), nên tội danh cùng mức hình
phạt đã được định hướng từ trước, trong khi Pháp luật tố
tụng hình sự quy định, tại phiên tòa, HĐXX phải căn cứ lời
khai, chứng cứ trong quá trình xét xử để đưa ra phán quyết.
Khi tranh luận với đại diện VKS, rất nhiều trường hợp đại
diện VKS đã không đáp lại ý kiến tranh luận của luật sư hoặc
chỉ tranh luận chiếu lệ”.
3. “Nói chung, giáo dục phương Tây (mà hầu hết châu
Âu và châu Mỹ) đặt nền tảng trên logic. Do đó, tranh luận,
phản biện, hoặc so sánh các ý kiến khác biệt là chuyện không
thể thiếu. Từ thời Trung cổ ở châu Âu, truyền thống tranh
biện đã phát triển mạnh mẽ qua các triết gia Hy Lạp, La Mã,
rồi nối tiếp lại từ thời Phục Hưng cho tới nay. Nền giáo dục
đại học ở những nước này cũng theo một truyền thống đó, nó
đòi hỏi nghiên cứu khoa học dựa trên sự tìm tòi, tranh biện,
so sánh của nhiều người. Trong khi đó, ở châu Á lại đặt trật
tự xã hội và sự tôn vinh người thầy quan trọng và cao hơn
việc liên tục tìm ra sự thật. Trong hơn hai nghìn năm, chúng
ta theo gương Trung Quốc, đó là: Khổng Tử không thể nói
điều gì sai. Chúng ta kỳ thị, áp đảo những ai có ý kiến khác
với “truyền thống” hoặc đặt những câu hỏi “khó trả lời”. Đó
là sự khác biệt căn bản giữa hai nền giáo dục.
74
III. Lập luận dưới đây là lập luận diễn dịch hay quy
nạp? Đâu là giả định trong các lập luận đó?
1. “Siêu thị X bao giờ cũng là Siêu thị có số lượng
khách hàng cao nhất Thành phố không chỉ bởi giá cả ở đây
thường thấp hơn 10% so với các Siêu thị khác mà khách hàng
còn được hưởng nhiều chính sách khuyến mãi hấp dẫn. Bên
cạnh đó, ở đây các dịch vụ chăm sóc khách hàng khá đa dạng
và chu đáo”.
2. “Ở Phần Lan, tỷ lệ người dân sở hữu điện thoại di
động cao nhất so với các nước khác. Hơn nữa, hầu như trong
bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, các thiết bị công nghệ
luôn là phương tiện không thể thiếu ở đất nước này. Phần Lan
chính là quốc gia tiến bộ nhất Thế giới về công nghệ”.
3. “Cùng nhau hợp tác kinh doanh luôn là một giải
pháp tối ưu. Lợi ích đầu tiên là khi có nhiều thành viên cùng
góp vốn thì nguồn tài chính sẽ trở nên dễ dàng, gánh nặng
ngân sách được chia sẻ. Mặt khác, sự hợp tác còn tạo điều
kiện để các thành viên phối hợp, bổ sung kỹ năng, kiến thức
và kinh nghiệm quản lý cho nhau”.
4. “Những luật sư có trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp sẽ luôn cố gắng tối đa tìm kiếm các chứng cớ, tình tiết
để giảm thấp nhất trách nhiệm pháp lý cho thân chủ của họ
và không nên làm bất cứ điều gì bất lợi cho thân chủ của
mình. Vì thế, đòi hỏi quy định luật sư phải tố giác thân chủ là
đòi hỏi không khả thi”.
5. “Nhà nước không nên trực tiếp “ôm” báo chí (và các

75
phương tiện truyền thông khác) mà phải quản lý báo chí bằng
luật pháp. Bởi lẽ, nhân dân chỉ trao cho Nhà nước ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn nhánh “quyền thứ tư” này
nhân dân giữ lại. Mặt khác, chế độ “kiểm duyệt” đối với báo
chí và các phương tiện truyền thông cần phải được xem xét,
tiến tới loại bỏ, vì nó là tiếng nói của nhân dân, là phương
tiện để nhân dân phản biện và giám sát Nhà nước và các thiết
chế quyền lực khác.Báo chí là của xã hội, “tách” các phương
tiện truyền thông khỏi Nhà nước là thái độ thực sự cầu thị,
thực sự tôn trọng lợi ích nhân dân, dân tộc, thực sự muốn
lắng nghe ý kiến phản biện trung thực”.
6. “Trong thực tế, nhiều khi Tòa án quá nhấn mạnh vào
mức độ quan trọng và tin cậy với chứng cứ nhận tội của bị
can, bị cáo. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc Cơ quan
Điều tra tìm mọi cách (kể cả bức cung, nhục hình) để bị can,
bị cáo phải nhận tội. Một nguyên nhân nữa là thiếu sự có mặt
của Viện Kiểm sát trong các buổi làm việc của Cơ quan Điều
tra và sự giám sát của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong hoạt
động điều tra. Đó là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
những bản án oan sai vừa qua”.
7. “Về phía Vietinbank, Ngân hàng hoàn toàn không
biết nội dung thỏa thuận “ngầm” với lãi suất vượt trần giữa
cá nhân Huyền Như với ACB, cũng như việc thực hiện nội
dung thỏa thuận “ngầm” bất hợp pháp này. Vietinbank cũng
hoàn toàn không biết nguồn tiền gửi là của ACB. Tất cả sự
thật này, Vietinbank đều không biết và không thể biết được do
sự “kín kẽ” của ACB. Vietinbank hoàn toàn không có lỗi đối
76
với các sai phạm của lãnh đạo và nhân viên ACB, không có
lỗi đối với thỏa thuận “ngầm” trái pháp luật giữa ACB và cá
nhân Huyền Như, không có lỗi đối với sự tắc trách, vô trách
nhiệm của các nhân viên ACB. Do vậy, ACB phải tự chịu
trách nhiệm về các sai phạm của mình theo khoản 3 Điều 10
Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN và khoản 3 Điều 25
Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà
nước. Vì vậy, Vietinbank không có trách nhiệm trả ACB 718
tỷ đồng”1.
IV. Hãy chỉ ra những lý lẽ đời thường nào đã được sử
dụng trong các đoạn lập luận sau đây:
1. Ủng hộ chủ trương xây dựng nhà hát 1.500 tỷ đồng
tại TP. HCM, một ý kiến cho rằng:“… Nước Mỹ có 280 nhà
hát giao hưởng, các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức mỗi
nước có khoảng 30-58 nhà hát, với châu Á thì Nhật có 14 nhà
hát, nhỏ như Hong Kong cũng có 8 cái, Đài Loan cũng 8 cái,
Phillipines cũng 4 cái. Trong khi đó, TP.HCM không có nổi
một cái. Do vậy, nhu cầu xây dựng những Trung tâm giải trí
hiện đại là rất chính đáng”.
2. “Hầu hết chị em làm nghề bán dâm là những người
lương thiện, có người hôm qua còn là người lao động làm
thuê một nắng hai sương, vì hoàn cảnh éo le mà phải dấn
thân vào nghề “buôn phấn bán hoa”, họ không sung sướng gì
khi làm nghề đó nhưng chẳng biết kêu ai. Hơn nữa, so với
hành vi buôn bán vũ khí mà chúng ta đã công nhận thì hành

1
http://tinnhanhchungkhoan.vn
77
vi bán dâm còn tốt hơn nhiều lần. Bởi vậy, không nên kỳ thị,
có thái độ ác cảm với nghề bán dâm”.
3. “Kết quả nghiên cứu cho thấy tại TP. HCM hoạt
động giao thông có lượng phát thải cao nhất, chiếm 99%
trong tổng phát thải CO, 97% NMVOC (các hợp chất hữu cơ
dễ bay hơi không chứa metan), 93% NOx (khí thải hình thành
từ quá trình đốt khí nitơ), 78% SO2 (lưu huỳnh điôxit), 46%
bụi và 64% CH4 (metan). Và “dẫn đầu bảng xếp hạng” gây ô
nhiễm là xe máy. Cụ thể, chỉ riêng xe máy đã “đóng góp”
90% lượng CO, 65,4% NMVOC, 37,7% bụi và 29% NOx. Xe
máy trở thành nguồn gây ô nhiễm không khí lớn nhất cho
TP. HCM”1.
4. “Không nên nặng nề kết tội những người mắc tội tham
nhũng. Ở Âu Mỹ, nơi được coi là chuẩn mực về văn minh và
dân chủ mà chính khách còn tham nhũng thì chính khách Việt
Nam tham nhũng cũng là chuyện có thể chấp nhận được”.
5. Trước tòa, một bị cáo phân trần: “Bị cáo học hành
chẳng tới đâu, khi được nhờ làm tổng giám đốc với mức lương
10 triệu đồng bị cáo liền nhận lời chứ không hề biết chức
danh của mình là làm gì. Khi nào có hồ sơ cần ký thì các lãnh
đạo sẽ đưa cho bị cáo ký… Bị cáo còn không biết công ty ở
đâu. Quả thật, bị cáo không biết điều đó mang lại cho mình
nhiều hệ lụy đến thế”2.

1
Báo Dân trí, ngày 20/4/2019.
2
Báo Tuổi trẻ, ngày 18/9/2017.
78
6. “Trong những ngày bị tạm giam, bị cáo đã nhiều lần
khóc lóc do bị dằn vặt, ám ảnh bởi tội lỗi của mình và bởi sự
trừng phạt của lương tâm. Dẫu là những giọt nước mắt muộn
màng nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo đã biết ăn năn, hối hận.
Ông bà ta có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”.
Rất mong HĐXX chấp nhận cho bị cáo mức thấp nhất của
khung hình phạt để bị cáo có cơ hội cải tạo, sớm trở về với
cuộc sống lương thiện”.
7. Liên quan đến Thông tư số 57/2015/TT-BCA về việc
quy định trang bị phương tiện phòng cháy chữa cháy trên xe ô
tô, một ý kiến cho rằng: “… hầu hết các cơ quan, doanh
nghiệp và cá nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vận tải đã
bày tỏ sự đồng tình với quy định này và cho rằng việc đầu tư
không tốn kém, không ảnh hưởng đến kinh doanh của doanh
nghiệp”… “và để tự bảo vệ, rất nhiều chủ phương tiện đã
trang bị bình chữa cháy cho xe của mình nhằm hạn chế nguy
cơ và những hậu quả do xảy ra cháy nổ”1.
8. Lời của bị cáo Văn Hữu Chiến trong vụ án “Vũ nhôm”:
“Tôi mong HĐXX xem xét. Tội của tôi không thế đâu... Việc
tôi làm là hoàn toàn vì lợi ích của thành phố, không có lợi ích
cá nhân. Có những việc, đồng chí Bí thư, Chủ tịch HĐND
tuyên bố: cấp trên chỉ đạo, cấp dưới thực hiện, không có ý
kiến gì thêm. Đó là áp lực”2.
9. Lời bị cáo Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Phó Tổng
Giám đốc PVN) trong vụ án Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

1
Báo Công an nhân dân, ngày 09/01/2016.
2
Báo Thanh niên, ngày 07/01/2020
79
(PVN): “Trong 35 năm công tác bị cáo luôn hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lập nhiều thành tích”… “Bản
thân bị cáo có nhiều bệnh, là con trai duy nhất, có mẹ già 80
tuổi. Bị cáo rất xót xa, ân hận. Kính mong HĐXX xem xét
giúp bị cáo sớm được làm lại cuộc đời, hưởng chính sách
khoan hồng của Đảng và Nhà nước, trở thành người có ích
cho xã hội”1.
10. “Khoản 1 Điều 35 Luật Phòng chống tác hại của
rượu, bia quy định: Sửa đổi, bổ sung khoản 8 Điều 8 của Luật
Giao thông đường bộ 2008 về các hành vi bị nghiêm cấm như
sau: “Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”. Như vậy, Nghị
định 100/2019 ra đời đưa ra mức xử phạt với tài xế sử dụng
rượu bia, dù sử dụng nhiều hay ít với tất cả phương tiện là
phù hợp với nội dung Luật Phòng chống tác hại của rượu,
bia. Do đó, Nghị định 100/2019 không vượt Luật”2.

1
Theo CAFEF, ngày 17/01/2018.
2
Theo báo Tiền phong, ngày 06/01/2020.
80
Chương 2.

LẬP LUẬN PHÁP LÝ

Lập luận pháp lý là lập luận trong các giao tiếp của hoạt
động pháp lý, thông qua ngôn ngữ pháp lý để đưa ra những lý
lẽ, chứng cứ nhằm dẫn dắt người nghe/đọc, đối tác đến một
(một số) kết luận pháp lý; chứng minh, khẳng định hoặc phủ
định một (một số) vấn đề pháp lý nào đó.
Lập luận pháp lý được sử dụng phổ biến trong hoạt động
tư pháp, đặc biệt là trong tranh luận nhằm chứng minh một
(hoặc nhiều) luận điểm cũng như để phản bác ý kiến, quan
điểm của người khác.

2.1. Đặc điểm cơ bản của lập luận pháp lý


Lập luận pháp lý – một dạng thức lập luận đặc biệt –
được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tố tụng, điển hình
là lập luận trong tranh luận tại tòa. Mục đích cuối cùng của
lập luận pháp lý là để chứng minh, khẳng định sự đúng đắn
trong quan điểm của mình, đồng thời vạch rõ những sai trái,
phi lý trong quan điểm của đối phương. Để đạt được hiệu quả
cao nhất, lập luận pháp lý triệt để khai thác và sử dụng các kỹ
năng và thủ thuật lập luận, kết hợp tối ưu các điểm mạnh của
các dạng lập luận. Vì vậy, so với các dạng lập luận khác, lập
luận pháp lý có những đặc điểm cơ bản sau:

81
2.1.1. Dạng thức lập luận
Lập luận pháp lý được thể hiện ở cả hai dạng là văn bản
viết (bản cáo trạng, bản bào chữa, bản luận tội…) và văn bản
nói (tranh luận tại tòa). Sự khác nhau cơ bản giữa hai dạng
văn bản này là: trong khi với văn bản viết (văn bản được
chuẩn bị sẵn để đọc trước tòa), người lập luận hoàn toàn có
điều kiện chủ động lựa chọn, sắp xếp, cân nhắc xây dựng các
luận điểm, luận cứ một cách logic, chặt chẽ để hình thành văn
bản lập luận với hiệu lực chứng minh, thuyết phục cao nhất
có thể, làm cơ sở cho hoạt động đối thoại, tranh luận của các
bên đối lập. Với sự chủ động chuẩn bị dưới dạng thức của văn
bản viết, nội dung lập luận là một chỉnh thể thống nhất, gắn
kết liền lạc, khúc triết, cho phép hạn chế tối đa những điểm
yếu, những sơ hở có thể bị đối phương bắt bẻ.
Ngược lại, khi hoạt động lập luận được tiến hành ở dạng
văn bản nói thì những ưu thế trên đây không còn nữa, bởi với
lập luận nói trực tiếp khi tranh luận tại tòa thì tiến trình lập
luận được thiết lập ở lời của hai bên tranh luận trong sự tương
tác và chi phối lẫn nhau, nghĩa là khó có thể đi theo một tiến
trình lập luận được dự kiến trước. Đây là lý do đòi hỏi các bên
khi tranh luận phải có năng lực ứng phó linh hoạt, nhạy bén.
Tuy nhiên, dù ở dạng thức nào thì lập luận pháp lý cũng
luôn đòi hỏi phải là một chỉnh thể có cấu trúc tư duy khúc
triết, chặt chẽ, có sự liên kết logic, sáng sủa giữa các luận cứ
pháp lý với nhau và với kết luận. Đặc biệt, lập luận phải thể
82
hiện rõ ràng, nhất quán nội dung và tư duy pháp lý về vấn đề
đang tranh chấp.
2.1.2. Mục đích và kết quả của lập luận
Các tình huống pháp lý trong thực tế khá phong phú và
đa dạng. Tuy nhiên, dù ở tình huống nào thì lập luận pháp lý
đều có chung một mục đích là nhằm giành được phần thắng
trong các cuộc tranh luận pháp lý.
Như đã biết, lập luận theo logic hình thức hướng đến
tính đúng/sai của chân lý, còn lập luận đời thường nhắm đến
hiệu quả thuyết phục và cả hai dạng lập luận này đều không
đòi hỏi tất yếu phải đi đến một kết luận cuối cùng và duy nhất
mà chỉ đưa ra đề nghị để người đọc/nghe lựa chọn. Ngược lại,
lập luận pháp lý đồng thời hướng đến cả hai mục đích: khẳng
định tính đúng/sai của chân lý (theo logic hình thức) và đạt
được hiệu quả thuyết phục (theo lập luận đời thường), nói
ngắn gọn là “vừa có lý, vừa có tình”. Mục đích đó dẫn đến
kết quả cuối cùng của lập luận pháp lý là xác định phần thắng
cho một bên tranh luận. Đặc biệt, với các cuộc tranh biện tại
tòa thì lập luận của bên buộc tội và gỡ tội bao giờ cũng phải
đi đến một kết cục cuối cùng là phân định đúng/sai, phải/trái,
là sự xác định dứt khoát, rõ ràng kết quả thắng/thua của các
bên, cùng với nó là những được/mất của mỗi bên về phương
diện xã hội, kinh tế, chính trị; về lợi ích, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, thậm chí cả mạng sống; có liên hệ đến quá khứ, tương
lai của một cá nhân hoặc một tập thể. Vì lẽ đó, lập luận pháp
lý luôn có vai trò vô cùng quan trọng, là cơ sở cho sự phán xử
khách quan, công bằng, hợp tình, hợp lý.
83
Có thể nói, đặc điểm về mục đích là đặc điểm có vai trò
chi phối hầu hết các đặc điểm khác của lập luận pháp lý.
Tùy thuộc vào dạng thức lập luận được sử dụng mà cách
đạt đến mục đích cũng có sự khác nhau căn bản. Dạng thức
lập luận bằng văn bản viết là dạng thức được chuẩn bị từ
trước và dùng để đọc trước tòa, do đó thể hiện sự giao tiếp
“thụ động”, tư duy “một chiều”, người lập luận khó có cơ hội
để hình dung, nắm bắt diễn biến thực tế tại tòa để “hiệu
chỉnh”, lựa chọn cách xử lý phù hợp với mục đích mong
muốn. Trái lại, trong dạng thức văn bản nói, phương pháp
trình bày lập luận bằng lời thể hiện sự giao tiếp “tích cực”,
“hai chiều” giữa người trình bày lập luận với người xem xét,
tiếp nhận lập luận. Sự tương tác này không chỉ tạo điều kiện
để người trình bày có cơ hội nhấn mạnh những điểm cần lưu
ý trong lập luận của mình, giúp HĐXX và người trình bày có
điều kiện trao đổi, chất vấn, làm rõ những vấn đề, nội dung
cần quan tâm mà còn cho phép người trình bày theo dõi thái
độ, diễn biến tâm lý cũng như quan điểm của người nghe để
ứng xử, điều chỉnh kịp thời. Sự tương tác qua lại trực tiếp
cũng cho phép người trình bày sử dụng các công cụ bổ trợ
như tác phong, cử chỉ, biểu đạt của giọng nói, ánh mắt… để
tăng hiệu quả thuyết phục HĐXX và các bên liên quan.
2.1.3. Lý lẽ sử dụng và phương pháp lập luận
Để đáp ứng được đòi hỏi“Thấu tình, đạt lý”, lập luận
pháp lý kết hợp một cách linh hoạt, hiệu quả cả hai loại lý lẽ:
lý lẽ khách quan khoa học (đã được chứng minh, kiểm

84
nghiệm là tất yếu đúng) và lý lẽ của lập luận đời thường (là
các tri thức, kinh nghiệm, phong tục, tập quán, tâm lý, đạo
đức, thói quen ứng xử của một cộng đồng nên không tất yếu
đúng ở mọi lúc, mọi nơi).
Có thể thấy rằng, bên cạnh việc sử dụng các lý lẽ khách
quan, khoa học nhằm đảm bảo sự vững vàng cho vế “Lý” của
lập luận, thì sự hiện diện của các lý lẽ đời thường chính là
nhằm tạo chỗ dựa, tạo sức ảnh hưởng và tác động cho vế
“Tình” của lập luận ấy.
Trong các vụ án hình sự, các lý lẽ, chứng cứ khách quan
là yêu cầu bắt buộc bởi đó là cơ sở để buộc tội khi chiếu theo
các điều luật rõ ràng, chặt chẽ, minh định. Ngược lại, với các
vụ án phi hình sự, mỗi tranh chấp là một tình huống khác
nhau và vô cùng đa dạng, phức tạp; các điều luật luôn có tính
khái quát, điển hình, mang tính chung, trong khi các tranh
chấp thực tế lại là cái cụ thể, cá biệt phát sinh trong những
hoàn cảnh khác nhau, vô cùng đa dạng, phong phú, đa chiều.
Vì vậy, trong trường hợp này cần vận dụng nhiều loại lý lẽ
khác nhau, phân tích sự việc theo nhiều chiều, dưới nhiều góc
độ khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề nhằm đạt hiệu quả thuyết
phục cao nhất. Đó là lý do vì sao trong các cuộc tranh luận tại
tòa, các bên tranh luận thường quan tâm kết hợp nhuần
nhuyễn, linh hoạt các loại lý lẽ để xây dựng lập luận chặt chẽ,
sắc sảo, có sức thuyết phục và có ảnh hưởng, tác động mạnh
đến sự đánh giá, nhận định của HĐXX.
Cũng chính sự đa dạng và phong phú của các tình huống
pháp lý trong các vụ án hình sự và phi hình sự đã dẫn đến hệ
85
quả là lập luận pháp lý khó có thể tuân theo một khuôn mẫu
cố định. Thực tế cho thấy trong các văn bản lập luận pháp lý,
mỗi lập luận đều ít nhiều có sự khác nhau về phương pháp
thực hiện tùy thuộc vào những tình tiết và căn cứ pháp lý liên
quan đến vụ việc đó. Tuy vậy, xuất phát từ mục đích mong
muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong việc chứng minh,
khẳng định/phủ định các sự kiện pháp lý, ta có thể khái quát
một nguyên tắc chung cho phương pháp lập luận pháp lý là:
vừa phải tuân thủ các quy tắc suy diễn logic hình thức chặt
chẽ, đồng thời lại phải vận dụng linh hoạt các lý lẽ thực tiễn,
đời thường, nghĩa là không bị giới hạn theo những khuôn mẫu
cố định, cứng nhắc.
Thực tế cho thấy, năng lực kết hợp linh hoạt các loại lý
lẽ và nhạy bén vận dụng các phương pháp lập luận là một
trong những năng lực đặc biệt quan trọng nhằm tạo sức mạnh
cộng hưởng trong việc thuyết phục, giúp giành ưu thế trong
các cuộc tranh luận nói chung và tranh luận pháp lý nói riêng.
Các yêu cầu của việc sử dụng lý lẽ trong lập luận pháp
lý sẽ được trình bày rõ hơn trong mục 2.2.1.
2.1.4. Tính chất của lập luận
Với mục đích giành phần thắng, lập luận pháp lý nói
chung, đặc biệt là lập luận tại tòa luôn là sự đối đầu căng
thẳng, quyết liệt giữa hai bên đối lập về quan điểm, lợi ích.
Tính chất căng thẳng, quyết liệt đòi hỏi lập luận pháp lý phải
có tính logic cao. Tính logic luôn là tiêu chí hàng đầu, là sức
sống, là yêu cầu bắt buộc để tạo hiệu quả thuyết phục cho lập
86
luận pháp lý đưa ra. Tính logic được coi là gốc rễ khởi đầu
đảm bảo cho sự chặt chẽ của lập luận và sự chặt chẽ lại là một
phần không thể thiếu trong nền móng để tạo nên sức thuyết
phục. Vì thế, lập luận pháp lý luôn hướng đến sự đòi hỏi rất
cao về tính logic và mức độ chặt chẽ trong cấu trúc. Tính chất
đối đầu, “một mất, một còn” thể hiện rõ trong ngôn từ, cách
hành văn (với văn bản viết) cũng như các biểu biện ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ (với văn bản nói) mang tính đặc trưng, riêng
biệt của lập luận pháp lý.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân giải thích vì
sao trong lập luận pháp lý, các yếu tố tăng cường hiệu quả lập
luận luôn được huy động đến mức tối đa.
2.2. Các yêu cầu của lập luận pháp lý
Các đặc điểm của lập luận pháp lý đã thể hiện đầy đủ và
rõ nét tính chất đối đầu căng thẳng, gây cấn và không khoan
nhượng trong các hoạt động tố tụng. Để giành phần thắng
trong tranh luận pháp lý, lập luận pháp lý phải đồng thời đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu cơ bản sau:
2.2.1. Yêu cầu về lý lẽ
Đích đến cuối cùng của lập luận pháp lý là sự phân xử
đúng/sai, phải/trái, công/tội… chứ không chỉ là sự nhìn nhận,
xem xét, đánh giá quan điểm chung chung. Hơn nữa, nguyên
tắc cao nhất của pháp luật là phải đảm bảo cho sự phán xử
được tiến hành khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội.

