You are on page 1of 427

PHẦN 1.

Một số đề tham khảo


PHẦN 2: TÀI LIỆU ÔN TẬP, BỒI DƯỠNG
PHẦN 3: GIÁO ÁN PỤ ĐẠO

PHẦN 1. Một số đề tham khảo


Đề 2:
ĐỀ BÀI
I.  Đọc hiểu văn bản: (6 điểm)
 Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“Đất  mọng nước mưa, và khi gió xua tan mây ra, đất ngây ngất dưới ánh nắng
chói lọi và tỏa ra một làn khói lam. Sáng sáng, sương mù dâng lên từ một con ngòi, từ
vùng trũng bùn lầy nước đọng. Sương trôi như sóng, lao ra ngoài đồi núi thảo nguyên
và ở đó nó tan ra thành một lớp khói lam mịn màng. Và trên những cành lá đâu đâu
cũng la liệt những giọt sương nặng nom như những hạt đạn ghém đỏ rực, đè trĩu ngọn
cỏ. Ngoài thảo nguyên, cỏ băng mọc cao hơn đầu gối. Lúa vụ đông trải ra đến tận chân
trời như một bức tường xanh biếc. Những khoảnh ruộng cát xám tua tủa những ngọn
ngô non như muôn ngàn mũi tên. Tới thượng tuần tháng 6, thời tiết đã đẹp đều, trời
không gợi một bóng mây, và thảo nguyên nở hoa sau những trận mưa phơi mình ra
lộng lẫy dưới ánh nắng. Giờ đây, thảo nguyên nom như một thiếu phụ đang nuôi con
bú, xinh đẹp lạ thường, một vẻ đẹp lắng dịu, hơi mệt mỏi và rạng rỡ, nụ cười xinh tươi
hạnh phúc và trong sáng của tình mẹ con.”
(Trích” Đất vỡ hoang”- sôlôkhôp)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn trên là gì?
Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn văn trên?
Câu 3. Trong đoạn trích trên, nhà văn đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc
sắc nào? Nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó?
 Câu 4. bằng trải nghiệm văn học của bản thân, hãy lấy một ví dụ trong Văn Thơ
thơ có sử dụng biện pháp tu từ mà em vừa tìm ở trên?.
II.  Tập làm văn (14 điểm)
 Câu 1.(4 điểm)
Em hãy viết đoạn văn cảm nhận về đoạn thơ sau:
“ Cháu nằm trên lúa
  Tay nắm chặt bông
  Lúa thơm mùi sữa
  Hồn bay giữa đồng…
  Lượm ơi, còn không?”
(  Trích “Lượm” -  Tố Hữu)
 Câu 2. (10 điểm)
   Chúng ta đang bước vào cuộc sống với công nghệ máy móc tự động hóa cao.
Một trong những điển hình tiêu biểu của khoa học công nghệ là phát minh ra người
máy (robot). Từ phòng thí nghiệm cho đến các nhà máy, nhà hàng, bệnh viện,... rất
nhiều robot đang hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày. Dưới đây là hai ví dụ tiêu biểu:
  “ Cô người máy Chihira Aico -  Nhật
Bản trông sống động như thật với làn da
silicon mịn màng. Cô gái robot này hiện
đang làm nhân viên lễ tân mitsukoshi,
cửa hàng bách hóa lâu đời nhất của Nhật
Bản. Với nụ cười thường trực trên môi 
Chihira Aico không bao giờ tỏ vẻ chán
nản khi chào đón khách hàng tới cửa
hiệu.”
  “Chú robot Pepper có chiều cao 140
cm và được trang bị các bánh xe với
khung thân hình màu trắng, có một màn
hình gắn trên ngực và có đầu tròn. Mặc
dù phát âm vẫn còn đôi chút rời rạc và
các bước di chuyển chưa thật dứt khoát,
nhưng người máy Pepper có thể nhận
biết giọng nói của con người với 20
ngôn ngữ khác nhau, cũng như phân biệt
được giọng nói của nam giới, nữ giới và
trẻ nhỏ. Robot chịu trách nhiệm tiếp  đón người bệnh là trẻ em và người già nhà tại 2
Bệnh viện lớn là Estend và Liege của nước Bỉ”
 Em hãy tưởng tượng mình được đến nơi làm việc một trong hai người máy đáng yêu
này và viết bài văn miêu tả lại hình ảnh của người máy và không khí nơi làm việc của
họ?
-         Hết –
HƯỚNG DẪN CHẤM
CÂU NỘI DUNG ĐIỂ
M
PHẦN I: ĐỌC HIỂU 6.0
Câu 1:  phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn:  Miêu tả 0.5
Câu 2:  Nội dung chính của đoạn văn trên: 1.0
 Vẻ đẹp của thảo nguyên vào mỗi buổi sớm bình minh và sau những trận mưa
vào thượng tuần tháng 6.
Câu 3: Các biện pháp nghệ thuật đặc sắc: so sánh, nhân hóa. 0.5
- Biện pháp so sánh: 1.25
+ Sương trôi như sóng
+ Những giọt sương lặn non như những hạt đạm ráng đỏ rực.
+ Lúa vụ đông như bức tường thành xanh biếc
+ Những ngọn ngô non như muôn ngàn mũi tên
+ Thảo nguyên như một thiếu phụ đang cho con bú…
CÂU - Biện pháp nhân hóa: 0.75
1 + Đất - ngây ngất dưới ánh nắng
+ Sương - lao ra ngoài đồi núi Thảo Nguyên
+ Thảo nguyên - phơi mình lộng lẫy... xinh đẹp lạ thường, một vẻ đẹp 
lắng dịu, hơi mệt mỏi và rạng rỡ, nụ cười xinh tươi hạnh phúc và trong sáng
của tình mẹ con.
Tác dụng của biện pháp nghệ thuật: phép so sánh và nhân hóa  làm tăng sức 1.0
gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt; làm cho hình ảnh thiên nhiên thảo nguyên
hiện lên cụ thể đẹp đẽ, lung linh, sống động, có tâm hồn sống ảnh và mang
đậm hơi thở ấm áp của con người.
* Chú ý: Học sinh có thể diễn đạt khác nhưng vẫn đảm bảo đủ ý thì vẫn cho
điểm tối đa. 
Câu 4: Học sinh lấy chính xác một ví dụ trong văn thơ ( trong hoặc ngoài 1.0
chương trình) có sử dụng một trong hai biện pháp so sánh nhân hóa. Nếu ví
dụ do học sinh tạo sáng tạo viết ra diễn đạt hay có hình ảnh thì giáo viên có 
thể linh động cho nửa số điểm.
PHẦN II: LÀM VĂN 14.0
CẢM THỤ VĂN HỌC 4.0
A. Yêu cầu về kỹ năng: 0.5
Học sinh sinh viết thành đoạn văn hoàn chỉnh, diễn đạt và trình bày tốt.
B. Yêu cầu kiến thức:
 Đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau trong cần đảm bảo các
ý cơ bản sau:
- Giới thiệu được đoạn thơ trích trong tác phẩm Lượm của nhà thơ Tố Hữu 0.5
- Đoạn thơ miêu tả hình ảnh Lượm lúc hi sinh, hình ảnh vừa hiện thực vừa 0.5
lãng mạn.
CÂU - Sự ra đi nhẹ nhàng  thanh thản. Lượm như một thiên thần đang nằm ngủ. 0.5
1 - “Lúa thơm mùi sữa” quê hương như ôm ấp, ấp ru giấc ngủ dài cho  lượm. 0.75
Linh hồn bé nhỏ và anh dũng đã hóa thân vào quê hương đất nước.
- Câu thơ “Lượm ơi còn không? ” được tách thành một khổ thơ riêng có hình 0.75
thức là một câu hỏi tu từ -> diễn tả nỗi xót đau trước cái chết của Lượm, như
không muốn tin rằng đó là sự thật.
- Đoạn thơ ca ngợi sự hi sinh cao đẹp và trở thành bất tử của  Lượm; bộc lộ 0.5
niềm xót thương sâu sắc của tác giả.

10.0
A. Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: 1.0
-  Hình thức: viết bài văn  miêu tả hoàn chỉnh.
- Lời văn trong sáng, lựa chọn điểm nhìn hợp lý,  thể hiện được khả năng
nhưng năng lực hình dung, tưởng tượng, so sánh trong văn miêu tả thể hiện
sáng tạo, trong cách dùng từ.
B. Yêu cầu kiến thức: 9.0
1. Mở bài: giới thiệu chung về người máy và hoàn cảnh mình được gặp một 1.0
trong hai người máy.
2.  Thân bài: 7.0
-  Lý do em được đến nơi làm việc của một trong hai người máy. 0.5
-  Tả không gian nơi làm việc của người máy: nơi cửa hàng ( nếu viết về cô 1.0
CÂU người máy Chihira Aicô hoặc nơi đón tiếp bệnh nhân Bệnh viện (  nếu viết về
2 robot pepper)
+ Tên cửa hàng bách hóa/ bệnh viện
+ Miêu tả không gian, không khí nơi làm việc.
-  Tả khái quát về người máy: 1.0
Học sinh giới thiệu khái quát về người máy cái theo sự hiểu biết của mình, có
thể theo hướng sau:
+ Người máy robot: là sản phẩm khoa học công nghệ của ngành công nghiệp
tự động hóa.
+ Người máy được mô phỏng có hình dáng giống với con người, có thể hiểu
và nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau, sau làm được nhiều công việc như
con người khi chẳng hạn như bán hàng, đón tiếp bệnh nhân... có người máy
còn được công nhận quyền công dân.
 Tả chi tiết: 2.5
- Hình dáng, hành động, cách người máy giao tiếp với mọi người khi làm
việc:
 cụ thể:
+ Chiều cao, khuôn mặt, tóc, cách ăn mặc,...
+  Hành động, cử chỉ cách giao tiếp
 Nếu tả Chihira Aicô: tự di chuyển,  luôn niềm nở, tươi cười chào khách
hàng…
 Nếu tả Pepper: cử chỉ còn gượng gạo chưa tự nhiên, bước đi chưa dứt khoát
nhưng có thể nhận biết được giọng nói con người, khi tiếp đón bệnh nhân là
trẻ em và người già…. đặc biệt người máy  Chihira Aicô / Pepper luôn hiểu
được và hướng dẫn tận tình khách hàng/ bệnh nhân.
 Cô người máy  Chihira Aico - Nhật Bản trông sống động như thật với làn
da silicon mịn màng. Cô gái robot này hiện đang làm nhân viên lễ tân
Mitsukoshi, cửa hàng bách hóa lâu đời nhất của Nhật Bản. Với nụ cười
thường trực trên môi  Chihira Aico không bao giờ tỏ vẻ chán nản khi chào
đón khách hàng tới cửa hiệu.
 Chú robot Pepper có chiều cao 140 cm và được trang bị các bánh xe với
khung thân hình màu trắng, có một màn hình gắn trên ngực và có đầu tròn.
Mặc dù phát âm vẫn còn đôi chút rời rạc và các bước di chuyển chưa thật dứt
khoát, nhưng người máy Pepper có thể nhận biết giọng nói của con người với
20 ngôn ngữ khác nhau, cũng như phân biệt được giọng nói của nam giới nữ
giới và trẻ nhỏ. Robot chịu trách nhiệm tiếp  đón người bệnh là trẻ em và
người già nhà tại Bệnh viện.
- Sự giao tiếp hoặc tình cảm thái độ của mọi người với người máy 1.0
+ Khách hàng/ Bệnh nhân đều coi người máy Chihira Aico/ Pepper đều được
coi là những nhân viên thực sự
+  Khách hàng/ Bệnh nhân rất tin tưởng, ảnh tự nguyện xếp hàng để được
phục vụ
+  Khách hàng/ Bệnh nhân ai cũng cảm thấy hài lòng và khi ra về họ không
quên gửi lời chào, lời cảm ơn. 
- Cảm xúc sự giao tiếp của em với người máy. 1.0
+ Em rất ngưỡng mộ cô ( chú) người máy Chihira Aico/ Pepper.
+ Cảm xúc của em khi được nói chuyện với người máy lần đầu tiên. (  học
sinh tạo tình huống để giao tiếp với người máy)
+ Em yêu quý và mong muốn được nói chuyện với  người máy Chihira Aico/
pepper và có ước mơ sau này có thể chế tạo được những người máy tuyệt vời
như vậy ở Việt Nam.
3. Kết bài:   Cảm nghĩ về người máy, cái suy nghĩ về sự tiến bộ của khoa học 1.0
kỹ thuật, mong ước của bản thân...
Thang điểm:

Đề 3:
ĐỀ BÀI
PHẦN I: ĐỌC HIỂU (6.0 điểm):
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Lặng rồi cả tiếng con ve
Con ve cũng mệt vì hè nắng oi
Nhà em vẫn tiếng ạ ời
Kẽo cà tiếng võng mẹ ngồi mẹ ru
Lời ru có gió mùa thu
Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
(Mẹ, Trần Quốc Minh, Theo Thơ chọn và lời bình, NXB Giáo dục, 2002)
Câu 1 (0,5 điểm): Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Câu 2 (1,0 điểm): Từ “Bàn tay” trong câu thơ “Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về” được
hiểu theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển?
Câu 3 (2,0 điểm): Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? Nhân vật ấy muốn bày tỏ tình
cảm gì?
Câu 4 (2,5 điểm): Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
PHẦN II. TẠO LẬP VĂN BẢN (14.0 điểm)
Câu 1 (4.0 điểm): Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ, tương đương 20 – 25 dòng) trả lời câu hỏi: Tại sao chúng taphải có
lòng hiếu thảo.
Câu 3 (10.0 điểm): Em hãy là nàng tiên Mùa Xuân để kể về thiên nhiên và con người
mỗi khi Tết đến, xuân về.
---- H
HƯỚNG DẪN CHẤM
I. Hướng dẫn cụ thể:

CÂU NỘI DUNG ĐIỂ


M
PHẦN I. ĐỌC HIỂU 6.0
1.Thể thơ: Lục bát 0.5
2. “Bàn tay” được hiểu theo nghĩa gốc. 1.0
3. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người con đang bày tỏ 2.0
tình cảm biết ơn với người mẹ của mình.
4. Biện pháp tu từ:
CÂU + Ẩn dụ: “giấc tròn”: Cách nói ẩn dụ “giấc tròn” không phải chỉ là giấc ngủ 1.0
1 của con mà mang ý nghĩa cuộc đời con luôn có mẹ theo sát bên nâng bước
con đi, che chở cho con, dành tất cả tình yêu thương.
+ So sánh: “Mẹ là ngọn gió”: Đây là một hình ảnh so sánh đặc sắc về mẹ: 1.5
“Mẹ là ngọn gió” – ngọn gió mát lành làm dịu êm những vất vả trên đường,
ngọn gió bền bỉ theo con suốt cuộc đời.
Hình ảnh thơ giản dị nhưng giúp ta thấy được tình thương yêu lớn lao, sự hi
sinh thầm lặng, bền bỉ suốt cuộc đời mẹ đối với con.
PHẦN 2. TẠO LẬP VĂN BẢN 14.0
Nghị luận về lòng hiếu thảo 4.0
a.Đảm bảo cấu trúc của một đoạn văn: Mở đoạn giới thiệu vấn đề; Thân 0.5
đoạn làm rõ vấn đề, triển khai được các ý rõ ràng; Kết đoạn khái quát được
nội dung.
b. Xác định đúng vấn đề: Con người cần có lòng hiếu thảo với ông bà, cha 0.5
mẹ.
c. HS triển khai vấn đề cụ thể, rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác viết đoạn 1.0
văn. Có thể trình bày theo định hướng sau:
CÂU - Hiếu thảo là hành động đối xử tốt với ông bà, cha mẹ, luôn yêu thương họ.
1 - Lòng hiếu thảo là phụng dưỡng ông bà, cha mẹ khi ốm yếu, già cả.
* Vì sao chúng ta cần phải có lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ? 2.0
- Ông bà, cha mẹ là người đã sinh ra ta, đã mang lại cuộc sống cho chúng ta.
- Họ là những người đã nuôi nâng, chăm sóc và dạy bảo chúng ta nên người.
- Sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ là thể hiện sống có trách nhiệm của mỗi
người.
- Người có lòng hiếu thảo sẽ được mọi người yêu mến và quý trọng. Giá trị
của bạn sẽ được nâng cao nếu sống có hiếu thảo.
- Lòng hiếu thảo gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, thể hiện tình
yêu thương gia đình.
- Phê phán những người sống bất hiếu, vô lễ, đối xử tàn nhẫn, bỏ rơi ông bà,
cha mẹ.
Em hãy là nàng tiên Mùa Xuân để kể về thiên nhiên và con người mỗi 10.0
khi Tết đến, xuân về.
1, Yêu cầu chung: 1.0
- Bài làm phải được tổ chức thành bài làm văn hoàn chỉnh.
- Biết vận dụng kĩ năng tự sự kết hợp với các yếu tố miêu tả, biểu cảm.
- Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trôi chảy; hạn chế lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
2, Yêu cầu cụ thể:
Học sinh có thể làm theo nhiều cách nhưng phải đảm bảo
những nội dung cơ bản sau:
* Mở bài: 1.0
- Giới thiệu chung về nhân vật và sự việc (hóa thân thành nàng tiên Mùa xuân
CÂU để kể về thiên nhiên và con người dịp Tết đến, xuân về).
2 * Thân bài: 7.0
- Mùa xuân mang lại vẻ đẹp, khơi dậy sức sống cho thiên nhiên, đất trời: 3.0
+ Mùa xuân đến, tiết trời ấm áp hơn, bầu trời trong sáng hơn, mặc dù, thỉnh 1.5
thoảng, trong mưa xuân vẫn có cả cái lành lạnh của mùa đông mang lại.
+ Cảm nhận được sự sống đang sinh sôi, nảy nở của hạt mầm, nhìn thấy sự 1.5
vươn dậy của lộc non, chồi biếc, nhìn thấy sắc màu rực rỡ của những cành
đào, những bông hoa ngày Tết và cảm nhận được cái ngào ngạt của hương
xuân.
- Mùa xuân mang lại niềm vui cho con người: 4.0
+ Cảm thấy rất vui mỗi dịp Tết đến vì được tận mắt chứng kiến biết bao niềm 1.5
vui, niềm hạnh phúc của con người: gia đình đoàn tụ, sum họp sau một năm
tất bật, rộn ràng với công việc làm ăn, với cuộc sống.
+ Cảm thấy vui hơn khi biết rằng mình đã khơi dậy sức sống trong lòng 1.5
người, làm cho con người thêm yêu cảnh vật, làm cho tâm hồn con người
trong sáng hơn, ấm áp hơn.
+ Mùa xuân còn biết gieo vào lòng người mơ ước về một tương lai tươi sáng, 1.0
một ngày mai tốt đẹp.
* Kết bài: 1.0
- Tình cảm của Mùa xuân với thiên nhiên và con người

**********************************************************************
Đề 6:
ĐỀ BÀI

 I. Đọc- hiểu ( 6,0 điểm): Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:
“ Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng
mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao
nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác
tận đâu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày, họ cãi cọ om bốn góc
đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép, có những anh Cò gầy vêu vao ngày ngày bì bõm
lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ quá, những kẻ yếu
đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều tỏa
xuống ánh nước cửa hang mà suy nghĩ việc đời như thế.”
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)
Câu 1. ( 1.0 điểm): Phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là gì?
Câu 2. ( 1.0 điểm): Xác định các từ láy trong đoạn văn?
Câu 3. ( 2.0 điểm):Xác định các thành phần câu trong câu văn sau:
“Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng
mênh mông.”
Câu 4. ( 2.0 điểm): Phép tu từ nhân hóa trong đoạn văn trên được tạo ra bằng cách
nào? Tác dụng của phép tu từ ấy?
II.Tạo lập văn bản. (14 điểm)
Câu 1. ( 4.0 điểm): Viết đoạn văn miêu tả về cảnh vật nơi em ở sau cơn mưa mùa hạ.
( Đoạn văn dài khoảng 15 đến 20 dòng)
Câu 2. ( 10 điểm): Sau một đêm mưa to, gió lớn. Sáng hôm sau người ta thấy ở tổ chim
chót vót trên cành cây cao, chim mẹ giũ lông, giũ cánh cho mau khô rồi khẽ nhích ra
ngoài. Tia nắng ấm vừa vặn rơi xuống đúng chỗ chim non đang ngái ngủ, lông cánh
vẫn còn khô nguyên.
Em hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đã xảy ra với hai mẹ con nhà chim
trong đêm mưa gió ấy.
HƯỚNG DẪN CHẤM

Phầ điể
Nội dung kiến thức cần đạt
n m
Câu 1. Văn bản đã cho được viết theo phương thức biểu đạt tự sự kết hợp 1,0
vớimiêu tả.

Câu 2. Các từ láy là: mênh mông, tấp nập, xơ xác, cãi cọ, vêu vao, bì bõm. 1,0
2,0 
Câu 3. Xác định thành phần câu (xác định đúng mỗi thành phần cho 0,5 đ):
Mấy hôm nọ,trờimưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt,
Đọc TN CN VN TN
hiểu nướcdâng trắng mênh mông.
CN VN
(6.0đ
) Câu 4. - Phép tu từ được tạo ra bằng cách: 2.0
+ Dùng từ ngữ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hành động, tính
chất của vật: (cua cá) tấp nập; (cò,sếu, vạc, cốc…) cãi cọ om sòm. Tôi (Dế
Mèn) suy nghĩ việc đời…
+ Dùng từ vốn để gọi người để gọi vật: họ (cò, sếu, vạc, cốc…); anh (Cò); tôi
(Dế Mèn).
- Tác dụng: Làm cho thế giới loài vật trở nên gần gũi, biểu thị được những tình
cảm suy nghĩ của con người, như con người.
Tạo Câu 1.
lập 1. Yêu cầu về kĩ năng: học sinh trình bày đúng thể thức đoạn văn miêu tả có 1.0
vb thể kết hợp biểu cảm, tự sự, diễn đạt trôi chảy, không sai chỉnh tả …. đảm bảo
(10 độ dài khoảng 15 đến 20 dòng.
đ) 2. Yêu cầu cơ bản về kiến thức: HS viết đoạn văn miêu tả về cảnh vật nơi em ở
sau cơn mưa mùa hạ. 3.0
- HS biết lựa chọn các hình ảnh phù hợp với thời điểm sau cơn mưa mùa hạ
+ Thiên nhiên: Nước chảy tràn các bờ ruộng, tràn qua cả đường đi, nước cuốn
vào các cống nghe òng ọc. Bầu trời cao rộng, quang đãng, trong xanh, vài đám
mây, mặt trời hé nắng. Từng đàn chim chao liệng, bày mối cánh, bướm vàng,
bướm xanh bay lượn, gà mẹ dắt gà con đi kiếm mồi. Cây cối tỉnh táo, khoan
khoái rung rinh trong gió, trên tán lá vẫn đọng những giọt nước long lanh ….
+ Hoạt động của con người: Mấy cậu bé đuổi trâu ra đồng, các bác nông dân
tiếp tục công việc đang dang dở, người đi úp nơm, người đi câu cá, trên
đường xe cộ đi lại đông đúc …
a - Hình thức: HS viết thành một bài tập làm văn kể chuyện tưởng tượng hoàn
chỉnh. 1.0
- Ngôi kể: Ngôi 3.
b - Nội dung:Kể được những sự việc xảy ra với hai mẹ con nhà chim trong
đêm mưa gió.
* Mở bài- Dẫn dắt: Giới thiệu về tổ chim nhỏ chót vót trên cành cây cao và 1.5
hai mẹ con nhà chim...
- Giới thiệu câu chuyện sẽ kể: Sau một đêm mưa như trút nước, sáng ra thấy
chim con lông cánhvẫn khô nguyên, trong khi chim mẹ dáng vẻ mệt mỏi, lông
cánh ướt sũng...
Câu * Thân bài: HS kể diễn biến câu chuyện dựa trên các gợi ý như sau:
2 - Cảnh trời mưa: Miêu tả trời mưa to bất ngờ qua các hình ảnh như bầu trời, 1.0
(10đ sấm chớp...
) - Sự mỏng manh của tổ chim trước cơn mưa gió... nỗi lo của chim mẹ ... sự sợ 2.0
hãi của chim con...
- Những nguy hiểm xảy ra trong đêm mưa gió, sự vất vả, can đảm, vững vàng 2.0
của chim mẹ khi phải gắng sức để bảo vệ tổ, bảo vệ chim con...
- Sau đêm mưa gió, nguy hiểm đã qua đi, chim con vẫn ngủ ngon lành và 1.0
không bị ướt; chim mẹ mệt mỏi nhưng lòng ngập tràn hạnh phúc...

*Kết bài - Bày tỏ những suy nghĩ của em về sự can đảm, vững vàng cũng như 1.5
đức hy sinh cao cả của chim mẹ ...
- Ý nghĩa câu chuyện: Khẳng định vẻ đẹp của tình mẫu tử qua câu chuyện của
hai mẹ con nhà chim ...

***********************************************************

Đề 13:
ĐỀ BÀI

Câu 1 (4,0 điểm)


Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày suy nghĩ của em về nhân vật người anh
(Truyện Bức tranh của em gái tôi – Tạ Duy Anh, Ngữ văn Lớp 6, Tập II) qua đoạn văn
sau:
“Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá. Bởi vì nếu nói được với mẹ, tôi sẽ nói
rằng: Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”.
Câu 2 (6,0 điểm)
Cho đoạn thơ sau:
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
(Mẹ – Trần Quốc Minh)
a. Chỉ ra các phép so sánh trong đoạn thơ trên. Cho biết chúng thuộc những loại so sánh
nào?
b. Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tác dụng gợi hình, gợi cảm của
những phép so sánh ấy.
Câu 3 (10,0 điểm)
Chiếc bình nứt
Một người có hai chiếc bình lớn để chuyển nước. Một chiếc bình bị nứt nên khi gánh
từ giếng về, nước trong bình chỉ còn một nửa. Chiếc bình lành rất tự hào về sự hoàn
hảo của mình, còn chiếc bình nứt luôn thấy dằn vặt, cắn rứt vì không hoàn thành nhiệm
vụ.
Một ngày nọ, chiếc bình nứt nói với người chủ:…
Em hãy tưởng tượng và viết tiếp câu chuyện trên.

......................Hết.....................
HƯỚNG DẪN CHẤM THI
Câu Nội dung Điểm
Câu Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày suy nghĩ của em về nhân vật
1 người anh (Truyện Bức tranh của em gái tôi – Tạ Duy Anh, Ngữ văn
(4,0 Lớp 6, Tập II) qua đoạn văn.
đ) * Về hình thức: Viết đúng yêu cầu 1 đoạn văn. 1,0
* Về nội dung: Bài viết đảm bảo các ý sau: 0,5
- Người anh không trả lời mẹ vì quá ngạc nhiên và bất ngờ trước vẻ đẹp của
bức tranh và tài năng của em gái mình.
- Người anh muốn khóc vì quá xúc động và xấu hổ với sự đố kỵ, cố tình xa 0,5
lánh của mình đối với em gái trước đây.
0,5
- Người anh cảm thấy đó không phải là bức tranh vẽ mình vì hình ảnh trong
bức tranh quá đẹp, trong sáng và ngoài sức tưởng tượng của người anh. 0,5
- Người anh hiểu rằng chính lòng nhân hậu của em gái là cơ sở để tạo nên tài
năng.
1,0
- Câu nói thầm của người anh thể hiện sự hối hận chân thành, ăn năn, bị
thuyết phục, tự nhận thức về bản thân cũng như về em gái của mình.
Câu a. Chỉ ra các phép so sánh trong đoạn thơ trên. Cho biết chúng thuộc 3,0
những loại so sánh nào?
2
– Chỉ đúng các phép so sánh
(6,0 + Những ngôi sao thức ngoài kia 2,0
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
đ)
+ Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
– Xác định đúng kiểu so sánh
+ Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con:
là kiểu so sánh hơn kém
+ Mẹ là ngọn gió của con suốt đời:
1,0
là kiểu so sánh ngang bằng
b. Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tác dụng gợi hình, 3,0
gợi cảm của những phép so sánh ấy.
– Yêu cầu học sinh viết đúng một đoạn văn cảm nhận với nội dung cơ bản
sau:
+ Phép so sánh hơn kém “Những ngôi sao thức ngoài kia”/ Chẳng bằng mẹ 1,0
đã thức vì chúng con” nhấn mạnh thời gian thức vì con nhiều hơn thời gian ”
thức” của ngôi sao, của thiên nhiên.
+ Phép so sánh ngang bằng “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời” khẳng định 1,0

tình mẹ, vai trò quan trọng của mẹ với cuộc đời của con.
1,0
+ Lòng biết ơn mẹ sâu sắc của con.
Câu A. Yêu cầu về kĩ năng: 1,0
3 Học sinh biết cách làm bài văn kể chuyện sáng tạo. Bố cục rõ ràng, mạch lạc.
(10,0 Lựa chọn ngôi kể phù hợp, kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm trong bài.
đ) B. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có nhiều cách xây dựng cốt truyện sáng tạo, các sự việc logic, lời
thoại hợp lí, đan xen yếu tố miêu tả, biểu cảm, câu chuyện kể thể hiện một ý
nghĩa, một bài học nào đó trong cuộc sống.
1. Mở bài: 1,0
Chiếc bình nứt
Một người có hai chiếc bình lớn để chuyển nước. Một chiếc bình bị nứt nên
khi gánh từ giếng về, nước trong bình chỉ còn một nửa. Chiếc bình lành rất
tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc bình nứt luôn thấy dằn vặt, cắn
rứt vì không hoàn thành nhiệm vụ.
2. Thân bài: 7,0
Một ngày nọ, chiếc bình nứt nói với người chủ: ……
* Cách 1:
- Bình nứt tâm sự chân thành với ông chủ về khuyết điểm của mình, tự trách 1,0
mình vì trong suốt thời gian qua không giúp ích được gì cho ông chủ. Tâm
trạng buồn bã, thất vọng về bản thân.
- Rất may mắn nó gặp được ông chủ tốt bụng, biết cảm thông chia sẻ, biết cổ 1,0
vũ động viên khích lệ để bình nứt cố gắng.
- Ông chủ động viên khích lệ bằng cách: Mở một cuộc thi tài giữa chiếc bình 1,0
nứt và chiếc bình lành.
- Diễn biến cuộc thi. 2,0
- Kết quả cuộc thi: Bình nứt luôn cần mẫn, nỗ lực cố gắng vươn lên và chiến 2,0
thắng, bình lành quá tự tin về bản thân nên chủ quan kiêu ngạo và thất bại.

* Cách 2:
- Bình nứt tâm sự chân thành với ông chủ về khuyết điểm của mình, tự trách 1,5
mình vì trong suốt thời gian qua không giúp ích được gì cho ông chủ.
- Ông chủ tốt bụng, có mắt tinh tế và óc sáng tạo lãng mạn đã biết cách
chuyển điều hạn chế của bình nứt thành thế mạnh bằng cách gieo hạt giống 1,5
hoa bên phía con đường chiếc bình nứt hàng ngày vẫn qua (Hoặc ông chủ
trồng hoa trên chính chiếc bình nứt).
- Ngày qua ngày, tháng qua tháng …..những cây hoa mọc lên, đón nắng mai,
khí trời rồi kết nụ, nở hoa làm đẹp cho con đường, làm đẹp cho ngôi nhà -> 2,0
bình nứt yêu đời, tự tin, luôn nỗ lực vươn lên, nhận ra vẻ đẹp, ý nghĩa của
cuộc sống.
- Còn chiếc bình lành luôn tự tin về bản thân, coi mình hoàn hảo, không nỗ
lực vươn lên, không cẩn trọng. Một ngày kia gặp tình huống không may bị 2,0
nứt, mẻ, xấu xí. Sống buông xuôi, bất lực, thu mình.
3. Kết bài: 1,0
Mỗi người trong chúng ta đều có những hạn chế riêng, luôn nỗ lực vươn lên
để hoàn thiện bản thân làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

*********************************************************************
Đề 14:
ĐỀ BÀI

Câu 1 (4.0 điểm)


Đọc kĩ đoạn văn sau rồi thực hiện những yêu cầu bên dưới:
“Dưới gốc tre, tua tủa những mầm măng. Măng trồi lên nhọn hoắt như một mũi
gai khổng lồ xuyên qua đất lũy mà trỗi dậy, bẹ măng bọc kín thân cây non ủ kỹ như áo
mẹ trùm lần trong lần ngoài cho đứa con non nớt. Ai dám bảo thảo mộc tự nhiên không
có tình mẫu tử ?”.
( Ngô Văn Phú)
a) Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên.
b) Trình bày giá trị diễn đạt của của những biện pháp tu từ đó.
Câu 2 ( 6.0 điểm)
Trong văn bản “ Buổi học cuối cùng” của An- phông -xơ Đô - đê ( SGK Ngữ
văn 6- T2), trước khi chia tay các em học sinh thân yêu của mình, thầy Ha- men đã nói:
“... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình
thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù...”.
Hãy trình bày cảm nhận của em về lời nói trên bằng một đoạn văn ngắn.

Câu 3 ( 10.0 điểm)


Trong thiên nhiên, có những sự biến đổi thật kì diệu: mùa đông, lá bàng chuyển
sang màu đỏ rồi rụng hết; sang xuân, chi chít những mầm non nhú lên, tràn trề nhựa
sống.
Em hãy tưởng tượng và viết thành một câu chuyện có các nhân vật: Cây
Bàng,Đất Mẹ, Lão già Mùa Đông, Nàng tiên Mùa Xuân để gợi tả điều kì diệu ấy của
thiên nhiên.

------------------ Hết -------------------------


HƯỚNG DẪN CHẤM THI

CÂU NỘI DUNG ĐIỂ


M
Câu a)Yêu cầu chỉ ra được các biện pháp nghệ thuật: 2.0
1 - So sánh: (măng trồi lên như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất lũy; ủ kĩ 1.0
( 4.0 như áo mẹ trùm lần trong lần ngoài cho đứa con non nớt)
đ) - Nhân hóa ( áo mẹ trùm lần trong lần ngoài cho đứa con non nớt) 1.0
b)Trình bày được giá trị diễn đạt của các biện pháp nghệ thuật như sau: 2.0
- Khơi gợi được hình ảnh mầm măng mạnh mẽ, đầy sức sống … 0.75
- Làm cho hình ảnh mầm măng hiện lên sống động, có hồn…. 0.75
- Thể hiện rõ tình cảm của người miêu tả: Không chỉ quan sát mầm măng 0.5
bằng thị giác mà còn cảm nhận nó bằng sự rung động của một tâm hồn đồng
cảm….
* Lưu ý:
- Thí sinh có thể trình bày giá trị diễn đạt của từng biện pháp tu từ hoặc có
thể trình bày chung. Giám khảo linh hoạt cho mức điểm phù hợp.
- Khuyến khích những bài làm thí sinh chỉ ra được những đặc sắc nghệ thuật
khác như: sử dụng từ ngữ giàu giá trị gợi tả, sử dụng câu hỏi tu từ, đảo ngữ…
Câu * Yêu cầu về kĩ năng: 0.5
2 - Thí sinh phải biết xây dựng thành một đoạn văn, diễn đạt mạch lạc, trôi
( 6.0 chảy, ít mắc lỗi về dùng từ, đặt câu…
đ) - Nếu học sinh không viết thành một đoạn văn thì giám khảo không cho
điểm.
* Yêu cầu về kiến thức: 5.5
Thí sinh có thể có những cách diễn đạt khác nhau nhưng cần đảm bảo được
các ý sau:
- Đây chính là điều tâm niêm của thầy Ha- men về giá trị và sức mạnh của 1.5
tiếng nói dân tộc (tiếng nói không chỉ là tài sản quý báu mà còn là phương
tiện quan trọng để đấu tranh giành độc lập, tự do, là linh hồn của dân tộc ).
- Khẳng định một chân lí: Giữ được tiếng nói là giữ được độc lập, tự do còn
mất tiếng nói dân tộc là mất độc lập, tự do. 2.0
- Thể hiện rõ tình cảm của thầy Ha- men đối với tiếng nói dân tộc: giữ gìn,
nâng niu, tự hào… 1.0
- Khơi dậy tình cảm của mọi người đối với tiếng nói dân tộc mình. Liên hệ
với bản thân tình yêu tiếng nói dân tộc, tình yêu tổ quốc, quê hương mình …. 1.0
Câu * Yêu cầu chung: 1.0
3 - Thí sinh cần viết đúng thể loại văn tự sự - kể chuyện tưởng tượng, có bố
(10.0 cục rõ ràng, lời văn trong sáng, mạch lạc; ít mắc lỗi chính tả, lỗi diễn đạt;
đ) cách kể chuyện tự nhiên, lời thoại hợp lí…
- Thí sinh phải kể được câu chuyện tưởng tượng về sự biến đổi kì diệu của
thiên nhiên với sự xuất hiện của các nhân vật: Cây Bàng, Đất Mẹ, Lão già
Mùa Đông, Nàng tiên Mùa Xuân .
* Yêu cầu cụ thể:
1. Mở bài: 0.5
Giới thiệu chung về câu chuyện mình định kể.
+ Giới thiệu hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
+ Ấn tượng chung về câu chuyện đó.
2. Thân bài: 8.0
Kể lại diễn biến của câu chuyện:
- Lão già Mùa Đông: già nua, xấu xí, cáu kỉnh, xuất hiện mang theo cái rét 2.0
như cắt da, cắt thịt. Hoạt động của lão: len lách vào từng đường thôn ngõ
xóm, lão leo lên tất cả cây cối trong vườn…Lão đi đến đâu, tàn sát không
thương tiếc đến đó, khiến mọi vật đều vô cùng run sợ...
- Hình ảnh Cây Bàng về mùa đông: bị lão già Mùa Đông đến hành hạ, lão bẻ 1.5
từng chiếc lá khiến cành cây trơ trụi, gầy guộc, run rẩy, cầu cứu Đất Mẹ...
- Đất Mẹ: hiền hậu nhân từ, điềm đạm, dịu dàng động viên Cây Bàng dũng
cảm chờ đợi Nàng tiên Mùa Xuân đến và dồn chất cho cây... 1.5
- Nàng tiên Mùa Xuân xuất hiện: trẻ trung, tươi đẹp, dịu dàng, mang theo
những tia nắng ấm áp xua đi cái lạnh giá của mùa đông. Mọi vật đều vui 2.0
mừng phấn khởi khi Nàng tiên Mùa Xuân đến. Cây cối như được hồi sinh,
trăm hoa khoe sắc….Cây Bàng đâm chồi nảy lộc….Tất cả như được tiếp thêm
sức mạnh, tràn trề nhựa sống…. 1.0
- Cây Bàng cảm ơn Đất Mẹ, cảm ơn Nàng tiên Mùa Xuân…
Kết bài: 0.5
- Suy nghĩ về câu chuyện vừa kể.
- Bài học từ câu chuyện (Cần có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Biết
quan tâm giúp đỡ lẫn nhau đặc biệt khi khó khăn hoạn nạn).

*************************************************
Đề 22:
ĐỀ BÀI
I. Phần Đọc hiểu (6,0 điểm):
Hãy đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ 1-5:
“Sang năm con lên bảy
Cha đưa con đến trường
Giờ con đang lon ton
Khắp sân vườn chạy nhảy
Chỉ mình con nghe thấy
Tiếng muôn loài với con.

Mai rồi con lớn khôn


Chim không còn biết nói
Gió chỉ còn biết thổi
Cây chỉ còn là cây
Đại bàng chẳng về đây
Đậu trên cành khế nữa
Chuyện ngày xưa, ngày xửa
Chỉ là chuyện ngày xưa.

Đi qua thời ấu thơ


Bao điều bay đi mất
Chỉ còn trong đời thật
Tiếng người nói với con
Hạnh phúc khó khăn hơn
Mọi điều con đã thấy
Nhưng là con giành lấy
Từ hai bàn tay con.”
( “Sang năm con lên bảy” - Vũ Đình Minh )

1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Nêu nội dung chính bài thơ. (1,0 điểm)
2. Theo em, phương thức biểu đạt chính tác giả sử dụng trong bài thơ trên là gì? Lí giải
ý kiến của mình? (0,5 điểm)
3. Giải nghĩa từ “đi” trong câu thơ “Đi qua thời ấu thơ”. Từ “đi” thuộc loại từ nào? (0,5
điểm)
4.Qua đoạn thơ người cha muốn nói với con điều gì khi con lớn lên và từ giã thời thơ
ấu? (1,0 điểm)
5.Cảm nhận sâu sắc của em về bài thơ trên (3,0 điểm)
II. Phần Làm văn (14 điểm):
Câu 1 (4,0 điểm):
Từ nội dung của bài thơ trên, hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về bổn
phận, trách nhiệm của con cái với cha mẹ.

Câu 2 (10 điểm):


Cho bài thơ sau:
Em có nghe tiếng xuân về gõ cửa
Mang nồng nàn theo gió đón mùa sang
Tiếng bầy chim đang ríu rít gọi đàn
Từng nhành lá mướt non màu áo mới
 
Em có nghe xuân về vui phơi phới
Bao nụ cười tươi mới rạng trên môi
Khắp không gian rộn rã như gọi mời
Phố náo nức dòng người như trẩy hội
( Nguyễn Hưng, Tiếng xuân về )
Dựa vào ý bài thơ trên, kết hợp với trí tưởng tượng của mình, em hãy viết thành
một bài văn miêu tả: Buổi sáng mùa xuân.
………… HẾT………
ĐÁP ÁN

Ph Nội dung cần đạt Điể


ần m
I ĐỌC - HIỂU 6,0
1 - Thể thơ: năm chữ (ngũ ngôn) 0,5
- Nội dung: Bài thơ là lời người cha muốn nhắn nhủ với con của mình. Khi con 0,5
lên bảy tuổi, con sẽ đi học, những truyện cổ tích và thế giới trẻ thơ sẽ nhường
bước cho một thế giới mới, nhiều khó khăn nhưng cũng đầy thú vị mà tự con sẽ
khám phá.
2 - Phương thức biểu đạt chính tác giả sử dụng trong bài thơ trên là biểu cảm 0,25
- Vì bài thơ thể hiện rõ tình cảm của người cha với con.
0,25
3 - Nghĩa của từ “đi”: quãng thời gian trong thời ấu thơ của người con. 0,25
- Từ “đi”trong câu thơ “Đi qua thời ấu thơ” được hiểu theo nghĩa chuyển.=> 0,25
Từ “đi” là từ nhiều nghĩa.
4 Khi lớn lên và từ giã thời ấu thơ, con sẽ bước vào cuộc đời thực có nhiều thử 1,0
thách gian nan nhưng cũng rất đáng tự hào. Con phải giành lấy hạnh phúc bằng
lao động, công sức và trí tuệ (bàn tay khối óc) của chính bản thân mình.
5 Học sinh bày tỏ cảm nhận sâu sắc của mình về bài thơ. 3,0
Hình thức: đoạn văn.
Nội dung: cần hướng tới bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về sự quan tâm, chăm lo của
người cha dành cho con khi con bắt đầu đi học.Khi lớn lên và từ giã thời ấu
thơ, con sẽ bước vào cuộc đời thực có nhiều thử thách gian nan nhưng cũng rất
đáng tự hào. Để có được hạnh phúc con phải vất vả khó khăn vì phải giành lấy
hạnh phúc bằng lao động, công sức và trí tuệ (bàn tay khối óc) của chính bản
thân mình. Nhưng hạnh phúc của con giành được trong cuộc đời thực sẽ thật sự
là của con (do chính công sức lao động và khối óc của con làm ra) sẽ đem đến
cho con niềm tự hào kiêu hãnh.
II LÀM VĂN 14,0
Câ Từ nội dung của bài thơ trên, hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ 4,0
u 1 của em về bổn phận, trách nhiệm của con cái với cha mẹ.
I.Yêu cầu về kĩ năng: Thí sinh biết viết đoạn văn; kết cấu chặt chẽ, diễn đạt
trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp.
II. Yêu cầu về kiến thức: Bài viết cần đảm bảo được những kiến thức cơ bản
sau:
- Khẳng định công lao to lớn của cha mẹ trong việc sinh thành, nuôi dưỡng con 1,0
cái.
- Con cái cần làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ ngay từ khi còn 2,0
nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Khi còn nhỏ, bổn phận của con cái là phải biết
vâng lời cha mẹ, chăm chỉ học tập rèn luyện để cha mẹ được vui lòng. Khi con
cái dần trưởng thành cũng là lúc cha mẹ ngày càng già yếu đi, đây chính là lúc
những người làm con cần làm làm tròn chữ hiếu của mình, đó là phải phụng 1,0
dưỡng, chăm sóc chu đáo cho cha mẹ của mình, có như vậy mới làm tròn chữ
hiếu của đạo làm con.
- Phê phán những người con không làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha
mẹ. 
Câ Dựa vào ý bài thơ trên, kết hợp với trí tưởng tượng của mình, em 10,0
u 2 hãy viết thành một bài văn miêu tả: Buổi sáng mùa xuân.
Yêu cầu kĩ năng: HS có kĩ năng viết bài miêu tả sáng tạo
- Biết xác định đúng vấn đề miêu tả : buổi sáng mùa xuân 1,0
- Có bố cục 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài mạch lạc, văn phong trong sáng,
từ ngữ được dùng gợi hình, gợi âm thanh và có sức biểu cảm.
Yêu cầu kiến thức:Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau song phải
biết dựa vào phần gợi dẫn của đề . Sau đây là định hướng các ý cơ bản:
1. Mở bài:
Giới thiệu chung về cảm nhận của bản thân về buổi sáng mùa xuân trên quê 1,0
hương.
2.Thân bài:
(Dựa vào ý bài thơ và tên bài thơ để tập trung miêu tả cảnh buổi sáng mùa
xuân trên quê hương.).
* Cảnh vật mùa xuân 2,0
- Bầu trời trong xanh: cao hơn, rộng hơn sau những ngày động âm u, lạnh giá.
- Những đám mây xanh vắt bay lượn trên bầu trời.
- Không khí: ấm áp
- Mưa xuân: lất phất, dịu dàng/ (Hoặc: Nắng xuân: ấm áp chiếu xuống vạn vất
như muốn đánh thức tất cả...)
- Gió xuân: nhẹ nhẹ, mơn man,...
* Tả bao quát mùa xuân
- Nhìn đâu đâu cũng thấy phấn khỏi và tươi vui 1,0
- Con đường trải dài sắc xuân
- Không gian như chìm đắm trong hương xuân
* Tả chi tiết mùa xuân
- Con người ai cũng vui vẻ, phấn khởi, tràn đầy ước mơ, hi vọng,... 3,0
- Ai ai cũng ra đường với tâm trạng mừng vui
- Cây cối đua nhau nở rộng
- Chim choc ríu tít kêu
- Khắp nơi đều rộn rang sắc xuân
- Những cô cậu nhỏ háo hứng được mặc đồ mới
- Những người lao động sẽ có một kì nghĩ dài
3. Kết bài
- Nhận xét và cảm nghĩ về bức tranh buổi sáng mùa xuân trên quê hương. 1,0
c. Sáng tạo: Có quan điểm riêng, suy nghĩ mới mẻ, phù hợp với yêu cầu của 0,5
đề, với chuẩn mực đạo đức, văn hóa, pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp: đảm bảo các qui tắc về chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ 0,5
nghĩa, tiếng việt.

***********************************************************

Đề 44:
ĐỀ BÀI
Câu 1: (3 điểm)
Trong bài thơ “Lượm” (Ngữ văn 6, tập II) Tố Hữu đã viết:
…Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng …
Lượm ơi, còn không?
Hãy viết đoạn văn từ 8-10 câu trình bày cảm nhận của em về sự hy sinh của Lượm.
Câu 2: (5 điểm)
Suy nghĩ của em về nội dung mẩu chuyện sau:
“Gia đình nọ rất quý mến ông lão mù nghèo khổ và rách rưới - người hàng tuần vẫn
mang rau đến bán cho họ. Một hôm, ông lão khoe: “ Không biết ai đã để trước cửa
nhà của tôi một thùng quần áo cũ”. Gia đình biết ông lão cũng thiếu thốn nên rất
vui: “Chúc mừng ông! Thật là tuyệt!” Ông lão mù nói: “Tuyệt thật! Nhưng tuyệt nhất
là vừa đúng lúc tôi biết có một gia đình thực sự cần quần áo đó hơn tôi”
(Phỏng theo Những tấm lòng cao cả)
Câu 3: (12 điểm)
Trong mơ em lạc vào thế giới cổ tích kỳ diệu. Ở đó em gặp chàng dũng sỹ Thạch
Sanh và chàng đã tặng cho em cây đàn thần. Với cây đàn thần em đã làm được nhiều
việc có ích cho cuộc sống. Tưởng tượng và viết lại câu chuyện cổ tích của riêng mình

--------------------------------------Hết-----------------------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu Nội dung Điể
m
1 Học sinh viết đoạn văn nêu được các ý sau: 3.0đ
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu khái quát nội dung đoạn thơ 0.5
- Tác giả sử dụng các động từ, tính từ gợi tả để khắc họa đậm nét tư thế hy 0.5
sinh của Lượm vừa hiện thực, vừa lãng mạn
- Lượm ngã xuống trên đồng lúa quê hương, tay nắm chặt bông lúa như 0.5
muốn níu lấy quê hương, níu lấy tuổi trẻ và sự sống của mình.
- Đất quê hương, “lúa thơm mùi sữa” của quê hương như ôm ấp, ru giấc ngủ 0.5
dài cho Lượm. Linh hồn bé nhỏ và anh hùng ấy đã hóa thân vào quê hương,
đất nước
- Câu thơ “Lượm ơi, còn không?” được tách thành một khổ thơ riêng như 0.5
một câu hỏi vừa đau xót, vừa ngỡ ngàng như không muốn tin rằng Lượm đã
không còn nữa. Vừa có tác dụng nhấn mạnh, hướng người đọc suy nghĩ về
sự còn hay mất của Lượm.
- Khẳng định Sự hi sinh của chú bé liên lạc đã trở thành bất tử trong lòng tác 0.5
giả và mỗi chúng ta.
HS viết đoạn văn hoặc bài văn suy nghĩ về nội dung mẩu chuyện 5.0đ
Kĩ năng- Trình bày suy nghĩ thành một đoạn văn hoặc bài văn ngắn.
- Diễn đạt lưu loát. 1.0
2, Nội dung
Bài viết có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng đại thể nêu được
các ý sau:
- Đây là câu chuyện cảm động về tình yêu thương, sự quan tâm chia sẻ đối 1.0
với những người bất hạnh, nghèo khổ. Câu chuyện thể hiện tình thương của
gia đình nọ với ông lão mù, nghèo khổ và đặc biệt là tình thương của ông
lão với những người khác bất hạnh hơn mình. Đối với ông lão, những bộ
quần áo cũ là món quà mà ai đó đã trao tặng cho mình nhưng món quà ấy
còn quý giá hơn khi mà ông trao nó cho người khác - những người thực sự
cần nó hơn ông. Trong con người nghèo khổ, mù lòa ấy là cả một tấm lòng
nhân ái, một tâm hồn trong sáng, cao đẹp. Đối với ông lão, được giúp đỡ
2 người khác như một bất ngờ thú vị của cuộc sống, là niềm vui, niềm hạnh
phúc;
+ Ngay cả khi phải sống cuộc sống nghèo khổ hay chịu sự bất hạnh thì con 1.0
người vẫn cần sự quan tâm đến người khác, nhất là những người nghèo khổ,
bất hạnh hơn mình.
+ Tình thương yêu giữa con người với con người là không phân biệt giàu 0.5
nghèo giai cấp…
Nêu bài học sâu sắc về tình thương:
+ Được yêu thương, giúp đỡ người khác là niềm vui, nguồn hạnh phúc, ý
nghĩa của sự sống và cách nâng tâm hồn mình lên cao đẹp hơn. 0.5
+ Đừng bao giờ thờ ơ, vô cảm trước nỗi khổ đau, bất hạnh của người khác 0.5
và cũng đừng vì nghèo khổ hay bất hạnh mà trở nên hẹp hòi, ích kỷ, sống
trái với đạo lý con người: Thương người như thể thương thân.
- Xác định thái độ của bản thân: đồng tình với thái độ sống có tình thương 0.5
và trách nhiệm với mọi người, khích lệ những người biết mở rộng tâm hồn
đề yêu thương, giúp đỡ người khác. Phê phán thái độ sống cá nhân, ích kỷ,
tầm thường.
3 Học sinh tưởng tượng và kể được truyện 12.0
MB - Tạo tình huống dẫn dắt để phát triển câu chuyện 1.0
TB : Bài văn triển khai các ý sau:
Ý 1 : Trong mơ em lạc vào thể giới cổ tích kỳ diệu ở đó em gặp chàng 4.0
dũng sỹ Thạch Sanh và chàng tặng cho em cây đàn thần
- Hoàn cảnh gặp gỡ (1đ/
- Trò chuyện với nhân vật ý)
- Hình dáng cử chỉ lòi nói của nhân vật
- Tâm trạng cảm xúc khi được tặng đàn thần
Ý 2: Với cây đàn thần em đã làm được nhiều việc có ích cho cuộc sống 6.0
- Giúp đỡ người nghèo
- Đồng bào bị thiên tai
- Giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó khăn (1đ/
- Giúp đỡ những người bị tật nguyền vì bẩm sinh hay do chất độc da cam ý)
- Trừng trị những người độc ác, làm việc phi pháp….
- Ngăn chặn chiến tranh .
Tất cả các việc làm đó thành công giống như kết thúc trong truyện cổ tích.

