You are on page 1of 23

Ý NGHĨA THẦN THOẠI NỮ OA VÁ TRỜI TRONG HỒNG LÂU MỘNG

Sơ lược về tác phẩm “Hồng lâu mộng”.


Hồng lâu mộng được xếp vào hàng một trong “Tứ đại kì thư” Trung Hoa gồm Tam Quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân và Thủy Hử của Thi Nại Am, được
đánh giá là "tuyệt thế kì thư" (pho sách lạ nhất đời), phản ánh toàn diện và sâu sắc gương mặt
văn hoá Trung Hoa.
Lỗ Tấn cũng nhận xét: “Điểm khác biệt của Hồng lâu mộng với các cuốn tiểu thuyết trước
đây là dám tả thật không che đậy. Bởi vậy, các nhân vật được miêu tả ở đây đều là những con
người thật. Nói chung sau khi Hồng lâu mộng ra đời, cách viết và cách tư duy truyền thống
đã hoàn toàn bị phá vỡ...”
Thôi Đạo Di cũng nhận xét: “Đối với tôi không có một tác phẩm văn học nào có thể so tài với
Hồng lâu mộng về cách sáng tạo câu chuyện và nhân vật chân thật, sống động, bền bỉ... Có
thể nói, đọc Hồng lâu mộng không chỉ khiến chúng ta hiểu lịch sử mà còn giúp chúng ta hiểu
hiện thực cuộc sống”.
Nhà Hán học Xô Viết nổi tiếng, viện sĩ N.S.Konrad đánh giá về Hồng lâu mộng như sau:
“Tiểu thuyết Hồng lâu mộng là một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu. Đó là một bức
tranh vĩ đại về quy mô cũng như về ý nghĩa của cuộc sống xã hội Trung Quốc thế kỉ XVIII”.
Ý nghĩa tác phẩm.
Hồng Lâu Mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên
con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất mọt ruỗng
của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp bóc lột
và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường tàn tạ không
cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh.
Cái cảm giác "cây đổ vượn tan" đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà
văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một
người dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền
thống. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con "bất hiếu" của gia đình mình,
họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo
đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến.
Hồng lâu mộng còn cho thấy tính chất bi kich về cuộc đời của Thập nhị kim thoa. Ở đó tất cả
các nhân vật nữ đều mơ đến một cái gì đó rất thực, nó tượng trưng cho khát vọng sống
nhưng rồi tận cùng của “giấc mộng lầu hồng” và cũng là tận cùng của bi kịch. Họ ngỡ ngàng
nhận ra mình đang xây lâu đài ước mơ trên cát mà chỉ cần một đợt sóng nhẹ nhàng vỗ bờ
cũng đủ sức cuốn trôi đi tất cả.
Hồng lâu mộng là nỗi thông cảm và trân trọng bi đát đối với định mệnh nhưng từ đầu đến
cuối không hề buông bỏ khát vọng vươn tới một lí tưởng đẹp. Giá trị chính của tác phẩm thể
hiện nhiệt tình của tác giả đối với nhân sinh, là nhiệt tình của con người yêu đời nhưng chán
ghét trần tục.
Tình yêu biểu hiện trong Hồng lâu mộng là thứ tình yêu lấy việc phản đối chủ nghĩa phong
kiến làm nội dung tư tưởng, cho nên so với rất nhiều tác phẩm cổ đại viết về tình yêu thì
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Hồng lâu mộng có một ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn nhiều. Hồng lâu mộng đã phá vỡ hoàn
toàn giới hạn tư tưởng phong kiến về chuẩn mực con người. Nhân vật Tiết Bảo Thoa xuất
hiện trong tác phẩm, không những có đủ “công, dung, ngôn, hạnh” như những tác phẩm xưa
ca ngợi mà còn có “tài” cao hơn người. Đây là một giai nhân phong kiến kiểu mẫu. Nhưng,
dưới ngòi bút của Tào Tuyết cần, thì người ta lại cảm thấy đó là một giai nhân không có sức
làm rung động lòng người. Chính vì nàng – kẻ theo đuổi “ngũ hoa sắc phong” nên Giả Bảo
Ngọc mới phải nguyện sống với cảnh chùa lạnh lẽo mà suốt đời thương nhớ Lâm Đại Ngọc -
là người chưa hề khuyên chàng lập thân dương danh bao giờ, người luôn đồng tình và ủng hộ
chàng trong việc chọn con đường sống chống lại chủ nghĩa phong kiến. Chính ở điểm này,
tình yêu được xây dựng trong Hồng lâu mộng có một ý nghĩa tư tưởng rất cao.
Hồng lâu mộng còn thể hiện sâu sắc rằng: tấn bi kịch tình yêu giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại
Ngọc tuyệt nhiên không phải do nhân tố ngẫu nhiên nào gây ra. Sở dĩ tình yêu của họ bị vùi
lấp là do ở xã hội phong kiến Trung Quốc thế kỉ XVIII, lí tưởng sống và cung cách yêu đương
của họ chưa được một lực lượng xã hội mạnh mẽ ủng hộ. Bởi vậy, tấn bi kịch này là bi kịch
của những tính cách, bi kịch của thời đại, bi kịch của lực lượng chống phong kiến còn chưa
địch nổi thế lực hủ bại của chế độ phong kiến vẫn còn đang lớn mạnh. Nói tóm lại, trong lịch
sử văn học Trung Quốc, chủ đề tình yêu đã được Tào Tuyết cần làm cho đầy đủ thêm, nâng
cao thêm bằng nội dung có tính chất chính trị và xã hội phong phú. Thông qua tình yêu, ông
đã đề cập sâu sắc đến nhiều vấn đề xã hội trọng đại và hoàn chỉnh.
Tìm hiểu Hồng lâu mộng, chúng ta còn nhận thấy Tào Tuyết Cần đã tỏ ra một thái độ yêu
ghét hết sức sâu sắc. Thái độ yêu ghét rõ ràng này cuối cùng đã giúp ông – người con của giai
cấp quý tộc suy tàn, nhìn thấy sự hủ bại và vận mệnh tất yếu phải tàn lụi của giai cấp mình
xuất thân và vạch trần nó ra không thương tiếc. Tào Tuyết Cần cũng giống như nhân vật chính
trong tác phẩm của mình, là đứa con phản nghịch của giai cấp phong kiến. Chính vì phản
nghịch đã khơi lên ở ông nhiệt tình sáng tác và khiến ông tự giác chọn phương pháp sáng tác
hiện thực chủ nghĩa mà viết nên tác phẩm Hồng lâu mộng vĩ đại này. Tóm lại, trong điều kiện
lịch sử bấy giờ, Tào Tuyết Cần đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của một nghệ sĩ. Về mặt tư
tưởng và nghệ thuật, ông đã nêu lên nhiều vấn đề mới mẻ mà người xưa chưa đề cập.
Thần thoại “Nữ Oa vá trời”.
Khái niệm “Thần thoại”.
Theo “Từ điển thuật ngữ Văn học” do Trần Đình Sử chủ biên, “thần thoại” được định nghĩa là
thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể dân gian các dân tộc. Đó
là toàn bộ những truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị thần hoặc những con người,
những loài vật mang tính chất thần kì, siêu nhiên do con con người thời nguyên thủy sáng tạo
ra để phản ánh và lý giải các hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội theo quan niệm vạn
vật có linh hồn của họ.
Thần thoại “Nữ Oa vá trời” trong tác văn hóa Trung Quốc.
Nguồn gốc.

2
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Trong thần thoại Trung Quốc, Nữ Oa là một nữ thần, có hình dáng đầu người và thân con rắn,
là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Có nhiều câu chuyện thần thoại kể về Nữ Oa, xem bà như
là một vị thần tạo ra sự sống cho con người.
Nhiều bản thần thoại kể lại rằng, sau khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, thế giới trần gian đã có
sông nước, cây cỏ và muôn thú, mưa nắng thuận hòa. Nữ Oa tuy thấy nơi đây có chất của sự
sống, như dường như sự sống còn chưa hoạt bát, bà cảm thấy cần phải tạo ra một loài động
vật mới, mong muốn thay đổi sự tỉnh lặng của thế giới. Trong khi Nữ Oa suy niệm, nhìn
xuống dưới nước Hoàng Hà, lúc đó, nước trong xanh, mặt nước tựa như gương, in bóng hình
của bà. Khi đó đã ngộ ra thế giới thiếu một “con người” như bà. Nữ Oa đã tham chiếu tướng
mạo bản thân sử dụng bùn của Hoàng Hà tạo ra một thân hình con người sau đó sử dụng pháp
thuật để cho bùn đất sét đó có sự sống thành con người thật thụ.
Nhưng Nữ Oa không thể cứ mãi mãi nặn hình con người như thế này, cần phải ban cho họ
khả năng sinh sản để họ tự phát triển giống nòi. Thế là Nữ Oa tạo những tượng đất sét cho
thân thể khỏe, thổi dương khí vào những tượng đó, những bức tượng đó trở thành đàn ông,
thổi âm khí vào những bức tượng trông yếu mềm hơn, thành đàn bà. Nữ Oa còn ban cho hai
giới tính đó bộ sinh thực khí để sinh sản. Nữ Oa còn nghĩ cách để con người phân bố nhiều rải
khắp nơi trên thế giới, liền dây ngoáy bùn dưới sông, cho bắn tung tóe lên khắp nơi trên mặt
đất, tạo thành những lớp người phân bố khắp nơi. Loài người đã được tạo nên như thế.
Văn hóa dân gian Trung Quốc còn ghi chép lại nhiều công lao của Nữ Oa, một trong số đó có
thần thoại “Nữ Oa luyện đá vá trời” kể về việc Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời xanh. Sau khi
đã tạo ra con người, công việc của Nữ Oa xem như đã dứt. Nhưng không ngờ, tiếp sau đó,
một tai họa đã giáng xuống đầu con người. Ở trên thiên cung, thủy thần Cộng Công làm phản,
đem quân thiên ma đánh thiên giới. Thần Chúc Dung bèn đem quân ra đánh, cuối cùng đã dẹp
được loạn tặc. Cộng Công bị thua đau, hắn bèn dùng đầu húc gãy cây trụ chống trời. Trụ trời
bị gãy sụp, lập tức làm cho thiên địa hỗn độn. Ở dương gian cũng bị tai họa, trên bầu trời xuất
hiện lỗ đen lớn, gây họa cho dương trần. Bốn phương nghiêng ngửa, chín châu nứt nẻ đất đai,
trời không đủ che, đất không đủ đỡ. Phần thì hỏa diệm sơn rực lửa phun lên, dập mãi không
tắt, gió thổi không ngừng, nước thì tràn lan cùng khắp, ngăn không được, dừng lại không
xong. Thú dữ ăn thịt dân lành, ác điểu thì tha đi người già yếu… Nhìn thấy cảnh nước sôi lửa
bỏng, nhân loại bị lầm than đau khổ, Nữ Oa thương tâm, không nỡ nhìn nhân dân lâm vào
cảnh cực khổ, bà bèn quyết tâm vá lại bầu trời. Nữ Oa đã bay lên khắp nơi thiên, tìm đá ngũ
sắc để vá trời. Sau khi đã tìm đủ viên đá ngũ sắc, bà đã lấy đá ngũ sắc vá lại bầu trời. Từ lúc
đó nước trên thiên cung không còn chảy xuống trần gian gây họa dân chúng.
Nữ Oa Vá Trời là truyền thuyết rất nổi tiếng, được nhắc đến khá nhiều trong các tác phẩm văn
học. Mở đầu tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần đã đề cập đến thần thoại này, cho
rằng Nữ Oa vì muốn vá trời đã luyện ra 36501 viên đá ngũ sắc, sau đó đã sử dụng 36500 viên
đá ngũ sắc vá trời, trừ lại một viên chưa dùng.
Ý nghĩa.