87
Vì vậy, lý lẽ trong lập luận pháp lý phải đáp ứng được vấn đề
cốt tử là làm sáng tỏ bản chất của vụ việc, phản ánh chính xác
và đầy đủ sự thật khách quan, các kết luận phải dựa trên cơ sở
những bằng chứng xác thực. Cũng chính vì yêu cầu đó mà
mặc dù lý lẽ trong lập luận pháp lý gồm có lý lẽ khách quan,
lý lẽ cá nhân và lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội nhưng lý lẽ
khách quan luôn là căn cứ quan trọng nhất, là nền tảng, là
yêu cầu bắt buộc, là đòi hỏi tất yếu và là loại lý lẽ được sử
dụng nhiều nhất.
2.2.1.1. Lý lẽ khách quan
Lý lẽ khách quan bao gồm: các chứng cứ khách quan và
các căn cứ pháp lý.
a/. Các chứng cứ khách quan
Chứng cứ khách quan là các bằng chứng về các tình tiết,
sự việc đã xảy ra trong thực tế. Với một vụ án, mỗi đương sự
có thể đưa ra nhiều chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu
của mình. Tuy nhiên, không phải mọi chứng cứ đều có giá trị
như nhau. Một chứng cứ nào đó có thể có giá trị hơn hoặc
được tin tưởng hơn một chứng khác. Độ tin tưởng của các
loại chứng cứ được gọi là tín lực hay hiệu lực chứng minh của
chứng cứ.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, chứng cứ phải đảm
bảo hội đủ ba thuộc tính cơ bản sau:
- Tính khách quan: là những tài liệu, sự kiện có thật,
phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án đã xảy ra, không

88
bị xuyên tạc, bóp méo theo ý chí chủ quan của con người,
không phụ thuộc vào khả năng con người có nhận biết chúng
hay không, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố
tụng Hình sự quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những
tình tiết khác cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án.
- Tính liên quan: thể hiện ở mối liên hệ khách quan cơ
bản của chứng cứ với sự kiện cần chứng minh. Chứng cứ phải
là cơ sở để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của những
vấn đề cần chứng minh trong vụ án, có mối quan hệ nội tại
với những tình tiết, nội dung của vụ án. Những gì cho dù tồn
tại khách quan nhưng không liên quan đến vụ án thì không
phải là chứng cứ.
- Tính hợp pháp: thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được rút
ra từ những phương tiện chứng minh và được thu thập, kiểm
tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Tính hợp pháp được xác định nhằm đảm bảo giá trị chứng
minh của chứng cứ.
Trong mối quan hệ nội tại giữa các thuộc tính thì tính
khách quan và tính liên quan là nội dung của chứng cứ, còn
tính hợp pháp là hình thức của chứng cứ.
Thông thường, trong quá trình tố tụng người ta chia
chứng cứ làm hai loại: chứng cứ lập trước khi có phiên tòa
(gọi là bằng chứng tiên lập) và chứng cứ tại phiên tòa (gọi là
bằng chứng hậu lập).
89
+ Chứng cứ được lập trước khi có phiên tòa: đó là
các hồ sơ vụ án được lập bởi cơ quan điều tra với các chứng
cứ là những sự kiện, tình tiết đã xảy ra trong thực tế, là các
tang chứng, vật chứng, bút tích, tài liệu, lời khai, biên bản
giám định, thẩm định… đã thu thập và xử lý trong quá trình
điều tra. Những sự kiện, tình tiết được ghi trong văn bản và
được công chứng, chứng thực hợp pháp là sự xác nhận tín lực
của loại chứng cứ này và được xem là tình tiết, sự kiện không
phải chứng minh.
Ví dụ 1: A lập di chúc để lại tài sản cho B. Di chúc được
Công chứng viên chứng nhận. Khi có tranh chấp thừa kế với
tài sản này, B chỉ cần xuất trình bản di chúc nói trên để khẳng
định tài sản đó thuộc về mình mà không cần phản chứng minh
gì thêm.
Ví dụ 2: trong vụ án Minh Phụng – Epco, luật sư bào
chữa cho Nguyễn Ngọc Bích (nguyên Phó Giám đốc phụ trách
tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương, chi nhánh thành phố
Hồ Chí Minh) đã khẳng định rằng: “Không có chứng cứ lời
khai nào thể hiện Nguyễn Ngọc Bích đã tham gia hướng dẫn
thành lập các công ty thuộc nhóm Epco – Minh Phụng”. Đồng
thời, luật sư cũng đưa ra nhiều công văn, biên bản cho thấy
Nguyễn Ngọc Bích cho vay là căn cứ vào tình hình thực tế và
chủ trương của Ban Giám đốc ngân hàng. Đó là cơ sở để
khẳng định: “Vì vậy, không có đủ căn cứ để quy kết bị cáo
Nguyễn Ngọc Bích phạm tội lừa đảo với vai trò đồng phạm

90
giúp sức”1. Đó là những bằng chứng khách quan “nói có
sách, mách có chứng”, “nói phải củ cải cũng nghe” để làm căn
cứ khách quan cho việc đưa ra kết luận một cách thuyết phục.
+ Chứng cứ tại phiên tòa. Đây là những bằng chứng
xuất hiện trong quá trình giải quyết vụ án tại tòa, bao gồm
nhân chứng, sự thừa nhận và sự suy đoán.
● Nhân chứng: là người đứng ra làm chứng, thuật lại
diễn biến của một sự kiện pháp lý hay hành vi pháp lý mà họ
đã trực tiếp chứng kiến. Nhân chứng phải là người trực tiếp
chứng kiến và biết rõ sự việc. Người được nghe lại nội dung
sự việc qua lời người khác, không thể xem là nhân chứng của
vụ án. Luật cũng quy định người mất năng lực hành vi không
thể là nhân chứng.
Về nguyên tắc, lời khai của nhân chứng không thể có giá
trị hơn chứng cứ bằng văn tự. Tức là không thể lấy lời khai của
nhân chứng làm chứng minh khác hoặc chống lại chứng cứ
bằng văn tự. Chẳng hạn, một hợp đồng mua bán nhà ghi đã
thanh toán tiền xong, nếu sau đó có xảy ra tranh chấp, không
thể dùng nhân chứng để nói rằng người mua chưa trả tiền.
● Sự thừa nhận: là lời khai của một bên đương sự
xác nhận về một sự kiện pháp lý, một hành vi pháp lý đã xảy
ra hoặc xác nhận lời khai của người khác là đúng.
Sự thừa nhận có thể phân thành hai loại là sự thừa nhận
trước Tòa và sự thừa nhận ngoài Tòa. Sự thừa nhận trước Tòa
là lời khai của đương sự trước Tòa án. Lời khai này có tín

1
Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 01/6/1999.
91
lực tuyệt đối. Ví dụ: Trước Tòa, A thừa nhận có vay tiền của
B thì không có một bằng chứng nào có thể “đánh đổ” được
lời khai này.
Khác với sự thừa nhận tại Tòa, sự thừa nhận ngoài Tòa
là lời xác nhận của đương sự thể hiện qua thư tín, giấy tờ gửi
cho bên đối tụng và bên này đã cung cấp những tài liệu, giấy
tờ đó cho Tòa án để chứng minh cho các yêu cầu của mình.
Nói chung, sự thừa nhận ngoài Tòa chỉ có tín lực tương đối vì
đương sự có thể nại ra nhiều lý do để vô hiệu hóa sự thừa
nhận này (ví dụ cho rằng do bị lừa dối, cưỡng ép…).
● Sự suy đoán: là việc dựa trên cơ sở một sự kiện đã
biết, có thể suy luận và đi đến kết luận về một sự kiện chưa
biết. Ví dụ: một người đòi chủ con voi phải bồi thường về
việc đám mía của mình bị con voi ăn, dẫm nát. Dù không ai
chứng kiến sự việc voi có dẫm nát vườn mía hay không
nhưng căn cứ vào dấu chân voi giẫm đạp trên đám mía và
căn cứ vào sự kiện trong vùng chỉ có bị đơn có voi, Tòa có
quyền suy đoán chính voi của bị đơn đã ăn và làm hư hại
đám mía của nguyên đơn.
b/. Các căn cứ pháp lý
Các căn cứ pháp lý bao gồm: các điều khoản, các văn
bản quy định, quyết định của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến vụ việc nhằm chỉ ra mối liên quan dẫn
chiếu giữa các chứng cứ khách quan với các căn cứ pháp lý,
là các quy phạm pháp luật có hiệu lực điều chỉnh, làm căn cứ
để đi đến đến kết luận về đúng/sai, có/không… các hành vi
phạm pháp hay các yếu tố cấu thành tội danh. Người có hành
92
vi vi phạm pháp luật chỉ bị khuất phục khi các chủ thể chứng
minh một cách thuyết phục rằng họ đã vi phạm pháp luật,
xâm phạm quyền của người khác, làm phương hại hoặc ảnh
hưởng đến trật tự chung của xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc đưa
ra các chứng cứ khách quan, làm rõ mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm pháp luật với hậu quả xảy ra, thì việc
dẫn ra các căn cứ pháp lý có hiệu lực, làm cơ sở cho những
phán xét là một yêu cầu quan trọng và không thể thiếu để đảm
bảo tính thuyết phục.
Ví dụ1:
“… Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1, khoản 2
và khoản 4 Điều 91; khoản 3 Điều 144; điểm b khoản 2 Điều
227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015;
- Điều 357; Điều 463; khoản 1 Điều 469 Bộ luật Dân sự
năm 2015;
- Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
……….
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị
Kim T. về việc buộc bà Trần Thị Ái H., ông Trần Trung N.
phải trả số tiền vay ngày 15/1/2013...”.

1
Trích bản án số 09/2017/DS-ST ngày 30/3/2017, congbobanan.toaan.gov.vn
93
2.2.1.2. Lý lẽ cá nhân
Một lập luận muốn đạt tới đích “tâm phục, khẩu phục”
phải là lập luận vừa “có tình”, vừa“có lý”. Như đã nói, nếu
như các lý lẽ khách quan là căn cứ để khẳng định sự vững
vàng về “lý” của lập luận, thì các lý lẽ cá nhân được viện dẫn
có mục đích để xác lập và củng cố về “tình” của lập luận đó.
Lý lẽ cá nhân được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động tố
tụng, đặc biệt là lý lẽ nhân thân thường được các luật sư đưa
vào lập luận của mình như một yếu tố, một căn cứ thuyết
phục để tranh thủ sự đồng thuận nhằm “gỡ tội” hoặc giảm nhẹ
hình phạt cho thân chủ. Quy định của pháp luật cũng coi lý lẽ
nhân thân là một tiêu chí được xem xét khi định tội, vì vậy
trong hầu hết các lời biện hộ, các bị cáo cũng như luật sư luôn
cố gắng tìm mọi cách đưa ra lý lẽ nhân thân để tác động vào
những quyết định của HĐXX nhằm giảm nhẹ hình phạt.
Ví dụ1: “Gia đình bị cáo là một gia đình tốt: bị cáo có
cha là Đảng viên, mẹ là công nhân, cả hai đều đang công tác
tại Công ty TNHH một thành viên thuốc thú y Trung ương.
Ông nội, ông ngoại bị cáo đều tham gia Cách mạng lâu năm.
Riêng ông nội bị cáo là Đảng viên được tặng Huy hiệu 50
tuổi Đảng. Cả ông nội và ông ngoại bị cáo đều được tặng
thưởng nhiều Huân chương cao quý của Nhà nước, là những
tấm gương mẫu mực trong gia đình. Chú và cậu của bị cáo
cũng là Đảng viên. Với môi trường gia đình như vậy, tôi tin
rằng bị cáo có điều kiện để tự cải tạo mà không cần phải
cách ly với cộng đồng và xã hội”.
1
http://www.hcmcbar.org.
94
Hoặc như lời của bị cáo Trần Văn Minh – nguyên Chủ
tịch UBND thành phố Đà Nẵng trong vụ án “Vũ nhôm”: “Ba
tôi là cán bộ bị Mỹ bắt ra Côn Đảo 18 năm tù, mẹ tôi cũng
phải ở tù 7 năm. Giờ Viện kiểm sát buộc tôi 25 năm bằng y số
năm ông già tôi, bà già tôi ở tù của Mỹ... Tôi tham gia phong
trào sinh viên miền Nam, sau cũng tham gia về xây dựng quê
hương”1.
Trong thực tế, lý lẽ nhân thân được ví như “con dao hai
lưỡi” tùy vào mục đích của người sử dụng. Nếu bên “gỡ tội”
sử dụng lý lẽ nhân thân nhằm mục đích làm giảm nhẹ tội cho
bị cáo, thì ngược lại bên “buộc tội” lại sử dụng làm chỗ dựa
để làm tăng nặng tội danh của bị cáo. Đây là hiện tượng xuất
hiện khá phổ biến khi các bên liên quan sử dụng lập luận của
mình để tranh luận trong hoạt động tố tụng.
Ví dụ2: Cáo trạng của Viện kiểm sát đối với bị cáo Trần
Văn Lệ trong vụ án “Hải luận” về tội buôn bán heroin đã nêu:
“Trần Văn Lệ nguyên là Đội trưởng Đội Cảnh sát phòng chống
tội phạm về ma túy huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Là Đội
trưởng phòng chống tội phạm ma túy của một huyện miền núi
có biên giới giáp Lào, nhưng Trần Văn Lệ lại có nhiều điều
kiện hiểu biết và có các quan hệ với các đối tượng xấu, biểu
hiện sự biến chất trong công tác cùng với việc nghiện ma túy
nên vào tháng 8/2001 Trần Văn Lệ bị sa thải ra khỏi ngành
Công an. Mặc dù vậy, bị cáo Lệ không thức tỉnh về những

1
Báo Tiền phong, ngày 07/01/2020.
2
Lê Thị Hồng Vân, sđd, tr.230.
95
việc đã làm mà còn tiếp tục giao du quan hệ với các thành
phần xấu, từ đó lao vào con đường phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, không lối thoát…”.
Với ví dụ này, cái chức danh “nguyên là Đội trưởng đội
cảnh sát phòng chống tội phạm ma túy” nhưng lại phạm tội
buôn bán ma túy là tình tiết để tăng nặng tội danh của bị cáo.
2.2.1.3. Lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội
Cùng với lý lẽ cá nhân, các lý lẽ theo kinh nghiệm xã
hội cũng được sử dụng trong lập luận pháp lý với mục đích hỗ
trợ, làm gia tăng sức thuyết phục, biện hộ. Tuy vậy, mức độ
ảnh hưởng của các loại lý lẽ này thường tỏ ra hạn chế. Sau
đây là một số ví dụ:
a/ Lý lẽ đạo đức
Lý lẽ đạo đức đề cao thái độ ứng xử tôn trọng đạo đức,
tôn trọng giáo lý truyền thống tốt đẹp, do đó nếu một hành vi
dù có phạm luật nhưng nếu được lý giải theo hướng coi trọng
đạo đức thì vẫn dễ dàng nhận được sự cảm thông của người
nghe. Đây chính là lý do vì sao các luật sư và bị cáo thường
sử dụng lý lẽ đạo đức để biện hộ trong khi tranh luận tại tòa.
Trong thực tế, nhiều vụ án kinh tế mà quan hệ giữa các bị cáo
là quan hệ của những người thân ruột thịt trong gia đình (cha
– con, vợ – chồng…) hoặc là quan hệ của những người đã có
quá trình gắn bó, sẻ chia, đồng cam cộng khổ, nặng nghĩa ân
tình với nhau. Với những ràng buộc tình cảm như vậy, việc
phải nhúng tay vào những hành động phạm pháp là điều mà
họ biết là sai nhưng “không thể làm khác” được.
96
Ví dụ: trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm đã tự
bào chữa cho hành vi chủ mưu của mình là: “Tôi thề danh dự
nếu tôi biết buôn lậu thi ra đường tôi chết. Tôi là cha không
lẽ đi đổ tội cho con để trời đánh tôi sao?”1.
Hoặc như lời của luật sư Nguyễn Đình Hưng, bào chữa
cho bị cáo Dương Tự Trọng bị truy tố về tội tổ chức đưa
người trốn ra nước ngoài (người đó lại là em ruột của bị cáo),
đã cho rằng: “Tôi nghĩ tội như thế là đúng. Nhưng việc anh
giúp em bỏ trốn là việc tất yếu của người Việt, máu chảy ruột
mềm, môi hở răng lạnh”2.
Lý lẽ đạo đức không chỉ là lý do để các bị cáo và luật sư
viện dẫn để “gỡ tội” mà có khi cũng được HĐXX làm căn cứ
để phán xét theo hướng ngược lại, nghĩa là dựa trên hành vi vi
phạm đạo đức để tăng nặng hình phạt. Đây cũng là trường
hợp hay gặp trong hoạt động xét xử.
Ví dụ: trong bản luận tội vụ án Trần Đình Hải và đồng
bọn can tội giết người, trên cơ sở phân tích những mâu thuẫn
trong các quan hệ “tình ái” giữa Hải và Tiến với cùng một
phụ nữ, dẫn đến hành vi giết người của Trần Đình Hải, đã chỉ
ra lý do đạo đức đáng bị trừng trị: “Về mặt đạo đức xã hội, ở
đây chúng ta phải lên án mạnh mẽ đó là: cả bị cáo Hải và
Tiến đã có vợ con, có một gia đình để quan tâm chăm sóc và
chia sẻ, các bị cáo đã không giữ được sự thủy chung một vợ,
một chồng, là nét đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam. Các bị
cáo đã đi ngược lại chuẩn mực đạo đức của xã hội, đạo lý vợ

1
Báo Tuổi trẻ, ngày 01/4/1999.
2
Báo Đời sống và Pháp luật, ngày 06/01/2014.
97
chồng. Chính từ mối quan hệ bất chính này mà một người vô
tội, một người chồng, người cha của ba con nhỏ đều chưa đến
tuổi trưởng thành đã bị tước đoạt mạng sống một cách oan
uổng”1.
b/ Lý lẽ theo số đông
Trong lập luận pháp lý, hiệu quả thuyết phục của lý lẽ
theo số đông thường rất hạn chế, dù rằng trong thực tế có
không ít trường hợp người lập luận đã sử dụng lý lẽ số đông
như một “cứu cánh” với hy vọng gia tăng sức thuyết phục. Lý
do là bởi một hành vi dù được số đông ủng hộ, được coi là lẽ
thường (hợp với “lệ làng”) nhưng xâm phạm ý thức thượng
tôn pháp luật (coi thường “phép nước”) thì khái niệm “số
đông” chỉ có thể được xem là sự viện cớ để chống chế, khó có
thể được coi là yếu tố làm giảm nhẹ cho hành vi phạm pháp.
Việc sử dụng khiêm cưỡng như vậy, không những không làm
gia tăng hiệu lực thuyết phục, mà còn gây tác động tiêu cực
ngược lại. Đó là lý do vì sao lý lẽ theo số đông thường rất hạn
chế được sử dụng trong lập luận pháp lý.
Ví dụ: bị cáo Nguyễn Minh Thu (bị truy tố về tội danh
lạm dụng chức vụ và cố ý làm trái tại phiên tòa Oceanbank)
khi tự bào chữa cho hành vi bán ngoại tệ vượt trần quy định
của Nhà nước, đã lý giải: “Thời gian đầu, Oceanbank không
tham gia mua bán ngoại tệ sai quy định. Tuy nhiên, trước tình
trạng toàn bộ hệ thống ngân hàng phải bán ngoại tệ thì
Oceanbank cũng bắt buộc phải bán ngoại tệ để giữ chân
khách hàng. Doanh số ngoại tệ tại ngân hàng rất thấp, là một
1
Trang Web Phòng Luật sư APEC Việt Nam - Đoàn Luật sư Hà Nội.
98
ngân hàng nhỏ và bị cuốn theo các ngân hàng khác về mua
bán ngoại tệ”1.
c/ Lý lẽ quyền uy
Tương tự như lý lẽ đạo đức và lý lẽ theo số đông, lý lẽ
quyền uy thường được xem là “công cụ” để các luật sư và bị
cáo viện dẫn với mục đích bào chữa cho nguyên nhân của
hành động vi phạm pháp luật là do hoàn cảnh buộc phải tuân
thủ khi phải làm việc dưới sự chi phối quyền lực của người
khác. Thông thường, bên trong lý lẽ quyền uy có gốc rễ của lý
lẽ đạo đức, nghĩa là việc chấp nhận sự chi phối của quyền lực
cũng là chấp nhận tôn tri trật tự: cấp dưới phải chấp hành cấp
trên, nhân viên phải tuân lệnh thủ trưởng, vợ phải nghe
chồng… vốn là cách ứng xử đã trở thành truyền thống. Bởi
vậy, lý lẽ quyền uy dễ nhận được sự cảm thông, chia sẻ của
người nghe.
Ví dụ: trong vụ án cố ý làm trái và tham ô tài sản xảy ra
tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng Công ty Xây
lắp Dầu khí Việt Nam (PVC), bị cáo Vũ Hồng Chương (cựu
Trưởng ban Quản lý dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2
đã phân trần: “Tôi là đơn vị cấp dưới, là đơn vị phụ thuộc nên
phải thực hiện mệnh lệnh của cấp trên. Trước sức ép của
công việc, dưới áp lực “trên đe dưới búa” do sự chỉ đạo
quyết liệt của Chủ tịch tập đoàn, tôi chỉ là một mắt xích nhỏ
trong cả chuỗi mắt xích của Tập đoàn. Tôi buộc phải ký

1
www.CafeF.vn
99
chuyển tiền dù biết việc này vi phạm Nghị định 48. Nếu không
ký người ta sẽ dọa tôi là nhũng nhiễu nhà thầu...”1.
d/ Lý lẽ theo thang độ đánh giá
Lý lẽ theo thang độ đánh giá vận dụng sự thay đổi cách
nhìn nhận, đánh giá một sự việc khi chuyển từ thang độ này
sang thang độ khác, từ đó làm thay đổi – thậm chí làm đảo
ngược – thái độ, cách nhìn nhận về chính sự việc đó. Đây
cũng là loại lý lẽ có tác dụng đáng kể trong việc tạo hiệu ứng
thuyết phục, vì thế thường được sử dụng khá phổ biến trong
lập luận pháp lý với mục đích gỡ tội/kết tội.
Dưới đây là một số ví dụ:
1. Sự đối lập ý kiến về việc nên hay không nên công
nhận hôn nhân đồng tính xuất phát từ việc đặt sự việc này ở
hai “thang độ” khác nhau2. Ở góc nhìn về mục đích của hôn
nhân, ý kiến phản đối cho rằng: “Kết hôn là sự kết hợp giữa
Nam và Nữ để giải quyết nhu cầu sinh lý và nòi giống, đó
phải là hôn nhân dị tính. Việc cho phép hôn nhân đồng tính sẽ
ảnh hưởng đến 22 triệu hộ gia đình Việt Nam. Bản thân tôi
thấy không nên thay đổi Luật”. Với ý kiến đồng tình, sự việc
lại được đặt trong góc nhìn của Pháp luật về quyền được yêu:
“… chúng ta phải tôn trọng quyền được yêu của người đồng
tính theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình chứ không
đơn giản là sống với nhau… chúng tôi khích lệ và ủng hộ Bộ
Tư pháp trong lần sửa đổi này để tạo môi trường cho người
đồng tính”.

1
Báo Pháp luật, ngày 11/01/2018.
2
VNExpress, ngày 13/7/2012.
100
2. Trước việc người dân xã Mai Đình (Sóc Sơn – Hà
Nội) vô cớ bắt bớ, đánh đập 2 người phụ nữ bán tăm vì nghi
họ vào làng để bắt cóc trẻ em, đã có ý kiến bày tỏ sự chia sẻ,
cảm thông và đồng tình với nỗi bức xúc và cách hành xử của
người dân xã Mai Đình. Tuy nhiên, Luật sư Trần Tuấn Anh
đã không đặt sự việc trên trong mối quan hệ mang tính tâm lý
và quan hệ dân sự thông thường mà đặt trong thang độ của
hành vi vi phạm pháp luật hình sự1: “Dưới góc độ pháp luật,
đây là hành vi vi phạm pháp luật hết sức nghiêm trọng bởi
những người dân này đã vô cớ xâm phạm tới sức khỏe và tính
mạng của những người mình không quen biết. Cho dù 2 người
phụ nữ kia có phạm tội thì người dân cũng không được phép
tự cho mình quyền được xâm phạm tới sức khỏe và tính mạng
của họ”… “Sức khỏe và tính mạng con người, kể cả đối với
tử tù trước khi tử hình đều được bảo vệ tuyệt đối, không ai có
quyền được xâm phạm”. Từ đó, Luật sư kiến nghị phải xử lý
hành vi của những người dân quá khích theo Điều 104 Luật
Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009: “Người nào
gây tổn hại sức khỏe, tính mạng của người khác tỉ lệ thương
tật từ 11% trở lên thì hình phạt nặng nhất là chung thân”,
chứ không thể chỉ là sự cảm thông, “cho qua” như quan niệm
của một bộ phận dư luận.
2.2.2. Yêu cầu về ngôn ngữ
Những nét khác biệt về đặc điểm và yêu cầu của lập
luận pháp lý không chỉ chi phối các yêu cầu về tính đa dạng
và phong phú trong việc sử dụng lý lẽ, mà còn làm xuất hiện
1
Cổng thông tin điện tử Hội nhà báo Việt Nam, ngày 24/7/2017.
101
nét khác biệt về ngôn ngữ của lập luận pháp lý so với các
dạng lập luận khác, cụ thể:
2.2.2.1. Về cấu trúc ngữ pháp
Theo tư duy thông thường, kết luận về một vấn đề chỉ
được đưa ra khi đã có đầy đủ các căn cứ (hình thức diễn giải
quy nạp). Tuy nhiên, đối với kết luận pháp lý thì đôi khi sự
thuyết phục lại cao hơn nếu tiến hành theo cách ngược lại,
nghĩa là khẳng định nổi bật kết luận trước, sau đó mới lý giải
bằng những chứng cứ hoặc các nguyên tắc pháp luật như: đạo
luật, điều luật, án lệ, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật…
sẽ được áp dụng để khẳng định kết luận đã được đưa ra.
Ví dụ: một luật sư có thể bắt đầu lập luận của mình bằng
sự khẳng định: “Trong vụ án này, thân chủ của tôi, Nguyễn
Văn T. sẽ không thể bị cáo buộc về hành vi cố ý gây thương
tích như nội dung cáo trạng. Kết luận này được dựa trên những
căn cứ sau đây…”.
Về mặt cấu trúc, được sử dụng nhiều nhất là dạng thức
cấu trúc câu trần thuật khẳng định/phủ định trực tiếp nguyên
nhân – kết quả, vì đây là dạng thức thích hợp hơn cả để thể
hiện thái độ mạnh mẽ, đanh thép, có sức thuyết phục cao.
Dưới đây là một số ví dụ:
Ví dụ 1:“Vì vấn đề thiệt hại chỉ được xem là yếu tố bắt
buộc của cấu thành tội phạm trong một số trường hợp nên
các khái niệm “gây hậu quả nghiêm trọng” và “gây thiệt hại
nghiêm trọng” không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với nhau”.
102
Ví dụ 2: “Do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ căn cứ vào
sự thỏa thuận hay ý chí của các bên tranh chấp để đưa ra
kết luận, chứ không căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội
phạm đã được quy định trong BLHS để xem xét, nên đã
không khởi tố và bỏ lọt tội phạm”.
Vì (Do) A nên B (không B).
Ví dụ 3: “Trần Đàm không chủ mưu buôn lậu, vì từ
người làm công đến các doanh nghiệp nhập hàng cho Công ty
Tân Trường Sanh và các tư nhân tiêu thụ hàng của Công ty
đều không có quan hệ với Trần Đàm, mọi việc đều được
thông qua Trần Quang Vũ”1.
B vì A.
Một số kiểu cấu trúc khác như điều kiện - kết quả, hay
nghịch nhân quả được nêu ra dưới đây, cũng được sử dụng,
mặc dù với tần suất ít hơn.
Kiểu cấu trúc Ví dụ
“Nếu những tình tiết, sự kiện mà đương sự
đưa ra đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
Nếu A thì B luật hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật thì đương
sự không có nghĩa vụ phải chứng minh cho
những tình tiết, sự kiện đó”.

1
Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 17/4/1999.
103
Giá (như) A “Giá như bị hại không quá manh động, không
thì B điên cuồng truy sát, đẩy bị cáo vào tình thế
hoảng loạn, phải dùng vũ khí để tự vệ thì hậu
quả đâu đến nỗi bi thảm như hôm nay”.
Tuy A nhưng “Tuy đây là lời nhận tội của bị cáo nhưng
B (không B) không thể được coi là chứng cứ vì không phù
hợp với các chứng cứ khác của vụ án”.
Tuy A nhưng “Tuy biết rõ Công ty A đang trong tình trạng
(song) vì X khó khăn, không đủ năng lực tài chính và kỹ
(không X) nên thuật để thi công công trình, nhưng bị cáo vẫn
B (không B) cương quyết giao cho Công ty A làm tổng thầu
thực hiện dự án, nên đã dẫn đến hậu quả gây
thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng”.