KB : Kết thúc cuộc gặp gỡ.


- Tâm trạng sự lưu luyến, tiếc nuối 1.0
- Vui vì làm nhiều chuyện có ích cho cuộc sống

********************************************************************
Đề 59:

ĐỀ BÀI

I. Phần Đọc- hiểu (4,0 điểm):


Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
“ Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm...”
( Trích: Tre Việt Nam- Nguyễn Duy).
a. Đoạn thơ trên gợi nhớ về một tác phẩm cũng viết về tre mà em đã học trong SGK
Ngữ văn 6. Đó là tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
b. Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của tre Việt nam trong đoạn thơ trên?
c. Từ vẻ đẹp không chịu khuất phục của tre hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của
em về ý nghĩa của tinh thần vươn lên trong học tập.
I II. Phần Làm văn.(6,0 điểm):
Sau những ngày mùa đông lạnh lẽo, âm u, mùa xuân tươi đẹp đã về trên quê hương
em. Mùa xuân du ngoạn khắp nơi: dòng sông, cánh đồng, làng mạc...hãy đóng vai mình
là Mùa Xuân để kể và tả lại chuyến du ngoạn đó.
HƯỚNG DẪN CHẤM

PHẦ CÂ NỘI DUNG ĐIỂM


N U
PHẦN ĐỌC- HIỂU
a Đoạn thơ trên gợi nhớ về tác phẩm “ Cây tre Việt Nam” của Thép Mới. 0,5
HS cảm thụ được vẻ đẹp của cây tre trong đoạn thơ: 1,0
b - Nhân hóa: vươn mình trong gió tre đu, cây kham khổ hát ru lá cành; yêu
nhiều nắng nỏ trời xanh; không đứng khuất mình.
I + Tre mang sức sống mãnh liệt.
+ Tre bền bỉ vượt qua gian khó trong cuộc sống...
+ Tre không cam chịu không cúi mình trước bóng râm...
- Ẩn dụ: tre là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt 1,0
Nam: cần cù, chịu thương chịu khó, có ý chí mãnh liệt, bền bỉ, vượt khó khăn
và luôn lạc quan yêu đời.
c - Giải thích 0,25
+ Học tập là hoạt động tiếp thu kiến thức từ thầy cô, bạn bè, tài liệu...
+ Vươn lên là luôn luôn cố gắng,nỗ lực không ngừng..
=> Trong học tập. muốn đạt kết quả cao thì phải có sự cố gắng hết mình...
- Nêu ý nghĩa. 0,5
+ Kiến thức của nhân loại là vô hạn, hiểu biết của con người thì hữu hạn. Vì
vậy, việc học tập không phải là công việc dễ dàng...Nhưng nếu ta biết khắc
phục khó khăn...vươn lên trong học tập ta sẽ thu được thành quả tốt đẹp. Những
thành quả đó không chỉ giúp ích cho bản thân mà còn cho cả những người xung
quanh trong xã hội...
+ Có ý thức vươn lên trong học tập, ta còn rèn được các đức tính tốt đẹp khác 0,25
như: kiên trì, nhẫn nại...ta sẽ được mọi người yêu quý, trân trọng....
+ Phê phán những bạn học sinh thấy khó khăn thì nản lòng, ngại khó, ngại khổ, 0,25
học hành sa sút...
- Hs liên hệ: 0,25
+ Có ý thức tự giác, khắc phục mọi khó khăn trong học tập...
+ kết hợp học đi đôi với hành, vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn.
PHẦN LÀM VĂN
II 2 * Yêu cầu về hình thức:
Học sinh viết đúng kiểu bài kể chuyện tưởng tượng kết hợp với miêu tả. 0,5
+ Bố cục chặt chẽ , có đủ phần mở bài, thân bài, kết bài.
+ Xác định đúng ngôi kể, đúng thứ tự, lời kể phù hợp ( người kể: Mùa Xuân, kể
theo ngôi thứ nhất.)
+ Lời văn tự nhiên,trong sáng, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.
* Yêu cầu về nội dung: đóng vai mình là Mùa Xuân để kể và tả lại chuyến du 0,5
ngoạn của mình đi khắp nơi: dòng sông, cánh đồng, làng mạc...
- Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau, song phải đảm bảo nội
dung sau:
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về nhân vật mùa Xuân “ tôi” và sự việc (câu chuyện của 0,5
Mùa Xuân du ngoạn khắp nới: dòng sông, cánh đồng, làng mạc).
b. Thân bài.
* Mùa xuân tự giới thiệu về mình.
- Sự thay đổi của thiên nhiên, đất trời, mây, gió, nắng, cây cối, hoa lá, chim
chóc.. 1,0
- Niềm vui của con người khi chào đón năm mới: sự sum vầy, đoàn tự, những
cuộc du xuân...
* Mùa xuân kể và tả về cuộc du ngoạn khắp nơi, được chiêm ngưỡng những 2,0
cảnh nước non kì thú như: dòng sông, cánh đồng, làng mạc....
- Mùa xuân tả về những cảnh quan trên con đường du ngoạn..
+ Kể lại một cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị mà Mùa Xuân ấn tượng nhất.
* Mùa xuân rút ra bài học bổ ích nhất sau chuyến đi.( về tình bạn, tình yêu quê 1,0
hương đất nước, tinh thần đoàn kết, sự sẻ chia, cống hiến..)
c. Kết bài. 0,5
- Cảm nghĩ của Mùa Xuân sau mỗi chuyến du ngoạn.
- Mong ước được đi du ngoạn khắp nơi để có những trải nghiệm phong phú..

**********************************************************************
**** Đề 71:
ĐỀ BÀI

I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm).


Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Dòng sông mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha
Trưa về trời rộng bao la
Áo xanh sông mặc khác nào mới may
Chiều chiều thơ thẩn áng mây
Cài lên màu áo hây hây ráng vàng
Đêm thêu trước ngực vầng trăng
Trên nền nhung tím trăm ngàn sao lên ...
(Trích "Dòng sông mặc áo" - Nguyễn Trọng Tạo)
Câu 1. Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt của bài thơ trên.
Câu 2. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp của dòng sông qua các thời điểm nào? Tác dụng?
Câu 3. Bài thơ sử dụng chủ yếu biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật nào? Hãy chỉ rõ
các từ ngữ thể hiện BPTT, biện pháp nghệ thuật đó.
Câu 4. Nêu cảm nhận chung của em về nội dung bài thơ.
II. LÀM VĂN (14.0 điểm).
Câu 1 (4.0 điểm).
Từ hình ảnh dòng sông quê hương trong bài thơ trên, em hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ, tương đương 20 – 25 dòng) nêu suy nghĩ về vai trò của quê hương
trong cuộc đời mỗi con người.
Câu 2 (10.0 điểm).
Đứng lặng giờ lâu trước nấm mồ của Dế Choắt, Dế Mèn nghĩ về bài học đường
đời đầu tiên và hối hận vô cùng.
Qua văn bản “Bài học đường đời đầu tiên” (Sách Ngữ văn 6, tập hai – Nhà xuất
bản Giáo dục), em hãy thay lời Dế Mèn kể lại bài học đường đời đầu tiên và niềm ân
hận ấy.

-------------------HẾT ---------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM

C Yêu cầu Điể


âu m
I. ĐỌC - HIỂU 6.0

- Thể thơ: lục bát. 0.5


1.
- Phương thức biểu đạt: Miêu tả và biểu cảm. 0.5
2. - Miêu tả qua 4 thời điểm: Sáng, trưa, chiều, tối (chỉ rõ các từ ngữ thể hiện 1.0
các thời điểm đó).
- Tác dụng: Làm hiện lên một dòng sông quê rất đẹp, vẻ đẹp đó thay đổi theo
những thời điểm trong cả đêm ngày. 
- Biện pháp tu từ: Nhân hóa, sử dụng từ láy. 1.0
3. - Chỉ rõ từ ngữ thể hiện. 0,5
- Một dòng sông rất đẹp, rất thơ mộng. 0,5
- Chẳng những thế, dòng sông sống động, có hồn, giống như một người thiếu 1,0
nữ xinh đẹp, điệu đà, duyên dáng, biết làm đẹp cho mình bằng những tấm áo
tuyệt diệu, những tấm áo ấy được thay đổi liên tục khiến dòng sông biến hóa
bất ngờ, mỗi lần biến hóa lại mang một sắc màu lung linh, lại là một vẻ đẹp
quyến rũ, vừa thực lại vừa như mơ..., một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng khiến người
đọc phải say đắm ...
(Xuất phát từ thực tế: ánh nắng, màu mây trời và cả bầu trời lấp lánh trăng
4. sao buổi tối in hình xuống mặt sông, làm ánh lên những sắc màu lung linh, 0,5
rực rỡ. Màu nắng, màu mây trời ở các thời điểm trong ngày luôn thay đổi
khiến màu sắc của sông cũng thay đổi, như là dòng sông liên tục thay áo
mới). 0,5
* Dòng sông vốn là ảnh quen thuộc trong cuộc sống, nhưng tác giả đã khiến
dòng sông trở nên sống động, vừa đẹp vừa quyến rũ, đáng yêu như một con
người.
* Bài thơ thể hiện cái nhìn, sự quan sát vô cùng tinh tế, tài tình của nhà thơ
về cảnh vật và ta cũng thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên của nhà thơ.
II. LÀM VĂN 14,0
1. Viết đoạn văn (câu này chưa phù hợp với hs lớp 6) 4,0

a. Đảm bảo cấu trúc của một đoạn văn 0.25

b. Xác định đúng vấn đề cần trình bày 0.25

c. Hs có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số gợi ý:
- Vị trí, vai trò của quê hương trong đời sống của mỗi con người:
+ Mỗi con người đều gắn bó với quê hương, mang bản sắc, truyền thống, 1.0
phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương. Chính vì thế, tình cảm dành cho
quê hương ở mỗi con người là tình cảm có tính chất tự nhiên, sâu nặng.
+ Quê hương luôn bồi đắp cho con người những giá trị tinh thần cao quí (tình
làng nghĩa xóm, tình cảm quê hương, gia đình sâu nặng...).
+ Quê hương luôn là điểm tựa vững vàng cho con người trong mọi hoàn
cảnh, là nguồn cổ vũ, động viên, là đích hướng về của con người.
- Bàn bạc mở rộng:
+ Phê phán một số người không coi trọng quê hương, không có ý thức xây 1.0
dựng quê hương, thậm chí quay lưng, phản bội quê hương, xứ xở.
+ Tình yêu quê hương cũng đồng nhất với tình yêu đất nước, Tổ quốc.
- Phương hướng, liên hệ:
+ Xây đắp, bảo vệ quê hương, phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê
hương là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mổi con người. 1.0
+ Là học sinh, ngay từ bây giờ phải tu dưỡng, tích lũy kiến thức để sau này
xây dựng, bảo vệ quê hương.
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới 0.25
mẻ về vấn đề
e.Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo những quy tắc về chuẩn chính tả, dùng 0.25
từ, đặt câu.
2. Viết bài văn học (10.0 điểm)

a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn tự sự: Có đầy đủ phần Mở bài, thân 0.25
bài, kết bài. Mở bài giới thiệu vấn đề tự sự; Thân bài kể lại chi tiết sự việc;
kết bài khái quát được nội dung tự sự.
b. Xác định đúng vấn đề tự sự 0.25
c. Triển khai nội dung tự sự.
Yêu cầu hs nhập vai vào nhân vật của câu chuyện (Dế Mèn) để kể lại
câu chuyện và nói lên cảm nghĩ, tâm trạng của Dế Mèn. Tâm trạng đó được
biểu hiện qua suy nghĩ, cử chỉ, thái độ, những ăn năn của Dế Mèn…
Có thể kể như sau:
Mở bài: 1 điểm
- Giới thiệu hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
Thân bài: 7 điểm
- Kể lại diễn biến câu chuyện, tâm trạng qua suy nghĩ, cử chỉ, thái độ,
những ăn năn của Dế Mèn… trong đó có kết hợp tự miêu tả và miêu tả
các nhân vật khác trong câu chuyện, miêu tả cảnh…
- Kể về niểm ân hận của bản thân khi đứng trước mộ Dế Choắt: Vì đã
không đào hang giúp Choắt; vì đã không dũng cảm đứng ra nhận trách
nhiệm khi Chị Cốc vu oan cho Choắt; vì thói nghênh ngang, nông nổi
của bản thân …
Kết bài: 1 điểm
- Kết thúc câu chuyện. Khắc sâu bài học đường đời đầu tiên…
d. Sáng tạo: Cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng về vấn đề. 0,25

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa 0,25
tiếng Việt.
**********************************************************

PHẦN 2: TÀI LIỆU DẠY ÔN TẬP, BỒI DƯỠNG

CHUYÊN ĐỀ 1: TRUYỀN THUYẾT


I. CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC
1. Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian kể về các nhân vật và sự
kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo. Truyền
thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật
lịch sử được kể.
Một vài điểm lưu ý khác biệt giữa thể loại truyền thuyết với một số thể loại văn học dân
gian khác dễ nhầm lẫn:
– Truyền thuyết với thần thoại: về thời gian ra đời, thần thoại ra đời trước truyền thuyết.
Thần thoại ra đời từ thuở “hồng hoang” của loài người kể về các vị thần, các nhân vật
anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hoá, phản ánh quan niệm của người thời cổ về
nguồn gốc của thế giới và của đời sống con người. Khi nhận thức của con người phát
triển đến một trình độ nhất định thì sáng tác thần thoại chấm dứt. Truyền thuyết ra đời
sau thần thoại và tiếp tục tồn tại song hành với lịch sử loài người. Truyền thuyết là cách
nhận thức lịch sử, phản ánh lịch sử theo quan điểm của dân gian. Nhiều truyền thuyết
thực chất là các thần thoại đã được lịch sử hoá.
– Truyền thuyết vói truyện cổ tích. Trong hệ thống văn học dân gian của mỗi dân tộc,
nếu có thể loại truyện kể về nhũng điều không có thực thì cũng có thể loại kể về nhửng
điều có thực hay ít nhiều cũng liên quan đến điều có thực. Truyện cổ tích là truyện kể
về những điều không có thực, những chuyện không thể xảy ra trong thực tế còn truyền
thuyết là truyện kể về những điều có thực hay ít nhiều cũng liên quan đến điều có thực.
– Truyền thuyết với vè: Truyền thuyết vói vè có điểm tương đồng về mặt chức năng –
nhận thức, phản ánh lịch sử theo quan điểm của dân gian nhưng về hình thức thể hiện
và thời gian ra đòi lại khác nhau. Vè thể hiện bằng văn vần, truyền thuyết thể hiện bằng
văn xuôi. Vè ra đời mang tính cập nhật về thòi gian để kịp thời phản ánh người thật
việc thật, truyền thuyết phản ánh người thực, việc thật nhưng đó là những người, những
việc đã lùi sâu vào trong quá khứ.
2. Ở Việt Nam, truyền thuyết là thể loại văn học dân gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Đánh giá như vậy một phần vì chúng bao gồm một khối lượng tác phẩm vô cùng lớn,
nhưng mặt khác quan trọng hơn là giá trị đặc biệt của thể loại này bởi truyền thuyết là
cách ghi chép, phản ánh lịch sử độc đáo của dân gian, của dân tộc. Vì vậy, truyền
thuyết có ý nghĩa to lớn trong việc “bổ sung, đính chính và sàng lọc kiến thức của
chúng ta về lịch sử dân tộc” (Nguyễn Khánh Toàn – Vai trò của văn học dân gian trong
văn học Việt Nam nói chung, trong “Truyện Kiều” nói riêng, Tạp chí Văn học, số 11,
năm 1965).
Căn cứ vào nội dung truyền thuyết phản ánh – ghi chẹp ta có thể chia truyền thuyết
thành các tiểu loại sau:
– Truyền thuyết anh hùng:
+ Truyền thuyết về những anh hùng văn hoá.
+ Truyền thuyết về nhũng anh hùng chống ngoại xâm trong buổi đầu dựng nước.
– Truyền thuyết lịch sử:
+ Truyền thuyết lịch sử về những cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tự chủ trong thời kì
Bắc thuộc.
+ Truyền thuyết về thòi kì phong kiến tự chủ.
+ Truyền thuyết về thòi kì Pháp thuộc.
3. Truyền thuyết ra đời vào buổi bình minh của dân tộc, khi các vua Hùng đóng đô khai
quốc trên đất Phong Châu. Nó song song tồn tại và phát triển cùng quá trình lịch sử dân
tộc.
– Truyền thuyết phản ánh công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc, phản ánh
những cuộc khỏi nghĩa của nhân dân chống lại triều đại phong kiến suy thoái: Truyền
thuyết là những truyện kể dân gian về những việc có thực, những nhân vật lịch sử, sự
kiện lịch sử cho nên dù yếu tố lịch sử có mong manh đến đâu, cái lõi lịch sử có được trí
tưởng tượng dân gian thêu dệt đến mức nào thì lịch sử vẫn được coi là đối tượng phản
ánh chuyên biệt của thể loại này. Chính vì vậy, đọc truyền thuyết chúng ta thấy được cả
một chặng đường dài trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước với những
bước thăng trầm của lịch sử dân tộc từ ngày đầu mở nước, giữ nước, xây dựng đất nước
cho đến ngày nay.
+ Truyền thuyết về những anh hùng văn hoá, truyền thuyết về những anh hùng chống
ngoại xâm trong buổi đầu dựng nước đã tập trung vào một chủ đề lớn là giải thích
nguồn gốc, giống nòi của dân tộc Việt Nam, ca ngợi công cuộc lao động khai hoang và
xác lập địa bàn sinh sống cho dân tộc – quốc gia, ca ngợi công lao chống ngoại xâm
bước đầu để bảo vệ chủ quyền của các vua Hùng trong buổi bình minh của lịch sử dân
tộc.
+ Những truyền thuyết lịch sử về những cuộc khởi nghĩa giành độc lập tự chủ trong
thời kì Bắc thuộc, truyền thuyết về thòi kì phong kiến tự chủ, truyền thuyết về thời kì
Pháp thuộc là một bức tranh lịch sử hoành tráng phản ánh những nhân.vật lịch sử – sự
kiện lịch sử liên quan đến vận mệnh dân tộc, đời sống xã hội cửa nhân dân ở các thòi kì
lịch sử khác nhau của dân tộc. Nó ca ngợi công cuộc chống ngoại xâm để giành và giữ
nền độc lập, tự chủ của dân tộc, ca ngợi sự nghiệp lao động sáng tạo để xây dựng nền
văn hiến của đất nước. Ngoài ra, truyền thuyết giai đoạn này còn phản ánh những mâu
thuẫn trong xã hội phong kiến với những cuộc đấu tranh của các phong trào khỏi nghĩa
nông dân.
– Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo: Khi kể lại cái lõi lịch sử này, nhân
dân đã kì diệu hoá các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử bằng phương pháp tư duy
của thần thoại. Người ta gọi đây là phần tưởng tượng hoang đường của truyện. Nói một
cách chính xác là các nhân vật, sự kiện trong truyền thuyết là có thực nhưng khi đi vào
tác phẩm văn học thì không hoàn toàn giống như thực. Nó đã được trí tưởng tượng của
dân gian thêu dệt, hư cấu theo hướng hình tượng hoá, mĩ hoá để cho sinh động và hấp
dẫn hơn, để thể hiện được thái độ và tình cảm của nhân dân hơn. Ví dụ như sự ra đời,
trưởng thành, đi đánh giặc và bay về tròi kì lạ của Thánh Gióng, sức mạnh kì diệu của
nỏ thần, hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê giác rẽ nước đi xuống biển sâu hay
việc Lạc Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần rồi sai Rùa-Vàng đòi lại gươm
thần…
Lịch sử khi đi vào trong truyền thuyết đã được lí tưởng hoá theo trí tưởng tượng dân
gian. Cái lõi lịch sử ở đây là những sự kiện, nhân vật lịch sử có trong xã hội thật nhưng
không trần trụi như ngoài xã hội mà còn bao hàm cả thái độ và cách đánh giá của nhân
dân về các sự kiện, nhân vật lịch sử đó. Vì vậy, truyền
thuyết được coi là kho tàng vô giá đối với sử học. Nó có tác dụng bổ sung, đính chính,
sàng lọc kiến thức của chúng ta về lịch sử dân tộc. Hư cấu trong truyền thuyết là sự tái
tạo, nhào nặn lại sự thật lịch sử trong chất “thơ và mộng”, nhằm lí tưởng hoá những con
người đã làm nên lịch sử, để thể hiện thái độ tình cảm của nhân dân với những con
người đó.
– Truyền thuyết có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các nghi lễ, lễ hội: Khác vói các
nhân vật trong các thể loại văn học dân gian khác, nhân vật trong truyền thuyết không
chỉ sống trong đòi sống văn học mà còn được sống trong lòng ngưỡng mộ, tôn kính của
nhân dân. Các nhân vật trong truyền thuyết đều được nhân dân suy tôn thành thần,
thánh của một làng hoặc một vùng. Đi cùng vói sự suy tôn đó là các sự tích, nghi lễ – lễ
hội diễn ra hằng năm ở khắp mọi noi để lưu truyền, tưởng nhớ công lao của các vị anh
hùng. Truyền thuyết và nghi lễ – lễ hộí là hai lĩnh vực khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ vói nhau. Truyền thuyết làm cho lễ hội có nội dung linh thiêng hơn và ngược
lại nghi lễ – lễ hội làm cho truyền thuyết sống mãi trong lòng cộng đồng một cách sinh
động, hấp dẫn.
4. Đặc sắc về nghệ thuật
– Cách lựa chọn và thể hiện nhân vật, sự kiện trong truyền thuyết: Nếu
như nhân vật, sự kiện, trong truyện cổ tích là nhân vật hư cấu, sự kiện hư cấu thì nhân
vật, sự kiện trong truyền thuyết là những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử. Nhân vật, sự
kiện trong truyền thuyết là do lịch sử tạo ra nhưng nó cũng không phải là bản sao của
nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử. Các tác giả dân gian khi sáng tạo truyền thuyết không
hư cấu ra những nhân vật, sự kiện nhự sáng tác truyện cổ tích mà chọn lựa những sự
kiện, những nhân vật có thật trong lịch sử (hoặc ít nhiều liên quan đến lịch sử) để hư
cấu nhằm dựng lại những diện mạo, tầm vóc của những sự kiện, nhân vật ấy, đồng thời
lí tưởng hoá những người, những sự việc cần được ca ngợi. Thậm chí, tác giả dân gian
qua truyền thuyết có thể khôi phục lại những sự thực lịch sử bị che lấp, bị bỏ qua hoặc
bị xuyên tạc.
Truyền thuyết không chỉ có chức nàng ghi chép lịch sử mà còn có chức năng phản ánh,
ghi lại thái độ, tư tưởng, tình cảm và quan điểm của dân gian về các sự kiện lịch sử,
nhâri vật lịch sử bằng hình thức nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ. Do vậy, những sự
kiện lịch sử, những nhân vật lịch sử đi vào truyền thuyết không phải là bản sao hay là
một sự tái tạo nguyên mẫu mà là một sự tái
tạo lại lịch sử. Tức là trên cơ sở cái lõi lịch sử, truyền thuyết đã dựng lại lịch sử bằng
cách sắp xếp, nhào nặn, thêm bớt (thậm chí đưa cả các yếu tố thần kì) các sự kiện, nhân
vật để tạo ra một tầm vóc của sự kiện, nhân vật, đồng thời đưa vào đó cả những tư
tưởng, tình cảm của mình với những đối tượng được phản ánh. Đây chính là cách thể
hiện nhân vật và sự kiện của truyền thuyết. Xin lưu ý, khác vói các nhân vật trong các
thể loại văn học dân gian khác, nhân vật truyền thuyết không chỉ sống trong lòi kể mà
còn sống trong các nghi lễ tín ngưỡng. Do vậy, khi phân tích nhân vật truyền thuyết cần
gắn với môi trường đã sản sinh và nuôi dưỡng tác phẩm (môi trường diễn xướng).
– Xung đột trong truyền thuyết:
+ Xung đột giữa con người với thiên nhiên: Xung đột này phản ánh quá trình dựng
nước của dân tộc. Đó là những cuộc vật lộn với biển cả để mở rộng địa bàn cư trú ra
ngoài hải đảo, với lũ lụt để đắp đê bảo vệ làng bản, mùa màng; việc chế biến thực phẩm
hay việc tìm ra các giống cây, giống quả… Ví dụ như các truyền thuyết Bánh chưng,
bánh giầy; Son Tinh, Thuỷ Tinh; Mai An Tiêm;…
+ Xung đột giữa dân tộc với các thế lực ngoại xâm: Xung đột này phản ánh công cuộc
giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thể hiện xung đột này, truyền thuyết thực hiện
chức năng phản ánh, ghi chép lịch sử của mình. Ví dụ như các truyền thuyết về Thánh
Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, chuỗi truyền thuyết về Lê Lợi…
+ Xung đột giữa nhân dân với chính quyền phong kiến: Loại xung đột này phản ánh
những mâu thuẫn của xã hội phong kiến, đặc biệt là mâu thuẫn giữa ‘tầng lóp nông dân
với giai cấp địa chủ. Những truyền thuyết này cho thấy quan điểm và thái độ của nhân
dân khác hẳn với chính sử của nhà nước phong kiến Việt Nam. Nhiều nhân vật trong
mắt triều đình phong kiến là nghịch tặc thì với nhân dân là anh hùng.
– Kết cấu và lời kể của truyền thuyết:
+ Truyền thuyết có đặc điểm nổi bật là kết cấu xâu chuỗi thành một Hệ thống. Ví dụ
chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng gồm có các truyện: Con Rồng cháu Tiên;
Bánh chưng, bánh giầy; Son Tinh, Thuỷ Tinh; Thánh Gióng;… Chuỗi truyền thuyết về
Lê Lợi và cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn gồm có các truyện: Trao gươm thần, Hai vợ chồng
ông lão bắt cá và Lê Lợi, Sự tích Hồ Gươm,…
+ Kết cấu cốt truyện của truyền thuyết thường có ba phần:
. Hoàn cảnh xuất hiện và thân thế của nhân vật chính.
. Cuộc đời và sự nghiệp (hành trạng, chiến công) của nhân vật chính.
. Đoạn kết cuộc đời của nhân vật chính.
+ Lời kể: Truyền thuyết có lối kể cô đọng, rất ít miêu tả, chủ yếu là thuật lại các hành
động của nhân vật, có sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật nhằm tô đậm tính xác thực
của câu chuyện (những chi tiết về hoàn cảnh, sự việc, hành động, lời nói của nhân vật).

BÀI 1: CON RỒNG CHÁU TIÊN

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Thể loạiTruyện truyền thuyết


2. Tóm tắt Ngày xưa ở vùng đất Lạc Việt có vị thần con trai thần Long Nữ, tên
Lạc Long Quân kết duyên cùng nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần
Nông xinh đẹp. Về sau, Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, từ trăm trứng
nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú. Vì Lạc Long Quân
không quen sống trên cạn lâu ngày nên hai vợ chồng mỗi người dẫn
năm mươi người con lên rừng và xuống biển. Người con trưởng
được suy tôn làm vua Hùng trên đất Phong Châu, đặt tên nước là
Văn Lang, cứ thế kế tục tới muôn đời sau.
3. Bố cục - Phần 1 (từ đầu đến “cung điện Long Trang”): Giới thiệu về Lạc
(3 phần) Long Quân và Âu Cơ
- Phần 2 (tiếp đó đến “rồi chia tay nhau lên đường”): Việc sinh con
và chia con của Lạc Long Quân và Âu Cơ
- Phần 3 (còn lại): Việc lập nước Văn Lang và nguồn gốc của dân
tộc Việt.
4. Giá trị Truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” nhằm giải thích, suy tôn
nội dung nguồn gốc giống nòi và qua đó thể hiện ý nguyện đoàn kết, thống
nhất cộng đồng Việt.
5. Giá trị - Sử dụng nhiều chi tiết tưởng tượng, hoang đường, kì ảo
nghệ thuật - Hình tượng nhân vật mang dáng dấp thần linh

II. Dàn ý Phân tích văn bản “Con rồng cháu tiên”
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về thể loại truyền thuyết (khái niệm, khái quát đặc trưng thể
loại…)
- Giới thiệu về truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” (khái quát giá trị nội dung và nghệ
thuật…)
2. Thân bài
a. Giới thiệu về Lạc Long Quân và Âu Cơ
- Lạc Long Quân:
+ Vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ
+ Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lên sống trên cạn, sức khỏe vô
địch, có nhiều phép lạ
+ Giúp dân diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh
+ Dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở
- Âu Cơ: ở vùng núi cao phương Bắc, thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần
→ Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau, đem lòng yêu nhau rồi thành vợ thành chồng,
cùng nhau chung sống trên cạn
→ Sự kết duyên của những con người phi thường
b. Việc sinh con và chia con của Lạc Long Quân và Âu Cơ
- Âu Cơ sinh ra một cái bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra một trăm người con hồng hào,
đẹp đẽ lạ thường. Đàn con không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi
ngô, khỏe mạnh như thần
→ Hình tượng cái bọc một trăm trứng thể hiện những con người của dân tộc Việt do
cùng một mẹ sinh ra
- Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con: 50 con xuống biển, 50 con lên núi, chia nhau cai
quản các phương, khi có việc thì giúp đỡ lẫn nhau
→ Giải thích nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam sinh sống trên khắp đất nước. Đồng
thời, qua đó phản ánh truyền thống đoàn kết của dân tộc ta từ ngàn đời nay
c. Việc lập nước Văn Lang và nguồn gốc của dân tộc Việt
- Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng
đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang
- Khi nhắc đến nguồn gốc của mình, thường xưng là con Rồng cháu Tiên
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản
+ Nội dung: Truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” nhằm giải thích, suy tôn nguồn gốc
giống nòi và qua đó thể hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất cộng đồng Việt
+ Nghệ thuật: sử dụng các chi tiết tưởng tượng hoang đường, kì ảo, xây dựng nhân vật
mang dáng dấp thần linh…
KIẾN THỨC BỔ SUNG
1. Cha mẹ là thần tiên kì lạ, lớn lao, đẹp đẽ, phi thường
    Đó là nguồn gốc và hình dạng của tổ tiên – bố Rồng, mẹ Tiên với hai cái tên thật là
đẹp : Lạc Long Quân, Âu Cơ. Cả hai người đều là “thần”. Lạc Long Quân là thần nòi
rồng, ở dưới nước, con thần Long Nữ. Âu Cơ là thần nòi Tiên, ở trên núi, thuộc dòng
họ Thần Nông – vị thần chuyên trách nghề nông, dạy loài người trồng trọt và cày cấy.
Lạc Long Quân “sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ”, còn Âu Cơ thì “xinh đẹp tuyệt
trần”. Cả hại đều là trai tài, gái sắc, xứng đôi vừa lứa nên đã tìm đến nhau thành duyên
chồng vợ. Mối duyên tình ấy đẹp đẽ biết bao !
    Đẹp đẽ và cao quý hơn nữa là sự nghiệp khai mở đất nước, tạo lập gia đình của hai
người. Lạc Long Quân “giúp dân diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh” – những loại
yêu quái làm hại dân ở vùng biển, đồng bằng, rừng núi, tức những nơi dân ta thuở ấy
khai phá, ổn đinh cuộc sống. Thần còn “dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn
ở”. Còn Âu Cơ vốn là dòng Thần Nông – rất giỏi về nông nghiệp đã tìm đến vùng đất
Lạc – đất tổ Việt Nam có nhiều hoa thơm cỏ lạ. Nàng đã cùng Long Quân lập cung điện
Long Trang, xây dựng gia đình hạnh phúc. Điều kì lạ, khác thường là đến kì sinh nở,
nàng “sinh ra một cái bọc trăm trứng”, rồi “trăm trứng nở ra một trăm người con…”.
    Điếu thú vị thứ nhất của câu chuyện Con Rồng cháu Tiên là : bằng nhiều chi tiết
tưởng tượng, kì ảo, thần tiên hoá nguồn gốc, nòi giống dân tộc, cha ông ta đã ca ngợi
cội nguồn, tổ tiên người Việt chúng ta. Nói khác đi, ta có thể hiểu rằng dân tộc Việt
Nam bắt nguồn từ một nòi giống thần tiên, tài ba, xinh đẹp, rất đáng tự hào. Mỗi người
Việt Nam ngày nay vinh dự là con cháu thần tiên hãy tin yêu, tôn kính tổ tiên dân tộc
mình.
    2. Điều thú vị nữa toát ra từ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên là gì ?
    Phải chăng đó là hình ảnh những người con và cuộc phân chia gia đình của Lạc Long
Quận và Âu Cơ ? Muốn hiểu rõ điều này, ta hãy bắt đầu từ những chi tiết thánh thần, kì
ảo. Chỉ một lần sinh mà Âu Cơ cho ra đời những… một trăm con. Những người con ấy
không ra đời từ bụng mẹ mà “nở ra” từ những quả trứng, vừa nở ra thì “một trăm người
con” đều “hồng hào, đẹp đẽ lạ thường”. Đúng là con của Thần dưới biển, và Tiên trên
trời ! Điểu kì lạ, kì diệu hơn nữa là những người con thần tiên ấy “không cần bú mớm
mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần”. Một gia đình có tới
một trăm con, thật là đông đúc, vui vầy ! Trăm người con ấy ai cũng “tự lớn lên, mặt
mũi khôi ngô, khoẻ mạnh…”, đúng là nòi giống Rồng, Tiên, cùng một bọc nên giống
nhau cả về dáng hình, sức sống và bản lĩnh làm người.
    Khi trăm người con ấy trưởng thành thì cha mẹ phân chia gia đình để sinh sống và
cai quản đất đai. Cuộc phân chia ấy giản dị và hợp nghĩa tình biết bao. Năm mươi con
theo cha xuống biển, năm mươi con theo mẹ lên núi. Biển là biểu tượng của Nước. Núi
là biểu tượng của Đất. Chính nhờ sự khai phá mở mang của một trăm người con Long
Quân và Âu Cơ mà Đất Nước Văn Lang xưa, Tổ quốc Việt Nam ngày nay của chúng ta
hình thành, tổn tại và phát triển.
    Điều cần ghi nhớ là lời căn dặn của cha Rồng trước khi chia tay : “Kẻ miền núi,
người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn”.
    Rõ ràng, cùng với ý nghĩa tôn vinh, ca ngợi nguồn gốc dân tộc, truyền thuyết Con
Rồng cháu Tiên còn thể hiện một ước mơ, cũng chính là lời nhắn gửi của cha ông đối
với con cháu rằng : là dòng dõi Thần Tiên, con cháu đông vui, khoẻ mạnh, giàu bản
lĩnh, phải biết yêu thương nhau như anh em ruột thịt, phải luôn luôn đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau. Hình ảnh “bọc trăm trứng, nở trăm người con” là một chi tiết kì ảo, lãng mạn,
giàu chất thơ, gợi cho chúng ta nhớ tới từ “đồng bào” – một từ gốc Hán, nghĩa là người
cùng một bọc. “Ý niệm về giống nòi cũng bắt đầu từ đó và mở rộng ra thành tình cảm
của dân tộc lớn đoàn kết nhiều nhóm người lại với nhau như anh em ruột thịt – dù
người miền núi hay miền xuôi, người vùng biển hay trên đất liền. Hình tượng “sinh ra
trong cùng một bọc” là cội nguồn của hai tiếng “đồng bào” mãi mãi nghe rất thân
thương.
    Cùng với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên như ta đang tìm hiểu, suy ngẫm, một số
dân tộc khác ở Việt Nam cũng sáng tác những truyền thuyết nhằm giải thích nguồn gốc
dân tộc, ước mơ và khẳng định tình đoàn kết các cư dân trên lãnh thổ Việt Nam như
truyện Quả trứng to nở ra con người của dân tộc Mường, truyện Quả bầu mẹ của người
Khơ-mú,… Tình anh em ruột thịt, nghĩa đồng bào gắn bó keo sơn trong đại gia đình
Việt Nam, dưới một mái nhà Tổ quốc, chung một cội nguồn cha mẹ,… thiêng liêng,
cao quý mà rất đỗi gần gũi, giản dị xiết bao. “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn” (Ca dao). Tình đồng bào, tình đoàn kết dân tộc là
một nét đẹp trong bản sắc văn hoá, cũng là đạo lí lớn lao của dân tộc chúng ta, luôn
nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta phải thấu hiểu để thêm tự hào, tin yêu, ghi nhớ và thực
hiện.
    Tóm lại, truyện Con Rồng cháu Tiên với nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo là một
truyền thuyết mở đầu cho các truyền thuyết Việt Nam về thời đại Hùng Vương, vừa
giải thích vừa ngợi ca nguồn gốc, giống nòi và thể hiện ý nguyện đoàn kết thống nhất
cộng đồng người Việt chúng ta. Nghe kể, hay được đọc văn bản ghi lại truyền thuyết
này, ấn tượng không thể mờ phai trong chúng ta như một lờii tâm niệm, lời răn dạy về
nét văn hoá truyền thống dân tộc: Cha mẹ là thần Tiên, con cháu khoẻ mạnh, đông vui,
đoàn kết,…
B. BÀI TẬP:
I. Bài tập cơ bản:
Câu 1: Nêu khái niệm truyện truyền thuyết?
* Gợi ý:
Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến
lịch sử thời quá khứ. Truyền thuyết là tác phẩm nghệ thuật truyền miệng nên nó thường
có yếu tố tưởng tượng, kì ảo. Truyền thuyết thể hiện quan điểm, thái độ, cách đánh giá
của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.
Câu 2: Hãy tìm những chi tiết trong truyện thể hiện tính chất kì lạ, cao quý về
nguồn gốc và hình dạng của Lạc Long Quân và Âu Cơ.
* Gợi ý:
- Những chi tiết thể hiện tính chất lạ kì, lớn lao, đẹp đẽ của hình tượng Lạc Long Quân
và Âu Cơ về nguồn gốc và hình dạng được thể hiện trong truyện:
+ Lạc Long Quân là con trai thần Long Nữ, mình rồng, sống được cả dưới nước và trên
cạn. Có nhiều phép lạ: Giết ba con yêu tinh hại dân.
+ Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông (ở trên núi),  xinh đẹp tuyệt trần. Gặp gỡ yêu
thương Lạc Long Quân và thành vợ chồng Sinh ra bọc nở trăm người con trai khỏe
mạnh, tuấn tú.
+ Họ chia con để cai quản các phương, kẻ ở núi, người ở biển.  
Câu 3: Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở
có điều gì kì lạ? Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con như thế nào và để làm gì?
Theo truyện này thì người Việt là con cháu của ai?
* Gợi ý:
- Về việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có nhiều
điều kì lạ: 
+ Một vị thần sống dưới nước đem lòng yêu thương và kết duyên cùng một người thuộc
dòng họ Thần Nông ở trên núi cao.
+ Ít lâu sau, Âu Cơ sinh nở không phải có mang và sinh ra một bọc trứng, sau đó mới
nở ra một trăm người con. 
+ Lạc Long Quân và Âu Cơ chia đôi mỗi người 50 con theo mẹ lên chốn non cao, 50
người con theo cha về ven biển để chiếm lĩnh các vùng đất, mở rộng nơi cư trú, làm ăn,
để cho gia đình tương lai thành dân tộc, đất nước. Đặc biệt có việc gì (chiến tranh, thiên
tai…) thì giúp đỡ lẫn nhau dễ hơn.
- Theo truyện ngày thì người Việt Nam ta là con cháu của vị thần nòi Rồng là Lạc Long
Quân và của bà Âu cơ nòi giống Tiên. Nguồn gốc này rất cao quý và đáng tự hào. 
Câu 4: Em hiểu thế nào là chi tiết tưởng tượng kì ảo? Hãy nói rõ vai trò của các
chi tiết này trong truyện?
* Gợi ý:
- Chi tiết tưởng tượng, kì ảo là những chi tiết không có thật. Các chi tiêt này khiến cho
các nhân vật và sự kiện lịch sử mang màu sắc thần thoại. Nó được gọi là truyền thuyết.
- Trong truyện Con Rồng cháu Tiên, những chi tiết này có vai trò tô đậm tính chất kì lạ,
đẹp đẽ của các nhân vật (Lạc Long Quân và Âu Cơ), đồng thời chứng tỏ người Việt có
nguồn gốc khác thường, rất cao quý và đẹp đẽ. Qua đó, nhân dân ta muốn nhắn nhủ
người đời sau hãy luôn luôn tự hào, tôn kính tổ tiên mình. Các chi tiết tưởng tượng, kì
ảo trong truyện vừa phản ánh một trình độ hiểu biết nhất định ở giai đoạn lịch sử sơ
khai, vừa là kết quả của óc tưởng tượng phi thường của người Lạc Việt.
Câu 5: Ý nghĩa của truyện Con Rồng cháu Tiên?
* Gợi ý: Ý nghĩa truyện Con rồng, cháu Tiên:
- Giải thích, suy tôn nguồn gốc cao quý thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. 
- Truyện cũng thể hiện niềm tự hào dân tộc, ý nguyện đoàn kết, thống nhất từ xa xưa
của cộng đồng người Việt: dù ở bất cứ đâu, đồng bằng hay miền núi, trong Nam hay
ngoài Bắc, người Việt Nam đều là con cháu các vua Hùng, có chung dòng dõi “con
Rồng cháu Tiên”, vì thế phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Câu 6: Em biết những truyện nào của các dân tộc khác ở Việt Nam, cũng giải
thích nguồn gốc dân tộc tương tự như truyện “Con Rồng, cháu Tiên”? Sự giống
nhau ấy khẳng định điều gì?
* Gợi ý:
- Các truyện tương tự truyện Con Rồng, cháu Tiên, các dân tộc khác ở Việt Nam cũng
có những câu chuyện giải thích về nguồn gốc dân tộc tương tự, như:
+ Truyện “Quả trứng thiêng” của dân tộc Mường.
+ Truyện “Quả bầu mẹ” của dân tộc Khơ Mú.
- Ý nghĩa của sự giống nhau:
+ Sự tương đồng về cách giải thích nguồn gốc của các dân tộc.
+ Khẳng định về tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em.
+ Sự gặp gỡ, giao thoa về nền văn hóa giữa các dân tộc.
II. Bài tập nâng cao:
Bài tập 1: Hãy viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em về truyện Con Rồng cháu Tiên.
* Gợi ý:
Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mở ra trang sử mới cho dân tộc ta, đã giải thích và
suy tôn nguồn gốc thiêng liêng của cộng đồng người Việt. Những chi tiết kì ảo về hình
tượng bọc trăm trứng, về mẹ nòi giống Tiên, Rồng đã khiến chúng ta thêm tự hào, tin
yêu, tôn kính tổ tiên, dân tộc mình và cũng làm tăng sức hấp dẫn của câu chuyện. Và
rồi từ bọc trăm trứng, 100 người con đã ra đời và nửa theo cha lên rừng, nửa xuống
biển cùng mẹ. Dù cách xa như vậy, dù người đồng bằng hay miền núi, dù miền ngược
hay miền xuôi nhưng tất cả cùng chung một dòng máu, một cội nguồn, chung mẹ cha
trong một gia đình. Lời dặn dò của Lạc Long Quân đã phản ánh ý nguyện của nhân dân
ta về sự đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau . Truyện đã đề cao nguồn gốc chung và biểu
hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất của nhân dân của mọi miền đất nước. Truyện Con
Rồng cháu Tiên tuy có những yếu tố tưởng tượng, kì ảo nhưng về cơ bản đã giải thích,
suy tôn nguồn gốc của đất nước ta. Đồng thời truyện cũng thể hiện niềm tự hào dân tộc,
ý nguyện đoàn kết, thống nhất từ xa xưa của cộng đồng người Việt: dù ở bất cứ đâu,
đồng bằng hay miền núi, trong Nam hay ngoài Bắc, người Việt Nam đều là con cháu
các vua Hùng, có chung dòng dõi “con Rồng cháu Tiên”, vì thế phải biết thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau.
Bài tập 2: Trình bày vai trò của các chi tiết tưởng tượng kì ảo trong truyện Con
Rồng cháu Tiên.
* Gợi ý:
Chi tiết tưởng tượng kì ảo là những chi tiết không có thật mà có tính chất hoang đường,
kì lạ. Những chi tiết tưởng tượng kì ảo thường xuất hiện trong các truyền thuyết, truyện
cổ tích, thần thoại... Trong truyện truyền thuyết, nhân dân sáng tạo ra những chi tiết
tưởng tượng kì ảo nhằm dựng lên những câu chuyện thần kì, nhằm giải thích những sự
việc, sự kiện chưa thể giải thích theo cách thông thường, cũng có khi là để thần thánh
hóa các nhân vật mà nhân dân ngưỡng mộ, tôn sùng.
Trong truyện Con Rồng cháu Tiên, những chi tiết tưởng tượng kì ảo có vai trò làm tăng
tính chất kì lạ và đẹp đẽ của nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ. Việc tưởng tượng ra
Âu Cơ sinh bọc trăm trứng là một cách lí giải đẹp đẽ và cao quý nguồn gốc của dân tộc
Việt. Qua việc thần kì hóa nguồn gốc dân tộc, người thời xưa muốn nhắn nhủ thế hệ sau
phải biết tự hào và tôn kính tổ tiên mình. Các chi tiết tưởng tượng kì ảo còn giúp cho
câu chuyện thêm sức hấp dẫn và lôi cuốn người đọc, người nghe.
Những chi tiết tưởng tượng kì ảo trong truyện Con Rồng cháu Tiên phản ánh phần nào
trình độ nhận thức lịch sử sơ khai của người Việt cổ, đồng thời cho thấy khả năng
tưởng tượng phong phú của họ.
Truyện Con Rồng cháu Tiên tuy có nhiều chi tiết xuất phát từ trí tưởng tượng của người
dân nhưng cơ bản đã giải thích khá rõ và tô đậm vẻ đẹp của dân tộc Việt. Nội dung của
truyện đã thể hiện lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý nguyện thống nhất đất
nước của người Việt xa xưa. Con cháu người Việt dù sống ở bất cứ nơi đâu trên đất
nước đều là con cháu của vua Hùng, có chung một dòng dõi đó là con Rồng cháu Tiên.
Hai tiếng đồng bào thân thương cũng xuất phát từ câu chuyện này, do vậy những ai
cùng chung nguồn gốc Lạc Việt, cùng mang tiếng đồng bào đều phải yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau.
BT3:GIẢI THÍCH NHAN ĐỀ CON RỒNG, CHÁU TIÊN
GỢI Ý.
- Nhan đề khái quát toàn bộ nội dung tư tưởng: Nhắc nhở người Việt Nam về nguồn
gốc cao quý của mình, chúng ta đều được sinh ra bởi cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ,
đây là hai người có xuất thân từ giống Rồng, giống Tiên.
=> Khơi dậy tính tự hào, tự tôn dân tộc
- Đề cao truyền thống đoàn kết, truyền thống yêu thương đùm bọc nhau, vì đều trong
bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ
=> Nhắc nhở người Việt Nam về tình "đồng bào" thiêng liêng.
BT4. Phát biểu cảm nghĩ về truyện Con Rồng, cháu Tiên

Bài làm:

Tuổi thơ của chúng ta thường gắn liền với những lời hát ru của bà, của mẹ..., với những
câu chuyện cổ tích như lạc vào xứ sở thần tiên và còn là những câu chuyện truyền
thuyết vô cùng thú vị. Một trong số đó là truyện Con Rồng Cháu Tiên, một câu chuyện
nói về nguồn gốc nòi giống cao quý của con người, dân tộc Việt.

Con Rồng, Cháu Tiên là một truyền thuyết nổi tiếng của kho tàng truyền thuyết Việt
Nam. Câu chuyện kể về nguồn gốc sinh thành của cộng đồng người Việt. Lạc Long
Quân sống ở miền sông nước, tượng trưng cho loài Rồng. Lạc Long Quân được biết
đến như một vị thần với những chiến công lừng lẫy như lấn biển, mở rộng đất đai, khai
sơn, phá thạch, tiêu diệt Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh để giữ gìn cuộc sống bình yên
của nhân dân, đất nước. Còn Âu Cơ được biết đến là một người con gái xinh đẹp tuyệt
trần, biểu tượng cho cái đẹp. Chính vẻ đẹp tuyệt trần và sự xuất thân tương xứng đã
khiến cho Lạc Long Quân rung động với Âu Cơ.

Đây là tình yêu tuyệt đẹp giữa hai con người tương xứng về mọi mặt, từ xuất thân đến
hình thức bề ngoài. Không được bao lâu sau, Lạc Long Quân và Âu Cơ phải chia li khi
họ có sự khác biệt về tính cách cũng như tập quán, đời sống của hai con người thuộc
dòng giống khác nhau, một con Rồng, một cháu Tiên. Vì thế, họ quyết định chia nhau
một trăm người con ra thành hai nơi, năm mươi theo mẹ lên rừng và năm mươi xuống
biển theo cha.

Câu chuyện truyền thuyết có sử dụng nhiều chi tiết, yếu tố hoang đường kì ảo. Đây
cũng là một điểm đặc trưng của thể loại truyện này. Những yếu tố không có thật dựa
trên sự sáng tạo, tâm hồn phong phú của những tác giả dân gian đã góp phần truyền tải
nội dung, ý nghĩa câu chuyện. Câu chuyện về mối tình đẹp giữa hai vị thần tượng trưng
cho núi, cho biển đã tạo nên một truyền thuyết thật đẹp về nguồn gốc ra đời của con
người Việt Nam. Họ chia ly nhưng luôn giữ trọn lời hẹn thề: "kẻ miền núi, người miền
biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau" đã thể hiện tinh thần, sức mạnh dân tộc. Cùng
với đó là tinh thần đoàn kết tập thể giữa con người với con người, tạo nên sức mạnh
khối đại đoàn kết của toàn dân tộc.