3
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Văn hóa Trung Quốc được đánh giá là một trong những nền văn hóa lâu đời và phức tạp trên
thế giới. Một trong những nét văn hóa cổ đại đó chính là sự tồn tại của những câu chuyện dân
gian về sự hình thành, tạo dựng ra nguồn gốc tổ tiên của họ, về những vị thần đã sáng tạo ra
loài người.
Xưa kia trong xã hội nguyên thủy, con người thấy trời đất, muôn vật biến khác không thường,
mọi hiện tượng xảy ra đều không có cách lý giải, vượt ra ngoài tầm hiểu biết, nên họ tự tạo ra
nhiều thuyết để giải thích, những điều giải thích đó gọi là thần thoại. Và trong nền văn hóa
Trung Hoa nói riêng, thần thoại được tạo ra bằng cách lấy một thần cách hay một người tính
cách như thần làm trung tâm, suy diễn, tưởng tượng ra những chi tiết ki ảo, huyền bí tạo nên
một thế giới thần tiên. Từ những câu chuyện tự mô tả, tự thuật ấy, họ đem lòng tôn kính, tin
tưởng, kính sợ, ca ngợi và tôn thờ uy linh, xây dựng đền miếu cúng tế.
Trong số những thần thoại thuở khai thiên lập địa ấy, con người Trung Hoa cho rằng họ chính
Thần Bàn Cổ đã tạo ra trời, đất, cỏ cây, sông núi, Thần Nữ Oa tạo ra con người có sự sống,
Thần Nông tìm ra hàng trăm loài thảo dược…. Họ tin rằng, mình chính là tinh hoa của đất
trời, là sự hòa hợp của vũ trụ vạn vật, được tạo nên từ bàn tay của những vị thần linh. Người
thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo và Đạo thuận theo tự nhiên, sự hòa hợp
giữa người và trời này cũng lý giải được phần nào niềm tin của con người cổ đại về thần thoại
và truyền thuyết. Những câu chuyện dân gian ra đời đã thể hiện được phần nào thế giới quan
của con người thời cổ đại, khi mà người ta còn chưa giải thích được các hiện tượng tự nhiên,
họ dùng trí tưởng tượng của mình tạo ra những câu chuyện thần kì nhằm giải thích thế giới
của mình. Như câu chuyện dân gian về “Nữ Oa luyện đá vá trời” chính là một sự lí giải tự
nhiên của người xưa. Đây là một bức tranh tổng quát về một thời kì hỗn loạn, sơ khai của quá
trình hình thành và phát triển của lịch sử Trung Quốc.
Có thể nói những sự kiện nêu ra bên trên là một bức tranh vẽ lên hình ảnh đủ mọi tình huống,
từ hỗn loạn chất chồng bao nỗi khổ đau đến cảnh bốn phương thanh bình an lạc. Ðây là bức
tranh nói lên sự khởi đầu của nền văn hóa Trung Hoa.
Thần thoại Nữ Oa luyện đá vá trời cùng với một số thần thoại khác về vị thần nữ như Hy Hòa,
Tây Vương Mẫu… cũng phản ánh được phần nào nhận thức của con người thời cổ đại về một
xã hội thị tộc mẫu hệ đương thời. Khi phụ nữ là là người sáng tạo, là người tạo dựng, duy trì
sự sống thì họ chính là điểm quy tụ, trung tâm của cả cộng đồng.
Ý nghĩa của Thần thoại “Nữ Oa vá trời” trong tác phẩm Hồng lâu mộng”.
Vị trí xuất hiện.
Thần thoại Nữ Oa vá trời xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm và ảnh hưởng xuyên suốt tác phẩm
cho tới kết thúc. Ngay từ đầu tác giả đã kể lại thần thoại Nữ Oa vá trời một cách rõ nét và cụ
thể. Cũng từ thần thoại này mà mở ra được tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng. Tại sao lại nói vậy?
Bởi lẽ nhân vật chính trong Hồng Lâu Mộng có liên quan mật thiết với thần thoại Nữ Oa
luyện đá vá trời. Giả Bảo Ngọc chính là viên đá thứ 36501 – viên đá dư mà Nữ Oa không
dùng để vá trời, do có sẵn linh tính nên đã muốn xuống trần hưởng cuộc sống phú quí, nếm
trải mùi đời. Được hai vị đạo sĩ cho xuống trần đầu thai làm nhân vật chính trong Hồng Lâu
4
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Mộng – Giả Bảo Ngọc. Cũng chính vì món nợ nhân duyên giữa Thần Anh với Giáng Châu
khi trên trời, khi đầu thai xuống trần đã kéo theo rất nhiều nàng tiên trong Thái Hư Cảnh Ảo
cùng xuống để trả món nợ phong lưu. Từ đó xây dựng được một bộ tiểu thuyết đồ sộ, không
chỉ đơn thuần phản ánh tình yêu giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc mà còn là bức tranh
hiện thực xã hội rối ren, loạn lạc.
Vật tượng trưng cho sự hiện diện của thần thoại trong tác phẩm.
Hồng lâu mộng có một tên gọi quen thuộc khác là Thạch đầu ký (Câu chuyện về hòn đá). Quả
thật, toàn bộ tiểu thuyết được xây dựng xung quanh sự thăng trầm của hòn đá: từ sáng tạo của
Nữ Oa đến việc Bảo Ngọc ra đời với hòn ngọc trong miệng, từ sự ẩn hiện lặp đi lặp lại của nó
đến tình trạng tái phát bệnh của Bảo Ngọc, từ câu chuyện trên thiên giới đến chuyện của Bảo
Ngọc ở chốn trần gian – số phận của viên ngọc gắn chặt với số phận của nam nhân vật chính.
Nghiên cứu về hòn đá/ hòn ngọc sẽ là khởi đầu tốt cho việc tìm hiểu tính cách Bảo Ngọc và
bản chất của bi kịch tình yêu của anh ta.
Như vậy hòn ngọc là một biểu tượng. Tuy nhiên, nó không chỉ là biểu tượng văn chương với
một hình ảnh mang ý niệm. Với Tào Tuyết Cần, hòn ngọc là một phương tiện tốt cho việc
chuyển tải quan niệm phức tạp của nhân vật này về cuộc đời, tình yêu, thế giới Khổng giáo,
và những vấn đề sinh lý, cảm xúc và tinh thần của tồn tại con người.
Trong Hồng lâu mộng, khách thể được chọn là một viên ngọc. Sự chọn lựa này phản ánh
những quan tâm văn hóa trong truyền thống Trung Hoa. Với văn hóa Trung Hoa, ngọc, dù
cứng như đá, vẫn được coi là một vật mềm mại có giá trị bảo vệ con người khỏi các hung
thần.
Riêng trong tương quan với thần thoại Nữ Oa vá trời, hòn ngọc giữ vị trí thay thế cho thần
thoại này với sự chuyển thế của Thần Anh. Hàm nghĩa đầy đủ của hòn đá chỉ có thể hé lộ
qua một nghiên cứu trọn vẹn quá trình trưởng thành của Bảo Ngọc từ thơ ấu đến tuổi thanh
niên, và ý nghĩa của nó thay đổi qua các giai đoạn phát triển của cậu bé này. Tiểu thuyết này
gắn liền với hành trình của hòn đá từ tiên cảnh xuống nhân gian và rồi trở về với tạo hóa. Về
tâm lý học, hành trình của viên đá thể hiện hành trình của Bảo Ngọc đi đến trải nghiệm mối
quan hệ giữa cái được tiếp nhận khách quan và cái được tiếp nhận một cách chủ quan, và
hành trình của cậu từ ngây thơ đến trải nghiệm, từ ảo mộng đến vỡ mộng.
Hòn ngọc vừa là một khách thể vật chất vừa là một phức cảm. Nói khác đi, nó vừa là một vật
thực sự lại vừa là vật biểu trưng cho những quan hệ liên cá thể của Bảo Ngọc với mọi người
xung quanh.
Theo hướng hiện thực, hòn ngọc là một vật thể vật chất, mang những đặc tính hữu hình của
một vật. Là một vật thể vật chất, con người có thể nhìn thấy, cảm nhận được, đeo nó trên cổ
Bảo Ngọc và coi nó như một báu vật. Nó là “bản mệnh” như Giả Mẫu nói. Khi tức giận, Bảo
Ngọc có thể ném nó đi và cố đập nát nó. Nhưng dù cậu tìm cách phá hủy nó vẫn không hề hấn
gì. Điều này hàm nghĩa nó không chỉ là một vật thể vật chất mà còn là một linh vật. Hòn
ngọc của Bảo Ngọc có nguồn gốc huyền thoại và mang nhiều yếu tố siêu phàm. Nó tựa như

5
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

một vật sống, và có thể dịch chuyển theo diễn tiến câu chuyện. Nó thường vượt ra khỏi tầm
kiểm soát của Bảo Ngọc và gia đình cậu.
Thường thường người ta thấy một biến thể rộng trong chuỗi các sự kiện bắt đầu bằng những
hành động ngậm tay của đứa trẻ mới sinh. Và cách vật thế vị được cầm giữ có thể thể hiện
bản chất của vật thể này. Trong tiểu thuyết, hòn ngọc là sở hữu đầu tiên của Bảo Ngọc, vì cậu
sinh ra cùng với miếng ngọc trong miệng. Viên ngọc và miệng cậu gắn với nhau như thế. Với
đứa trẻ mới sinh, miệng là cơ quan đầu tiên cảm nhận những gì đứa trẻ nhận biết được khi
tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Miệng cũng là nguồn dinh dưỡng và do đó là nguồn khoái
cảm. Miệng là nơi thu nạp thức ăn và khoái cảm, song nó lại phải tiếp xúc với thế giới bên
ngoài đứa bé. Ở trường hợp Bảo Ngọc, hòn ngọc là vật trung gian gắn kết thế giới tinh thần
của cậu với thế giới bên ngoài. Nói cách khác hòn ngọc là sự duy trì, kết nối thế giới thực hiện
kiếp của Bảo Ngọc với tiền kiếp của Thần Anh.
Chính vì thế, ý nghĩa của viên ngọc trong tiểu thuyết này chỉ hiển hiện khi nó vắng mặt, khi
hệ quả của sự mất mát chứng thực điều đó. Mỗi khi mất ngọc, Bảo Ngọc lên cơn mê sảng và
lâm trọng bệnh. Khi tìm lại được ngọc, cậu bình phục về sức khỏe, về giác quan, và thông tuệ
khác thường.
. Qua miêu tả trong truyện thì hòn ngọc có hai mặt giống như một lá bùa thiêng với sức mạnh
siêu phàm:
Mặt trước viên ngọc: “Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương” (Đừng đánh mất đừng bỏ
quên, tuổi tiên khỏe mãi).
Mặt sau: “Nhất trừ tà tụy, nhị liệu oan ương, tam tri họa phúc” (Một trừ ma quỷ, hai chữa
bệnh tật, ba biết lành dữ) (Tập 1, tr.127).
Nó là vật an ủi có thể đem lại sự che chở và bình yên khi lo lắng, giống như cách một vật thế
vị chống lại cảm giác bất an khi suy sụp. Nó có thể chữa bệnh, như câu chuyện kể với chúng
ta.
Sự biến mất rồi tái hiện lặp đi lặp lại của viên ngọc có thể được lý giải là những khoảnh khắc
khủng hoảng cảm xúc mà Bảo Ngọc gặp phải trong quãng thời gian trưởng thành. Bảo Ngọc
đánh mất viên ngọc ba lần. Mỗi lần như thế, cậu lại đối mặt với một cơn khủng hoảng tình
cảm. Mỗi khi tìm lại được ngọc, cậu trở lại thăng bằng.
Lần mất ngọc đầu tiên, cậu ốm thập tử nhất sinh. Một con khỉ mang ngọc trả lại và sức khỏe
cậu bình phục.
Lần thứ hai mất ngọc, cậu bị ma quái tấn công. Con khỉ đó lại mang ngọc trả và cứu thoát cậu.
Ngay sau khi mất ngọc lần thứ ba, Nguyên Xuân – chị gái qua đời trong cung. Đây thực sự là
một cú đòn nặng nề đối với sự lưu luyến cuống nhau người mẹ. Sự ra đi của Nguyên Xuân
khiến cậu mất đi một trong những nguồn hỗ trợ tình cảm quan trọng nhất. Rồi cậu bị lừa lấy
Bảo Thoa, vì nhầm đó là Đại Ngọc. Khi cậu phát hiện ra sự thật, Đại Ngọc đã chết. Đây là cú
đòn cuối cùng và cậu không còn sự hỗ trợ tình cảm nào nữa trong thế gian này.