Bên cạnh việc dùng cấu trúc lập luận dưới dạng câu trần
thuật khẳng định/phủ định trực tiếp nêu trên, thì cấu trúc lập
luận dưới dạng câu hỏi chất vấn cũng có thể được sử dụng để
khẳng định/bác bỏ trong tranh luận tại tòa với mục đích khẳng
định (với bên buộc tội) hoặc phủ định (với bên gỡ tội) đối với
các hành vi phạm tội. Câu hỏi được sử dụng trong lập luận
pháp lý có thể là dạng đóng hoặc mở.
Câu hỏi mở được dùng với mục đích thể hiện thái độ
khẳng định/phủ định để bác bỏ quan điểm của đối phương về
một sự việc.
Ví dụ: “Lãnh đạo VN Pharma buôn thuốc giả, sao xử
tội buôn lậu?”.
Hay: “Chẳng nhẽ một người đã trải qua nhiều năm làm

104
quản lý, am hiểu Pháp luật như ông ấy mà còn vấp phải những
sai phạm sơ đẳng như vậy được sao?”.
Câu hỏi đóng, đưa ra chất vấn ngược hướng với quan
điểm, kết luận của phía đối phương nhằm phủ định, bác bỏ
quan điểm, kết luận ấy.
Ví dụ: “Có thể khởi tố người ra lệnh bắt khi họ bắt
đúng đối tượng phạm tội và Tòa án đã xét xử, kết án đối với
người đã bị bắt không?”.
Hay: “Có thể tồn tại một nghịch lý tố tụng theo kiểu vừa
xét xử, kết án người bị bắt về một tội phạm nào đó, lại vừa
khởi tố người ra lệnh bắt về hành vi bắt người trái pháp luật
đối với chính người phạm tội đó hay không?”.
Trong câu hỏi đóng, luận điểm bị chất vấn là luận điểm
bị phủ định.
Tuy nhiên, có thể thấy cách sử dụng cấu trúc câu hỏi
chất vấn trong lập luận tại tòa có một nhược điểm là đưa ra
các kết luận khẳng định một cách gián tiếp, vì thế tác dụng
thuyết phục trong tranh luận phần nào bị hạn chế. Điều này
xuất phát từ mục đích của bất cứ cuộc tranh luận tại tòa nào
cũng phải nhằm phân định được “thắng - thua”, nghĩa là khẳng
định dứt khoát, rõ ràng sự đúng đắn trong quan điểm của
mình và sai trái trong quan điểm của đối phương. Mục đích
đó dẫn đến sự căng thẳng, gây cấn, quyết liệt của quá trình
tranh luận và đòi hỏi quan điểm mà các bên đưa ra bắt buộc
phải rõ ràng, hiển ngôn và ngắn gọn chứ không phải theo kiểu
“hàm ngôn” như kiểu chất vấn qua cách đặt câu hỏi.
105
2.2.2.2. Về từ vựng
Yêu cầu đầu tiên là ngôn ngữ dùng trong lập luận pháp
lý cần phù hợp với “thuật ngữ” pháp lý liên quan. Ví dụ: nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bị cáo, bị
can, Cơ quan điều tra, Hội đồng xét xử…
Ngoài ra, khác với lập luận đời thường, lập luận pháp lý
đòi hỏi sử dụng các từ ngữ có tính chất khẳng định dứt khoát,
đanh thép như: được, phải, không được, không phải, không
thể…, tránh sử dụng các từ biểu hiện thái độ dè dặt khiêm tốn,
mềm mỏng như: nên, không nên, phải chăng, liệu có phải, giá
như, nếu như… Thực tiễn cho thấy những người có năng lực
thuyết phục là những người thường sử dụng lối lập luận khẳng
định và dứt khoát.
Trong thực tế, với những trường hợp mà mục đích thuyết
phục, tranh thủ sự đồng tình của người đọc/nghe được ưu tiên
hàng đầu (ví dụ trong các tranh luận tại Tòa), thì việc lựa
chọn từ ngữ trong các lập luận là một trong những đòi hỏi
quan trọng cần quan tâm, bởi điều đó có ảnh hưởng rất lớn
đến suy nghĩ, thái độ và cảm xúc của người đọc/nghe. Dưới
đây là một số kỹ năng sử dụng từ vựng có thể được áp dụng.
- Lựa chọn những từ tạo cảm xúc: ngôn từ có tác động
mạnh đến cảm xúc của con người. Với cùng một tình huống
cụ thể, việc mô tả bằng những ngôn từ khác nhau có thể hoặc
làm tổn thương, gây căng thẳng, bực bội, hoặc ngược lại tạo
ra thiện cảm, an tâm, thậm chí tin cậy đối với người đọc/nghe.
Vì vậy, khi muốn đưa ra thông điệp thuyết phục của mình,

106
cần phải cân nhắc tác động tình cảm của mỗi từ và cụm từ.
Khi muốn khơi gợi tình cảm, hãy dùng những từ (cụm từ) có
tác động mạnh, khơi dậy cảm xúc, ngược lại khi muốn giảm
nhẹ một sự kiện hay tình huống nào đó, có thể dùng những từ
“trung tính” hơn, không gây cảm xúc. Chẳng hạn, có thể dùng
từ “sai phạm” thay cho “phạm tội”, “quyền từ bỏ” thay vì
“hủy bỏ”,“thỏa thuận” thay vì “hợp đồng”, “phí dịch vụ” thay
vì “hoa hồng”, “thách thức” thay vì “khó khăn”… Lựa chọn từ
ngữ cũng được áp dụng khi cần nói giảm, nói tránh, mà thực
chất là thay thế một từ gây cảm giác khó chịu bằng một từ
nhẹ nhàng hơn nhằm mục đích làm hạ nhiệt, giảm sự căng
thẳng để tranh thủ sự ủng hộ, cảm tình của người đọc/nghe.
- Sử dụng các con số: mục đích thuyết phục có thể được
thực hiện thông qua việc nhấn mạnh hay giảm nhẹ các con số.
Khi muốn nhấn mạnh các con số, các cụm từ sau có thể
được dùng:
+ Hơn ba phần tư…
+ Gần tám trong số mười…
+ Hơn hai trong số ba…
Khi cần giảm nhẹ một con số, có thể sử dụng các cụm từ:
+ Chưa đầy một nửa…
+ Dưới ba phần tư…
+ Chưa đến hai trong số ba…
2.2.2.3. Yêu cầu về cách diễn đạt
Với đặc điểm đối đầu quyết liệt, không khoan nhượng
nên lập luận trong tranh cãi pháp lý yêu cầu sự tường minh,
107
chính xác, sự khẳng định quả quyết mà nội dung kết luận đưa
ra. Vì vậy, cần tránh lỗi diễn đạt rào đón, vòng vo, đưa đẩy,
lối nói hàm ý, đa nghĩa. Để đạt được điều đó, khi sử dụng các
công cụ để xây dựng lập luận cần xác định chính xác các luận
điểm, tìm và sử dụng các luận cứ thuyết phục và vận dụng các
phương pháp lập luận hợp lý.
- Về luận điểm: là những ý kiến pháp lý thể hiện quan
điểm của người nói/viết dưới dạng khẳng định hay phủ định
một vấn đề pháp lý nhất định. Luận điểm là ý kiến thể hiện
quan điểm của người nói/viết, do đó có vai trò rất quan trọng,
là trụ cột cho cả lập luận. Chính vì vậy, luận điểm phải chính
xác, nêu được bản chất vấn đề pháp lý và phù hợp với vấn đề
pháp lý.
- Về luận cứ: với vai trò là trụ đỡ của luận điểm, luận cứ
(gồm lý lẽ và chứng cứ, mà trọng yếu là lý lẽ) chính là công
cụ sắc bén không thể thiếu trong hoạt động chứng minh,
khẳng định, bác bỏ… nhằm bảo vệ ý kiến, quan điểm. Vì vậy,
phải sử dụng luận cứ chặt chẽ, sắc bén và phải nhắm vào,
hướng tới làm rõ luận điểm đã đưa ra. Nói khác đi, luận cứ
phải có nhiệm vụ làm sáng tỏ luận điểm dưới góc độ lý lẽ.
Để lập luận đáp ứng được yêu cầu đảm bảo tính logic và
sắc bén, khi trình bày lập luận không chỉ cần quan tâm bám
sát vấn đề mà còn phải đi thẳng vào vấn đề, bảo vệ luận điểm
một cách mạnh mẽ với sức mạnh ngôn từ pháp lý. Bên cạnh
việc đầu tư lựa chọn kỹ càng các luận cứ, cần tổ chức, sắp xếp
luận cứ một cách khoa học, gắn kết chứng cứ với lý lẽ thuyết
phục, có tính khách quan.
108
Trong lập luận pháp lý, các kết luận đòi hỏi phải có tính
minh xác cao. Vì vậy, việc trình bày lập luận bắt buộc phải sử
dụng các phương tiện chỉ dẫn lập luận hiển thị trên bề mặt các
phát ngôn (các tác từ và kết tử lập luận). Bởi đó là cách có
hiệu lực mạnh nhất nhằm hình thành các kết luận rõ ràng,
giúp người đọc/nghe nắm bắt nhanh chóng và chính xác kết
luận từ các lý lẽ và lập luận của người trình bày, tránh hiểu
mơ hồ hay hiểu nhầm. Đồng thời, qua đó cũng tỏ rõ thái độ
dứt khoát của người trình bày nhằm gia tăng hiệu lực thuyết
phục trong việc khẳng định hay bác bỏ.
2.3. Trình bày một lập luận pháp lý theo phương pháp
IRAC (hoặc CRAC)
IRAC là các chữ cái đầu tiên của các từ: Issue (Vấn đề),
Rule (Luật – Quy định pháp luật được áp dụng), Application
(Áp dụng – Vận dụng luật vào tình huống), Conclusion (Kết
luận). Một biến thể khác của IRAC là CRAC: Conclusion
(Kết luận), Rule (Luật), Application (Áp dụng), Conclusion
(Kết luận).
Có thể coi IRAC là phương pháp sắp xếp lập luận, phân
tích vấn đề pháp lý theo một trình tự nhằm làm cho người
nghe/đọc có thể theo dõi, đánh giá toàn bộ logic của nội dung
lập luận. Do đó, IRAC được xem là phương pháp viết và nói
pháp lý dễ hiểu, rất hữu ích, thường được sử dụng để phân
tích, xây dựng và trình bày một lập luận pháp lý.
Để phân tích và xem xét các bước theo quy trình xử lý
vấn đề và xây dựng lập luận pháp lý theo phương pháp IRAC,
chúng ta sử dụng tình huống sau đây làm ví dụ minh họa:
109
“Xuất phát từ việc ông A có nợ nần tiền bạc của anh B
nên hai bên đã xảy ra xô xát, ẩu đả với nhau. Do yếu thế nên
ông A đã bỏ chạy, để lại chiếc xe máy hiệu Attila tại hiện
trường. Sau cuộc ẩu đả, Anh B đã đưa xe của ông A về nhà.
Ngay hôm sau, ông A làm đơn tố cáo và Cơ quan Điều tra đã
khởi tố anh B về hành vi “Cướp tài sản””.
+ ISSUE (Vấn đề): bước đầu tiên để hình thành lập luận
pháp lý là phát hiện ra vấn đề pháp lý (legal issues/questions
of law) từ các bằng chứng, dữ kiện của vụ việc (facts). Một
vụ việc có thể có một hay nhiều vấn đề pháp lý. Nhiệm vụ
của bước này là vận dụng các kiến thức luật để nhận ra những
dấu vết pháp lý trong các bằng chứng, dữ kiện… Từ đó, hình
dung được ngành luật nào, chế định nào điều chỉnh vụ việc
đang cần xử lý. Nói khác đi là quan hệ pháp lý nào tồn tại
trong vụ việc này. Như vậy. mục đích của bước xác định vấn
đề pháp lý là tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Vấn đề pháp lý
đang cần được xem xét xử lý là gì?”.
Có thể nói, xác định “vấn đề pháp lý” là bước rất quan
trọng bởi thông qua việc xác định các sự kiện có ý nghĩa pháp
lý, các tính chất pháp lý của vụ việc, các vấn đề cần được giải
quyết, các câu hỏi mà vấn đề đặt ra, chúng ta có thể xác định
được vấn đề cần giải quyết. Xác định đúng “vấn đề pháp lý”
là cơ sở để thực hiện đúng các bước tiếp theo (R, A, C). Muốn
vậy, cần quan tâm xem xét tất cả mọi khía cạnh của dữ liệu
được cung cấp hoặc dữ liệu của tình huống đặt ra.
110
Trong tình huống đã cho, vấn đề được tranh luận để
làm rõ (cũng chính là vấn đề pháp lý) là việc anh B đem
chiếc xe máy Attila về nhà (sau khi ông A bỏ chạy do yếu
thế khi xô xát) có phải là hành động cướp tài sản hay
cưỡng đoạt tài sản không?
+ RULE (Luật): sau khi chỉ ra vấn đề pháp lý (tức quan
hệ pháp lý) của vụ việc, người lập luận phải rà soát, nghiên
cứu để nêu ra những quy tắc pháp lý (bao gồm các điều ước,
các đạo luật, các văn bản pháp luật, tập quán, án lệ) được xác
định sẽ áp dụng, điều chỉnh để giải quyết vấn đề đang xem
xét. Các quy tắc pháp lý được đưa ra phải có sự liên kết chặt
chẽ với các tình tiết của vụ việc.
Như vậy, nhiệm vụ của bước này là phải đưa ra được
những quy định pháp luật liên quan để phục vụ cho việc giải
quyết “vấn đề pháp lý” đã xác định ở trên, nghĩa là phải trả
lời được các câu hỏi cơ bản: “Với vấn đề này, pháp luật để
giải quyết là gì? (dân sự, hình sự, hành chính, thương mại…);
những quy định cụ thể (Chương, Điều, Khoản, Điểm…) liên
quan đến vấn đề là gì?
Như vậy, với tình huống được dẫn trên đây, vấn đề
pháp lý thuộc phạm vi luật hình sự và nội dung được vận
dụng bao gồm:
- Đối với tội “Cướp tài sản”:
Điều 133 BLHS năm 1999 quy định về tội “Cướp tài
sản” như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực

111
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản…”.
Như vậy, hành vi dùng vũ lực là cách thức, phương
tiện để người phạm tội đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản.
Vì vậy, đặc trưng cơ bản của tội phạm này là ý thức chiếm
đoạt bao giờ cũng có trước khi có hành vi dùng vũ lực.
- Đối với tội “Cưỡng đoạt tài sản”:
Điều 135 BLHS năm 1999 quy định về tội “Cưỡng đoạt
tài sản” như sau: “Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có
thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm
đoạt tài sản…”.
Do đó, để kết luận anh B có hành vi phạm tội “Cưỡng
đoạt tài sản” hay không, nhất thiết phải làm rõ anh B có
hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có tính chất
uy hiếp tinh thần hay không?
Khi trình bày các quy định pháp luật sẽ áp dụng, cần lưu ý:
- Các (yếu tố của) điều luật hay văn bản luật phải có quan
hệ mật thiết đến tình tiết và vấn đề pháp lý cần phải giải quyết;
- Quan tâm đến những quy định ngoại lệ của điều luật
(nếu có);
- Đâu là giới hạn áp dụng (đối tượng, phạm vi không
gian, thời gian) của điều luật? Có áp dụng tập quán không?
Các khái niệm pháp lý được sắp xếp theo phân cấp logic:
- Phân tích những quy tắc pháp lý chung và cụ thể;
112
- Xác định những thuật ngữ pháp lý trong một điều khoản.
Nội dung cần xác định:
- Hậu quả áp dụng quy định pháp luật (điều gì sẽ xảy ra
nếu áp dụng điều luật này?).
- Hệ quả pháp lý của quy định cụ thể trong một tình
huống là gì?
+ APPLICATION (Áp dụng): đây là phần trọng tâm,
quan trọng nhất trong quy trình giải quyết vấn đề pháp lý, bởi
lẽ chính A là nhân tố kết nối giữa I và R, tức là kết nối vấn đề
pháp lý, sự kiện pháp lý với quy định pháp luật liên quan.
Người lập luận đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để phân tích và giải
thích cơ sở, quan điểm của mình khi đưa ra nhận định về vấn
đề pháp lý, cũng như để giải thích vì sao trong tình huống này
phải dùng điều luật này mà không vận dụng điều luật khác.
Về cơ bản, việc kết nối I với R đặt trọng tâm trên các thao tác
phân tích các bằng chứng, dữ liệu có được (các lời khai, hỏi
cung, biên bản đối chất giữa các bên liên quan…). Vì lý do đó
mà một số tác giả đã gọi chữ A trong phương pháp IRAC là
ANALYSIS (Phân tích).
Cách thường gặp để phân tích và giải thích là đặt câu
hỏi kiểu phản biện để đưa ra kết luận của mình, ví dụ: “Liệu
đã đủ căn cứ để chứng minh cho thấy hành vi của… hội đủ
các cấu thành của tội…?” hay “Những căn cứ nào cho thấy
các điều kiện tại điều luật… đã được thỏa mãn?”…
Lưu ý: kết luận đưa ra trong phần này không phải là kết
luận cuối cùng (CONCLUSION) của phương pháp IRAC mà
chỉ là nội dung trả lời cho câu hỏi phản biện được đặt ra.
113
Trở lại với tình huống đang xét, từ điều luật đã được
đưa ra ở trên, có thể thấy với tội “Cướp tài sản” thì vấn đề
cần xác định là: mục đích và lý do của việc anh B dùng vũ
lực trong sự việc này là gì? Xuất phát từ mâu thuẫn trong
việc tranh chấp nợ nần, hay do anh B muốn chiếm đoạt tài
sản của ông A? Cũng như để xác định anh B có phạm tội
“Cưỡng đoạt tài sản” hay không thì cần phải làm rõ mục
đích của việc anh B giữ xe là để gây áp lực buộc ông A phải
trả nợ hay việc giữ xe là có ý thức chiếm đoạt chính tài sản
là chiếc xe máy hiệu Attila của bị hại. Nếu việc giữ xe không
phải nhằm mục đích chiếm đoạt chính chiếc xe đó mà chỉ là
tạo sức ép buộc ông A phải trả nợ thì không thể xem đó là
hành vi chiếm đoạt tài sản.
Ở đây, câu hỏi phản biện cho tình huống đang xét có
thể là: “Việc anh B giữ chiếc xe Attila của ông A đã hội đủ
dấu hiệu của tội cướp tài sản chưa?”.
Các chứng cứ phục vụ cho việc phân tích là các lời khai,
hỏi cung, biên bản đối chất giữa các đối tượng liên quan…
+ CONCLUSION (Kết luận): đưa ra kết luận cuối cùng
hoặc câu trả lời tổng thể cho các phần trên. Nếu có nhiều vấn
đề, có thể đưa ra kết luận cho từng vấn đề trước khi đưa ra
kết luận tổng thể.
Lưu ý rằng, không có câu trả lời đúng hay sai, chỉ có
phân tích và tư duy logic căn cứ trên quy định và sự kiện để
hướng đến một kết luận hợp lý. Đặc biệt, không đưa thêm
thông tin hay lập luận mới.
114
Với tình huống nêu trên, kết luận được đưa ra là: hành
vi giữ xe máy của anh B chỉ nảy sinh sau khi ông A bỏ chạy
do ẩu đả, điều này không thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan
của tội “cướp tài sản” theo Điều 133 BLHS, cũng như việc
anh B mang xe của ông A về nhà không thể coi là hành
phạm tội “cưỡng đoạt tài sản”. Vì thế, không có cơ sở để
buộc tội anh B như khởi tố của Cơ quan Điều tra.

Tóm lại, IRAC là phương pháp hiệu quả được sử dụng


phổ biến để tiến hành bất cứ một hoạt động nào liên quan đến
phân tích các vấn đề pháp lý. Các nghiên cứu đã chứng tỏ
rằng, việc sử dụng IRAC để phân tích các vấn đề pháp lý sẽ
giúp cho người xây dựng lập luận dễ dàng kết nối các mắt
xích không rõ ràng và làm cho chúng trở thành những kết cấu
lý thuyết chắc chắn và xuyên suốt.
Tuy nhiên, khi vận dụng phương pháp IRAC để xem xét
lập luận pháp lý không nên cứng nhắc mà tùy từng vụ việc,
từng câu hỏi pháp lý cụ thể để điều chỉnh nhằm thu được câu
trả lời, lập luận logic nhất. Với một vấn đề đơn giản, chỉ cần
xây dựng một kết cấu IRAC. Nhưng với vấn đề phức tạp,
chứa nhiều nội dung pháp lý thì có thể phải xây dựng nhiều
IRAC để xử lý từng nội dung.

115
TÓM TẮT CHƯƠNG 2

1. Lập luận pháp lý là dạng thức lập luận đặc biệt


được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tố tụng, hướng
đến tính hiệu quả cao nhất trong việc chứng minh, khẳng
định/phủ định nội dung pháp lý.
2. Đặc điểm chung, nổi bật của lập luận pháp lý là sự
phối hợp, khai thác tối đa các ưu điểm của các dạng lập
luận, gồm:
- Về dạng thức: kết hợp cả hai dạng văn bản viết và
văn bản nói.
- Về mục đích: đồng thời khẳng định tính đúng/sai
của chân lý và đạt được hiệu quả thuyết phục.
- Về lý lẽ: kết hợp một cách linh hoạt, hiệu quả cả hai
loại lý lẽ: lý lẽ khách quan khoa học và lý lẽ của lập luận
đời thường.
- Về phương pháp: vừa phải vừa tuân thủ các quy tắc
suy diễn logic hình thức chặt chẽ, đồng thời lại phải vận
dụng linh hoạt các lý lẽ thực tiễn.
- Về tính chất: đòi hỏi rất cao về tính logic và mức độ
chặt chẽ trong cấu trúc.
- Về kết quả: phải đi đến một kết cục cuối cùng là phân
định đúng/sai, phải/trái, là sự phân định kết quả thắng/thua
của các bên.

116
3. Lập luận pháp lý vận dụng tất cả các loại lý lẽ, trong
đó lý lẽ khách quan là căn cứ quan trọng nhất.
4. Để tăng cường hiệu quả của lập luận pháp lý, cùng
với việc chọn lọc, sử dụng các loại lý lẽ, thì các yêu cầu
khác như: sử dụng các cấu trúc ngữ pháp, lựa chọn từ vựng,
cách diễn đạt… phải được quan tâm.
5. IRAC là phương pháp rất hữu ích, thường được sử
dụng để trình bày lập luận pháp lý, cho phép theo dõi, đánh
giá toàn bộ logic của nội dung lập luận.

117
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 2

A. CÂU HỎI
1. Nêu những đặc điểm của lập luận pháp lý. Vì sao lập
luận pháp lý lại có những đặc điểm đó?
2. Một lập luận pháp lý cần phải đáp ứng những yêu cầu
gì? Vì sao?
3. Hãy nêu những kỹ năng có thể được sử dụng để làm
tăng hiệu quả của lập luận pháp lý.
4. Anh (Chị) hãy nêu tóm tắt cách hiểu của mình về
cách lập luận theo phương pháp IRAC.
B. BÀI TẬP
I. Hãy cho biết loại lý lẽ đời thường đã được sử dụng
trong các đoạn lập luận sau:
1. Lời của bị cáo Nguyễn Đăng Nguyên trong phiên tòa
1
AVG : “Trong thời gian thực hiện, mọi thông tin đều do các
tổ giúp việc của Tổng giám đốc phân công thực hiện. Tôi đã
cố gắng đóng góp ý kiến xác đáng nhất để có cái nhìn rõ ràng
và cẩn trọng về dự án, từ chối thanh toán 5% còn lại cho
AVG, nếu tiếp thu một phần ý kiến của tôi thì sai phạm đã
không xảy ra…”, “Ít có người nào dám làm trái ý Chủ tịch
HĐTV. Đối với tôi, thời gian đó, việc phản đối thanh toán 5%
cuối cùng đã tự tạo ra khó khăn của mình trong công việc.
Ông Lê Nam Trà liên tiếp chỉ đạo Ban Giám đốc kỷ luật tôi…”.