Con Rồng, cháu Tiên là một truyền thuyết đầy ý nghĩa về nguồn gốc ra đời của những
con người con Lạc, cháu Hồng Việt Nam. Câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dân
tộc, đất nước, con người Việt Nam cũng như ca ngợi tinh thần đoàn kết dân tộc tuyệt
vời. Đây mãi là một câu chuyện đẹp, một câu chuyện hay trong kho tàng truyền thuyết
Việt Nam.

https:// Con rồng cháu tiên là một truyền thuyết nổi tiếng của kho tàng truyền thuyết
việt Nam, ngoài bài làm văn Phát biểu cảm nghĩ về truyện Con Rồng, cháu Tiên, học
sinh và giáo viên có thể tham khảo thêm những dạng bài văn mẫu khác như Phát biểu
cảm nghĩ về truyện Con Rồng, cháu Tiên, Phân tích truyền thuyết con Rồng cháu
Tiên, Kể tóm tắt truyện Con Rồng cháu Tiên, Đóng vai nhân vật Âu Cơ kể lại câu
chuyện Con Rồng Cháu Tiên hay cả các phần Soạn bài Con Rồng cháu Tiên.
BT5.Phân tích truyền thuyết con Rồng cháu Tiên

“Xưa mẹ Âu Cơ sinh được trăm con. Năm mươi xuống biển năm mươi lên non. Nay
triệu cháu con chung tình nước non, là hoa một gốc là con một nhà”… Những ca từ ấy
được nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác lấy cảm hứng từ tác phẩm “Con Rồng, cháu Tiên”
trong dân gian. Đây là một trong những truyền thuyết nổi tiếng của dân tộc ta giải thích
về nguồn gốc giống nòi, dân tộc và quá trình dựng nước, giữ nước của các vua Hùng.

Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến
lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, thể hiện thái độ và cách đánh
giá của nhân dân đối với những điều được kể. Lạc Long Quân được giới thiệu là một vị
thần “thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ”. Thần hay ở dưới nước, “thỉnh thoảng lên
sống trên cạn”, có sức khỏe vô địch và nhiều phép lạ. Lạc Long Quân đã giúp nhân dân
diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, những con cá, con cáo, những cây sống lâu năm
biến thành yêu quái làm hại đến cuộc sống, tính mạng của dân lành. Vị thần ấy còn dạy
nhân dân ta “cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở”. Sau đó, Lạc Long Quân thường
về thủy cung, “khi nào có việc cần, thần mới hiện lên”.

Còn Âu Cơ là một nàng tiên thuộc “dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần”. Do nghe
nói vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ nên tìm đến thăm. Tại đây, nàng và Lạc Long
Quân đã gặp nhau, “đem lòng yêu nhau rồi trở thành vợ chồng, cùng chung sống trên
cạn ở cung điện Long Trang”. Hai nhân vật này đều có nguồn gốc xuất thân cao quý.
Nhắc đến “Rồng” là nhắc đến loài vật vô cùng thiêng liêng, được nhân dân ta tôn thờ,
thành kính. Nhắc đến “Tiên” là nhắc đến một vẻ đẹp tuyệt thế, cao sang. Phải chăng
thông qua nguồn gốc của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhân dân ta muốn ngợi ca nguồn
gốc của dân tộc, của những con người Việt Nam máu đỏ da vàng?

Chi tiết Âu Cơ có mang và sinh ra cái bọc trăm trứng, “trăm trứng nở ra một trăm
người con hồng hào, đẹp đẽ lạ thường”, đặc biệt hơn, “đàn con không cần bú mớm mà
tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô, khỏe mạnh như thần”. Đây quả là một chi tiết kì
lạ mang tính kì ảo, hoang đường nhưng cũng dễ hiểu bởi thực tế rồng và chim đều là
loài vật đẻ trứng. Chi tiết này còn hàm chứa ý nghĩa biểu tượng nhằm giải thích nguồn
gốc của giống nòi. Mọi người dân Việt Nam đều được sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ
Âu Cơ, bởi vậy nên được gọi là đồng bào, là anh em của nhau, cùng yêu thương, đùm
bọc và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tất cả những con người Việt Nam phải biết gắn
bó, đoàn kết với nhau để tạo nên sức mạnh dân tộc, chống lại mọi sự xâm lược của kẻ
thù.

Do không quen với cuộc sống trên cạn nên Lạc Long Quân đã từ biệt Âu Cơ và mang
theo năm mươi người con xuống biển, năm mươi người con còn lại theo Âu Cơ lên núi
để chia nhau cai quản các phương. Kẻ ở “chốn non cao”, kẻ ở “miền nước thẳm” nên
khi nào có việc thì giúp đỡ lẫn nhau. Cuộc chia tay ấy đã thể hiện ý nguyện mở rộng đất
đai để làm ăn, sinh sống của con người. Qua đó, hành động này cũng thể hiện tình đoàn
kết của các dân tộc Việt Nam. Họ không phân chia tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính, nơi ở,
tuổi tác mà luôn sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm và các
thế lực thù địch trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Truyền thống ấy đã được đúc kết
qua câu ca dao của dân gian:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng


Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Có thể nói, chính sức mạnh đoàn kết đã giúp dân tộc ta không ngừng lớn mạnh, phát
triển và hội nhập với các nước trên thế giới như ngày hôm nay. “Người con trưởng theo
Âu Cơ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt
tên nước là Văn Lang”, thiết lập triều đình, dựng xây đất nước. Triều đình có đầy đủ cả
tướng văn và tướng võ, con trai của vua được gọi là “lang”, con gái được gọi là “mị
nương”, “khi cha chết thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối
ngôi vua đều lấy hiệu là Hùng Vương”. Cũng từ sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ mà
người Việt Nam chúng ta đều tự hào khi nhắc đến nguồn gốc “con Rồng cháu Tiên”
của mình. Để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng, nhân dân ta đã xây lăng tưởng niệm.
Hằng năm, vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, người dân ở khắp mọi miền đất
nước đổ về  xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ để tham gia lễ hội tưởng
nhớ công ơn các vị vua Hùng. Nghi lễ giỗ tổ này đã trở thành tín ngưỡng được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nhân dân ta dù có đi
đâu, làm gì thì cũng đều ghi nhớ:

“Dù ai đi ngược về xuôi


Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

Truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” đã giúp chúng ta có được sự lí giải về nguồn gốc
giống nòi, về truyền thống đoàn kết của dân tộc. Bên cạnh đó, các chi tiết kì ảo cũng
góp một phần không nhỏ tạo nên sự thành công và sức hấp dẫn của tác phẩm.

https:/ Con Rồng cháu Tiên là truyền thuyết tiêu biểu trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam lí giải về nguồn gốc Tiên Rồng cao quý của con người Việt Nam. Để có
những cảm nhận chi tiết về những ý nghĩa, bài học sâu sắc được gửi gắm trong truyện,
BT6.Đóng vai nhân vật Âu Cơ kể lại câu chuyện Con Rồng Cháu Tiên

Ta tên là Âu Cơ, một thiếu nữ xinh đẹp thuộc dòng họ Thần Nông sống tại vùng núi
cao phương Bắc.

Vốn có sở thích thăm thú những miền đất lạ nên khi nghe nói ở một vùng đất tên là Lạc
Việt có rất nhiều hoa thơm, cỏ lạ, cảnh đẹp tuyệt trần ta đã tìm đường đến thăm thú.
Khi ta đến nơi đây, không chỉ bắt gặp cảnh đẹp mà còn gặp một vị thần mình rồng,
chàng trai có thân mình cao to từ từ hiện lên trên mặt nước. Nghe chàng giới thiệu, ta
mới biết đây chính là con trai của thần Long Nữ thuộc nòi giống rồng tên là Lạc Long
Quân, thường sống ở dưới nước khi có việc cần mới lên trên cạn. Chàng là vị thần bảo
vệ dân chúng khỏi bọn Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh, chàng còn dạy cho dân cách
trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở.

Cha mẹ ta luôn nhắc nhở ta chuyện gả chồng, ngày đêm khuyên bảo ta hãy chọn lấy
một người, nhưng trong số những người đến cầu hôn, chưa ai có thể khiến ta rung
động. Nay bỗng nhiên gặp được chàng Lạc Long Quân, ta mới gặp lần đầu nhưng đã
rung động trước tướng mạo và phong thái của một người anh hùng, khi đó ta cũng đã
biết trái tim mình đã lựa chọn chàng Lạc Long Quân, chỉ mong sao ta cũng có ấn tượng
gì đó với chàng. May sao chàng cũng có tình cảm với ta và chúng ta đem lòng yêu
nhau, cha mẹ ta rất vui mừng vì ta đã tìm được ý trung nhân của mình. Sau khi trở
thành vợ chồng, ta cùng chàng chuyển đến cung điện Long Trang, sống trên cạn rất vui
vẻ và hạnh phúc. Cuộc sống vợ chồng được ít lâu thì ta có mang, mang thai ròng rã suốt
chín tháng nhưng đến kỳ sinh lại có chuyện lạ, đến chính ta cũng không thể tin vào mắt
mình. Ta sinh ra không phải là một hài nhi mà là một chiếc bọc bên trong có rất nhiều
trứng, đếm ra mới biết có đến trăm quả. Rồi từ trăm quả trứng hồng đó nở ra một trăm
người con đẹp đẽ lạ thường. Khi ấy, ta vui mừng khôn xiết, ôm ấp từng đứa con của
mình vào lòng. Điều kỳ lạ hơn là các con của ta sinh ra không cần bú mớm sữa mẹ,
chúng cứ tự nhiên lớn lên nhanh như thổi, mặt mũi người nào cũng khôi ngô tuấn tú,
khỏe mạnh như thần.

Long Quân vốn quen sống dưới nước, nay phải sống trên cạn quá lâu cảm thấy không
ổn nên đã từ biệt mẹ con ta trở về thuỷ cung. Ta một mình nuôi con, cùng các con chờ
đợi chồng trong mòn mỏi, đến một ngày phải gọi chàng lên. Ta trách móc sao chàng nỡ
bỏ lại ta và các con, sao không ở lại cùng ta nuôi dạy chúng. Nhưng chàng đáp rằng:

· Ta là giống rồng ở miền nước thẳm, nàng lại là tiên chốn non cao, tính tình và tập
quán khác nhau rất khó để ăn ở lâu dài. Nay ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển còn
nàng hãy đưa năm mươi con lên núi, cùng nhau cai quản đến khi nào có việc sẽ giúp đỡ
lẫn nhau.

Khi ấy ta và đàn con đành nghe theo lời của Long Quân, chia nhau lên đường. Sau khi
dẫn năm mươi con lên núi, ta chọn sống tại vùng đất Phong Châu, chọn người con
trưởng lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang. Ta quy định rất
rõ ràng các tướng văn, võ trong triều rồi lấy tên gọi chung cho con trai vua là lang, con
gái vua là mị nương. Nếu vua cha chết sẽ truyền lại ngôi cho người con trưởng, từ đời
này sang đời sau vẫn lấy hiệu là Hùng Vương không thay đổi.

https://th BT7.Đóng vai nhân vật Lạc Long Quân kể lại chuyên Con Rồng Cháu Tiên.

Dàn ý
1. Mở bài:
- Mở bài trực tiếp, hóa thân vào nhân vật Lạc Long Quân, tự giới thiệu về mình và kể
chuyện: ta là Lạc Long Quân, con trai thần Long Nữ…
2. Thân bài:
- Giới thiệu nguồn gốc xuất thân: con trai thần Long Nữ, cai quản vùng Lạc Việt..; bày
tỏ suy nghĩ về nguồn gốc của mình: tự hào về nguồn gốc cao quý.
- Lạc Long Quân gặp Âu Cơ và kết duyên cùng Âu Cơ: Lạc Long Quân và Âu Cơ kết
duyên, sự kì lạ trong việc sinh nở của Âu Cơ: sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm con,
con nào con nấy hồng hào khỏe mạnh; cảm xúc của Lạc Long Quân: ta vô cùng kinh
ngạc và vui sướng.
- Lạc Long Quân, Âu Cơ cùng đàn con chia nhau cai quản các vùng đất
+ Lí do cuộc li biệt: sự khác nhau về điều kiện sinh sống, tập quán… của 2 giống Rồng-
Tiên
+ Lạc Long Quân chia sẻ với Âu Cơ và đàn con những trăn trở của mình, quyết định
chia nhau cai quản các vùng đất
+ Cuộc chia li diễn ra ngậm ngùi, da diết
- Long Quân và Âu Cơ cùng các con chia về 2 miền xuôi ngược, xây dựng chính quyền
(Nhà nước Văn Lang và các vua Hùng ra đời).
3. Kết bài
- Suy nghĩ, cảm nhận của Lạc Long Quân: ta tự hào về các con, các cháu của ta đã
trưởng thành; nhớ đến nguồn gốc tổ tiên mà biết đoàn kết, yêu thương nhau để cùng
xây dựng va bảo vệ lãnh thổ…
 Ta là Lạc Long Quân con trai thần Long Nữ, dòng dõi ta thuộc nòi rồng. Chính vì vậy
mà ta sống ở dưới nước, thỉnh thoảng ta lên cạn để giúp dân lành diệt trừ Ngư Tinh, Hồ
Tinh, Mộc Tinh và các loài yêu quái. Ta còn dạy cho dân chúng cách trồng trọt, chăn
nuôi và cách ăn ở. Khi ta xuất hiện trên cạn thì tất cả dân chúng đều rất kính trọng và
khâm phục tài năng của ta.
       Có lần, ta đã hoá phép giết chết năm loài quỷ quái, chuyên đi giết hại dân lành. Sau
khi bọn quỷ quái bị ta giết, người dân ở vùng này vô cùng sung sướng, họ đã đem rất
nhiều lễ vật quý báu đến dâng cho ta nhưng ta không hề nhận một thứ gì. Chính vì thế
họ càng kính phục tin tưởng vào tài năng và tấm lòng nhân đức của ta. Mỗi khi làm
xong việc ta lại trở về Thủy Cung và báo cáo với cha ta. Trước khi trở về Thuỷ Cung ta
còn dặn lại dân chúng khi nào gặp tai ương, hoạn nạn thì xuống biển gọi ta lên giúp.
       Một lần, ta đang cùng cha vui chơi dưới Thuỷ Cung, bỗng có tiếng kêu cứu của dân
chúng. Ta vội vàng từ biệt cha lên đường. Khi ta xuất hiện, ta đã phải chứng kiến một
cảnh thảm thương ở vùng núi phương Bắc. Đó là nạn Hồ Tinh, Mộc Tinh quấy nhiễu
dân lành. Chúng ăn thịt biết bao người dân vô,tội nơi đây khiến xương trắng phơi đầy
sau một quả núi to. Ta vô cùng căm phẫn đã truy tìm tới tận hang ổ của bọn Hồ Tinh và
Mộc Tinh.
       Ròng rã một tháng trời, ta mới quét sạch được lũ yêu ma này. Sau khi giết hết lũ
Hồ Tinh và Mộc Tinh, cuộc sống của người dân ở vùng này lại trở lại bình yên. Để đền
đáp công ơn của ta, họ đã mở hội ăn mừng to lắm: Bao nhiêu lễ vật họ đã dâng biếu cho
ta cùng tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng hò reo chào mừng chiến thắng náo
động cả một vùng. Đã lâu nay ta mới cảm nhận được cuộc sống ở trên cạn có nhiều
điều kì thú mà ở dưới Thuỷ Cung không có được. Cảnh núi non hùng vĩ với hoa lá chim
muông thật đẹp và thơ mộng. Ta quyết định ở vùng này một thời gian để vãn cảnh. Thế
rồi, vào một ngày đẹp trời, ta đang mải mê ngắm nhìn dòng sông chảy lững lờ quanh
một sườn núi cỏ cây xanh biếc thì thấy xuất hiện một thiếu nữ xinh đẹp cùng các hầu
nữ cũng đang hái hoa đuổi bướm dưới núi. Có lẽ vì mải mê với những bông hoa ven
sườn núi mả nàng đã bị ngã. Không ngần ngại gì, ta vội chạy tới đỡ nàng lên. Sau một
lúc trò chuyện ta đã biết được đó là nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp
tuyệt trần. Tiếng tăm của nàng ta đã được nghe đã lâu mà nay mới thấy. Ta đã đem lòng
yêu thương nàng và nàng cũng yêu ta. Ta và nàng đã trở thành vợ chồng cùng chung
sông ở cung điện Long Trang.
       Ít lâu sau, nàng có mang. Đến kì sinh, chuyện thật lạ, nàng sinh ra một cái bọc trăm
trứng; trăm trứng nở ra một trăm người con hồng hào, đẹp đẽ lạ thường. Đàn con chẳng
cần bú mớm mà tự lớn như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Thế rồi một
hôm, ở dưới Thuỷ Cung có việc lớn, cha ta gọi về. Ta đành phải từ biệt nàng và đàn con
về Thuỷ Cung, ở dưới đó cha ta đã già yếu nên rất cần ta ở lại giúp việc, nên ta chưa thể
về ngay với nàng cùng các con.
       Âu Cơ ở lại một mình nuôi con, tháng ngày chờ mong buồn tủi. Cuối cùng nàng
gọi ta lên mà than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp mà di, không cùng thiếp nuôi các con?
       Ta nói:
-Ta vốn nồi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ ở dưới nước
kẻ ở cạn tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được.
Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai
quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp dỡ lẫn nhau,
đừng quên lời hẹn.
       Nàng đã nghe lời ta, rồi ta chia tay nàng cùng năm mươi con xuống vùng biển.
Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở
đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang.
       Triều đình có tướng văn, tướng võ; con trai gọi là Lang, con gái gọi là Mị Nương;
khi cha chết thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền ngôi vua đều
lấy tên hiệu là Hùng Vương, không hề thay đổi.
       Mốì tình của ta và nàng Âu Cơ đã trở thành một sự tích đẹp lưu truyền trong dân
gian. Mỗi khi nhắc đến nguồn gốc của mình người Việt Nam thường tự xưng mình là
con Rồng cháu Tiên.

*******************************************

CHUYÊN ĐỀ 2:TRUYỆN CỔ TÍCH

I. CỦNG CÔ VÀ MỞ RỘNG KIÊN THỨC


1. Truyện cổ tích là tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu
có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân
đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
2. Truyện cổ tích có thể chia làm ba tiểu loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích loài
vật, truyện cổ tích sinh hoạt.
 Truyện cổ tích thần kì là tiểu loại tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Những truyện thuộc
tiểu loại này thường ra đời từ rất sớm và những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích đều
có thể tìm thấy ở kiểu truyện này. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích thần kì là sử
dụng yếu tố kì ảo một cách đậm đặc. Đó là một yếu tố không thể thiếu được của cốt
truyện, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng về một xã hội lí tưởng của nhân dần và
kết thúc truyện thường có hậu.
– Truyện cổ tích loài vật là kiểu truyện mà nhân vật là các con vật trong thế giới loài
vật. Tác giả dân gian thông qua các con vật, mối quan hệ của các con vật để gián tiếp
phản ánh xã hội con người, những mối quan hệ của con người trong xã hội.
– Truyện cổ tích sinh hoạt, là những truyện rạ đời khi mâu thuẫn và đấu tranh xã hội trở
nên gay gắt. Thực tế này đi vào trong truyện cổ tích đã làm cho yếu tố hoang đường kì
ảo giảm nhẹ và thay vào đó là các yếu tố hiện thực để phản ánh sâu sắc những sinh
hoạt- đời thường, những quan hệ gia đình và xã hội. Thông qua những bức tranh sinh
hoạt, những mối quan hệ này nhân dân đã gửi gắm những ước mơ về một xã hội công
bằng, dân chủ, phê phán cái ác và đề cao đạo đức, luân lí.
3. Đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích : Sau khi xã hội nguyên thuỷ tan rã, cùng với
sự xuất hiện thể loại truyền thuyết, truyện cổ tích đã ra đời. Nhưng khác với truyền
thuyết, đối tượng phản ánh của truyện cổ tích không phải là những nhân vật lịch sử hay
các sự kiện lịch sử mà là những quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống
hàng ngày, đặc biệt là số phận của những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội.
– Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội: Ra đời và phát triển trong xã
hội có phân hoá giai cập, truyện cổ tích rất chú ý tới việc phản ánh những mâu thuẫn
giai cấp, phản ánh những cuộc đấu tranh xã hội. Đi sâu vào mảng đề tài này, truyện cổ
tích chú ý khai thác những mâu thuẫn gia đình, tác giả dân gian quan niệm gia đình là
một xã hội thu nhỏ. Và với cái nhìn như vậy, truyện cổ tích đã lí giải những mâu thuẫn
gia đình trong mối tương quan vói các quan hệ xã hội. Chế độ phong kiến đề cao, coi
trọng người đàn ông thì trong gia đình nảy sinh mối quan hệ bất bình đảng giữa nam và
nữ, con trưởng và con út. Nếu gia đình là mái ấm của những đứa trẻ có đủ cha, đủ mẹ
thì những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ bị bỏ rơi lại bị hắt hủi và bóc lột tàn tệ…
Truyện cổ tích đã dựng nên những bức tranh trái chiều nhau giữa hai cảnh sống của giai
cấp thống trị và những người thuộc tầng lóp bị trị. Khi phản ánh những mâu thuẫn giai
cấp, những cuộc đấu tranh xã hội, các tác giả dân gian đã thể hiện một cái nhìn đầy cảm
thông, thương yêu, nâng đỡ những con người “nhỏ bé” gặp phái những cảnh ngộ trớ
trêu. Và ẩn sâu trong cái nhìn đó là một tinh thần phản kháng mạnh mẽ, mãnh liệt của
nhân dân lao động, đồng thời’Cũng ánh lên một niềm tin vào ngày mai tươi sáng.
– Truyện cổ tích phản ánh ước mơ của nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, cộng
bằng, dân chủ: Thực trạng xã hội được phản ánh trong truyện cổ tích là hết sức đen tối,
đầy rẫy những cảnh tượng đáng sợ. Trong gia đình thì anh cướp hết của cải eủa em
(Cây khê), chị giết em để cướp chồng (Sọ Dừa), anh nuôi lợi dụng, hãm hại và lừa gạt
em để cướp công (Thạch Sanh), mẹ con dì ghẻ hành hạ, sát hại con riêng của chồng
(Tấm Cám). Ngoài xã hội cũng đầy rẫy những cảnh bất công, oan trái, đói rét, thảm
thương (Chim Huýt-cô, Chủ Đồng Tử, Bò béo bò gầy, Sự tích con muỗi…). Hơn bất kì
một thể loại văn học dân gỉan nào khác, truyện cổ tích đã xây dựng thành công một thế
giới hiện thực trong những “giấc mơ”. Và qua những “giấc mơ” ấy người dân lao động
đã trực tiếp trình bày, phản ánh khát vọng của mình về một xã hội công bằng, dân chủ.
Ở dó những người dân lương thiện, nghèo khổ, hiền làrih, chăm chỉ làm ãn sẽ được
hưởng hạnh phúc xứng đáng với đạo đức và tài nâng của họ, đồng thời những kẻ ác sẽ
bị trừng trị đích đáng.
     Trong “thế giới cổ tích” người dân lao động không chỉ ước mơ về một xã hội công
bằng, dân chủ mà còn có cả những ước mơ khác, bay bổng và đẹp đẽ. Đó là ước mơ về
lao động nhẹ nhàng: trong một đêm xây được cả một toà lâu đài tráng lệ; giao thông
thuận tiện: tấm thảm biết bay, đôi hài vạn dặm; đời sống vật chất phong phú mà không
cần phải lao động vất vả: con người chỉ cần trải khăn ăn hoặc ngả mâm thần ra là có đủ
thứ thức ăn sơn hào hải vị, ước mơ sống lâu, ước mơ có những công cụ lao động và vũ
khí tốt để lao động và chiến đấu có hiệu quả…
– Truyện cổ tích đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức xã hội: Truyện cổ tích đề cao,
ca ngợi những tình cảm đạo đức xã hội theo hai khuynh hướng: đề cao, ca ngợi và phê
phán, lên án.
+ Khuynh hướng thứ nhất, đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức tốt đẹp. Theo
khuynh hướng này, chúng ta thấy trong “thế giới cổ tích” người dân lao động không chỉ
đơn thuần là phản ánh những mâu thuẫn xã hội hay trình bày những khát vọng về một
xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ mà còn đề cao, ca ngợi nhũng tình cảm đạo đức xã
hội tốt đẹp theo những quan điểm thẩm mĩ của mình. Đó là tình nghĩa vợ chồng thuỷ
chung son sắt [Sự tích đá Vọng Phu, Sự tích con sam), là tình bạn keo sơn thắm thiết
[Sự tích chim quốc, Ba người bạn), là tình anh em, vợ chồng gắn bó thắm thiết [Sự tích
trầu cau), là tình người nhân hậu (Người trồng mía và người đi đường, Tấm Cám – bà
hàng nước cưu mang che chở cho cô Tấm).
+ Khuynh hướng thứ hai: Truyện cổ tích phê phán, lên án những thứ phi đạo đức trong
xã hội. Đối với những trường họp này, nhân dân coi đây là những bài học bổ ích để
cảnh tỉnh những kẻ ác, cái ác đang hoành hành trong xã hội: kết thúc truyện cổ tích
người “ở hiền” sẽ “gặp lành”, còn cái ác, kẻ ác bao giờ cũng bị trừng trị đích đáng.
Không chỉ vậy, nhân dân còn muốn coi truyện cổ tích là những liều “thuốc đắng dã tật”
hay nhắc nhở, khuyên răn cho những ai đã và đang cố tình lãng quên tình nghĩa anh em,
vợ chồng, cha mẹ, làng xóm, để củng cố vun đắp những tình cảm tốt đẹp trong gia đình,
họ hàng, làng xóm.
Những quan niệm đạo đức thể hiện trong truyện cổ tích được chắt lọc từ chính trong
kinh nghiệm ứng xử thực tế, đồng thòi là những lí tưởng đạo đức mà nhân dân muốn
xây dựng. Do vậy nó vừa quen lại vừa lạ, vừa gần gũi vừa cao cả, vừa đời thường vừa
thánh thiện. Nó không chỉ là cáị vốn có trong cộng đồng mà còn là cái sẽ có, cần có để
cho cuộc đòi ngày càng tốt đẹp hon.
5. Đặc sắc về nghệ thuật
– Cốt truyện và kết cấu
+ Cốt truyện của truyện cổ tích íà sự đan cài của một loạt những mô-típ theo một hệ
thống nhất định. Do vậy, trong truyện cổ tích hầu như không có những cốt truyện độc
lập. cốt truyện của truyện cổ tích thường ngắn gọn, ít tình tiết phức tạp. Nó không có
những chi tiết rườm rà mà thay vào đó là những công thức trần thuật đơn giản, gọn nhẹ.
Truyện được kể trung thành theo trục thòi gian : việc gì xảy ra trước thì kể trước, việc
gì xảy ra sau thì kể sau.
+ Truyện cổ tích thường có một số kết cấu như sau:
Kết cấu một trục thẳng: Đây là kiểu kết cấu mà cốt truyện có một nhân vật chính, nhân
vật này hành động liên tiếp, các nhân vật và các sự kiện bị chi phối bởi những hành
động của nhân vật chính. Ví dụ Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Lọ nước thần…
Kết cấu ba chặng tăng cấp: Đây là kiểu kết cấu có cốt truyện được chia làm ba chặng,
mỗi một chặng là một thử thách với nhân vật mà thử thách sau cao hơn thử thách trước.
Khi nhân vật chính vượt qua thử thách thứ ba là lúc nhân vật đạt được mục đích cuối
cùng và cũng là lúc kết thúc truyện. Ví dụ Thạch Sanh.
Kết cấu đồng quy: Đây là kiểu kết cấu mà nhân vật được chia làm hai tuyến. Hai tuyến
nhân vật này đều đứng trước những thử thách như nhau. Những thử thách này là các
tình huống mà nhân vật phải trải qua. Và trong quá trình xử lí các tình huống này thì
bản chất nhân vật sẽ được bộc lộ và dẫn đến những kết thúc trái ngược nhau. Ví dụ
truyện Cây khế, Hai cô gái và cục bướu…
– Nhân vật: Nhân vật chính trong truyện cổ tích là những con người bé nhỏ tầm
thường. Ở các .cốt truyện chia làm hái tuyến nhân vật thì nhân vật thiện luôn là những-
người nghèo khổ có tài có đức, luôn bị áp bức bóc lột. Họ là những con ngưòi hoàn hảo
về mọi mặt, tiêu biểu cho quan niệm thẩm mĩ của nhân dân. Ngược lại nhân vật ác thì
lại ác và xấu đến tột cùng. Chúng là những kẻ có lòng dạ nham hiểm, tham lam vô độ.
Ngược lại ở những truyện không chia hai tuyến đối lập thì nhân vật chính của truyện
thường đứng ở một cực nào đó, hoặc là xấu hoặc là tốt, tính cách này không phát triển
và cũng không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhân vật trong truyện cổ tích thường mang
tính chất đại diện chứ không mang tính cá nhân, cá thề. Họ là đại diện cho một tầng lóp
hay một nhóm người nào đó, mang tính khái quát chung chung về một loại nhân vật
(nhân vật chức năng). Do tính chất này mà nhân vật truyện cổ tích mang tính phiếm chỉ.
– Yếu tố thần kì: Yếu tố thần kì là kết quả của những hư cấu dưới ánh sáng trí tưởng
tượng kì ảo và bay bổng của nhân dân. Yếu tố thần kì này có thể là những nhân vật thần
kì như ông Bụt, cô Tiên, Thiên Lôi, Ngọc Hoàng, phù thũỷ, yêu tinh…, cũng có thể là
những đồ vật hay vật thể thần kì như gậy thần, khăn thần, mâm thần, đàn thần, niêu
thần…, cũng có thể là những con vật thần kì như ngựa thần, chim thần, rắn thần…
Trong truyện cổ tích Việt Nam, nhân vật thần kì chia làm hai loại: những ông Bụt, bà
Tiên luôn tốt bụng, giàu lòng thương người luôn hiện lên để giúp đỡ những kẻ thấp cổ
bé họng còn những phù thuỷ, yêu tinh thì luôn độc ác, làm hại người. Khác với các
nhân vật thần kì, các đồ vật thần kì và con vật thần kì phần lớn không đứng riêng về
phe nào cả, ai có nó là làm chủ được nó. Ví dụ ngựa thần, chim thần, mâm thần giúp tất
cả những ai là chủ nhân của chúng. Khi tham gia vào truyện cổ tích, các yếu tố thần kì
có nhiều tác dụng khác nhau, nhờ có nó mà cốt truyện có thể kéo dài hay rút ngắn theo
ý người kể chứ không phụ thuộc vào lô-gíc thực tế. Nhờ có yếu tố thần kì này mà
truyện cổ tích hấp dẫn mọi lứa tuổi, mọi thời đại, thể hiện một cách sinh động những
ước mơ của nhân dân lao động.

VĂN BẢN: THẠCH SANH

Đây là truyện cổ tích về người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người
bị hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa và chống quân xâm lược. về sự ra đòi và lớn lên
của Thạch Sanh có tả những nét bình thường và những nét khác thường. Những nét
bình thường như lớn lên trong cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ, Thạch Sanh sống vừa thiếu
thốn tình cảm, vừa thiếu thốn cả về vật chất… gợi lên ở người nghe truyện một niềm
xót xa, thương cảm. Đó là một phần của cái tâm lí, tâm thế mà truyện cổ tích rất cần tạo
nên nơi người nghe – tạo nên ngay từ lúc mở. đầu truyện. Còn những nét khác thường
như là thái tử trên trời do Ngọc Hoàng sai xuống đầu thai, được thiên thần dạy võ nghệ
và các phép thần thông… Điều đó mở ra hướng phát triển tiếp của câu chuyện. Truyện
sẽ kể về diễn biến của một số phận tuy bình thường mà lại khác thường. Truyện lôi
cuốn người nghe một phần do cái tâm lí, tâm thế mà nó tạo nên nơi người nghe kể: tâm
lí háo hức chờ theo dõi một số phận tưởng như bình thường mà lại đầy sự khác thường.
Cả hai phần, hai nửa tâm lí, tâm thế ấy họp lại thành cái mà người ta gọi là tăm lí nghệ
thuật khi nghe kể chuyện cổ tích.
Diễn tiến số phận của Thạch Sanh được tạo thành bởi những trở ngại mang ý nghĩa thử
thách mà chàng liên tiếp gặp phải. Đó là quá trình chàng liên tiếp lập được những chiến
công thần kì, khác thường. Những Lí Thông, chằn tinh, đại bàng và liên tiếp quân mười
tám nước chư hầu là những lực lượng thù địch gây trở ngại cho Thạch Sanh. Nhũng trở
ngại đó càng về sau càng gay gắt hơn, và do vậy, những thử thách mà nhân vật lí tưởng
trải qua cũng ngày càng khó khăn. Nhưng cũng vì thế những chiến thắng của nhân vật
sau mỗi lần vượt qua thử thách cũng ngày càng cao hơn. Đó là quá trình nhân vật chính
trở thành nhân vật lí tưởng. Trong quá trình ấy, nhân vật luôn được sự trợ thủ của các
nhân vật thần kì.
Những phẩm chất mà Thạch Sanh bộc lộ qua mỗi lần vượt qua (chiến thắng) thử thách
đó là sự thật thà, chất phác, lòng thương người, sẵn sàng quên mình vì người khác; là
lòng dũng cảm phi thường và tài năng khác thường; là lòng nhân đạo, khoan dung…
Nhân dân Việt Nam yêu mến Thạch Sanh, thích kể và nghe kể chuyện về Thạch Sanh
chính là do lòng ngưỡng mộ của họ trước những phẩm chất và tài năng của chàng. Họ
coi đó là những phẩm chất và tài năng lí tưởng mà họ mơ ước.
Nhân vật tương phản với Thạch Sanh là Lí Thông, về mọi phương diện, Lí Thông đều
trái ngược với Thạch Sanh. Lí Thông gian xảo, chỉ quen tính toán có lợi cho mình và
nhiều mưu mô, đùng mưu mẹo gian ngoan xảo quyệt để cướp công của người khác mà
sống, hưởng thụ. Kết cục là dù được Thạch Sanh tha chết nhung Lí Thông vẫn bị thần
sét đánh chết (cùng mẹ hắn), hơn thế lại còn bị biến thành bọ hung. Sự đối lập giữa
Thạch Sanh vói Lí Thông là sự đối lập giữa thiện với ác, thật thà với gian xảo, vị tha
với ích kỉ, tài năng với bất tài. Xây dựng những mẫu nhân vật tương phản tuyệt đối như
vậy là đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện cổ tích (tiểu loại truyện cổ tích thần kì).
Nhân vật phản diện là đối tượng chiến thắng của nhân vật chính diện, đồng thòi có tác
dụng làm nổi bật nhân vật chính diện.
Trong truyện Thạch Sanh, có một số chi tiết thần kì, đặc sắc nhất là hai chi tiết: cây đàn
£hần kì và niêu cơm thần kì. Cây đàn cùng âm thanh thần kì của nó chính là tiếng đàn
của công lí, thực hiện ước mơ về công lí của nhân dân. Nhưng đây cũng là tiếng đàn
hoà bình dùng để chiến thắng và cảm hoá kẻ thù. Với ý nghĩa này, cây đàn thần kì
tượng trưng cho tinh thần yêu chuộng cái thiện, yêu chuộng hoà bình của nhân dân ta
trong quan hệ đối ngoại. Niêu com thần kì mang nhiều ý nghĩa: tượng trưng cho sự
sáng tạo vô cùng tận của nhân dân lao động; biểu hiện tài năng thần kì, phi thường của
nhân vật Thạch Sanh; tượng trưng cho truyền thống nhân đạo của dân tộc ta trong quan
hệ đối ngoại; phản ánh ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động về sự no đủ, hạnh
phúc. Cả hai chi tiết thần kì này, cùng với các chi tiết thần kì khác góp phần quan trọng
tạo nên vẻ đẹp kì diệu và sức hấp dẫn kì lạ của truyện cổ tích.
Truyện kết thúc bằng việc Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa, lại được lên ngôi
vua cùng sự thất bại hoàn toàn, thảm hại của các nhân vật thù địch. Đó là kiểu kết thúc
có hậu phổ biến ở các truyện cổ tích thần kì. Kiểu kết thúc ấy biểu hiện ước mơ về công
lí xã hội (Ớ hiền gặp lành, ở ác gặp ác), ước mơ về hạnh phúc, ước mơ về những mẫu
người lí tưởng. Kiểu kết thúc này một mặt thoả mãn nhu cầu của nhân dân về cái đẹp
(cái đẹp ở trong con người, cái đẹp ngoài cuộc đời), một mặt góp phần làm nên ý nghĩa
giáo dục sâu sắc của thể loại truyện cổ tích.
1. Giá trị nội dung

Thạch Sanh là truyện cổ tích về người dùng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng cứu người
bị hại, vạch mặt kẻ vong ân, bội nghĩa và chống quân xâm lược. Truyện thể hiện ước
mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hòa bình của nhân
dân ta.
2. Giá trị nghệ thuật

- Truyện sử dụng nhiều chi tiết tưởng tượng thần kì độc đáo và giàu ý nghĩa (sự ra đời
và lớn lên của Thạch Sanh, cung tên vàng, cây đàn thần, niêu cơm thần…)

- Xây dựng hai nhân vật đối lập

II. Phân tích văn bản Thạch Sanh


I. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại truyện cổ tích (khái niệm, các kiểu nhân vật, đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật…)

- Giới thiệu về truyện cổ tích “Thạch Sanh” (tóm tắt, khái quát giá trị nội dung và giá
trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh

- Là thái tử con của Ngọc Hoàng

- Mẹ mang thai nhiều năm

- Mồ côi cha lớn lên bằng nghề kiểm củi, không lâu thì mẹ qua đời

- Được thần dạy đủ võ nghệ và tài giỏi

→ Vừa bình thường, vừa khác thường. Bình thường ở chỗ Thạch Sanh là con của nông
dân, sống nghèo khổ bằng nghề tiều phu. Khác thường ở chỗ Thạch Sanh là thái tử con
của Ngọc Hoàng, được mang thai trong thời gian dài, được chỉ dạy võ nghệ tinh thông
-Bình thường:

→ Thể hiện ước mơ niềm tin con người bình thường cũng có tài năng hơn người.

2. Những thử thách và chiến công của Thạch Sanh

- Bị mẹ con Lý Thông lừa đến miếu hoang để thế mạng. Giết được chằn tinh, nhặt
được cung tên vàng, bị Lí Thông cướp công.

- Xuống cứu công chúa lại bị Lý Thông lấp cửa hang về giành chiến tích.

- Giết đại bàng, cứu được con trai vua Thủy tề và được tặng cây đàn thần

- Bị hồn chằn tinh và đại bàng báo thù, Thạch Sanh bị vu oan và bị bắt vào ngục.

   + Tự minh oan cho mình

   + Thật thà kể lại mọi chuyện


→ Thạch Sanh được minh oan. Vua giao cho Thạch Sanh xét xử hai mẹ con Lí Thông
nhưng chàng không giết mà cho về quê làm ăn, trên được về thị bị sét đánh chết, hóa
thành con bọ hung. Điều này cho thấy quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo của
nhân dân ta

→ Thạch Sanh là chàng trai dũng cảm, tài năng, thật thà, chất phác và khoan dung.

3. Thạch Sanh cưới công chúa, lên ngôi vua và lui yên quân chư hầu

- Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh, lễ cưới của họ tưng bừng nhất kinh kì

- Hoàng tử bị công chúa từ hôn nổi giận, binh lính mười tám nước kéo sang đánh

- Thạch Sanh một mình cầm cây đàn ra trước quân giặc, tiếng đàn của chàng khiến
binh lính phải cởi áo xin hàng và dọn cơm thết đãi những kẻ thua trận

- Thạch Sanh lên ngôi vua

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:

   + Nội dung: Truyện thể hiện ước mơ đạo lí của nhân dân: Thiện thắng ác, chính
nghĩa thắng gian tà, hòa bình thắng chiến tranh…

   + Nghệ thuật: sử dụng chi tiết tưởng tượng thần kì, xây dựng hai nhân vật tương
phản, đối lập

- Bài học cho bản thân: tin tưởng vào sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác, biết
nhận diện cái ác, cái xấu….

NHỮNG CHI TIẾT LƯU Ý

* Tiếng đàn hóa giải và niêu cơm nhân nghĩa


    Truyện cổ tích Thạch Sanh bắt nguồn từ một cốt truyện dân gian phổ biến trên thế
giới ngợi ca người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Khi “nhập
cư” vào mảnh đất trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, truyện cổ tích ấy nảy cành, thêm lá, nở
hoa, kết trái, mở rộng thêm nội dung, ý nghĩa. Chàng dũng sĩ ấy có quê quán cụ thể :
tỉnh miền núi Cao Bằng, mang tên cụ thể : Thạch Sanh với ý nghĩa “người con được
sinh ra từ đá”. Chàng lại có nguồn gốc sâu xa : vốn là thái tử con Ngọc Hoàng Thượng
đế… Do đó, câu chuyện về dũng sĩ Thạch Sanh, không chỉ ca ngợi công lao diệt loài
vật ác trên núi, trên trời mà còn diệt cả ác quỷ dưới nước, đấu tranh vạch mặt kẻ vong
ân bội nghĩa, chống ngoại xâm, bảo vệ non sông Tổ quốc, vẻ đẹp tài năng, đạo đức của
Thạch Sanh đậm đà bản chất Việt Nam. Những chiến công của Thạch Sanh thể hiện
ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hoà bình của
nhân dân ta. Những giá trị nội dung ấy của tác phẩm được thể hiện bằng nhiều tình
huống, chi tiết và hình ảnh thần kì độc đáo như : sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh,
cung tên vàng, cày đàn thần và niêu cơm thần. Thêm nữa, cùng với văn bản kể miệng
bằng văn xuôi, cổ tích Thạch Sanh còn được sáng tác bằng một truyện thơ Nôm, theo
thể lục bát ra đời khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm toát ra bao nhiêu
ý nghĩa nội dung, hiển hiện bao nhiêu hình ảnh nghệ thuật độc đáo. Nổi bật nhất trong
truyện kể văn xuôi cũng như trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh là hình ảnh cây đàn,
tiếng đàn thần và niêu cơm thần. Có thể nói đó là “tiếng đàn hoá giải”, đó là “niêu cơm
nhân nghĩa”.
    1. Trước hết, chúng ta hãy lắng nghe và suy nghĩ về tiếng đàn của Thạch Sanh.
Chẳng rõ, sau khi nhận cây đàn kỉ niệm của vua Thuỷ Tề, trở lại dương thế, tiếp tục
sống cuộc đời lam lũ, Thạch Sanh đã luyện được phép màu kì diệu nào mà khi tiếng
đàn cất lên ở trong ngục, nó nỉ non, thánh thót, nhiều cung, nhiều nghĩa đến thế. Truyện
văn xuôi chỉ kể ngắn gọn : “Thạch Sanh ngồi trong ngục tối, đem đàn của vua Thuỷ Tề
cho ra gảy”. Còn truyện thơ thì miêu tả tiếng đàn ấy rất cụ thể :
Đàn kêu : Ai chém chằn tinh
Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang ?
Đàn kêu : Ai chém xà vương
Đem nàng công chúa triều đường vê đây ?
Đàn kêu : Hỡi Lí Thông mày
Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân ?
Đàn kêu : Sao ở bất nhân
Biết ăn quả lại quên ân người trồng ?
    Nhân danh công lí, tiếng đàn ấy đã thay lời nạn nhân oan uổng nói to lên, vang lên
tất cả sự thật, bênh vực người có công, tố cáo kẻ gian xảo, cướp công, gây tội ác, bất
nghĩa, bất nhân. Âm thanh, nhịp phách của tiếng đàn rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát,…
như tiếng vị quan toà phân xử rạch ròi như lưỡi rìu, mũi tên chàng dũng sĩ nhằm giữa
mặt kẻ quyển cao chức lớn, nhưng chúng là thủ phạm gieo đau khổ cho người dân
lương thiện. Tiếng đàn của Thạch Sanh vang lên giữa thanh thiên bạch nhật, nói rõ tất
cả mọi lẽ đời ân oán, nghĩa tình, vọng từ ngục tối, vọng khấp kinh thành, vọng tới cung
vua. Nghe tiếng đàn, nàng công chúa bấy lâu im tiếng, nay “bỗng cười nói vui vẻ”.
Thạch Sanh được gặp nhà vua. Tiếng đàn ấy đã hoá giải mọi bi kịch của cuộc đời chàng
Thạch Sanh dũng sĩ – nghệ sĩ. Tên Lí Thông độc ác bị trừng phạt. Công lao, tài đức của
Thạch Sanh được đền đáp. Tiếng đàn có phép thần thông kì diệu, hay đó chính là khát
vọng công lí, khát vọng nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc ta ? Trong các truyện cổ tích
khác, niềm khát vọng đó thường được biểu hiện bằng hình tượng Tiên, Bụt, hoặc những
biến hoá huyền ảo, hoang đường. Ở truyện Thạch Sanh, tác giả dân gian sử dụng “tiếng
đàn” biết nói, nói thấu tình, đạt lí để đấu tranh cho lẽ phải, giành lấy hạnh phúc. Hình
tượng “tiếng đàn” vừa gần gũi vừa độc đáo và đậm chất nghệ sĩ.
    Độc đáo và nghệ sĩ hơn nữa là từ trong nhà ngục, từ tay chàng dũng sĩ – tù nhân đơn
độc, tiếng đàn ra giữa chiến trường, từ tài năng, đức độ của một phò mã, tấu lên sức
mạnh chính nghĩa, khát vọng hoà bình. Trước quân tướng của mười tám nước chư hầu
đầy hận thù và tham vọng xâm lược, thay mặt nhà vua, thay mặt triều đình và cả dân
tộc, Thạch Sanh một mình cầm cây đàn ra trước quân giặc, tấu lên khúc nhạc thần kì.
“Tiếng đàn của chàng vừa cất lên thì quân sĩ mười tám nước bủn rủn tay chân, không
còn nghĩ được gì tới chuyện đánh nhau nữa”. Lời kể chỉ ngắn gọn một câu mà gợi cho
người đọc, người nghe bao nhiêu tưởng tượng, suy nghĩ. Tiếng đàn của Thạch Sanh đã
ngân vang những cung bậc gì mà kì diệu đến thế, có sức thuyết phục con người đến
thế ? Phải chăng đấy là tiếng nói nhân nghĩa, yêu chuộng hoà bình của cả triều đình, cả
dân tộc ta lúc bấy giờ. Trước kia, tiếng đàn của Thạch Sanh cất lên từ ngục tối, như
tiếng én gọi xuân, thức dậy tâm hồn, tình yêu của nàng công chúa. Nó hoá giải bi kịch
riêng cho chàng dũng sĩ. Giờ đày, tiếng đàn ấy ngân vang “như nước cành dương tưới
nhuần” (lời miêu tả tiếng đàn trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh). Như vậy, tiếng đàn
Thạch Sanh đã hoá giải một tình thế khó khăn, nguy cấp – có thể coi là một bi kịch của
cả dân tộc. Sáng tạo ra hình tượng tiếng đàn có sức mạnh chiến thắng như thế, phải
chăng các tác giả truyện cổ tích Thạch Sanh (cả trong truyện kể và truyện thơ) muốn
ngợi ca một chiến lược quan trọng của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm ? Đó là nghệ thuật “mưu phạt tâm công” – đánh vào lòng người, dùng văn
chương, nghệ thuật hỗ trợ cho thanh gươm, khẩu súng. Từ “tiếng đàn Thạch Sanh”,
chúng ta nhớ tới bài thơ Nam quốc sơn hà đời Lí, những bức thư Nguyễn Trãi thuyết
hàng giặc Minh đời Lê và biết bao tác phẩm văn nghệ khác ở các giai đoạn lịch sử sau
này. “Tiếng đàn Thạch Sanh”, binh pháp Việt Nam kì diệu biết bao !
    2. Niêu cơm nhân nghĩa
    Chiến thắng của tiếng đàn Thạch Sanh mới chỉ ở chặng đầu. Quân chư hầu mười tám
nước bằng lòng lui binh. Các hoàng tử cởi giáp xin hàng. Nhưng đội ngũ vẫn trùng
trùng điệp điệp trước kinh thành. Làm thế nào đây ? Phải cấp lương thực để cho chúng
no bụng, vui vẻ về nước chứ. Lúc bấy giờ nhà vua lo lắng. Cả triều đình lo lắng, nghĩ
kế, bày mưu. Thạch Sanh chẳng nghĩ nhiều, chàng sai dọn một bữa cơm thết đãi kẻ bại
trận. Bữa cơm… chỉ vẻn vẹn có “một niêu cơm tí xíu” khiến lũ giặc “bĩu môi”, như chế
giễu, như hỏi han, chất vấn. Thạch Sanh “đố họ ăn hết và hứa sẽ trọng thưởng”. Một
câu đố – một bài toán, lại xuất hiện “bài toán” trong tác phẩm. Đơn giản quá, dễ dàng
quá, cái “bài toán niêu cơm”. Vậy mà, hàng vạn quân của mười tám nước chư hầu
không giải được bài toán ấy. Chúng đành phải “cúi đầu lạy tạ vợ chồng Thạch Sanh rồi
kéo nhau về nước”. Chao ôi ! Niêu cơm của Thạch Sanh, cái vật dụng đất nung nhỏ bé,
bình thường mà sao có sức chứa lớn lao phi thường như vậy. Thật lạ lùng và thú vị !
Tôi chợt nhớ thành ngữ xưa “nước lọ, cơm niêu” cha ông ta dùng để thở than về cuộc
sống thiếu thốn, đói nghèo từng đày đoạ bao kiếp người lao động.
    Rồi nhớ, một lần nhà thơ Xuân Diệu giải thích câu tục ngữ “Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng”, rằng : “Tại sao phải ăn trông nồi ? Vì nếu không “trông nồi” để liệu mà xới
cơm, bớt miệng thì, con ơi, cháu ơi, bay sẽ ăn hết cả phần ông bà, cha mẹ, anh chị em !
Khổ cực thế ! Bốn nghìn năm nay, cái nồi cơm, cái niêu cơm Việt Nam nó nhỏ lắm, nó
bé lắm. Nhưng cũng bốn nghìn nằm nay, dân tộc Việt Nam chúng ta biết dạy nhau,
nhường nhịn nhau để sống, để đánh giặc, giữ nước, dựng nước…”. Và tôi nhớ lại
truyền thuyết về đạo sĩ Nguyễn Minh Không triều đại nhà Lí. Đạo sĩ ở ẩn trong rừng,
dưới túp lều tranh, ngày ngày chỉ ăn một niêu cơm, vẫn khoẻ mạnh, tìm thuốc, chữa
bệnh cho dân quanh vùng. Triều đình cử một đoàn sứ giả đến mời Minh Không về chữa
bệnh cho vua. Khách có hơn chục người. Minh Không chỉ thổi một niêu cơm đãi. Đoàn
người ăn mãi không hết, niêu cơm vơi rồi lại đầy. Chẳng biết cái “niêu cơm” trong
thành ngữ, tục ngữ, trong truyền thuyết xa xưa và trong sự cảm nhận của thi sĩ Xuân
Diệu ngày nay có liên quan gì với “niêu cơm” của Thạch Sanh không mà sao nó trở
thành một hình tượng kì vĩ trong tâm thức biết bao thế hệ người Việt Nam, từ người
nghệ sĩ bình dân đến những nhà văn, nhà thơ bác học đến như vậy ? Dù nguyên cớ gì
thì “niêu cơm” nhỏ xinh ấy đã trở thành một hình tượng thẩm mĩ đặc sắc khiến cho câu
chuyện “dũng sĩ giết chằn tinh trừ hại cho dân”, “dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp”
trong nhiều thần thoại, cổ tích của thế giới trở thành cổ tích Thạch Sanh đậm đà chất
Việt Nam, đích thực là sản phẩm tinh thần độc đáo của trí tuệ, tàm hồn Việt Nam. Khác
với tiếng đàn, niêu cơm chẳng nói nửa lời, cứ lặng lẽ vơi rồi đầy, giúp cho một người
no nê, sảng khoái, rồi mười người, trăm ngàn người, biến họ từ những kẻ hung dữ, kiêu
ngạo thành người hiền lành, phục thiện. Từ sản vật bình thường, niêu cơm đem lại cho
Thạch Sanh sức mạnh tinh thần phi thường, to lớn. Nó tượng trưng cho lòng bao dung,
độ lượng, chí tình, chí nghĩa của chàng dũng sĩ xuất thân dân dã. Nó bắt nguồn từ
truyền thống khoan hồng, từ chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam mà biết bao anh hùng cứu
nước từng thực hiện và nhắc nhở. Sau chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã viết (và
đã thực hiện) : “Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà
vẫn hồn bay phách lạc ; Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến
nước mà vẫn tim đập chân run…” (Bình Ngô đại cáo).
    Khi lãnh đạo nhân dân ta chống giặc Mĩ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nhắc : Nếu quân giặc từ bỏ ý chí xâm lược, thì dân tộc ta sẽ trải chiếu hoa tiễn họ về
nước. Niêu cơm Thạch Sanh không chỉ là biểu tượng cho đạo lí Việt Nam trong công
cuộc giữ nước mà còn là khát vọng nghìn đời của cả dân tộc ta về miếng ăn, về của cải
vật chất có để nuôi sống mình, gia đình mình và để cho kẻ thù nể sợ. Sáng tạo ra hình
tượng “niêu cơm” ở cuối câu chuyện, tác giả truyện cổ tích Thạch Sanh thực sự rất am
hiểu, rất mến yêu và trân trọng quê hương, đồng ruộng, hạt gạo, nồi cơm, tâm hồn, khát
vọng cùng biết bao giá trị khác nữa trên mảnh đất và trong tâm hồn Việt Nam. Cái thời
“nước lọ, cơm niêu” đói khổ đã qua rồi. Ngày nay, ở nhiều khách sạn của nhiều thành
phố Việt Nam, “cơm niêu” xuất hiện trở lại, như một biểu tượng của đặc sản cao cấp
Việt Nam, thật là thú vị !
    Không biết, khi mời khách, nhất là khách nước ngoài, các nhà hàng có kể cho họ
nghe về cái “niêu cơm” Thạch Sanh huyền thoại – sản phẩm thần kì của mảnh đất trí
tuệ và tâm hồn dân tộc ta ? Những hình tượng thẩm mĩ độc đáo một khi bắt nguồn từ
cuộc sống, nhất là cuộc sống đẫm mồ hôi và nước mắt của người lao động, qua sự sáng
tạo tài tình của người nghệ sĩ thì nó sẽ trẻ mãi không già, sẽ trường tồn và trở đi trở lại
với chúng ta trong cuộc sống, cũng như trong lòng người.
    So với những truyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam
như Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây khế, Trầu cau, Sợ Dừa,… cổ tích Thạch Sanh có nội
dung, kết cấu, số phận, tính cách nhân vật phong phú, đa dạng hơn nhiều. Nhân vật
Thạch Sanh trong truyện vừa mang những nét đặc trứng của các nhân vật dũng sĩ trong
anh hùng ca thời thị tộc – bộ lạc, vừa có những nét tính cách và số phận tiêu biểu cho
loại nhân vật trong cổ tích thần kì ra đời trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vì thế, Thạch Sanh vừa là biểu tượng cho con người lương thiện, nêu cao điều thiện, để
đấu tranh diệt trừ cái ác vừa là người anh hùng tài năng, trí dũng vẹn toàn chiến đấu
chống ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Đỉnh cao của phẩm chất nhân nghĩa, anh hùng
trong Thạch Sanh phải chăng là tiếng đàn và niêu cơm ? Kéo tấm màn huyền thoại,
hoang đường, sương khói kì ảo của trí tưởng tượng dân gian, chúng ta nhìn thấy được
những chứng tích lịch sử, lắng nghe được những tiếng nói của cha ông về khát Vọng
hoà bình, no ấm tự ngàn đời nay vọng lại. Tiếng đàn Thạch Sanh hay chính là văn hoá,
văn học nghệ thuật Việt Nam có khả năng hoá giải mọi bi kịch ? Niêu cơm Thạch Sanh,
hay chính là hạt thóc, nồi cơm, của cải vật chất trên mảnh đất Việt Nam đã từng nuôi
lớn dân tộc, đã từng chiến thắng ngoại xâm và sẽ mãi mãi đem lại ấm no, hạnh phúc
cho mỗi gia đình, cho mọi người Việt Nam chúng ta ? Ôi, tiếng đàn kì diệu, niêu cơm
nhỏ bé mà có sức chứa vô hạn, vô biên, đáng yêu, đáng nhớ làm sao !
II. LUYỆN TẬP
Bài tập
1. Hãy tìm các chi tiết hoang đường trong các truyện cổ tích Sọ Dừa, Thạch Sanh, Cây
bút thần, Ông lão đánh cá và con cá vàng. Việc sử dụng các chi tiết hoang đường này
có ý nghĩa gì?