6
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Con khỉ lại đến, nhưng lần này nó không còn là hiện thân của sự cứu rỗi nữa. Bảo Ngọc chỉnh
trang tâm thái rồi bước theo con khỉ , dứt Hồng trần. Câu chuyện kết thúc với việc hòn đá trở
lại nơi nó được Nữ Oa tạo hình
Hòn ngọc đã xuyên suốt tác phẩm với sự biến thiên ý nghĩa qua từng giai đoạn.
Thửa cậu trứng nước, hòn ngọc thay thế cho sự khát thèm sữa mẹ và người mẹ.
Lúc ấu thơ, nó có tác dụng như một núm vú giả – thứ có thể xua đuổi lo âu.
Tuổi thanh niên, nó trở thành linh vật, bùa thiêng, và linh miếu – nơi cậu có thể xoa dịu bản
thân và chạy trốn bổn phận xã hội.
Cuối truyện, hòn đá trở thành một người dẫn đường đưa cậu trở lại nơi cậu từ đó xuất hiện
trong đời. Nói chung, hòn đá biểu trưng cho sự miễn cưỡng của cậu khi biện biệt bản thể và
khách thể, hiện thực và ảo mộng, sự thật và giả dối. Cuối cùng, mất đá đánh dấu sự đổ vỡ
hoàn toàn của cậu – nguyên nhân dẫn đến việc chạy trốn khỏi thế giới Hồng trần. Còn đá, tức
làThần Anh vẫn còn Bảo Ngọc vẫn còn trong giấc mộng, mất đá nghĩa là Thần Anh tỉnh giấc.
Như vậy, vật thay thế cho Thần thoại Nữ Oa vá trời với sự ảnh hưởng của nó trong toàn bộ
tiểu thuyết chính là hòn ngọc “Thông linh bảo ngọc”. Với hòn ngọc, vị thế của thần thoại
được duy trì, kết cấu giấc mơ và ý thức về sự tím về của các nhân vật cũng được nối liền
mạch một cách hoàn chỉnh.
Ý nghĩa.
Cốt truyện:
Kết cấu câu chuyện được dẫn dắt theo một vòng tròn lớn, điều này có thể thấy rõ ở hồi đầu và
hồi cuối của tiểu thuyết, có một sự dự báo tiên đoán trước về kết thúc, các nhân vật đi một
vòng lớn và rồi cuối cùng lại trở về với vị trí ban đầu.
Ở hồi một, hòn đá trên núi Đại Hoang, đến những hồi tiếp theo đá hóa thành Giả Bảo Ngọc
sống trong Phủ Giả, trải qua suốt mấy năm với đủ vui buồn tan hợp của cuộc sống hồng trần,
đến hồi cuối, khi mà duyên đã dứt, Giả Bảo Ngọc lại trở về với kiếp đá trên núi Đại Hoang
như thuở ban đầu.
Đối với Lâm Đại Ngọc cũng không ngoại lệ, nguồn gốc của nàng chính là từ cây Giáng Châu
ở tiên giới, nợ ơn tưới nước mà theo hòn đá Thần Anh xuống trần để trả nợ “lấy hết nước mắt
của đời ta để trả lại cho chàng”, quả nhiên chính là đau khổ vạn phần, lấy nước mắt để trả
cho cái ơn này, sau khi duyên đã tận, nước mắt cũng khóc hết, nàng thổ huyết mà chết, cái
chết là chấm dứt cuộc đời ở trần gian, nhưng cũng chính nó mang nàng trở lại tiên giới, trở lại
với nơi bắt đầu.
Giống như một quy luật đã định trước, thân thế của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc chính là
một dự báo cho cuộc đời của họ, phải trải qua hết hạnh phúc, khổ đau, hợp tan của hồng trần,
duyên nợ đã xong, họ lại trở về với nơi sinh ra mình, trở về làm hòn đá núi Đại Hoang và cây
Giáng Châu chốn thần tiên.

7
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Trong năm hồi đầu tác phẩm, tác giả đưa ra hàng loạt các sự kiện có ý nghĩa đầu mối, dẫn
đường cho sự phát triển của toàn bộ tình tiết cốt truyện cũng như sự xuất hiện, diễn biến câu
chuyện về sau. Có thể coi như năm hồi này đóng một vai trò dẫn dắt cho câu chuyện.
Nữ Oa là vị nữ thần có công khai sinh ra sự sống cho loài người, và chính người đã tạo ra hòn
đá ngũ sắc mà sau này là Giả Bảo Ngọc. Hòn đá không đủ thần khí để vá trời kia gặp được vị
đạo sĩ và nhà sư, hòn đá vốn có linh tính nên động lòng phàm tục trước những chuyện mây
núi, trăng hoa, giàu sang phú quý chốn trần gian. Hòn đá xuống trần, để trải nghiệm cuộc
sống vinh hoa phú quý như ước mộng, đồng thời cũng nếm đủ đau thương, mất mát của cuộc
đời thực. Và cuối cùng trở lại với thân phận của mình, trở lại với nơi mà Nữ Oa ngày trước đã
tạo ra nó, như là một cuộc hành trình trở về với nguồn gốc, với bàn tay người mẹ đã sinh ra
nó.
Có thể nói, đá trở về kiếp đá, cây trở về kiếp cây, hoàn tất giấc mộng lớn mà số phận đã định
sẵn.
Giấc mộng lớn hầu như chỉ trực tiếp lộ ra trong những hồi đầu và hồi cuối của tiểu thuyết.
Còn lại, nhân vật dường như bị cuốn vào dòng chảy của cuộc sống “thực” mà quên mất rằng
mình đang “mộng”. Độc giả cũng như bị hút vào dòng miêu tả cuộc sống “hiện thực không tô
vẽ” của nhà văn mà quên mất rằng cuộc sống ấy không gì khác ngoài một giấc mộng đã được
báo trước hồi kết thúc. Tuy nhiên, căn cứ vào những dấu hiệu không gian – thời gian, chúng
ta có thể nhận thấy kết cấu vòng tròn thú vị này. Ta có thể thấy dự lặp lại của các yếu tố
không gian – thời gian xuyên suốt từ hồi đầu đến hồi cuối của tác phẩm một cách có chủ ý.
Thường thì chúng ta vẫn cho rằng không gian phủ Giả với thời gian đo đếm được diễn ra
trong suốt những hồi giữa là “thực”, còn những núi Đại Hoang với thời gian thần thoại, Thái
hư cảnh ảo với thời gian không xác định thuộc về “mộng”, mà “mộng” tức là “hư”. Song với
cách nhìn bao quát thể hiện qua bảng trên, ta lại có thể nhìn theo một cách khác. Xét theo quá
trình thông thường của một giấc mộng thì đó là trước mộng, là trong mộng, và sau mộng. Như
thế rõ ràng cuộc sống nơi phủ Giả trải dài suốt tám năm với đủ vui buồn tan hợp mới đích
thực là « mộng » - một giấc mộng lớn. Giả Bảo Ngọc xuất thân là đá rồi lại trở về kiếp đá trên
núi Đại Hoàng, các cô gái sau khi trải nghiệm mọi vinh nhục cuộc đời lần lượt về ghi sổ bạc
mệnh nơi Thái hư ảo cảnh là những thể nghiệm giấc mộng lớn ấy. Sinh ra, bắt đầu cơn mộng
và cuối cùng trở về với cõi tiên, thoát mộng.
Nhân vật.
Dự đoán về sự “phản nghịch” của nhân vật Giả Bảo Ngọc.
Hồng Lâu Mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên
con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất mọt ruỗng
của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp bóc lột
và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường tàn tạ không
cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Cái cảm giác
"cây đổ vượn tan", "chim mỏi về rừng" đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là
nhà văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một
8
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

người dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền
thống. Giả Bảo Ngọc chính là đứa con "bất hiếu" của gia đình mình, chống quan niệm trọng
nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do,
chống lại khuôn phép ràng buộc. Gỉa Bảo Ngọc yêu Lâm Đại Ngọc vì phản nghịch, càng phản
nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư
tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến. Và sự phản nghịch này đã được dự báo trước ở
hồi thứ nhất, qua thần thoại “Nữ Oa vá trời”.
Thần thoại “Nữ Oa vá trời” mở đầu cuốn tiểu thuyết, có vai trò quan trọng trong việc dự đoán
những diễn biến tính cách phức tạp của nhân vật trong tiểu thuyết về sau, đặc biệt là Giả Bảo
Ngọc. Nữ Oa vì muốn vá trời đã luyện ra 36501 viên đá ngũ sắc, nhưng bà chỉ dùng ba vạn
sáu nghìn năm trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh. Ngờ đâu viên đá
này từ khi được luyện, đã có linh tính. Nhân thấy những viên đá khác được đem vá trời, còn
mình vô tài, bị loại, nó rất tủi hận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu. Đây chính là dấu hiệu đầu
tiên cho những tính cách sau này của Gỉa Bảo Ngọc, đó chính là không chấp nhận thân phận
của mình, muốn được bình đẳng như bất cứ ai, được khẳng định chứ không tồn tại một cách
vô nghĩa.
Sự khác thường, hay nói đúng hơn là sự phản nghịch của Bảo Ngọc liên quan đến kiếp trước
vốn là đá với những đấu hiệu “ phản nghịch”.
Đầu tiên, tại sao sinh ra đã mang kiếp đá lại muốn hóa kiếp người để được trải qua những
vinh hoa phú quý? Nguyên là: “Một hôm, nó đương than phiền thì chợt thấy một nhà sư, một
đạo sĩ, cốt cách phong độ khác thường, cười cười nói nói, từ đàng xa đi đến bên núi Thanh
Ngạnh, rồi ngồi bên hòn đá nói chuyên. Lúc đầu hai người còn nói những chuyện núi mây, bể
mù, thần tiên, huyền ảo, sau nói đến vinh hoa phú quý dưới cõi hồng trần. Hòn đá nghe thấy,
bất giác động lòng phàm tục, cũng muốn xuống đó hưởng mùi vinh hoa phú quý, nhưng thấy
mình thô kệch càng thêm tủi phận. Sau bất đắc dĩ nó mượn tiếng người, cất giọng hỏi:
- Thưa hai sư phụ! Đệ tử là vật ngu xuẩn xin thất lễ! Vừa qua nghe hai vị sư phụ nói chuyện
về cảnh phồn hoa dưới trần gian, trong lòng đệ tử rất thầm mến, đệ tử tuy ngu xuẩn, nhưng
cũng có chút linh tính. Vả lại thấy hai vị sư phụ có vẻ tiên phong đạo cốt, chắc chắn không
phải hạng người tầm thường, nhất định có tài vá trời, cứu thế, có đực xót vật, thương người!
Nếu được hai vị sư phụ mở lòng từ bi, mang đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu
sang êm ấm, thì đệ tử xin đời đời kiếp kiếp ghi nhớ ơn sâu”. Như vậy tính cách phản nghịch
của Bảo Ngọc (không thích theo con đường khoa cử, công danh, khao khát tình yêu với Đại
Ngọc...) được tiên đoán trước từ kiếp trước, khi còn là một viên đá thô kệch bị bỏ rơi, thừa
thãi với khao khát được nếm mùi vinh hoa, phú quý trên cõi đời. Tư tưởng không an phận
được khắc họa ngay ở hồi đầu, tư tưởng này được ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của Bảo
Ngọc khi viên đá được đầu thai xuống trần gian.
Thứ hai, đó là sự tranh đấu đến cùng để đạt được khát vọng của mình. Khi bị hai vị sư, đạo
sỹ từ chối, hòn đá vẫn không hề từ bỏ ý định của mình, vẫn một mực van nài quyết liệt
“Nhưng lửa trần rực cháy trong lòng, thì dù có nới thế nào cũng khó mà lọt vào tai hòn đá
được. Nó cứ kêu nài mãi”. Từ thái độ buồn rầu chán nản khi bị rỏ rơi, đến khát khao được
9
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

nếm mùi phú quý nơi cõi trần rồi quyết liệt để đạt được mục đích của mình, đã dự đoán được
tính cách của Bảo Ngọc-sự đầu thai của hòn đá, đây cũng chính là tính cách Bảo Ngọc : mong
muốn giải phóng cá tính, khao khát bình đẳng, sống có lý tưởng cá nhân...Bảo Ngọc không
chấp nhận lấy Bảo Thoa, càng không chấp nhận con đường khoa cử như mong muốn của gia
đình và của Tiết Bảo Thoa. Tiếp đến là tình yêu dành cho Lâm Đại Ngọc. Tình yêu giữa Đại
Ngọc và Bảo Ngọc không phải là thứ tình yêu của những kẻ tài tử, giai nhân. Bảo Ngọc yêu
Đại Ngọc không vì sắc đẹp, và ngược lại, Đại Ngọc yêu Bảo Ngọc không vì vinh hoa phú
quý. Họ yêu nhau trên cơ sở tâm đầu ý hợp, cùng đấu tranh chống khoa cử, khinh thường
công danh. Khi mối tình ngày một phát triển thì lại gặp biết bao khó khăn, cản trở, nhưng Bảo
Ngọc vẫn một mực giữ lấy quan điểm, tình yêu của mình.
Và điều đáng nói là tuy sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, nhưng Bảo Ngọc hết mực
thông cảm với cuộc đời bất hạnh của phụ nữ. Ở đây, quan niệm “trọng nam khinh nữ” hoàn
toàn mất tác dụng đối với Bảo Ngọc. Hòn đá, tiền thân của Bảo Ngọc là do Nữ Oa tạo ra để
vá trời, bà đã đặt hết tâm tư tình cảm vào những viên đá, vì thế “tính trọng nữ” trong Giả Bào
Ngọc là điều tất yếu. Không phải mà ngẫu nhiên mà Bảo Ngọc bị cha đánh cho một trận nên
thân vì chuyện của Kim Xuyến, Tưởng Ngọc Hàm. Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là tầng
lớp bị áp bức nặng nề nhất, là phận bị khinh bạc, bạc đãi nhiều nhất. Chính vì vậy, xuất phát
từ tư tưởng quý trọng người phụ nữ, tình thương của Bảo Ngọc đối với tiểu thư hay a hoàn
đều như nhau, từ quan niệm con gái do “nước kết thành”, là “khí thiêng của trời đất hun đúc
nên”. Chính tư tưởng tiến bộ này mà Bảo Ngọc bị xem như là một nghịch tử, đi ngược lại với
lợi ích phong kiến, gia đình cố hữu. Và tính cách này đã được ngầm dự báo trước ở hồi đầu,
trong thần thoại “Nữ Oa vá trời”, khi hòn đá-vật đầu thai thành Bảo Ngọc, không muốn sống
một kiếp sống vô nghĩa như phận nó đáng lẽ ra phải như thế.
Như vậy, thần thoại “Nữ Oa vá trời” như một chiếc chìa khóa quan trọng trong việc mở cánh
cổng lý giải cho toàn bộ những sự kiện, cuộc đời, tính cách của nhân vật trong Hồng Lâu
Mộng. Đặc biệt, với những chi tiết mở đầu, đã ngầm dự báo cho sự phát triển tính cách nhân
vật Gỉa Bảo Ngọc - tính cách phản nghịch, khác thường.

Góp phần lí giải tính cách Giả Bảo Ngọc.


Tiền kiếp của Bảo Ngọc bị coi là một bỏ đi nên Bảo Ngọc trong chuyện dù thông minh, sáng
dạ nhưng Bảo Ngọc vẫn mãi như là một đứa trẻ không làm nổi việc gì.
Trạng thái tâm thức của Giả Bảo Ngọc trùng hợp với thông điệp được chuyển tải trong hai
câu thơ khắc trên cổng tò vò lối vào Cõi hư: “Giả Bảo là chân, chân cũng giả; Không làm ra
có, có rồi không”….Với Bảo Ngọc, cậu muốn vĩnh viễn muốn ở lại trong Tưởng tượng – hiện
thân bằng Cõi hư, và ở một phạm vi nhỏ hơn là Đại Quan viên và thỏa thích tận hưởng lạc thú
trẻ con….. Từ cách nhìn này, chúng ta có thể hiểu tại sao cậu lại từ bỏ thế giới con người để
gia nhập vào cái thế giới mà từ đó cậu đã đến. Sự trở về của cậu với tư cách một hòn đá quay
lại đỉnh Thanh Ngạnh nơi Nữ Oa lần đầu tiên luyện ra nó là một gộp hợp mang tính biểu
tượng với tử cung mẹ. Tuy nhiên, Tào Tuyết Cần không có ý muốn cho nhân vật mình trở

10
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

thành đứa trẻ không bình thường mà chỉ muốn thể hiện cái thế giới quan, nhân sinh quan của
mình đối với thời đại và con người lúc bấy giờ.
  Đầu tiên, đó là cái cô đơn trong tâm lí của Giả Bảo Ngọc. Ở Giả Bảo Ngọc cái  cô đơn
được thể hiện ngay từ khi sinh ra cho đến khi lớn lên. Ngay mở đầu tác phẩm, Tào Tuyết Cần
đã giải thích về tên gọi của Bảo Ngọc thông qua cách kể của Lãnh Tử Hưng:
“Chuyện này càng lạ nữa: khi lọt lòng, trong miệng cậu ta ngậm một hòn ngọc ngũ sắc, trên
hòn ngọc có ghi nhiều chữ, nên mới đặt tên là Bảo Ngọc….
  Lớn hơn một chút, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau như thế nào, mới đem những
đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy
phấn sáp, trâm vòng…. Lên bảy, lên tám, tính khí ngang ngược lạ thường nhưng lại thông
minh gấp trăm người khác… Nó lại nói rằng: “Xương thịt của con gái là nước kết thành,
xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng,
khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy”.
Chính những đặc điểm khác lạ từ khi mới sinh ra như thế đã làm cho nhân vật khi lớn lên có
những nét cô đơn trong chính bản thân mình, mà không phải ai cũng biết. Trước hết là sự cô
đơn trong cuộc sống vinh hoa nhà họ Giả.
Ở hồi bảy, Bảo Ngọc gặp Tần Chung, rồi tự thấy mình thiếu một cái gì đó, chàng tự hạ thấp
mình, tự trách mình, trách cuộc sống nơi vinh hoa phú quý:
“Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần Chung, trong bụng bâng khuâng như là mình thiếu cái gì, đứng
ngẩn người ra một lúc, nghĩ vơ vẩn: “Trong thiên hạ sao lại có người như thế! Bây giờ xem
ra, ta thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý, nếu
vào nhà nho nghèo, quan kiết để sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến nỗi phí mất một
đời. Ta dù tôn quý hơn, nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua để bọc cái cành khô, gỗ mục,
rượu hồng, dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ “phú quý”
làm hại người đời xiết bao!”
Hai chữ “phú quý” làm hại người đời ấy còn được thể hiện qua sự việc Nguyên Xuân ở trong
cung được phong chức, thái độ của Bảo Ngọc cũng lờ đi, coi như không biết. Bảo Ngọc tự
cho mình là “hạng ô trọc” khi được sinh ra trong phủ Giả. Thái độ không hài lòng về hoàn
cảnh xuất thân của mình, cộng với sự coi thường vinh hoa phú quý khiến Giả Bảo Ngọc trở
nên lạc lõng giữa những con người trong gia đình và xã hội ấy. Chàng cất tiếng chào đời giữa
lúc chế độ phong kiến Trung Quốc ở vào giai đoạn cáo chung, trong lúc xã hội có nhiều biến
chuyển lớn lao. Cuộc đời của Bảo Ngọc là bài ca đấu tranh giữa lực lượng mới trỗi dậy, mang
theo tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo mới. Giả Bảo Ngọc sinh trưởng trong gia đình “Ôn nho
phú quý”, gia đình bày sẵn cho chàng con đường phong quan phát tài. Mọi người trong gia
đình họ Giả hy vọng Bảo Ngọc sẽ là người có nhiều khả năng sau này sẽ nối nghiệp tổ tông
làm rạng rỡ ông cha. Thế nhưng mọi người trong xã hội, gia đình đều không hiểu được tâm
lý, tình cảm của Bảo Ngọc. Bảo Ngọc là một người luôn mang trong mình cảm giác của nỗi
cô đơn. Cô đơn ở Bảo Ngọc là sự lẻ loi, cô độc, một mình với những suy nghĩ và cảm nhận
nhân sinh khác biệt với người khác.
11
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