1
Báo Dân trí, ngày 21/12/2019.
118
2. Lời nói cuối cùng của cựu Chủ tịch Oceanbank Hà
Văn Thắm1: “Bị cáo khuyên các anh em nên thành khẩn khai
báo. Nhiều bạn bè của những anh em đó đã nghe lời, hợp tác
với cơ quan điều tra. Bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, đại
diện VKS cũng đã ghi nhận nhưng rất buồn tòa sơ thẩm lại
không xem xét… Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy
lại. Suốt 1.289 ngày qua và đến nay, trước HĐXX, bị cáo
luôn thể hiện là “người chạy lại”. Xin HĐXX hãy giơ vòng
tay ra cho bị cáo quay lại với gia đình, với xã hội. Bị cáo
không phải đối tượng nguy hiểm mà phải cách ly vĩnh viễn
khỏi xã hội”.
3. Lời của bị cáo Nguyễn Bắc Son trong vụ án AVG2:
“Bị cáo thấy mức án tù chung thân là quá nặng, bị cáo viết
đơn này xin kính trình bày một số nội dung, kính đề nghị
TAND Cấp cao tại Hà Nội rộng lượng khoan hồng, giảm mức
án cho bị cáo”... “Bị cáo nay đã sang tuổi 67, sức khỏe đã
yếu đi rất nhiều do mắc phải một số căn bệnh... Đến nay, tai
trái của bị cáo hoàn toàn không nghe được gì, chỉ còn tiếng
ve kêu suốt ngày rất khó chịu. Bị cáo bị xơ vữa động mạch
vành tim, hẹp mạch vành nên lượng máu vào tim giảm”…
“Ngoài những yếu tố chủ quan dẫn tới những ngộ nhận, các
Bộ hướng dẫn mình cứ tin thế nên có sai phạm, còn có những
yếu tố khách quan. MobiFone vừa về tập đoàn, tách ra từ
VNPT, con người mới, lãnh đạo đều bổ nhiệm mới hết, đang

1
Báo Vietnamnet, ngày 02/6/2019.
2
Báo Dân trí, ngày 18/12/2019 và báo Đất Việt, ngày 08/01/2020.
119
trong quá trình tổ chức bộ máy nên không thể tránh khỏi sai
sót nhất định khi triển khai dự án này.
Thứ hai, đây là dự án Bộ Thông tin và Truyền thông lần
đầu tiên chỉ đạo doanh nghiệp thực hiện. Tôi và anh Tuấn
mới chuyển sang, không có kiến thức kinh doanh, tin vào sự
hướng dẫn của các Bộ, ngành. Cá nhân tôi năm 2015 rất bận,
chủ trì nhiều công việc như soạn thảo Luật Báo chí sửa đổi,
sửa đổi Luật An toàn an ninh mạng, Quy hoạch báo chí…,
không có thời gian đầu tư vào dự án, lại không có chuyên
môn sâu.
Điều khách quan thứ 3, đây là dự án có nhiều Bộ tham
gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an. Các
Bộ đều đề nghị cho Mobi triển khai thực hiện dự án. Việc này
tạo cho tôi niềm tin, vì xin ý kiến các Bộ, các Bộ đều đồng
thuận cả. Chúng tôi thấy rằng hoàn toàn tin tưởng. Nếu giả
sử có ý kiến khác, chắc chắn dự án không được phê duyệt. Dự
án triển khai trong thời điểm Luật 67, Luật 69 mới ban hành,
chưa có hướng dẫn của Chính phủ, chưa có Nghị định nên
khi làm báo cáo đã có lúng túng… Lúng túng này không phải
do chúng tôi mà 2 Bộ kia cũng lúng túng”.
4. Lời của cựu Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Trần
Văn Minh trong vụ án “Vũ nhôm”1: “Sách giáo khoa chuyển
đổi cũng không ai có cách tính như vậy. Phải quy về thời
điểm. Nếu vụ này chưa xem xét, 10 năm nữa mới lôi chúng tôi
ra thì tiền thất thoát phải lên hàng trăm nghìn tỉ…”. “Đất
1
Báo Thanh niên, ngày 07/01/2020.
120
vẫn còn đó, có chăng là cách tính của chúng ta. Viện kiểm sát
quy kết là mất đất. Không mất đâu… Tôi có 16 tháng ở trại
T16 và T16 không phải dành cho những ông nghỉ hưu về ở
đó. Không phải dành cho tôi. Không phải dành cho những
ông chiến đấu vì đất nước. Mong Hội đồng xét xử xem xét. Chúng
tôi không tư túi”.
5. “… Hầu như không có quốc gia nào ở các khu vực
phát triển, có công nghiệp chế tạo xe hơi phát triển lâu đời
như châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á quy định bắt buộc phải
lắp bình chữa cháy trên xe hơi loại dưới 9 chỗ ngồi. Vì vậy,
việc yêu cầu phải có bình chữa cháy trên xe ô tô là không
thuyết phục”.
6. Bào chữa của Luật sư Nguyễn Đăng Liêm cho bị cáo
N. bị truy tố về tội mua bán chất ma túy1:
“Bị cáo N là nữ do bước đầu có quan hệ tình cảm ở mức
độ với L. Một phần vì sự nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm của một
thiếu nữ và phần vì cả nể với bạn là L về tình cảm, nên đã
nghe lời của L và chính L đã giới thiệu quan hệ để nhận hàng
héroin của các đối tượng là vợ chồng các tên K, T để phân
phối chủ yếu cũng trong nhóm bạn của L hầu kiếm hoa hồng”.
“Nguyên nhân khách quan đưa đẩy cũng xuất phát từ
bước đầu bị cáo N được L giới thiệu qua vợ chồng K-T và vợ
chồng K-T đã hỏi mượn tiền của N 500.000 đồng để buôn bán
quần áo, nhưng chưa trả được đi đến việc vợ chống K-T rủ rê
N vào con đường tiếp tay với K-T trong việc mua bán héroin

1
Trang Web Văn phòng Luật sư Quang Trung (quangtrunglawoffice.com)
121
lúc nào không hay. Do bản thân N vì tình cảm với L mà mất
cảnh giác, bị đưa đẩy đến vi phạm pháp luật. Vì thực chất
khoản tiền và các tép héroin mà L đã lợi dụng và chiếm dụng
tiêu xài riêng đã làm cho N mất cả vốn lẫn lời, chưa kể số
tiền mượn 500.000 đồng mà vợ chồng K-T chưa trả được và
đã bỏ trốn.
Số lượng héroin N nhận tiêu thụ cho đến ngày bị tạm bắt
giam giữ là 10 tép với trị giá bán là 1.000.000 đồng (một triệu
đồng). Có thể nói, mức độ vi phạm chưa lớn và mang tính chất
cơ hội do nhẹ dạ bị rủ rê, chứ chưa thấy có dấu hiệu cố tình
phạm pháp.
Bản thân N là nữ, chưa hề có tiền án, tiền sự, đã bị giam
cầm gần 11 tháng, xét ra thời gian và biện pháp ngăn chặn
cách ly với xã hội như thế đã đủ mức cần thiết trong việc giáo
dục đối với bị cáo trong mức độ phạm pháp cơ hội lần đầu.
Theo kinh nghiệm nhiều vụ án về mua bán héroin, các đối
tượng buôn bán đều nghiện héroin. Ở đây, bị cáo N hoàn
toàn không có dấu hiệu nghiện héroin, đó cũng là cơ sở để
chúng ta tin tưởng, bị cáo N sẽ rút kinh nghiệm một lần đầu
nhẹ dạ mất cảnh giác lỡ dại phạm pháp, để phấn đấu trở
thành một công dân tốt của xã hội. Hơn nữa, bị cáo N đương
là ca sĩ bán chuyên nghiệp, có chất giọng tốt được một số
không ít khán thính giả hâm mộ, có triển vọng có thể rèn
luyện thành một nghề nghiệp kiếm sống lương thiện và ổn
định không có ảnh hưởng xấu gì đến xã hội, một khi bị cáo
được Quý Tòa chiếu cố tạo điều kiện cho bị cáo được giải tỏa
các biện pháp ngăn chặn, để trở về với gia đình và với xã hội”.
122
II. Hãy chỉ ra các lý lẽ cũng như các yếu tố tăng cường
hiệu quả thuyết phục của lập luận pháp lý trong các trích dẫn
sau đây:
1. Trích bản luận tội của VKS trong vụ án Trần Đình
Hải và đồng bọn can tội giết người theo Điều 93 Bộ luật Hình
sự (dẫn từ trang Web Phòng Luật sư APEC Việt Nam - Đoàn
Luật sư Hà Nội).
“Trước hết, phải khẳng định Hải là người trực tiếp
dùng dao nhọn mang theo đâm chết anh Long. Điều này được
chứng minh bằng lời khai nhận tội của bị cáo tại các bút lục
số 184 - 198 của Cơ quan Điều tra và các bản phúc cung do
VKS lấy và tại lời khai của bị cáo trong phiên tòa hôm nay. Bị
cáo khai đã dùng dao nhọn đang cầm trên tay đâm 01 nhát
trúng vào giữa ngực và 01 nhát trúng vào vùng mạn sườn bên
phải của anh Long. Lời khai trên của bị cáo luôn thống nhất
từ khi ra đầu thú từ ngày 11/4/2008 đến buổi xét xử hôm nay.
Những điểm đâm theo bị cáo mô tả phù hợp và trùng khớp
với biên bản khám nghiệm tử thi Vũ Văn Long hồi 11g 30 ngày
11/4/2008 ghi nhận có 02 vết thương:
- Vết thứ nhất: cách 11cm dưới trước đầu vú phải ngay
dưới mũi ức vùng thượng vị có 01 vết xước nằm dọc cơ thể,
bờ mép gọn, chiều hướng từ trước vào trong, từ dưới lên trên.
Kích thước dài 9cm x rộng 1,8cm.
- Vết thứ hai: trên đường nách bên phải ngay xương
sườn số 12, cách rốn 23cm, bờ mép gọn, chiều hướng từ dưới
lên trên, từ phải sang trái. Kích thước dài 3cm x rộng 1,2cm.

123
02 vết thương trên phù hợp với lời khai của bị cáo về
nhát dao đâm trúng giữa ngực và vùng mạn sườn bên phải
của anh Long, phù hợp với vật chứng đã thu thập được của
Trần Đình Hải. Ngoài ra, trên cơ thể của anh Long không xác
định được vết thương nào khác. 02 vết thương trên là nguyên
nhân gây nên cái chết của anh Long, thể hiện ở bản giám
định pháp y số 16 ngày 17/4/2008 của Trung tâm Giám định
pháp y tỉnh Lai Châu.
Sau khi đâm liên tiếp 02 nhát vào người anh Long, do
dao có dính máu nên sau khi đuổi tiếp một số đối tượng bỏ
chạy khỏi lán, bị cáo đã rửa dao tại ruộng nước gần đó.
Hành động dùng dao đâm anh Long của bị cáo tuy không có
ai nhìn thấy, nhưng việc con dao nhọn bị cáo cầm trên tay có
dính máu và việc rửa dao tại ruộng nước có Phòng, Dương
khẳng định và hành động ngay sau khi anh Long gục xuống
có Thái, Phòng, Linh nhìn thấy. Do lo sợ con dao gây án sẽ bị
thu giữ nên bị cáo đã vứt dao xuống suối Hội Sản ở bản Lớ
Thàng - xã Thèn Sin - B, nhưng CQĐT đã truy tìm theo lời
khai của bị cáo Hải và thu lại được, thể hiện ở biên bản thu
giữ tang vật lập hồi 14g30 ngày 12/4/2008 của CQĐT”.
2. Trích lời bào chữa của Luật sư Nguyễn Đăng Liêm
cho bị cáo D. bị Viện KSND TP. HCM truy tố về tội “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” theo khoản 3 Điều 157
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam
(Dẫn từ trang Web của Văn phòng Luật sư Quang Trung -
Đoàn Luật sư TP. HCM).
124
“Việc VKS nhân dân Thành phố truy tố bị cáo D về tội
“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” theo Điều 157
Bộ luật Hình sự là có cơ sở. Ở đây, chúng tôi muốn nêu ra
vấn đề mức độ phạm tội, mà theo chúng tôi nếu áp dụng
khoản 3 Điều 157 thì quá nặng đối với hành vi phạm tội của
bị cáo, bởi vì các lẽ sau đây:
1. Do trình độ văn hóa thấp, lại thiếu kinh nghiệm về
hoạt động kinh tế (dù chỉ gói gọn trong hoạt động “chơi hụi”),
bị cáo D đã chấp nhận lãi suất vay từ 5 -7%, 10%/ tháng, thậm
chí đến 15%, 20%/tháng, điều tất yếu dẫn đến phá sản mà
thôi. Vì ngay cả doanh nghiệp lớn chỉ vay Ngân hàng với lãi
suất trước đây 2,1%/tháng rồi 1,8%/tháng và hiện nay có 1,2-
1,4% tháng phục vụ SXKD mà đã phải lỗ hàng trăm tỷ đồng,
trong khi bị cáo D vay vốn chỉ để thuần túy chơi hụi và phục
vụ tiêu dùng sinh hoạt, thì con đường phá sản là tất yếu,
không tránh được. Hành vi rồ dại đó xuất phát từ sự thiếu
trình độ, không có kinh nghiệm, tính toán sai lầm hơn là một
sự cố ý lừa đảo hay chủ mưu lừa đảo. Từ sự tính toán non
kém, sai lầm đã dẫn D trượt dài xuống hố nợ nần, cho đến khi
mất khả năng chi trả bị các chủ nợ bao vây đành phải tính
đến con đường chẳng đặng dường là “Tẩu vi thượng sách”.
Trong thời gian trốn tránh, bị cáo đã biết hối hận bằng
việc nỗ lực lao động bằng nghề chẻ tâm nhang để sống bằng
chính sức lao động của mình. Điều này chứng minh bị cáo D là
kẻ sa cơ lỡ bước vì hậu quả “những lỡ dại” của một phụ nữ ít
học hơn là một kẻ chủ mưu lừa đảo hay lừa đảo chuyên nghiệp.
125
2. Bản thân bị cáo trong giai đoạn đầu chơi hụi đã nỗ
lực, giữ được chữ tín bằng cách trả vốn, lãi sòng phẳng cho
các hụi viên và chủ nợ, nên mới được khá đông đảo bà con
địa phương tin cậy và sẳn sàng đóng hụi hoặc cho vay. Thậm
chí, cả khi gặp khó khăn mất khả năng chi trả, bị cáo D cũng
đã tự nguyện bán chính căn nhà đang ở của mình để hoàn trả
các món nợ lớn, kể cả đưa cả xe gắn máy cho chủ nợ xiết nợ,
trừ nợ. Hành động đó chứng tỏ thiện chí, thật tâm nỗ lực trả
nợ chứ không phải cố tình lừa gạt, trốn nợ, chẳng qua ở
đường cùng của sự tính toán non kém, rồ dại nên bế tắc, bí
đường giải quyết, phải lánh mặt, trốn nợ mà thôi.
3. Mặt khác, các chủ nợ của bị cáo D, một phần nào đó
do hấp dẫn bởi lãi suất mà bị cáo D chấp nhận, đã vô tình
hay cố ý cho bị cáo D vay với lãi suất rất nặng từ 5% đến
20%/tháng. Thậm chí, có trường hợp bị cáo D đã vay với lãi
suất đến 30%/tháng, đúng là khoản lãi cắt cổ. Tôi cũng xin
lỗi các bà con chủ nợ những người bị hại có mặt tại phiên tòa
này dừng buồn, là hành vi cho vay với lãi suất quá cao đó có
vô tình vi phạm Điều 171 Bộ luật Hình sự về “Tội cho vay
nặng lãi”. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khách
quan đẩy nhanh bị cáo D vào con đường cùng, phải vay trả
nợ cuốn chiếu không có lối ra, đặt bị cáo D vào một chọn lựa
duy nhất “chẳng đặng đừng” là trốn chạy nợ, đi vào con đường
phạm pháp.
Ngay việc càng về sau, bị cáo D còn phải chấp nhận vay
nợ với lãi suất ngày càng cao chứng tỏ ý chí của bị cáo là
muốn trả nợ chứ không phải cố tình gạt nợ, nhưng rõ ràng là
126
“lực bất tòng tâm”, bị cáo đã “sai con toán bán con trâu”
không còn cứu vãn nổi con đường phạm pháp. Tình trạng tâm
lý của bị cáo trong quá trình phạm pháp là đã “lỡ leo lưng
cọp không trụt xuống được”, “lỡ phóng lao phải theo lao”.
4. Bị cáo D thuộc thành phần nhân dân lao động, chưa
có tiền án, tiền sự, trình độ văn hóa thấp, phạm pháp một
phần do thiếu hiểu biết, mù quáng chạy theo cái lợi trước
mắt, đáng được chiếu cố của luật pháp. Chính bản thân bị
cáo cũng bị các con nợ lừa gạt chiếm đoạt trên 55.000.000 đồng
(trong đó có 37.000.000 đồng nợ vay và 17.500.000 nợ hụi)
chiếm tỉ lệ 25% tổng số nợ mà bị cáo chiếm đoạt, chứng tỏ bị
cáo D vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của tệ nạn hụi hè bất
hợp pháp, ngoài vòng kiểm soát của luật pháp Nhà nước.
Vì các lẽ trên, chúng tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử
chiếu cố theo Điều 38 Bộ luật Hình sự về “Những tình tiết
giảm nhẹ” ở khoản 1 điểm “d” và điểm “g” để có thể áp dụng
mức độ hình phạt theo khoản 2 thay vì khoản 3 của Điều 157
theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố”.
3. Trích lời bào chữa của Luật sư Nguyễn Minh Long, cho
bị cáo N.V.L bị truy tố về tội “Giết người” theo quy định điểm
c khoản 1 Điều 93 BLHS tại phiên tòa phúc thẩm (Dẫn từ trang
Web Công ty Luật Dragon, thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội).
“Kính thưa HĐXX
Kính thưa Đại diện VKS
Thân chủ của tôi không có ý định hay cố ý tước đoạt
tính mạng của K.T.T, việc gây nên cái chết cho T, bị cáo
127
không hoàn toàn nghĩ đến và không mong muốn nó xẩy ra.
Theo lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra thì do có sự
xích mích với đám thị thanh niên ở Nam Cường từ mấy ngày
trước đó nên hôm 17/08/2010 khi đi học về qua đoạn đường
thuộc thôn Cư An, Nam Cường, bị cáo L bị các thanh niên
chặn lại gây sự, vì lo sợ nên bị cáo đã bỏ chạy. Như linh tính
được về việc sẽ bị hành hung, bị đánh nên bị cáo đã tìm đến
nhà chị Lưu Thị Nga mua một con dao gập nhỏ để vào trong
cặp. Ở một đứa trẻ chưa đầy 15 tuổi hành vi đó là hoàn toàn
bộc phát, em cũng không thể lường hết được những hậu quả
đối với hành vi của mình, bị cáo mua con giao nhằm mục đích
tự vệ, xem con dao như vật hộ thân, hoàn toàn không có chủ
đích gây án.
Khi thấy trước mặt mình là nhóm thanh niên đứng chặn
đường tại giữa thôn Cư An, trong đó có bị hại K.T.T và
K.H.Đ là người trực tiếp đứng ra chặn xe bị cáo và dọa đánh.
Do lo sợ bị đánh nên bị cáo liền bỏ chạy để thoát thân mà
hoàn toàn không đôi co, chống cự hay có hành động nào
thách thức nhóm thanh niên đó. Hành vi của bị cáo hoàn toàn
phù hợp với tâm lý và nhận thức thông thường của một đứa
trẻ mới bước sang tuổi 15, nhận thức còn non nớt, hành động
mang bản năng tự vệ, khả năng làm chủ hành vi, sự bình tĩnh
và tỉnh táo xử lý còn rất hạn chế. Tôi thấy rằng đối với người
lớn khi ở trong trường hợp và hoàn cảnh của bị cáo cũng khó
có cách nào hành xử tốt hơn bị cáo khi mà bị cáo phải đối
mặt với thực tại… Tuy nhiên, T và Đ vẫn không bỏ qua cho bị
cáo mà cố tình đuổi đánh, bị cáo chạy vào trốn trong nhà chị
128
Hồng Thu vì lúc đó quán chị Thu có chị Hồng Thu và bà
Phùng Thị Trọng và kêu hô các bác ơi, cứu cháu với. Tuy
nhiên, K.T.T và K.H.Đ, và một số người vẫn không buông tha
cho bị cáo: T đã xông vào nhà và nói: Mày có chạy vào nhà
tao cũng đánh (nhân chứng Hồng Thu tại các bút lục 222,
223, 225,226, 227 ngày 19/8/2010 cung cấp cho Cơ quan
Điều tra) và xông vào nhà để đánh L. Khi đó bị hại K.T.T tay
cầm cục gạch, bên ngoài có sự giúp sức của K.H.Đ và một
vài người nữa cùng truy đuổi L. Vào đường cùng, bị cáo vung
dao cầm trong tay lên khua lên nhằm ngăn cản sự tiếp cận và
tấn công của bị hại. Bị cáo cũng không biết mình có đâm
trúng bị hại hay không, chỉ biết rằng sau đó T đã buông bị
cáo ra và bị cáo tiếp tục bỏ chạy. Lúc này, tinh thần bị cáo rất
hoảng loạn và hoàn toàn không thể kiểm soát được hành vi
của mình, việc khua dao ra để tự vệ là hoàn toàn phù hợp với
yếu tố tâm lý đối với người bị tấn công. Hành vi của bị hại là
hoàn toàn tự vệ, không có ý định tước đoạt mạng sống của T.
Việc gây ra cái chết cho K.T.T là hoàn toàn ngoài ý chí và
mong muốn của bị cáo. Hành vi tự vệ này xuất phát từ hành
động xâm hại diễn ra liên tục không đứt đoạn của bị hại đối
với bị cáo, và trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra. Nhưng hành vi
này hoàn toàn có thể cảm thông vì nếu trong tình huống của
bị cáo, nếu bị cáo không tự vệ thì liệu bị hại T có buông tha
cho bị cáo không? Ai giám tin rằng bị hại không làm những
hành động xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự của
bị cáo, chúng ta hãy có cách nhìn toàn diện cả về góc độ
129
pháp luật, tâm lý trẻ vị thành niên để hiểu rõ và thấy rằng
hành vi của L là bản năng tự vệ, trốn chạy, không có mục
đích truy sát, cố ý hay có chủ đích.
Là luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích cho bị cáo,
tôi xin chia sẻ những nỗi đau thương vô hạn đối với gia đình
bị hại, cũng xuất phát từ nhận thức bồng bột, nông nổi của
các bị hại, lẫn bị cáo. Các em đều đang độ tuổi vị thành niên,
một độ tuổi bước đầu định hình về tâm lý và nhận thức xã hội.
Chúng ta hoàn toàn cảm thông khi ở độ tuổi các em có những
hành vi bột phát, các em không ý thức được rằng những hành
vi trên sẽ dẫn đến những hậu quả đối với xã hội ra sao, bởi
các em còn quá nhỏ và chưa đủ chín chắn về nhận thức xã
hội và chưa đủ bản lĩnh, sáng suốt để điều chỉnh hành vi của
bản thân.
Việc bị cáo thực hiện hành vi chống trả, vào thời điểm
trời nhá nhem tối, khi bị cáo chạy vào nhà không còn lối
thoát. Lúc này, bị cáo chỉ mong muốn là tránh được sự truy
đuổi, nhưng bị cáo đã không được ai giúp đỡ. Khi bị hại túm
được áo và đánh liên tục, bị cáo đứng như trời chồng, không
kháng cự, không đánh lại, tinh thần bị hoảng loạn, bị kích
động. Việc bị cáo rút dao từ trong quần ra như hành động
bám vào chiếc phao ở đường cùng. Sau khi đâm và bỏ chạy
ra ngoài, bị cáo vẫn thấy T đuổi theo rồi sau đó mới ngã. Căn
cứ trên biên bản giám định vết thương, kết luận cho thấy vết
dao xuyên theo hình vòng cung, từ trái sang phải, từ ngoài
vào trong và các vết thương khác cũng được kết luận cho thấy
130
rằng bị cáo không đâm trực diện mà vung tay trong lúc bị
cùng đường. Thật đáng tiếc, lưỡi dao đó đã lấy đi mạng sống
của em K.T.T mà bị cáo không hề hay biết. Tại Cơ quan Điều
tra, khi lập biên bản cung, khi được các điều tra viên chia sẻ
thì bị cáo mới biết các vết thương hậu và quả mà do chính bị
cáo gây ra.
……..
Bản thân bố mẹ bị cáo sau khi biết được sự việc đã
nhanh chóng hỗ trợ 20 triệu cho gia đình bị hại, 5 triệu cho
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ngoài việc tự nguyện
nộp bồi thường tại thi hành án là 3.319.000đ) để bù đắp tinh
thần và khắc phục hậu quả. Ngoài ra, gia đình bị cáo là gia
đình có công cách mạng. Ông nội của bị cáo được nhận Huân,
Huy chương kháng chiến, huy hiệu 40 năm tuổi Đảng và đặc
biệt có rất nhiều công sức, thành tích cống hiến cho Nhà
nước, như luật sư đã cung cấp cho HĐXX Phúc thẩm.
Luật sư rất mong HĐXX, mọi người trong phòng xử án
hãy cảm thông, chia sẻ sâu sắc cho các em và gia đình của
các bên bị hại và của gia đình bị cáo. Mở lượng khoan hồng
cho bị cáo. Bị cáo đang còn cả một tương lai phía trước để
phấn đấu, chuộc lại sai lầm và tu dưỡng trở thành người có
ích cho xã hội. Chúng ta hãy cho bị cáo cơ hội để làm lại
cuộc đời, sửa chữa sai lầm. Có như vậy mới thể hiện sự nhân
đạo, khoan hồng của pháp luật”.
4. Trích lời bào chữa của Luật sư Trương Q.Q. - Văn
phòng Luật sư P.T.Đ - Đoàn Luật sư tỉnh Đ cho bị cáo Trần
131
Đức A. bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ truy tố về tội “Giết
người và cố ý gây thương tích”1.
“Thưa HĐXX!
Thực tình mà nói vụ án này tuy rất nghiêm trọng, nhưng
lại hết sức đơn giản, rõ ràng. Theo tôi, điều cần phải làm sáng
tỏ là lý giải cho được nguyên nhân vì sao bị cáo lại giết người
và cố ý gây thương tích cho người không thù oán, không mâu
thuẫn gì với họ mà còn có thể nói là thân tình. Thông thường
kẻ giết người đều phải có mục đích như: giết người cướp của,
giết người bịt đầu mối, giết người do thù oán…! Vậy thì tại
sao bị cáo lại giết người cũng như cố ý gây thương tích cho
người không thù oán với họ? Đây là câu hỏi khó khăn nhất và
nhức nhối nhất. Một câu hỏi cần phải lý giải cho được dù có
tốn công tốn sức. Với tư cách và trách nhiệm người bào chữa,
tôi xin được mạnh dạn lý giải điều này.
Kính thưa HĐXX! Theo tôi, bị cáo phạm tôi giết người
và cố ý gây thương tích vì nguyên nhân chủ yếu sau: bị cáo bị
kích động tinh thần quá mạnh.
Thứ nhất, đối với tội “giết người”
Bị cáo quan hệ với người bị hại là bố dượng. Thông
thường những đứa trẻ đang phải chịu đựng sự mất mát do
cha đẻ qua đời, khó hàn gắn vết thương lòng để sẵn sàng
chấp nhận bố dượng như một người cha. Từ đó, sẽ xuất phát
mâu thuẫn ngầm giữa đứa trẻ là con riêng của vợ với bố
dượng, luôn muốn tìm cách chứng minh bố dượng luôn là

1
Trang Web Văn phòng Luật sư Phạm Thị Điệp, ngày 15/02/2014.
132
người xấu. Theo các chuyên gia tâm lý, quan hệ gia đình như
vậy rất phức tạp, khó giải quyết các mâu thuẫn, vì vậy khi có
cơ hội là đứa trẻ sẽ đả kích, nói kê, gây sự dù chỉ là lời nói
bâng quơ. Cứ như vậy ngày tháng trôi qua tích tụ cho mỗi
người một bức xúc và lặp đi lặp lại trong suốt thời gian dài
và liên tiếp tác động đến tinh thần của bị cáo, chỉ cần khi có
một hành vi trái pháp luật hoặc trái đạo đức hoặc có tính
kích bác thì tinh thần của bị cáo lâm vào tình trạng bị kích
động mạnh. Điều này có thể được chứng minh qua lời khai
của cháu B tại bút lục số 75 “Tôi cũng bức xúc về hành động
của ông A”. Do bức xúc như vậy vào ngày 16/12/2012 khi
nấu cơm ăn thì cháu B chỉ nấu cơm cho một mình B ăn. Khi
bị cáo hỏi cháu B trả lời ngay “Ai ăn thì nấu, đây không rỗi
hơi” theo lời khai của cháu B tại bút lục 75, tuy là lời nói,
nhưng gây tác động không nhỏ đến tinh thần của bị cáo, tiếp
đến ngay sau đó cháu B lại có những lời nói mang tính chất
xúc phạm đến đời sống của bị cáo là “Người ăn nhờ, ở đậu”
(Bút lục số 50, 54). Lời nói này như gáo nước tát vào mặt bị
cáo, làm cho tinh thân thần bị cáo bị kích động mạnh không
còn kiềm chế được dẫn đến hành động nguy hiểm của bị cáo
mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đã truy tố theo khoản 1
Điều 93 BLHS tại phiên tòa hôm nay.
Thứ hai, về cố ý gây thương tích
Tại sao bị cáo lại dùng dao đâm ông C người hàng xóm
thân tình với gia đình và bản thân bị cáo. Do khi đánh cháu B
ngã xuống, tưởng cháu B đã chết, nên tinh thần hoàn toàn rơi
vào cảnh rối loạn không còn khả năng làm chủ hành vi của
mình mà chỉ còn suy nghĩ duy nhất là “tự tử” mới thoát khỏi
133
cảnh trừng trị của pháp luật. Cho nên, khi gặp sự cản trở từ
ông C dù đó là điều tốt, điều đúng và điều đáng làm của
người hàng xóm, nhưng vì tinh thần bị cáo đã bị kích động
đến cao độ nên không nhận thức được và không thể kiềm chế
hành vi phạm tội của mình.
Tôi trình bày lên nguyên nhân và diễn biến của quá
trình xảy ra hành vi phạm tội của bị cáo là do bị kích động
tinh thần quá mạnh về phía nạn nhân và có sự cản trở của
người bị hại không nhằm che giấu hay chạy tội cho bị cáo mà
hy vọng HĐXX có thể xem xét chấp nhận tình tiết giảm nhẹ ở
điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS đối với bị cáo.
Như vậy, nếu được HĐXX chấp thuận thì ở vụ án này bị
cáo có được 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 46 BLHS.
Đó là ngoài tình tiết giảm nhẹ như tôi vừa nêu trên và còn 01
tình tiết giảm nhẹ khác là quá trình điều tra bị cáo thành
khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm p
khoản 1 Điều 46 BLHS mà bản cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân đã nêu.
Thứ ba, về tình tiết tăng nặng tại điểm n khoản 1 Điều
93 BLHS “có tính chất côn đồ” mà bản cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân đã truy tố, tôi có ý kiến như sau: để áp
dụng thống nhất tình tiết này trong xét xử, Tòa án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày
6/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành năm
1995, Tòa án nhân dân tối cao đã giải thích về tình tiết “có
tính chất côn đồ” như sau: khái niệm côn đồ được hiểu là
hành động của những người coi thường pháp luật, luôn luôn
134
phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay)
dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô
cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí
giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức khỏe,
tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác
một cách vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt…
Mặt khác, trong trường hợp giết người mà tất cả những
tình tiết của vụ án thể hiện người phạm tội có tính chất hung
hãn cao độ, quá coi thường tính mạng của người khác, sẵn
sàng giết người vì những nguyên cơ nhỏ.
Nhưng như tôi đã trình bày ở phần trên do bị kích động
tinh thần từ nạn nhân nên bị cáo đã không còn khả năng kiềm
chế được hành vi phạm tôi của mình, hơn nữa trước khi phạm
tội bị cáo cũng là người công dân lo làm ăn chăm chỉ góp
phần cùng vợ nuôi con, chưa có tiền án, tiền sự, không phải
là “những tên coi thường pháp luật”.
Vì vậy, tôi kính đề nghị HĐXX khi nghị án trong quá
trình cụ thể hóa hình phạt xem xét lại việc truy tố với tình tiết
tăng nặng này của VKSND tỉnh Đ đối với bị cáo.
Kính thưa HĐXX, thưa gia đình nạn nhân và các nạn
nhân, tôi đã nói quá nhiều để bào chữa cho bị cáo. Tôi vô
cùng mong ước những lời nói trên đây của tôi không làm
buồn phiền các nạn nhân và gia đình mà hy vọng đó là những
lời giải bày, lời phân trần, lời an ủi...
Kính thưa HĐXX, thưa vị đại diện VKS, thưa các gia
đình nạn nhân và nạn nhân: việc bị cáo cùng lúc có hành vi