Gợi ý
1.  – Các chi tiết hoang đường trong các truyện cổ tích:
+ Sọ Dừa: Đó là các chi tiết kể về sự mang thai, hình dạng, tài năng khác thường của
Sọ Dừa.
+ Thạch Sanh: Tuy do một bà mẹ nghèo dưới trần thế sinh ra nhưng Thạch Sanh lại
chính là thái tử trên trời do Ngọc Hoàng sai xuống đầu thai; Thời gian bà mẹ mang thai
dài khác thường (dài đến mấy năm). Thạch Sanh được thiên thần dạy võ nghệ và các
phép thần thông, cây đàn và niêu cơm thần kì…
+ Cây bút thần: Cụ già cho Mã Lương cây bút thần trong giấc ngủ. Có cây bút thần, Mã
Lương vẽ gì được nấy: từ chim, cá, cày, cuốc, đèn, thùng nước đến bếp lò, thang, ngựa,
cung tên, cò rồi cả cóc, gà, biển cả và thuyền buồm, gió bão… Còn tên vua tham lam
dùng cây bút vẽ lại không được như ý muốn: núi vàng thành núi đá, vẽ thỏi vàng thành
mãng xà.
+ Ông lão đánh cá ưà con cá vàng: Cá vàng biết nói, có phép lạ giúp ông lão đánh cá có
được nhiều thứ từ cái máng lợn đến to à nhà đẹp, biến vợ ông thành bà nhất phẩm phu
nhân, nữ hoàng rồi lại biến mọi thứ trở về túp lều nát như xưa.
–   Việc sử dụng các chi tiết hoang đường này có nhiều ý nghĩa:
+ Sự ra đời và hình dạng khác thường: Là chủ ý của tác giả dân gian, họ như báo trước
cho người đọc về tài năng và số phận khác thường của nhân vật, mở hướng phát triển
của câu chuyện và thu hút sự chú ý của người nghe, người đọc.
+ Tài năng hơn người và những phẩm chất đạo đức của nhân vật: Là cách xây dựng
nhân vật cổ tích. Nhân vật có hình thức bên ngoài và phẩm chất, tâm hồn bên trong trái
ngược nhau. Bề ngoài họ có thể là những người xấu xí, lam lũ, vất vả nhưng bên trong
họ là người có tài năng và tấm lòng nhân hậu, bao dung… Qua cách xây dựng nhân vật
như vậy, nhân dân muốn tuyệt đối hoá giá trị bên trong, coi đó là bản chất của con
người
+ Những chi tiết khác khi tham gia vào truyện cổ tích có nhiều tác dụng khác nhau, nhờ
có nó mà cốt truyện có thể kéo dài hay rút ngắn theo ý người kể chứ không phụ thuộc
vào lô-gíc thực tế. Nhờ có yếu tố thần kì này mà truyện cổ tích hấp dẫn mọi lứa tuổi,
mọi thòi đại, thể hiện một cách sinh động những ước mơ của nhân dân lao động. Ví dụ:
Cây đàn thần kì và gắn vói nó là âm nhạc thần kì trong truyện Thạch Sanh, đó là tiếng
đàn của công lí, nó thực hiện ước mơ về công lí của nhân dân nhưng cũng là tiếng đàn
hoà bình dùng để chiến thắng và cảm hoá kẻ thù. Với ý nghĩa này, cây đàn thần kì
tượng trưng cho tinh thần yêu chuộng cái thiện, yêu chuộng hoà bình của nhân dân ta
trong quan hệ đối ngoại. Niêu com thần kì trong truyện Thạch Sanh cũng có nhiều ý
nghĩa. Nó tượng trưng cho sự sáng tạo vô cùng tận của nhân dân lao động; biếu hiện tài
năng thần kì, phi thường của nhân vật Thạch Sanh; thể hiện truyền thống nhân đạo của
dân tộc ta trong quan hệ đối ngoại; phản ánh ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động
về sự no đủ, hạnh phúc…

BÀI THAM KHẢO


ĐỀ 1.Phân tích truyện cổ tích Thạch Sanh
Tuổi thơ của tôi trôi qua thật êm đềm và đẹp đẽ, tôi sống trong những lời ru thân
thương của mẹ của bà, nghe từng câu chuyện cổ tích lý thú, hấp dẫn mà đi vào giấc ngủ
mơ màng. Mỗi một câu chuyện đều đem đến cho tôi những bài học hay và quý giá, từ
Tấm Cám, Sọ Dừa, đến Sự tích Hồ Gươm, và Thạch Sanh cũng là một trong số những
câu chuyện cổ tích đặc sắc gắn liền với tuổi thơ tôi.

Nhân vật Thạch Sanh có nhiều điểm tương đồng với các nhân vật chính trong các
truyện cổ tích khác, là kiểu người thật thà tốt bụng, có một lai lịch bất thường, ở chàng
hội tụ đủ các phẩm chất đẹp không chỉ về ngoại hình mà còn cả tâm hồn. Xuyên suốt
câu chuyện là những tình tiết lý thú, gay cấn, thêm vào các yếu tố thần kỳ làm cho câu
chuyện trở nên hấp dẫn, hút người đọc. Đây là một câu chuyện khá dài, kể về cuộc đời
của Thạch Sanh từ khi sinh ra cho đến khi đã thành gia lập thất, cuộc đời chàng gặp rất
nhiều nguy khốn, nhưng may thay đều vượt qua được, cuối cùng có một cuộc sống viên
mãn.

Kể về gốc gác của Thạch Sanh, ngay từ lúc ban đầu đã có nhiều sự lạ, bởi vốn dĩ chàng
là thái tử do Ngọc Hoàng phái xuống đầu thai làm con của cặp vợ chồng hiếm muộn,
nhưng ăn ở tốt. Người mẹ mang thai ròng rã mấy năm trời, đến nỗi khi người chồng
lâm bệnh qua đời mà Thạch Sanh vẫn chưa chịu ra đời, đến khi chào đời vừa lớn khôn
cậu đã phải chịu cuộc sống mồ côi cha mẹ. Tình cảnh hết sức khó khăn, nghèo túng, gia
sản chỉ có túp lều và lưỡi rìu người cha để lại, tuy nhiên Thạch Sanh đã sớm tự lập, nối
nghiệp của cha mẹ ngày ngày lên rừng kiếm củi. Ngọc Hoàng lại phái thiên thần xuống
dạy cho các phép thần thông, từ đó Thạch Sanh trở thành người tinh thông võ nghệ,
nhưng không vì thế mà sinh kiêu, chàng vẫn ngày ngày kiếm củi sống cuộc sống giản
dị chân chất, không hề có ý bon chen. Sống ẩn dật và mang trong mình một sức mạnh
phi thường, dự báo trước một cuộc đời vẻ vang với nhiều chiến công lừng lẫy của
chàng về sau này.

Cuộc đời chàng bắt đầu rẽ sang hướng khác khi gặp Lý Thông, và kết nghĩa anh em.
Thực chất Lý Thông chẳng phải hạng tốt lành gì, hắn chỉ nhắm vào sức khỏe phi
thường của Thạch Sanh hòng lợi dụng chàng làm việc cho mẹ con hắn. Nhưng vốn thật
thà, chất phác, lại sớm mồ côi cha mẹ, nay lại có người hỏi thăm, muốn kết nghĩa anh
em, quả thật không gì hạnh phúc bằng nên Thạch Sanh đã nhận lời và dọn về cùng Lý
Thông. Và tại nơi này Thạch Sanh đã chịu lần hãm hại đầu tiên, mà kẻ thủ phạm không
ai khác chính là người anh em gian ác Lý Thông, hắn lợi dụng lòng tin của Thạch Sanh
nhờ chàng đi canh miếu giùm, thực chất là đưa Thạch Sanh vào chỗ chết. Quả là một kẻ
nham hiểm, xảo trá, sẵn sàng hy sinh mạng sống của anh em không từ thủ đoạn. Thạch
Sanh vì tin tưởng anh, nên ra đi mà không hề biết có nguy hiểm phía trước, khi gặp xà
tinh ban đầu chàng có hơi hoảng loạn, nhưng bằng sự gan dạ, dũng cảm và võ nghệ đã
học được, Thạch Sanh cuối cùng cũng chiến thắng quái vật. Cây cung vàng chính là
phần thưởng cho sự anh dũng, khi diệt quái thú của Thạch Sanh. Thạch Sanh đem đầu
xà tinh về nhà, lúc này chàng vẫn không mảy may nghi ngờ người anh Lý Thông, cứ
nghĩ mọi chuyện chỉ là trùng hợp. Mẹ con nhà Lý Thông, có tật giật mình nghe tiếng gõ
cửa tưởng hồn Thạch Sanh hiện về, nhưng không ngờ lại thấy Thạch Sanh còn sống
nguyên vẹn trở về, với bản tính tham lam, hám lợi Lý Thông lại một lần nữa lừa Thạch
Sanh hòng đuổi chàng đi, để chiếm hết công lao và thành Quận công. Còn Thạch Sanh
vốn chất phác, càng không có suy nghĩ danh lợi lại lầm lũi trở về túp lều trước kia tiếp
tục kiếm sống qua ngày.

Mạch truyện hấp dẫn hơn khi lần nữa Thạch Sanh dùng mũi tên bắn bị thương đại bàng
bắt công chúa, và tìm thấy nơi ẩn nấp của nó. Lúc này tên Lý Thông vốn vô năng,
không thể cứu được công chúa như lệnh của hoàng đế, bất ngờ gặp lại Thạch Sanh, và
hắn lập tức lợi dụng chàng thêm lần nữa. Khi đã giải cứu được công chúa, để giành hết
công lao và che giấu tội lỗi hắn từng gây ra, Lý Thông bèn lập kế lấp miệng hang hòng
thủ tiêu Thạch Sanh, vô cùng tàn nhẫn và độc ác. Sau ba lần bị lừa, giờ đây cuối cùng
Thạch Sanh cũng nhận ra bộ mặt thật của tên Lý Thông gian ác, đánh dấu bước chuyển
biến mới trong tư duy của Thạch Sanh, biết phân biệt người tốt kẻ xấu, dự báo một
ngày tàn của Lý Thông sẽ không còn xa nữa. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo nguy khốn,
Thạch Sanh lại ra tay nghĩa hiệp cứu được thái tử của vua Thủy Tề và may mắn thoát
khỏi hang động bị lấp kín đá. Với tâm hồn thanh bạch không màng danh lợi, vật chất,
khi được biếu tặng nhiều vàng bạc Thạch Sanh không nhận và chỉ xin một cây đàn, rồi
trở về gốc đa tiếp tục cuộc sống ẩn dật, chàng vẫn không có ý định trả thù tên Lý
Thông, bởi sâu trong thâm tâm chàng là người lương thiện, sẵn sàng bỏ qua mọi
chuyện. Có một chi tiết rất lạ, là nàng công chúa sau khi được cứu về lại hóa câm, qua
mạch truyện hẳn đây là tâm bệnh, có lẽ nàng quá căm tức trước hành động vô liêm sỉ
của Lý Thông và thương xót cho Thạch Sanh mà thành ra như thế. Chi tiết này phần
nào tố cáo Lý Thông và những tội ác, những lời gian dối hắn có nhiều nghi vấn, đây là
nút thắt chính của câu chuyện, cũng là nút thắt hóa giải tất cả mọi việc.

ĐỀ 2:Phân tích truyện cổ tích Thạch Sanh


Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam vô cùng phong phú, đặc sắc. Với trí tưởng tượng
phong phú, tài hoa các tác giả dân gian đã dựng lên bức chân dung các nhân vật chính
diện thật tuyệt mĩ, hoàn hảo, không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn đẹp cả phẩm chất bên
trong. Thạch Sanh là một truyện cổ tích như vậy.

Thạch Sanh là truyện cổ tích thần kì, nhân vật thuộc kiểu người dũng sĩ, đây là mô típ
phổ biến trong truyện cổ tích Việt Nam và thế giới. Câu chuyện với những tình tiết bất
ngờ, hợp lí đã tạo nên sức hấp dẫn với người đọc.
Trước hết tác phẩm là bài ca ca ngợi người anh hùng lí tưởng Thạch Sanh trong cuộc
đấu tranh lại cái ác. Thạch Sanh vốn là con Ngọc Hoàng, nhưng được sai xuống đầu
thai làm con của một gia đình nghèo khó, hiền lành, tốt bụng. Sự ra đời của Thạch Sanh
cũng ẩn chứa rất nhiều điều kì lạ. Người mẹ sau nhiều năm mang thai mới sinh ra
Thạch Sanh. Khi cậu vừa khôn lớn thì mẹ qua đời. Thạch Sanh sống một mình trong
túp lều cũ cạnh gốc đa, hàng ngày kiếm củi bán để sống. Sự ra đời của Thạch Sanh là
sự kết hợp hài hòa giữa những cái bình thường và phi thường. Điều bình thường ở
Thạch Sanh đó là được sinh ra trong một gia đình nghèo, sau khi cha mẹ chết cậu làm
nghề kiếm củi để nuôi sống bản thân. Nhưng điểm nhấn của nhân vật chính là yếu tố
phi thường: mẹ mang thai vài năm mới sinh, được các thiên thần dạy đủ các môn võ
nghệ và phép thần thông. Sự ra đời và lớn lên kì lạ như vậy như một tín hiệu báo những
chiến công oanh liệt của Thạch Sanh sau này. Mang trong mình sự hài hòa giữa nét
bình thường và khác thường còn cho ta thấy rằng những con người bình thường cũng
có thể mang trong mình những khả năng, phẩm chất khác thường.

Cũng như các nhân vật truyện cổ tích khác, Thạch Sanh phải trải qua rất nhiều thử
thách khác nhau để khẳng định bản thân và đến được bến bờ hạnh phúc, đồng thời cho
thấy quá trình đấu tranh thiện, ác gian nan của chàng. Là một người mồ côi, luôn khao
khát được yêu thương, bởi vậy khi Lý Thông ngỏ lời kết nghĩa anh em, Thạch Sanh đã
lập tức đồng ý. Ta thấy rằng Lý Thông không hề có lòng tốt khi kết nghĩa với Thạch
Sanh mà chỉ muốn lợi dụng chàng. Thử thách đầu tiên mà Thạch Sanh phải trải qua là
thử thách lòng tin. Lý Thông nói dối để Thạch Sanh đi canh miếu thờ, mà thực chất là
đẩy Thạch Sanh đến chỗ chết, Lý Thông là kẻ hết sức mưu mô, xảo quyệt, ích kỉ vì
mạng sống của mình mà đẩy người anh em vào chỗ chết. Vốn là người hiền lành nên
chàng tin lời anh ngay, trong đêm canh miếu, Thạch Sanh không những không bị giết
mà còn đánh bại chằn tinh. Qua những việc làm đó cho thấy Thạch Sanh là một người
thật thà, chất phác.

Lý Thông tiếp tục tỏ ra là tên gian xảo, một lần nữa lừa Thạch Sanh, khiến chàng bỏ về
túp lều cũ, còn hắn thì đàng hoàng nhận lấy công trạng và lĩnh thưởng. Công chúa bị
đại bàng bắt đi, Thạch Sanh nghĩa hiệp mang cung tên vàng ra bắn bị thương con chim
ác, chàng đã đi theo giấu máu và tìm đến tận cửa hang. Nghe theo lời nhờ cậy của Lý
Thông, chàng xuống hang sâu cứu công chúa, nhưng lại bị Lý Thông lấp cửa hang. Ở
dưới đó, chàng không hề sợ hãi, tìm đường ra, trên đường tìm lối thoát chàng còn cứu
thêm con vua Thủy Tề. Chàng quả là người có tấm lòng nhân hậu và lương thiện. Nói
về phần công chúa, sau khi được cứu về nàng hóa câm, đó cũng chính là bằng chứng tố
cáo tội ác của Lý Thông.

Tội ác của Lý Thông ngày một gia tăng, được các tác giả dân gian khéo léo xếp theo
chiều tăng tiến, ban đầu hắn lợi dụng Thạch Sanh thế mạng cho mình, rồi tiếp đến cướp
công một cách trắng trợn, không dừng lại ở đó hắn còn nhẫn tâm giết chết Thạch Sanh.
Những tội ác của Lý Thông mỗi ngày một tăng lên cho thấy tính cách xấu xa, xảo
quyệt, lòng tham vô đáy, ham mê quyền lực, tiền bạc đến mờ mắt của hắn. Vậy liệu Lý
Thông có bị trừng phạt đích đáng hay không?

Quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác ngày càng gay go, quyết liệt, Thạch Sanh
không chỉ chịu sự hãm hại của Lý Thông, mà còn bị hồn của đại bàng và chằn tinh báo
thù, chàng bị giam vào ngục. Cái ác ngày càng tăng dần về cấp độ thì ta cũng thấy cái
thiện cũng ngày một trưởng thành, lớn mạnh hơn. Nhờ có tiếng đàn Thạch Sanh được
giải oan, còn mẹ con Lý Thông phải chịu tội. Tiếng đàn chính là tiếng nói của công lý,
nhờ có tiếng đàn mà mọi oan khuất của Thạch Sanh đã được hóa giải. Có một điều đặc
biệt đó là Thạch Sanh không phải là người trừng phạt tội ác mẹ con Lý Thông mà chính
đất trời đã trừng trị chúng. Qua chi tiết đó càng thể hiện rõ tấm lòng bao dung, độ lượng
của Thạch Sanh với kẻ đã hãm hại mình. Câu chuyện kết thúc có hậu, Thạch Sanh lấy
công chúa, công lí, công bằng đã được thực thi.

Truyện Thạch Sanh không chỉ phản ánh quá trình đấu tranh thiện ác mà còn thể hiện
lòng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. Lấy công chúa, Thạch Sanh trải qua thử
thách cuối cùng: thu phục các nước chư hầu. Với niêu cơm thần và tiếng đàn thần các
nước chư hầu phải ngả mũ xin hàng. Chi tiết niêu cơm thần và tiếng đàn thần là hai chi
tiết có nhiều giá trị, ý nghĩa. Niêu cơm thần thể hiện mơ ước, khát vọng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc và tấm lòng nhân đạo của dân tộc. Tiếng đàn thần tượng trưng cho khát
vọng hòa bình của nhân dân ta. Trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, Thạch Sanh đã
đến được bến bờ hạnh phúc, chung sống cùng công chúa và cai trị đất nước. Đây là
phần thưởng xứng đáng cho đức hạnh cũng như tài năng của Thạch Sanh.

ĐỀ 3:Phân tích truyện cổ tích Thạch Sanh


“Ầu ơi! Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi”
Lời ru êm ái, nhẹ nhàng đã gợi nhắc trong lòng chúng ta về tuổi thơ ngọt ngào bên
chiếc võng, nhưng mỗi một con người lớn lên không chỉ bằng lời ru dịu ngọt của bà,
của mẹ mà còn bằng cái nôi từ những câu chuyện cổ tích. Đó là thế giới của công bằng,
của chân lí chất chứa biết bao bài học làm người quý giá mà bà và mẹ đã truyền dạy
cho chúng ta như những bài học đầu đời. Truyện cổ tích “Thạch Sanh” là một trong số
những câu chuyện rất đỗi quen thuộc và thể hiện rõ điều đó thông qua việc kể về người
dũng sĩ Thạch Sanh vượt qua nhiều thử thách để cứu người, đồng thời vạch mặt kẻ xấu
và chống quân xâm lược.

“Thạch Sanh” là chuyện cổ tích kể về cuộc đời của kiểu nhân vật dũng sĩ và có tài năng
lạ kì. Ngay từ phần mở đầu, tác phẩm đã thể hiện rõ điều đó. Sự ra đời của Thạch Sanh
đã được tác giả dân gian thần kì hóa để dự báo về tài năng, phẩm chất phi thường của
chàng về sau. Chàng vốn là thái tử, con trai của Ngọc Hoàng đầu thai xuống trần gian
và người mẹ mang thai qua mấy năm, khi người bố mất thì chàng mới được sinh ra.
Chẳng bao lâu, người mẹ qua đời và sau đó, chàng được thiên thần truyền dạy võ công
và phép thần thông. Như vậy, Thạch Sanh hiện lên là một người có sự hài hòa giữa
những điều bình thường và phi thường, trong đó cái phi thường là yếu tố nổi trội hơn.

“Thạch Sanh” là bài ca ngợi ca về sự chiến thắng của cái thiện trước cái xấu, cái ác.
Chàng dũng sĩ đã phải vượt qua rất nhiều thử thách như giết chằn tinh, giết đạt bàng, bị
Lí Thông hãm hại và bị bắt giam trước âm mưu của linh hồn chằn tinh và đại bàng. Ở
mỗi một thử thách, con người chàng lại thể hiện những phẩm chất đáng quý. Đầu tiên,
chàng là người thật thà, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi kết nghĩa huynh đệ với Lí
Thông và cả tin đi canh miếu thờ. Và với sự gan dạ, dũng cảm, chàng đã giết chết chằn
tinh, đem lại sự bình yên cho dân làng, sau đó chàng cũng là người bắn trọng thương và
tình nguyện xuống hang sâu giết đại bàng, cứu công chúa, cứu con trai vua Thủy Tề.
Chàng làm việc này không xuất phát từ việc được trọng thưởng mà từ tấm lòng nghĩa
hiệp, không khoan nhượng trước cái xấu, cái ác. Sau khi giải được nỗi oan ngục thất và
kết hôn cùng công chúa, Thạch Sanh đã dùng tiếng đàn của mình đánh lui mười tám
nước chư hầu mà không hề gây ra bất cứ sự thương vong chết chóc nào giúp chúng ta
thấy được chàng là người trượng nghĩa, yêu chuộng sự hòa bình.

Để làm nổi bật phẩm chất của Thạch Sanh, tác giả dân gian đã xây dựng nên hình tượng
nhân vật phản diện là Lí Thông. Hắn ta hiện lên với bản chất của một con buôn gian
xảo, tham loan, luôn toan tính để lợi dụng người khác. Tàn nhẫn hơn, để đạt được mục
đích của mình, hắn không ngần ngại đẩy người anh em kết nghĩa của mình vào bước
đường cùng, vào chỗ chết. Vì thế, dù được Thạch Sanh tha mạng, nhưng mẹ con hắn
vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt. “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát” nên
cuối cùng, hắn bị sắt đánh chết và hóa thành bọ hung, thể hiện quan điểm rất rõ ràng
của nhân dân ta về cái thiện, cái ác. Đó là chân lí “ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.

Khi đặt chân vào thế giới cổ tích vô cùng bao la rộng lớn, chúng ta luôn được khám phá
vô vàn điều kì thú, đặc biệt là bắt gặp rất nhiều chi tiết tưởng tượng thần kì và giàu ý
nghĩa. Trong câu chuyện “Thạch Sanh” cũng thế. Sự ra đời của khác thường của Thạch
Sanh đã được thần kì hóa để dự báo những điều phi thường. Những đồ vật như cây đàn,
niêu cơm cũng được nhân dân lao động thần kì hóa để thể hiện khát vọng về công lí, về
hòa bình.

Như vậy, thông qua hình tượng người anh hùng lí tưởng là chàng Thạch Sanh, nhân dân
ta đã gửi gắm mơ ước về một xã hội lí tưởng của sự công bằng, về niềm tin đạo đức ở
những phẩm chất tốt đẹp của con người cùng lí tưởng nhân đạo, lòng yêu hòa bình của
nhân dân ta. Trong kho tàng cổ tích Việt Nam, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những
tác phẩm có mô típ về người dũng sĩ và phản ảnh ước mơ, khát vọng của nhân dân lao
động.

ĐỀ 4:Bài văn phân tích nhân vật "Thạch Sanh"


“Đàn kêu: Ai chém chằn tinh
Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang
Đàn kêu: Ai chém xà vương
Đem nàng công chúa triều đường về đây?”

Những câu thơ Nôm ấy khiến người đọc nhớ ngay tới câu chuyện cổ tích xưa với hình
ảnh chàng dũng sĩ Thạch Sanh. Nhân vật ấy đã để lại trong lòng độc giả ấn tượng sâu
sắc.Thạch Sanh cũng như bao nhân vật ổ tích khác được xây dựng bằng bút pháp dân
gian, đơn giản và không có đời sống tâm lí. Nhưng bằng sự tài hoa của mình các tác giả
xưa vẫn tạo ra được những dấu ấn riêng cho các nhân vật. Nói đến Thạch Sanh người
đọc nhớ ngay tới chàng dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng cứu người bị hại, vạch mặt
kẻ vong ân bội nghĩa và chống quân xâm lược với những phẩm chất, tài năng đáng quý.

Dũng sĩ Thạch Sanh sinh ra không bình thường như những đứa trẻ khác. Chàng là con
trai của Ngọc Hoàng được cử xuống trần gian đầu thai nên mang trong mình nhiều yếu
tố thần kì. Nhưng Thạch Sanh cũng có một số phận hẩm hiu và chịu nhiều gian khổ.
Vừa mới lớn khôn, chàng đã mồ côi cả cha lần mẹ. Từ đó, chàng phải sống đơn côi một
mình với cả gia tài chỉ là lưỡi búa do cha để lại. Đến lúc có mái ấm gia đình với mẹ con
Lí Thông thì chàng lại bị lừa đến nỗi phải trốn đi.

Số phận đưa Thạch Sanh gặp lại tên Lí Thông gian ác ấy khi giải cứu công chúa. Hắn
không những cướp công của chàng mà còn lập mưu hại Thạch Sanh nhằm bắt chàng ở
dưới hang sâu mãi mãi. Hết lần này đến lần khác, Thạch Sanh gặp nạn. vẫn chưa hết,
sau khi về ở lại gốc đa, chàng bị hồn chăn tinh và đại bàng hãm hại. Thế là Thạch Sanh
bị bắt giải vào ngục tối. Cuộc đời Thạch Sanh thật chông gai và có nhiều bất hạnh như
bao nhân vật cổ tích khác. Một mình chàng phải đương đầu với tất cả sóng gió. Nhưng
qua mỗi lần như thế ta càng cảm phục hơn bởi sức mạnh kiên cường bên trong của
chàng.

Những thử thách tác giả dân gian đưa ra đã thể hiện được tài năng cũng như phẩm chất
cao đẹp của Thạch Sanh. Đầu tiên ta thấy Thạch Sanh là chàng trai khỏe mạnh, hiền
lành và tự lập. Nhờ có sức khỏe nên khi về ở với Lí Thông, chàng đã giúp hắn làm giàu
lên nhanh chóng. Cũng nhờ có sức khỏe Thạch Sanh đánh thắng được chằn tinh, đại
bàng cứu giúp nhân dân và công chúa.Thạch Sanh còn là chàng trai thật thà, tốt bụng,
vốn tính hiền lành nên khi nghe Lí Thông lân la gợi chuyện, chàng đồng ý về ở cùng
hai mẹ con hắn. Chàng chăm chỉ làm việc giúp hai mẹ con Lí Thông, coi như hai người
thân yêu của mình.

Nhưng ngược lại, mẹ con Lí Thông chỉ lợi dụng chàng, xem chàng như công cụ giúp
chúng làm giàu. Cũng vì thật thà, Thạch Sanh bị hắn lừa đi trông miếu để thế mạng.
Khi chàng giết được chằn tinh, Lí Thông lại lừa chàng để cướp công, về sau, trong lúc
giải cứu công chúa, do tính vốn tin người Thạch Sanh một lần nữa lại bị Lí Thông lừa.
Hết lần này qua lần khác, chàng bị người ta phản bội nhưng không vì thế mà có ý định
trả thù. Khi được nhà vua cho quyền xử tội mẹ con Lí Thông, Thạch Sanh không những
không giết mà còn tha cho về quê làm ăn. Tấm lòng của Thạch Sanh càng khiến lòng
người cảm phục. Những phẩm chất cao đẹp ấy đã giúp chàng vượt qua mọi gian nan.

Thạch Sanh vốn là con Trời được phái xuống nên mang trong mình nhiều tài năng cùng
với tố chất thông minh làm cho chàng càng có thêm sức mạnh. Vừa mới lớn lên, Thạch
Sanh đã được Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho đủ các môn võ nghệ và mọi
phép thần thông. Tài năng kì diệu ấy chàng luôn đem ra cứu giúp dân lành không bao
giờ tư lợi. Chàng vô cùng thông minh, khéo léo khi vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa Lí
Thông. Ngồi trong ngục tối, chàng lấy đàn ra gẩy “Đàn kêu tích tịch tìm tang. Ai đem
công chúa dưới hang trở về...” Tiếng đàn thiết tha, vang đến tai công chúa Quỳnh Nga.
Bao oan ức của chàng được sáng tỏ, kẻ xấu Lí Thông bị lộ chân tướng.

Sự thông minh của chàng được thể hiện rõ nhất qua việc dẹp loạn chư hầu. Vốn yêu
chuộng hòa bình, có tầm nhìn xa trông rộng, Thạch Sanh không vội vàng động binh.
Muốn dùng nhân nghĩa để xoay chuyển lòng người, làm cho đối phương tâm phục khẩu
phục, Thạch Sanh dũng cảm một mình cầm cây đàn thần ra trước quân giặc. Tiếng đàn
của chàng vừa cất lên thì quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, không nghĩ tới
chuyện đánh nhau nữa. Thế là chúng phải giơ tay xin hàng. Quân ta chiến thắng vẻ
vang, không tôn một hòn tên mũi đạn cũng không mất một binh sĩ nào.

Để an ủi lòng quân sĩ đối phương, Thạch Sanh sai dọn một bữa Cơm thết đãi. Nhưng lạ
thay chỉ có một niêu cơm tí xíu, ai nhìn cũng bĩu môi, không muốn ăn. Chi tiết niêu
cơm thần ấy đã đưa Thạch Sanh lên tầm một vị thánh cứu tinh của đất nước. Niêu cơm
nhỏ mà kì diệu thay, tướng sĩ mười tám nước ăn mãi không hết, cứ vơi lại đầy. Cuối
cùng chúng phải cúi đầu lạy tạ và kéo nhau về nước trong sự kính nể, tôn sùng Thạch
Sanh. Như vậy, với tài năng, trí tuệ và tấm lòng nhân ái của mình, không cần dùng sức
Thạch Sanh đã đương đầu và chiến thắng kẻ thù, chiến thăng vẻ vang, ngạo nghễ.

Thạch Sanh tuy là nhân vật cổ tích nhưng được gửi gắm trong đó nhiều ước mơ của
nhân dân ta thời xưa: ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí và lí tưởng nhân đạo, yêu
hòa bình. Mãi mãi, chàng dũng sĩ Thạch Sanh sẽ tồn tại trong đời sống tinh thần dân
tộc.

BT5:Cảm nhận về truyện cổ tích Thạch Sanh

Bài làm
     Thạch Sanh là một truyện cổ tích kì diệu nhất trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt
Nam. Hình ảnh chàng dũng sĩ chém Trằn tinh, bắn Đại bàng; cây đàn thần, niêu cơm
thần của chàng dũng sĩ đã đem đến cho thế giới tuổi thơ bao kỳ thú, bao giấc mơ đẹp.
     Thạch Sanh là con Trời, được đầu thai vào nhà vợ chồng Lục ông hiền lành, tốt
bụng. Khác với người trần, Thạch Sanh nằm trong bụng mẹ nhiều năm mới cất tiếng
chào đời. Yếu tố hoang đường ấy tạo nên chất kỳ diệu của truyện ca ngợi tính phi
thường của Thạch Sanh. Vợ chồng Lục ông đã được Ngọc Hoàng thương cho đứa con
trai khôi ngô tuấn tú nối dõi tông đường. Đó là niềm tin của dân gian: ở hiền gặp lành.
     Mọi thứ hạnh phúc đều có giá và phải trả giá. Đường đời của Thạch Sanh cũng đầy
gian truân. Phải chăng Ngọc Hoàng đang thử thách Thái tử? Chàng sớm mồ côi cả bố
lẫn mẹ, nhà lại nghèo, phải trú lại một túp lều ở dưới gốc đa. Chỉ một chiếc búa cùn, chỉ
có một nghề kiếm củi độ thân. Tuổi thơ chàng bơ vơ, thật đáng thương! Thiên thần đã
đến với đứa con mồ côi: dạy võ nghệ, các phép thần thông biến hoá, và trao cho chiếc
búa thần. Qua các chi tiết hoang đường ấy, nhân dân gửi gắm bao ước mơ: phải có sức
mạnh vô địch để sống, để tồn tại, để chiến thắng!
     Cuộc đời Thạch Sanh là những năm tháng đầy gian truân thử thách, chiến công nối
tiếp chiến công.
     Thạch Sanh đến miếu thần là để thế mạng cho Lý Thông. Nhưng chàng đâu có biết?
Trằn tinh là một yêu quái khổng lồ, có nanh sắc, có nọc độc, có sức mạnh ghê gớm, lại
biết tàng hình, lắm phép lạ, người đời khiếp sợ, vua quan chịu bó tay. Dù bị tấn công
trong thế bị động, nhưng Thạch Sanh cực kỳ dũng cảm, tài trí đã dùng phép lạ và búa
thần giáng trả quái vật. Trằn tinh bị Thạch Sanh chém giết, bị cắt đầu, bị bổ xác. Chàng
thu được một bộ cung tên vàng. Thạch Sanh đã diệt trừ quái vật, trừ hậu hoạ cho nhân
dân. Chàng dũng sĩ có thêm vũ khí mới: cung tên thần. Thạch Sanh đã có búa thần đế
đánh gần, đánh ở tầm thấp, giờ đây lại có thêm cung tên thần, đế đánh ở tầm cao, tầm
xa. Thử hỏi, kẻ thù nào địch nổi chàng dũng sĩ?.
 Đại bàng là một kẻ thù rất nguy hiểm vì nó ở trên trời, lại có hang sâu bí mật. Thái tử
con vua Thuỷ tề còn bị đại bàng bắt sống, giam giữ trong cũi sắt! Công chúa con vua
còn bị Đại bàng quắp đi giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt bá quan văn võ và đông
đủ anh tài trong thiên hạ! Thạch Sanh chỉ bắn một mũi tên vàng đã làm cho Đại bàng bị
trọng thương. Lần theo vết máu, dũng sĩ tìm đến hang ổ ác điểu. Đại bàng có mỏ sắc,
vuốt nhọn, có sức mạnh ghê gớm. Thạch Sanh đã vung búa thần giáng trả, dùng cung
tên thần bắn mù hai mắt quái vật. Đại bàng bị giết, bị phanh xác. Một kẻ thù nguy hiểm
nữa của nhân dân đã bị chàng dũng sĩ tiêu diệt! Chiến công diệt đại bàng là một kì tích
vì Thạch Sanh đã cứu được nàng công chúa và Thái tử con vua Thuỷ tề. Chiến công
chấn động cõi đời mà còn vang động tới vương quốc Thuỷ tề. Từ thuỷ phủ trở về,
Thạch Sanh chỉ cầm trong tay một cây đàn thần làm kỉ niệm một chuyến viễn du thú vị.
Chàng lại trở về gốc đa, chốn cũ yêu thương. Với chàng dũng sĩ thì vàng bạc châu báu
cũng như dinh thự nguy nga, của ngon vật lạ đều trở nên xa lạ. Túp lều gốc đa là nơi
chàng đã sinh ra, lớn lên, với bao kỷ niệm buồn vui. Thạch Sanh trở về gốc đa, một tình
tiết, phải chăng nói lên quan niệm nhân sinh tốt đẹp của nhân dân thời xưa: Một túp lều
tranh, một trái tim vàng?
     Với Thạch Sanh, cây đàn thần không phải là một nhạc cụ để mua vui mà là một vũ
khí vô cùng linh nghiệm. Nơi chàng đánh đành, gảy đàn là trong ngục. Tiếng đàn để
giãi bày. Tiếng đàn như một thứ "thần dược" làm cho công chúa đang bị câm nghe
tiếng đàn mà nói lên được! Nhờ tiếng đàn mà chàng dũng sĩ được gặp lại người đẹp, rồi
được minh oan, vạch trần bộ mặt thật của Lý Thông, tên bán rượu xảo quyệt, cướp
công, độc ác, âm mưu hãm hại người... Thạch Sanh không dùng búa thần, cung tên thần
để giao tranh với tướng sĩ 18 nước chư hầu, mà chỉ dùng đàn thần để lui giặc. Đó là
tiếng đàn hoà bình. Niêu cơm Thạch Sanh là niêu cơm hàng vạn người ăn mãi không
hết; niêu cơm ấm no, hạnh phúc. Đàn thần và niêu cơm thần đã góp phần tô đậm vẻ đẹp
kì diệu truyện Thạch Sanh.
     Thạch Sanh tha tội cho Lý Thông, kẻ đã cướp công và hãm hại mình. Hành động ấy
thể hiện lòng độ lượng, nhân ái, bao dung cao đẹp.
     Nhân vật Thạch Sanh thật đẹp. Với búa thần, cung tên vàng, đàn thần, với võ nghệ
và phép thần thông biến hoá, chàng dũng sĩ đã chém trằn tinh, giết đại bàng, trừ diệt cái
ác, tai hoạ cho nhân dân, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đem lại hoà bình. Thạch Sanh đã
trải qua bao gian truân thử thách, lấp lánh bao chiến công hiển hách, được kết duyên
với công chúa, chàng đã thể hiện ước mơ của nhân dân, những ước mơ hồn nhiên, trong
sáng và rất đẹp. Thật vậy, truyện Thạch Sanh là một truyện cổ tích thần kì, nói lên một
giấc mơ đẹp của nhân dân ta bao đời nay.
BT6:Tại sao nói;Thạch Sanh - cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, hãy nêu ý
kiến của em…
Dàn ý
1. Mở bài
-Giới thiệu tác phẩm, tình tiết cái ác, cái thiện trong truyện: Truyện dân gian là thể loại
phản ánh chân thực bộ mặt của xã hội, thể hiện ước mơ khát vọng của con người Qua
chuyện cho người đọc thấy được cái giá phải trả của việc ác và những gì nhận lại được
qua tấm lòng, hành động lương thiện của con người.
2. Thân bài
a. Hình ảnh biểu trưng cho cái thiện
Thạch Sanh:
- Hiền lành, thật thà, chất phác, đấu tranh sinh tồn, diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu
công chúa chống quân xâm lược
- Cái thiện luôn phải chịu oan ức nhưng sau sự đấu tranh, cuối cùng vẫn sẽ nhận lại
những gì xứng đáng nhất.
b. Hình ảnh biểu trưng cho cái ác và chống lại cái ác
Lý Thông:
- Lòng dạ thâm độc, nham hiểm, dựa vào người khác để đi lên, đùn đẩy trách nhiệm,
cướp công người khác để vụ lợi cho bản thân mình
c. Cuộc đấu tranh chống cái ác:
- Cái ác tồn tại khắp mọi nơi, trước hết là chống lại những loài vật độc ác, chống lại sự
độc ác bên trong con người
- Cái ác trong con người Lý Thông: Tội ác giết người, tội ác vong ân bội nghĩa, lấy oán
báo ân
d. Kết quả của cuộc đấu tranh
- Cái thiện luôn giành phần thắng, cái ác phải trả giá, công lý luôn công bằng ở khắp
mọi nơi
3. Kết bài
Cảm nghĩ về cuộc đấu tranh trong tác phẩm: Lời cảnh tỉnh trong xã hội hiện nay đối với
bất cứ tầng lớp xã hội nào.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác là chủ đề chính trong truyện cổ tích. Trong xã
hội, cái ác luôn hoành hành, làm tồn tại đạo lí tốt đẹp của dân tộc. Không những thế, nó
còn đe doạ trực tiếp cuộc sống xã hội, làm hại tới sự bình yên của nhiều người lương
thiện. Trong thực tế đời sống xã hội, nhân dân ta không hề chấp nhận và dung tha cho
cái ác. Cuộc đấu tranh chống cái ác là một trận chiến gay go, phức tạp và dai dẳng. Tuy
vậy, niềm tin và ước mơ về sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác của nhân dân vẫn
không hề suy giảm. Niềm tin và ước mơ ấy được họ gửi gắm vào trong các truyện cổ
tích.
       Thạch Sanh là một truyện cổ tích tiêu biểu cho chủ đề chống cái ác.
       Cái ác trong truyện cổ tích hiện ra muôn hình vạn trạng. Ở Tấm Cám ta bắt gặp cái
ác ở chỗ một người mẹ kế và một cô em cùng cha khác mẹ tìm mọi cách để giết chết
người con chồng, người chị. Ở Sọ Dừa, cái ác còn đáng sợ hơn: hai người chị đang tâm
xô đứa em ruột của mình xuống biển để cướp chồng của em…
       Tuy nhiên, trong Sọ Dừa và Tấm Cám, cái ác tuy rất tàn bạo, vẫn là những hành
động từ con người bình thường và đơn lẻ, nên phần nào dễ đối phó hơn dễ trừng trị
hơn. Đến Thạch Sanh, cái ác đã thực sự trở thành một lực lượng đông đảo, vô tình hỗ
trợ nhau cùng nhằm vào một con người lương thiện. Đối phó với chúng không dễ, bởi
chúng không chỉ là những người phàm trần mà còn gồm cả lũ yêu ma, thần thông biến
hóa. Ngay cả những con người là phàm trần thì cũng rất gian ngoan, xảo quyệt.
       Trước hết ta hãy xét đến bọn ác nhân là lũ yêu ma, ác quỷ. Chúng được đại diện
bằng hai tên trăn tinh và đại bàng.
       Trăn tinh là một con yêu do một con trăn núi khổng lồ sống lâu đã hoá tinh mà
thành. Hắn rất độc ác. Hàng ngàn người lương thiện đã bị nó ăn thịt. Ngay đến nhà vua
cũng phải nhượng bộ nó, lập đền thờ và hàng năm dâng nộp người. Đã độc ác lại có tài
biến hoá, trăn tinh thực sự là mối hiểm hoạ lớn.
       Đồng đảng với trăn tinh là đại bàng - con yêu núi thứ hai. Tên này còn đáng sợ hơn
cả trăn tinh. Đến cả thái tử con vua Thuỷ Tề - một vị vua đứng đầu một cõi thần linh,
thuộc lực lượng siêu nhiên — còn bị hắn bắt nhốt vào trong cũi sắt không thoát ra
được.
       Để đối phó với hai con yêu núi này cần phải có một chàng dũng sĩ quả cảm. Và
Thạch Sanh xuất hiện. Song để chuẩn bị cho hai cuộc quyết chiến tiêu diệt tràn tinh và
đại bàng, phải có sự giúp đỡ của thần linh. Thiên thần đã dạy cho Thạch Sanh đủ các
môn võ nghệ và các phép thần thông.
       Mặc dù đã được thần linh giúp đỡ, nhưng trong trận chiến tiêu diệt kẻ ác, Thạch
Sanh vẫn là người đơn độc. Chàng phải tự lực là chính. Với tài trí phi thường, lòng quả
cảm vô song và ý chí tiêu diệt kẻ ác, Thạch Sanh đã chiến thắng và chiến thắng giòn
giã: chàng đã chém chết trăn tinh, xé xác nó làm hai, bắn chết tươi đại bàng. Và thật lí
thú, Thạch Sanh lại bắn chết đại bàng bằng bộ cung tên vàng lấy dược từ tay trăn tinh.
Phải chăng đấy là quan niệm của nhân dân: diệt kẻ ác này sẽ là cơ hội để diệt kẻ ác
khác, diệt kẻ ác mạnh vừa sẽ là điều kiện để diệt kẻ ác mạnh hơn.
       Giết được trăn tinh và đại bàng, trừ được hoạ cho dân, nhưng chính chàng dũng sĩ
diệt trăn tinh và đại bàng lại bị mang vạ vào thân: hồn chúng liên kết với nhau tìm cách
báo thù và chàng dũng sĩ lương thiện phải chịu nỗi oan trong nhà ngục. Thế mới biết
cuộc đấu tranh chống cái ác không đơn giản. Người có công không khéo có thể trở
thành người có tội. Tuy nhiên, Thạch Sanh không mất niềm tin. Và nỗi oan của chàng
đã được giải, Thạch Sanh đàng hoàng ngẩng cao đầu với tư thế của chàng dũng sĩ đấu
tranh vì cái thiện.
       Cuộc đấu tranh chống cái ác là lực lượng yêu ma vốn đã khó khăn và dai dẳng,
nhưng cuộc đấu tranh chống cái ác ở ngay trong hàng ngũ con người còn khó khăn,
phức tạp và dai dẳng hơn nhiều.
       Kẻ ác ở đây tuy không có phép thần thông biến hoá nhưng lại rất nham hiểm, xảo
trá. Đầu tiên, hắn vờ kết nghĩa anh em, rồi nguỵ trang bằng tình anh em để lừa Thạch
Sanh đi thế mạng thay mình. Đến khi Thạch Sanh chém được đầu trăn tinh xách về thì
hắn lại nảy sinh lòng tham, lừa đuổi Thạch Sanh đi để cướp công. Cướp được công của
Thạch Sanh, được hưởng vinh hoa phú quý hắn vẫn không từ bỏ lòng tham và dã tâm.
Hắn lại tiếp tục lợi dụng Thạch Sanh để lập công lớn hơn, nhằm có địa vị và danh vọng
cao hơn. Lần này, để đạt được mục đích ấy, hắn sẵn sàng ra tay giết người. Hành động
giết người vốn đã là đỉnh cao của tội ác, đáng sợ và ghê tởm hơn, người bị giết lại vừa
là người em kết nghĩa, vừa là ân nhân của kẻ gây tội ác. Đã thế hành động gây tội ác
của hắn không cần che giấu, mà phơi bày giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt bao
người. Có thể nói, Lí Thông đã lộ rõ nguyên hình của kẻ ác.
       Cái ác của Lí Thông là cái ác có thực trong xã hội. Nó bắt nguồn từ lòng tham, sự
đố kị ghen ghét trước tài năng và công lao, thành tích của người khác. Cái ác của Lí
Thông không chỉ là tội ác giết người, mà còn là tội ác của sự vong ân bội nghĩa, khiến
cả con người lẫn đất trời đều phẫn nộ. Cuối cùng Thạch Sanh phải lên tiếng vạch mặt
Lí Thông. Và dù Thạch Sanh có nhân từ tha tội chết cho mẹ con Lí Thông thì trời đất
cũng không dung tha. Và lưỡi tầm sét cua Thiên Lôi chính là lưỡi gươm công lí của
nhân dân vung lên tiễu trừ kẻ ác. Kẻ ác không những bị trừng trị mà còn bị trừng trị thật
đích - đáng: bị biến thành bọ hung để đời đời kiếp kiếp bị người đời nguyền rủa và
khinh bỉ.
       Đến đây, tôi lại nhớ tới sự trừng trị của nhân dân Nga dành cho kẻ tham lam bội
bạc là mụ vợ ông lão đánh cá trong truyện cổ tích Ông lão đánh cá và con cá vàng. Và
tôi mỉm cười: Công lí của nhân dân ở đâu cũng thật công bằng. Điều đó tạo cho tôi một
niềm tin sâu sắc về sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác trong cuộc đời thực.
BT7.Kể sáng tạo truyện Thạch Sanh (Theo lời kể của Công chúa)

Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu bản thân: là công chúa con gái Vua, bị đại bàng gian ác bắt đi.
2. Thân bài
a. Câu chuyện ở cửa hang
- Vô cùng cảm tạ khi được Thạch Sanh cứu.
- Bàng hoàng khi thấy Lý thông chặn và giam hãm Thạch Sanh.
=> Uất ức đến mức bị câm và không nói ra thành tiếng.
b. Câu chuyện về hoàng cung
- Khóc nức nở vì thương Thạch Sanh nhưng không có cách nào cứu chàng lên.
- Bần thần, sửng sốt khi nghe tin kết hôn cùng Lý Thông.
- Bao nhiêu thầy thuốc giỏi được mời đến nhưng không ai chữa được cho công chúa.
- Một hôm nghe tiếng đàn thần và công chúa đã nói được.
c. Mọi sự thật được phơi bày
- Vua cho vời Thạch Sanh vào hỏi mọi chuyện, sự thật dần sáng tỏ.
- Thạch Sanh lên ngôi vua, cai trị đất nước.
- Mẹ con Lý Thông bị Ngọc Hoàng đánh chết.
3. Kết bài
Cảm nghĩ về câu chuyện và lẽ phải ở đời.
Tôi vừa lên khỏi hang thì Lí Thông sai quân sĩ lấy đá ném cửa hang. Tôi bàng hoàng
không tin vào mắt mình nữa. Làm sao hắn có thể nhẫn tâm đến thế? Làm sao hắn có thể
đối xử với ân nhân của mình như thế? Một niềm căm uất dâng lên khiến cổ họng tôi
nghẹn lại, không nói được câu nào.
      Sau khi đã lấp kín cửa hang, Lí Thông đến bên tôi tâu rằng:
-    Dạ, thưa công chúa, thần rất hân hạnh được rước công chúa về cung ạ.
      Rồi hắn đem kiệu tôi. Lòng nặng trĩu, tôi bước lên kiệu, đưa đôi mắt đẫm lệ nhìn về
phía cửa hang lần cuối cùng.
      Vừa trông thấy vua cha, tôi oà lên khóc nức nở, nhưng vẫn không nói được câu nào.
Nghĩ tới ân nhân của mình đang ở dưới hang sâu không có đường lên, lòng tôi đau như
cắt. Tội nghiệp Thạch Sanh, làm sao chàng có thể thoát khỏi cái chết. Tên Lí Thông
độc ác và nham hiểm quá. Hắn muốn cướp công của Thạch Sanh đây.
      Tôi đang miên man suy nghĩ thì bỗng nghe vua cha truyền lệnh:
-    Quận công Lí Thông đã lập được công lớn, đã cứu được con gái yêu của ta. Nay ta
ban thưởng được kết hôn cùng công chúa.
      Tôi kinh hoàng. Trời đất tối sầm lại trước mắt tôi. Làm sao tôi có thể chung sống
cùng con người đáng ghê tởm ấy. Tôi muốn kêu to lên tố cáo hành động bỉ ổi của Lí
Thông . Tôi muốn kêu to lên xin vua cha rút lại lệnh ban kết hôn của Người. Nhưng
không hiểu sao tôi không thể nói nên lời.
      Mẫu hậu cùng đám cung nữ nghe tin tôi vội vã đến. Bà ôm tôi vào lòng vỗ về. Lát
sau mọi người thi nhau hỏi chuyện tôi. Nỗi đau khiến tôi câm lặng tưởng như hoá đá.
Mẫu hậu thảng thốt kêu lên:
-     Trời ơi! Con tôi bị câm rồi!
      Vua cha và triều thần xúm lại. Tôi vẫn im lặng. Vua cha bèn ra lệnh:
-         Hãy tạm hoãn lễ cưới lại. Lí Thông, phò mã hãy tìm các thầy thuốc giỏi nhất đến
chữa cho công chúa.
      Bao nhiêu thầy thuốc giỏi nhất nước được mời đến, nhưng chẳng ăn thua gì. Suốt
ngày tôi sống âm thầm như một cái bóng, không nói, không cười. Có thầy thuuốc nào
chữa được cõi lòng đang tan nát của tôi? Và lễ cưới vẫn cứ phải hoãn lại.
      Một hôm, tôi đang ngồi im lặng lẽ trên lầu cao, bỗng có tiếng đàn vọng đến.
      Đàn kêu tích tịch tình tang Ai mang công chúa dưới hang trở về?
-  Trời ơi, tiếng đàn của Thạch Sanh, đúng là chàng rồi! Chàng ở đâu? Tôi kêu lên.
      Bọn cung nữ thấy vậy, mừng quá, cùng xúm lại chỗ tôi. Một cung nữ cho tôi biết đó
là tiếng đàn của một người bị nhốt trong ngục vì tội ăn cắp vàng bạc trong cung vua.
      Tôi chạy đi tìm vua cha, xin Người cho gọi người đánh đàn tới. Vua cha thấy tôi nói
được, vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, vội sai quân lính thực hiện ngay.
      Vừa trông thấy Thạch Sanh, bỗng nhiên bao nhiêu đau buồn trong tôi tan biến hết.
Tôi vui mừng thưa với vua cha:
-        Bẩm vua cha, đây là chàng dũng sĩ đã giết đại bàng, cứu con từ dưới hang sâu.
Chàng đã nhường con lên trước để chàng lên sau. Nhưng khi con vừa lên được khỏi
hang sâu, Lí Thông đã sai quân lính lấp cửa hang để giết chàng, cướp công.
      Vua cha nghe tôi thưa chuyện bèn quay sang hỏi Thạch Sanh:
-     Làm sao ngươi lên được?
-      Dạ, tâu Đại vương, sau khi bị lấp kín dưới hang sâu, hạ thần đã cố tìm lối thoát. Hạ
thần đi mãi, tới cuối hang gặp thái tử con vua Thuỷ Tề đang bị nhốt trong cũi sắt, hạ
thần đã dùng bộ cung tên vàng này bắn tan cũi sắt, cứu thoát thái tử. Thái tử mời hạ
thần xuống thăm Thuỷ Phủ. Hạ thần được trọng đãi và ban thưởng nhiều vàng bạc.
Nhưng hạ thần từ chối, chỉ nhận một cây đàn này. Sau đó, vua Thuỷ Tề sai rẽ nước đưa
hạ thần lên trần gian.
      Vua cha hỏi tiếp:
-     Thế sao ngươi lại bị kết tội ăn cắp của cải trong cung và bị nhốt vào ngục?
Thạch Sanh chưa kịp nói thì đàn thần kêu lên:
-     Tích tịch tình tang, hồn đại bàng và trăn tinh báo thù, vu oan cho Thạch Sanh.
Vua cha hỏi tiếp:
-     Thế bộ cung tên vàng kia ở đâu ra?
      Thạch Sanh bèn kể lại đâu đuôi câu chuyện. Từ chuyện chàng được Ngọc Hoàng
sai xuống trần gian đầu thai làm con hai vợ chồng ông lão tiều phu nghèo tốt bụng đến
chuyện chàng mồ côi cha mẹ, sống lủi thủi một mình ở dưới gốc đa với nghề kiếm củi;
rồi chuyện kết nghĩa anh em với Lí Thông; rồi chuyện Lí Thông nhờ đi canh miếu thần;
rồi chuyện chàng giết trăn tinh lấy được bộ cung tên vàng. Chàng kể tiếp:
-      Khi hạ thần đem đầu trăn tinh về đến nhà. Lí Thông lại bảo với thần: “Đây là con
vật quý vua nuôi, giết nó ắt không thoát khỏi tội chết. Bây giờ em hãy trốn đi ngay, mọi
việc để ta lo liệu”. Dạ tâu Đại vương, hạ thần vốn là kẻ thật thà, tin là thật. Lại trở về
gốc đa làm nghề kiếm củi. Một hôm, vừa gánh củi về thì trông thấy một con đại bàng
khổng lồ đang cắp một người con gái (lúc đó thần chưa biết là công chúa). Hạ thần
giương cung bắn nó bị thương. Rồi hạ thần lần theo vết máu, tìm được cửa hang nó ở.
Vài hôm sau, Lí Thông tìm đến gốc đa, nói là vua sai đi cứu công chúa. Thần đã kể hết
cho Lí Thông nghe chuyện đại bàng, chuyện biết cửa hang đại bàng. Lí Thông nhờ thần
giúp, nhờ vậy mà thần có may mắn gặp được công chúa.
Vua cha nghe xong tức giận nói:
-     Tên Lí Thông khốn kiếp, xảo trá. Ta vốn đã muốn diệt trăn tinh từ lâu để trừ hoạ
cho dân, hiềm một nỗi nó thần thông biến hoá khiến ta đành bó tay. Năm nào cũng phải
dâng một mạng người, ta đau lòng lắm. May có dũng sĩ đây diệt được trăn tinh. Thế mà
hắn lại lừa đảo đê’ cướp công. Ta tưởng hắn đã giết đuợc trăn tinh, nên mới phong cho
hắn làm Quận công.
      Người ra lệnh:
-     Lính đâu? Hãy tống mẹ con tên Lí Thông vào ngục.
Rồi Người quay sang Thạch Sanh:
-     Còn dũng sĩ, đã có công diệt trăn tinh, đại bàng, trừ họa cho dân, lại có công cứu
công chúa, ta ban thưởng cho được kết hôn cùng công chúa và giao cho xét xử mẹ con
Lí Thông.
      Thạch Sanh vâng mệnh vua cha. Lễ cưới của chúng tôi được tổ chức rất trọng thể.
Chưa bao giờ kinh kì mở hội vui như thế.
      Về phần Thạch Sanh, chàng đã tha chết cho mẹ con Lí Thông, cho về quê cũ làm
ăn. Nhưng nghe đâu, dọc đường, mẹ con hắn bị Thiên Lôi đánh chết rồi bắt hoá kiếp
làm bọ hung. Thật đáng đời kẻ gian ác, xảo trá.
      Lễ cưới chưa kết thúc thì có tin cấp báo có quân binh của thái tử mười tám nước
chư hầu hội nhau lại kéo sang đánh (Họ tức giận vì trước đây tôi đã từ hôn họ.
      Vua cha sai Thạch Sanh đi đánh giặc. Chàng xin vua cha không động binh. Rồi
chàng đem đàn thần ra gảy. Nghe tiếng đàn của chàng, quân lính mười tám nước rụng
rời chân tay, cuốn binh khí xin hàng. Thạch Sanh tha tội chết cho chúng và sai thết đãi
cơm rượu.
      Khi nhìn thấy niêu cơm bé tẹo, chứng tỏ ý không muốn ăn. Thạch Sanh bèn đố
chúng ăn hết sẽ ban thưởng thêm. Lạ chưa, niêu cơm cứ vơi lại đầy, không sao ăn hết.
Bấy giờ mọi người càng phục Thạch Sanh, về sau, vua cha tôi đã truyền ngôi cho
Thạch Sanh, vì Người không có con trai.

BT8. Em múc nước để tưới cho cây trong vườn thì thấy một chú bọ hung mắc nạn. Em
đã cứu giúp và có cuộc trò chuyện thú vị. Hãy đóng vai chú bọ hung ấy để kể lại truyện
Thạch Sanh
Tôi hối hận lắm vì những sai trái của mình. Đời đời, kiếp kiếp tôi chỉ là con bọ hung
bị ghét bỏ. Tôi chỉ ao ước một lần được hoá kiếp làm người, khi ấy tôi sẽ không làm
điều xấu xa nữa. Không biết đến khi nào điều ước xa xôi đó mới thành hiện thực.

Vào một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, tôi rong chơi trong khu vườn nọ rồi không may
mắc nạn. Đang loay hoay không biết làm sao thì có một cô bé ra vườn tưới cây đã
thương tình cứu tôi.
Tôi vô cùng cảm kích trước lòng tốt cùa cô bé bởi tôi mắc nạn đã lâu mà không có ai
cứu giúp. Ai trông thấy họ hàng bọ hung chúng tôi cũng ghét bỏ và chỉ muốn đi xa.
Nhiều khi chính bản thân tôi cũng thấy tự ghét chính mình, ghét những việc mình đã
làm trước đây. Cô bé có lẽ không hiểu nên tôi kể cho cô nghe câu chuyện của tôi. Câu
chuyện rất dài .
Kiếp trước tôi cũng đươc làm một con người sống trên trần gian. Tên tôi là Lí Thông,
làm nghề bán rượu. Nhưng sau khi mắc sai lầm tôi đã bị trừng phạt biến thành bọ hung,
suốt đời chỉ ở những xó xỉnh hôi hám và bị người đời khinh ghét. Tôi bị trừng phạt vì
đã đối xử không tốt với Thạch Sanh, cậu em kết nghĩa của tôi. Thạch Sanh là chàng trai
mồ côi nhung tốt bụng, hiền lành và khỏe mạnh. Khi về ở với mẹ con tôi, cậu ta rất
được việc, chịu khó làm ăn mà không đòi hỏi điều gì. Thạch Sanh tốt bụng là thế mà tôi
đã bao lần lấy oán trả ơn. Tôi đã lừa cậu ấy đi canh miếu thờ nhưng mục đích thực là để
thế mạng tôi cho mãng xà. Nhưng Thạch Sanh không chết mà còn giết được con vật
độc ác nữa. Thế là tôi nghĩ cách cướp công và đuổi Thạch Sanh đi. Sau khi đến kinh
thành dâng công lên hoàng thượng, tôi được bổ chức quan Quận công danh giá, sống
trong sung sướng, tôi dần dần quên đi người em kết nghĩa tốt bụng của mình.
Một thời gian sau, nhà vua tổ chức hội kén rể cho công chúa. Nàng xinh đẹp quá khiến
tôi cũng mơ ước được làm phò mã. Nhưng không may nàng bị con đại bàng quái ác tha
đi mất. Mất con, nhà vua vô cùng đau khổ. Người sai tôi đi cứu công chúa và hứa gả
nàng cho tôi. Trong niềm vui sướng ngập tràn tôi cũng vô cùng hoang mang lo sợ,
không biết công chúa ở đâu mà tìm.... Và một lần nữa tôi may mắn được Thạch Sanh
giúp. Tôi không muốn gặp lại cậu em kết nghĩa này nhưng nghĩ chỉ có cậu ấy tìm được
nơi công chúa bị giam giữ nên lợi dụng. Thạch Sanh vốn thật thà nên nhận lời giúp ta
không chút nghi kị. Sau khi cứu được công chúa, ta đã lấp miệng hang lại, vĩnh viễn
chôn vùi chàng ta.
Tôi khấp khởi vui mừng vì mang được công chúa trở về cho hoàng thượng. Tôi đã nghĩ
đến cảnh tượng một hôn lễ hoành tráng và được làm phò mã nhà vua. Nhưng dường
như ước muốn ấy không được thực hiện. Công chúa sau khi được cứu ở hang về thì bị
câm không nói năng được gì nữa. Nàng lúc nào cũng buồn rười rượi. Việc cưới xin
đành phải hoãn lại. Trong lòng tôi lo lắng không yên.
Trong ngục tối, bỗng một hôm vang lên tiếng đàn. Tiếng đàn nghe mới não nùng làm
sao, nó vang động đến tận hoàng cung, nó làm cho công chúa tự nhiên nói được. Câu
đầu tiên nàng nói là muốn cha cho gặp người gảy đàn. Linh tính tôi mách bảo có
chuyện không hay nhưng vẫn cố chờ đợi. Không ngờ tôi lại gặp Thạch Sanh. Thật éo le
biết bao. Mọi tội lỗi của tôi bị vạch trần trong phút chốc. Bao mơ ước giàu sang, phú
quí và lễ cưới với công chúa đã không còn. Có lẽ tôi sẽ bị mất mạng nữa. Nhưng nhờ
có Thạch Sanh tốt bụng, tôi được tha tội chết, về quê sinh sống làm ăn. Nhưng lưới trời
lồng lộng, không bị chết dưói đao kiếm nhà vua lại bị trừng phạt bởi đao kiếm nhà trời.
Thần sét được phái xuống trừng phạt tôi. Thế là từ đó, tôi không được đầu thai làm kiếp
người nữa mà đời đời lảm gã bọ hung hôi hám ở xó xỉnh tối tăm...
Cậu em kết nghĩa Thạch Sanh của tôi, sau đó đã được lấy công chúa. Lễ cưới của họ
tưng bừng lắm. Nhưng lại vướng vào loạn 12 nước chư hầu kéo sang đánh vì trước kia
bị công chúa từ hôn. Tôi nghĩ chắc lần này Thạch Sanh khó chống đỡ được. Nhưng tài
ba thay, chàng ấy nhờ có tiếng đàn và niêu cơm thần kì của mình mà đánh thắng được
lũ giặc, không tốn một mũi tên. Khâm phục thay cho tài trí Thạch Sanh.
Tôi hối hận lắm vì những sai trái của mình. Đời đời, kiếp kiếp tôi chỉ là con bọ hung bị
ghét bỏ. Tôi chỉ ao ước một lần đươc hoá kiếp làm người, khi ấy tôi sẽ không làm điều
xấu xa nữa. Không biết đến khi nào điều ước xa xôi đó mới thành hiện thực...

CHUYÊN ĐỀ 5:TRUYỆN, KÍ HIỆN ĐẠI

I – CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC


1. Về mặt thể loại, truyện và kí là hai loại chính của văn xuôi. Truyện có nhiều thể như
truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết. Và kí củng có nhiều thể khác nhau như
kí sự, bút kí, phóng sự, du kí, tản văn, nhật kí, hồi kí, tuỳ bút… Các thể truyện và kí đều
thuộc loại hình tự sự. Tự sự là một trong ba phương thức tái hiện đòi sống của văn học
(tự sự — trữ tình – kịch). Tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó
chủ yếu bằng kể và tả. Tác phẩm tự sự là câu chuyện về con người hoặc sự vật, sự việc
nào đó được người kể chuyện kể lại hoặc miêu tả lại.
– Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực đời sống trong sự cảm nhận chủ quan của
nhà văn thì truyện lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Truyện
phản ánh hiện thực đời sống trong không gian, thòi gian qua các sự kiện, biến cố xảy ra
trong cuộc đời của con người. Trong tác phẩm truyện nhà văn cũng thể hiện tư tưởng
tình cảm. Nhung ở đây, tư tưởng tình cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện
và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa chúng dường như không có sự
phân biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho
người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong truyện là một thế giới tạo
hình đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài tác giả, không phụ thuộc vào tình cảm, ý
muốn của tác giả. Phương thức phản ánh hiện thực thông qua các sự kiện, biến cố và
hành vi của con người cho nên trong truyện có các yếu tố như cốt truyện, nhân vật, lời
trần thuật (lời kể chuyện)
– Kí là loại hình trung gian giữa văn học và báo chí. Nó thiên về ghi chép những con
người và sự việc có thật. Kí không miêu tả quá trình hình thành, phát triển tính cách của
các cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Những câu chuyện đời tư khi chưa nổi lên
thành vấn đề xã hội cũng không phải là đối tượng quan tâm của kí. Đối tượng của kí là
một trạng thái đạo đức – phong hoá xã hội, một trạng thái tồn tại của con ngưòi hoặc
những vấn đề xã hội nóng bỏng. Do đó, kí rất gần vói truyện nhưng lại khác với truyện
ở chỗ không có cốt truyện, không hư cấu, tôn trọng sự.thật khách quan của đời sống, sự
việc và con người trong kí phải xác thực, có địa chỉ rõ ràng. Tác phẩm kí văn học vừa
có giá trị về tư liệu lịch sử vừa có giá trị về sáng tạo nghệ thuật.
2. Chương trình Ngữ văn lớp 6 có 5 tác phẩm truyện (4 tác phẩm Việt Nam và 1 tác
phẩm của Pháp) và 4 bài kí (3 tác phẩm kí của Việt Nam và 1 tác phẩm kí của Nga).
– Các tác phẩm truyện, kí của Việt Nam có cách viết giản dị, gần gũi với trẻ em. Các
nhà văn đã xâỷ dựng được nhiều hình tượng đẹp, rrĩang tính giáo dục cao. Truyện Bài
học đường đòi đầu tiên [DếMèn phiêu lưu kí) giúp người đọc, nhất là các bạn nhỏ tuổi
nhận ra được một điều vô cùng thấm thìa: ở.đời không được sống hung hăng, hống
hách, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn cũng mang vạ vào thân. Truyện Sông nước
Cà Mau đem đến cho chúng ta một vẻ đẹp trù phú, giàu có cùng vói những nét độc đáo
của cảnh sắc thiên nhiên và- sinh hoạt của con người ở một vùng đất phương Nam.
Truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi để lại cho ta một bài học về cách ứng xử trong
cuộc đời-: cách ứng xử với tài năng và ý nghĩa của tấm lòng nhân hậu trong cuộc sống.
Truyện Vượt thác đem đến cho chúng ta một bức tranh sinh động về con người lao
động giản dị mà khoẻ khoắn. Hình ảnh đó cũng là biểu tượng cho sức mạnh và ý chí
của con người trong quá trình chinh phục thiên nhiên. Bài kí Cây tre Việt Nam đã xâỵ
dựng được một biểu tượng đẹp đẽ về con người và đất nước Việt Nam vói những
truyền thống cần cù trong lao động sản xuất, hiên ngang, kiên cường trong chiến đấu để
bảo vệ quê hương. Bài kí Cô Tô đem đến cho người đọc một vẻ đẹp không phải chỉ có
ở ngôn từ của nhà văn mà còn là của cảnh vật thiên nhiên tráng lệ làm say đắm lòng
người cùng cuộc sống lao động của con người trên đảo Cô Tô, thấy được sự hoà họp
giữa thiên nhiên và con người trên đảo trong công cuộc xây dụng đất nước. Lao xao đã
gợi lại cho ta nhớ về cuộc sống ở làng quê thòi xưa trong những bức tranh thiên nhiên
và sinh hoạt của con người. Cuộc sống thuở ấy tuy vất vả, nghèo khó nhưng bền bỉ, dẻo
dai, chứa đựng nhiều nét văn hoá độc đáo cúa làng quê Bắc bộ.
– Các tác phẩm truyện, kí của nước ngoài cũng vậy. Truyện ngắn Buổi học cuối cùng
không chỉ đơn giản là kể lại một buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường tiểu
học tại một làng quê thuộc vùng An-dát (Pháp) mà hơn thế, qua hình ảnh sinh động,
đẹp đẽ, cảm động của thầy Ha-men rìhà văn đã cho chúng ta thấy một bài học sâu sắc
về lòng yêu nước. Truyện ngắn này đã khơi dậy niềm tự hào và tinh thần yêu nước,
giáo dục tình yêu Tố quốc từ những biểu hiện bình dị, nhỏ bé và rất gần gũi với mỗi
con người. Bài kí Lòng yêu nước vừa gợi lên những vẻ đẹp của từng vùng miền của
nước Nga thân yêu vừa thể hiện đưọ’c tinh thần yêu nước thiết tha của nhân dân Xô
viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc. .Đồng thời cũng nêu lên một chân lí giản dị mà sâu
sắc: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất […]. Lòng yêu
nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Các tác phẩm truyện, kí trong chương trình Ngữ văn lóp 6 rất đặc sắc về nghệ thuật.
Các tác phẩm thể hiện một năng lực quan sát và thể hiện sự vật, hiện tượng rất nhạy
cảm, tinh tế của nhà văn. Các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hoá, ẩn dụ, so sánh,
hoán dụ, mượn truyện loài vật để nói chuyện của con người được các nhà văn khai thác
rất hữu hiệu góp phần thể hiện rất sinh động cảnh vật và hoạt động của con người.
Nhiều câu văn giàu hình ảnh, thấm đẫm chất thơ đi sâu vào tâm hồn để lại những ấn
tượng khó quên trong lòng người đọc.

BÀI HỌC ĐƯỜNG ĐỜI ĐẦU TIÊN


(Trích Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài)

Văn bản được trích từ chương I của truyện Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài.
Tác phẩm được sáng tác dựa trên những kỉ niệm tuổi thơ từ vùng Bưởi – quê hương của
tác giả. Dế Mèn phiêu lưu kí gồm 10 chương, kể về cuộc phiêu lưu của Dế Mèn vì mục
đích xây dựng một thế giói đại đồng, hoà họp, muôn loài kết làm anh em. Trên những
chuyến phiêu du ấy, Dế Mèn ngày càng trưởng thành, trở thành một thanh niên biết
trọng lẽ phải, khao khát vươn tới một lí tưởng cao đẹp… Trong đoạn trích Bài học
đường đời đầu tiên, bằng lòi kể của chính Dế Mèn, đoạn trích đã dựng lên trước mắt
người đọc hình ảnh của chàng dế thanh niên, cường tráng nhưng tính tình còn kiêu
căng, ngạo mạn, tự phụ, xốc nổi, hung hăng. Bởi tính cách này mà Dế Mèn đã bày trò
trêu chị Cốc, làm cho chị Cốc nổi giận và dẫn đến cái chết thảm thương của Dế Choắt,
một hàng xóm của Dế Mèn. Cái chết của Dế Choắt đã làm cho Dế Mèn vô cùng ân hận
và rút ra được bài học đường đời đầu tiên: “Ở đời mà có thói hung hăng’bậy bạ, có óc
mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình”. Với cách kể chuyện theo
ngôi thứ nhất, nghệ thuật miêu tả và kể chuyện sinh động, ngôn ngữ chírih xác, phong
phú gồm hệ thống các từ láy và các động từ, tính từ đặc sắc, tác giả Tô Hoài đã khiến
cho thế giới loài vật hiện lên thật sinh động, gần gũi, tự nhiên. Đoạn trích dụng lên một
hình ảnh sống động về thế giới loài vật, qua đó gợi lên thế giới của con người cùng với
những mối quan hệ xã hội rất đa dạng.

I. Đôi nét về tác giả: Tô Hoài


- Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh
Hà Đông, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội
- Tô Hoài viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Ông có khối lượng tác phẩm phong phú và đa dạng, gồm nhiều thể loại
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật
II. Đôi nét về tác phẩm: Bài học đường đời đầu tiên
1. Xuất xứ

- “Bài học đường đời đầu tiên”(tên do người biên soạn đặt) trích từ chương I của “Dế
Mèn phiêu lưu kí”
- “Dế Mèn phiêu lưu kí” được in lần đầu năm 1941, là tác phẩm nổi tiếng và đặc sắc
nhất của Tô Hoài viết về loài vật, dành cho lứa tuổi thiếu nhi

2. Tóm tắt

Dế Mèn là chàng dế thanh niên cường tráng biết ăn uống điều độ và làm việc có chừng
mực. Tuy nhiên Dế Mèn tính tình kiêu căng, tự phụ luôn nghĩ mình “là tay ghê gớm,
có thể sắp đứng đầu thiên hạ”. Bởi thế mà Dế Mèn không chịu giúp đỡ Dế Choắt-
người hàng xóm trạc tuổi Dế Mèn với vẻ ngoài ốm yếu, gầy gò như gã nghiện thuốc
phiện. Dế Mèn vì thiếu suy nghĩ, lại thêm tính xốc nổi đã bày trò nghịch dại trêu chị
Cốc khiến Dế Choắt chết oan. Trước khi chết, Dế Choắt tha lỗi và khuyên Dế Mèn bỏ
thói hung hăng, bậy bạ. Dế Mèn sau khi chôn cất Dế Choắt vô cùng ân hận và suy nghĩ
về bài học đường đời đầu tiên.

3. Bố cục (2 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “sắp đứng đầu thiên hạ rồi”): Vẻ ngoài và tính tình của Dế Mèn
- Phần 2 (còn lại): Bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn
4. Giá trị nội dung
Bài văn miêu tả Dế Mèn có vẻ đẹp cường tráng của tuổi trẻ nhưng tính nết còn kiêu
căng, xốc nổi. Do bày trò trêu chọc chị Cốc nên đã gây ra cái chết thảm thương cho Dế
Choắt, Dế Mèn hối hận và rút ra được bài học đường đời cho mình
5. Giá trị nghệ thuật
- Cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất tự nhiên, hấp dẫn
- Nghệ thuật miêu tả loài vật sinh động, đặc sắc
- Ngôn ngữ chính xác, giàu tính tạo hình

I. Dàn Ý: Phân Tích Bài Học Đường Đời Đầu Tiên

1. Mở bài
*Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu tác giả: Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của thiếu nhi với nhiều tác
phẩm đã trở thành "món ăn" tinh thần của các bạn nhỏ.
- Giới thiệu tác phẩm: "Bài học đường đời đầu tiên" rút từ tập "Dế Mèn phiêu lưu ký"
là một đoạn trích để lại rất nhiều ấn tượng với bạn đọc.
2. Thân bài
a.Đánh giá chung:
- Đoạn trích rút từ tập "Dế Mèn phiêu lưu ký"
- Có 2 phần: đi từ miêu tả ngoại hình, hành động, tính cách của nhân vật → câu chuyện
về bài học đường đời đầu tiên.
b. Phân tích:
- Ngoại hình: đôi chân với bộ móng nhọn hoắt, đôi càng mẫm bóng, "hai cái răng lúc
nào cũng nhai ngoàm ngoạp"... → Vẻ đẹp ngoại hình: cường tráng, khoẻ khoắn.
- Hành động: đạp phanh phách vào ngọn cỏ, đưa cả hai chân lên vuốt râu...
→ Tính cách ngạo mạn, tự kiêu của Dế Mèn.
- Thái độ của Dế Mèn với Dế Choắt:
+ Lúc đầu thì chế giễu, gọi bạn hàng xóm của mình Dế Choắt khi thấy Dế Choắt gầy
gò, ốm yếu hơn mình.
+ Ngông nghênh, ngạo mạn, xì hơi một cái thật dài khi Dế Choắt nhờ vả mình.
+ Coi thường, gọi Dế Choắt là "mày".
+ Ngạo mạn cố tình trêu tức chị Cốc dẫn đến cái chết đau thương của Dế Choắt.
+Ân hận trước cái chết của Dế Choắt. → bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn.
c. Nhận xét về giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích
- Bằng việc sử dụng hàng loạt biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá → hình ảnh Dế Mèn
trở nên chân thực, sống động: Đẹp, khỏe khoắn nhưng tính tình kiêu căng, ngạo mạn.
- Ý nghĩa của đoạn trích: phải luôn biết giúp đỡ mọi người xung quanh mình.
 
Bài học đường đời đầu tiên(LƯU Ý THÊM)

1. Ở tầng nghĩa thứ nhất của văn bản, thông qua phương thức miêu tả và kể chuyện, ta
nhận ra bức chân dung mà Dế Mèn tự họa. Đó là một phác thảo thành công về “một
chàng dế thanh niên cường tráng” trong hai bối cảnh và hai mối quan hệ khác nhau :
trong nhà và ngoài ngõ, với mình và với người. Mạch văn do đó mà liên tục theo hướng
mở rộng dần ra. Quả như câu tục ngữ : “Ở nhà nhất mẹ nhì con – Ra đường lắm kẻ còn
giòn hơn ta”.
– Trong cái thế giới riêng nhỏ bé của mình, Dế Mèn là chúa tể. Vẻ “cường tráng” toàn
thân thẫm đẫm vào các chi tiết bộ phận. Tất cả đều ăn ý, hài hòa, ánh lên vẻ đẹp, sức
hấp dẫn của một chàng dế thanh niên mới lớn. Nói đến sức mạnh của loài dế, trước hết
phải kể đến bộ vuốt ở chân và bộ răng trên miệng. Cả hai, ở Dế Mèn đã vô cùng “lợi
hại”, chỉ cần một động tác “co cẳng lên” là lập tức “Những ngọn cỏ gẫy rạp, y như có
nhát dao vừa lia qua”, còn hai cái răng đen nhánh có thể sánh ngang với “hai lưỡi liềm
máy làm việc”. Những ấn tượng thị giác vừa nêu được bổ sung bằng ấn tượng thính
giác tạo ra được nội lực đáng gờm. Cái đạp của Dế Mèn là cái “đạp phanh phách” đầy
khí thế, còn “hai lưỡi liềm máy” hoạt động lúc nào cũng có tiếng “ngoàm ngoạp” âm
vang, đe doạ. Dế Mèn có đủ, sự sang trọng ở bộ cánh “cái áo dài kín xuống tận chấm
đuôi” (chứ không “ngắn hủn hoẳn” đến buồn cười như trước đó), sự đáng nể ở bộ râu
“hùng dũng”. Riêng bộ râu của Dế Mèn là một điểm nhấn làm bừng sáng lên một vẻ
đẹp hoàn mĩ, tuyệt vời (được tô đậm đến ba câu văn chứ không phải là một chi tiết
đồng hạng ngang bằng với các bộ phận cơ thể khác). Cũng cần phải nói thêm, trong
những nét miêu tả ngoại hình ấy, có những chi tiết tưởng như chỉ thoáng qua nhưng
không thể thiếu, hơn nữa còn gây ấn tượng trong tâm trí người đọc. Ví dụ cái đầu “to ra
và nổi từng tảng, rất bướng” của Dế Mèn. Thấp thoáng ở đây một lực sĩ toàn năng oai
vệ sắp bước lên võ đài tỉ thí. Cuối cùng, sức mạnh của Dế Mèn đâu chỉ là câu chuyện
vu vơ. Chú đã tìm phép thử nhưng dường như không có phản ứng ngược chiều. Dù có
“cà khịa”, có “to tiếng” với “tất cả mọi bà con trong xóm”, nhưng không ai đáp lại,
không một người nào “dám ho he”.
– Toàn bộ vẻ đẹp của Dế Mèn không chỉ được bộc lộ bằng hệ thống những chi tiết,
đường nét khách quan. Nó còn gắn liền với vai trò chủ quan của người kể. Người kể
chuyện không ở ngôi thứ ba mà là ngôi thứ nhất, ở vị trí này, Dế Mèn đã soi gương và
ngắm mình trong đó. Yếu tố miêu tả đã kết hợp làm một với yếu tố trữ tình. Sức thuyết
phục đối với người đọc không chỉ ở bề nổi mà còn ở chiều sâu. “Tôi” kể chuyện về
“tôi” với bao nhiêu tâm trạng, nỗi niềm trong đó. Ngay ở những chi tiết hình thể, đâu
phải là vô tình, tác giả hoá thân vào nhân vật mà sung sướng đến sững sờ khi nhận ra
đôi càng “mẫm bóng”, những’ cái vuốt “nhọn hoắt” ở chân, đầu từng tảng to ra “rất
bướng”. Không hài lòng, hơn nữa không hãnh diện với cặp râu thì làm sao Dế Mèn cứ
chốc chốc lại đưa cả hai chân lên vuốt nó, mà cách vuốt “trịnh trọng và khoan thai” rất
kiểu cách, điệu đà. Nếu lấy tiêu chí “con nhà võ” mà tự đánh giá, Dế Mèn thật mãn
nguyện khi có được ưu thế vượt trội bẩm sinh, tự cho mình là “tay ghê gớm, có thể sắp
đứng đầu thiên hạ rồi”. Có thể xốc nổi, nhưng cứ hồn nhiên như thế, Dế Mèn say sưa
với bao nhiêu mơn trớn ngọt ngào.
– Hình tượng đẹp đẽ và dường như không còn chê vào đâu được nữa của Dế Mèn đã bị
vơi hụt đi đáng kể dưới con mắt của chính Dế Mèn khi chàng thanh niên cường tráng
thử sức lần thứ hai bày trò trêu chọc chị Cốc. Việc nghịch ngợm này không phải ngẫu
nhiên như ta đã biết vì trước đó, với bà con trong xóm, Dế Mèn ta đã không dưới một
lần “cà khịa” hay “to tiếng”, kẻ thì bị quát nạt (chị Cào Cào) người thì vô cớ bị cú đá
ghẹo của y (anh Gọng Vó). Còn với Dế Choắt, “người hùng” của chúng ta (Dế Mèn)
chỉ nhìn bằng nửa con mắt. Chẳng những không chịu giúp đỡ Dế Choắt, mà trong việc
“mạo hiểm” lần này (trêu ghẹo chị Cốc), trước Dế Choắt, chàng ta muốn khẳng định
mình ở vào một vị thế còn cao hơn nữa. Trước sự khuyên can thật tình : “Anh phải
sợ…” của Dế Choắt, không một chút đắn đo, Dế Mèn quắc mắt : “Sợ gì ? Mày bảo tao
sợ cái gì ? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa !”. Sự hợm hĩnh đến ngông cuồng,
bất chấp lẽ phải là một nét tính cách của Dế Mèn. Chính nó đã dẫn đến hậu quả khôn
lường : cái chết của Dế Choắt. Trong vụ án giết người mà Dế Choắt là nạn nhân này,
chị Cốc là kẻ vô can, vì “Gieo gió thì phải gặt bão”, với cách nghĩ của chị Cốc, đó
là chuyện thường tình. Chỉ có điều, oái oăm thay kẻ gieo gió đâu phải là kẻ có mặt lúc
này ? Tội lỗi không thể nào tha thứ được của Dế Mèn không chỉ ở chỗ “quýt làm cam
chịu”, mà cái chính còn là không biết yêu thương, che chở, đùm bọc cho đồng loại, nhất
là những người không may mắn, những người ốm yếu rất đáng quan tâm như Dế Choắt
hàng xóm “tắt lửa, tối đèn” (Nếu trước đó Dế Mèn đào cho Dế Choắt một cái ngách
chạy sang thì chắc chắn là người bạn khốn khổ này đã thoát nạn). Lần đầu tiên, qua cái
chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã nhận ra sự thiếu hụt về nhân cách, nền tảng tạo ra sức
mạnh của mỗi cá nhân, còn sức mạnh của mỗi một cá nhân, nếu tách khỏi cộng đồng sẽ
trở nên vô nghĩa. Đó chính là ý nghĩa đắt giá cho bài học đầu đời mà Dế Mèn tự rút ra.
2. Ở tầng nghĩa thứ hai của văn bản, thông qua hai lớp thời gian, một Dế Mèn hôm nay
(đã trưởng thành thực sự) nhìn và kể lại một Dế Mèn hôm qua với bao nhiêu xốc nổi,
dại khờ.
Chúng ta có thể hình dung trọn vẹn con đường “phiêu lưu” của nhân vật mà trích đoạn
trên đây mới chỉ là bước khởi đầu. Tính chất hồi kí của tác phẩm hiện lên rất rõ. Nói
đến hồi kí là nói đến cảnh, đến người thông qua miêu tả và kể chuyện nhưng gắn với
hoài niệm, những kỉ niệm riêng trong quá khứ. Vì vậy, những chấn động tình cảm có
điều kiện gia tăng với người kể, và chia sẻ được với người nghe, cả hai trở thành những
tri âm, đồng điệu. Biểu hiện của tính chất hồi kí ở đây là lối văn hai giọng : giọng của
hôm nay nhớ về quá khứ, còn những dòng viết về quá khứ lại cứ như hiện ra trước mắt,
của hôm nay (hiện tại của quá khứ). Chất giọng của hôm nay là một thứ tư duy phán xét
như tiếng nói của vị quan tòa nghiêm khắc cần minh bạch đúng sai nhưng cũng có sự
bao dung, tha thứ cho những dại dột ấu trĩ một thời. Hai chất giọng này xen kẽ vào
nhau tạo thành thứ bè đôi – phong cách riêng của Dế Mèn phiêu lưu kí nhằm điều chỉnh
quá trình hướng thiện của nhân vật trung tâm đi vào quỹ đạo. Trước hết, nó đính chính
lại những ngộ nhận ngây thơ mà Dế Mèn một thời cứ đinh ninh nó là như thế. Chẳng
hạn việc gây sự vô cớ với bà con trong xóm mà không ai lên tiếng. Sau này tỉnh táo
hơn, từng trải hơn, Dế Mèn mới hiểu được thế nào là sự im lặng. Thì ra toàn là chỗ
quen thuộc cả, “không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai
dám ho he. Ấy vậy, tôi cho là tôi giỏi…”. Lên mặt mắng Dế Choắt là kẻ “ặn xổi, ở thì”
nhưng sự thật không phải như vậy (thật ra chỉ vì ốm đau luôn, Dế Choắt không thể nào
làm được). Cao hơn sự điều chỉnh trên đây, Dế Mèn đã tìm thấy nguyên nhân của sự
“tự đắc”, ấy là tính ích kỉ, cá nhân của bản thân mình lúc đó : “Ngẫm ra thì tôi chỉ nói
lấy sướng miệng tôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy, tôi
có tính tự đắc…”. Dám thẳng thắn như thế vì Dế Mèn là kẻ biết mình, khoác lác thế
thôi (như với chị Cốc), nhưng y là một kẻ “miệng hùm gan sứa”, chẳng thế mà khi biết
Dế Choắt bị chị Cốc giáng cho những đòn chí tử, tuy đã nằm tận đáy cái hang kiên cố
của mình rồi, Dế Mèn vẫn khiếp đảm “nằm im thin thít”, đợi chị Cốc bay đi rồi mới
dám “mon men bò lên”. Toàn bộ sự việc trêu chọc chị Cốc, bắt nạt Dế Choắt đã được
khái quát lại và để từ đó một bài học về nhân sinh, về đạo lí rút ra thấm thía : “Chao ôi,
có biết đâu rằng : hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả nợ cho những cử chỉ
ngu dại của mình thôi…”. Câu văn này mà đặt vào một kết cấu hình thức bên ngoài thì
nó như một sự chuyển ý. Nhưng nếu đặt nó vào phong cách Tô Hoài thì lại là giọng văn
hồi kí có tính chất đúc kết rất cao. Nó làm sáng lên tất cả chân dung một Dế Mèn còn
nhiều thiếu sót mà câu chuyện tiếp nối là một sự minh họa theo quan hệ “hô – ứng” mà
thôi. Tuy có nặng lời phê phán, lối văn hai giọng cũng phát hiện ra những mầm mống
tốt đẹp của Dế Mèn, một tính cách không hề giản đơn, một phía. Với Dế Choắt, Dế
Mèn tỏ ra tuyệt tình nhưng thực ra Mèn cũng biết thương người. Trong cái đám sếu,
vạc, cốc, le,… cãi nhau inh ỏi bốn góc đầm nước trắng mênh mông có khi chỉ tranh
nhau một mồi tép, Dế Mèn rưng rưng thương cảm với “những anh Cò gầy vêu vao ngày
ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào”. Vừa hắt hủi
Dế Choắt “Đào tổ nông thì cho chết ! “, Dế Mèn đã biết trầm tư : “Khổ quá, những kẻ
yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không sống nổi”. Tính cách Dế Mèn là như thế !
Đủ tất cả hay, dở, đúng, sai. Cần phải học, học theo kiểu “Đi một ngày đàng, học một
sàng khôn” hơn nữa mới trở nên một Dế Mèn chân chính.
3. Về nghệ thuật, điều trước hết không thể không nói, ấy là nghệ thuật miêu tả và kể
chuyện. Tác phẩm chinh phục được người đọc từ những trang đầu đến khi kết thúc. Đó
là nhờ tài quan sát và kể chuyện. Bằng trí tưởng tượng của nhà văn, ta cảm nhận được
thế giới loài vật nhỏ bé như thế giới loài người ở những quan hệ và số phận của chúng.
Con vật mang tính cách người, hay thấp thoáng hình ảnh con người. Riêng về mặt kể
chuyện, mà ở đây là tự truyện, Tô Hoài đã đi vào được đời sống nội tâm của nhân vật,
đặc biệt là nhân vật Dế Mèn. Ông có những phát hiện thú vị nhất là về tâm lí. Cùng với
điều đó, tác giả khéo léo đặt nhân vật vào những tình huống tưởng như bình
thường nhưng diễn biến bất thường để nhân vật tự bộc lộ tính cách (nhự đoạn Dế Mèn
trêu chọc chị Cốc để rồi nhận lấy cho mình bài học đau đớn, xót xa). Ngoài những điều
dễ nhận biết đó ra, không thể không nói đến ngôn ngữ, đến cách dùng từ, đặt câu rất
đặc biệt và cũng là thành công lớn của Tô Hoài trong Dế Mèn phiêu lưu kí. Về từ, ngữ,
nhà văn chưa bao giờ cho phép mình cẩu thả. Ngay như khi cá biệt hoá cũng là khái
quát hoá vẻ đẹp, sức hấp dẫn của Dế Mèn, tác giả có một phác hoạ chính xác : “chàng
dế thanh niên cường tráng”. Cường tráng khác với tuấn tú, khôi ngô khác với thông
minh lanh lợi. “Cường tráng” gần với loài vật hơn, lưu ý với người đọc về sức vóc
nhiều hơn. Trên tinh thần sáng tạo ấy, các tính từ và động từ miêu tả ngoại hình vừa có
thần vừa đá nghĩa. “Có thần” vì sức lột tả giúp cho người đọc có thể hình dung cái cốt
lõi, cái tinh tuý mà ngôn từ thể hiện, còn đa nghĩa vì những tính từ và động từ ấy còn
góp phần thể hiện, đúng ra là nhân vật tự thể hiện mình, một cách soi gương và .nhìn
ngắm mình trong đó (như trên đã nói). Đôi càng “mẫm bóng” chứ không phải là nhẵn
bóng, đôi cánh trước kia ngắn “hủn hoẳn” chứ không phải là cũn cỡn, mỗi khi tôi “vũ
lên” chứ không phải là vù lên hay vỗ cánh bay lên,… Đó là những từ lạ có sức tạo hình.
Song, có những từ không có gì là “lạ” nhưng do đặt được nó vào một tương quan nhất
định, hiệu quả của nó không kém gì sức gợi như trên. Chẳng hạn trường hợp sợi râu của
Dế Mèn : “Sợi râu của tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng”. Chữ “hùng
dũng” đặt ở đây thoạt nghe có vẻ không thuận, không êm, nhưng nghĩ kĩ thì thật là
chính xác. Không chỉ tả Dế Mèn, cả Dế Choắt cũng thế. Dưới con mắt tự đắc của mình,
Dế Mèn nhìn đôi cánh của Dế Choắt mới buồn cười, mới ngộ nghĩnh và thảm hại làm
sao. Cánh gì mà chỉ “ngắn củn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người cởi trần mặc
áo gi-lê”. Lấy cái chết để cảnh báo Dế Choắt về cái tội nhà cửa tuềnh toàng, Tô Hoài
viết : “Ngộ có kẻ nào đến phá thì thật chú chết ngay đuôi !”. “Chết ngay đuôi” là cụm
từ rất hay và rất lạ. Giải thích cho Dế Mèn hiểu được tình cảnh bệnh tật .của mình,
thông thường Dế Choắt có thể nói : em yếu sức quá. Nhưng nhà văn không chịu. Phải
là “em nghèo sức quá” mới đúng là Dế Choắt của Tô Hoài. “Đứa nào cạnh khoé gì tao
thế ? Đứa nào cạnh khoé gì tao thế ?” thì đó mới là giọng điệu của chị Cốc, ngôn từ của
chị Cốc thường dùng. Giọng điệu ở đây không kém phần đáo để, còn ngôn từ nói theo
cách rút gọn thành ngữ (nói cạnh nói khoé) làm cho ý tứ không vòng vèo mà sắc nhọn
hẳn lên. Rõ ràng ngôn ngữ trong trích đoạn nói trên và tác phẩm nói chung là ngôn ngữ
nhân vật, kết quả của sự chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường để chỉ còn tinh tuý mới thôi.
Ở một đơn vị ngôn ngữ lớn hơn từ, ngữ, đó là câu, câu văn của Tô Hoài rất giàu nhạc
tính. Thử làm một phép so sánh giữa câu văn : “Tôi quát bọn Cào Cào ngoài đầu bờ
mép cỏ” với câu của Tô Hoài : “Tôi đã quát mấy chị Cào Cào ngụ ngoài đầu bờ, khiến
mỗi lần thấy tôi đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám
đưa mắt lên nhìn trộm”. Hoặc giữa câu : “Tôi đá anh Gọng Vó” với câu của Tô Hoài :
“Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới
đầm lên”. Rõ ràng, chúng khác nhau một trời một vực. Tính nhạc trong những câu văn
ấy của Tô Hoài tạo ra bởi thanh điệu và nhịp điệu vừa tiết chế vừa du dương. Ở câu thứ
nhất có bốn nhịp, kết thúc hai nhịp đầu là thanh bằng liên tiếp thì hai nhịp sau lại là
thanh trắc như một sự hoà thanh. Kết hợp với thanh điệu ấy lại là bốn nhịp có sự cân
đối về số lượng từ thật chỉn chu một cách đầy dụng ý. Còn ở ví dụ thứ hai nếu cắt bỏ
một cụm từ, như “dưới đầm lên”, câu văn sẽ hỏng theo quy luật phối thanh vừa phân
tích. Thêm cụm từ có vẻ không quan trọng đó vào, câu văn êm thuận hẳn lên, vừa êm
tai, vừa cảm động. Những câu văn như thế thoát ra khỏi sự ràng buộc của lối văn biền
ngẫu, đã đạt tới sự nhuần nhị, tự nhiên, dấu hiệu rực rỡ của văn xuôi hiện đại.