  Sự cô đơn, khác biệt này được thể hiện qua những cơn mơ, những cảnh Thái hư ảo cảnh
trong tác phẩm. Chỉ mình nhân vật được bước vào giấc mơ rồi biết mọi thứ. Điều này chứng
tỏ nhân vật quá cô đơn, không còn lối thoát khi ở ngoài thế giới thực, nhân vật tự trốn vào thế
giới khác – thế giới của hư, ảo – để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, của thời gian. Tào Tuyết
Cần đã quét lên nhân vật một lớp sơn của chủ nghĩa thần bí, thương cảm. Nhân vật trở nên cô
độc, thiếu lòng tin và quy luật thì cứ mãi tồn tại “bĩ chán thì phải thái, vinh chán thì phải
nhục, trăng tròn rồi khuyết, nước đầy thì tràn”:
                      “Ba xuân khi đã qua rồi
                     Hoa tàn thơ hết mọi người chia tay”
  Một mình Bảo Ngọc không thể làm thay đổi tư tưởng, quan niệm của cả xã hội, của cả gia
đình, dòng họ mình. Bảo Ngọc có tư tưởng tiến bộ nhất trong xã hội ấy. Cho nên, những suy
nghĩ và việc làm của chàng không hợp với thời cuộc lúc ấy. Điều này khiến cảm giác cô đơn
tồn tại mãi trong con người nhân vật.
Ở ngay hồi năm, Bảo Ngọc nằm mơ đến Thái hư ảo cảnh, nơi mà:
                      “Giả bảo là chân, chân cũng giả
                    Không làm ra có, có rồi không”.
  Để rồi biết được số phận của mình:
                      “Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan,
                      Lòng sao cao quý, phận lại đê hèn.
                      Tinh khôn, đài các tổ người ghen,
                      Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ,
                      Đa tình công tử luống than phiền”.
  “Than phiền” của nhân vật là do nhân vật tự chuốc lấy. Bảo Ngọc ý thức được một cách đau
đớn những gì mình không có, những gì mình làm và những gì người khác làm. Mọi hành
động ấy vẫn làm cho anh ta cảm thấy cô đơn.
  Phải nhận thấy rằng, ở nhân vật này có lòng yêu thương con người, yêu thiên nhiên, biết
thương xót trước những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Chính những điều ấy làm cho
nhân vật trở nên đơn độc, một mình trước xã hội và con người trong chế độ phong kiến lúc
bấy giờ.
  Bảo Ngọc được Giả mẫu “đặc cách” cho ở trong Đại Quan viên cùng các chị em. Chính
hoàn cảnh sống này đã giúp Bảo Ngọc tránh được sự tiêm nhiễm thói xấu của bọn đàn ông
nhà họ Giả như Giả Trân, Giả Dung, Giả Liễn, Giả Thụy, Giả Vân…. Nhưng mặt khác, nó
cũng có tác động ngược lại. Bảo Ngọc thường xuyên tiếp xúc với những chị em trong vườn
Đại Quan nên đã nhiễm thói son phấn của đàn bà, con gái trong phủ Giả. Bảo Ngọc thương
xót cho các chị em phải đi lấy chồng.

12
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

  Việc Nghênh Xuân đi lấy chồng ở hồi 79, đã khiến Bảo Ngọc phải thốt lên: “Từ nay trở đi,
trên đời này lại thiếu hẳn năm người trong sạch”.
  Hay qua sự kiện một trăm ngày, Bảo Ngọc không được ra khỏi nhà, giao du với các chị em,
anh ta nghĩ lại mọi chuyện đã xảy ra và cảm thấy buồn rầu, cô đơn:
  “Trong một trăm ngày, Bảo Ngọc không  được ra khỏi cửa, chỉ chơi đùa trong nhà thôi. Sau
bốn năm mươi ngày, bị gò ép quá Bảo Ngọc nóng lòng, nóng ruột, chịu làm sao được? Dù đã
bày hết cách, nhưng Giả mẫu và Vương phu nhân nhất định không nghe, nên đành phải chịu,
chỉ chơi đùa bừa bãi với bọn a hoàn, chẳng thiếu cách gì. Sau lại nghe thấy bên Tiết Bàn bày
tiệc hát xướng, vui nhộn lạ thường, đã đón cô dâu về nhà, người rất xinh đẹp lại thông chữ
nghĩa. Bảo Ngọc chỉ bực không được đến nhìn cho thỏa. Ít lâu sau lại nghe Nghênh Xuân về
nhà chồng, Bảo Ngọc nghĩ đến khi chị em cùng ở chung quấn quýt với nhau, giờ phải xa
nhau, dù có gặp lại nữa chắc cũng không được thân mật như trước. Hiện giờ lại không được
đến thăm, thực là làm cho người ta buồn rầu khôn xiết”.
  Sự ra đời và xuất hiện của Giả Bảo Ngọc có cái gì đó khác người. Nó “quả là giữa đám đồng
thau lại nổi lên viên ngọc sáng suốt như ráng trời ban mai, lóng lánh đủ năm màu lại nhẵn mịn
như váng sữa”. Lớn lên, “con người này” lại sống tách biệt với thế giới nam nhi của phủ Giả,
nên cảm giác cô đơn của nhân vật tồn tại sâu sắc.
  Cô đơn ở Giả Bảo Ngọc là do hoàn cảnh sống, tập thể con người và thời đại quy định.
Tào Tuyết Cần đã xây dựng Bảo Ngọc hiện lên một cách đặc sắc, không những về hình dáng,
trang phục… mà sâu xa bên trong tâm lý con người, tác giả đã để cho nhân vật có những trăn
trở băn khoăn trước thực tại cuộc sống, con người trong xã hội…Những băn khoăn, trăn trở
ấy khiến nhân vật tồn tại một mình để chống lại xã hội, quan niệm, tư tưởng của cả một dòng
họ, một giai cấp, một xã hội….cho nên, nhân vật trở nên cô đơn, lẻ loi một mình trong xã hội
ấy. Vì đó là những tư tưởng tiến bộ mà Tào Tuyết Cần muốn nhờ nhân vật này truyền tải
trong tác phẩm. Do đó, qua việc tìm hiểu nỗi cô đơn trong bản thể nhân vật Bảo Ngọc, chúng
ta hiểu thêm về trạng thái tâm lý này. Nó luôn tồn tại trong mỗi con người và được thể hiện ở
những biểu hiện khác nhau và phụ thuộc vào từng hoàn cảnh xã hội và con người mỗi thời kỳ
quy định. Và suy cho cùng nó gần như là tính chất của Bảo Ngọc tiền kiếp: Hòn đá.
  Những suy nghĩ, cảm nhận và hành động của Bảo Ngọc không giống ai, dị biệt phải chăng là
do không ai hiểu chàng, không ai có cùng lý tưởng với chàng. Bảo Ngọc cảm thấy cô đơn
ngay trong chính con người, ngày trong chính gia đình và xa hơn là cô đơn trong chính xã hội
mà mình đang sống. Giống như tiền kiếp: hòn đá vá trời “bị” tước bỏ giá trị, nghĩa vụ, trờ
thành hòn đá “giữ vườn”, hìn đá cô đơn trong cõi Tiên, Bảo Ngọc cô đơn trong cõi phàm.
Cũng từ đây, nhân vật có cái nhìn bi quan về nhân sinh, về vũ trụ. Mục đích của Tào Tuyết
Cần khi xây dựng nhân vật Giả Bảo Ngọc muốn nhân vật thể  hiện cái chung hơn, ở tầm sâu
xa hơn đó là “bi kịch nhân sinh” – cái nhìn bi quan của chính ông về cuộc sống, xã hội và con
người.

13
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

  Trong con mắt của Tào Tuyết Cần, cuộc đời chỉ là ảo mộng, nó mong manh, dễ vỡ. Bảo
Ngọc là người lĩnh hội được cái nhân sinh quan của Tào Tuyết Cần tốt nhất và chỉ có mình
Bảo Ngọc làm được điều đó.
  Đó là sự cảm nhận và lý giải rất độc đáo về cuộc đời trần thế (qua những trải nghiệm cuộc
sống) mà tác giả đã trải qua. Và quan trọng hơn là ở hồi này, với bài Hảo Liễu ca, thì đây là
bài ca chủ đề cho bi kịch nhân sinh trong Hồng lâu mộng. Bài ca mang tư tưởng của Tào
Tuyết Cần đó là chữ “biến” tức là cuộc đời với tác giả: vinh và nhục, thăng và trầm, sinh và tử
đều nằm trong sự biến hóa khôn lường:
                      “Người đời đều hiểu thần tiên tốt
                      Duy có công danh quên chẳng được
                      Xưa nay tướng, tướng ở nơi nào?
                      Gò hoang một đống cỏ xơ xác!
                      Người đời đều hiểu thần tiên tốt
                      Chỉ có bạc vàng quên chẳng được
                      Suốt ngày chỉ khổ không có nhiều
                      Đến lúc được nhiều đã nhắm mắt!
                      Người đời đều hiểu thần tiên tốt
                      Chỉ có vợ đẹp quên không được
                      Chàng còn, ngày ngày nói ân tình
                      Chàng mất lại đi theo người khác!
                      Người đời đều hiểu thần tiên tốt
                      Chỉ có con cháu quên không được
                      Cha mẹ lòng yêu xưa nay nhiều
                      Con cháu hiếu thuận ai được gặp.”
  Và bài này được chú giải, đây mới chính là cái ẩn ý bên trong – cái bi kịch nhân sinh của tác
giả:
                     “Buồng nát nhà không
                      Năm trước giường đầy đai hốt
                      Liễu khô, cỏ lụi, từng làm đài múa, ca trường
                      Tơ nhiện chăng đầy xà chạm chổ,
                      The thắm bây giờ cửa gồi vương
                       …………………..

14
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

                      Hôm xưa thương áo rách lạnh,


                      Bây giờ chán áo thêu chùng.
                      Rối tơi bời? Người xưa hát xong ta đăng trường,
                      Lại nhận tha hương làm cố hương.
                      Rất hoang đường,
                      Rút cục lại, đều làm người khác làm y thường.”
Để rồi đến cuối tác phẩm, với lời nói của Không Không đạo nhân khiến ta hình dung thêm
được cái hư hư ảo ảo, viễn vông mà tác giả thể hiện nhân sinh quan trong đó:
   “Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả! Không những người làm không biết, người
chép không biết mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du
hý, để cho thích thú tính tình mà thôi”.
  Qua bốn câu kệ cuối tác phẩm:
                     “Nói đến nỗi chua cay,
                      Hoang đường lại buồn thay.
                      Xưa nay đều cảnh mộng,
                      Chớ bảo người đời ngây.”
  Dùng chuyện hoang đường thể hiện qua các giấc mộng để nói lên tư tưởng nhân sinh của
mình, đó mới chính là “ẩn ý bên trong” của Tào Tuyết Cần.
Hồng lâu mộng được coi là một vở bi kịch, là tác phẩm đầy sự bi thương, mọi thứ đều đi từ
cái tốt đến cái xấu. Và Bảo Ngọc là người thể hiện cho sự bi thương ấy: Cái mà Bảo Ngọc
phản đối vẫn cứ tồn tại và duy trì, còn những cái mình trân trọng thì càng ngày càng héo mòn.
Bảo Ngọc luôn có hy vọng về cuộc sống nhưng chính cuộc sống đấy lại không tìm được lối
thoát.
Cái cô đơn trong chính nhân vật còn được thể hiện qua những suy nghĩ, việc làm trước đời
sống xã hội và vũ trụ. Bảo Ngọc luôn đấu tranh cho sự tiến bộ của đời sống xã hội, chàng thù
ghét những con người, quan niệm của mọi người trước thực tế xã hội như chế độ quan liêu,
chế độ đa thê,… chàng đấu tranh cho sự bình đẳng về giới, về tình yêu.
  Những mâu thuẫn này là sự đối lập giữa tư tưởng, quan niệm mới với ý thức hệ xã hội cũ kĩ
thời bấy giờ. Do đó, nhân vật Giả Bảo Ngọc là một sản phẩm đầy mâu thuẫn trong một xã hội
cũng chứa nhiều mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng không có đường ra. Chính bởi
thế nhân vật trở nên cô đơn. Giả Bảo Ngọc là “hồi quang” của tác giả về cuộc sống xa hoa,
lộng lẫy thời niên thiếu, đồng thời phản ánh hiện thực cuộc sống như nó vốn có khi chế độ
phong kiến đang có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản. Điều này dường như đã được dự báo
trước với sự xuất hiện của thần thoại Nữ Oa vá trời trong quá khứ và viên đá còn sót lại. Nữ