135
đánh “chết” cháu B tuy chưa thành và cố ý gây thương tích
cho anh C là một việc làm gây tác hại hết sức nghiêm trọng.
Bị cáo phải chịu một mức án nghiêm khắc. Song ở đây chỉ có
điều mức án nghiêm khắc đến mức nào? Việc làm này trông
chờ hoàn toàn vào sự công minh của pháp luật, của HĐXX.
Ông bà ta có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”,
sau khi bị tạm giam bị cáo Trần Đức A đã nhận biết những
sai lầm nhiều lần khóc lóc và hối hận. Tuy nước mắt của Trần
Đức A rơi có muộn màng, song đã biết tỏ ra ăn năn sau thời
gian bị tạm giam.
Và trên cơ sở đó, đề nghị HĐXX xem xét những tình tiết
giảm nhẹ và không áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm n
khoản 1 Điều 93 đối với bị cáo với lý do mà tôi đã trình bày ở
trên và HĐXX có thể áp dụng Điều 47 BLHS để “… quyết
định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
mà điều luật đã quy định…” đối với bị cáo. Đồng thời, đối
với tội giết người do bị cáo phạm tội chưa đạt nên được vận
dụng thêm Điều 18 và khoản 1 Điều 52 BLHS để xem xét khi
lượng hình.
Nếu lời đề nghị của tôi được chấp nhận thì chắc chắn bị
cáo sẽ được hưởng mức án vừa phải trong cái khung hình
phạt rất dài mà Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố và HĐXX
chừa cho bị cáo Trần Đức A con đường sống. Chỉ có như vậy,
trong thời gian thụ hình, bị cáo mới chịu sự trừng phạt của
pháp luật, đồng thời cũng chịu sự trừng phạt của lương tâm,
tạo cơ hội hối cải, phấn đấu cải tạo sớm trở về cùng vợ để
xây dựng lại tổ ấm của gia đình”.
136
III. Hãy xác định I (“Vấn đề pháp lý”) và R (Luật) trong
các tình huống sau:
1. Quan hệ giữa hai nước A và B trở nên căng thẳng khi
nước A hạ đặt một giàn khoan vào vùng biển X mà nước B
cho rằng thuộc chủ quyền của nước mình. Hai bên đã điều
động các tàu quân sự đối đầu nhau xung quanh vị trí hạ đặt
giàn khoan. Vùng biển X nằm cách bờ biển của nước A và B
một khoảng cách lần lượt là 120 và 180 hải lý.
2. Anh A và chị B yêu nhau và sắp đi đến hôn nhân. Anh
A quyết định mua một căn nhà để sau khi kết hôn A và B sẽ về
sống chung. Anh A có mượn của mẹ chị B là bà M 500 triệu
đồng để mua căn nhà đó. Tuy nhiên, sau khi mua nhà ít lâu A
không may bị tai nạn giao thông và phải nằm bệnh viện một
thời gian rồi qua đời. Bà M đòi gia đình anh A phải trả căn
nhà đó cho chị B.
3. Anh A và chị B kết hôn vào đầu năm 2016. Tháng
01/2018, chị B sinh con đầu lòng. Được biết, mặc dù anh A
đã tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) tại Công ty Y từ tháng
6/2017 nhưng chị B đang trong thời gian thử việc tại Công ty X
nên chưa tham gia BHXH. Anh A không được Công ty Y giải
quyết trợ cấp thai sản và có ý định khiếu nại.
IV. Dùng phương pháp IRAC để phân tích tình huống sau:
“Các nhân chứng của vụ việc xảy ra vào lúc 16g30
ngày 21/8/2008 trình bày: chiếc cặp da của ông T. đang để
trên bàn lễ tân của khách sạn. Lúc này, A. đang đứng gần đó,
anh ta nhìn quanh cẩn trọng rồi cầm chiếc cặp da mang ra xe
của mình, đặt nó ở băng ghế sau và lái xe đi”.
137
“Vào khoảng 18g00 cùng ngày, một cảnh sát đã chặn xe
của A. dựa trên hình ảnh chiết xuất từ camera an ninh và
nguồn tin khai thác một số nhân chứng. Khi cảnh sát đến gần
cửa chiếc xe, A. đã không nói gì về chiếc cặp da. Đến khi
được hỏi thì A. trình bày với cảnh sát rằng: “Tôi định sẽ cầm
chiếc cặp này đến đồn cảnh sát vào ngày mai để trả lại cho
chủ của nó. Tôi chưa hề mở nó ra”. Cảnh sát ghi nhận chiếc
cặp da nằm ở băng ghế sau trong xe của A. và nó vẫn được
đóng kín.
“Chiếc cặp da đã được thu giữ, ông T. đã kiểm tra và
thừa nhận không bị mất gì trong cặp. Tuy nhiên, ông T. đã đề
nghị công tố viên cáo buộc A. về hành vi trộm cắp tài sản”.

138
Chương 3.

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN

3.1. Tính logic – sức sống của một lập luận


Mục đích mà lập luận luôn (và phải) hướng tới là tác
động, thuyết phục người nghe/đọc đến kết luận mà người
nói/viết đưa ra, qua đó làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành
vi của họ. Một cách ngắn gọn, tính hiệu quả của một lập luận
thể hiện ở kết quả tác động và sức thuyết phục của lập luận đó
đối với người tiếp nhận nó. Như vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh
hay trường hợp nào, một lập luận tốt phải là một lập luận dựa
trên lý lẽ và bằng chứng, nghĩa là phải thỏa mãn hai điều kiện
là tính đúng đắn và tính hiệu lực.
Sức mạnh thuyết phục của một lập luận phụ thuộc trước
hết vào tính logic của lập luận đó, biểu hiện cụ thể qua tính
hợp lý, chính xác, gắn kết chặt chẽ, mạch lạc giữa luận cứ và
kết luận ở cả 2 mặt: nội dung và cấu trúc.
Tính logic của lập luận là thước đo năng lực tư duy bao
gồm sự hiểu biết về tư duy và kỹ năng thao tác logic cơ bản.
Rèn luyện kỹ năng tư duy không chỉ đòi hỏi ở mỗi người phải
luôn chú ý tới tính hệ thống, sự nhất quán, tính không mâu
thuẫn và sự rõ ràng, tường minh, mạch lạc trong tư duy mà
còn phải biết tư duy theo đúng những quy tắc, quy luật vốn
có, là điều kiện cần để đạt tới chân lý trong quá trình nhận
thức thế giới.
139
Kỹ năng lập luận hiệu quả là kỹ năng được hình thành
trên cơ sở hiểu rõ và nắm vững kiến thức logic học. Bởi điều
đó sẽ tạo thuận lợi để chúng ta nhanh chóng tiếp cận được
phương pháp trình bày, kết cấu nội dung của vấn đề. Nói cách
khác, tri thức logic giúp chúng ta phân tích, tổng hợp, xây
dựng, kiểm tra… nhằm nâng cao chất lượng lập luận, nhanh
chóng tiếp cận được tư tưởng của người khác, biết suy luận để
nhận ra những hệ quả và tránh những lỗi logic cũng như lối tư
duy ngụy biện.
Tính logic trong tư duy và trong lập luận là yếu tố đặc
biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt trong các
hoạt động thuộc lĩnh vực Luật:
- Trong nghiệp vụ soạn thảo và ban hành các văn bản
pháp luật: đòi hỏi của các điều luật phải vừa mang tính khái
quát, đồng thời phải vừa rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu…
- Trong hoạt động xét xử: tính logic trong tư duy, trong
lập luận sẽ giúp cho các bên tranh tụng đưa ra những lý lẽ
khúc triết, rõ ràng, đúng đắn, không mắc sai lầm… giúp bảo
vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của đối phương,
buộc đối phương phải “tâm phục, khẩu phục”.
- Trong hoạt động điều tra tội phạm, tính logic, linh
hoạt, chính xác trong tư duy giúp cán bộ điều tra rút ra
những kết luận đúng đắn từ các dữ liệu, sự kiện cụ thể; biết
chứng minh và bác bỏ vấn đề đúng logic, phù hợp với thực
tế; giúp tăng tính hiệu quả và sắc bén trong nghiệp vụ của
cán bộ điều tra.
140
3.2. Rèn luyện kỹ năng nhạy bén xác định cấu trúc lập luận
Năng lực lập luận được hình thành và phát triển thông
qua việc rèn luyện khả năng tự phân tích, mổ xẻ để nhận diện
các thành phần và vai trò của các thành phần trong mỗi lập
luận. Nói khác đi, rèn luyện thói quen nhạy bén phân tích để xác
định cấu trúc của lập luận là con đường hiệu quả để hình thành
và nâng cao kỹ năng lập luận cũng như đánh giá lập luận.
Đối với những người đã có nhiều kinh nghiệm, tinh
thông và thành thạo các thao tác liên quan đến sử dụng lập
luận thì việc trả lời các câu hỏi như: đây có phải là một lập
luận không? Lập luận này thuộc dạng diễn dịch hay quy nạp?
Đâu là kết luận và luận cứ của lập luận?... là nhiệm vụ không
mấy khó khăn. Hơn thế, họ có thể nhanh chóng chỉ ra mức độ
liên kết trong mối quan hệ giữa các luận cứ với nhau và với
kết luận, đâu là giả định của lập luận, từ đó chỉ ra “điểm
mạnh” và “điểm yếu” của lập luận đang xem xét. Tuy nhiên,
năng lực đó là sản phẩm của một quá trình rèn luyện lâu dài.
Để hình thành và phát triển kỹ năng xác định cấu trúc và
đánh giá lập luận, cần rèn luyện để hình thành một số thói
quen căn bản sau:
3.2.1. Xác định chính xác và đầy đủ kết luận và các luận cứ
của lập luận
Như đã phân tích trong chương 1, hai thành phần quan
trọng và cơ bản hình thành nên lập luận là luận cứ và kết luận.
Khi tiếp cận với một lập luận thì yêu cầu đầu tiên phải đáp
ứng là xác định chính xác đâu là kết luận và đâu là luận cứ
141
của lập luận đó. Không xác định đúng (và đầy đủ) kết luận và
luận cứ thì không thể hiểu đúng nội dung của lập luận.
Với những lập luận đơn giản, nói chung việc chỉ ra kết
luận và luận cứ là việc làm khá dễ dàng. Tuy nhiên, với các
lập luận phức tạp (thường ở cấp độ các đoạn văn hoặc văn
bản), có nhiều luận cứ mà mỗi luận cứ cũng là một (hay
nhiều) lập luận nhỏ thì việc nhận diện chính xác kết luận (và
luận cứ) nhiều khi không hẳn là việc dễ dàng thực hiện.
Ta xét ví dụ: “Nhà nước cũng như Pháp luật đảm đương
vai trò kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi
thành viên của xã hội phát triển trong hoạt động kinh tế.
Pháp luật là công cụ và phương tiện có vai trò dẫn dắt và chi
phối xã hội thông qua việc tạo dựng môi trường, cơ hội pháp
lý như nhau đối với các thành viên trong xã hội, thuộc mọi
thành phần kinh tế khác nhau phát huy tài năng, trí tuệ của
mình để khởi nghiệp và phát triển. Đây là yếu tố quan trọng
đầu tiên cho thấy: trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước nói chung, Pháp luật nói
riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng
XHCN cho sự phát triển. Pháp luật XHCN là phương tiện có
khả năng bảo đảm bình đẳng trong xã hội. Bởi pháp luật của
Nhà nước pháp quyền XHCN là những giá trị bình đẳng mà
xã hội có, xã hội cần và ủng hộ. Nhà nước lại có một bộ máy
hùng mạnh để bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, nên bình đẳng và công bằng xã hội được ghi nhận
trong Hiến pháp và Pháp luật có khả năng trở thành hiện
thực, tránh cho xã hội không rơi vào trạng thái rối loạn hoặc
142
phát triển tự phát, thiếu tổ chức và kỷ luật. Xã hội luôn có xu
hướng phân hóa giàu nghèo do sự tác động của nhiều yếu tố,
kể cả sự phân hóa giàu nghèo do tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Pháp luật XHCN là phương tiện để Nhà
nước điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã hội, bảo đảm cho
xã hội phát triển hài hòa và ổn định. Pháp luật XHCN còn là
phương tiện để Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, giữ gìn an ninh, an
toàn xã hội cho con người. Pháp luật là phương tiện để kiểm
soát quyền lực Nhà nước, buộc những người có chức vụ,
quyền hạn hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp
luật. Bằng cách đó, Pháp luật là phương tiện quan trọng
hàng đầu trong việc phòng, chống sự tha hóa của quyền lực
Nhà nước, bảo đảm cho thượng tầng kiến trúc Nhà nước giữ
vai trò định hướng XHCN cho sự phát triển”1.
Muốn xác định được đâu là kết luận trong đoạn lập luận
trên, cần nhắc lại: kết luận là những khẳng định/phủ định
được rút ra, là chủ đề mà người viết/nói cần chứng minh, giải
thích, thuyết phục.
Trong đoạn lập luận trên, một số mệnh đề được dẫn ra
có dạng thức như một kết luận khi nói về vai trò của Nhà
nước và Pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đó là: kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng
cho mọi thành viên của xã hội phát triển kinh tế; bảo đảm
bình đẳng trong xã hội; điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã
1
Dựa theo bài viết của GS. Trần Ngọc Đường đăng trong Tạp chí Cộng sản
ngày 15/11/2017.
143
hội, bảo đảm cho xã hội phát triển hài hòa và ổn định; phòng,
chống sự tha hóa của quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho
thượng tầng kiến trúc nhà nước giữ vai trò định hướng XHCN
cho sự phát triển. Tuy nhiên, có thể thấy mỗi mệnh đề nêu
trên chỉ giải thích, chứng minh cho vai trò của Nhà nước và
Pháp luật khi xem xét ở một mặt, một khía cạnh cụ thể.
Kết luận có tính bao quát rộng hơn về vai trò của Nhà
nước và Pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN chính là sự định hướng XHCN của Nhà nước và Pháp
luật cho quá trình phát triển (xét ở tất cả các mặt). Vì vậy, kết
luận chính của lập luận trên sẽ phải là: “trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Nhà nước nói chung, Pháp luật
nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng
XHCN cho sự phát triển”.
Một lý do có thể gây khó khăn cho việc xác định kết luận
trong một lập luận là kết luận có thể nằm ở bất kỳ vị trí nào
trong lập luận. Thêm vào dó, trong nhiều trường hợp lập luận
có thể thiếu vắng sự hiện diện của kết tử dẫn nhập kết luận.
Cần lưu ý rằng, bên cạnh những kết luận là lời khẳng
định/phủ định hoặc là lời khuyến cáo/đề nghị/lời khuyên thì
với một số trường hợp (thường gặp trong lập luận pháp lý) kết
luận có thể là một câu hỏi mang tính định hướng. Trong trường
hợp này, kết luận thường nằm ngay trong “định hướng” mà
câu hỏi đã đặt ra.
Ví dụ: “Theo Luật Dược 2016, một trong các trường
hợp được xác định là thuốc giả khi thuốc này “được sản xuất,
trình bày hoặc dán nhãn nhằm mạo danh nhà sản xuất, nước
144
sản xuất hoặc nước xuất xứ”. Luật Dược 2005 cũng quy định
một trong các trường hợp thuốc giả là “mạo tên, kiểu dáng
công nghiệp của thuốc đã đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp
của cơ sở sản xuất khác”. Các bằng chứng cho thấy: thuốc H
– Capita đã bị làm giả các loại giấy tờ chứng minh nguồn
gốc. Ngoài ra, theo kết luận giám định số 31/KLGĐ-BYT
ngày 22/4/2015, lô thuốc H – Capita 500 mg Caplet “không
được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người”. Chẳng lẽ
những người có trách nhiệm của Bộ Y tế vẫn khẳng định
9.300 hộp thuốc H – Capita do VN Pharma nhập về là thuốc
kém chất lượng chứ không phải thuốc giả?”1.
Xác định được kết luận là bước đầu tiên giúp tìm ra các
luận cứ của lập luận. Tất nhiên, các luận cứ sẽ nằm trong
phần nội dung còn lại của lập luận, nhưng không phải toàn bộ
nội dung còn lại của lập luận đều là luận cứ. Vì vậy, phải
phân biệt và xác định những nội dung đóng vai trò là các
chứng cứ, lý lẽ, bằng chứng, phương tiện để hỗ trợ cho nội
dung hàm chứa trong kết luận. Đó chính là các luận cứ. Đây
là một đòi hỏi quan trọng và là kỹ năng cần thiết để tránh
nhầm lẫn khi phân tích lập luận. Bởi trong các lập luận ở cấp
độ đoạn văn hay văn bản vẫn thường có các thành phần, dù
không tham gia vào việc hình thành cấu trúc lập luận nhưng
có tác dụng giải thích, mô tả hoặc chi tiết hóa các nội dung
của luận cứ. Nội dung này đã được trình bày trong mục 1.4.4,
chương 1).

1
Theo Zing.vn ngày 30/8/2017.
145
3.2.2. Hiểu rõ vai trò, ảnh hưởng của các luận cứ với kết luận
Như đã trình bày trong mục 1.5.1 (chương 1), các luận
cứ trong một lập luận phải luôn có quan hệ đồng hướng lập
luận, nghĩa là cùng có chung một đích mà kết luận hướng đến
(đúng/sai, tốt/xấu, hay/dở, nên/không nên…) cho dù các luận
cứ đó là tương hợp (cùng phạm trù) hay không tương hợp
(không cùng phạm trù).
Tuy nhiên, khi xét đến chức năng là chỗ dựa, là căn cứ,
là lý do cho sự hiện diện của kết luận thì các luận cứ thường
có vai trò tác động, ảnh hưởng không như nhau đối với kết
luận đã được rút ra. Phân biệt và nhận rõ được sự khác biệt về
hiệu lực, mức độ hỗ trợ của các luận cứ đối với kết luận là kỹ
năng quan trọng, thể hiện sự sắc bén, tinh thông về trình độ tư
duy cũng như năng lực nhận thức và đánh giá lập luận.
Phân biệt, đánh giá một cách “định lượng” hiệu lực của
các luận cứ trong một lập luận là một việc khó, bởi để làm
được điều đó thì đòi hỏi quan trọng là phải hiểu đúng và sâu
sắc những khẳng định/phủ định mà kết luận muốn mang tới,
thấu hiểu mục đích của lập luận chứa trong kết luận. Từ đó,
xem xét mức độ ảnh hưởng trực tiếp của mỗi luận cứ đối với
kết luận trong việc đạt tới mục đích đó.
Xác định đúng bản chất và đòi hỏi của kết luận, từ đó
lựa chọn những luận cứ “đắt giá” có sức mạnh khẳng
định/phủ định cao, đảm bảo cho sự vững vàng của kết luận là
kỹ năng, là thao tác được sử dụng khá phổ biến khi xây dựng
các lập luận, đặc biệt là lập luận pháp lý. Để minh họa, có thể

146
lấy vụ gian lận điểm thi trong kỳ thi Tốt nghiệp Trung học
phổ thông Quốc gia năm 2018 làm ví dụ. Trước vấn đề đặt ra
“Nên hay không nên công khai danh tính những thí sinh được
nâng khống điểm”, có 2 luồng ý kiến trái chiều:
Theo chiều hướng ủng hộ, kết luận cần được hướng tới
để khẳng định là: “Cần công khai danh tính những thí sinh
được nâng khống điểm”. Khi đó, các luận cứ có thể là:
- Gian lận điểm thi đã tạo ra bất công, đã cướp đi cơ
hội của hàng trăm học sinh học thật, thi thật. Công khai là để
trả lại công bằng cho những thí sinh đó.
- Cần công khai để cảnh báo, răn đe người khác và là
bài học để giáo dục phụ huynh, học sinh không tái phạm ở
những kỳ thi tiếp theo.
- Thí sinh không làm được bài hoặc chỉ đáng được 1
điểm mà lại nhận được kết quả là điểm 9, điểm 10 nhưng vẫn
im lặng thì đó là hành vi đồng lõa với tiêu cực, phạm pháp
nên không thể không công khai để xử lý.
- Gian lận điểm thi cũng là một dạng tiêu cực, mà tiêu
cực thì phải xử lý triệt để mới mong loại trừ tận gốc. Công
khai là một trong những cách xử lý triệt để…
Cũng đồng tình với kết luận trên nhưng một vị Đại biểu
Quốc hội lại cho rằng đây hoàn toàn là một vụ việc tham nhũng,
do đó phải công khai chứ không được độc quyền vi phạm.
Nếu không công khai thì đó là hành vi bao che cho vi phạm,
và hành vi đó cũng là một dạng vi phạm. Từ đó, vị Đại biểu
này đưa ra luận cứ của mình là: “Không công khai danh sách
147
thí sinh trong vụ gian lận điểm thi là hành vi vi phạm Luật
Báo chí và Luật Phòng chống tham nhũng. Thậm chí là vi
hiến”1. Với luận cứ này, kết luận không chỉ là “Cần công
khai…” mà hơn thế, là “Phải công khai…”. Rõ ràng, hiệu lực
nâng đỡ, hỗ trợ của luận cứ này cho kết luận mạnh hơn rất
nhiều so với các luận cứ khác đã dẫn ra ở trên.
Theo chiều phản đối, kết luận sẽ là: “Không nên công
khai danh tính những thí sinh đã được nâng khống điểm”.
Các luận cứ được đưa ra có thể là:
- Thực ra, các em chỉ là nạn nhân của cha mẹ mình.
Các em không có lỗi, nếu phụ huynh để các em tự lực làm bài
kết quả cũng có thể ổn.
- Hiện tại, các em đang học ở các trường đại học, nếu
công bố các em sẽ phải chịu áp lực, bị chỉ trích, sẽ ảnh hưởng
rất lớn, thậm chí chấn thương về mặt tâm lý.
- Việc công khai chỉ để thỏa mãn nhu cầu của dư luận.
Cần ứng xử nhân văn trong vấn đề này để đảm bảo tương lai
cho các em.
- Ở nhiều nước trên thế giới, ngay cả những tên tội
phạm nguy hiểm bậc nhất khi xuất hiện trước công chúng
cũng được che mặt và thay đổi danh tính sau khi ra tù. Do đó,
chúng ta không có lý do gì để tiết lộ danh tính của các em…
Cũng nhìn nhận vấn đề dưới góc độ luật pháp, một ý
kiến khác cho rằng việc công khai hay không công khai phải