II. LUYỆN TẬP”


Bài Văn tham khảo
BT1.:Phân Tích Bài Học Đường Đời Đầu Tiên
Người ta vẫn thường gọi Tô Hoài là nhà văn của thiếu nhi bởi những tác phẩm của
ông suốt một thập kỷ qua đã trở thành "món ăn" tinh thần không thể thiếu của rất nhiều
em nhỏ. "Dế Mèn phiêu lưu ký" là một trong những sáng tác rất nổi tiếng của ông mà
hầu như bạn nhỏ nào cũng biết đến. Đoạn trích "Bài học đường đời đầu tiên" được rút
từ tác phẩm này đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.
Đoạn trích có hai phần. Tô Hoài đã đi từ hình dáng, tính cách, hành động của Dế Mèn
rồi từ đó mở ra cho người đọc câu chuyện về bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn
sau cái chết của Dế Choắt. Toàn bộ đoạn trích được kể bằng ngôi thứ nhất, là lời kể của
Dế Mèn khiến cho câu chuyện trở nên vô cùng chân thật nhưng cũng không kém phần
sinh động, hấp dẫn.
Mở đầu đoạn trích là các chi tiết miêu tả hình dáng của Dế Mèn với một đôi càng "mẫm
bóng" cùng "những cái móng vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt". Cả
người Dế Mèn "rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn". Nó có
một cái đầu "to ra và nổi từng tảng, rất bướng". Hai cái răng thì đen nhánh và "lúc nào
cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc" cùng với sợi râu "dài và uốn
cong một vẻ rất đỗi hùng dũng". Chỉ bấy nhiêu nét phác hoạ thôi cũng đủ thấy sự tỉ mỉ
và tinh tế trong miêu tả của nhà văn Tô Hoài. Qua từng câu, từng chữ, hình ảnh một
chú Dế Mèn ngạo mạn, cường tráng cứ thế dần hiện ra trước mắt người đọc. Cùng với
việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ cùng với những nét miêu tả đẹp mắt, Dế
Mèn còn hiện lên như một chàng trai trẻ đầy sức sống, vừa tự tin vừa tự hào về bản
thân mình. Không chỉ vậy, hành động của Dế Mèn cũng được miêu tả sinh động không
kém. Với những cái móng vuốt nhọn hoắt của mình, khi muốn thử sự lợi hại của chúng,
nó lại "co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn cỏ". Dế Mèn còn tự miêu tả mình
bằng giọng điệu thế này: "Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân
lên vuốt râu", "thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái". Ngoại hình đẹp mắt cũng
những hành động ngạo mạn vừa thể hiện được vẻ cường tráng vừa cho thấy tính cách
điệu bộ kiêu căng của chú dế mới lớn này.
Với việc sử dụng những từ ngữ vô cùng độc đáo như: "mẫm bóng", "nhọn hoắt", "hủn
hoẳn", "dài bóng mỡ", "ngoàm ngoạp"... đoạn văn miêu tả hình dáng, hành động của
Dế Mèn được coi là đoạn miêu tả hết sức đặc sắc, độc đáo bởi ta chỉ cần thay thế một từ
thôi thì hình ảnh chú dế mới lớn sẽ không còn hiện ra với dáng vẻ bắt mắt như vậy nữa.
Vậy mới thấy Tô Hoài không chỉ có khả năng quan sát tinh tế mà còn là một bậc thầy
trong việc sử dụng ngôn từ miêu tả. Nhưng cái tài của nhà văn còn ở chỗ đằng sau việc
miêu tả ngoại hình, hành động ta còn thấy được hết cái tính cách của nhân vật. Đằng
sau cái dáng vẻ ưa nhìn, khoẻ khoắn còn là cái vẻ kiêu căng, tự phụ đến mức nó tự nghĩ
mình "có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi". Chính những suy nghĩ, cùng sự ngạo mạn đó
đã dẫn đến những hậu quả đáng tiếc và đó cũng chính là những bài học đầu tiên của Dế
Mèn.
Câu chuyện bắt đầu từ thái độ coi thường của Dế Mèn đối với Dế Choắt. Thấy anh bạn
hàng xóm của mình trông gầy gò, ốm yếu, nó không những không đồng cảm, chia sẻ
mà còn gọi bạn của mình là Dế Choắt một cách đầy chế giễu. Rồi khi Dế Choắt nhờ vả
Dế Mèn, nó hếch răng lên, xì hơi một cái rõ dài đầy ngông nghênh và không coi ai ra
gì. Không những vậy, Dế Mèn còn quắc mắt, mắng Dế Choắt, thể hiện rất rõ giọng điệu
khinh rẻ, nhạo báng Dế Choắt: "Chú mày sinh sống quá cẩu thả, chú mày có lớn mà
chẳng có khôn, chú mày hôi như cú mèo, im cái điệu khóc mưa dầm sùi sụt ấy đi,
giương mắt lên mà xem tao trêu con mụ Cốc đây này". Với việc xây dựng một nhân vật
hoàn toàn đối lập với Dế Mèn về ngoại hình và sức lực, Tô Hoài càng làm nổi bật lên
cái vẻ ngạo mạn, kiêu căng, không coi ai ra gì của Dế Mèn.
Cái dáng vẻ yếu đuối, gầy gò của Dế Choắt không hề khiến cho một anh chàng mới
lớn, khoẻ khoắn như Dế Mèn phải bận tâm cho đến khi hành động dại dột của nó đã
dẫn đến cái chết thương tâm cho Dế Choắt. Nó đã ngông cuồng trêu tức chị Cốc một
phần là bởi cái tính ngỗ nghịch của mình nhưng mặt khác còn là để chứng minh cho Dế
Choắt thấy mình chẳng hề nể sợ ai: "Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày bảo tao còn
biết sợ ai hơn tao nữa!". Ngông nghênh là thế nhưng khi thấy chị Cốc nổi giận, nó lập
tức chui vào hang sâu để lẩn trốn để rồi người chịu hậu quả lại là Dế Choắt. Cái vẻ gầy
gò, ốm yếu của Dế Choắt khiến nó không thể chịu được khi cái mỏ của chị Cốc cứ thế
giáng xuống và mãi cho đến tận khi chị Cốc đi rồi Dế Mèn mới dám mò ra. Khi thấy
bạn của mình không thể dậy được nữa cùng với những lời trăng trối, Dế Mèn đã vô
cùng đau khổ, ân hận. Nó nhận ra những sai lầm của mình cùng tính ngông nghênh,
ngạo mạn của bản thân. Cái chết của Dế Choắt chính là bài học đường đời đầu tiên vô
cùng đắt giá của nó.
Có thể thấy bằng việc sử dụng hàng loạt những biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá Tố
Hữu không chỉ tái hiện lại câu chuyện một cách chân thực, sống động mà còn để lại
một bài học vô cùng sâu sắc không chỉ với Dế Mèn mà còn với cả độc giả. Qua lỗi lầm
đã gây ra cho Dế Choắt, chú Dế Mèn kiêu ngạo cũng rút ra cho mình bài học sâu sắc:
Không nên kiêu căng, hống hách, cần phải suy nghĩ trước khi làm, tránh gây ra những
tai họa cho người khác cũng như chính bản thân mình.
Đoạn trích "Bài học đường đời đầu tiên" không chỉ mang đến bài học sâu sắc cho Dế
Mèn mà còn là bài học chung cho tất cả chúng ta về thái độ sống: cần yêu thương, sẻ
chia với những người xung quanh, cần sống khiêm tốn không kiêu ngạo, coi thường
người khác.
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-bai-hoc-duong-doi-dau-tien-54152n.aspx 
BT2.Bài văn phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích "Bài học đường đời đầu tiên"
Dế Mèn phiêu lưu kí là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài. Ngay từ khi mới
ra đời, truyện đã thu hút sự chú ý của độc giả và được trẻ thơ Việt Nam rất mến mộ.
Trong đó, chương I: Tôi sống độc lập từ thuở bé – Một sự ngộ nghĩnh đáng ân hận suốt
đời (Bài học đường đời đầu tiên) là được yêu thích nhất bởi lối kể “tự truyện” và một
ngôn ngữ kể phù hợp với ngôn ngữ trẻ thơ. Đoạn trích kể về một chú Dế Mèn sớm có ý
thức tự lập, ham muốn làm việc, có bản lĩnh và cá tính mạnh mẽ, sống bên cạnh đó
cũng có không ít những sở thích ngông cuồng của tuổi trẻ. Trả giá cho sự “ngỗ nghịch”
ấy là nỗi “ân hận” suốt đời của Dế Mèn.

Sau khi sinh ra được ba ngày, tối hôm đó Dế Mèn rời xa mẹ. Chú không sợ cũng không
buồn, chú thầm cảm ơn mẹ đã tạo điều kiện cho chú được sống độc lập. Chú khoan
khoái vì được sống tự do, tha hồ thoả mãn tính hiếu động của mình. Mới đến hang, chú
ta đã sục sạo khắp nơi, xem xét cẩn thận chỗ ở, nhìn ngắm trời đất. Thích thú, chú cao
hứng gáy lên mấy tiếng rõ to như để tuyên bô” cuộc sống độc lập của mình bắt đầu và
gửi lời chào đến tất cả cư dân vùng đầm nước ấy. Quả là một chú dế rất đáng yêu.

Dế Mèn rất ham làm việc và có ý thức làm việc để chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống độc
lập của mình. Chú làm việc suốt ngày đến tận chập tối mới ngơi tay. Mèn hay lam hay
làm, cần cù như một người lao động thực thụ, với cả bản tính lo xa như các cụ già trong
họ. Thật đáng khâm phục. Tuy còn nhỏ, nhưng Dê Mèn đã tỏ ra là một chàng dế có bản
lĩnh. Mèn không ngừng luyện tập và trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng,
dáng vẻ oai vệ. Đoạn văn miêu tả hình dáng, cử chĩ của Dế Mèn thật sinh động, cụ thể,
phù hợp với cách nhìn của trẻ em về thế giới loài vật.

Cuộc sống ở xóm quanh bờ ruộng diễn ra thật vui vẻ: đêm đến, họ nhà Dế rủ nhau đàn
hát, nhảy múa, ăn sương đọng, cỏ ướt. Nhưng những niềm vui chỉ có thể thoả mãn
những tâm hồn ưa bình yên, giản dị, ít khát vọng. Còn Dế ta, vốn hiếu dộng, thích cuộc
sống – phóng khoáng, mạnh mẽ, luôn luôn mới mẻ, vì thế chú thấy nhàm chán dần. Nỗi
chán chường vì cuộc sống cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu đó chính là niềm thôi
thúc Dê Mèn sau này tiến hành một cuộc phiêu lưu vô cùng hấp dẫn nhưng đầy mạo
hiểm. Những ngày sống quanh quẩn bên đầm nước toàn gặp những khuôn mặt quen
thuộc, chưa thấy ai tài giỏi hơn mình, cũng làm cho Dế Mèn nảy sinh những tính cách
khác thường.

Dế Mèn tự say sưa ngắm mình trong tư thế đi đứng oai vệ, sợi râu dài một vẻ rất đỗi
hùng dũng, tự thoả mãn với tiếng phành phạch giòn giã của đôi cánh. Vậy nên chú càng
ngày càng cho mình là giỏi, là tay ghê gớm, là sắp đứng dầu thiên hạ, càng trở nên
hung hăng hống hách. Mèn cà khịa, bắt nạt, trêu chọc tất cả bà con trong xóm. Cái tính
khí ngỗ ngược, trẻ con ấy khiến Dế Mèn từ một chú dế đáng yêu trở thành một kẻ đáng
ghét làm sao! Chẳng ai nói ra, nhưng có lẽ cả cái xóm bờ đầm đều nghĩ thế. Đỉnh điểm
của trò ngỗ ngược, nghịch ranh là chuyện đến trêù chị Cốc dẫn đến cái chết thê thảm
của Dế Choắt.

Kể về sự việc này, ngòi bút của Tô Hoài thật tinh tế khi miêu tả diễn biến, thái độ và
tâm lý nhân vật. Lúc đầu Dế Mèn huênh hoang trước Dế Choắt: Sợ gì? Mày bảo tao sợ
cái gi? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa! Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc
đây này. Sau đó Dế Mèn chui tọt ngay vào hang yên trí với nơi ẩn nấp kiên cố của
mình. Tôi… lèn giường nằm khểnh, bắc chân chữ ngủ…. Nhưng khi Dế Choắt bị Cốc
mổ thì núp tận đáy đất mà tôi cũng thiếp, nằm im thin thít, cho đến khi biết chị Cốc đi
rồi, tôi mới mon men bò lên. Đến đây, có lẽ người đọc đều chung một suy nghĩ: “đồ
hèn nhát”. Tô Hoài đã thành công trong việc khắc họa tính cách nhân vật và để lại một
ấn tượng về nhân vật của mình.

Sự việc đau lòng này đã làm cho Dế Mèn tỉnh ngộ và nhận ra cái xấu, cái tai hại của
những cử chỉ ngông cuồng, ngu dại của mình. Dế Mèn thấy mình ích kỷ. Những lời
trăng trối của Dế Choắt được coi là bài học sâu sắc, bài học đầu tiên trong đời Dế Mèn:
ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi củng
mang vạ vào mình.

Dể Mèn phiếu lưu kí của Tô Hoài là truyện “đồng thoại” chứ không phải truyện ngụ
ngôn. Nhưng tác giả đã thông qua truyện về thế giới loài vật, lồng vào đó những bài
học triết lí nhân sinh sâu sắc, không kém gì truyện ngụ ngôn. Thông qua những trò
nghịch tinh quái, những tâm tư tình cảm của Dế Mèn, nhà văn đã khéo đưa câu chuyện
(đặc biệt ở chương I) những bài học về cách sống của mình: không nên làm những việc
ngu dại, ngông cuồng chỉ để thoả mãn tính hiếu thắng, tính ích kỷ của mình; phải tự
trọng, biết nghiêm khắc trước những thiếu sót của mình…

Những bài học đạo lý ấy vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc, thấm thìa. Vì vậy tác phẩm không
chỉ có giá trị đối với thiếu nhi Việt Nam, mà còn được tuổi thơ các nước Nga, Ru- ma-
ni, Ba Lan, Ấn Độ, Nam tư, Đức, Pháp… rất yêu chuộng.
BT3:Cảm nhận của em sau khi học đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên thuộc
chương I tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài
Bài làm
Dế Mèn phiẽu lưu kí là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài. Ngay từ khi mới
ra đời, truyện đã thu hút sự chú ý của độc giả và được trẻ thơ Việt Nam rất mến mộ.
Trong đó, chương I: Tôi sống độc lập từ thuở bé - Một sự ngộ nghĩnh đáng ân hận suốt
đời (Bài học đường đời đầu tiên) là được yêu thích nhất bởi lối kể “tự truyện” và một
ngôn ngữ kể phù hợp với ngôn ngữ trẻ thơ. Đoạn trích kể về một chú Dế Mèn sớm có ý
thức tự lập, ham muốn làm việc, có bản lĩnh và cá tính mạnh mẽ, sống bên cạnh đó
cũng có không ít những sở thích ngông cuồng của tuổi trẻ. Trả giá cho sự “ngỗ nghịch”
ấy là nỗi “ân hận” suốt đời của Dế Mèn.
Sau khi sinh ra được ba ngày, tối hôm đó Dế Mèn rời xa mẹ. Chú không sợ cũng không
buồn, chú thầm cảm ơn mẹ đã tạo điều kiện cho chú được sống độc lập. Chú khoan
khoái vì được sống tự do, tha hồ thoả mãn tính hiếu động của mình. Mới đến hang, chú
ta đã sục sạo khắp nơi, xem xét cẩn thận chỗ ở, nhìn ngắm trời đất. Thích thú, chú cao
hứng gáy lên mấy tiếng rõ to như để tuyên bố cuộc sống độc lập của mình bắt đầu và
gửi lời chào đến tất cả cư dân vùng đầm nước ấy. Quả là một chú dế rất đáng yêu.
Dế Mèn rất ham làm việc và có ý thức làm việc để chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống độc
lập của mình. Chú làm việc suốt ngày đến tận chập tối mới ngơi tay. Mèn hay lam hay
làm, cần cù như một người lao động thực thụ, với cả bản tính lo xa như các cụ già trong
họ. Thật đáng khâm phục. Tuy còn nhỏ, nhưng Dê Mèn đã tỏ ra là một chàng dế có bản
lĩnh. Mèn không ngừng luyện tập và trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng,
dáng vẻ oai vệ. Đoạn văn miêu tả hình dáng, cử chĩ của Dế Mèn thật sinh động, cụ thể,
phù hợp với cách nhìn của trẻ em về thế giới loài vật.
Cuộc sống ở xóm quanh bờ ruộng diễn ra thật vui vẻ: đêm đến, họ nhà Dế rủ nhau đàn
hát, nhảy múa, ăn sương đọng, cỏ ướt. Nhưng những niềm vui chỉ có thể thoả mãn
những tâm hồn ưa bình yên, giản dị, ít khát vọng. Còn Dế ta, vốn hiếu dộng, thích cuộc
sống - phóng khoáng, mạnh mẽ, luôn luôn mới mẻ, vì thế chú thấy nhàm chán dần. Nỗi
chán chường vì cuộc sống cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu đó chính là niềm thôi
thúc Dê Mèn sau này tiến hành một cuộc phiêu lưu vô cùng hấp dẫn nhưng đầy mạo
hiểm. Những ngày sống quanh quẩn bên đầm nước toàn gặp những khuôn mặt quen
thuộc, chưa thấy ai tài giỏi hơn mình, cũng làm cho Dế Mèn nảy sinh những tính cách
khác thường.
Dế Mèn tự say sưa ngắm mình trong tư thế đi đứng oai vệ, sợi râu dài một vẻ rất đỗi
hùng dũng, tự thoả mãn với tiếng phành phạch giòn giã của đôi cánh. Vậy nên chú càng
ngày càng cho mình là giỏi, là tay ghê gớm, là sắp đứng dầu thiên hạ, càng trở nên
hung hăng hống hách. Mèn cà khịa, bắt nạt, trêu chọc tất cả bà con trong xóm. Cái tính
khí ngỗ ngược, trẻ con ấy khiến Dế Mèn từ một chú dế đáng yêu trở thành một kẻ đáng
ghét làm sao! Chẳng ai nói ra, nhưng có lẽ cả cái xóm bờ đầm đều nghĩ thế. Đỉnh điểm
của trò ngỗ ngược, nghịch ranh là chuyện đến trêu chị Cốc dẫn đến cái chết thê thảm
của Dế Choắt.
Kể về sự việc này, ngòi bút của Tô Hoài thật tinh tế khi miêu tả diễn biến, thái độ và
tâm lý nhân vật. Lúc đầu Dế Mèn huênh hoang trước Dế Choắt: Sợ gì? Mày bảo tao sợ
cái gì? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa! Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc
đây này. Sau đó Dế Mèn chui tọt ngay vào hang yên trí với nơi ẩn nấp kiên cố của
mình. Tôi... lèn giường nằm khểnh, bắc chân chữ ngủ.... Nhưng khi Dế Choắt bị Cốc
mổ thì núp tận đáy đất mà tôi cũng thiếp, nằm im thin thít, cho đến khi biết chị Cốc đi
rồi, tôi mới mon men bò lên. Đến đây, có lẽ người đọc đều chung một suy nghĩ: “đồ
hèn nhát”. Tô Hoài đã thành công trong việc khắc họa tính cách nhân vật và để lại một
ấn tượng về nhân vật của mình.

Sự việc đau lòng này đã làm cho Dế Mèn tỉnh ngộ và nhận ra cái xấu, cái tai hại của
những cử chỉ ngông cuồng, ngu dại của mình. Dế Mèn thấy mình ích kỷ. Những lời
trăng trối của Dế Choắt được coi là bài học sâu sắc, bài học đầu tiên trong đời Dế Mèn:
ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi củng
mang vạ vào mình.
Dể Mèn phiếu lưu kí của Tô Hoài là truyện “đồng thoại” chứ không phải truyện ngụ
ngôn. Nhưng tác giả đã thông qua truyện về thế giới loài vật, lồng vào đó những bài
học triết lí nhân sinh sâu sắc, không kém gì truyện ngụ ngôn. Thông qua những trò
nghịch tinh quái, những tâm tư tình cảm của Dế Mèn, nhà văn đã khéo đưa câu chuyện
(đặc biệt ở chương I) những bài học về cách sống của mình: không nên làm những việc
ngu dại, ngông cuồng chỉ để thoả mãn tính hiếu thắng, tính ích kỷ của mình; phải tự
trọng, biết nghiêm khắc trước những thiếu sót của mình... Những bài học đạo lý ấy vừa
nhẹ nhàng, vừa sâu sắc, thấm thía. Vì vậy tác phẩm không chỉ có giá trị đối với thiếu
nhi Việt Nam, mà còn được tuổi thơ các nước Nga, Ru- ma-ni, Ba Lan, Ấn Độ, Nam tư,
Đức, Pháp... rất yêu chuộng.

CHUYÊN ĐỀ. 8

BIỆN PHÁP TU TỪ
CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
I. – CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC
1. Biện pháp tu từ là những cách dùng từ ngữ gọt giũa, có hình ảnh thẩm mĩ, bóng bẩy;
làm cho lời hay, ý đẹp, có sức biểu cảm cao, nâng hiệu quả diễn đạt.
2. Tiếng Việt có nhiều biện pháp tu từ, trong chương trình tiếng Việt lớp 6, yêu cầu HS
nắm được bốn biện pháp tu từ sau:
a) So sánh:
– Khái niệm: so sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét
tương đồng.
– Mô hình cấu tạo đầy đủ của phép so sánh gồm:
+ Vế A nêu tên sự vật, sự việc được so sánh.
+ Vế B nêu tên sự vật, sự việc dùng để so sánh vói sự vật, sự việc nói ở vế A.
+ Từ ngữ chỉ phưong diện so sánh.
+ Từ so sánh.
Ví dụ: Quê hương/ ngọt ngào/ như /dòng sữa mẹ.
+ Quê hương : A
+ ngọt ngào: PDSS
+ như: TSS
+ dòng sữa mẹ: B
Lưu ý: Trong thực tế, mô hình cấu tạo trên có thể biến đổi ít nhiều:
– Các từ chỉ phương diện so sánh và từ so sánh có thể được lược bớt.
– Vế B có thể được đảo lên trước vế A cùng với từ so sánh.
Ví dụ: Trường Sơn/: chí lớn ông cha.
(Lê Anh Xuân)
+ Trường Sơn: B
+ chí lớn ông cha: A
– Các kiểu so sánh: dựa vào các từ so sánh, ta phân biệt hai kiểu:
+ So sánh ngang bằng: như, như là, giống,…
Ví dụ:
Tâm  hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng.
(Tế Hanh)
+ So sánh không ngang bằng: hon, không như,…
Ví dụ:         
 Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng.
(Minh Huệ)
– Tác dụng của phép so sánh làm cho cách diễn đạt sinh động, gợi hình, có giá trị biểu
cảm cao, gợi tả cụ thể, chi tiết đặc điểm của sự vật, có tác dụng biểu hiện tư tưởng tình
cảm sâu sắc.
b) Nhân hoá
– Khái niệm: nhân hoá là gọi hoặc tả cây cối, con vật, đồ vật,… bằng những từ ngữ vốn
được dùng để gọi hoặc tả con người.
– Có ba kiểu nhân hoá thường gặp:
+ Dùng những từ vốn gọi người để gọi vật.                                                       •
Ví dụ: Từ đó lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay lại thân mật sống với
nhau, mỗi người một việc, không ai tị ai cả.
(Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng)
+ Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động, tính chất của
vật.
Ví dụ: Dọc sông, những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống
nước.
(Võ Quảng)
+ Trò chuyện, xưng hô với vật như với người.
Ví dụ:                                
  Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
(Ca dao)
– Tác dụng của phép nhân hoá làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật,… trở nên gần
gũi với con người, làm cho cách diễn đạt sinh động, có giá trị biểu cảm cao. Cảnh vật,
sự vật vô tri vô giác được nhân hoá trở nên gần gũi, thân thiết, có tâm hồn,…
c) Ẩn dụ
– Khái niệm: ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác
có nét tương đồng với nó.
– Có bốn kiểu ẩn dụ thường gặp:
+ Ấn dụ hình thức: dựa trên nét tương đồng về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:                               
  Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
(Nguyễn Du)
+ Ẩn dụ cách thức: dựa trên nét tương đồng về cách thức thực hiện hành động giữa các
sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: 
Về thăm nhà Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
(Nguyễn Đức Mậu)
+ Ẩn dụ phẩm chất: dựa trên nét tương đồng về phẩm chất giữa các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:                         
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
(Minh Huệ)
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: dựa vào sự tương đồng về cảm giác.
Ví dụ: Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng.
(Nguyễn Tuân)
– Tác dụng của phép ẩn dụ làm cho cách diễn đạt sinh động, có giá trị biểu cảm cao.
Làm tăng tính biểu cảm, tính hình tượng.
d) Hoán dụ
– Khái niệm: Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên sự vật, hiện
tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó.
– Có bốn kiểu hoán dụ thường gặp:
+ Lấy một bộ phận để gọi toàn thể.
Ví dụ:   
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
(Hoàng Trung Thông)
+ Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng.
Ví dụ: Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh năm mà vẫn quanh năm đói rách, làng xóm
ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm ăn tập thể.
(Hồ Chí Minh)
+ Lấy dâu hiệu của sự vật để gọi sự vật.
Ví dụ:                                   
Đầu xanh đã tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
(Nguyễn Du)
+ Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
Ví dụ: Chân cứng đá mềm.
(Thành ngữ)
– Tác dụng của phép hoán dụ làm cho lời văn sinh động, có giá trị biểu cảm cao; nhấn
mạnh, gây ấn tượng vào đặc điểm, dấu hiệu,… của sự vật.
II- LUYỆN TẬP
BT1.
BT2

Phương pháp làm văn tự sự


1.Khái niệm
a.Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc
kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự giúp người kể giải
thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề bày tỏ thái độ khen, chê.
b.Sự việc và nhân vật trong văn tự sự: Sự việc trong văn tự sự được trình bày một cách
cụ thể: sự việc xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có
nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật
tự, diễn biến sao cho thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt. Nhân yật
trong văn tự sự là người thực hiện các sự việc và là người được thể hiện trong văn bản.
Nhân vật chính đóng vai trò chủ yếu trong việc thể hiện tư tưởng của văn bản. Nhân vật
phụ chỉ giúp nhân vật chính hoạt động. Nhân vật được thể hiện qua các mặt: tên gọi, lai
lịch, tính nết, hình dáng, việc làm,…
c.Lời văn đoạn văn tự sự: Văn tự sự chủ yếu là kể người và kể việc. Khi kể người thì có
thể giới thiệu họ tên, lai lịch, quan hệ, tính tình, tài năng, ý nghĩa của nhân vật. Khi kể
việc, thì kể các hành động, việc làm, kết quả và sự thay đổi do các hành động đem lại.
Mỗi đoạn văn thường có một ý chính, diễn đạt thành một câu gọi là câu chủ đề. Các câu
khác giải thích cho ý chính, làm cho ý chính nổi hẳn lên.
d.Ngôi kể trong văn tự sự
Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng để kể chuyện. Khi gọi các nhân vật bằng
tên gọi của chúng, người kể tự giấu mình đi, tức là kể theo ngôi thứ ba, người kể có thể
linh hoạt, tự do kể những gì diễn ra với nhân vật. Khi tự xưng là “tôi”, kể theo ngôi thứ
nhất, người kể có thể trực tiếp kể ra những gì mình nghe, mình thấy, mình trải qua, có
thể trực tiếp nói ra cảm tưởng, suy nghĩ, cảm xúc của mình. Để kể chuyện cho linh
hoạt, thú vị, người kể có thể lựa chọn ngôi kể thích hợp. Người kể xưng “tôi” trong tác
phẩm không nhất thiết phải là chính tác giả.
2.Các dạng bài tự sự
Kể chuyện đời thường: Là kể những câu chuyện hằng ngày từng trải qua, từng gặp với
những người quen hay lạ nhưng để lại ấn tượng, cảm xúc nhất định nào đó. Yêu cầu
của kể chuyện đời thường là nhân vật và sự việc cần phải hết sức chân thực, không nên
bịa đặt thêm thắt tuỳ ý.
Kể chuyện tưởng tượng:Là kể những chuyện do người kể nghĩ ra bằng trí tưởng tượng
của mình, không có sẵn trong sách vở hay trong thực tế, nhưng có một ý nghĩa nào đó.
Chuyện tưởng tượng được kể ra một phần dựa vào những điểu có thật, rồi tưởng tượng
thêm cho thú vị, làm cho ý nghĩa câu chuyện nổi bật, sinh động.
Bao gồm: Kể chuyện tưởng tượng về số phận và tâm tính một sự vật; Kể chuyện đã biết
theo một kết cục mới; Kể một chuyện cũ theo ngôi kể mới.
3.Yêu cầu của một bài văn tự sự lớp 6
a.Kể chuyện đời thường
– Biết sắp xếp sự việc theo một trình tự nhằm làm nổi bật ý nghĩa câu chuyện.
– Trình bày bài văn theo một bố cục mạch lạc 3 phần.
– Tuỳ theo yêu cầu đối tượng kể để lựa chọn tình huống và sắp xếp sự việc có ý nghĩa.
b.Kể chuyện tưởng tượng
– Biết xây dựng cốt truyện tạo tình huống tưởng tượng hợp lí.
– Câu chuyện tưởng tượng phải có ý nghĩa và bố cục rõ ràng. (Theo kết cấu 3 phần của
bài tự sự)
4.Cách làm một bài văn tự sự lớp 6
Tuỳ theo từng dạng bài tự sự để có cách trình bày dàn ý và viết bài cho phù hợp.
a.Kể chuyện theo cốt truyện có sẵn
– Yêu cầu cốt truyện không thay đổi.
– Chú ý phần sáng tạo trong mở bài và kết luận.
– Diễn đạt sự việc bằng lời văn cho linh hoạt, trong sáng.
b.Kể chuyện đời thường
– Hình dung trình tự sự việc cho xác thực, phù hợp với thực tế.
– Sắp xếp sự việc theo thứ tự nhằm nổi bật ý nghĩa câu chuyện.
– Lựa chọn ngôi kể cho đúng yêu cầu của bài văn.
c.Kể chuyện tưởng tượng
– Các dạng tự sự tưởng tượng ở lớp 6:
+ Thay đổi hay thêm phần kết của một câu chuyện dân gian.
+ Hình dung gặp gỡ các nhân vật trong truyện cổ dân gian.
+ Tưởng tượng gặp gỡ những người thân trong giấc mơ…
– Cách làm:
+ Xác định được đối tượng cần kể là sự việc hay con người.
+ Xây dựng tình huống xuất hiện sự việc hay nhân vật đó.
+ Tưởng tượng các sự việc, hoạt động của nhân vật có thể xảy ra trong không gian cụ
thể.
Các bước làm bài văn tự sự
– Tìm hiểu để văn: Tìm hiểu kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài.
– Xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của Đề bài: nhân vật, sự việc, diễn biến, kết
quả, ý nghĩa của câu chuyện.
– Sắp xếp việc gì kể trước, việc gì kể sau để người đọc theo dõi được câu chuyện và
hiểu được ý định của người viết.
Cách lập dàn ý một bài văn tự sự
Mở bài:
– Giới thiệu hoàn cảnh, tình huống phát sinh câu chuyện.
– Giới thiệu nhân vật (nhân vật chính – nhân vật phụ ).
– Giới thiệu sự việc.
Thân bài: Diễn biến các sự việc.
– Sự việc mở đầu câu chuyện.
+ Tình tiết 1:
+ Tình tiết 2:
+ Tình tiết n…
– Sự việc thắt nút (sự việc cao trào).
+ Tình tiết 1:
+ Tình tiết 2:
+ Tình tiết n…
– Sự việc kết thúc câu chuyện:
+ Tình tiết 1:
+ Tình tiết 2:
+ Tình tiết n…
Kết luận:
– Kết thúc, khép lại câu chuyện.
– Nêu ý nghĩa câu chuyện.
– Nêu cảm nghĩ chung.
Lưu ý: Khi triển khai làm bài văn tự sự học sinh có thể vận dụng một cách linh hoạt các
dạng khác nhau tuỳ thuộc vào cách kể chuyện, nội dung câu chuyện và yêu cầu của các
dạng để khác nhau.
5.Tham khảo một số dàn ý
1)Đề bài: Một đêm trăng sáng, bà kể chuyện đời xưa cho mọi người trong gia đình nghe. Em
hãy kể lại một kỷ niệm về đêm hôm đó.
(Kiểu bài Kể chuyện đời thường)
Mở bài: (Giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh).
– Một đêm trăng tuyệt diệu.
– Không khí gia đình em (tôi) thật đầm ấm.
Thân bài: (Phát triển câu chuyện).
– Sau bữa cơm chiều, mọi người trong gia đình ngồi nghỉ ngơi và uống nước. Bà nằm
võng nhai trầu.
– Bà nội đố chị em tôi ai ngồi trên mặt trăng? Chị em đoán mỗi người một khác, bà nội
trả lời đó là chú Cuội.
– Bà nội kể chuyện chú Cuội trên cung trăng.
– Ba tôi chăm chú nghe quên cả hút thuốc, mẹ ngồi bên im lặng.
– Câu chuyện hấp dẫn và cuốn hút.
– Câu chuyện kết thúc, chị em tôi nhìn lên mặt trăng thấy hình chú Cuội hiện rõ trên đó.
Kết luận: (Khép lại sự việc).
– Trăng sáng soi vào chiếc võng bà nằm, trông bà như một bà tiên cổ tích.
– Tôi mong sao bà mãi không già để kể cho chúng tôi những câu chuyện hay như vậy.
2)Đề bài: Em hãy kể lại lời tâm sự của một cái giường bị bỏ đi.
Mở bài: Cái giường tự giới thiệu về thân phận của mình.
Thân bài: Diễn biến sự việc:
– Niềm tự hào của cái giường khi ở cửa hàng.
– Niềm kiêu hãnh của cái giường trên đường về nhà.
– Cái giường bắt đầu cuộc sống mới.
– Cái giường gắn bó và phục vụ cuộc sống của con người.
– Tâm sự đau buồn của cái giường lúc bị ruồng bỏ.
Kết bài: Ước nguyện cuối cùng của cái giường.
3)Đề bài: Em hãy viết đoạn kết mới cho truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”.
Mở bài: Giới thiệu sự việc và nhân vật.
Là nữ hoàng được một thời gian, mụ vợ lại bắt ồng lão phải đi gặp cá vàng
Thân bài: Diễn biến các sự việc.
– Ông lão ra biển rẽ sóng đi vào biển cả.
– Ông lão trở thành khách quý của Long vương.
– Mụ vợ chờ mãi không thấy chồng về, mụ đi tìm ông lão.
– Ông lão đánh cá muốn trở về nhà.
Kết luận: Kết thúc câu chuyện.
Ông lão trở về nhà hạnh phúc với người vợ nghèo năm xưa.

KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG

I. – CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC


1. Trong phân loại các thể tự sự, không có loại gọi là “truyện tưởng tượng”. Tuy nhiên,
đối với học sinh lóp 6, khi người viết mới tập viết, thì “truyện tưởng tượng” nhằm phân
biệt với “truyện đời thường”. Truyện tưởng tượng dùng trí tưởng tượng để xây dựng
những sự việc, những nhân vật mà đời sống thực tế không xảy ra (ví dụ các truyện có
yếu tố thần tiên, ma quỷ, phù phép hoặc các chuyện về tương lai có tính chất dự cảm,
khả năng xảy ra không nhiều (ví dụ, các truyện khoa học viễn tưởng). Nhưng câu
chuyện lại nhằm nói lên một ý nghĩa .nào đó, tức là sự thực ở phần bản chất, chứ không
phải các sự việc và nhân vật.
2. Sự việc, nhân vật tưởng tượng, nói nôm na là “bịa đặt”, nhưng bịa phải như thật, phải
có cái “lí” của nó. Nghĩa là kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, tuy bịa nhưng là điều có
thể xảy ra. Đối với những yếu tố như thần tiên, ma quỷ, phù phép,… hay chuyện về các
con vật, tuy không thể có thực nhưng vẫn phải có lô-gíc họp lí. Dế Mèn phiêu lưu kí là
chuyện về con dế cùng thế giới các loài vật sống ở nước và đồng cỏ, chúng đi lại, nói
năng như con người, là hình ảnh phản chiếu cuộc sống con người, với các vấn đề của
con người; tuy nhiên, dế vẫn phải là dế (làm tổ dưới đất, ăn cỏ ướt, uống sương
đọng…), châu chấu vẫn phải là châu chấu (sống ở đồng cỏ, di cư và chết hàng loạt về
mùa đông,…), v.v…
II. – LUYỆN TẬP
Bài tập
1. Đọc lại truyện Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Sự tích Hồ Gươm, thống kê các
tình tiết hoang đường (tưởng tượng, kì ảo). Hình ảnh Rùa Vàng (Thần Kim Quy) xuất
hiện ở cả truyện An Dương Vương và Sự tích Hồ Gươm nói lên điều gì?
2. Đọc trích đoạn sau và cho biết: những đứa trẻ thích nghe chuyện ma quỷ, thần tiên có
phải do tin ma quỷ, thần tiên có thật? Nếu không phải, tại sao chúng thích nghe?
Tôi rất thích bác Phó Uyển. Bác là một người kể chuyện tài tình.
Chuyện của bác toàn chuyện ma. Nghe quen tôi chẳng sợ gì cả. Bác dặn tôi: “Hễ đi
trong làng mà thấy trờn trợn thì nắm chặt hai bàn tay lại, ngón cái quay vào giữa lòng
bàn tay, tự nhiên mạnh dạn ngay”. Hồi đó tôi có biết đường làng ban đêm thế nào đâu,
nhưng đi vào vườn sau nhà khi mới chập, tối, tôi nắm chặt tay, quả thấy hết sợ.
Bây giờ ở thành phố, chúng ta có đèn điện, ban đêm sáng như ban ngày. Con cháu
chúng ta lại được đi đây đi đó, không ru rú trong nhà như chúng ta thuở xưa. Các em
được xem nhiều thứ, nhìn thấy nhiều việc, nhiều cảnh, nghe nhiều điều mà thời xưa
chúng ta không thể nào biết được.
Bây giờ, các em có nghe truyện cổ tích thì cũng không phải như tôi nghe bà tôi kể thời
xưa, thời còn nhiều bóng tối xung quanh con người và trong đầu óc con người.
(Theo Vũ Ngọc Phan, Những năm tháng ấy)
3. Những chi tiết nào trong câu chuyện sau đây tuy rằng bịa nhưng vẫn hợp lí? Chi tiết
nào bịa không hợp lí?
KHỈ VÀ RÙA
Một hôm, Khỉ mời tất cả bạn bè đến nhà chơi. Rùa cũng đến.
Khỉ nói lời chúc mừng rồi mời các bạn ngồi vào bàn tiệc. Chúng ăn uống thoả thích,
hết chạm cốc lại gắp thịt rất là ồn ào.
Rùa loay hoay mãi không sao leo lên được ghế ngồi, nó liền nhờ Khỉ giúp. Khỉ nhìn
Rùa cười giễu cợt:
– Ha! Ha! Ai bảo chân cậu ngắn thế?
Rùa tủi thân, không nói gì, nhịn đói bỏ về.
Một hôm, Rùa cũng mòi tất cả các bạn đến dự tiệc. Khỉ ta cũng có mặt.
Thịt rượu đã bày lên bàn. Đọi các bạn ngồi vào bàn xong, Rùa nói vài lời rồi tuyên bố
tiệc rượu bắt đầu. Rùa đến bên Khỉ, ngắm nghía tay Khỉ, nói:
– Thưa, anh, xin lỗi, tay anh bẩn quá! Ăn uống thế này thì thật mất vệ sinh, mời anh ra
rửa tay đã.
Khí vội đi rửa, nhưng taỵ vẫn đen. Nó tìm giẻ lau, nhưng lau thế nào thì tay nó vẫn đen
thui. Nó hỏi Rùa phải làm thế nao. Rùa cười to:
– Ha! Ha! Ai bảo tay anh đen thế?
Lúc ấy Khỉ mới nhớ đến việc hôm trước. Nó xấu hổ, chuồn thẳng.
GỢI Ý
3. Khi con vật mà hành động hoàn toàn như người thì không là con vật nữa. Hãy tìm
những chi tiết đó.

Phương pháp làm Văn miêu tả


A.Đặc điểm của văn miêu tả
1.Văn miêu tả là gì?
Văn miêu tả là loại văn giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính
chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh.. làm cho đối tượng miêu tả
như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. Hoặc cũng có thể hiểu văn miêu tả
chính là tái tạo lại hình ảnh của đối tượng thông qua những cảm nhận chủ quan, thông
qua những năng lực quan sát, liên tưởng so sánh…
2.Những năng lực cần có khi làm văn miêu tả
– Quan sát: nhìn nhận, xem xét sự vật. Kĩ năng này thường bị học sinh bỏ qua nên khi
làm bài các em thiếu vốn sống thực tế, bài văn nghèo về nội dung ý nghĩa, thiếu sức
thuyết phục. Phải thấy những nét chính, thấy những đặc điểm riêng để tìm ra được
những ngóc ngách của sự vật, vấn đề. Nhiều khi không cần liệt kê đẩy đủ sự việc mà
chỉ cần ghi lại những nét đặc sắc mà mình cảm nhận được, như một câu nói, nét mặt lột
tả được tính nết một người, hoặc một tiếng động, một ánh đèn, một trạng thái tư tưởng,

Nói như Tô Hoài,… từ chỗ tìm bới trong la liệt hiện tượng quanh mình mà phát hiện ra
bản chất và quy luật hiện tượng chính, tránh lối phỏng đoán sai lầm, công thức, đơn
giản và loá mắt không tách bạch được đâu là chủ yếu, thứ yếu. (Một số kinh nghiệm
viết văn miêu tả, NXB Giáo dục, 2000)
– Nhận xét liên tưởng hình dung về sự vật đặt trong tương quan các sự vật xung quanh.
Vai trò của trí tưởng tượng là rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự phong phú cho
các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà còn giúp cho HS tìm được những từ ngữ và
biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn tả hấp dẫn hơn.
– Ví von so sánh: Thể hiện sự liên tưởng độc đáo riêng của người viết hình dung, cảm
nhận về sự vật, hiện tượng miêu tả. Chất lượng của bài miêu tả là “nói ít gợi nhiều”, chi
tiết đưa ra không cần nhiều nhưng phải gợi được cảm giác mãnh liệt nhất, những hình
ảnh sinh động hiện lên trước mắt người đọc, khiến họ nhìn rất rõ và rất có ấn tượng. Có
thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh, so sánh vật với con người, so sánh theo hướng
thu nhỏ lại, so sánh theo hướng phóng đại lên, so sánh theo hướng cụ thể hoặc trừu
tượng hoá.
B.Các dạng văn miêu tả ở lớp 6
1.Tả cảnh
Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt gợi ra trước mắt
người đọc về đặc điểm từng nét riêng của cảnh.
Yêu cầu:
– Xác định đối tượng miêu tả: Cảnh nào? Ở đâu? Vào thời điểm nào?
– Quan sát, lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
– Trình bày những điều quan sát được theo một thứ tự.
Bố cục bài văn tả cảnh:
– Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả.
– Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự nhất định, có thể ở một số
trường hợp sau:
+ Từ khái quát đến cụ thể (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trong tới ngoài (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trên xuống dưói (hoặc ngược lại).
Kết bài: Phát biểu cảm tưởng về cảnh vật đó.
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả dòng sông và rừng đước Năm Căn: Thuyền chúng tôi chèo
thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sồng Năm
Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen
trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa
dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất
như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng,
ngọn bằng tăm tắp, lớp này chổng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu
xanh lá mạ, màu xanh rều, màu xanh chai lọ,… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và
khói sóng ban mai.
(Đoàn Giỏi)
2.Tả người
Tả người là gợi tả về các nét ngoại hình, tính cách, tư thế, hành động, lời nói,… của
nhân vật được miêu tả.
Phân biệt đối tương miêu tả theo yêu cầu:
– Tả chân dung nhân vật (cần tả nhiều về ngoại hình, tính nết…)
– Tả người trong tư thế làm việc (tả người trong hành động: chú ý các chi tiết thể hiện
cử chỉ, trạng thái cảm xúc).
Cách miêu tả:
– Mở bài: Giới thiệu người được tả (chú ý đến mối quan hệ của người viết với nhân vật
được tả, tên, giới tính và ấn tượng chung về người đó).
– Thân bài:
+ Miêu tả khái quát hình dáng, tuổi tác, nghề nghiệp…
+ Tả chi tiết: ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói,… (chú ý: tả người trong công việc
cần quan sát tinh tế, tả các động tác của từng bộ phận: khuôn mặt thay đổi, trạng thái
cảm xúc, ánh mắt..
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả hình ảnh dượng Hương Thư lái thuyền vượt thác: Dượng
Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn
chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của
Trường Sơn oai linh hùng vĩ.
(Võ Quảng)
+ Thông qua tả để khơi gợi tính cách nhân vật: qua tả các chi tiết, người đọc có thể cảm
nhận được tính cách của đối tượng và thái độ của người viết đối với đối tượng đó.
– Kết bài: Nhận xét hoặc nêu cảm nghĩ của người viết về người được miêu tả.
3.Miêu tả sáng tạo
* Đối tượng miêu tả thường xuất hiện trong hình dung tưởng tượng có thể bắt nguồn từ
một cơ sở thực tế nào đó.
* Đối tượng: Người hay cảnh vật.
* Yêu cầu khi miêu tả:
– Tả cảnh phải bám vào một số nét thực của đời sống. Ví dụ khi tả một phiên chợ, trong
tưởng tượng của em cần dựa trên những đặc điểm thường xảy ra của cảnh đó làm cơ sở
tưởng tượng như: không khí của buổi chợ, số lượng người với những lứa tuổi, tầng lớp
nào? Chợ diễn ra ở địa điểm nào?
Thời tiết khí hậu ra sao?… Những cơ sở đó là thực tế để tưởng tượng theo ý định của
mình.
– Tả người trong tưởng tượng: Nhân vật thường là những người có đặc điểm khác biệt
với người thường như các nhân vật ông Tiên, ông Bụt trong cổ tích hay một người anh
hùng trong truyền thuyết… Cần dựa vào đặc điểm có tính bản chất để tưởng tượng
những nét ngoại hình cho phù hợp, tạo sự hấp dẫn.
Lưu ý: Dù miêu tả theo cách nào và đối tượng nào thì cũng cần chú ý vận dụng lối ví
von so sánh để bài văn miêu tả có nét độc đáo mang tính cá nhân rõ rệt.
C.Cách làm một bài văn miêu tả
1.Trong văn miêu tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường bộc lộ rõ nhất. Muốn
làm văn tả cảnh, người viết cần phải:
– Xác định dược đối tượng miêu tả.
– Quan sát, lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
– Trình bày những điểm quan sát được theo một thứ tự.
2.Bố cục của một bài văn tả cảnh thường có ba phần:
– Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả.
– Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự.
– Kết bài: Thường phát biểu cảm tưởng về cảnh vật được miêu tả.
3.Cần chú ỷ chi tiết khi miêu tả. Ví dụ:
a.Về cảnh mùa đông, có thể nêu những đặc điểm sau:
– Bầu trời âm u, nhiều mây.
– Gió lạnh, mưa phùn.
– Cây cối rụng lá trơ cành
b.Vẽ khuôn mặt mẹ có thể chú ý tới các đặc điểm:
– Hình dáng khuôn mặt (tròn, trái xoan.. )
– Tóc ôm khuôn mặt (hoặc được búi lên).
– Đôi mắt, má, miệng.
– Nước da, vẻ mặt (hiền hậu, tươi tắn..)
c.Tả một cụ già:
– Râu, tóc trắng, da mồi.
– Cặp mắt tinh anh (hoặc lờ đờ).
– Dáng vẻ nhanh nhẹn (hoặc chậm chạp).
– Giọng nói trầm ấm…
d.Tả cô giáo đang say sưa giảng bài trên lớp: giọng nói trong trẻo, cử chỉ âu yếm, ân
cần, đôi mắt lấp lánh đầy khích lệ…
4.Chú ý thứ tự khi miêu tả:
Ví dụ:
a.Tả quang cảnh lớp học trong giờ viết bài tập làm văn:
– Có thể theo thời gian: từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc giờ học: Trống vào lớp. Cô
giáo (thầy giáo) cho chép đề. Các bạn bắt tay vào làm bài. Kết thúc buổi làm bài, thu,
nộp bài cho thầy, cô…
– Có thể theo trình tự quan sát: từ gần đến xa hoặc ngược lại; hoặc theo không gian:
bên ngoài lớp; trên bảng, cô (thầy) ngồi trên bàn giáo viên; các bạn trong lớp bắt tay
vào làm bài…
b.Tả sân trường giờ ra chơi:
– Miêu tả theo không gian:
+ Từ xa tới gần
+ Miêu tả theo thời gian: trước, trong và sau khi ra chơi.
– Miêu tả theo thứ tự thời gian:
+ Sân trường vắng lặng trong giờ học.
+ Hiệu lệnh trống ra chơi, mọi người ùa ra.
+ Có tốp chơi đá cẩu, nhảy dây, đá bóng, có tốp chỉ đứng xem, hoặc tranh cãi nhau vê’
điểu gì đó…
+ Có thể tả màu sắc quần áo, những tiếng cười nói, hò reo,…
– Miêu tả kết hợp cả không gian và thời gian: Trước hết, cần chọn trật tự miêu tả. Sau
đó chọn cảnh sân trường giờ ra chơi để viết thành đoạn văn.
Chú ý miêu tả các chi tiết như: bầu trời, mở đầu giờ ra chơi như thế nào, ở mỗi khoảng
sân các hoạt động vui chơi ra sao…
D.Tham khảo một số dàn ý
1)Đề bài : Miêu tả hình ảnh quê hương em đêm rằm Trung thu (hoặc vào một đêm trăng đẹp).
a.Mở bài
Giới thiệu chung:
– Đêm rằm, trăng tỏa sáng khắp bầu trời và mặt đất.
– Làng em rộn ràng chuẩn bị đón Tết Trung thu.
b.Thân bài
Tả cảnh đêm trăng:
– Lúc xẩm tối
+ Màn đêm dần buông, bẩu trời thăm thẳm, lấp lánh sao.
+ Trăng lấp ló, thấp thoáng sau lũy tre xa xa.
+ Gió thổi mát lộng…
+ Làng xóm nhộn nhịp.
– Lúc trăng lên
+ Mặt trăng tròn vành vạnh như chiếc đĩa bạc lơ lửng giữa không trung.
+ Ánh trăng vằng vặc, soi rõ từng cảnh vật: nhà cửa, vườn cây, dòng sông, con đường,
cánh đồng…
+ Trên đường làng, trẻ em nối đuôi nhau rước đèn, ca hát mừng trăng.
+ Cảnh phá cỗ vui vẻ ở sân đình…
c.Kết bài
Cảm nghĩ của em :
– Cảnh làng quê trong đêm trăng sáng đẹp như một bức tranh…
– Tình yêu quê hương càng thêm tha thiết, sâu đậm.
2)Đề bài: Miêu tả cô giáo (thầy giáo) đang giảng bài.
a.Mở bài
Giới thiệu cô giáo (cô dạy môn gì, tiết mấy, ngày nào?)
b.Thân bài
+ Miêu tả những nét tiêu biểu về ngoại hình: trạc tuổi, tẩm vóc (cao hay thấp, dáng
điệu, nét mặt, đôi mắt…)
+ Cách ăn mặc khi lên lớp.
+ Miêu tả những nét tiêu biểu về cử chỉ, hành động, tình cảm của cô dành cho học sinh:
lời giảng, việc làm, động tác (khi viết bảng giảng bài, khi ân cẩn nhắc nhở học sinh…)
c.Kết bài
Tình cảm của em đối với cô giáo. (Cô giáo là người tận tụy với nghề, hết lòng vì học
sinh; như người mẹ thứ hai của em; em yêu quý cô và quyết tâm học thật giỏi,…)
3)Đề bài: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh
ông tiên theo trí tưởng tượng của mình
a.Mở bài 
– Trong các truyện cổ tích, nhân vật ông tiên để lại cho em ấn tượng sâu đậm nhất. Tại
sao?
Dẫn dắt người đọc và tình huống em gặp ông tiên (tưởng tượng).
b.Thân bài
– Miêu tả chân dung nhân vật ông tiên.
+ Hình dáng + Khuốn mặt + Chòm râu, mái tóc + Cây gậy….
– Những lời đối thoại của em với ông tiên.
– Miêu tả hành động của ông tiên (tưởng tượng, ví dụ: em bị lạc đường, ông tiên đã cho
em một chiếc xe ngựa thông minh và thế là em được về nhà,…).
c.Kết bài
– Ý nghĩa của nhân vật ông tiên trong truyện và trong suy nghĩ của em.
4)Đề bài: Từ bài thơ Mưa của Trân Đăng Khoa, em hãy tả lại cơn mưa rào mùa hạ.
a.Mở bài
Trời đang nắng bỗng chuyển dông, mây đen xuất hiện, bầu trời xám xịt, cơn mưa rào ập
đến.
b.Thân bài
Tả cơn mưa:
– Gió thổi giật, trời mát lạnh.
– Những con mối bò ra rồi cả đàn tranh nhau bay cao, bay thấp. Đàn gà thi nhau đớp
mồi.
– Mưa đổ xuống trên sân nhà, trên cành cây, kẽ lá. Mưa xối xả.
– Gió thổi mạnh. Bãi mía lay động trong gió, lá mía nhọn hoắt, vươn dài như múa
gươm.
– Đàn kiến tìm nơi tránh nước, chúng đi hành quân, bụi tre đung đưa trong gió cùng
hàng bưởi sau nhà như vẫy tay đưa tiễn.
– Trên trời xuất hiện những tia chớp, sấm vang rền.
– Mưa ù ù như xay lúa. Mưa chéo mặt sân, nước sủi bọt trắng xóa rồi kéo nhau đổ ra
mương rãnh. Đất trời mù trắng nước.
– Ngoài đồng nước lai láng. Những bác nông dân hối hả đi về.
– Bố đi làm về, đội sấm, đội chớp, đội cả bầu trời đang đổ mưa.
Tả quang cảnh sau cơn mưa:
– Mây tan dần, trời xanh thấp thoáng lộ ra.
– Trời sáng hơn, những tia nắng chiếu xuống sân nhà.
– Hoa lá lại đua nhau đón khí ấm mặt trời.
– Cóc nhảy chồm chồm, lũ chó sủa vang.
– Đàn gà kéo ra, những chú chim hót líu lo,…
c.Kết bài
– Cơn mưa rào mùa hạ đã giúp cho cảnh vật tươi mát.
– Mưa giúp ích cho mọi người, giúp ích cho nhà nông.
5)Đề bài: Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp
trời.
a.Mở bài
– Khu vườn mà em định tả là của ai?
– Nó có điểm gì đặc biệt?
– Nó gắn bó với em thế nào?
b.Thân bài
– Quang cảnh khu vườn khi trời sáng:
+ Mặt trời mọc …
+ Những giọt sương đêm trên lá …
– Khu vườn bắt đầu nhộn nhịp bởi tiếng chim…
– Miêu tả một số loài cây có trong vườn mà em thích.
– Khu vườn gắn bó với tuổi thơ của em ra sao? (có thể kể một kỉ niệm sâu sắc nào đó,
với ông nôi chẳng han)
c.Kết bài
– Em ấn tượng nhất với khu vườn là ở điểm gì?