15
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Oa vá trời là chuyện của quá khứ và sự chuyển thế của viên đá là hồi quang của quá khứ đó.
Có lẽ phần nào có thề nhận định như thế.
  Qua việc xây dựng nhân vật cô đơn Giả Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần để cho nhân vật này thể
hiện cái cô đơn ở khía cạnh mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng, thông qua các bình diện
của cuộc sống, xã hội như: khoa cử, quan liêu; hôn nhân và tình yêu; đẳng cấp…
  Chính hoàn cảnh sống: “…Ta chỉ giận cả ngày bị nhốt trong nhà không tự chủ được một tí
gì cả, làm gì người ta cũng biết, không người này khuyên thì kẻ khác ngăn, chỉ có thể nói chứ
không có thể làm, tuy có tiền mà không được tiêu…”. Cho nên, Giả Bảo Ngọc mới nhìn thấy
sự xấu xa của hiện thực cuộc sống lúc ấy.
  Giả Bảo Ngọc tỏ ra khinh miệt khoa cử và thù ghét con đường tiến thân bằng khoa cử. Anh
ta “không chịu nghiền ngẫm” những loại sách như: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh
Tử, Tả truyện, Quốc sách, Công dương, Cốc lương, Hán văn, Đường văn… thì “nhớ làm sao
được”. Anh ta gọi văn bát cổ là “cần câu cơm”. Ở hổi 82, Bảo Ngọc nói chuyện với Đại Ngọc
về việc học hành:
  “Cô còn nhắc đến việc đi học làm gì? Tôi ngán cái trò đạo học ấy rồi. Buồn cười nhất là thứ
văn bát cổ, người ta mượn nó để lừa bịp, bòn chút công danh, kiếm bát cơm ăn, nói thế còn
được. Bây giờ lại còn bảo là nói thay lời thánh hiền cơ! Nhiều lắm thì chẳng qua là đem kinh
truyện ra nhồi nhét vào đầu đấy thôi. Lại còn một điều buồn cười hơn nữa là có những kẻ
trong bụng rỗng tuếch chỉ vơ chỗ nọ, bỏ chỗ kia, làm lếu làm láo thế mà lại cho mình là học
sâu rộng. Làm thế đâu có phải là phát triển đạo lý của Thánh hiền!”.
Bảo Ngọc giống như ngọn giáo xung kích tấn công vào thành trì của chế độ khoa cử. Bảo
Ngọc ghét tiếp chuyện với bọn quan lại, càng không thích mũ cao, áo dài. Theo chàng, quan
lại là “giặc nước”, là “con mọt ăn lộc”. Bảo Ngọc chán ngấy lời khuyên của Tương Vân:
  “Dù anh không muốn đỗ cử nhân, tiến sĩ thì cũng nên gặp gỡ những bậc quan sang, bàn đến
bước đường tiến cử để ra gánh vác việc đời, giúp nước, giúp dân, nên cần phải có bạn bè
quan lại, chứ quanh năm anh cứ luẩn quẩn với bọn chị em chúng tôi thì còn được trò trống gì
nữa!”.
 Bảo Ngọc bèn đáp:
“Xin mời cô sang ngồi chơi bên nhà khác, chứ nhà tôi đây thật nhơ bẩn đến những người hiểu
biết việc trị nước giúp dân ấy.”
  Giả Bảo Ngọc coi con đường khoa cử là “vô tích sự”. Tào Tuyết Cần đã xây dựng nên một
nhân vật về hình dáng, tuổi tác rất giống với Giả Bảo Ngọc, đó là Chân Bảo Ngọc – viên ngọc
thật mà giai cấp phong kiến đang cố công mài dũa, trau chuốt.
  Bút pháp tương phản của Tào Tuyết Cần ở đây là thể hiện tư tưởng, quan niệm của hai hòn
ngọc “Chân” và “Giả”. Bảo Ngọc nhận ra anh chàng Chân Bảo Ngọc này chẳng qua là kẻ rặt
văn chương với kinh bang tế thế và trung hiếu gì đó mà thôi. Bảo Ngọc hết lời chê bai cái lỗi
thời của nhân vật đó:

16
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

“… Từ hôm được gặp thân phụ Chân Bảo Ngọc, Giả Bảo Ngọc biết rằng Chân Bảo Ngọc sắp
vào kinh nên ngày đêm mong đợi. Nay được gặp mặt, trong lòng khấp khởi, tưởng sẽ gặp
được người tri kỷ, không ngờ nói chuyện với nhan hồi lâu, vẫn thấy loạc choạc. Rồi Bảo Ngọc
buồn rầu về phòng chẳng nói chẳng rằng, người như mất hồn. Bảo Thoa liền hỏi:
  -        Anh Chân Bảo Ngọc có thật giống cậu không?
  -        Diện mạo thì hệt giống nhau, nhưng xem cách nói năng chẳng qua cũng chỉ là “con
mọt ăn lộc” mà thôi.
  -        Cậu lại bắt đầu đặt điều cho người ta rồi. Sao lại biết anh ta là “con mọt ăn lộc”?
  -        Nói chuyện với anh ta chẳng có câu nào là tâm đầu ý hợp cả, chỉ rặt văn chương với
kinh bang tế thế và trung hiếu gì đó. Hạng người như thế không phải là “con mọt ăn lộc” thì
là gì? Đáng tiếc hắn sinh ra mặt mày hệt như tôi. Tôi nghĩ đã có nó rồi thì tôi cũng chẳng cần
đến diện mạo của tôi nữa.”.
  Giả Bảo Ngọc thấy sự có mặt của mình là thừa khi biết được trên đời này có một Chân Bảo
Ngọc. Nhân vật cảm thấy cô đơn, nhưng nỗi cô đơn này không ai có thể hiểu được. Cho nên,
mượn lời trách móc, khuyên răn của Bảo Thoa, Bảo Ngọc biến mình trở thành kẻ ngây ngây,
dại dại, muốn trốn tránh thực tại.
   Trong số những con người sống xung quanh Bảo Ngọc, chỉ duy nhất Lâm Đại Ngọc hiểu
được chàng. Giả Bảo Ngọc xa Tương Vân gần Đại Ngọc chỉ vì:
  “Cô Lâm có bao giờ nói những câu nhảm nhí ấy đâu? Nếu nói đến, tôi đã xa cô ấy từ lâu
rồi”.
  Thấy được sự thối nát của chế độ khoa cử, quan liêu thời đó, Giả Bảo Ngọc không chọn và
đi theo con đường ấy. Chàng xem kẻ đọc sách là mọt sách, mọt công danh.
  Cái hố ngăn cách giữa Bảo Ngọc với xã hội phong kiến càng rộng bao nhiêu thì nỗi cô đơn
của nhân vật càng lớn bấy nhiêu. Điều này làm cho quan hệ giữa Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc
càng gần gũi với nhau. Sự gần gũi sâu sắc này là do cả hai người cùng mang trong mình nỗi
cô đơn, họ hiểu nhau, đồng tâm, đồng cảm và gần gũi với nhau. Hai nhân vật này trở thành
nhân vật “cô đơn kép” trong tác phẩm.
  Có thể, trong khi xây dựng nên nhân vật Giả Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần đã đưa cái nhìn về
nhân sinh, về thế giới của mình vào con người Bảo Ngọc. Qua nhân vật, tác giả muốn cho
người đọc biết về thực trạng cuộc sống, thế giới và con người xung quanh. Nhưng cũng qua
con người này ta hiểu thêm về trạng thái tâm lý của con người trong thời buổi ấy. Đó là cảm
giác nuối tiếc quá khứ và buồn thương cho tất cả những gì có trên thế giới này. Cái nhìn này
mang đậm màu sắc bi quan, thương cảm của nhân vật, điều này càng làm nổi bật cảm giác cô
đơn của họ.
  Ở thế giới thực, Bảo Ngọc luôn có cảm giác là nuối tiếc quá khứ, nhớ tiếc thời vàng son khi
ở vườn Đại Quan, anh ta bất mãn với cái thế giới ấy. Ở thế giới này anh ta cho những việc

17
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

“lánh đời lìa tục là việc quan trọng”, do đó Bảo Ngọc tìm cách trốn tránh hiện thực và quay
vào thế giới hư ảo không phải ngẫu nhiên Tào Tuyết Cần xây dựng rất nhiều thế giới hư.
Con đường đi đến con người ngộ của con người mê Bảo Ngọc là con đường dài và có thể coi
là một điển hình cho quan niệm về con người “chuyển mê khai ngộ” của Tào Tuyết Cần trong
Hồng lâu mộng. Ở đó, Bảo Ngọc có sự tìm tòi kinh sách, có sự trải nghiệm thực tế, có “tiệm
ngộ” và cũng có “đốn ngộ”. Tất cả những điều mà Bảo Ngọc tai nghe mắt thấy ở hồi 5 cũng
như chính những điều thực tại xảy ra trong phủ nhà họ Giả đã giúp cho Bảo Ngọc tiệm ngộ.
Tuy nhiên, phải đến gần kết tiểu thuyết, Giả Bảo Ngọc mới có dịp đốn ngộ, thoát khỏi cõi u
mê. Trong giấc mộng tới cõi Thái hư ảo cảnh lần đầu tiên, Bảo Ngọc đã được tiên cô cho
nghe 12 khúc hát hồng lâu mộng, nhưng anh chàng vẫn chưa tỉnh ngộ, trước sự u mê của cậu
ấm, tiên cô đã khẳng định rằng: “Dưới trần, bao nhiêu nhà phú quý, những nơi gió trăng
trước của sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng làm nhơ bẩn”, “Ta ưa
anh, vì anh là một người dâm nhất thiên hạ xưa nay”. Bảo Ngọc dâm khác với cái dâm của
Giả Liễn, Giả Thụy, Giả Dung,… nói như nàng tiên Cảnh ảo thì anh ta “mới sinh đã mang
một mối tình si, chúng ta gọi thế là “ý dâm”. Cái mê của Bảo Ngọc đã đạt đến độ thăng hoa
trong mối tình với Lâm Đại Ngọc- một mối tình mang màu sắc huyền thoại và đầy đau.
Qua những dẫn chứng ở trên, ta thấy hiện thực cuộc sống thời phong kiến Trung Hoa với sự
kìm kẹp của nó đã tạo ra một loại người mang trạng thái cô đơn. Những con người không
được thừa nhận và phát huy những ý kiến, lý tưởng của mình trong xã hội ấy. Chính điều này
khiến cho Giả Bảo Ngọc trở thành “đứa con phản nghịch” của xã hội mà anh ta đang sống.
Giả Bảo Ngọc đã “quất rất mạnh” vào toàn bộ kiến trúc thượng tầng của chế độ phong kiến.
Vốn là một cậu ấm lại tập tước quận công, là kì vọng của gia đình họ Giả nên sự phản nghịch
ở Giả Bảo Ngọc càng thêm có ý nghĩa sâu sắc.
Tư tưởng.
Khẳng định tính chất “mộng”.
Trong cuốn chuyện “Hồng Lâu Mộng” có rất nhiều sự tích thần thoại đặc biệt nhân vật Giả
Bảo Ngọc đã từ một viên đá không đủ sức vá trời bị vứt bỏ dưới chân ngọn núi đã mượn hình
người lạc vào chốn nhân gian. Sau khi “người lữ hành” bất đắc dĩ chốn nhân gian phải trải
qua những niềm vui cực lạc và nỗi khổ của kiếp người để đạt tới danh hiệu “hòn ngọc quý”
thì Giả Bảo Ngọc đã hồi quy về cảnh giới thái hư không. Kể từ khi đầu thai vào kiếp người,
trên con đường của mình thì “người lữ hành” bất đắc dĩ này đã gây ra không biết bao nhiêu
mối tình oan nghiệt với phụ nữ đồng thời chính họ đã thể hiện sự ngộ hiểu thấu đáo nguyên lý
“ảo tình không-sắc” cho người trong thế gian nhận biết.
Trở đi trở lại trong tác phẩm là những triết lý có tính hạt nhân trong Phật giáo như "tính
không", "thuyết duyên khởi", bản chất "vô thường", "vô ngã" của thế giới và vạn vật. Tư
tưởng chủ yếu của Đạo Phật là thế giới này là không, bởi vạn vật đều thay đổi, biến hóa ,
không có cái gì trường tồn, bất biến, tồn tại độc lập. Tức là mọi hiện tượng đều do có nhân
duyên hòa hợp mà thành, dựa vào nhau mà có chứ bản thân chúng thì trống rỗng, thành rồi lại