1
Báo Tin tức Việt Nam, ngày 25/3/2019.
148
tuân thủ theo quy định của Pháp luật. Ý kiến này khẳng định
việc không công khai danh tính thí sinh được nâng khống điểm
là tuân thủ Điều 21 Hiến pháp năm 2013, theo đó: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của
mình”1. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. Như vậy, không có
căn cứ pháp luật nào cho phép đưa tên tuổi của những thí sinh
mà bài thi của họ được nâng điểm bởi ý muốn và hành vi của
người khác. Ở đây việc sử dụng những luận cứ mang tính luật
định đã tạo cho kết luận của lập luận giá trị thuyết phục cao.
Như vậy, trong quá trình xây dựng lập luận bên cạnh việc
khai thác triệt để, toàn diện các luận cứ (theo chiều rộng) để
gia tăng nền móng vững chắc cho lập luận, cần quan tâm chọn
lọc những luận cứ có tính hiệu lực cao (theo chiều sâu), không
nên “tham lam” sử dụng nhiều luận cứ nhằm không chỉ tránh
cho lập luận khỏi bị phân tán, mất tập trung mà còn có tác
dụng gia tăng độ sắc bén của lập luận, thu hút mạnh sự tập
trung của người đọc/nghe vào mục tiêu cần đạt được.
3.2.3. Xác định và đánh giá tính vững chắc của giả định
Đối với một lập luận, giả định là phần không thể thiếu
để đảm bảo cho sự tồn tại của kết luận. Có vai trò như một
luận cứ, giả định cũng là căn cứ, là cơ sở, là chỗ dựa để rút ra
kết luận, khẳng định/ phủ định. Tuy nhiên, có hai điểm quan
trọng để phân biệt giả định với các luận cứ khác:
1
Báo VOV, ngày 28/3/2019.
149
- Giả định không hiện diện trong lập luận, nghĩa là không
được viết hay nói ra (ẩn tàng).
- Giả định là phần không thể thiếu và được coi là hiển
nhiên đúng để đảm bảo cho kết luận đúng. Không thừa nhận
giả định đồng nghĩa với việc không thể có kết luận trong lập
luận đang xem xét.
Giả định được ví như “chất keo” gắn kết giữa luận cứ
với kết luận, do đó chất lượng của một lập luận phụ thuộc rất
lớn vào độ vững vàng, sức “kết dính” của giả định. Như vậy,
bác bỏ giả định chính là bác bỏ kết luận. Và việc không thừa
nhận giả định chính là cách bác bỏ lập luận trực tiếp và hiệu
quả nhất. Cũng vì lý do đó mà việc phát hiện và tấn công vào
giả định là một trong những phương cách rất hữu hiệu để phủ
nhận, bẻ gãy lập luận của đối phương trong một cuộc tranh luận.
Làm thế nào để tìm ra giả định của một lập luận? Đây là
một năng lực, cũng là một yêu cầu rất căn bản để xem xét,
đánh giá chất lượng một lập luận. Cách tốt nhất để truy tìm
giả định là đặt câu hỏi xoay quanh kết luận của lập luận đó.
Các câu hỏi thường được sử dụng là:
- Kết luận này chỉ đúng khi nào?
- Cần có thêm điều kiện nào nữa (ngoài các luận cứ đã
có) để rút ra kết luận này?
Hình dung điều gì cần có trong “khoảng trống” giữa các
luận cứ và kết luận để kết nối hai thành tố này với nhau là
cách tưởng tượng tốt nhất trong tư duy để thấy được giả định
nằm sau lập luận đó. Lấy ví dụ khi bàn về việc có nên đưa
150
quy định “cấm nịnh bợ” vào các điều khoản Luật hay không,
một ý kiến lập luận như sau: “Nịnh bợ, lấy lòng vì động cơ
không trong sáng diễn ra khá phổ biến, thiên hình vạn trạng,
ngay trong bộ máy công quyền. Nịnh bợ thuộc phạm trù đạo
đức, rất khó để phân biệt thế nào là nịnh bợ. Vì vậy, nếu luật
hóa sẽ không khả thi”1.
Trong lập luận này, kết luận “nếu luật hóa sẽ không khả
thi” được rút ra dựa trên 2 luận cứ:
- Nịnh bợ, lấy lòng vì động cơ không trong sáng diễn
ra khá phổ biến, thiên hình vạn trạng, ngay trong bộ máy
công quyền.
- Nịnh bợ thuộc phạm trù đạo đức, rất khó để phân biệt
thế nào là nịnh bợ.
Có thể thấy rằng, nếu chỉ dựa trên 2 luận cứ trên, kết
luận nhận được chỉ có thể là“nếu luật hóa sẽ khó khả thi”,
còn việc khẳng định ở mức tuyệt đối “nếu luật hóa sẽ không
khả thi” thì chưa thực sự đảm bảo chặt chẽ và vững vàng cho
lập luận. Ở đây, giữa luận cứ và kết luận đòi hỏi phải có thêm
chỗ dựa, một điều kiện tất yếu đúng nữa. Đó phải là điều kiện
liên quan đến yêu cầu cần đáp ứng để đưa một hành vi, một
ứng xử trở thành các nội dung trong các điều khoản luật. Và
một trong các yêu cầu đó chính là phải có căn cứ để xác định,
đánh giá được cấp độ khác nhau của hành vi đó.
Như vậy, điều quan trọng để luật hóa nhằm ngăn chặn
một hành vi là: hành vi đó phải lượng hóa, “đong đếm” được.
1
Theo báo Tuổi trẻ, ngày 12/5/2019.
151
Nghĩa là trên thực tế, phải xác định và đo lường được các
hành vi tương ứng với các mức độ nịnh bợ khác nhau để có
những quy định khác nhau về xử phạt. Sự “không khả thi”
trong kết luận có thể hiểu là do không thể phân biệt một cách
định lượng được khái niệm nịnh bợ. Do đó, giả định cho lập
luận trên sẽ là: Không thể xác định và đo lường được các
hành vi được gọi là nịnh bợ.
3.3. Rèn luyện kỹ năng phát hiện lỗi của lập luận
Nhận ra những “điểm yếu” hoặc “lỗi” của một lập luận
là cách không chỉ giúp khắc phục, bổ sung, điều chỉnh để lập
luận trở nên chặt chẽ, sắc bén hơn mà còn là phương pháp để
phản biện hiệu quả lập luận của đối phương trong các cuộc
tranh luận.
Các lỗi liên quan đến nội dung của lập luận thường gặp là:
3.3.1. Các lỗi trong luận cứ
3.3.1.1. Luận cứ mâu thuẫn nhau
Trong một lập luận có nhiều luận cứ, quan hệ đồng
hướng lập luận là yêu cầu mà các luận cứ phải tuân thủ. Điều
tuyệt đối phải tránh là có sự mâu thuẫn về nội dung giữa các
luận cứ, bởi chắc chắn đó là lý do xác đáng nhất để lập luận
bị bác bỏ.
Ví dụ: “Kết quả của một kỳ thi phản ánh sự nỗ lực của
quá trình học tập, giữa việc học và kết quả thi luôn có mối
tương quan: học tốt thì kết quả thi sẽ tốt, ngược lại học kém
thì kết quả thi phải kém. Vẫn không thể không có yếu tố may
152
rủi, bởi nếu học và thi mặc định trùng khớp thì người ta tổ
chức hẳn một kỳ thi làm gì. Vì vậy, để đánh giá người học thì
kết quả điểm thi là quan trọng nhưng không nên quá lệ thuộc”.
Lập luận này có mục đích khuyến cáo về thái độ thận
trọng khi chỉ căn cứ vào kết quả thi để đánh giá thái độ chuyên
cần của người học qua kết luận: “để đánh giá người học thì
kết quả điểm thi là quan trọng nhưng không nên quá lệ thuộc”.
Tuy nhiên, có thể thấy trong khi luận cứ thứ nhất (“kết quả
của một kỳ thi phản ánh sự nỗ lực của quá trình học tập, giữa
việc học và kết quả thi luôn có mối tương quan: học tốt thì kết
quả thi sẽ tốt, ngược lại học kém thì kết quả thi phải kém”)
chỉ ra mối quan hệ tuyến tính, nghiêm ngặt giữa kết quả thi cử
với sự cố gắng, nỗ lực trong học tập, thì luận cứ tiếp theo
(“Vẫn không thể không có yếu tố may rủi, bởi nếu học và thi
mặc định trùng khớp thì người ta tổ chức hẳn một kỳ thi làm
gì”) lại đưa ra một lý lẽ hoàn toàn trái ngược, dù có thể chỉ là
ngoại lệ. Trong lập luận này, sự “xung đột” giữa các luận cứ
đã làm suy giảm vai trò hỗ trợ của luận cứ đối với kết luận,
dẫn đến làm giảm đáng kể sức tác động, sức thuyết phục của
lập luận.
Trong một số trường hợp, mâu thuẫn giữa các luận cứ
được thể hiện một cách gián tiếp khi một luận cứ nào đó mâu
thuẫn với hệ quả được suy ra từ luận cứ khác. Để làm ví dụ có
thể lấy lập luận của vị sư trụ trì chùa Ba Vàng nhằm biện hộ
cho việc chùa thu tiền của phật tử thông qua hình thức công
đức là do Phật tử tự nguyện cúng dường Tam bảo và theo yêu
cầu của “vong” chứ không phải do ý muốn của chùa:
153
“Thầy không đầu cơ, không trục lợi, không tuyên truyền
mê tín, không bắt ép, dọa ai để lấy tiền cả. Chuyện cúng dường
là hoàn toàn tự nguyện vì đó là phương pháp vừa giúp cho
phật tử giải được các oán kết, bớt được đau khổ lại giúp cho
mình có được công đức. Phải mất tiền mới có phúc, biết bố
thí, biết xả ly, biết cúng dường để nhiều kiếp về sau mình không
khổ. Tất cả mọi người phải thỉnh oan gia trái chủ, mình cúng để
giải bệnh, giải nghiệp cho mình, “vong” nó nói mà…”1.
Dễ thấy rằng, để lý giải cho việc Phật tử cúng dường,
làm công quả sau khi “thỉnh oan gia trái chủ” hoàn toàn
không phải là do chùa “đầu cơ, trục lợi, tuyên truyền mê tín,
bắt ép, dọa…”, lập luận này đã dựa vào 3 luận cứ:
- Chuyện cúng dường xuất phát từ sự tự nguyện của phật
tử (luận cứ 1).
- Phải mất tiền mới có phúc (luận cứ 2).
- Tất cả mọi người phải thỉnh oan gia trái chủ, cúng để
giải bệnh, giải nghiệp cho mình. Đó là yêu cầu của “vong”
(luận cứ 3).
Có phật tử nào đến lễ chùa mà không cầu phúc, cầu an?
Hơn thế, việc thỉnh “oan gia trái chủ” còn là yêu cầu của
“vong” để giải bệnh, giải nghiệp (luận cứ 3). Mà muốn cầu
được ân, được phúc thì lại phải mất tiền (luận cứ 2). Do vậy,
hệ quả “mất tiền” là bắt buộc chứ không còn là “tự nguyện”
nữa (luận cứ 1). Suy luận đã chỉ ra mâu thuẫn trong các luận
1
Theo Báo Giao thông và VTVNews, ngày 22/3/2019.
154
cứ của lập luận. Chưa nói đến chuyện hài hước là vì sao “vong”
ở thế giới “người âm” lại chỉ đòi cúng tiền thật chứ không nhận
tiền “âm phủ”?
Để tránh mắc lỗi mâu thuẫn giữa các luận cứ, cần hiểu
đúng và đầy đủ tính liên kết (mức độ liên hệ, gắn kết về nội
dung) của từng luận cứ với kết luận (xem mục 1.5.1).
3.3.1.2. Lỗi trong số liệu thống kê của luận cứ
Với những luận cứ được xây dựng từ các số liệu mang
tính thống kê thì các số liệu phải đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn
về tính phù hợp và tính đại diện của mẫu được thống kê. Có
thể lấy lập luận về kết quả khảo sát dư luận xã hội về hôn
nhân đồng tính để làm ví dụ:
“Có 77% trong số hơn 800 người dị tính ở 4 Tỉnh,
Thành phố khi được được hỏi đều tỏ thái độ đồng tình và cho
rằng người đồng tính có quyền thỏa mãn nhu cầu tình cảm và
điều này không ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Điều đó chứng tỏ xã hội Việt Nam có xu hướng ủng hộ hôn
nhân đồng tính”1.
Số liệu 77% mà luận cứ đưa ra không hẳn là tín hiệu
tích cực với người đồng tính Việt Nam bởi các lý do sau:
- Thứ nhất, số lượng đối tượng và địa phương khảo sát
quá ít. Tỷ lệ 77% của 800 người ở 4 địa phương được khảo
sát chưa thể là đại diện cho “xã hội Việt Nam”.

1
Theo báo Tiền phong, ngày 15/12/2012.
155
- Thứ hai, việc chỉ lấy ý kiến của người dị tính bỏ qua ý
kiến của người đồng tính là không phù hợp, bởi lẽ quan điểm
của “xã hội Việt Nam” không thể đồng nhất với quan điểm
của những người dị tính.
Do vậy, số liệu được dẫn ra không mang tính đại diện
và do đó cũng không phù hợp để hỗ trợ cho kết luận.
3.3.1.3. Luận cứ xây dựng từ sự so sánh không tương đồng
Sử dụng phép so sánh là một trong những phương pháp
hữu hiệu để làm tăng sức mạnh của luận cứ, từ đó làm tăng
sức thuyết phục của lập luận (xem mục 3.4.1.3). Tuy nhiên,
công cụ này được ví như con dao hai lưỡi bởi nếu giữa các sự
việc được so sánh không có sự tương đồng thì sẽ “lợi bất cập
hại”, khi đó không những sức mạnh thuyết phục của lập luận
không được tăng lên mà lại còn bị giảm sút đáng kể. Đây là
một trong những lỗi vẫn thường gặp trong lập luận. Dưới đây
là vài ví dụ minh họa.
Để bày tỏ sự đồng tình về việc không nên ăn thịt chó,
một ý kiến lập luận: “Trong số các loài vật, con chó có cấu
trúc sinh học và hệ thần kinh gần với con người nhất. Ăn thịt
chó tức là ăn thịt người”1.
Ở đây, cách so sánh hoàn toàn khiêm cưỡng bởi cho dù
một số bộ phận trong cấu trúc sinh học và hệ thần kinh của
con chó phát triển gần với con người thì chó vẫn chỉ là một
loại động vật, là vật nuôi trong nhà chứ không thể như con
người để nói rằng “ăn thịt chó tức là ăn thịt người” được.

1
Theo Người đưa tin, ngày 15/9/2018.
156
Hay để chứng tỏ số tiền chi đầu tư cho chương trình đổi
mới sách giáo khoa (SGK) là rất nhỏ, một Giáo sư đã lập luận:
“Tổng số tiền cho chương trình đổi mới SGK tính ra là
144 tỷ đồng, với mỗi cá nhân là rất lớn nhưng nhưng thực ra
chỉ bằng 180 m đường Kim Liên – Ô Chợ Dừa và chỉ bằng
600 m đường cao tốc Bắc Nam mà thôi…”1.
Việc đặt hai đối tượng ở hai lĩnh vực có những đòi hỏi
về nhu cầu đầu tư hoàn toàn khác nhau để đối chứng là cách
so sánh không mang tính tương đồng, do đó làm giảm giá trị
của luận cứ trong lập luận.
Để hạn chế và tránh lỗi khi sử dụng phép so sánh, cần
quan tâm đến tính chất, đặc điểm của đối tượng để đánh giá
độ tương đồng giữa các đối tượng khi so sánh.
3.3.1.4. Vi phạm điều kiện quan hệ cần và đủ giữa các đối
tượng, sự việc
Mối quan hệ cần và đủ giữa 2 khái niệm/sự kiện A và B
có thể được tóm tắt như sau2:
* A là điều kiện CẦN của B nếu: khi không có A thì
không có B (hoặc B không đúng). Trong trường hợp này, có B
thì có A (nhưng không phải lúc nào có A cũng có B).
* A là điều kiện ĐỦ của B nếu: khi có A thì có B (hoặc
B đúng). Trường hợp này bất cứ khi nào có A thì sẽ có B
(nhưng không phải với bất cứ B nào ta cũng được A).

1
Báo Lao động, ngày 16/9/2018.
2
Lê Thanh Sơn (Chủ biên) (2018), Kỹ năng tư duy phản biện, NXB Đại học
Huế, tr.125.
157
Ví dụ: xét 2 khái niệm “động vật có vú” và “con bò”:
rõ ràng khái niệm “động vật có vú” tổng quát hơn khái niệm
“con bò”, bởi “động vật có vú” bao hàm nhiều loài hơn “bò”
(ví dụ: chó, trâu, mèo, lợn, chuột… đều là “động vật có vú”).
Như vậy, khái niệm “động vật có vú” (A) là điều kiện
cần của khái niệm “con bò” (B). Nếu không phải là “động vật
có vú” (không A) thì cũng không phải là“con bò” (không B).
Mặt khác, khái niệm “con bò” (A) là điều kiện đủ của khái
niệm “động vật có vú” (B), bởi nếu là “con bò” (có A) thì đó
là “động vật có vú” (có B).
Khi lập luận được hình thành từ các sự kiện/khái niệm
A và B, lập luận sẽ mắc lỗi nếu tìm được ít nhất một trường
hợp để lập luận không thỏa mãn điều kiện cần hoặc điều kiện
đủ giữa A và B. Cụ thể, nếu có trường hợp:
* Không có A nhưng vẫn có B thì A không phải là điều
kiện cần của B.
* Có A nhưng không có B thì A không phải là điều kiện
đủ của B.
Ví dụ: Hãy phân tích lập luận sau:
“Nguyên nhân bị cáo phạm tội bắt nguồn từ chính sự vô
trách nhiệm của Công ty. Trong một thời gian dài, công tác
kiểm tra, giám sát hoàn toàn bị buông lỏng. Nếu thực hiện đầy
đủ, nghiêm chỉnh các quy định kiểm tra, giám sát định kỳ thì sẽ
kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai phạm của cán bộ,
nhân viên, bị cáo sẽ không phạm tội”.
158
Với kết luận: “Nguyên nhân bị cáo phạm tội bắt nguồn
từ chính sự vô trách nhiệm của Công ty” lập luận muốn
khẳng định bị cáo phạm tội không phải do ý thức chủ quan
mà do nguyên nhân khách quan từ phía Công ty.
Trong luận cứ ta thấy có 2 sự kiện là (A): “Thực hiện
đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định kiểm tra, giám sát định
kỳ” và (B): “bị cáo sẽ không phạm tội”. Để đạt được kết luận
đó, lập luận mặc định rằng A xuất hiện dẫn đến B cũng xuất
hiện (không cần thêm bất cứ điều kiện nào khác), nghĩa là người
lập luận cho rằng A là điều kiện đủ của B.
Thử đặt câu hỏi: có khi nào “Thực hiện đầy đủ, nghiêm
chỉnh các quy định kiểm tra, giám sát định kỳ” (có A) mà vẫn
xuất hiện “bị cáo phạm tội” (không có B) không?
Thực tế cho thấy, không thiếu những nơi, những đơn vị,
ở đó tuy công tác kiếm tra, giám sát được thực hiện đầy đủ,
nghiêm chỉnh theo quy định nhưng vẫn xảy ra tình trạng cán
bộ, nhân viên vi phạm pháp luật (phạm tội). Trong quan hệ
giữa A và B, ta thấy có A nhưng vẫn không có B, nghĩa là A
không phải là điều kiện đủ của B. Việc phạm tội hay không
còn phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người chứ không
hoàn toàn chỉ do công tác kiểm tra giám sát của Công ty. Điều
đó có nghĩa là trách nhiệm của Công ty không phải là nguyên
nhân duy nhất (và quan trọng nhất) dẫn đến hành vi phạn tội
của một ai đó.
3.3.2. Các lỗi của kết luận
Đối với lập luận quy nạp, kết luận luôn chỉ mang tính

159
xác suất cho dù các luận cứ là đúng đắn. Mọi sự khẳng định
tính bất biến, tất yếu của kết luận đều có thể dẫn đến hậu quả
mắc lỗi lập luận. Ta xét ví dụ sau1:
“Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ
nhân tạo (Artificial Intelligence - A.I) có tác động mạnh mẽ
đến hoạt động nghề nghiệp, trong đó có nghề Luật. Một Robot
có thể lưu trữ hàng triệu dữ liệu, dò tìm thông tin chỉ trong
1 – 2 giây, đưa ra kết quả chính xác gần như tuyệt đối. Một
nghiên cứu năm 2014 giữa 20 luật sư có kinh nghiệm và uy
tín với “luật sư” A.I về khả năng phân tích điều khoản giới
hạn kinh doanh cho thấy “luật sư” A.I đạt độ chính xác 94%
và chỉ cần 26 giây để rà soát, trong khi luật sư thật phải mất
trung bình 92 phút và độ chính xác chỉ đạt 85%. Trong một
cuộc thi khác ở London vào năm 2017, 100 luật sư cũng đã
thất thủ trước một chương trình A.I pháp lý khi đứng ra rà
soát khả năng vi phạm trong sử dụng một thẻ tín dụng. Mức
độ tiên đoán lúc này là 66,3% và 86,6%, đương nhiên con số
cao hơn thuộc về máy móc. Có thể thấy, với tốc độ phát triển và
sự can thiệp như vũ bão của Robot vào thị trường lao động thì
sự biến mất của nghề luật sư chỉ còn là vấn đề thời gian”.
Lập luận quy nạp trên đây dẫn đến kết luận khẳng định:
“với tốc độ phát triển và sự can thiệp như vũ bão của Robot
vào thị trường lao động thì sự biến mất của nghề luật sư chỉ
còn là vấn đề thời gian” dựa trên những quan sát cụ thể. Có
thể thấy những gì rút ra được từ những quan sát (các luận cứ)
1
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 11/3/2019.
160
là không tất yếu như kết luận mà chỉ mang tính dự báo, là khả
năng có thể xảy ra, là một sự kiện có tính xác suất, thậm chí
với xác suất rất thấp, bởi các lý do sau:
- Không một ai có thể lập trình đầy đủ mọi tình huống
có thể có vào trong một bộ nhớ nhân tạo, để nó đưa ra đáp án
khi sự việc đó diễn ra.
- Chỉ con người mới có tư duy, có sự ứng biến, có vốn
kiến thức thực tế phong phú để hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh,
nguyên nhân của các vụ án và điều quan trọng là chỉ có con
người mới có trí tuệ cảm xúc, một yếu tố không thể thiếu của
Luật sư. Đây là điều mà một trí tuệ nhân tạo cho dù tân tiến
đến đâu cũng không thể làm được.
3.3.3. Các lỗi do vi phạm quan hệ logic giữa luận cứ với kết luận
Yêu cầu quan trọng của một lập luận là giữa luận cứ và
kết luận phải có mối liên kết về nội dung. Không đáp ứng đòi
hỏi này, lập luận dễ có nguy cơ bị mắc lỗi. Quan hệ giữa luận
cứ và kết luận là quan hệ có tính nhân – quả và lỗi thường gặp
là lỗi không có tính nhân quả.
Ví dụ: “Các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt
trời, gió, hay nhiên liệu sinh học không thể đóng góp tới một
phần tư nhu cầu năng lượng của cả hành tinh. Hiện nay điện
hạt nhân là nguồn cung cấp điện năng ổn định, có tính cạnh
tranh kinh tế, đặc biệt là ít phát thải cacbon, thân thiện với môi
trường và đây thực sự là lợi thế lớn cần quan tâm trong bối
cảnh dư luận có những lo ngại về môi trường. Thực tế, điện
hạt nhân vẫn tiếp tục duy trì, phát triển ở các cường quốc công
161
nghiệp và tiếp tục lan tỏa rộng rãi sang các nước đang phát
triển. Vậy nên, không có lý do gì để lo lắng về tính an toàn của
điện hạt nhân”.
Nội dung được trình bày trong các luận cứ chỉ đề cập
đến lợi ích của điện hạt nhân và xu thế sử dụng điện hạt nhân
trên thế giới chứ không hề đưa ra lý lẽ và căn cứ để giúp
người đọc yên tâm về tính an toàn của điện hạt nhân như kết
luận mong muốn.
3.4. Nắm vững và vận dụng thành thạo các thủ thuật tăng
cường hiệu quả lập luận1
3.4.1. Các thủ thuật tăng cường sức mạnh của luận cứ
Lập luận là sử dụng lý lẽ (luận cứ) một cách có hệ thống
để trình bày, phân tích, đánh giá nhằm chứng minh cho một
kết luận về một vấn đề nào đó. Nếu coi toàn bộ lập luận là
một ngôi nhà thì luận cứ chính nền móng của ngôi nhà đó. Sự
vững vàng, hiệu quả thuyết phục của một lập luận tùy thuộc
vào độ vững chắc, độ tin cậy, sự chính xác và sáng tỏ của các
luận cứ. Vì thế, việc tăng cường sức mạnh của luận cứ luôn
luôn là thao tác hàng đầu và quan trọng nhất để nâng cao chất
lượng và giá trị của lập luận. Tăng cường sức mạnh của luận
cứ được coi là một nghệ thuật trong việc sử dụng hài hòa,
nhuần nhuyễn các thủ thuật sau đây:
3.4.1.1. Kết hợp linh hoạt nhiều loại lý lẽ
Với lập luận logic hình thức, do luận cứ là các chân lý