I. NHỮNG LƯU Ý KHI LÀM VĂN MIÊU TẢ


1. Các kĩ năng chung cần sử dụng khi làm văn miêu tả
2. Kĩ năng quan sát, ghi chép
Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là con người
và cuộc sống của con người. Có thể coi đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp và
sống động đang diễn ra quanh ta, thay đổi từng ngày từng giờ. Tuy vậy, không phải tự
nhiên mà ta hiểu và nắm vững được đặc điểm của từng sự việc, từng sự vật, từng con
người để miêu tả đúng bản chất của nó. Vì vậy, phải quan sát, ghi chép.
Đối với các nhà văn, kĩ năng quan sát đóng một vị trí hết sức quan trọng, thậm chí được
coi là yếu tố khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác cũng như quyết định cho sự thành công
của quá trình miêu tả hiện thực cuộc sống. Không thể ngồi trong bốn bức tường, chỉ
dùng trí tưởng tượng để mà dựng lại những bức tranh về thiên nhiên, loài vật và con
người. Trí tưởng tượng dù có phong phú đến bao nhiêu cũng không thể nào sánh được
với hiện thực cuộc sống. Ngay cả những câu chuyện thần thoại – sản phẩm được tạo
nên bằng trí tưởng tượng của người xưa – suy cho cụng cũng bắt nguồn từ hiện thực
cuộc sống, mang bóng dáng và hơi thở của cuộc sống.
Quan sát để ghi nhận, để khám phá và để hiểu về thế giới quanh mình. Sau đồ mới có
thể viết được. Ta hãy nghe chính nhà văn Tô Hoài – tác giả truyện Dế Mèn phiêu lưu kí
– tâm sự : “… Chẳng phải chỉ vì có khiếu và thích thú trong tưởng tượng mà có thể viết
được. Những chàng Dế Mèn,
Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả, kĩ năng quan sát và ghi chép cũng rất cần
thiết. Tất nhiên, các em không thể có ngay được kĩ năng ấy và sử dụng nó thành thạo
như các nhà văn vẫn làm. Tất cả đều mới ở bước đầu tập dượt: tập quan sát, tập ghi
chép, tập phát hiện ra những đặc điểm của các sự vật, hiện tượng quanh mình. Từ đó cỏ
vốn để làm văn miêu tả. Nhưng trong thực tế, các em hay bỏ qua kĩ năng này. Thông
thường, các em làm văn ở lớp (rất ít bài làm ở nhà). Ngồi giữa bốn bức tường của lớp
học, xung quanh chỉ có thầy cô giáo, bạn bè, bảng đen, bàn ghế mà phải làm những bài
văn tả cảnh biển, cảnh cánh đồng lúa chín, cảnh một buổi lao, động,… thì quả là không
có gì để quan sát trực tiếp. Thế mới xảy ra tình trạng bịa đặt hình ảnh trong bài làm,
khiến cho những hình ảnh miêu tả ấy thiếu tính chân thực, thậm chí hết sức vô lí.
Chẳng hạn như câu tả “Đêm cuối tháng, cả bầu trời vằng vặc ánh trăng, chi chít muôn
ngàn vì sao lấp lánh, lấp lánh” (“Đêm cuối tháng” thì làm gì có trăng ! Mà những hôm
“trăng sáng vằng vặc” thì lấy đâu ra “muôn ngàn vì sao chi chít” !). Hoặc có em lại tả
“Con lợn sề có bốn cái chân như bốn cái ống điếu” (Với bốn cái chân ấy thì làm sao có
thể trụ vững cho toàn bộ cơ thể to lớn của con lợn sề ?)… Chính vì những hình ảnh
miêu tả vô lí ấy mà nhiều bài làm của các em bị cô giáo phê là “thiếu kiến thức thực
tế”.
Vậy chúng ta có thể quan sát lúc nào ? Cách quan sát và ghi chép sao cho hợp lí ?
Qua tập hợp, khảo sát một số đề tập làm văn mà giáo viên trung học cơ sở thường sử
dụng, ta có thể thấy rằng số đề bài đề cập tới những hình ảnh miêu tả xa lạ với cuộc
sống của các em rất ít (Ví như yêu cầu học sinh miêu tả một danh lam thắng cảnh nổi
tiếng của đất nước trong khi không phải em học sinh nào cũng có điều kiện được đi
tham quan ở những nơi đó, nhất là học sinh ở nông thôn, miền núi ; hoặc yêu cầu học
sinh nông thôn tả cảnh hoạt động của một nhà máy, yêu cầu học sinh thành phố tả
những công việc đồng áng ngày mùa,…). Đa số đối .tượng miêu tả trong các bài văn
mà giáo viên yêu cầu các em viết thường là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong
cuộc sống : hình ảnh cô giáo, hình ảnh một bạn học sinh, không khí giờ ra chơi, con
đường tới trường, buổi bình minh,… Tuy vậy, các em học sinh vẫn tỏ ra lúng túng khi
làm bài. Và kết quả cho ra đời những bài văn nghèo nàn về nội dung ý nghĩa, thiếu sức
thuyết phục. Nguyên nhân là do các em ít quan sát, không có thói quen để ý các sự vật,
sự việc, hiện tượng quanh mình. Nói đúng hơn là có nhìn mà không thấy, có nghe mà
không cảm nhận. Muốn khắc phục tình trạng này, các em học sinh phải tập thói quen
quan sát hằng ngày. Quan sát và tự đặt ra những câu hỏi để giải đáp, nhằm tìm hiểu và
khắc sâu vào trí nhớ những hình ảnh về cuộc sống xung quanh. Hãy xem hai bên đường
ta đi học có những gì ? Cây cối, cảnh vật ra sao ? Cảnh về mùa đông khác với cảnh về
mùa hè, cảnh buổi sáng khác với cảnh buổi chiều ở chỗ nào ? Hay hãy quan sát em bé
tập đi mà xem : Nó độ bao nhiêu tháng tuổi ? Gương mặt và hình dáng như thế nào ?
Từng động tác tập đi ra sao ?… Tất cả những điều ta quan sát và ghi nhận được cần
phải chép lại vào một cuốn sổ tay. Không cần ốhép dài dòng, chỉ điểm qua những nét
chính, ngắn gọn. Sẽ rất thành công nếu khi quan sát chúng ta có được những phát hiện
bất ngờ. Những phát hiện này sẽ là điều kiện giúp cho bài làm của các em thêm sáng
tạo và độc đáo.
Có thể một số em sẽ nêu thắc mắc : Những đối tượng không xuất hiện trực tiếp hằng
ngày trong cuộc sống của các em thì làm sao có thể quan sát ? ở miền núi lấy đâu ra
biển ? Ở đồng bằng lấy đâu ra rừng ? Vùng sản xuất nông nghiệp lấy đâu ra nhà máy,
công xưởng ?… Khắc phục điều này không khó. Chúng ta có nhiều nguồn để thu thập
kiến thức thực tế cho mình. Chẳng hạn như quan £át qua những hình ảnh trên chương
trình truyền hình, quan sát qua những bức tranh (ảnh), đọc những tác phẩm văn học có
nghệ thuật miêu tả đặc sắc,… Từ nhiều nguồn khác nhau đó, chúng ta chắc chắn sẽ có
một vốn kiến thức thực tế hết sức phong phú.
a) Kĩ năng tưởng tượng
Có thể khẳng định rằng nếu không có kĩ năng tưởng tượng thì bài văn miêu tả chắc
chắn sẽ không thể hay được, dù là văn tả thực. Làm nghệ thuật nói chung và viết văn
miêu tả nói riêng không thể chấp nhận kiểu sao chép hiện thực cuộc sống một cách máy
móc, khô cứng. Nếu chỉ quan sát và ghi chép vào bài làm đúng y nguyên những điều đã
quan sát thì bức tranh được, miêu tả trong bài văn sẽ quá trần trụi, thiếu sức hấp dẫn. Vì
vậy, cần tưởng tượng và sáng tạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho
bức tranh miêu tả trở nên phong phú và sinh động hơn.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Tô Hoài không thể xây dựng được một
bức tranh phong phú về thế giới loài vật như trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Vũ Tú Nam không thể viết được trang
văn miêu tả cảnh thay đổi kì diệu của màu nước biển trong Biển đẹp.
Vậy khi làm văn miêu tả, trí tưởng tượng được dùng với vai trò gì ?
Có thể nói rằng vai trò của trí tưởng tượng rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự
phong phú cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà còn giúp cho người làm văn
miêu tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn miêu tả
hấp dẫn hơn.
Ta hãy so sánh hai đoạn vằn miêu tả sau : ,
Đoạn văn 1 : “Trên bãi cỏ sau làng, đàn bò đang gặm cỏ. Con nào con nấy hùng hục ăn
một cách ngon lành, không còn để ý gì đến xung quanh. Tiếng gặm cỏ nghe rào rào.
Nhìn cảnh tượng ‘ấy thật thú vị” (Bài làm của học sinh).
Đoạn văn 2 : “Con Nâu đứng lại. Cả đàn bò dừng theo. Tiếng gặm cỏ bắt đầu rào lên
như một nong tằm ăn rỗi khổng lồ. Con Ba Bớp vẫn , phàm ăn tục uống nhất, cứ thúc
mãi mõm xuống, ủi cả đất ra mà gặm. Bọt mép nó trào ra, trông đến là ngon lành. Con
Hoa ở gần đó cũng hùng hục ăn không kém… Mẹ con chị Vàng ăn riêng ở một chỗ. Cu
Tũn dở hơi, chốc chốc lại… chạy tới ăn tranh mảng cỏ của mẹ. Chị Vàng lại dịu dàng
nhường cho nó, đi kiếm mảng khác” (Hồ Phương – cỏ non, trong Văn học 6, tập một,
NXB Giáo dục, 2000).
Ớ đoạn văn thứ nhất, người tả chỉ dùng những câu văn tả thực hoàn toàn giới thiệu cảnh
đàn bò gặm cỏ. Vì thế ý không thể phong phú, và đoạn văn cũng không có sức gợi tả,
gợi cảm. Nhưng ở đoạn thứ hai, tác giả Hồ Phương đã kết hợp một cách tài tình giữa
hình ảnh tả thực và những hình ảnh sáng tạo nhờ trí tưởng tượng. Chính trí tưởng tượng
phong phú đã giúp cho tác giả khi nghe tiếng đàn bò gặm cỏ đã liên tưởng tới âm thanh
“của một nong tằm ăn rỗi khổng lồ”. Và cũng nhờ trí tưởng tượng mà tác giả đã phát
hiện ra được tính cách của từng con bò qua cách gặm cỏ của chúng : Con Ba Bớp thì
“ngổ ngáo”, “phàm ăn tục uống” ; con Hoa vốn “tiểu thư yểu điệu” nhưng cũng không
cưỡng lại được sức hấp dẫn của bãi cỏ non, “hùng hục ăn không kém”cu Tũn như một
chú bé con dở hơi, tinh nghịch, nũng nịu ; chị Vàng đúng là một người mẹ dịu dàng,
quen nhường nhịn,… Nghệ thuật so sánh kết hợp với nhân hoá đã làm cho hình ảnh đàn
bò gặm cỏ hiện lên thật sống động dưới ngòi bút miêu tả sáng tạo của nhà văn Hồ
Phương.
c) Kĩ năng so sánh
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng
nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới trạng
thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ tới những hình ảnh khác có cùng một nét
tương đồng nào đấy. Chính sự liên tưởng, so sánh này làm cho trang văn miêu tả hay
hơn, và đối tượng miêu tả hiện lên rõ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Nếu xét về đối tượng, hiện tượng so sánh trong văn miêu tả hết sức đa dạng và phong
phú :
Có thể so sánh người với người : “Với gương mặt phúc hậu và mái tóc bạc trắng, trông
bà hệt như một bà tiên trong truyện cổ tích” ; ” Nhìn nó chăm chỉ làm việc giúp bà, ai
cũng tấm tắc : Hệt như cô Tấm trong truyện cổ tích xưa”…
Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách) : “Lão ta quá ranh mãnh,
xảo quyệt, y như một con cáo già” ; “Trông anh ta như một con gấu ” ; “Cậu ấy nhanh
như một con sóc”…
Có thể so sánh người với cây cối : “Chấm cứ như một cây xương rồng” (Đào Vũ – Cái
sân gạch); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn đất”…
Có thể so sánh người với các hiện tượng tự nhiên : “Giọng lão ta lúc nào cũng gầm
vang như sấm”; “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh : “Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi
cơm gạo mới” (Vũ Tú Nam) ; “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái
liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chúi” (theo Vích-to Huy-gô) ; “Măng chồi lên
nhọn hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất luỹ mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú);
Có thể so sánh vật với con người : “Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người
lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên” ; “Cây bưởi như một người mẹ đang
cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc” (Đoàn Giỏi);
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau :
So sánh theo hướng thu nhỏ lại : “Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa
không trung” ; “Xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm dập dờn trên mặt
biển” ;
So sánh theo hướng phóng đại lên : “Rệp bò lổm ngổm như xe cóc – Muỗi lượn nghênh
ngang tựa máy bay” (Hồ Chí Minh) ; “Chiếc lá tre được thả xuống dòng nước, tròng
trành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng tôi” ;
So sánh theo hướng cụ thể hoá : “…Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi”
(Thánh Gióng) ; “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như
lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân) ;
So sánh theo hướng trừu tượng hoá : “Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của
loài người, lúc con người phải viết vào thân tre” (Nguyễn Tuân) ;
Tuy nhiên, khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm điểm
mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo
mòn theo kiểu : “Miệng’cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như những
hạt ngọc đính trên cánh hoa hồng”, “Cánh động lúa chín trông như tấm thảm vàng trải
rộng đến chân trời”, v.v.
c) Kĩ năng nhận xét
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ
quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biểu lộ thái độ, tình cảm
riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp có nói : “Một
trăm thân cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm.
Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì thân cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn
lửa nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi
khác nhau, không một ai giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn
miêu tả) .
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng nên ý thức
rõ điều này. Chúng ta có thể hiểu cụ thể thêm nữa, rằng thiên nhiên và con người xung
quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi không ngừng – thật vô cùng
thú vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này khác ngọn lửa kia, thân cây bạch
dương này khác thân cây bạch dương kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng ấy cũng
từng phút, từng giờ thay đổi liên tục. Cũng một con đường từ nhà đến trường, nhưng
sáng hôm nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác. Cũng một cây bàng,
chiều hôm trước còn trơ trui lá cành, mà chỉ sau mấy hôm đã đâm chồi nảy lộc, tràn đầy
sức sống. Cũng một bãi biển, nhưng khi ta buồn ta sẽ cảm nhận nó khác khi ta đang
vui… Có thể nói rằng, đối tượng miêu tả sẽ xuất hiện và đi vào bài văn tuỳ thuộc vào
điểm nhìn, thái độ, tình cảm, tâm trạng cũng như tình huống tiếp xúc của người viết.
Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấp chủ quan của người viết trong văn miêu tả. Nó đòi
hỏi người viết phải bộc lộ trong tác phẩm của mình những lời nhận xét, những suy
nghĩ, những cảm nhận riêng về đối tượng.
Vấn đề là phải dùng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ?
– Trước hết có thể nhận xét trực tiếp bằng những lời bình, những câu cảm thán, nhũng
hình ảnh so sánh : “Chà ! Chà ! Béo ơi là béo ! “, ” Gớm ! Béo đâu có béo lạ béo lùng
thế !” (Nguyễn Công Hoan) ; “Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi
xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng, nom thật đẹp (Vũ Tú Nam) ;
” A Cháng đẹp người thật… Nhưng phải nhìn Hạng *A Cháng cày mới thấy hết được
vẻ đẹp của anh” (Ma Văn Kháng);
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là thái
độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh một “bà
chủ” : “Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người. Nếu người
ta chiưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn chân tay ngắn chùn
chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem eất đi”.
Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Võ Tú Nam khi quan sát và miêu
tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi : “Rọi quả thi nhau chòi ra… bằng
ngón tay… bằng con chuột. Rồi bằng con cá chuối to…”.
2. Lưu ý về cách diễn đạt trong văn miêu tả
a) Cách dùng từ ngữ, hình ảnh
Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra
một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn miêu tả trước hết
phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích luỹ vốn từ cần được tiến hành thường xuyên
và dưới nhiều hình thức : thông qua các giờ học Văn – Tiếng Việt trong nhà trường ;
thông qua giao tiếp hằng ngày, thông qua quá trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo có
liên quan tới văn miêu tả. Tất nhiên, có vốn từ phong phú chưạ hẳn đã là thành công mà
điều quan trọng là người viết bài phải có sự lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ
thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể lẩy ra được một vài từ phù hợp nhất, chính
xác nhất. Điều cần lưu ý là phải luôn có thói quen tìm từ gợi hình, biểu cảm và phải
chọn từ ngữ phù hợp với đối tượng, với văn cảnh. Muốn làm nổi bật hình ảnh của đối
tượng thì chú ý nhiều tới hệ thống từ tượng hình (tả màu sắc, hình dáng, trạng thái,…) ;
muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ tượng thanh (mô phỏng
các. tiếng động). Bài văn miêu tả thiếu đi các từ ngữ có sức tạo hình, gợi cảm thì chắc
chắn sẽ không thể hay. Nhưng cũng cần ý thức được rằng nếu dùng từ ngữ, hình ảnh
tuỳ tiện hoặc khuôn sáo, bắt chước một cách lộ liễu thì cách miêu tả cũng không có sức
thuyết phục.
Ví như tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh : cuồn cuộn, nhấp nhô, lăn
tăn, rì rầm, rì rấo, lô nhô, ì oạp,… Nhưng không phải tả sóng lúc nào cũng dùng được
tất cả các từ ấy. Tả sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ cuồn cuộn ; tả tiếng sóng
biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oụp ; tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà
nghe xa thì phải dùng từ rì rầm ;
Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau : xanh um, xanh lì, xanh non,
xanh mơn mởn, xanh tươi, xanh tốt, xanh rờn,… Nhưng khi đi vào thực tế, mỗi loại cây
sẽ có một màu xanh riêng, không thể lẫn lộn : cây rau cải trong vườn hay cây lúa đang
thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn ; cây cối trong rừng rậm rạp thì phải là
xanh rì, xanh tốt, xanh um,…
Ngay cả âm thanh tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rất rõ : mưa giáo đầu thì lẹt đẹt;
mưa trên mái tôn thì rào rào’; mưa đập vào phên nứa đồm độp ; mưa đập vào tàu lá
chuối thì lùng bùng ; mưa từ mái giọt tranh đổ xuống sân thì ồ ồ; …
Còn từ ngữ tả dáng đi của con người cũng vô cùng phong phú, đa dạng : em bé tập đi
thì lẫm chẫm ; cậu bé tinh nghịch thì có dáng đi nhún nhảy, vừa đì vừa nhảy chân sáo ;
cụ già thì lom. khom ; người đang đau chân thì đi khập khà khập khiễng ; các cô gái trẻ
thì yểu điệu thướt tha ; người có tâna trạng thoải mái đi thong thả ; người vất vả thì
dáng đi hấp tấp, lật đật, sấp ngửa,…
Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả cũng không kém
phần quan trọng. Có thể thấy rõ câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao nhiêu thì sức gợi
cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Việc tạo hình ảnh cho câu văn miêu tả có thể thực hiện
bằng nhiều cách : hoặc là bằng từ ngữ tượng hình, tượng thanh (“gấu bố, gấu mẹ, gấu
con cùng béo rung rinh, bước đi lặc lè, lặc lè”) ; hoặc bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ,
nhân hoá (“Lá mía sắc như lưỡi gươm, xanh đậm” ; “Lũ trẻ đứa nào đứa nấy da cứ đen
bóng như bôi nhọ mỡ” ; “Dòng sông thay chiếc áo màu xanh hằng ngày bằng dải lụa
đào” ; …).
Tuy nhiên, khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật trên trong bài văn miêu tá, chúng ta
cần lưu ý rằng những nghệ thuật ấy chỉ thực sự có tác dụng nếu được dùng đúng lúc,
đúng chỗ, hợp văn cảnh. Ngược lại, nếu dùng những biện pháp nghệ thuật ấy một cách
máy móc, sáo mòn thì nó làm giảm giá trị của bài văn miêu tả rất nhiều. Mặt khác, cũng
như khi ta ăn tiệc, món ăn dù ngon đến mấy nhưng ăn quá nhiều thì sẽ chán ; trong văn
miêu tả, nếu quá lạm dụng cách nói so sánh, nhân hoá mà ít tả thực thì chắc chắn cảm
giác thích thú ban đầu của người đọc sẽ giảm dần, thậm chí dẫn tới sự khó chịu, nhất là
khi gặp những hình ảnh so sánh, nhân hoá nhạt nhẽo, vô vị. Chẳng hạn như : “Chị gió
lả lướt bay tới làm cho cả vườn cây xao động” (chỉ cần viết: “Gió thổi nhẹ làm cả vườn
cây xao động”) ; “Ông mặt trời đã lên cao, nhăn nhó xua muôn ngàn tia nắng tinh quái
xuống trần gian” (chỉ cần viết “Mặt trời đã lên cao, chói chang, gay gắt. Nắng như hắt
lửa xuống mặt đất”), v.v.
Để thấy rõ tầm quan trọng của việc dùng từ ngữ, hình ảnh trong văn miêu tả, ta hãy so
sánh hai đoạn văn có cùng nội dung miêu tả cây cối trong vườn như sau :
Đoạn 1 : “Vườn cây đang vào mùa quả chín trông thật thích mắt. Đây là cây dừa to lớn
đứng uy nghi toả bóng rợp nửa khoảng vườn, từng chum quả bao quanh ngọn, nặng
trĩu. Giữa vườn là những cây roi hồng. Năm nay roi cũng được mùa, quả nhiều, có
những cành không còn trông thấy lá đâu. Cuối góc vườn là cây bưởi. Đây là giống bưởi
mới, thân không cao, tán lá xoè rộng ra, quả to và múi dày. Ngắm vườn cây mùa này,
lòng người tự nhiên thấy thư thái hơn”.
Đoạn 2 : “Vườn cây đang vào mùa quả chín trông thật thích mắt. Rợp bóng che nửa
khoảng vườn là một cây dừa to lớn, đứng uy nghi. Những buồng dừa trông như những
chùm bóng bay màu xanh lúc lỉu bám quanh ngọn, nặng trĩu. Quả nào quả nấy mơn
mởn và lớn nhanh như thổi. Còn giữa vườn là những cây roi hồng. Năm nay roi cũng
được mùa, quả sai trĩu trịt. Có những cành roi chín đỏ mọng, uốn cong, chỉ thấy quả chi
chít mà không trông thấy lá đâu nữa. Nắng gắt. Rồi một trận mưa rào đổ xuống. Những
trái roi căng da, mọng nước, trông càng hấp dẫn thêm. Ớ cuối góc vườn là cây bưởi
đứng nép mình, lặng lẽ, cõng trên lưng lũ quả tròn trọc lóc. Đây là giống bưởi mới, thân
không cao, tán lá xoè rộng. Nhưng được cái quả to và múi dày nên được nhiều người
chuộng. Ngắm vườn cây mùa quả chín, không hiểu sao lòng người tự nhiên thấy thanh
thản và thư thái hơn”.
Cùng một nội dung miêu tả nhưng cách diễn đạt ở hai đoạn văn hoàn toàn khác nhau. Ớ
đoạn một mới chỉ dừng lại nội dung thông báo, giới thiệu đặc điểm của từng loại cây,
không hề chú trọng việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh nên đoạn văn không hay, không có
sức hấp dẫn. Nhưng ở đoạn thứ hai, nội dung thông báo đã được lồng trong những câu
văn giàu hình ảnh với các từ láy {lúc lỉu, mơn mởn, trĩu trịt, chi chít, lặng lẽ, trọc lóc)
và với cách nói so sánh, nhân hoá (những buồng dừa trông như những chùm bóng bay
màu xanh, cây bưởi cõng trên lưng lũ quả tròn trọc lóc,…). Do đó, hình ảnh cây cối
trong vườn hiện lên cụ thể hơn, đem lại thành công cho đoạn văn miêu tả.
b) Cách đặt câu, dựng đoạn trong văn miêu tả
Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả đòi hỏi người viết phải linh hoạt và
công phu. Có thể là câu dài với đầy đủ các thành phần chính phụ, có nhiều tầng ý nối
tiếp nhau. Cũng có thể là những câu ngắn (câu đặc biệt hoặc câu tỉnh lược). Vấn đề đặt
ra ở đây là phải biết chọn kiểu câu phù hợp với hoàn cảnh, với tình huống, nội dung
miêu tả, và cả với cảm xúc của người miêu tả nữa.
Sau đây là một số trường hợp lựa chọn kiểu câu thường gặp :
Kiểu câu dài, nhiều tầng ý, nhiều vế nối nhau thường phù hợp với việc miêu tả khung
cảnh thiên nhiên êm đềm, yến ả, hoặc những hoạt động diễn ra nhẹ nhàng, liên tiếp nối
nhau ; hoặc khi cảm xúc của con người đang dâng tràn, tuôn chảy,…
Kiểu câu ngắn (câu đặc biệt, câu tỉnh lược) với các dấu câu (dấu chấm than, dấu chấm
hỏi, dấu chấm lửng,…) thường dùng để diễn tả những cảm xúc mạnh, những hoạt động
nặng, diễn ra nhanh gọn, liên tục ; những tình huống bất ngờ…
Kiểu câu đảo ngữ : thường dùng trong những trường hợp cần nhấn mạnh một đặc điểm,
một trạng thái nào đó của đối tượng được miêu tả.
Ví dụ : Tả cánh đồng quê yên ả thanh bình : cánh đồng trải ra xa tít tắp, mênh mông với
sóng lúa lăn tăn gợn nhẹ, đuổi nhau chạy dài đến tận chân trời. (Câu dài)
Tả ánh trăng khuya : Trời đã về khuya, ánh trăng dường như càng sáng hơn, vằng vặc
giữa vòm cao mênh mông, lặng lẽ toả ánh sáng dịu dàng và tinh khiết xuống mặt đất,
huyền ảo và đẹp lạ kì. (Gâu dài)
Tả em bé đang tập đi : Cu Tí đang chập chững tập đi. Hai bàn chân bấm xuống. Hai tay
dang ra để giữ thăng bằng. Một bước. Hai bước. “Uỵch”. Cu Tí khóc oà lên vì bị ngã.
Mẹ vội đô Tí dậy, thơm một cái vào đôi má trắng hồng. Tí ta nhoẻn cười, nước mắt vẫn
đọng trên mí. Hai bàn chân lại bấm xuống. Hai tay lại dang ra. Một bước… Hai bước…
Năm bước… Mười bước… Tiếng vố tay cổ vũ của mọi người làm cho cu Tí càng phấn
khởi. (Một loạt câu ngắn)
Tả hoa phượng : Trên cành cây, lác đác xuất hiện những bông hoa phượng đầu mùa.
(Câu đảo ngữ)
Một điều cần lưu ý là trong cùng một bài văn miêu tả phải biết dùng đan xen nhiều kiểu
câu khác nhau. Có câu dài xen câu ngắn. Có câu bình thường xen câu đặc biệt. Như vậy
mới tạo được sự phong phú, đa dạng cho cách diễn đạt.
Ngoài việc đặt câu, cách dựng đoạn và liên kết giữa các đoạn trong một bài văn miêu tả
cũng rất cần được quan tâm. Thông thường, khi làm văn, học sinh chia bài làm thành ba
phần : Mỏ bài, Thân bài, Kết luận. Do đó, ứng với ba phần thường là ba đoạn văn. Mở
bài và Kết luận ngắn, Thân bài thì dài. Dù nội dung bài văn nghèo nàn hay phong phú,
dù dung lượng bài văn ngắn hay dài, dù đối tượng miêu tả ít hay nhiều, phần Thân bài
cũng chỉ có một đoạn. Đây là hạn chế đáng tiếc mà ta có thể bắt gặp trong bài làm của
học sinh.
Vậy có thể khắc phục hạn chế này bằng cách nào ?
Điều trước tiên là phải xác định những ý cần triển khai trong nội dung bài văn miêu tả
để chia thân bài thành các đoạn văn tương ứng. Có nhiều cách để chia đoạn trong bài
văn tả :
Chia đoạn theo trình tự thời gian : Người làm bài đặt đối tượng miêu tả vào các khoảng
thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông (tả cây
cối, cảnh vật) ; trong một ngày thì có sáng- trưa – chiều – tối (tả cảnh vật, thời tiết) ;
trong một quá trình thì có bắt đầu – diễn biến – kết thúc (tả cảnh sinh hoạt), khi nhỏ –
lớn lên – về già (tả con người), v.v.
Chia đoạn theo trình tự không gian : Người làm bài quan sát đối tượng miêu tả ở nhiều
góc độ và từ nhiều hướng khác nhau : từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trong nhìn ra,
từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái, nhìn bên phải, nhìn phía trước, nhìn
phía sau, nhìn toàn cảnh, nhìn chi tiết,…
Chia đoạn theo đặc điểm tính cách của đối tượng được miêu tả : Mỗi đặc điểm tính chất
có thể được tách ra để miêu tả trong một đoạn văn độc lập. Ví như tả người nói chung
có thể chia thành hai ý (hình dáng, tính tình)…
Chia đoạn theo số lượng đối tượng được miêu tả : có thể sử dụng cách chia đoạn này
cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, tả thế giới loài vật, đồ vật… Ví như
tả cảnh thiên nhiên thì có : bầu trời – mặt đất ; cảnh trong vườn – cảnh ngoài đồng ;
cảnh biển cả – cảnh núi rừng ; Hoặc tả không khí giờ học thì có : công việc của thầy cô
giáo, công việc của học sinh ; … Tả đàn gia súc, gia cầm của gia đình thì có : bầy gà,
đàn vịt, lũ trâu bò, mấy con lợn,…
Chia đoạn rồi thì phải suy nghĩ cách triển khai ý trong từng đoạn. Thông thường, nếu
toàn bộ phần Thân bài triển khai trong một đoạn văn thì nhiều khi chỉ cần liệt kê cảnh
cũng có thể tạo thành đoạn (dù rằng nội dung miêu tả sẽ nghèo nàn, dù rằng cách tả sẽ
không hay). Nhưng khi tách phần Thân bài ra thành một số đoạn mà người viết bài
không có đủ kiến thức để triển khai ỷ trong một đoạn thì những đoạn văn cụt lủn ấy sẽ
làm cho bài văn trở nên rời rạc, vụn vặt, thiếu liến kết. Như vậy, thực tế này đòi hỏi
người viết phải có khả năng mở rộng ý, phát triển hình ảnh miêu tả một cách phong phú
và hợp lí. Thông thường có thể mở rộng ý theo một số hướng sau :
Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với những đối tượng
khác. Hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các mối quan hệ với những đối tượng
xung quanh.
Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đường nét, hình dáng,
đặc điểm của đối tượng.
Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn miêu tả những câu văn nêu cảm xúc,
suy nghĩ, nhận xét.
Mở rộng ý bằng cách kết hợp miêu tả đặc điểm với những lời giới thiệu về giá trị, về
công dụng của đối tượng được tả. ‘
Ví dụ : Khi làm bài văn tả cây cối trong vườn vào một thời điểm cụ thể, ta có thể chia
Thân bài thành một số đoạn ứng với một số đối tượng miêu tả như sau :
Đoạn một: Tả một cây có đặc điểm tiêu biểu và gây ấn tượng nhất trong vườn (lớn nhất,
đặt ở vị trí quan trọng nhất,…). Khi tả, phải giới thiệu được vị trí, miêu tả hình dáng,
đặc điểm của thân, lá, rễ, hoa, quả,… tầm quan trọng của nó đối với các cây cối khác
trong vườn, hoặc đối với con người. Có trường hợp cần nêu thêm lai lịch của nó (Ai
trồng ? Trồng lúc nào ? Người trồng và thời điểm trồng có ý nghĩa như thế nào đối với
chủ nhân của khu vườn ?).
Đoạn hai : Tả loài cây cho hoa cho hương. Liệt kê một số loài hoa (hoa nhài, hoa hồng,
…), đồng thời miêu tả cụ thể vị trí, hình dảng/đặc điểm, cấu tạo của từng loại cây (thân,
lá, hoa, hương vị,…).
Đoạn ba : Tả loài cây cho quả. Liệt kê một số loài cây tiêu biểu (cam, bưởi, na, ổi,…),
sau đó tập trung miêu tả vị trí, quy trình ra hoa kết trái, cấu tạo, công dụng,… của từng
loài cây.
Lưu ý là trong quá trình tả, có thể đặt các đối tượng được tả trên trong mối quan hệ với
nắng, với gió, với chim chóc, ong bướm, với con người,… để toàn cảnh khu vườn hiện
lên sống động và đẹp hơn.
c) Cách mở đầu và cách kết luận cho một bài văn miêu tả
Mô hình bố cục của một bài văn miêu tả thông thường gồm ba phần rõ rệt:
Mở bài : Giới thiệu đối tượng cần miêu tả (Đối tượng gì ? Có quan hộ như thế nào đối
với người miêu tả ? Hoàn cảnh tiếp xúc gặp gỡ với đối tượng ấy có gì đặc biệt ?).
Thân bài : Lần lượt dừng lại hình ảnh hoặc khung cảnh được miêu tả với những đặc
điểm chung – riêng.
Kết luận : Nêu cảm nghĩ về đối tượng miêu tả.
Theo mô hình này thì văn miêu tả chỉ mở bài bằng việc giới thiệu đối tượng và kết bài
bằng cách nêu cảm nghĩ của người viết. Như vậy là quá đơn điệu, rập khuôn. Thậm chí,
có một số em học sinh dùng cái khuôn chung ấy để lắp ghép cho tất cả các bài văn tả
khác nhau.
Ví dụ 1 : Khi tả một cây ăn quả, thường các em hay đi theo cách mở và kết như sau :     

Mở bài : Trong vườn bà em trồng nhiều thứ cây ăn quả. Nhưng em thích nhất là cây
bưởi đào.
Kết luận : Em rất yêu khu vườn (yêu cây bưởi đào). Hoặc Em muốn được chăm sóc cho
khu vườn ngày càng tươi tốt (chăm sốc cây bưởi đào để nó tiếp tục đơm hoa kết trái ở
những mùa sau).
Ví dụ 2 : Đối với đề văn “Tả một người bạn thân”, cách Mở bài và Kết luận cũng theo
như ví dụ 1 :
Mở bài : Em có nhiều người bạn. Nhưng có lẽ thân thiết và gần gũi nhất vẫn là bạn X.
Kết luận : Em và X rất thân thiết, gắn bó với nhau. Chúng em tự hứa với lòng mình
rằng, dù cho hoàn cảnh và điều kiện cuộc sống có thay đổi như thế nào thì tình bạn ấy
vẫn không bao giờ phai nhạt.
Cứ theo kiểu lắp khuôn này thì ta sẽ có một loạt Mở bài và Kết luận na ná như nhau
mặc dù đối tượng cần miêu tả có thể. không giống nhau. Để bài văn miêu tả sáng tạo
hơn, ta nên chọn một số cách mở bài và kết bài khác.
Cách mở bài : Có thể mở bài bằng một lời thông báo ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề
(Thạch Lam – Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi).
Cũng có thể mở bài bằng lời giới thiệu tình huống để đối tượng miêu tả xuất hiện. Cách
mở này thường dài dòng (Ví như tả một người công nhân làm đường :
“Cái Thư, bạn tôi lạ lắm kia ! Hễ cứ ngồi với nhau là cái Thư lại kể về mẹ nó cho tôi
nghe. Chẳng lần nào là nó không mở đầu bằng câu “Mẹ tớ, ấy biết không, là công nhân
sửa đường đấy. Năm nào mẹ tớ cũng được bầu là Lao động tiên tiến. Tổ mẹ tớ vá
đường giỏi nhất công ti. Nếu ấy được xem mẹ tớ làm việc, ấy phải thích mê đi. Này nhé
ỉ…”.
Một buổi sáng, chúng tôi được đi ô tô đến chỗ tổ mẹ Thư làm việc”. (Nguyễn Thị
Xuyến)
Cách kết bài : Có thể kết bài bằng một câu văn tả.
Ví dụ : Đêm đã khuya, vầng trăng càng sáng, vằng vặc trên vòm cao mênh mông như
đang thao thức cùng trời đêm.
Hay : Cánh đồng lúa vẫn dập dờn, dập dờn trong gió. Hương thơm dịu dịu toả ra. Lan
xa. Lan xa…
Có thể kết bài bằng một lời mở ý hoặc để lửng ý cho người đọc tự cảm nhận.
Ví dụ : Khi tả hoàng hôn trên sông Hương, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết thúc
theo kiểu này : Huế thức dậy trong nhịp chuyển động mới đi vào cuộc sống ban đầu của
nó.
Hoặc lời kết mở cho bài văn tả một cầu thủ bóng đá thiếu niên : Và mỗi sáng, mỗi
chiều, cậu bé có đôi chân kì diệu ấy vẫn cùng lũ trẻ chơi đùa trên bãi cỏ. Theo đôi chân
cậu, trái bóng cứ lăn tròn, lăn tròn…
Cũng có thể kết bài bằng một vài lời tâm tình trực tiếp với đối tượng được miêu tả.
Ví dụ : Kết bài cho đề văn miêu tả mùa xuần : Cảm ơn mùa xuân ! cảm ơn những điều
kì diệu mà trời đất đã ban tặng cho thiên nhiên và con người. ■
Hoặc kết bài cho văn tả hình ảnh người mẹ : Con yêu mẹ biết bao, mẹ ơi /
3. Một số lưu ý riêng cho từng kiểu bài
a) Kiểu bài văn tả đồ vật, loài vật, cây cối
Đối tượng miêu tả ở kiểu bài văn này thường rất cụ thể, và thường là những vật quen
thuộc trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta : Một cái cặp sách, một cái bút, một tấm
bản đồ, một con mèo, một chú gà trống, một cây ăn quả,… Kiểu bài này thường khó ở
chỗ đối tượng miêu tả quá cụ thể, nhiều khi cấu tạo của nó lại đơn giản nên người miêu
tả không biết làm thế nào để phát triển ý. Rút cục là bài văn tả chỉ ngắn cụt lủn, hời hợt,
nghèo nàn. Sau đây là một số lời khuyên đối với học sinh để giúp các em làm tốt kiểu
bài này.
Thứ nhất, khi làm kiểu bài này có thể chọn trình tự miêu tả là từ bao quát (giới thiệu
chung) đến cụ thể (đi vào chi tiết). Riêng tả loài vật, cây cối có thể theo quá trình
trưởng thành của đối tượng với các giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, đối tượng được miêu tả ở kiểu bài này là những đồ dùng, vật dụng, những hình
ảnh quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, khi miêu tả, phải chú ý tới công
dụng, ý nghĩa của chúng cũng như mối quan hệ giữa chúng với con người. Đặc biệt,
thỉnh thoảng trong quá trình tả, có thể đan xen vào một vài kỉ niệm thể hiện sự gắn bó
giữa người tả với đối tượng được tả.
Thứ ba, cần biết điều chỉnh một cách hợp lí giữa tả thực và các hình ảnh liên tưởng.
Nếu tả thực nhiều quá thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Nếu liên tưởng nhiều quá
thì tính chân thực sẽ giảm đi. Riêng đối với đồ dùng vật dụng, không phải lúc nào cũng
tả cái mới. Có thể tả những đồ dùng đã cũ (xen vào các kỉ niệm thể hiện sự gắn bó)
thì .ý nghĩa của bài làm sẽ sâu sắc hơn.
b) Kiểu bài văn tả cảnh
Đối tượng miêu tả bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt. Có thể coi đây là những
bức tranh bằng ngôn ngữ dựng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt động nào đó của
thiên nhiên, của con người (một phiên chợ tết, một bến đò hoặc ga tàu đông khách, một
cuộc thi thả diều, một cánh rừng, một dòng sông, một làng quê yên tĩnh, V.V.). Nội
dung của kiểu bài này không nghèo nàn, thậm chí rất phong phú nhưng do kinh nghiệm
quan sát của học sinh còn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ sắp xếp ý còn hạn chế nên
bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối.
Khi làm kiểu bài văn này cần lưu ý một số vấn đề sau :
Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, người viết có thể chọn một trong số các trình tự tả :
theo trình tự thời gian, không gian, số lượng cảnh,… Bức tranh thiên nhiên không bao
giờ ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm nổi bật được sự thay đổi
này (mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia, thời điểm này khác thời điểm kia,
…).
Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh tiêu biểu để
tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên nhiên cần chú trọng dùng nhiều
từ láy tượng hình, tượng thanh. Dù cảnh thiên nhiên nào thì cũng phải đặt nó trong một
không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng tự
nhiên như gió, nắng,… Các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá nên được vận dụng
nhiều để góp phần làm cho bài văn miêu tả sinh động hơn.
Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian và trình
tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh và liệt kê
các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu. Ưu tiên dùng
nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, về câu văn, tuỳ theo nội dung
miêu tả mà lựa chọn kiểu câu ngắn hay câu dài, câu đặc biệt hay câu bình thường, câu
đảo ngữ hay câu tỉnh lược,… Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình cảm giữa
các đối tượng xuất hiện trong các bức tranh cảnh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một
số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét, cảm nghĩ vào văn
tả cảnh sinh hoạt.
b) Kiểu bài văn tả người
Kiểu bài văn này khá thông dụng, được dùng phổ biến, trong cuộc sống hằng ngày.
Nhược điểm thường thấy là các em học sinh hay tả người theo một số hình ảnh ước lệ,
có tính rập khuôn nhất định, đọc lên nghe quá nhàm, thiếu nét riêng, thiếu sự sáng tạo.
Hơn nữa, dưới ngòi bút của các em, các nhân vật thường được lí tưởng hoá, đẹp hơn,
đáng yêu hơn, nhưng lại thiếu tính chân thực (ví như hình ảnh mẹ hay cô giáo đều có
dáng đi mềm mại, thướt tha„ mũi dọc dừa, bàn tay đẹp với những ngón thon như tháp
bút,… Tức là vô tình người tả biến họ thành những cô văn công trên sân khấu).
Khi làm kiểu bài văn này cần lưu ý mấy điểm sau :
Phải xác định rõ đối tượng được miêu tả (tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính) để trên cơ sở
đó chọn hình ảnh tả cho phù hợp. Chẳng hạn như người phụ nữ làm nghề dạy học sẽ có
trang phục, diện mạo, cử chỉ khác hẳn người phụ nữ là công nhân làm đường.
Bên cạnh đó, phải xác định yêu cầu cụ thể của từng đề nữa. Nếu tả người nói chung thì
phải làm nổi bật đặc điểm ngoại hình và tính cách ; nếu tả người trong trạng thái hoạt
động thì phải tập trung vào cử chỉ, động tác. Ngay cả việc tìm những nét về ngoại hình,
tính cách của nhân vật để miêu tả cũng phải gắn kết với hoạt động đang diễn ra (chẳng
hạn, tả chú công nhân đang xây nhà thì phải tập trung vào cử động của đôi bàn tay,
gương mặt; tả cầu thủ bóng đá thì chú ý động tác của đôi chân, tả cô giáo đang giảng
bài thì chú ý dáng đi, giọng nói, gương mặt, thái độ,…).
Đối với văn tả người cũng phải chú trọng nhiều tới ngôn ngữ tượng hình, tượng thanh,
nghệ thuật so sánh. Đặc biệt, người viết phải bộc lộ tình cảm đối với người được tả
ngay trong quá trình làm văn (trực tiếp qua những câu bình phẩm, nhận xét, những câu
cảm thán ; gián tiếp qua việc lựa chọn hình ảnh, từ ngữ và sắp xếp trật tự miêu tả).
BÀI TẬP RÈN VIẾT VĂN MIÊU TẢ
TẬP QUAN SÁT, TƯỞNG TƯỢNG, SO SÁNH VÀ NHẬN XÉT TRONG VĂN
MIÊU TẢ
          1. Ghi nhớ
          Muốn miêu tả được, trước hết người ta phải biết quan sát, rồi từ đó nhận xét, liên
tưởng, tưởng tượng, ví von, so sánh… để làm nổi bật lên những đặc điểm tiêu biểu của
sự vật.
          2. Bài tập : Quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
          Bài tập 4
          Em hãy quan sát và ghi lại những đặc điểm lớp học của em. Trong những đặc
điểm đó, đặc điểm nào nổi bật nhất ?
          Bài tập 5
          – Cho đề văn : Hãy tả một ngày mưa rất to tại phố em.
          – Để làm đề văn này, sẽ dùng các hình ảnh, sự vật sau đây. Em sẽ liên tưởng, so
sánh các hình ảnh, sự vật ấy với những gì ? Hãy điền vào “…”
          + Mặt trời…
          + Bầu trời …
          + Những hàng cây…
          + Những dãy nhà…
          + Đường phố…
          + Xe máy, xe đạp…
          + Nước chảy trên đường vào cống…
          + Không gian mưa rơi…
          + Người đi đường…
          Bài tập 6
          – Cho các từ sau : ngang, khệnh khạng, vun vút, chậm chạp, rung rinh, bệ vệ, đùa
giỡn.
          – Hãy chọn lựa và điền các từ đã cho vào những chỗ trống trong đoạn văn dưới
đây.
          – Sau khi điền từ, đọc lại đoạn văn, cho biết:
          + Đoạn văn tả cảnh gì, ở đâu ?
          + Người viết có những tưởng tượng, so sánh, nhận xét hay ở chỗ nào ?
          “Một con sao biển đỏ thắm đang …….. bò. Những con tôm hùm      mang bộ râu
dài …….. bước trên các hòn đá. Một con cua đang …….. bò. Chỗ nào cũng thấy bao
nhiêu vật lạ. Đây là hoa loa kèn mở rộng cánh, …….. dưới nước. Đàn tôm con
lao……..  như ruồi. Bác rùa biển………., có hai con cá xanh như đôi bướm……. phía
trên mai”.
(Theo M.Goóc-ki)
          Bài tập 7
          Cho đoạn văn sau :
          “Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát
lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước, sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo
mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu
hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp
thuỷ tinh”.
          a) Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào chính ?
          – Biểu cảm
          – Tự sự
          – Miêu tả
          b) Đoạn văn trẽn tả cảnh gì ?
          – Sông ngòi, mương rạch.      
          – Đồng bằng
          – Rừng tràm
          Dựa vào những dấu hiệu nào trong đoạn mà em khẳng định như vậy ?
          c) Đoạn văn có bốn câu : – Chỉ ra câu nào thể hiện rõ cách tưởng tượng, so sánh
khi tả cảnh.
          – Chỉ ra câu nào bộc lộ rõ nhận xét của người viết.
          d) Viết một đến hai câu nói rõ cảm giác của em khi đọc đoạn văn này.
          Bài tập 8
          Ở trong nhà, đi ngoài phố, đến nhà bạn, hay ngắm tranh, ta thường gặp những bé
rất đáng yêu. Hãy tả để làm rõ nét đáng yêu của em bé đó.
          3. Giải bài tập
          Bài tập 4 : Đặc điểm lớp học của em.
          – Lớp được quét vôi màu vàng chanh.
          – Cửa lớp bằng gỗ, màu sơn xanh lá cây.
          – Riêng cửa sổ có song sắt thưa.
          – Chính giữa lớp có treo ảnh Bác.
          – Bên trái là 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên.
          – Bên phải là khẩu hiệu “Thi đua học tốt”.
          – Bục giảng mới xây cao ráo.
          – Bảng đen mới, màu xanh lá cây nhạt, viết phấn lên rất rõ và đẹp.
          – Hai dãy bàn ghế mới, đánh vécni nâu vàng thơm phức, đều chằn chặn.
          – Các lẵng hoa tự tạo treo tường, mộc mạc, có duyên.
          (Đặc điểm nổi bật của lớp là những lẵng hoa tự tạo trên tường).
          – Lớp học như ngôi nhà thứ hai thân thương của em.
          Bài tập 5 : Để có thể tả một ngày mưa rất to tại phố em, em có những liên tưởng,
so sánh các hình ảnh, sự vật như sau : (Điền từ, ngữ vào chỗ trống)
          – Mặt trời đã trốn đi đâu, từ bao giờ.
          – Bầu trời đầy mây đen vần vũ.
          – Những hàng cây : như được tắm rửa trong trận mưa, nghiêng ngả đùa trong
nước mưa.
          – Những dãy nhà : như khuôn mặt sáng sủa sau lần rửa mặt.
          – Đường phố: ngập nước vì chảy không kịp. Lúc mưa to nhất, đường phố như
một dòng sông nhỏ, nhiều em bé gấp thuyền giấy, thả xuống…
          – Xe máy, xe đạp : không đi nhanh được, giống như từng đoàn xe lội nước.
          – Người đi đường : mặc áo mưa kín mít như những nhà tu hành, đi rất vội dưới
các mái hiên trên vỉa hè.
          – Nước chảy trên đường vào cống : nghe ồ ồ như người khổng lồ đang       khóc.
          – Không gian mưa rơi : trắng như tấm màn mưa.
          Bài tập 6 : 1. Đoạn văn sau khi đã điền từ :
          “Một con sao biển đỏ thắm đang chậm chạp      bò. Những con tôm hùm mang bộ
râu dài bệ vệ bước trên các hòn đá. Một con cua đang bò  ngang. Chỗ nào cũng thấy bao
nhiêu vật lạ. Đây là hoa loa kèn mở rộng cánh,  rung rinh dưới nước. Đàn tôm con
lao vun vút như ruồi. Bác rùa biển khệnh khạng, có hai con cá xanh như đôi bướm đùa
giỡn phía trên mai”.
          Đoạn văn trên tả hoạt động của các loài vật dưới đáy biển.
          Người viết có những tưởng tượng, so sánh, nhận xét rất độc đáo, tài hoa, tạo nên
những chi tiết rất hay, thú vị.
          – Tôm hùm mang bộ râu dài bệ vệ bước trên các hòn đá.
          – Hoa loa kèn rung rinh trong nước.
          – Đàn tôm con lao vun vút được so sánh với lũ ruồi (cách so sánh của người
Nga).
          – Bác rùa khệnh khạng, hai con cá xanh như đôi bướm đùa giỡn (vừa nhân hoá,
vừa so sánh hợp lí).
          Bài tập 7 : a) Miêu tả
          b) Dựa vào câu chủ đề (câu 1) và các chi tiết tả trong ba câu tiếp theo, người đọc
nhận ra cảnh rừng tràm.
          c) – Câu thể hiện rõ sự tưởng tượng, so sánh : trong tả cảnh.
          + Câu 4 : Tưởng tượng : “ánh sáng trong vắt, hơi gợn chút óng ánh”.
          + So sánh : “nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thuỷ tinh”.
          – Câu 1, 2, 3 bộc lộ rõ nhận xét của người viết về cảnh.
          d) Cảm giác khi đọc đoạn văn này : Em thấy không gian thật yên tĩnh, không khí
thật trong lành, mát mẻ ; thiên nhiên thật đáng yêu và gần gũi như sự sống. Em yêu
cảnh này vô cùng, vì đây còn là môi trường sống dồi dào và vô tận.
          Bài tập 8 : Em dự định sẽ tả một em bé đáng yêu mà em đã gặp :
          – Đôi mắt bé đen tròn, tinh nghịch – mỗi lần bé nói, đôi mắt cũng như nói theo.
          – Đôi má bé căng tròn, mỗi lần chạm môi thơm thấy căng rắn đến dễ yêu.
          – Đôi môi hồng và hàm răng trắng đều khi bé cười tươi.
          – Bé lại ra dáng người lớn mới đáng yêu chứ : Bé nhắc anh này không được nhổ
bậy, chị kia ra đường không được mặc quần áo ngắn. Nhưng bé lại tự ý lấy kẹo sôcôla
ăn, mà chưa xin phép ; lại còn luôn đòi mẹ mua đồ chơi nữa chứ…
          – Tất cả mọi người : hãy đem tiếng cười, tình yêu thương, hạnh phúc đến cho bé
nhé.
2.Những năng lực cần có khi làm văn miêu tả
– Quan sát: nhìn nhận, xem xét sự vật. Kĩ năng này thường bị học sinh bỏ qua nên khi
làm bài các em thiếu vốn sống thực tế, bài văn nghèo về nội dung ý nghĩa, thiếu sức
thuyết phục. Phải thấy những nét chính, thấy những đặc điểm riêng để tìm ra được
những ngóc ngách của sự vật, vấn đề. Nhiều khi không cần liệt kê đẩy đủ sự việc mà
chỉ cần ghi lại những nét đặc sắc mà mình cảm nhận được, như một câu nói, nét mặt lột
tả được tính nết một người, hoặc một tiếng động, một ánh đèn, một trạng thái tư tưởng,