18
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

diệt, có rồi lại mất, hợp rồi lại tan. Cuộc đời vì vậy chỉ như một giấc mộng thoáng qua. Vinh
hoa, phú quý cũng chỉ là phù vân, ảo ảnh. Đến lúc nào không ai biết, đi lúc nào không ai hay.
Mở đầu tiểu thuyết, Tào Tuyết Cần đã dựng lên câu chuyện "vay - trả". Mà trước hết là câu
chuyện của Thần Anh và cây Giáng Châu. Thần Anh ngày ngày múc nước cam lộ tưới cho
cây khỏi chết héo. Cái cây, sau đã xin nguyện "lấy hết nước mắt” mà “trả ơn tưới tắm" cho vị
cứu tinh. Nàng tiên Ảo cảnh (chúng ta chú ý đến từ "ảo" và liên tưởng với "tính không") đã
tra sổ ân oán và cho chúng xuống trần để trả nợ cho nhau. Thần Anh về sau đầu thai vào họ
Giả chính là Giả Bảo Ngọc. Cây Giáng Châu hóa ra người con gái đẹp đầu thai vào nhà họ
Lâm, chính là Lâm Đại Ngọc. Cùng xuống trần gian còn có một "bọn phong lưu đa tình" "sẵn
nợ gió trăng" khác nữa, chính là những người con gái trong nhà họ Giả và thân hữu mà vận
mệnh mỗi người được ấn định trước tùy theo những gì họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Những chi
tiết nói trên chính là ảnh hưởng của thuyết duyên khởi của nhà Phật. Chúng ta nhớ nhân vật
Giả Mẫu đã từng thốt lên: "Không phải oan gia không họp mặt”.
Vấn đề duyên nợ cũng được nhắc đi nhắc lại thông qua nhưng chi tiết như viên ngọc của Giả
Bảo Ngọc, khóa vàng của Tiết Bảo Thoa, sự mất tích rồi lại trở về của viên "bảo ngọc" cùng
với sự xuất hiện của nhà sư. Hay mối quan hệ giữa Hy Phượng và Già Lưu - sau là vị cứu tinh
cho Xảo Thư - con gái Hy Phượng trong hoạn nạn. Hay như chính số phận của Hy Phượng
cũng là một ví dụ sinh động cho sự vay - trả. Tào Tuyết Cần viết thế này về Hy Phượng:
"Việc đời tính rất thông minh
Việc mình, mình tính phận mình vẫn sai".
Càng thông minh lắm, mưu mô lắm, thì càng oan trái nhiều. Bằng sự thông minh, mưu mô
của mình, chị ta đã gây ra đau khổ cho bao thân phận khác, và chị ta cuối cùng cũng chết vì
những "ân oán". Hy Phượng xét cho cùng, cũng đáng thương. Chị ta cũng vì "vô minh" mà
tạo ra nghiệp chướng cho mình. Nhưng cũng còn may thay, một cái ân nhỏ mà chị ta gia ơn
cho Già Lưu không ngờ cuối cùng lại cứu được con gái mình ra khỏi hoạn nạn (chi tiết Già
Lưu cùng Bình Nhi đem Xảo Thư đi trốn khỏi người cậu vô lương).
Triết lý về tính không, Sắc Sắc - Không Không, Sắc cũng là Không. Trong hồi 5 Giả Bảo
Ngọc nằm mơ đến cõi Ảo cảnh, và đọc được số phận của đám chị em trong nhà, Giả Bảo
Ngọc có hỏi một câu: "Vì sao đám chị em nhà tôi, ai cũng mặt hoa da phấn, tính tình uyển
chuyển, đáng yêu mà đều phải chịu số phận bi thương thế?". Nàng tiên có trả lời rằng "vì đám
chị em nhà anh đều mắc phải chữ dâm". Chữ "dâm" theo nàng tiên ảo cảnh ở đây nghĩa là
"tình". Phàm đã là người hiểu biết thì không nên mắc vào chữ tình (liên hệ đến "vô minh" và
tính khổ của nhà Phật) để lụy đến thân. Bởi:
"Trời tình, bể tình đều ảo cả"
Đều là phù du cả. Thoắt đến thoắt đi, thoắt hợp thoắt tan. Ái tình cũng là một thứ nghiệp
chướng, khiến con người ta phải lụy phiền, mà rồi cũng có trường tồn và bất biến đâu? Sắc
cũng là Không là ở chỗ đó đấy.
Những câu thơ của Giả Bảo Ngọc cũng phản ánh rất rõ tư tưởng này:

19
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

"Giả bảo rằng chân, chân cũng giả


Không làm ra có, có ra không"
Những gì ta nhìn thấy, cảm thấy (xúc) cũng chỉ là một ảo ảnh, cũng là "giả". Từ chỗ "có" đến
chỗ "không" chỉ trong giây phút bởi ... tất cả đều vốn là "không".
Sự hưng thịnh rồi suy tàn, diệt vong của nhà họ Giả và thân hữu cũng là một ví dụ cho tính vô
thường và tính không trong triết lý nhà Phật. Đoạn kết có hậu cũng chỉ là một mắt xích trong
một chuỗi những nghiệp mới hay nhân - quả tiếp theo của vòng luân hồi mà thôi. Và vòng
Luân hồi này chính là giấc mơ của Thần Anh (viên đá) đối với cõi người mà thôi.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dùng hình ảnh cõi vô cùng - cái cõi mà Giả Bảo Ngọc
đã ngộ ra và đi theo, từ giã bể khổ luân hồi ở hồi kết. Câu hát của nhà sư: 
“Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù,
Ai đi cùng ta chừ, ta di theo với,
Mênh mông mịt mù chừ, về nơi Đại Hoang”.
cũng đã phản ánh cái triết lý về "tính không" này rồi đó.
Khép lại cuốn tiểu thuyết, Tào Tuyết Cần có nói "đây chỉ là một chuyện bịa cho vui" - vì tất
cả đều là giả - lại một lần nữa, nhà văn lại đề cập đến tính Sắc-Sắc-Không-Không.
Ngoài ra, cả tiểu thuyết “Hồng Lâu Mộng”, ở chính tên gọi của nó, “Giấc  mộng lầu hồng”,
cũng là một chi tiết mang đậm ảnh hưởng Phật giáo. Cả cuộc đời hóa ra là một giấc mộng,
con người u mê, cuối cùng cũng tỉnh ngộ (tỉnh mộng), cập tới bến bờ giác ngộ Phật giáo. Điều
này đạt được khi con người bị mất đi những gì mình quý giá nhất, tưởng rằng mãi mãi vững
bền nhất, lúc đó họ mới hiểu cuộc đời là bể khổ, con đường tu hành giúp họ tránh được những
hỉ, nộ, ái, ố..
Trong “Hồng lâu mộng”, viên đá Nữ Oa bỏ lại cũng là vật thiêng, một ngày nghe nhà sư và
đạo sĩ nói đến chuyện vinh hoa phú quý dưới hồng trần mà bất giác động lòng, xin hai vị sư
phụ “mang đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu sang êm ấm”. Đồng thời viên đá
kia cũng chính là vị Thần Anh “bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình
thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp ảo duyên”. Rồi một thế giới phủ Giả được mô
tả tỉ mỉ với mấy trăm nhân vật sống động, cùng bao vinh hoa phú quý lẫn bi sầu, ly tán thực
chất chỉ là một thế giới mộng so với thế giới Thái hư ảo cảnh và núi Đại Hoang. Thần Anh là
đá lại trở về kiếp đá, Đại Ngọc là nàng Giáng Châu lại trở về làm tiên. Trong tác phẩm luôn
có sự đan xen giữa hai thế giới mộng – thực trong suốt phần thân truyện. Nhân vật có thể đi
lại giữa hai thế giới thông qua phương tiện là những giấc mơ. Giả Bảo Ngọc của cuộc đời trần
tục hai lần đến Thái hư ảo cảnh (một lần ở hồi thứ năm, một lần ở hồi 116), một lần đến cõi
địa phủ (hồi chín mươi tám). Bên cạnh đó, ngoài nhân vật chính của cõi đời trần tục còn có
những nhân vật đạo sĩ, nhà sư đắc đạo tự do đi lại giữa hai thế giới thực – mộng ấy, đó là đạo
sĩ chốc đầu và nhà sư khiểng chân.
20
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Xét về kết cấu giấc mộng. Trong tác phẩm là một giấc mộng lớn bao trùm rất nhiều giấc
mộng khác. Theo thống kê, tổng số cả giấc mộng lớn và nhỏ trong tác phẩm có tất cả hơn ba
mươi hai giấc mơ. Mỗi giấc mơ có những nét riêng, tuy nhiên có số một giấc mơ lại là sự lặp
lại để nhằm dự báo một điều sắp xảy ra trong tương lai. Hiện tượng ấy được gọi là “đồng
mộng”. Trong tác phẩm, có những giấc mộng không chỉ đến với một nhân vật, mà cả hai
người cùng mơ thấy nhau, giấc mộng cùng một nội dung. Đó là giấc mộng của Giả Bảo Ngọc
và Chân Bảo Ngọc ở hồi năm mươi sáu, và mộng của Giả Bảo Ngọc- Lâm Đại Ngọc ở hồi
tám mươi hai. Như vậy, sự xuất hiện của thần thoại Nữ Oa vá trời ngay đầu tiều thuyết chính
là bắt đầu sư nhắm mắt, khởi điểm của giấc mộng: giấc ngủ trần thế.
Có thể nói, “Hồng lâu mộng” là giấc mộng lớn về chốn lầu son, gác tía nơi phủ Ninh- Vinh
phồn hoa tột bực, nó là tập hợp của muôn vàn những giấc mơ trong xã hội phong kiến, rối
ren, mục nát, mà trước hết là giấc mộng về một cuộc sống giàu sang, vinh hoa phú quý. Tại
sao vị đạo sĩ lại không đem Thông linh bảo ngọc cho nhập vào một người ngoài chốn lầu son
gác tía, sống đời thanh bần ? Là bởi vì lòng phàm của đá thiêng mong muốn được xuống trần
để nếm vị vinh hoa, hưởng lạc nơi trần thế. Chung quy đó cũng chính là ham muốn của con
người trên thế gian. Chỉ khi họ trải qua cuộc sống vinh hoa phú quý, mới ngộ ra được sự vô
nghĩa của kiếp người, lòng mới không còn ước mơ, thèm muốn, mộng tưởng nữa. Giấc mộng
trong tác phẩm từ chỗ giàu sang tột bực rồi suy tàn chỉ trong chớp mắt, một gia đình trâm anh
thế phiệt bỗng chốc hoang tàn, suy kiệt mới thấy lúc có ắt có lúc không, cái có như mộng ảo.
Xuyên suốt trong giấc mộng ấy là những nỗi băn khoăn, lo sợ, đau khổ, uất hận của nàng Đại
Ngọc đa sầu, đa cảm, là nỗi niềm tiếc nuối của chàng Bảo Ngọc si tình, cùng với nỗi lòng
trăm mối của biết bao nhân vật khác.
Thần Anh vì si mộng hóa kiếp làm chàng Bảo Ngọc đa tình, quanh mình có bao nhiêu người
phụ nữ tài sắc. Bảo Ngọc làm rơi lệ không biết bao nhiêu cô gái, tuy không trực tiếp , song đã
gián tiếp làm khổ từ Đại Ngọc, Bảo Thoa, Kim Xuyến, Tình Văn, Tập Nhân,… Cũng chính vì
tình ái quá dồi dào mà Bảo Ngọc đã đi từ chữ “Sắc” đến chữ “Không” để rồi kết cục trở
thành người xuất gia, không vương vấn tình ái, vinh hoa. Như vậy, qua việc tìm hiểu đôi nét
về tính chất “mộng” trong tác phẩm có thể khẳng định : “Hồng lâu mộng” là truyện về mộng,
nhưng lại phản án một sự “tỉnh mộng” hoàn toàn.
  Như vậy, dòng chảy mộng – thực được tác giả kết hợp nhuần nhuyễn và rõ nét trong
Hồng lâu mộng, đó là thế giới của mộng thực đan xen, mọi hư ảo của tác phẩm tạo nên một
thi pháp độc đáo cho thiên tiểu thuyết mà trong đó mỗi con chữ đều được viết bằng máu.
Con đường giác ngộ của Bảo Ngọc là con đường “tự ngộ”, nhưng không vì thế mà vai trò của
người dẫn ngộ- dù chỉ là cơ duyên- vị hòa thượng trở nên mờ nhạt. Cái kết khi Bảo Ngọc xem
xong sách, gặp lại nhà sư, nhà sư chỉ đường cho Bảo Ngọc : “Phàm tình duyên trên đời đều là
những thứ ma chướng ấy cả. Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua, sau này ta sẽ nói rõ với
anh”. Dường như sự dẫn ngộ của nhà sư, cũng chính là sự dẫn ngộ của Tào Tuyết Cần. Nếu
như ở trong tác phẩm, nhà sư chỉ là người đưa Bảo Ngọc đến với cõi tiên cảnh và để tự chàng
tìm ra những điều mà bản thân chưa giải đáp được thì ở ngoài tác phẩm ấy, Tào Tuyết Cần
chính là người trợ duyên, là người dẫn ngộ cho độc giả. Sau mỗi lần lần giở trang sách, khi
21
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