1
Lê Thị Hồng Vân, sđd, tr.202.
162
khách quan, tất yếu đúng ở mọi lúc, mọi nơi nên không nhất
thiết phải sử dụng nhiều luận cứ cho một lập luận. Ngược lại,
trong lập luận đời thường, do các lý lẽ không phải luôn tất
yếu đúng, nên thể bị bắt bẻ, bác bỏ. Vì vậy, trong trường hợp
này cần thiết phải sử dụng nhiều loại lý lẽ để bổ sung, hỗ trợ
cho nhau nhằm tăng cường sức mạnh của luận cứ. Hơn nữa,
đứng trước một vấn đề, một sự việc, để tạo dựng niềm tin và
sự thuyết phục, cần có quan điểm xem xét vấn đề, sự việc từ
nhiều phía, nhiều chiều với những luận cứ khác nhau. Càng có
nhiều luận cứ thuyết phục thì hiệu lực của lập luận càng cao.
Như đã nói (mục 1.8.1), trong các lý lẽ đời thường thì lý
lẽ khách quan là loại lý lẽ có sức thuyết phục cao nhất, bởi đó
là các bằng chứng có thật, xác thực trong thực tế, có quan hệ
nhân quả trực tiếp với sự việc, chứ không phải suy diễn chủ
quan, cảm tính. Loại lý lẽ này giúp cho lập luận được chặt
chẽ, có cơ sở vững chắc, khó có thể bác bỏ.
Để làm ví dụ, có thể trích dẫn lời bào chữa của Luật sư
Nguyễn Đăng Trừng cho bị cáo Nguyễn Tăng Trường, bị
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội
“Tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy”. Sau khi phân tích
nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo, Luật
sư đã sử dụng các lý lẽ khác nhau để lập luận1:
* Lý lẽ hành vi cá nhân: bị cáo lập trang web mocxi.com
hoàn toàn xuất phát từ động cơ tốt là muốn hạn chế mặt tiêu
cực của trang web thacloan.com trước đó, việc phạm tội là
1
http://www.hcmcbar.org
163
điều nằm ngoài ý muốn chủ quan: “Bị cáo thấy rằng đây là
hướng có thể thu hút nhiều người truy cập nhưng bị cáo cũng
cảm thấy phát triển sâu theo hướng này cũng rất nguy hiểm,
có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật Nhà nước. Từ đó bị
cáo đã lập ra website mocxi.com, lúc đầu bị cáo có ý định
hạn chế mặt tiêu cực của trang web thacloan.com phát triển
nhiều các thông tin về giới tính. Nhưng tình hình các thông
tin trên mạng về giới tính, sức khỏe tình dục và sex đồi trụy
rất phức tạp, khó phân biệt, ranh giới rất mong manh…
Chính trong hoàn cảnh, điều kiện đó bị cáo Nguyễn Tăng
Trường đã phạm tội”.
* Lý lẽ khách quan: là các chứng cứ, vật chứng thể hiện
sự thành khẩn của bị cáo trước cơ quan điều tra:
- “… ngày 29/8/2008, Nguyễn Tăng Trường đã tự nguyện
giao nộp các tài liệu được in từ khoản admin website mocxi.com
và 01 đĩa CD dữ liệu file backup của website mocxi.com do
Trường quản lý và sở hữu (Cáo trạng 1)… Theo tôi việc bị
cáo Nguyễn Tăng Trường tự nguyện giao nộp các tài liệu trên
đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho cơ quan điều tra tiến hành
xác minh để có cơ sở ban đầu vững chắc làm căn cứ pháp lý
khởi tố vụ án”.
- “… Thực ra, nỗ lực khắc phục hậu quả của bị cáo
Nguyễn Tăng Trường còn thể hiện trong một bản tường trình
tại CQĐT, bị cáo đã viết như sau: “Tôi mong muốn và đề
nghị nhận được sự hậu thuẫn của một trong những cơ quan
Nhà nước trong việc “điều hướng phát triển một cộng đồng”,
164
tức là loại bỏ dần những mặt xấu xa của trang web mocxi.com
(Bút lục số 40 hồ sơ vụ án)”.
Dẫn ra các bằng chứng nêu trên, Luật sư không chỉ đưa
ra những lý lẽ khách quan để chứng minh cho thái độ thành
khẩn của bị cáo mà còn chứng minh cho chất “thiện” trong
con người của bị cáo, nghĩa là trong lập luận còn chứa đựng
cả lý lẽ hành vi cá nhân. Những lý lẽ đó là sự khẳng định
việc phạm tội của bị cáo chỉ xuất phát từ nguyên nhân “… tuổi
còn trẻ, chưa trải nghiệm cuộc đời bao nhiêu, thiếu bản lĩnh”.
* Lý lẽ nhân thân:
- “Bị cáo nhân thân tốt, tuổi còn trẻ, chưa có tiền án, tiền
sự, có nhiều khả năng cải tạo giáo dục để trở thành người có
ích cho xã hội”.
- “… gia đình bị cáo là một gia đình tốt: cha bị cáo là
Đảng viên, mẹ bị cáo công nhân…, ông nội, ông ngoại bị cáo
đều tham gia cách mạng lâu năm. Riêng ông nội bị cáo là
Đảng viên đã được tặng Huy hiệu 50 tuổi Đảng. Cả ông nội
và ông ngoại bị cáo đều được tặng thưởng nhiều Huân
chương cao quý của Nhà nước và là những tấm gương mẫu
mực vì đạo đức trong gia đình. Cả chú và cậu bị cáo cũng là
Đảng viên. Với một môi trường gia đình như vậy tôi tin rằng
bị cáo có điều kiện được giúp đỡ để tự cải tạo mà không cần
phải cách ly với cộng đồng và xã hội”.
3.4.1.2. Nghệ thuật sắp xếp, liên kết các lý lẽ
Bên cạnh việc huy động và sử dụng hợp lý nhiều loại lý
lẽ thì việc sắp xếp, liên kết các lý lẽ sao cho giữa luận cứ với
165
luận cứ và luận cứ với kết luận đảm bảo mối quan hệ chặt
chẽ, logic và liền lạc là một chiến thuật không kém phần quan
trọng làm tăng hiệu quả thuyết phục của lập luận.
Với lập luận có nhiều luận cứ, để gia tăng sự thuyết
phục cho lập luận, nên đặt luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh
hơn sát phần kết luận, đó là cách sử dụng luận cứ với sức
mạnh tăng dần để nâng cao sức mạnh của lập luận.
Ví dụ: “Việc dùng Camera quay lén là việc làm xâm
phạm đến quyền riêng tư của mỗi cá nhân, thể hiện thái độ
ứng xử thiếu văn minh, không phù hợp với các chuẩn mực của
xã hội. Hơn nữa, đó là hành vi vi phạm pháp luật. Vì thế,
hành vi này phải được xử lý thích đáng”.
Tuy nhiên, việc tăng cường hiệu quả lập luận bằng cách
sắp xếp các lý lẽ theo chiều hướng tăng tiến như trên chỉ là
cách thường dùng trong các văn bản đơn thoại. Đối với hội
thoại/tranh luận thì có thể sử dụng ba loại chiến thuật:
(i). Sức mạnh lý lẽ tăng dần.
(ii). Sức mạnh lý lẽ giảm dần.
(iii). Sức mạnh lý lẽ “xuống dốc – lên dốc”.
Nhược điểm cơ bản của chiến thuật (i) là ngay từ đầu
người nói không gây được ấn tượng, không thu hút người
nghe, không làm cho người nghe thấy được vai trò của mình
nên không quan tâm đến ý kiến của mình. Ngược lại, chiến
thuật (ii) lại hạn chế ở khâu kết thúc, không gây được ấn
tượng mạnh ở người nghe khi kết thúc lập luận, do đó hiệu
lực thuyết phục bị suy giảm. Vì vậy, nhiều nhà hùng biện có
166
kinh nghiệm thường sử dụng chiến thuật (iii) để vừa gây ấn
tượng lức mở đầu, lại có sức nặng thuyết phục khi kết thúc.
3.4.1.3. Sử dụng phép so sánh
Để tăng cường sức mạnh của luận cứ, có thể sử dụng
phép so sánh với các sự việc tương tự hoặc có mối liên hệ
tương tự. Cách làm này sẽ làm cho luận cứ được đưa ra rõ
ràng, cụ thể và sáng tỏ hơn, từ đó sẽ có tác động tích cực đến
tâm lý, nhận thức của người nghe, làm cho lập luận có sức
thuyết phục mạnh hơn.
Ví dụ: bày tỏ sự đồng tình với việc không áp dụng án tử
hình đối với Lê Văn Luyện, để làm tăng tính thuyết phục
trong lập luận của mình, Luật sư Hoàng Cao Sang đã trích
dẫn khoản 5 Điều 69 BLHS quy định: “không xử phạt tù
chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội”; khoản 1 Điều 74 BLHS quy định: “đối với người từ đủ
16 đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật quy định hình
phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 18 năm tù” và so sánh với Điều 6
Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em: “Các Quốc gia
thành viên công nhận rằng tất cả trẻ em đều có quyền cố hữu
được sống. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm đến mức
tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em”1.
Tuy nhiên, cần thận trọng khi thực hiện phép so sánh để
tránh sự “khập khiễng”, bởi phép so sánh là con dao hai lưỡi.
Nếu các luận cứ được sử dụng để so sánh không phù hợp,
1
Hoàng Cao Sang, “Án phạt nào cho Lê Văn Luyện”, http://www.hcmcbar.org
167
không “ăn khớp” với nhau thì lập luận sẽ rất dễ bị bác bỏ, khi
đó sức mạnh thuyết phục của lập luận không những không được
gia tăng mà còn bị suy giảm và vấn đề sẽ trở nên rắc rối hơn.
Ví dụ: Trong vụ án Minh Phụng – Epco, để khẳng định
“Việc thành lập Hội đồng giám định là kết quả của việc làm
tùy tiện”, luật sư biện hộ cho bị cáo Tăng Minh Phụng đã lập
luận “khập khiễng” bằng cách ví von, so sánh: “Tôi cho rằng
UBND thành phố Hồ Chí Minh đã cấp giấy phép lái máy bay
chở khách cho một phi công lái máy bay chiến đấu, và trên
giấy phép đó còn ghi: nếu thấy không lái được thì có thể nhờ
phi công lái trực thăng lái giùm. Trên thực tế thì Hội đồng
định giá như là người lái máy bay tiêm kích, đã nhờ phi công
trực thăng lên buồng lái của máy bay chở khách”1.
3.4.1.4. Trích dẫn các luận cứ
Thông qua việc trích dẫn các câu châm ngôn, danh ngôn,
các thành ngữ, các văn bản có giá trị pháp lý hiển nhiên… để
làm luận cứ cũng là một phương thức để nâng cao hiệu quả
thuyết phục của lập luận.
Cần lưu ý rằng việc trích dẫn phải đảm bảo yêu cầu:
chính xác, cụ thể và đặc biệt là nội dung trích dẫn của luận cứ
phải phù hợp, gây ấn tượng, nghĩa là luận cứ được trích dẫn
phải có sức nặng thuyết phục cho lập luận.
Dưới đây là ví dụ về sự vận dụng các châm ngôn, thành
ngữ qua lời bào chữa của Luật sư Nguyễn Văn Trung cho bị

1
Báo Tuổi trẻ, ngày 27/7/1999.
168
cáo Phạm Công Danh tại phiên tòa phúc thẩm vụ án Ngân
hàng BIDV1:
“Sau khi đề xuất thành lập Ngân hàng Xây dựng không
được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, “Ma đưa lối, quỷ dẫn
đường”, Phạm Công Danh đã gặp Hà Văn Thắm và sau đó là
Hứa Thị Phấn, để rồi “cứ nhằm những nẻo đoạn trường mà
đi” dẫn đến hậu quả bi đát hôm nay!”.
“… Thế nhưng, tất cả các nguồn huy động dưới mọi
hình thức đều như “muối bỏ biển”, “gió vào nhà trống” để
rồi tất cả nỗ lực của bản thân, của gia đình Phạm Công
Danh, của Tập đoàn Tiên Thanh phải trả giá chẳng những
bằng con số “không đồng” mà còn đánh đổi cả cuộc đời còn
lại với mức hình phạt 30 năm tù theo bản án sơ thẩm! Nguyên
nhân không phải xuất phát từ Phạm Công Danh, nhưng toàn
bộ hậu quả chỉ có Phạm Công Danh và các bị cáo hôm nay
gánh chịu! Khác nào “Trăm dâu đổ đầu tằm”.
3.4.1.5. Dùng câu hỏi để lập luận
Một điểm khác biệt giữa lập luận đời thường so với lập
luận logic hình thức là thay vì dùng những mệnh đề là câu
trần thuật để khẳng định/phủ định trực tiếp cùng với phép suy
luận logic, người lập luận còn sử dụng câu hỏi như một phương
pháp, một nghệ thuật đem lại hiệu quả cao cho lập luận.
Dùng câu hỏi nhằm nâng cao hiệu quả lập luận thường
được sử dụng trong các trường hợp:

1
Bài bào chữa của Luật sư Nguyễn Văn Trung cho bị cáo Phạm Công Danh -
(http://www.hcmcbar.org).
169
a/. Hỏi để xác nhận các luận cứ, để định hướng kết luận
(buộc người đọc/nghe phải tự rút ra kết luận theo hướng mà
người viết/nói muốn đạt đến), cũng tức là để phủ định, bác bỏ
ý kiến đối phương và khẳng định quan điểm của mình.
Ví dụ sau cho thấy tác dụng của việc dùng một loạt câu
hỏi để bác bỏ nhận định mang tính chủ quan, võ đoán, không
phù hợp với các tình tiết khách quan, với các nguyên tắc nhận
định và đánh giá chứng cứ: “Ở đây thử hỏi ông Nam được ủy
quyền của ai? Của bà Anh hay của ông Khảm? Ủy quyền về
vấn đề gì? Văn bản ủy quyền ở đâu? Và quan trọng nhất là
pháp luật có thừa nhận việc ủy quyền miệng hay không? Nếu
đã không thừa nhận thì tại sao lại dựa vào lời khai của đương
sự (mà đôi khi chỉ là sự nhầm lẫn trong cách dùng từ) để cho
rằng ông Nam là người được ủy quyền, còn người nhận tài
sản chính thức là ông Khảm? Trong khi theo Hợp đồng tặng
cho nhà thì ông Nam là người được nhận căn nhà từ bên tặng
cho là ông Khảm”1.
b/. Hỏi để khẳng định, nhấn mạnh ý kiến của mình
Ví dụ: “Theo quy định của Pháp luật tố tụng, HĐXX
phúc thẩm có được phép vừa quyết định bác kháng cáo kêu
oan, vừa quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo hay không?”2.

1
Hồ Ngọc Diệp (2010), Bình luận án, NXB Phương Đông, tr.106.
2
Hồ Ngọc Diệp (2010), Tình huống pháp lý và thực tiễn tố tụng, NXB
Phương Đông, tr.42.
170
c/. Hỏi còn là một nghệ thuật lập luận khéo léo, tế nhị
khi muốn bày tỏ quan điểm đối lập với người khác, hoặc
muốn góp ý hay khuyên can ai đó mà không làm họ phật
lòng. Ví dụ: ý kiến của Luật sư Trần Công Ly Tao - Phó Chủ
nhiệm Đoàn Luật sư TP.Hồ Chí Minh khi đề cập đến những
bất cập trong hoạt động xét xử, đã chia sẻ bằng câu hỏi: “Nếu
cấp trên mở lượng khoan hồng, dung thứ cấp dưới thì đâu
còn kỷ cương phép nước”1.
3.4.2. Các chiến thuật tăng cường hiệu quả lập luận khác
Ngoài các phương thức tăng cường sức mạnh của luận
cứ đã trình bày ở trên, để gia tăng tính thuyết phục của lập
luận thì vai trò của các yếu tố tương tác trong giao tiếp có một
vị trí rất quan trọng. Đó là thái độ, cảm xúc… được thể hiện
qua lời văn (với văn bản viết) hoặc các yếu tố giao tiếp phi
ngôn ngữ (giọng điệu, khẩu khí, cử chỉ…) được thể hiện
trong quá trình hội thoại, tranh luận (với văn bản nói). Kết
hợp khéo léo, đồng bộ các chiến thuật sẽ tạo ra sự “cộng
hưởng” mạnh mẽ, có tác dụng nâng cao sức thuyết phục của
lập luận.
3.4.2.1. Các yếu tố chi phối từ người nói
Dù với hình thức viết hay nói thì trong quá trình lập
luận các yếu tố biểu cảm, gây xúc động từ phía người viết
(thái độ, cảm xúc, giọng điệu thể hiện qua lời văn) và người
nói (khẩu khí, giọng điệu, các giao tiếp hình thể: ánh mắt, cử

1
http://www.hcmbar.org
171
chỉ…) đều chi phối trực tiếp đến người đọc/nghe, góp phần
không nhỏ giúp tăng cường hiệu quả thuyết phục của lập
luận. Các kỹ năng này chính là những tố chất căn bản của
người có tài hùng biện. Sự phối hợp nhuần nhuyễn, sinh động
và linh hoạt các yếu tố trên đây có tác dụng xoáy sâu vào lòng
người, lay động tình cảm, tâm lý của người nghe. Cụ thể, các
yếu tố chi phối từ người nói có tác động phát huy hiệu quả lập
luận gồm:
- Giọng điệu hùng hồn, đĩnh đạc, khúc triết thể hiện sự
tự tin vào điều mình khẳng định; giọng điệu châm biếm, mỉa
mai thể hiện sự nghi ngờ, phủ định đối với quan điểm của đối
phương; giọng điệu thiết tha, tình cảm thể hiện sự đồng cảm,
sẻ chia…
- Cường độ, cao độ của giọng nói, sự nhấn giọng và cả
những chỗ lặng cố tình để người nghe kịp thấm thía, suy
ngẫm cũng là những tác nhân quan trọng góp phần không nhỏ
vào việc chinh phục người nghe.
Sự phù hợp và hòa quyện giữa những cung bậc khác
nhau của giọng điệu với nội dung và mục đích của lập luận sẽ
giúp nâng cao đáng kể hiệu quả thuyết phục.
3.4.2.2. Các yếu tố chi phối từ người nghe
Trong lập luận hội thoại cũng như trong giao tiếp nói
chung, thông điệp mà người nói truyền đi chỉ có ý nghĩa khi
được người nghe có thiện chí đón nhận. Điều đó tùy thuộc
vào thái độ cởi mở và tâm thế sẵn sàng tiếp nhận, có góc nhìn
tích cực với ý kiến của người giao tiếp, ngay cả khi ý kiến đó
172
khác với chính kiến của mình. Do đó, việc lựa chọn thời điểm
để nói khi tính đến các yếu tố chi phối từ phía người nghe
như: thái độ, tâm lý, nhận thức, tình cảm, tính cách… trong
quan hệ với vấn đề mà người nói đề cập đến là nhân tố quan
trọng để làm tăng hiệu quả thuyết phục cho lập luận.
Ví dụ 1: mở đầu bài bào chữa cho bị cáo Phạm Công
Danh tại phiên tòa phúc thẩm vụ án Ngân hàng BIDV, Luật
sư Nguyễn Văn Trung đã nói:
“Trước hết, tôi vô cùng xúc động và cảm kích hai vị đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. HCM trong suốt
quá trình xét hỏi và đã đưa ra Bản kết luận tại phiên tòa hôm
nay hết sức công phu, chặt chẽ, nhằm xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ mà mục đích
cuối cùng là xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội!”1. Cách
đặt vấn đề của Luật sư đã tác động mạnh đến tâm lý của các
vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao cũng như những
người có mặt tại phiên tòa. Đó cũng là thông điệp mà Luật sư
đang muốn gửi đến mọi người, mong muốn sự công minh,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Ví dụ 2: mở đầu bài bào chữa cho bị cáo Lê Văn Ng. bị
truy tố và xét xử về tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ”, gây tai nạn thương tâm,
Luật sư đã nói: “Trước hết, tự đáy lòng mình, tôi xin chia
buồn với gia quyến về tai nạn xảy ra ngày 19/01/2001. Tổn

1
http://www.hcmbar.org
173
thất và rủi ro ấy, tôi nghĩ là không gì bù đắp được”1... Lập
luận này tỏ rõ sự mong muốn chia sẻ, đồng cảm, an ủi nhằm
làm dịu sự bức xúc của bên bị hại, cũng như tác động vào tâm
lý của người nghe để tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận các lý lẽ
bào chữa tiếp theo.
3.4.3. Nghệ thuật hùng biện trong lập luận
Năng lực hùng biện là nghệ thuật kết hợp tổng hòa nhiều
kỹ năng, đồng thời phát huy đến mức tối đa các chiến thuật
bổ trợ nhằm đem lại sức thuyết phục cao cho lập luận. Nghệ
thuật hùng biện bao gồm:
- Nghệ thuật vận dụng kết hợp nhiều loại lý lẽ để tăng
cường sức mạnh cho lập luận.
- Nghệ thuật sắp xếp, liên kết các luận cứ, các lý lẽ.
- Nghệ thuật kết hợp linh hoạt, uyển chuyển nhiều
phương thức lập luận.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ thành thạo, chuẩn xác, sắc
sảo, linh hoạt.
- Nghệ thuật sử dụng khẩu khí, giọng điệu thể hiện thái
độ, cảm xúc và sự nhiệt thành của người viết/nói trong việc
khẳng định/phủ định, khiến người đọc/nghe bị lôi cuốn, thuyết
phục một cách mạnh mẽ.
Lập luận là thao tác gắn liền với công việc của những
người hoạt động trong lĩnh vực Luật – đặc biệt là với Luật sư.
Do đó, đối với họ, hùng biện để có hiệu quả lập luận cao là kỹ
năng, là đòi hỏi không thể thiếu, có ý nghĩa mang tính sống còn.

1
Lê Thị Hồng Vân, Sđd, tr.218.
174
TÓM TẮT CHƯƠNG 3

1. Sức mạnh thuyết phục của một lập luận trước hết
phụ thuộc vào tính logic của lập luận. Vì vậy, cần rèn luyện
kỹ năng xây dựng lập luận đảm bảo tuân thủ yêu cầu về cấu
trúc và nội dung hợp lý, chặt chẽ về mặt logic.
2. Xây dựng sơ đồ cấu trúc lập luận là phương pháp
trực quan, sinh động cho phép hình thành bức tranh đầy đủ
và chi tiết các thành phần của một lập luận. Từ đó, có thể
đánh giá toàn diện vai trò, vị trí của các thành phần đối với
chất lượng của lập luận, thấy được “điểm mạnh” và “điểm
yếu” của lập luận.
3. Phân tích một lập luận không chỉ là việc xác định
đúng và đầy đủ kết luận và các luận cứ của lập luận, mà còn
là việc tìm hiểu cặn kẽ hiệu lực hỗ trợ của mỗi luận cứ đối
với kết luận, mối quan hệ giữa các luận cứ trong lập luận,
truy tìm giả định và hàm ý của lập luận.
4. Lỗi của lập luận có thể ở luận cứ, ở kết luận hay ở
quan hệ logic giữa luận cứ và kết luận. Phát hiện lỗi của lập
luận là kỹ năng quan trọng và rất hữu ích để giúp xây dựng
lập luận chặt chẽ, logic, sắc sảo, đồng thời để phản biện hiệu
quả lập luận của đối phương.
5. Hiệu quả của một lập luận phụ thuộc rất lớn vào
các sức mạnh của luận cứ và các chiến thuật tăng cường
hiệu quả lập luận khác.

175
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 3

A. CÂU HỎI

1. Hãy nêu cách hiểu của Anh (Chị) về tính logic trong
một lập luận. Tính logic có vai trò như thế nào trong một lập
luận?
2. Việc quan tâm kết hợp linh hoạt nhiều loại lý lẽ và
sắp xếp, liên kết các lý lẽ có ảnh hưởng thế nào đến sức mạnh
của một lập luận?
3. Nêu tóm tắt các yếu tố chi phối từ người nói và từ
người nghe đến hiệu quả lập luận.

B. BÀI TẬP

I. Lập sơ đồ cấu trúc của các lập luận trong bài tập I
(chương 1).
II. Hãy chỉ ra lỗi trong các lập luận sau đây:
1. “Việc xử phạt xe không chính chủ còn có tác động
đến vấn đề ô nhiễm môi trường và thị trường nhiên liệu. Hiện
nước ta đang đứng tốp đầu thế giới về ô nhiễm môi trường
không khí và là nước có giá nhiên liệu khá đắt đỏ, do khi
nhập khẩu đến tay người tiêu dùng phải chịu nhiều loại thuế.
Mỗi lần giá xăng dầu rục rịch tăng thì người dân lại đổ xô
mang can, thùng đi mua để tích trữ. Việc tăng, giảm giá xăng
cũng diễn ra khá thường xuyên. Chỉ tính riêng năm 2013 đã

176
có không dưới bốn lần, cho thấy những hạn chế của công tác
quản lý thị trường xăng dầu ở nước ta”.
2. “Trong tuyển dụng công chức, không nên đánh đồng
bằng cử nhân chính quy và dân lập. Thực tế cho thấy chất
lượng đào tạo của các trường dân lập vẫn thấp hơn nhiều so
với trường công lập. Dẫu rằng trong vài năm gần đây, quan
sát cho thấy đã có dấu hiệu “đảo chiều” dù chỉ mang tính cục
bộ. Một số trường dân lập, tư thục đã mạnh dạn đầu tư áp
dụng nội dung và phương pháp đào tạo tiên tiến để cải thiện
chất lượng”.
3. Ý kiến ủng hộ việc bỏ Tết Nguyên Đán: “Đã đến lúc
cần xem xét nghiêm túc để dứt khoát bãi bỏ tập tục Tết
Nguyên Đán. Từ bao lâu nay, Tết đến là cơ hội thuận lợi để
hợp thức hóa tệ biếu xén, quà cáp lấy lòng cấp trên… dẫn
đến tham nhũng. Tết còn là dịp để các tổ chức, cá nhân, hội
đoàn… gặp gỡ liên hoan, rượu chè say sưa, vừa tốn kém tiền
bạc, thời gian vừa là nguyên nhân gây ra ách tắc giao thông
và biết bao những tai nạn thương tâm… Hơn nữa, ăn Tết
Nguyên Đán là ăn Tết của Trung Quốc và chẳng có gì gọi là
dân tộc khi ta dùng văn hóa nước khác”.
4. “Kết quả nghiên cứu cho thấy có 211/322 (chiếm
65,5%) sinh viên của 4 trường Đại học ở thành phố Hồ Chí
Minh là: Bách khoa, Hutech, Nguyễn Tất Thành và Sư phạm
cho rằng “hành vi giao thông tích cực thể hiện thái độ có văn
hóa, sự tôn trọng kết hợp chặt chẽ với sự hiểu biết đầy đủ và
nghiêm chỉnh chấp hành các Luật về giao thông”. Điều này
177
chứng tỏ đa số sinh viên đã nhận biết đúng đắn, đầy đủ và
chính xác về khái niệm của hành vi giao thông tích cực”1.
5. “Nếu công nhận mại dâm là một nghề sẽ rất phức
tạp. Bởi theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, đã có nghề phải có
tiêu chuẩn nghề, mã số nghề, có ông tổ nghề, có bộ giáo trình
dạy nghề được cấp, có chứng chỉ, thang bảng lương…”2.
III. Dưới đây là trích dẫn nội dung một số ý kiến phát biểu:
1. Theo Anh (Chị):
a/. Kết luận mà phát biểu muốn hướng tới là gì?
b/. Đâu là giả định và hàm ý trong nội dung của các ý
kiến đó.
2. Hãy viết một đoạn một lập luận ngắn (khoảng 30 chữ)
để diễn tả nội dung mà kết luận muốn hướng tới.
1. “Một người dân thiếu hiểu biết về Pháp luật cần đến
sự hỗ trợ của Luật sư bởi họ cho rằng Luật sư là những người
bảo vệ họ. Song, thực tế, người có kiến thức về Pháp luật để
bảo vệ người khác nhiều khi cũng cần được bảo vệ…”3.
2. “Thà để cho 10 phạm nhân thoát tội còn hơn để 1 kẻ
vô tội bị oan”.
3. Ý kiến đề nghị công khai danh sách thí sinh được
nâng điểm khống trong kỳ thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia
năm 2018: “Không công khai danh sách thi sinh được nâng
khống điểm - nhân văn hay bao che tội phạm?”.

1
Đào Thị Duy Duyên…, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh, số 10 (76), năm 2015.
2
Báo Người đưa tin, ngày 02/4/2018.
3
Báo Người đưa tin, ngày 27/12/2012.
178
4. “Nghệ thuật tranh tụng không phải là cái gì khác mà
chính là nghệ thuật sử dụng chứng cứ”.
5. Trong phiên tòa xét xử vụ ly hôn của vợ chồng Cafe
Trung Nguyên, chủ tọa đã khuyên người vợ nên rút đơn ly
hôn vì: “chị về nhà trông con, quản lý tài sản và giao hết
công việc cho chồng, sống như một bà hoàng” …“Một người
đàn ông hùng hục đi lao động ở ngoài, kiếm tiền về cho vợ
con, như con đại bàng đực chỉ có tha mồi về cho đại bàng cái
nuôi con. Sướng quá đi chứ. Tại sao chị lại tự nhiên ôm khổ
vào thân. Tôi nghĩ như thế là hợp tình hợp lý, hợp với đạo lý
và hợp với phong tuc tập quán của dân tộc Việt Nam mình”1.
6. “Bí quyết của sự thành công - nếu có - đó là khả năng
tự đặt mình vào địa vị của người khác và xem xét sự vật vừa
theo quan điểm của họ, vừa theo quan điểm của mình”.
IV. Dưới đây là toàn văn bài bào chữa của Luật sư
Nguyễn Khoa Đăng cho bị cáo Huỳnh Công Vân bị truy tố về
tội “giết người”2. Hãy cho biết:
1. Luật sư đã vận dụng các loại lý lẽ nào để làm tăng
hiệu quả thuyết phục của lập luận?
2. Ngoài lý lẽ, bản bào chữa đã đáp ứng được những yêu
cầu nào khác của một lập luận pháp lý?
“Kính thưa HĐXX.
Kính thưa vị đại diện VKSND tỉnh Kiên Giang!