khép lại người đọc lại có dịp chiêm nghiệm những điều mà tác giả ẩn dấu trong đó, tự giải mã
những giấc mơ thực ảo của chính mình.
Phản ánh thực trạng xã hội.
Mặc dù mở đầu nói việc Chân Sĩ Ẩn gặp Gỉa Vũ Thôn và kết thúc bằng việc Gỉa Vũ Thôn
gặp Chân Sĩ Ẩn, hai người này như hai người mở màn và đóng màn Hồng lâu mộng, mặc dù
đúng theo cái tên “mộng” nhưng toàn cuốn truyện toát lên một tinh thần hiện thực sâu sắc.
Đây chính là thủ pháp dùng hư để nói thực, tác giả đã miêu tả cuộc sống đời thường chân thực
không to vẽ thêm bớt mà lại có những yếu tố hoang đường được lồng vào câu chuyện. Với lối
viết ẩn ẩn hiện hiện, giả là chân , chân là giả Hồng lâu mộng là một tác phẩm viết về “nhân
tình thế thái” bằng bút pháp hiện thực mà mang tính chất phê phán mạnh mẽ.
Hồng lâu mộng viết về một câu chuyện tình đầy bi thảm, lấy chuyện tình yêu làm trung tâm
liên hệ với bối cảnh xã hội rộng rãi, vạch trầm cuộc sống xấu xa hoang dâm của giai cấp
thống trị phong kiến và từ đó vạch cho ta thấy vận mệnh lịch sử của xã hội phong kiến tất
phải đi đến chỗ sụp đổ. Hồng lâu mộng phản ánh một cách phức tạp lắt léo nhiều hiện tượng
xã hội quan trọng của thời kì lịch sử ấy không phải chỉ thông qua bi kịch tình yêu mà còn
thông qua quá trình của một đại gia đình quý tộc. Vừa mở đầu tác phẩm, tác giả đã đưa người
đọc vào phủ Vinh quốc đầy vàng ngọc châu báu nhưng cũng đầy nước mắt và bất hạnh.
Phủ Vinh quốc là một đại gia đình quý tộc phong kiến gồm một số ít chủ phong kiến và mây
trăm nô bộc. Phía trong dãy tường bao nguy nga này là những mâu thuẫn và xung đột không
thể tránh khỏi của xã hội ấy. Mấy trăm con người hàng ngày bận bịu tíu tít chỉ để hưởng lạc,
ăn chơi cho qua hết những ngày tháng nhàn rỗi dài lê thê. Trong khi bọn thống trị phong kiến
đắm đuối trong cuộc sống hưởng lạc thì cũng là lúc bên ngoài bức tường vây quang vườn Đại
quan đang “lụt hạn mất mùa, trộm cướp như ong”. Có thể nói phủ Vinh quốc với cái bề ngoài
hiển hách mà bên trong khô cằn ấy tượng trưng cho giái cấp thống trị của thời đại phong kiến
lúc bấy giờ. Mặc dù giai cấp thống trị đương thời ra sức tô vẽ cho cảnh thái bình, nhằm duy
trì cái thịnh thế ngoài mặt nhưng sự thật bản thân nó đã quá mục nát và đang ẩn chứa hàng
loạt nguy cơ sắp đến ngày bùng nổ. Những thay đổi thịnh suy của phủ Gỉa phản ánh gián tiếp
xu thế của thời đại ấy.
Hồng lâu mộng còn vạch trần biết bao hiện tượng đen tối của xã hội phong kiến, hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp có liên quan với gia đình quý tộc này. Như chuyện của Tiết Bàn đánh chết
người nhưng vẫn thoát tội, “chỉ chi ra vài đồng tiền mốc là chẳng có việc gì không xong”.
Hay như Phượng Thư với bộ mặt luôn tươi cười, đã phá vỡ cuộc hôn nhân của Trương Kim
Kha, gián tiếp giết hại hai mạng người vì ba nghìn lạng bạc đút lót, rồi lại còn hành hạ Vưu
Nhị Thư đến chết…Qua hàng loạt sự kiện khác nhau như vậy, Hồng lâu mộng đã vạch trần
một cách sinh động: chính cái nơi được trang hoàng tô điểm đẹp đẽ nhất trong xã hội đó, lại là
nơi có những hành động xấu xa nhất. Trong cái phủ Gỉa chan chứa “hương vị thi thư hội họa
kia”, văn minh phong kiến chẳng qua chỉ là chiếc áo choàng đẹp đẽ, mềm mại, che giấu bao
nhiêu tội ác mà thôi. Chỉ qua việc miêu tả những hiện tượng sinh hoạt thường ngày, ông đã
khắc họa được cuộc sống thối nát tột cùng của giai cấp thống trị phong kiến và từ đó vạch trần
tình trạng mục ruỗng toàn bộ từ gốc đến ngọn của xã hội phong kiến. Như đoạn kể chuyện già
22
Ý nghĩa thầ n thoạ i Nữ Oa vá trờ i trong tá c phẩ m Hồ ng Lâ u mộ ng.

Lưu đi xem vườn Đại quan, tác giả tả tỉ mỉ từng đồ ăn thức uống trong phủ Vinh quốc . Cảnh
sống phô trương sang trọng xa hoa đó khiến bà lão phải kinh ngạc than rằng: “khoản tiền này,
nhà nông chúng tôi đủ ăn cả năm”…
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng hình thức truyền kì với việc vận dụng mô – tip giấc mộng
quen thuộc trong Hồng lâu mộng chỉ là phương tiện, một dụng ý nghệ thuật. Có nghĩa là tác
giả đã sử dụng hình thức truyền kì, tư tưởng định mệnh duy tâm như một phương tiện nghệ
thuật chứ không phải muốn tuyên truyền cho tư tưởng duy tâm, định mệnh thần kì ấy. Vì vậy,
bản thân Hồng lâu mộng vẫn được đánh giá là một tiểu thuyết hiện thực xuất sắc và được xếp
vào đỉnh cao của tiểu thuyết Minh - Thanh. Đó là câu chuyện trong mộng nhưng lại rất thực
như đời. Đời trong câu chuyện ấy lại là mộng. Như vây, toàn bộ Hồng lâu mộng là mộng
nhưng lại là đời thực đấy.
Tổng kết.
Tóm lại, với sự xuất hiện của thần thoại Nữ Oa vá trời ở đầu truyện đã tạo ra tính hấp dẫn cho
toàn bộ pho tiểu thuyết Hồng Lâu mộng ở những khía cạnh sao:
Thần thoại góp phần đưa đọc giả váo một không gian khác với hiện thực: giấc mộng nhưng
thật ra vẫn ở giữa đời. Đứng trên cuộc đời, ngồi giữa hiện thực và nghĩ bằng giấc mộng.
Dễ dàng có một ấn tượng đầu tiên về tác phẩm, đặc biệt là hiểu rõ hơn về kết cấu mộng trong
mộng của tác phẩm.
Lý giải về nhân vật trong tác phẩm (đặc biệt là Giả Bảo Ngọc)và những mối quan hệ tương
quan trong diễn biến của tác phẩm.
Như vậy, với những tác dụng vừa phân tích, thần thoại Nữ Oa vá trời có một ý nghĩa hết sức
quan trọng và chủ chốt trong quá trình tìm hiểu, khám phá Hồng Lâu mộng – pho tuyệt thế
tiểu thuyết.

23

You might also like