1
Báo Pháp luật, ngày 21/02/2019.
2
http://www.hcmcbar.org.
179
Kính thưa các nạn nhân, thân nhân các nạn nhân, những
người chịu đau thương nhất trong những người có mặt ở phiên
tòa xét xử bị cáo hôm nay!
Kính thưa bà con tham dự phiên toà!
Hôm nay nghề nghiệp và trách nhiệm đã đặt trên vai tôi
một cái gánh hết sức nặng nề. Tức là tôi phải đứng ra bào
chữa cho một kẻ giết người, mà nào có phải là một người, lại
là những ba người, thậm chí suýt bốn người. Một con số
khủng khiếp. Một việc làm hết sức vô nhân đạo. Bây giờ tôi
biết nói làm sao đây, chả lẽ các nạn nhân vô cùng oan khốc
với những cái chết tức tưởi, hiện giờ đã mồ yên mả đẹp hết
rồi, tôi lại tiếp tục dùng lời lẽ bắn thêm vào họ? Chả lẽ các
gia đình nạn nhân kể cả nạn nhân còn sống sót đã đau đớn
quá nhiều rồi, bây giờ tôi lại bồi tiếp sự đau đớn?
Tôi sẽ bào chữa sao đây khi mà cách đây ít hôm, mở
trong hồ sơ vụ án thấy bức ảnh của các nạn nhân, người mở
mắt người không, nhưng ai cũng như trừng trừng nhìn thẳng
vào tôi mà hỏi: “Chúng tôi chết đau thương thế này chưa đủ
sao mà ông lại còn bào chữa cho hắn? Ông thử đặt địa vị vào
hoàn cảnh chúng tôi hay gia đình chúng tôi xem nào!”.
Kính thưa gia đình các nạn nhân!
Chúng tôi rất thông cảm và thành thật chia sẻ nỗi đau
trên với các gia đình, nhưng công việc không cho phép chúng
tôi nói những lời khác hơn những lời nhằm tìm ra những tình
tiết khách quan của vụ án hoặc những tình tiết mà bị cáo
đáng được xem xét giảm nhẹ. Đây không phải là việc nhằm
xóa tội hoặc chạy tội cho bị cáo mà là công việc của pháp lý,
180
là mặt thứ hai của công tác xét xử. Nó chỉ có tác dụng làm
cho công tác xét xử được xem xét từ nhiều phía, lật đi lật lại
các vấn đề, để giúp HĐXX có thêm một cái nhìn ngược lại, để
có thêm cơ sở mà tuyên cho bị cáo một bản án đúng người,
đúng tội, đúng luật pháp và thấu tình đạt lý. Kính mong gia
đình nạn nhân thông cảm cho như thế. Sau đây là những lời
bào chữa của tôi.
Kính thưa HĐXX!
Trước hết, xin được trình bày là chúng tôi hết sức tán
thành lời luận tôi của vị đại diện VKS về hành vi phạm tội
của bị cáo và về tội danh của bị cáo. Thực tình mà nói vụ án
này tuy rất nghiêm trọng, nhưng lại hết sức đơn giản, rõ
ràng. Thủ phạm của vụ án và hành vi giết người của y đã lộ
rõ nguyên hình trước mắt mọi người đó chính là Huỳnh Công
Vân và chính Huỳnh Công Vân chứ không phải ai khác đã nổ
súng trực tiếp bắn chết 3 người và làm bị thương 1 nạn nhân
khác và như vậy việc bản cáo trạng khép bị cáo vào khung 1
Điều 101 của Bộ luật Hình sự theo tôi là hoàn toàn chính xác.
Vậy điều gì đáng nói nhất ở vụ án này?
Kính thưa HĐXX!
Theo tôi điều cần phải làm sáng tỏ là lý giải cho được
nguyên nhân vì sao bị cáo lại giết người mà lại toàn là giết
những người không thù oán, không mâu thuẫn gì với họ cả.
Thông thường thì kẻ giết người đều phải có mục đích. Đằng
này Vân lại không có mục đích, không có động cơ đê hèn nào
cả. Cướp của ư? Rõ ràng là không - Hiếp dâm ư? Cũng không-
Bịt đầu mối ư? Cũng không nốt. Vậy thì tại sao? Tại sao? Đây
181
là câu hỏi khó khăn nhất và nhức nhối nhất. Một câu hỏi cần
phải lý giải cho được dù có tốn công tốn sức. Với tư cách và
trách nhiệm người bào chữa, tôi xin được mạnh dạn lý giải
điều này.
Kính thưa HĐXX! Theo tôi bị cáo giết người vì những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một là, bị cáo có dấu hiệu bệnh tâm thần.
- Hai là, đã vậy bị cáo lại bị kích động tinh thần quá
mạnh về phía nạn nhân.
Kính thưa HĐXX!
Về bệnh tâm thần của bị cáo chúng tôi khẳng định là có
dấu hiệu, dấu hiệu đó nhận biết được là do dựa trên những
căn cứ sau đây:
- Những bản xác nhận của những người trước đây từng
làm việc với bị cáo ở trong đơn vị bộ đội, từng chứng kiến các
lần bị cáo bị tai nạn giao thông tổn thương sọ não và gây ra
những biến đổi tính tình sâu sắc đến nỗi cơ quan phải cho
chuyển ngành.
- Những xác nhận này chúng tôi đều có kính chuyển
đến tòa án cách đây đã lâu. Hôm nay vì sợ mất thời giờ nên
tôi không dám đọc lại hết, chỉ xin điểm qua vài lời nhận xét
sau đây:
Một là của đồng chí NGUYỄN NGỌC TIẾN, cấp bậc
Thiếu tá, Trưởng ban Tuyên huấn Trường Quân chính Quang
Trung thuộc Quân khu 9, với nội dung sau đây “Đồng chí
Huỳnh Công Vân năm 1963 bị té xe Honda phải điều trị một
thời gian dài tại Bệnh viện 121 Quân khu 9 khi trở về là Đại
182
đội trưởng của Tiểu đoàn 23, Sư đoàn 869. Đồng chí đã bị
ảnh hưởng thần kinh.
Hai là xác nhận của đồng chí NGUYỄN NGỌC HƯƠNG
cấp bậc Đại úy, chức vụ Trợ lý tập huấn, hiện đang công tác
tại Huyện đội Châu Thành, tỉnh Kiên Giang ghi: “Khoảng
tháng 7,8/1983, Vân mượn xe Honda chạy vào buổi tối
khoảng tám giờ trên tuyến đường băng sân bay Sóc Trăng.
Khi đến cuối đường băng có cua quẹo về tiểu đoàn nhưng vì
chạy quá tốc độ không kịp thắng nên xe bay luôn ra ngoài
đường băng, Vân bay ra khỏi xe bất tỉnh bị chấn thương ở
vùng đầu…”.
Ba là xác nhận của đồng chí Trương Văn Bên, cán bộ
hưu trí ở ấp Long Hòa A, xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp,
tỉnh Hậu Giang cũng nói bị cáo bị té xe, bị tổn thương thần
kinh và bị thay đổi tính tình.
Sau đó là xác nhận của đồng chí Nguyễn Lục Lượng,
Đại úy, Phó ban Tham mưu chính trị hiện đang công tác tại
Trạm khách T-80, Quân khu 9 hoặc của đồng chí Nguyễn Thị
Ánh Tuyết, y sĩ điều trị Bệnh xá Sư đoàn 869, người trực tiếp
băng bó và điều trị cho bị cáo cũng có nhận xét như trên.
Đó là những chứng cứ bằng giấy tờ cho phép chúng tôi
nghĩ rằng bị cáo đã từng có dấu hiệu tâm thần. Ngoài ra cũng
có những tình tiết khác cho phép làm căn cứ để xác định bệnh
trạng của bị cáo như lời chị Mai (vợ bị cáo) người có mặt ở
phiên tòa hôm nay. Chị Mai kể rằng, sau khi cưới được một
ngày, có người ở đơn vị cũ đến nói riêng với chị rằng chồng
chị bị bệnh thần kinh, cố gắng mà chiều chuộng, hoặc như lời
183
anh Bên, người cùng đơn vị với bị cáo trước đây, cách đây
mấy hôm có gặp vợ bị cáo, anh cũng cam đoan rằng “Cho nó
uống rượu rồi dẫn nó đến trước mặt đối thủ của nó, nó không
nổi cơn thần kinh lên thì cứ đem tao ra mà tử hình”.
Ngoài những lời lẽ trên, ở đây cũng xin được HĐXX lưu
ý đến cái biệt danh mà bà con bán hàng trước cổng Trường
Quân chính Sóc Trăng. Ở đó, bà con gọi bị cáo là “Vân Pin”
pin tức là điện, Vân Pin là Vân bị mát điện, Vân thần kinh,
Vân tâm thần.
Đó là những căn cứ cho phép chúng tôi nghĩ đến bị cáo
trước khi gây án đã gặp phải những cơn bệnh tâm thần phân
lập. Và chúng tôi cũng thầm nghĩ chỉ có căn cứ vào bệnh này
mới lý giải được vì sao bị cáo lại có hành động giết người
một cách điên khùng như vậy.
Kính thưa HĐXX! Về căn bệnh này của bị cáo chúng tôi
chỉ có ý định trình bày như thế, còn phần kết luận thế nào thì
hoàn toàn trong chờ vào việc giám định y học của HĐXX.
Nhưng để góp phần làm sáng tỏ thêm căn bệnh này nhằm
giúp HĐXX rộng bề phán quyết, tôi xin được có đôi nét về
những tri thức chuyên môn về những căn bệnh quái ác này.
Kính thưa HĐXX! Bệnh tâm thần là căn bệnh nan y xưa
nay rất khó phát hiện, bởi vì ngay cả bản thân người bệnh
cũng không ai chịu thừa nhận là mình bệnh cả. Vì thế chỉ có
những bác sĩ giỏi mới phát hiện ra được. Nhưng oái ăm thay
bệnh này ở nước ta lại chiếm tỷ lệ rất cao. Theo thống kê gần
đây của Bộ Y tế thì ở ta người mắc bệnh này lên tới 10%. Đã
thế, bệnh còn biểu hiện ở nhiều hình thái khác nhau. Theo
184
Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 57 trong bài viết của bác sĩ
Đăng Thị Thêu, một Việt kiều ở Mỹ thì vừa qua Tổ chức Y tế
thế giới đã công bố một bản phân loại quốc tế mới nhất về
bệnh tâm thần. Theo bảng này thì hiện nay có tới 300 loại
bệnh. Vậy thì bị cáo Vân nếu có mắc phải thì mắc loại bệnh
nào? Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy bị cáo Vân mắc bệnh
gọi là “Nhân cách bệnh”. Theo tài liệu y học thì bệnh này là
“một thể bệnh tâm thần cùng với các bệnh loạn thần kinh
khác được xếp vào các bệnh gọi là “Tâm thần nhỏ học” hoặc
“Tâm thần học ranh giới”. Bệnh này được biểu hiện trong 4
trạng thái gọi là bốn thể khác nhau, đó là: thể hưng phấn, thể
ức chế, thể suy nhược và thể Hit-tê-ri-a. Căn bệnh của bị cáo
theo dự đoán của chúng tôi nó nằm ở thể hưng phấn. Tôi xin
dẫn ra đây định nghĩa của Y học về thể bệnh này: “Người bị
mắc bệnh tâm thần theo thể hưng phấn là người thường có
tính tình cộc cằn dễ bị kích thích, cảm xúc, rất dễ nổi cơn
giận dữ. Trong trạng thái này người bệnh phát sinh những
bản tính độc ác, mãnh liệt, không thích hợp chỉ vì những lý do
rất nhỏ nhặt, lúc này người bệnh không chỉ quát tháo, chửi
mắng thậm tệ và sỉ nhục mọi điều với những người xung
quanh mà còn chuyển ngay sang hành động tấn công như
quăng lọ mực, vung ghế, đâm chém… Sau cơn bệnh người bệnh
có thể đánh giá được chuyện mình làm, vô cùng khổ sở vì
hành vi của mình. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau thì lại có cơn
bùng nổ khác và những lý do mới cũng không có gì đáng kể…”.
Những điều trên đây là do tôi trích dẫn từ trang 258 của
cuốn sách Tâm thần học mà tác giả là 4 nhà tâm thần học nổi
tiếng của Liên Xô là Kếch-cốp, Coot-kina, Nal-gia-nốp và
185
Nhe-giơ-nhép ky do Nhà xuất bản Y học của ta dịch và xuất
bản năm 1975.
Kính thưa HĐXX!
Đối chiếu với các hành vi của bị cáo tôi thấy nó giống y
chang những điều mà tôi vừa dẫn ở sách trên. Từ những suy
nghĩ đó tôi có nhận định rất có thể bị cáo Vân trước và trong
khi gây án đã trải qua một cơn sốc của bệnh tâm thần, căn
bệnh này nếu không phát sinh sau khi bị cáo té xe, thì nó cũng
âm ỉ trong cơ thể bị cáo do có sự di truyền mà y học gọi là
gien. Sỡ dĩ chúng tôi đưa ra điều này là vì trong quá trình
điều tra chúng tôi được biết trong gia đình bị cáo ở thế hệ
trước có ít ra là hai người bị bệnh này. Đó là bà cô của bị
cáo là cô Sáu Hạnh năm nay 71 tuổi (thời trẻ bị khùng mấy
năm trời) đó là bác thứ tư của bị cáo ông Huỳnh Văn Thọ
cũng có thời mắc bệnh trên. Sỡ dĩ tôi phải dẫn ra như thế vì
theo thuyết của Phờ-rớt nhà phân tâm học nổi tiếng người Áo
thì bệnh tâm thần còn có một nguyên nhân là do di truyền.
Kính thưa HĐXX!
Như vậy là tôi đã trình bày với HĐXX về nguyên nhân
thứ nhất khiến bị cáo gây án là do mắc bệnh tâm thần mà
trong công tác xét xử được coi như là một tình tiết giảm nhẹ
quan trọng. Đó là chưa nói đến việc miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự cho bị cáo khi mà ngành Pháp y làm rõ căn
bệnh của bị cáo.
Tôi xin trình bày sang nguyên nhân thứ hai. Đó là bị
cáo bị sự kích động tinh thần quá mạnh từ phía nạn nhân:
Kính thưa HĐXX!
186
Như trên tôi đã trình bày bị cáo mắc bệnh tâm thần
phân liệt loại nhân cách bệnh, thể hưng phấn. Căn bệnh này
bình thường như con rắn hổ nằm ngủ mà thôi. Con rắn độc
ấy chỉ thức dậy khi có sự chọc giận, sự kích động từ phía bên
ngoài. Vậy sự kích động, chọc giận ở đây là gì. Chẳng cần
nói thì HĐXX và bà con cũng đã rõ. Đó là những lời nói và
cử chỉ của bà chủ quán Nguyên. Sự kích động này tôi nghĩ phải
phân tích cặn kẽ mới thấy hết vai trò của nó. Theo tôi thì nó có
2 giai đoạn hay nói đúng hơn là có hai ngòi nổ khác nhau.
- Ngòi nổ thứ nhất là việc bị cáo không thiếu nợ mà lại
bị đòi nợ. Thông thường, ở đời mình thiếu nợ người khác bị
người ta đòi nợ còn buồn, còn tức, huống chi không nợ mà lại
bị đòi nợ. Đã vậy cái nợ ấy còn bị thiên hạ cho là nợ bê tha
điếm nhục: nợ tiền nhậu, nợ tiền uống bia ôm, nợ tiền chơi
gái, những cái nợ này ai mắc vào nói ra cũng xấu hổ - huống
chi lại bị đến đòi nợ. Đây lại là nợ khống. Không bất bình sao
được! Không giận dữ sao được! Người thường còn thế huống
gì người có tiềm ẩn tâm thần. Con rắn hổ trong người bị cáo
ngóc đầu dậy là vậy. Kính mong HĐXX lưu ý tình tiết tế nhị
này. Ở đây trong hồ sơ ở bút lục 33,35,39 theo lời khai của
các nhân chứng khẳng định bị cáo không thiếu tiền, nhân
chứng tên Tùng có vợ là Loan là người nhà của chủ quán
nhậu (chị Loan đã chết) cũng khẳng định như thế.
- Ngòi nổ thứ hai là những lời lẽ lăng mạ quá đáng của
bà chủ quán Nguyên. Về việc này để tránh việc bà chủ quán
có thể sẽ phủ nhận thì tôi đành phải dẫn ra chính lời khai của
bà trong bút lục số 29. Tại bút lục này bà chủ quán đã thừa
nhận bà đã chửi Vân rằng: mày uống … sao mà đểu thế”. Tôi
187
không dám nhắc lại mấy chữ thô tục vì khi nói ra sẽ là khiếm
nhã giảm vẻ trang nghiêm vốn có của phòng xử án.
Rồi chẳng riêng gì bà chủ quán, các nhân chứng đều
chung một ý kiến thừa nhận như thế. Tại bút lục số 41 anh Lê
Văn Thiệu khai: “Chị Hai Điền dùng lời lẽ thiếu văn hóa để
nói xấu Vân, nhục mạ Vân khi cơ quan đang trong giờ làm
việc”, “Khi trở ra chị Hai Điền vẫn đứng ngoài chửi thô tục”
rồi nào là “Tôi kéo chị Hai Điền về chị không về mà quay lại
chửi lần hai với lời lẽ thô tục hơn”. Hôm vừa rồi gặp anh
Thiệu tôi có hỏi chị Hai Điền chửi thô tục là chửi như thế nào?
Anh cười trả lời: “Nói thế là đủ…nhắc lại là thêm một lần
thiếu văn hóa…”. Tôi thầm nghĩ nhắc lại câu nói đó cho
người khác nghe mà người ta còn ngại miệng, huống chi một
người thần kinh, đã bị đòi nợ khống mà lại còn bị trút lên như
đạn bắn, như mưa bão, với những lời như thế thử hỏi làm sao
bị cáo chịu cho nổi?
Kính thưa HĐXX!
Như vậy ở phần này tôi muốn trình bày rằng bị cáo gây
án là do bị kích động tinh thần quá mạnh về phía nạn nhân.
Qua phần lý giải trên có thể đi đến hệ quả sau: rằng chiều
hôm đó nếu không có chuyện bà chủ quán chuyên đòi nợ
khống, không có những lời thô tục nặng nề thì dứt khoát vụ
án sẽ không xảy ra. Song, ở đây cũng có điều cần phải lý giải
ấy là tại sao bị cáo lại đang tâm nổ súng vào bốn người trong
lúc chỉ có bà chủ quán mới là người gây nên cơn lốc tâm lý
cho bị cáo? Như tôi đã phân tích ở trên, những người bị mắc
bệnh tâm thần thể hưng phấn thì chỉ cần những lý do rất nhỏ
nhặt họ cũng đã có những phản ứng rất mãnh liệt. Lý do nhỏ
188
nhặt theo tôi là cô Loan đã có nói gì đó làm bị cáo tưởng là
anh ta bị cản trở công việc, là ở chỗ cô Thuyết vừa là kế toán
ghi sổ nợ vừa trực tiếp sang đòi tiền bị cáo, là ở chỗ cô
Quyên, ông Trường có cử chỉ này hoặc lời nói nọ làm cho bị
cáo trong cơn điên loạn đã hiểu lầm.
Kính thưa HĐXX!
Như vậy là tôi đã trình bày với HĐXX hai nguyên nhân
dẫn đến hành vi phạm pháp của bị cáo, rất may mắn là hai
nguyên nhân này là hai tình tiết giảm nhẹ trong Điều 38 của
Bộ luật Hình sự, tại khoản b: bị kích động tinh thần; tại
khoản e: người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế về khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình -
tức là chứng bệnh tâm thần mà tôi vừa nêu trên.
Ngoài hai tình tiết đáng được xem xét giảm nhẹ nêu
trên, trong vụ án này tôi thấy bị cáo còn có hai tình tiết nữa
cũng rất đáng được xếp vào các tình tiết giảm nhẹ. Đó là việc
ngay sau khi gây án xong bị cáo đã xách súng lên đồn công
an đầu thú. Điều này phù hợp Điều 38 điểm H; Đó là việc bị
cáo phạm tội lần đầu, trước đó bản thân bị cáo là người tốt,
là Đảng viên Đảng Cộng sản, là phó trưởng phòng… điều
này được ghi nhận trong khoản D Điều 38.
Như vậy là nếu được HĐXX chấp thuận thì ở vụ án này
bị cáo có tới bốn tình tiết đáng được giảm nhẹ theo Điều 38.
Kính thưa HĐXX!
Ở đây lại phải nói thêm một tình tiết nữa. Vì nếu không
phân tích ra lại dễ bị coi là tình tiết tăng nặng: đó là việc bị
cáo có uống rượu bia trước khi gây án. Cụ thể là trong khi
189
gây án bị cáo có còn ở trong tình trạng say rượu hay không?
Ở đây rất tiếc là khi bị cáo đầu thú, các cơ quan chức năng
ngay lúc đó đã không khám nghiệm xem hàm lượng rượu
trong máu bị cáo có còn hay không? Theo tôi, lúc này bị cáo
không còn trong cơn say rượu nữa. Vì một là thực tế thời gian
từ lúc bị cáo uống rượu từ lúc 12 giờ trưa gì đó đến lúc gây
án đã là 4 tiếng đồng hồ rồi. Đó là thời gian đủ cho người
uống rượu giã rượu. Hai là lượng rượu bị cáo uống không
nhiều, đâu như ba người mà có 5 xị. Ba là uống rượu về bị
cáo vẫn còn trong tình trạng tỉnh táo. Bằng chứng là chị Mai
giục bị cáo đi ngủ thì bị cáo không ngủ và bảo lên xem anh
em đánh cờ. Xem đánh cờ mà không đủ tỉnh táo thì làm sao
ngồi xem nổi. Vả lại, cũng còn điều này nữa, nếu đang ở
trong tình trạng say rượu thì không bao giờ bị cáo lại tỉnh lại
nhanh, để dừng tội ác và đi đầu thú ngay như thế được.
Kính thưa HĐXX!
Nói những điều trên chúng tôi muốn thưa rằng nên loại
trừ khả năng gây án vì bị say rượu. Song đến đây lại có một
vấn đề cần đưa ra là giả sử bữa đó trong khi gây án bị cáo
còn trong tình trạng say rượu thì đây cũng không là tình tiết
tăng nặng đối với một người bị thần kinh. Theo các tài liệu
chuyên môn về y học thì việc uống rượu đối với bệnh nhân
tâm thần lại là một nhu cầu bệnh lý. Bệnh lý này cũng lại
được pháp luật chiếu cố: “Trạng thái say rượu thông thường
thì không loại trừ chịu trách nhiệm hình sự nhưng trong trạng
thái say rượu bệnh lý là một bệnh loạn thần kinh cấp tính
ngắn hạn thì loại trừ năng lực chịu trách nhiệm…”.

190
Vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải xác minh xem bị cáo có
bị bệnh thần kinh hay không, nếu có thì việc uống rượu của bị
cáo được xem là tình tiết giảm nhẹ. Song, đây là muốn trình
bày cho kín nhẽ chớ thực ra tôi vẫn nghĩ rằng khi gây án bị
cáo không ở trong tình trạng say rượu.
Kính thưa HĐXX!
Thưa gia đình nạn nhân và các nạn nhân, tôi đã nói quá
nhiều để bào chữa cho bị cáo. Tôi vô cùng mong ước những
lời nói trên đây của tôi không làm buồn phiền các nạn nhân
và gia đình mà hy vọng nó là những lời giải bày, lời phân
trần, lời an ủi. Nó giống như khi ta đi ra đường có cục đá
chọi trúng đầu ta, ta sẽ nổi cơn giận cao độ nếu biết đó là
thằng côn đồ lưu manh. Nhưng ta cũng rất dễ mím môi, nén
đau khi ai đó nói với ta rằng: “Thằng đó khùng đấy chấp làm
gì”. Tôi rất mong thấy thái độ đó của HĐXX và gia đình nạn
nhân và các nạn nhân ở vào trường hợp thứ hai.
Kính thưa HĐXX!
Thưa vị đại diện VKS, thưa gia đình nạn nhân và các
nạn nhân: việc bị cáo cùng lúc bắn chết 3 người và làm bị
thương một người khác là một tội ác, một việc làm gây tác hại
hết sức nghiêm trọng. Bị cáo phải chịu một mức án nghiêm
khắc là đúng với hành vi của anh ta. Ở đây chỉ có điều mức
án nghiêm khắc đến mức nào? Việc làm này trong chờ hoàn
toàn vào sự công minh của pháp luật, của HĐXX. Chúng tôi
chỉ có mong muốn HĐXX xem xét kỹ lại nguyên nhân gây án
của bị cáo, trong đó có chứng bệnh tâm thần của anh ta.
Trong vụ án này, tôi nghĩ không chỉ có gia đình nạn nhân và
các nạn nhân đau đớn mà bản thân bị cáo cũng đau đớn
191
không kém. Thật tội nghiệp cho bị cáo, chỉ trong buổi chiều
oan nghiệt đó, trước khi xảy ra vụ xô xát khoảng vài phút
đồng hồ bị cáo đâu có ngờ rằng chỉ ít phút nữa anh sẽ nhúng
tay vào máu, sẽ giết người, chỉ một lát nữa thôi anh sẽ giã từ
gia đình, từ giã người vợ mới cưới được một năm trời và đứa
con mới đẻ cùng bạn bè thân yêu để bước vào trại giam, cách
ly hoàn toàn với cuộc sống đẹp đẽ bên ngoài. Tôi nghĩ bị cáo
hoàn toàn không biết trước việc làm của mình nếu không anh
đã từ giã vợ con trước rồi mới gây án chứ đâu đến nỗi gây án
xong, trước khi ra tự thú anh còn lộn trở về nhà mình với hy
vọng được hôn lần cuối và nói lời từ biệt với đứa con thân
yêu của anh vừa mới ra đời được 5 tháng. Rõ ràng, bị cáo đâu
có chuẩn bị trước.
Ôi, nếu bà chủ quán NGUYÊN hôm ấy đừng có như thế
thì đâu đến nỗi anh ta hôm nay phải đứng trước vành móng
ngựa. Chính là vì có sự đột biến, sự không cố ý như thế nên
tôi dám cam đoan chắc rằng hôm nay tòa án của luật pháp
mới xử án anh nhưng tòa án lương tâm cũng đã xử anh ta
hằng ngày, hằng giờ từ 7, 8 tháng nay rồi. Vì thế, lời cuối
cùng tôi mong muốn trước khi kết thúc phần phát biểu bào
chữa là một lần nữa tôi tha thiết đề nghị HĐXX hãy chấp
nhận ý kiến khi chúng tôi cho rằng bị cáo trước và trong khi
gây án là có mắc bệnh tâm thần ở dạng nhân - cách bệnh, thể
hưng - phấn và trên cơ sở đó đề nghị HĐXX chấp nhận 4 tình
tiết giảm nhẹ theo Điều 38 của Bộ luật Hình sự mà chúng tôi
đã đưa ra.
Như vậy, nếu lời khẩn cầu của chúng tôi được chấp nhận
thì chắc chắn bị cáo sẽ được hưởng mức án vừa phải trong
192
cái khung hình phạt rất dài, rất rộng được quy định tại khoản
1 Điều 101. Vì ở khoản 3 ở Điều 38, bộ luật cũng đã ghi rất
rõ ràng: “Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tòa án có thể quyết
định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy
định”. Đó là về lý, còn về tình thì bây giờ dù bị cáo có phải
chết tới 10 lần cũng không cứu được mạng sống cho những
người vốn không thù oán gì với bị cáo mà bị chết một cách
oan uổng, những người cho đến bây giờ vẫn không biết tại
sao mình phải chết, nó cũng giống như bị cáo cách đây ít lâu
còn nói với tôi: “Khi đến cơ quan Công an trình diện, nghe nói
tôi mới biết rằng mình vừa bắn chết cô Quyên”. Tức là những
cái chết không được chuẩn bị trước, những cái chết không
phải do bị cáo cố tình cố ý tìm mọi cách gây ra.
Xin cám ơn HĐXX”.
V. Trong bài tập IV trên đây, tác giả đã đưa ra một trong
hai lý do dẫn đến hành vi phạm tội “giết người” của bị cáo, đó
là: bị cáo có dấu hiệu bệnh tâm thần.
Anh (Chị) hãy:
1. Xây dựng lập luận (khoảng 100 chữ), trong đó lý do
nêu trên là kết luận của lập luận.
2. Vẽ sơ đồ biểu diễn lập luận.
3. Các luận cứ có mối quan hệ độc lập hay ràng buộc
lẫn nhau?
4. Anh (Chị) đánh giá thế nào về tính hiệu lực của mỗi
luận cứ đối với kết luận?

193
Chương 4.

KỸ NĂNG TRANH LUẬN

4.1. Những vấn đề chung về tranh luận


4.1.1. Khái niệm về tranh luận
Tranh luận (argument, debate), có khi còn được gọi là
tranh biện (tranh luận – phản biện) là một hình thức giao tiếp
ngôn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống
giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận
dùng lý lẽ, lập luận để phân tích, luận giải nhằm xác định
đúng/sai, phải/trái… về một quan điểm, một tư tưởng, một
vấn đề, một sự việc… nào đó. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì
tranh luận là “bàn cãi có phân tích lý lẽ để tìm ra lẽ phải”1.
Có tranh (giành/cạnh tranh, đấu tranh…) mà không có luận
(bàn bạc, biện luận, bình luận, đàm luận, thảo luận…) thì chỉ
là sự cãi cọ, đấu khẩu dựa trên cảm tính cá nhân, chủ quan,
không phân tích đúng/sai, không sử dụng lý lẽ và lập luận để
xác định chân lý/nghịch lý, phải/trái, hợp lý/bất hợp lý…
Ngược lại, nếu chỉ có luận mà không có tranh thì đó là thuyết
trình, diễn giảng, thuyết giảng… trong đó quan điểm của các
bên là cùng hướng, không mâu thuẫn, không đối nghịch…
nghĩa là không đòi hỏi thẩm tra để xác định đúng/sai, hay/dở,
tốt/xấu, phải/trái…

1
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
tr.1686.
194

You might also like