Nói như Tô Hoài,… từ chỗ tìm bới trong la liệt hiện tượng quanh mình mà phát hiện ra
bản chất và quy luật hiện tượng chính, tránh lối phỏng đoán sai lầm, công thức, đơn
giản và loá mắt không tách bạch được đâu là chủ yếu, thứ yếu. (Một số kinh nghiệm
viết văn miêu tả, NXB Giáo dục, 2000)
– Nhận xét liên tưởng hình dung về sự vật đặt trong tương quan các sự vật xung quanh.
Vai trò của trí tưởng tượng là rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự phong phú cho
các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà còn giúp cho HS tìm được những từ ngữ và
biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn tả hấp dẫn hơn.
– Ví von so sánh: Thể hiện sự liên tưởng độc đáo riêng của người viết hình dung, cảm
nhận về sự vật, hiện tượng miêu tả. Chất lượng của bài miêu tả là “nói ít gợi nhiều”, chi
tiết đưa ra không cần nhiều nhưng phải gợi được cảm giác mãnh liệt nhất, những hình
ảnh sinh động hiện lên trước mắt người đọc, khiến họ nhìn rất rõ và rất có ấn tượng. Có
thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh, so sánh vật với con người, so sánh theo hướng
thu nhỏ lại, so sánh theo hướng phóng đại lên, so sánh theo hướng cụ thể hoặc trừu
tượng hoá.
B.Các dạng văn miêu tả ở lớp 6
1.Tả cảnh
Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt gợi ra trước mắt
người đọc về đặc điểm từng nét riêng của cảnh.
Yêu cầu:
– Xác định đối tượng miêu tả: Cảnh nào? Ở đâu? Vào thời điểm nào?
– Quan sát, lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
– Trình bày những điều quan sát được theo một thứ tự.
Bố cục bài văn tả cảnh:
– Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả.
– Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự nhất định, có thể ở một số
trường hợp sau:
+ Từ khái quát đến cụ thể (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trong tới ngoài (hoặc ngược lại).
+ Không gian từ trên xuống dưói (hoặc ngược lại).
Kết bài: Phát biểu cảm tưởng về cảnh vật đó.
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả dòng sông và rừng đước Năm Căn: Thuyền chúng tôi chèo
thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sồng Năm
Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen
trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa
dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất
như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng,
ngọn bằng tăm tắp, lớp này chổng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu
xanh lá mạ, màu xanh rều, màu xanh chai lọ,… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và
khói sóng ban mai.
(Đoàn Giỏi)
2.Tả người
Tả người là gợi tả về các nét ngoại hình, tính cách, tư thế, hành động, lời nói,… của
nhân vật được miêu tả.
Phân biệt đối tương miêu tả theo yêu cầu:
– Tả chân dung nhân vật (cần tả nhiều về ngoại hình, tính nết…)
– Tả người trong tư thế làm việc (tả người trong hành động: chú ý các chi tiết thể hiện
cử chỉ, trạng thái cảm xúc).
Cách miêu tả:
– Mở bài: Giới thiệu người được tả (chú ý đến mối quan hệ của người viết với nhân vật
được tả, tên, giới tính và ấn tượng chung về người đó).
– Thân bài:
+ Miêu tả khái quát hình dáng, tuổi tác, nghề nghiệp…
+ Tả chi tiết: ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói,… (chú ý: tả người trong công việc
cần quan sát tinh tế, tả các động tác của từng bộ phận: khuôn mặt thay đổi, trạng thái
cảm xúc, ánh mắt..
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả hình ảnh dượng Hương Thư lái thuyền vượt thác: Dượng
Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn
chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của
Trường Sơn oai linh hùng vĩ.
(Võ Quảng)
+ Thông qua tả để khơi gợi tính cách nhân vật: qua tả các chi tiết, người đọc có thể cảm
nhận được tính cách của đối tượng và thái độ của người viết đối với đối tượng đó.
– Kết bài: Nhận xét hoặc nêu cảm nghĩ của người viết về người được miêu tả.
3.Miêu tả sáng tạo
* Đối tượng miêu tả thường xuất hiện trong hình dung tưởng tượng có thể bắt nguồn từ
một cơ sở thực tế nào đó.
* Đối tượng: Người hay cảnh vật.
* Yêu cầu khi miêu tả:
– Tả cảnh phải bám vào một số nét thực của đời sống. Ví dụ khi tả một phiên chợ, trong
tưởng tượng của em cần dựa trên những đặc điểm thường xảy ra của cảnh đó làm cơ sở
tưởng tượng như: không khí của buổi chợ, số lượng người với những lứa tuổi, tầng lớp
nào? Chợ diễn ra ở địa điểm nào?
Thời tiết khí hậu ra sao?… Những cơ sở đó là thực tế để tưởng tượng theo ý định của
mình.
– Tả người trong tưởng tượng: Nhân vật thường là những người có đặc điểm khác biệt
với người thường như các nhân vật ông Tiên, ông Bụt trong cổ tích hay một người anh
hùng trong truyền thuyết… Cần dựa vào đặc điểm có tính bản chất để tưởng tượng
những nét ngoại hình cho phù hợp, tạo sự hấp dẫn.
Lưu ý: Dù miêu tả theo cách nào và đối tượng nào thì cũng cần chú ý vận dụng lối ví
von so sánh để bài văn miêu tả có nét độc đáo mang tính cá nhân rõ rệt.
C.Cách làm một bài văn miêu tả
1.Trong văn miêu tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường bộc lộ rõ nhất. Muốn
làm văn tả cảnh, người viết cần phải:
– Xác định dược đối tượng miêu tả.
– Quan sát, lựa chọn được những hình ảnh tiêu biểu.
– Trình bày những điểm quan sát được theo một thứ tự.
2.Bố cục của một bài văn tả cảnh thường có ba phần:
– Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả.
– Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự.
– Kết bài: Thường phát biểu cảm tưởng về cảnh vật được miêu tả.
3.Cần chú ỷ chi tiết khi miêu tả. Ví dụ:
a.Về cảnh mùa đông, có thể nêu những đặc điểm sau:
– Bầu trời âm u, nhiều mây.
– Gió lạnh, mưa phùn.
– Cây cối rụng lá trơ cành
b.Vẽ khuôn mặt mẹ có thể chú ý tới các đặc điểm:
– Hình dáng khuôn mặt (tròn, trái xoan.. )
– Tóc ôm khuôn mặt (hoặc được búi lên).
– Đôi mắt, má, miệng.
– Nước da, vẻ mặt (hiền hậu, tươi tắn..)
c.Tả một cụ già:
– Râu, tóc trắng, da mồi.
– Cặp mắt tinh anh (hoặc lờ đờ).
– Dáng vẻ nhanh nhẹn (hoặc chậm chạp).
– Giọng nói trầm ấm…
d.Tả cô giáo đang say sưa giảng bài trên lớp: giọng nói trong trẻo, cử chỉ âu yếm, ân
cần, đôi mắt lấp lánh đầy khích lệ…
4.Chú ý thứ tự khi miêu tả:
Ví dụ:
a.Tả quang cảnh lớp học trong giờ viết bài tập làm văn:
– Có thể theo thời gian: từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc giờ học: Trống vào lớp. Cô
giáo (thầy giáo) cho chép đề. Các bạn bắt tay vào làm bài. Kết thúc buổi làm bài, thu,
nộp bài cho thầy, cô…
– Có thể theo trình tự quan sát: từ gần đến xa hoặc ngược lại; hoặc theo không gian:
bên ngoài lớp; trên bảng, cô (thầy) ngồi trên bàn giáo viên; các bạn trong lớp bắt tay
vào làm bài…
b.Tả sân trường giờ ra chơi:
– Miêu tả theo không gian:
+ Từ xa tới gần
+ Miêu tả theo thời gian: trước, trong và sau khi ra chơi.
– Miêu tả theo thứ tự thời gian:
+ Sân trường vắng lặng trong giờ học.
+ Hiệu lệnh trống ra chơi, mọi người ùa ra.
+ Có tốp chơi đá cẩu, nhảy dây, đá bóng, có tốp chỉ đứng xem, hoặc tranh cãi nhau vê’
điểu gì đó…
+ Có thể tả màu sắc quần áo, những tiếng cười nói, hò reo,…
– Miêu tả kết hợp cả không gian và thời gian: Trước hết, cần chọn trật tự miêu tả. Sau
đó chọn cảnh sân trường giờ ra chơi để viết thành đoạn văn.
Chú ý miêu tả các chi tiết như: bầu trời, mở đầu giờ ra chơi như thế nào, ở mỗi khoảng
sân các hoạt động vui chơi ra sao…
D.Tham khảo một số dàn ý
1)Đề bài : Miêu tả hình ảnh quê hương em đêm rằm Trung thu (hoặc vào một đêm trăng đẹp).
a.Mở bài
Giới thiệu chung:
– Đêm rằm, trăng tỏa sáng khắp bầu trời và mặt đất.
– Làng em rộn ràng chuẩn bị đón Tết Trung thu.
b.Thân bài
Tả cảnh đêm trăng:
– Lúc xẩm tối
+ Màn đêm dần buông, bẩu trời thăm thẳm, lấp lánh sao.
+ Trăng lấp ló, thấp thoáng sau lũy tre xa xa.
+ Gió thổi mát lộng…
+ Làng xóm nhộn nhịp.
– Lúc trăng lên
+ Mặt trăng tròn vành vạnh như chiếc đĩa bạc lơ lửng giữa không trung.
+ Ánh trăng vằng vặc, soi rõ từng cảnh vật: nhà cửa, vườn cây, dòng sông, con đường,
cánh đồng…
+ Trên đường làng, trẻ em nối đuôi nhau rước đèn, ca hát mừng trăng.
+ Cảnh phá cỗ vui vẻ ở sân đình…
c.Kết bài
Cảm nghĩ của em :
– Cảnh làng quê trong đêm trăng sáng đẹp như một bức tranh…
– Tình yêu quê hương càng thêm tha thiết, sâu đậm.
2)Đề bài: Miêu tả cô giáo (thầy giáo) đang giảng bài.
a.Mở bài
Giới thiệu cô giáo (cô dạy môn gì, tiết mấy, ngày nào?)
b.Thân bài
+ Miêu tả những nét tiêu biểu về ngoại hình: trạc tuổi, tẩm vóc (cao hay thấp, dáng
điệu, nét mặt, đôi mắt…)
+ Cách ăn mặc khi lên lớp.
+ Miêu tả những nét tiêu biểu về cử chỉ, hành động, tình cảm của cô dành cho học sinh:
lời giảng, việc làm, động tác (khi viết bảng giảng bài, khi ân cẩn nhắc nhở học sinh…)
c.Kết bài
Tình cảm của em đối với cô giáo. (Cô giáo là người tận tụy với nghề, hết lòng vì học
sinh; như người mẹ thứ hai của em; em yêu quý cô và quyết tâm học thật giỏi,…)
3)Đề bài: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh
ông tiên theo trí tưởng tượng của mình
a.Mở bài 
– Trong các truyện cổ tích, nhân vật ông tiên để lại cho em ấn tượng sâu đậm nhất. Tại
sao?
Dẫn dắt người đọc và tình huống em gặp ông tiên (tưởng tượng).
b.Thân bài
– Miêu tả chân dung nhân vật ông tiên.
+ Hình dáng + Khuốn mặt + Chòm râu, mái tóc + Cây gậy….
– Những lời đối thoại của em với ông tiên.
– Miêu tả hành động của ông tiên (tưởng tượng, ví dụ: em bị lạc đường, ông tiên đã cho
em một chiếc xe ngựa thông minh và thế là em được về nhà,…).
c.Kết bài
– Ý nghĩa của nhân vật ông tiên trong truyện và trong suy nghĩ của em.
4)Đề bài: Từ bài thơ Mưa của Trân Đăng Khoa, em hãy tả lại cơn mưa rào mùa hạ.
a.Mở bài
Trời đang nắng bỗng chuyển dông, mây đen xuất hiện, bầu trời xám xịt, cơn mưa rào ập
đến.
b.Thân bài
Tả cơn mưa:
– Gió thổi giật, trời mát lạnh.
– Những con mối bò ra rồi cả đàn tranh nhau bay cao, bay thấp. Đàn gà thi nhau đớp
mồi.
– Mưa đổ xuống trên sân nhà, trên cành cây, kẽ lá. Mưa xối xả.
– Gió thổi mạnh. Bãi mía lay động trong gió, lá mía nhọn hoắt, vươn dài như múa
gươm.
– Đàn kiến tìm nơi tránh nước, chúng đi hành quân, bụi tre đung đưa trong gió cùng
hàng bưởi sau nhà như vẫy tay đưa tiễn.
– Trên trời xuất hiện những tia chớp, sấm vang rền.
– Mưa ù ù như xay lúa. Mưa chéo mặt sân, nước sủi bọt trắng xóa rồi kéo nhau đổ ra
mương rãnh. Đất trời mù trắng nước.
– Ngoài đồng nước lai láng. Những bác nông dân hối hả đi về.
– Bố đi làm về, đội sấm, đội chớp, đội cả bầu trời đang đổ mưa.
Tả quang cảnh sau cơn mưa:
– Mây tan dần, trời xanh thấp thoáng lộ ra.
– Trời sáng hơn, những tia nắng chiếu xuống sân nhà.
– Hoa lá lại đua nhau đón khí ấm mặt trời.
– Cóc nhảy chồm chồm, lũ chó sủa vang.
– Đàn gà kéo ra, những chú chim hót líu lo,…
c.Kết bài
– Cơn mưa rào mùa hạ đã giúp cho cảnh vật tươi mát.
– Mưa giúp ích cho mọi người, giúp ích cho nhà nông.
5)Đề bài: Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp
trời.
a.Mở bài
– Khu vườn mà em định tả là của ai?
– Nó có điểm gì đặc biệt?
– Nó gắn bó với em thế nào?
b.Thân bài
– Quang cảnh khu vườn khi trời sáng:
+ Mặt trời mọc …
+ Những giọt sương đêm trên lá …
– Khu vườn bắt đầu nhộn nhịp bởi tiếng chim…
– Miêu tả một số loài cây có trong vườn mà em thích.
– Khu vườn gắn bó với tuổi thơ của em ra sao? (có thể kể một kỉ niệm sâu sắc nào đó,
với ông nôi chẳng han)
c.Kết bài
– Em ấn tượng nhất với khu vườn là ở điểm gì?

Một số bài làm mẫu


Đề 1
Có một lần:, Thuỷ Tinh tình cờ gặp được Mị Nương. Chàng có cơ hội để thanh minh
chuyên cũ. Hãy thay lời Thuỷ Tinh để kể lại cuộc gặp gỡ ấy.
Bài làm
Hàng ngàn năm đã trôi qua, Thuỷ Tinh lặng lẽ ôm nỗi buồn dưới thuỷ cung. Chàng
nghĩ tới Mị Nương và vẫn không thôi khao khát được cùng nàng nên vợ nên chồng. Và
có lẽ buồn hơn cả là cái tiếng xấu mà thiên hạ đã gán cho chàng kể từ ngày chàng và
Sơn Tinh giao chiến để giành Mị Nương. Thế rồi một hôm, Thuỷ Tinh quyết đi tìm Mị
Nương. Chàng từ biển Đông ngược dòng sông Hồng, men theo con suối nhỏ để đi lên
núi Tản. Một ngày. Hai ngày. Một tháng. Hai tháng. Núi Tản kia rồi. Thuỷ Tinh nép
mình sau tảng đá lớn. Chàng hi vọng Mị Nương sẽ ra suối…
Và quả như chàng đã dự đoán. Một buổi sáng, khi chim rừng cất cao tiếng hót chào đón
những tia nắng đầu tiên thì Mị Nương xuất hiện. Nàng ra suối ngắm cảnh. Đã mấy ngàn
năm mà nhan sắc của Mị Nương không hề phai, vẫn dáng người mảnh mai, thướt tha.
vẫn gương mặt hiền như ánh trăng rằm. vẫn mái tóc dài tuôn từ bờ vai rủ xuống gót
chân óng ả, đen mượt. Thuỷ Tinh rời khỏi chỗ nấp tiến về phía Mị Nương. Nàng hoảng
sợ lùi lại. Thuỷ Tinh vội buồn rầu lên tiếng :
– Nàng đừng sợ ! Nàng không nhận ra ta ư ?
– Chàng là… – Mị Nương ngập ngừng… Trong thoáng chốc, nàng đã nhớ lại hình ảnh
cuộc đua tài tranh ngôi phò mã tại Phong Châu ngày trước. – Chẳng lẽ chàng là Thuỷ
Tinh đó sao ? Chàng tìm ta làm gì ? Ta là gái đã có chồng. Mấy ngàn năm rồi, bao
nhiêu tai hoạ chàng gây cho nhân dân ta như vậy vẫn chưa đủ ư ?
– Mị Nương ! Nàng hãy nghe ta. Ta đi tìm nàng lần này là để thanh minh câu chuyện
ngày trước, để nàng đừng oán giận ta nữa ! – Thấy Mị Nương im lặng, Thuỷ Tinh lấy
hơi kể liền một mạch. – Nàng biết không : Ngay từ buổi đầu gặp nàng, ta đã mơ ước
cùng nàng xe tơ kết tóc. Có trời đất chứng giám lòng thành của ta đối với nàng. Hôm
đọ sức cùng Sơn Tinh, ta cũng thầm phục chàng trai ấy. Nhưng tình yêu thì không thể
chia sẻ nên ta cố gắng đem hết tài năng của mình ra để vừa ý nàng và vừa ý vua cha.
Chắc nàng cũng thấy rõ ta và Sơn Tinh hoàn toàn ngang tài ngang sức…
– Nhưng tại vì chàng đã mang lễ vật đến muộn hơn phu quân tà, sao chàng còn oán
giận mà gây cảnh binh đao ? – Mị Nương ngắt lời Thuỷ Tinh.
– Nàng thực không công bằng với ta rồi – Thuỷ Tinh buồn rầu. – Nàng không nhận
thấy rằng khi vua Hùng yêu cầu lễ vật, vua đã ngầm thiên vị cho Sơn Tinh đó sao ? Tất
cả các lễ vật ấy, từ gạo nếp đến voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đều là
sản vật của núi rừng – vương quốc của Sơn Tinh – còn ta là chúa miền nước thẳm, giữa
biển cả bao la, làm sao ta có thể tìm ngay được các lễ vật ấy chỉ trong vòng có một
đêm. Vậy mà nàng thấy đó, ta đâu có nản chí. Ngay khi rời khỏi thành Phong Châu, ta
cùng với Binh Tôm, Tướng Cá toả đi các ngả để tìm.
Bao nhiêu gian nan, ta đâu ngại. Bao nhiêu vất vả, ta đâu sờn. Chỉ hiềm nỗi khi ta có
được tất cả các thứ ấy để đem đến thành Phong Châu ra mắt nhà vua thì đã chậm mất
rồi. Được tin Sơn Tinh đã rước nàng lên núi, ta đau buồn và tuyệt vọng quá. MỊ
Nương ! Nàng có hiểu cho tâm trạng của ta lúc bấy giờ không ?
Mị Nương thoáng đỏ mặt. Nàng không thể không chạnh lòng trước lời tâm sự chân
thành của Thuỷ Tinh. Tự nàng cũng rõ rằng ngày ấy, khi cùng các Lạc hầu bàn bạc để
tìm ra cách chọn rệ hiền, vua cha cùng với quần thần trong triều đã ngầm thiên vị cho
Sơn Tinh. Ngay cả nàng lúe ấy, dù thầm thán phục cả hai chàng như nhau, nhưng tự
trong thâm tâm, nàng vẫn thấy Sơn Tinh gần gũi với mình hơn. Vả lại, chỉ nghĩ tới việc
lấy chồng về miền nước thẳm, xa xôi cách trở, nàng đã sợ hãi rồi… Nhưng mọi chuyện
đã qua… MỊ Nương nghiêm nghị nhìn Thuỷ Tinh.
– Ta hiểu lòng chàng. Nhưng sau khi mọi việc đã yên bề sao chàng còn gây chiến với
phu quân ta mãi không thôi, để muôn dân điêu đứng ? Chàng thật đáng trách…
– Mị Nương ! Việc ta đánh Sơn Tinh ngày ấy cũng dễ lí giải thôi. Ta không có ý gì
khác ngoài mong muốn giành lại nàng. Lúc thất bại, ta hiểu rằng điều đó không thể
được. Ta lui về thuỷ cung cùng nỗi buồn từ ngày ấy. Còn các cuộc chiến hằng năm đâu
phải do ta. Đó là bởi bọn Binh Tôm, Tướng Cá, những trợ thủ đắc lực của ta muốn trả
thù cho chủ, và để giải toả cho ta nỗi buồn này. Mặt khác, nạn lũ lụt hằng năm ấy còn là
bởi con người nữa đấy. Những cánh rừng đầu nguồn bị tàn phá vô tội vạ. Môi trường bị
ô nhiễm nặng nề… Nàng phải hiểu cho ta, Mị Nương ! Làm sao ta có thể nhận cả
những lỗi không phải của mình.
Thuỷ Tinh ngừng lời. Chàng đã nói được những gì cần nói. Và nỗi buồn nặng trĩu trong
lòng chàng từ hàng ngàn năm nay hình như cũng có phần vơi đi. Chàng nhìn MỊ Nương
lần cuối rồi lặng lẽ theo dòng suối đổ ra sông, về với đại dương mênh mông.
Mị Nương đứng lặng hồi lâu. Lời Thuỷ Tinh vẫn còn văng vẳng bên tai nàng. Sự oán
trách Thuỷ Tinh dường như đã tiêu tan đâu cả. Nàng nghĩ tới những câu nói cuối cùng
của thần nước. Những cánh rừng đầu nguồn bị tàn phá… Môi trường bị ô nhiễm… Con
người cũng chịu một phần trách nhiệm trước những thiên tai. Nàng hiểu ý Thuỷ Tinh
muốn nói gì. Điều nàhg có thể làm được lúc này để minh oan phần nào cho Thuỷ Tinh
chính là cùng với Sơn Tinh ngăn chặn những sai lầm của con người. Phải giữ lấy những
cánh rừng. “Thuỷ Tinh ! Chàng hãy yên tâm. Thiếp sẽ không phụ lòng chàng đâu Ị”.
Mị Nương thầm nhủ trong lòng. Nàng rời bờ suối, rảo gót quay về. Sơn Tinh còn đợi
nàng trên đỉnh núi kia.
Một ngày mới đang bắt đầu.

BÀI THAM KHẢO.

Đề bài 10: Tưởng tượng một cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh - Thủy Tinh

Bài văn mẫu

    Năm nào em cũng được chứng kiến một cuộc đọ sức. Đó chính là trận chiến giữa
Sơn Tinh và Thủy Tinh. Tất cả cũng bởi Thủy Tinh vẫn luôn ôm hận trong lòng nên
năm nào cũng lập mưu đánh Sơn Tinh.
    Mối hiềm khích giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh đã có từ rất lâu. Em kể mọi người kể
rằng việc tranh giành, này bắt đầu từ đời vua Hùng Vương thứ mười tám. Ngày ấy,
vua Hùng có một người con gái tính tình hiền dịu lại xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị
Nương. Vua thương con gái nên muốn kén cho nành một chàng rể thật xứng đáng.
    Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe tin liền đến cầu hôn. Sơn Tinh vốn là chúa vùng non
cao, Thủy Tinh cũng tài giỏi không kém, chàng là chúa vùng nước thẳm. Cả hai chàng
đều ngang sức ngang tài nên vua không thể quyết định ngay bèn lệnh cho hai chàng
đến ngày hôm sau, ai mang lễ vật đến trước sẽ được rước Mị Nương về. Thủy Tinh đã
đến chậm một bước, không lấy được Mị Nương. Chàng nổi giận đùng đùng, hô mưa
gọi gió đuổi đánh Sơn Tinh. Trận đánh năm đó Thủy Tinh thất bại hoàn toàn, chàng
vừa uất hận vừa xấu hổ, bởi vậy năm nào chàng cũng lập mưu trả thù rửa mối hận năm
đó. Ngày trước, Sơn Tinh và Thủy Tinh đọ sức bằng phép thần, đến thế kỉ XXI hai
chàng còn nhờ đến cả những phương tiện, máy móc hiện đại để hỗ trỡ.
    Buổi sáng hôm đó em vừa tỉnh dậy, đã nghe thấy loa phát thanh của phường thông
báo mọi người di chuyển đến vùng an toàn vì Thủy Tinh đang dẫn quân kéo đến trả
thù. Mọi người ai lo lắng, không biết năm nay Thủy Tinh có thêm những thứ vũ khí
mới nào, liệu Sơn Tinh có thắng nổi không. Đang chuẩn bị đồ đạc, đài phát thanh lại
vang lên giọng nói sang sảng của Sơn Tinh:
 - Tất cả mọi người hãy thu dọn đồ đạc bởi theo nguồn tin mật Thủy Tinh sẽ tiến đánh
đến vùng này, hãy di chuyển đến vùng đất của ta, mọi người sẽ được bảo vệ an toàn.
Nghe vậy mọi người bớt lo lắng hơn. Sơn Tinh rất chu đáo, chuẩn bị cả xe cộ, trực
thăng đến đón mọi người đến nơi an toàn.
    Hai ngày sau quả nhiên Thủy Tinh đã đến, chàng dẫn theo rất nhiều tướng lĩnh nago
tướng Bạch Tuộc, Cá Mập, Cá Voi, ... trông ai cũng vừa oai nghiêm vừa đáng sợ.
Thủy Tinh đứng giữa biển trên một ngọn sóng cao, dùng loa truyền tin khiêu chiến với
Sơn Tinh. Sơn Tinh cũng đã chuẩn bị sẵn đội hình để ra trận, bên cạnh chàng vẫn là
các tướng trung thành như Voi, Hổ, Trâu, ...và quân sư Sóc. Biết Thủy Tinh sẽ dùng
kế dâng nước lấn át, Sơn Tinh còn chuẩn bị sẵn máy xúc, máy cẩu, bê tông cốt thép để
chặn lũ.
    Thủy Tinh hô vang một tiếng “Đánhhh”, tất cả các tướng của chàng đồng loạt kéo
quân lính đến các ngả để càn quét, đi tới đâu dẫn nước tới đó. Thủy Tinh có sức mạnh
thần thông, chàng vẫy tay hô mưa, goi gió, gọi bão dâng nước thành sóng thần nhằm
quét sạch quân Sơn Tinh. Các tướng phía Sơn Tinh không hề nao núng, họ biết hết các
mánh khóe của Thủy Tinh rồi. Voi dùng sức nhấc bê tông để chặn dòng nước, Hổ và
quân lính dưới quyền thì điều khiển máy cẩu nhấc từng khối bê tông chặn đường kẻ
thù. Riêng Sơn Tinh , chàng dùng phép để nâng đê cao lên đến hàng chục mét, sóng
thần có mạnh đến đâu cũng không tràn qua được. Quân sư Sóc đã cử riêng một đội
quân đi tàu lặn, lặn xuống dưới nước bắt sống hàng trăm tên lính và cả các tướng chủ
chốt bên Thủy Tinh.
Tất cả những tướng và lính bị bắt nhanh chóng bị kiệt sức vì họ chỉ quen sống dưới
nước. Thủy Tinh mất hết các trợ thủ đắc lực nên đã suy nghĩ lại. Chàng đã tạm giảng
hòa với Sơn Tinh để cứu người của mình về. Lại thêm một lần thất bại nữa. Không
biết năm sau chàng có trở lại trả thù nữa không.Sau trận đánh, Sơn Tinh đã hóa phép
cho tất cả nhà cửa ruộng vườn trở lại như cũ. Gia đình chúng em lại được xe đưa về
tận nhà và tiếp tục sinh sống làm ăn.
    Vì sự ích kỉ của Thủy Tinh mà có biết bao nhiêu người phải tốn công tốn sức. Cuộc
chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh cũng phản ánh công cuộc phòng chống thiên tai của
nhân dân ta từ xa xưa.
Đề 5: Sẻ Mẹ thường dạy các con của mình : “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Nhưng có một chú sẻ Con bướng bỉnh không biết nghe lời, khi tập bay đã phải vấp
nhiều thất bại mới hiểu hết lời khuyên của mẹ. Câu chuyện sẽ diễn ra như thế nào ?
Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện ấy.
Bài làm
Hoan hô ! Hoan hô ! sẻ Em giỏi quá !
Cả khu rừng xôn xao những tiếng reo vui. Việc sẻ Em biết bay đã trở thành một sự kiện
thật quan trọng. Từ chị Sóc nâu cho đến bác Nhím già, ai cũng có lời chúc mừng khiến
sẻ Em cảm động ứa nước mắt.
Nhưng để có được niềm vui ngày hôm nay, đâu phải điều đơn giản. Nghĩ lại chuyện cũ,
sẻ Em cứ xấu hổ mãi.
Gia đình nhà sẻ sống trong khu rừng này từ bao giờ, sẻ Em không biết nữa. Từ khi ra
đời, sẻ Em đã thấy mọi người thật gần gũi và thân thiết với mình, sẻ Mẹ chăm sóc các
con rất chu đáo. Anh em sẻ chẳng thiếu thứ gì. Hôm thì những hạt thóc vàng ươm. Hôm
thì nắm kê béo ngậy. Có hôm lại là chú cào cào… Khi anh em nhà sẻ đã cứng cáp, mẹ
dành thời gian dạy chúng tập bay. Bao giờ mẹ cũng nhắc đi nhắc lại cái câu “Có công
mài sắt có ngày nên kim”, sẻ Em nghĩ bụng : “Họ nhà chim thì ai mà chẳng biết bay.
Cứ có cánh là bay được tất, cần gì phải tập !”.
Nghĩ thế nào thì làm thế đó, những buổi tập bay, mặc cho mẹ dỗ dành thế nào, Sẻ Em
cũng tìm cớ để trốn tránh. Nào là đau bụng. Nào là nhức đầu. Rồi lại đau cánh nữa chứ.
sẻ Anh thì ngược lại, luôn luôn nghe lời mẹ, cần mẫn tập bay. Hài lòng về Sẻ Anh bao
nhiêu, mẹ lại buồn vì sẻ Em bấy nhiêu. Nhưng sẻ Em đâu có bận tâm. Chiều con, sẻ Mẹ
cũng không ép.
Thời gian trôi qua. sẻ Anh đã bay thành thạo, theo mẹ kiếm mồi. sẻ Em cử nằm trong
tổ, đợi mẹ. Nhưng nằm mãi rồi cũng chán. Nghe anh kể những chuyện lí thú ở bên
ngoài, sẻ Em cũng thấy thèm. “Phải bay ra ngoài thôi”, sẻ Em nghĩ bụng. Một buổi
sáng nọ, đợi mẹ và anh bay đi kiếm mồi, sẻ Em lần ra cửa tổ.
Cả một thế giới mới lạ mở ra trước mắt chú. Này là chị Sóc nâu chuyền cành nhanh
thoăn thoắt. Này là mẹ con nhà bác Nhím già xù lông tua tủa trông thật buồn cười, sẻ
Em muốn được ra khỏi tổ. Phải bay mới được. Nhưng bay như thế nào, Sẻ Em đâu biết.
Có lẽ chỉ xoè cánh ra là được chứ gì ! Dễ quá ! sẻ Em đến sát mép tổ, xoè cánh ra, ngỡ
là mình sẽ được vi vu giữa bầu trời cao rộng kia. Nào ! Bắt đầu nhé ! sẻ Em nhắc chân
ra khỏi tổ. Chưa kịp định thần thì đã rơi bệt xuống đất. “Ôi đau quá ! Đau quá !”. sẻ Em
rên rỉ. Bác Nhím và chị Sóc vội vã chạy tới. Sẻ Em đã bị gãy một bên cánh. Khi về tổ,
biết chuyện, sẻ Mẹ cuống quýt lên. Thương sẻ Em quá, sẻ Mẹ cứ khóc mãi.
Chỉ sau một tuần, vết thương của sẻ Em đã lành lặn. sẻ Mẹ quyết định tập cho Sẻ Em
bay. Lúc này thì sẻ Em mới thấy rằng để bay được đâu phải dễ. Một hôm. Hai hôm. Chỉ
mỗi động tác dang cánh để giữ thăng bằng thôi mà sao khó thế. Người Sẻ cứ đau ê ẩm.
Thấy sẻ Em nản chí, sẻ Mẹ lại động viên : “Có công mài sắt có ngày nên kim con ạ !”.
sẻ Em không thể kiên trì được, cứ chực bay ngay. Nhiều hôm ngã đau điếng.
Một tháng trôi qua. sẻ Em quen dần với bài tập luyện của mẹ. Chú không còn thấy chán
nản nữa. Thú nhất là lúc nâng mình lên, bay bổng trên không trung, hay được nhảy
chuyền từ cành này sang cành khác, sẻ Mẹ luôn miệng nhắc : “Cẩn thận nhé con ! Khéo
ngã đấv !”. Giờ thì sẻ Em thấy lời khuyên của mẹ bao giờ cũng đúng. Chú ngoan ngoãn
vâng lời.
Hôm này, lần đầu tiên sẻ Em được theo mẹ và anh đi kiếm mồi. Có nghĩa là được bay
xa, ra khỏi cánh rừng này. Chú vui quá. Cứ háo hức mãi. Nhìn đôi cánh non nớt của sẻ
Em vẫy vẫy, và bóng chú vút lên không trung, sẻ Mẹ mừng rơi nước mắt. Còn cả khu
rừng thì xôn xao : “Hoan hô sẻ Em ! Hoan hô sẻ Em !”.
Sẻ Em nghiêng cánh chào tất cả mọi người. Phía trước kia, bao điều lí thú đang chờ đợi
chú.
Bay lên ! Bay lên nào !

PHẦN 3: GIÁO ÁN PHỤ ĐẬO VĂN 6


Tuần: 4,5 .Ngày soạn: 11/9/
Tiết: 1,2 3,4. Ngày dạy :13/9/

Chuyên đề 1: LUYỆN TẬP : TỪ


I. Mục tiêu.
1. Kiến thức :
- Giúp học sinh củng cố lại kiến thức phần từ ( cấu tạo của từ,từ mượn )
- Luyện giải bài tập.
2.Kĩ năng.
Kĩ năng xác định các loại từ, cách mượn từ. .
3.Thái độ.
Yêu quý Tiếng việt.
II.Chuẩn bị.
1.Giáo viên: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
2.Học sinh:Học bài, soạn bài.
III.Phương pháp.
Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
IV. Tiến trình bài học.
1.Ổn định tổ chức.
2.Kiểm tra bài cũ.
3 Bài mới.

Hoạt động của giáo viên và học Nội dung cần đạt.
sinh.
* Hoạt động 1: Từ và cấu tạo từ tiếng I.Từ và cấu tạo từ tiếng Việt.
Việt. 1. Khái niệm.
- Giáo viên gọi học sinh nhắc lại kiến - Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt
thức về từ. câu.
- Từ đơn là từ có 1 tiếng.Ví dụ: Mưa, gió,
nắng…
- Từ phức là từ gồm 2 hoặc nhiều tiếng: Trồng
trọt, chăn nuôi…
+Từ ghép: được tạo ra bằng cách ghép các
tiếng có qhệ với nhau về nghĩa.
+ Từ láy: được tạo ra bằng cách ghép các tiếng
có qhệ với nhau về âm.
- Hướng dẫn học sinh làm những bài 2. BT trong SGK.
tập trong SGK. Má, chợ búa, chùa chiền
a.Bài 3. Trang 15 SGK.
+ Cách chế biến: bánh rán, nướng, hấp, nhúng,
tráng…
+ Chất liệu làm bánh: nếp, tẻ, khoai, ngô, sắn,
đậu xanh…
+ Tính chất của bánh: dẻo, xốp, phồng…
+ Hình dáng của bánh: gối, quấn thừng, tai voi..
b.Bài 4: Trang 5 SGK
- Miêu tả tiếng khóc của người
- Những từ láy cùng tác dụng: nức nở, sụt sùi, rưng
rức…
- Gv: Hướng dẫn học sinh làm bài tập 3. Bài tập bổ sung.
bổ sung. a.Bài 1: Cho các từ:
* Cho các từ:
Ruộng nương, ruộng rẫy, nương rẫy,
ruộng vườn, vườn tược, nương náu,
đền chùa, đền đài, miếu mại, lăng
tẩm, lăng kính, lăng loàn, lăng nhăng. * Tìm các từ ghép, từ láy:
- Tìm các từ ghép, từ láy - Từ láy: Lăng loàn, lăng nhăng, miếu mạo, ruộng
rẫy.
*Cho trước tiếng: Làm -Từ ghép: Ruộng nương, nương rẫy, vườn tược,
Hãy kết hợp với các tiếng khác để tạo đình chùa, lăng tẩm, lăng kính.
thành 5 từ ghép 5 từ láy b.Bài 2: Cho trước tiếng: Làm
- Kết hợp với các tiếng khác thành từ 5 từ ghép
và 5 từ láy.
- 5 từ ghép: làm việc, làm ra, làm ăn, làm việc, làm
cho.
- 5 từ láy: làm lụng, làm lành, làm lẽ, làm lấy, làm
liếc.
* Phân loại từ trong đoạn văn: c.Bài 3: Phân loại từ trong đoạn văn.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm.
Càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời
thầm nói đúng. Chàng bèn chọn thứ
gạo nếp thơm lừng trắng tinh. Hạt nào
hạt nấy tròn mẩy đem vo thật sạch,
lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân dùng
lá dong trong vườn gói thành hònh
vuông, nấu một ngày một đêm thật
nhừ.
? Hãy tạo ra từ ghép và từ láy từ các -Từ ghép: mừng thầm, ngẫm nghĩ, gạo nếp,
tiếng sau ? thơm lừng, trắng tinh, đậu xanh, thịt lợn, lá
Hs đặt câu. Gv nhận xét. dong, hình vuông (chú ý/l hai tiếng khi đọc liền
nhau).
-Từ láy: không có
-Từ đơn: Các từ còn lại.
-Học sinh viết đoạn văn. d.Bài 4: Cho các tiếng sau
-Đọc trước lớp, giáo viên nhận xét. Mát, xinh, đẹp.
a) Hãy tạo ra từ láy và đặt câu
Xe, hoa.
b) Hãy tạo ra từ ghép.

e.Bài 5: Viết một đoạn văn khác câu nêu cảm


nhận của em về nguồn gốc dân tộc Việt Nam
sau khi đọc truyện "Con Rồng cháu Tiên" trong
đoạn văn có sử dụng từ láy.
T 3-4. II.Từ mượn.
* Hoạt động 2. Từ mượn. 1.Khái niệm.
? Em hãy nêu khái niệm, cách viết của - Từ mượn: là từ vay mượn của tiếng nước
từ mượn ? ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc
điểm... mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để
* Hoạt động 2. Từ mượn. biểu thị. Vd: sính lễ, in-tơ- net
- Bộ phận mượn quan trọng nhất trong tiếng
- GV hướng dẫn. Việt: là từ mượn tiếng Hán bên cạnh đó còn
- Học sinh trình bày. mượn tiếng Anh, Pháp...
- Cách viết: Các từ mượn đã được Việt hoá: viết
như thuần việt. Những từ mượn chưa được việt
hoá hoàn toàn: ta nên dùng gạch nối để nối các
tiếng với nhau.
2.Bài tập (sgk).
? Em hãy tìm những từ thuần Việt 3.Bài tập bổ sung.
tương ứng với các từ Hán Việt sau: a.Bài 1.
Thiên địa Trời đất
Giang sơn Sông núi
Huynh đệ Anh em
Nhật dạ Ngày đêm
Phụ tử Cha con
Phong vân Gió mây
-Học sinh trình bày. Quốc gia Nước nhà
-Giáo viên nhận xét. Tiền hậu Trước sau
Tiến thoái Tiến lùi
Cường nhược Mạnh yếu
Sinh tử Sống chết
Tồn vong Còn mất
Ca sĩ Người hát
Phụ nữ Đàn bà
Nhi đồng Trẻ con
Phụ huynh Cha anh
-Học sinh viết, đọc. b.Bài 2: Viết đoạn văn ngắn tả lớp học của em,
-Giáo viên nhận xét. từ 5- 7 câu (gạch chân các từ Hán Việt có trong
đoạn).
* Hoạt động 3. Nghĩa của từ. III.Nghĩa của từ.
? Nghĩa của từ là gì ? Có mấy cách 1.Khái niệm.
giải thích nghĩa của từ ? - Nghĩa của từ là nội dung( sự vật, tính chất,
hoạt động, quan hệ...) mà từ biểu thị.
- Giải thích nghĩa của từ bằng hai cách:
+ Trình bày khái niệm mà từ muốn biểu thị.
+ Đưa ra những từ đồng nghĩa hoặc trái nghã
với từ muốn giải thích.
2.Bài tập.
1.Bài tập 4 (Sgk). Giải thích các từ.
- Giếng: hố thẳng đứng, sâu vào lòng đất, để lấy
nước
- Rung rinh: chuyển động nhẹ nhàng, liên tục
? Giải thích các từ ? - Hèn nhát: thiếu can đảm
2.Bài tập 5 (Sgk).
- N/V Nụ giải nghĩa cụm từ "không mất" là biết
nó ở đâu  cô Chiêu chấp nhận  bất ngờ.
+ Mất (hiểu theo cách thông thường như mất ví,
mất ống vôi…) là "không còn được sở hữu,
không có không thuộc về mình nữa".
+ Mất theo cách giải nghĩa của Nụ là "không
biết ở đâu".
=> Cách giải nghĩa của Nụ theo từ điển là sai
nhưng đặt trong câu chuyện đúng, thông minh.
3.Bài tập bổ sung: Điền từ
a) Tiếng đầu của từ là hải.
……chim lớn cánh dài và hẹp, mỏ quặp sống ở
biển.
…..khoảng đất nhô lên ngoài mặt biển hoặc đại
dương
? Giải thích nghĩa của các từ sau ? …..sản phẩm động vật, thực vật khai thác ở
biển.
b) Tiếng đầu của từ là giáo
…….người dạy ở bậc phổ thông.
…….học sinh trường sư phạm.
…….đồ dùng dạy học để học sinh thầy một
cách cụ thể.
Bài 3: Điền các từ: đề bạt, đề cử, để xuất, đề đạt.
a,...cất nhắc một người vào vị trí nào đó.
? Điền từ vào chỗ trống ? b,...đưa ra một vấn đề.
c,...đưa ra cho người trên biết.
d,...nói đến.
*Đáp án: a.đề bạt, b.đề xuất,c.đề đạt. d.đề cử.
? Điền các từ: đề bạt, đề cử, để xuất,
đề đạt vào chỗ trống ?

4. Củng cố.
5. Dặn dò.
Học sinh về nhà học bài và soạn bài.
V. Rút kinh nghiệm.
.................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

*************************************************************

Tuần: 6 Ngày soạn: 23/9/


Tiết: 5,6 Ngày dạy: 27/9/

TỪ NHIỀU NGHĨA VÀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA TỪ.


CHỮA LỖI DÙNG TỪ.
I. Mục tiêu:
1. Kiến thức.
- Giúp học sinh củng cố, kiến thức về từ nhiều nghĩa, hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
2. Kĩ năng.
Làm bài tập
3. Thái độ.Giáo dục học sinh tinh thần yêu nước.
II.Chuẩn bị.
1. Giáo viên: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
2. Học sinh: Học bài, soạn bài.
III.Phương pháp.Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
IV. Tiến trình bài học.
1.Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ.
3 Bài mới.
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1. Từ nhiều nghĩa và I.Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển
hiện tượng chuyển nghĩa của từ. nghĩa của từ.
? Em hãy nêu thế nào là hiện tượng 1. Khái niệm.
chuyển nghĩa? Thế nào nghĩa gốc, - Chuyển nghĩa là hiện tượng thay đổi nghiã
nghĩa chuyển? của từ, tạo ra những từ nhiều nghĩa.
- Nghĩa gốc là nghĩa xuất hiện từ đầu, làm cơ
sở để hình thành các nghĩa khác. Nghĩa chuyển
được hình thành trên cơ sở của nghĩa gốc.
2. Bài tập SGK.
a.Bài 3: T57.
? Chỉ sự vật chuyển thành chỉ hành - Chỉ sự vật chuyển thành chỉ hành động
động ? Chỉ hành động chuyển thành Hộp sơn  Sơn cửa
chỉ đơn vị Cái bào  Bào gỗ
Cân muối  Muối dưa
- Chỉ hành động chuyển thành chỉ đơn vị.
Đang bó lúa  gánh ba bó lúa
Cuộn bức tranh  ba cuộn giấy
Nắm cơm  cơm nắm.
3. Bài tập bổ sung.
a.Bài 1. Tìm một số nghĩa chuyển của từ nhà,
HS làm việc tập thể phần I.
đi ăn, đặt câu.
Làm việc cá nhân phần II.
a) Từ nhà
- Nơi ở, sinh hoạt của con người  Nghĩa
chính.
- Người vợ, người chồng  Nghĩa chuyển.
b) Đi.
- Di chuyển từ nơi này sang nơi khác với tốc
độ bình thường  Nghĩa chính.
- Không còn nữa.
c) Ăn
- Quá trình chuyển hoá thức ăn vào cơ thể.
- Được lợi một cái gì đó.
b.Bài 2. Xác định và giải thích nghĩa gốc,
- Hs đọc từng câu, tìm hiểu ý nghĩa
nghĩa chuyển của các từ mũi trong những câu
của từ trong câu, sau đó xem xét từ
sau:
được dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa
a) Trùng trục như con bò thui
chuyển.
? Xác định và giải thích nghĩa gốc, Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu.
nghĩa chuyển của các từ mũi trong b) Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
những câu sau ? c) Quân ta chia làm hai mũi tấn công.
- Hs làm bài tập.
- Giáo viên nhận xét.

* Hoạt động 2. Chữa lỗi dùng từ. II.Chữa lỗi dùng từ


? Em hãy nêu những lỗi dùng từ 1. Các lỗi dùng từ thường gặp.
- Lặp từ
thường gặp? Nguyên nhân ? Cách
- Lẫn lộn các từ gần âm.
sửa? - Dùng từ không đúng nghĩa.
* Nguyên nhân.
- Do vốn từ nghèo
- Không nhớ chính xác hình thức ngữ
âm.
- Hiểu không đúng, không đầy đủ
nghĩa của từ.
* Cách chữa.
- Thay bằng từ có nghĩa tương đương.
- Chỉ dùng từ nào mình nhớ chính xác
nghĩa của từ.
- Chưa hiểu nghĩa từ phải tra từ điển. 2. Bài tập bổ sung.
a. Bài 1.
- Phát biểu cảm nghĩ về bài "Nắng - Man mát  man mác.
mới" của Lưu Trọng Lư, một bạn học - Ý chí  tâm trí.
sinh viết đoạn như sau. Bạn đó dùng
từ nào chưa chính xác, hãy sửa lại cho
bạn.
Bao trùm lên cả bài thơ là một
không khí trầm lắng và man mát buồn
cùng với một tâm trạng bâng khuâng
xao xuyến đến kỳ lạ. Nắng mới hắt
lên song cũng hắt vào trong ý chí của b.Bài 2.
tác giả gợi lại những kỷ niệm của một a) Những yếu tố kì ảo tạo nên giá trị tản mạn
thời dĩ vãng. trong truyện cổ tích (lãng mạn).
- Gạch chân những từ không đúng b) Đô vật là người có thân hình lực lượng (lực
trong các câu sau và sửa lại. lưỡng).
c) Xuân về, tất cả cảnh vật như chợt bừng tỉnh
sau kỳ ngủ đông dài dằng dẵng (đằng đẵng).
d) Trong tiết trời giá buốt, trên cánh đồng làng,
đâu đó đã điểm xiết những nụ biếc đầy xuân
sắc (điểm xuyết).
e) Việc dẫn giải một số từ ngữ điển tích trong
giờ học tác phẩm văn học trung đại là vô cùng
cần thiết đối với việc học môn ngữ văn của
học sinh (diễn giảng).
c.Bài 3.
a) Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Lễ
cưới của công chúa và Thạch Sanh tưng bừng
- Hs tìm từ thay thế cho từ bị lặp trong nhất kinh kỳ.
các đoạn văn sau . - Lặp từ công chúa, Thạch Sanh.
- Thay: họ
b) Vừa mừng vừa sợ, Lí Thông không biết làm
thế nào. Cuối cùng Lí Thông truyền cho dân
mở hội hát xướng 10 ngày để nghe ngóng.
Lí Thông  hắn.
c) Con mèo nhà em rất đẹp nên em rất thích
con mèo nhà em. (Nó)
- Chọn các từ sau để điền vào chỗ d.Bài 4.
trống: đỏ gay, đỏ ngầu, đỏ rực. a) Trong khói bụi vẫn loé lên những tia lửa ...
(đỏ rực).
b) Nước sông... (đỏ ngầu).
c) Mặt nó... (đỏ gay).
a) Bài thơ Lượm là một kiệt xuất của .Bài 5. Đọc những câu văn sau:
tác giả Tố Hữu. a) kiệt xuất - kiệt tác.
b) Truyện Em bé thông minh rất tiêu b) tiêu điểm - tiêu biểu.
điểm cho loại truyện trạng đề cao trí c) chấn động - xúc động.
tuệ của nhân dân. d) bàng hoàng - ngỡ ngàng.
c) Ngay từ những giây phút đầu tiên
gặp anh thanh niên, ông hoạ sĩ già đã
chấn động bởi ông đã gặp được một
nhân vật mà ông hằng ao ước.
d) Sự thông minh của một em bé đã
khiến em bằng hoàng.
Viết đoạn văn 5 - 7 câu có sử dụng
.Bài 6.
một trong các từ sau: cho, tặng, biếu.
- Đọc những câu văn sau: Viết đoạn văn 5 - 7 câu có sử dụng một trong
các từ sau: Cho, tặng, biếu.
4. Dặn dò.
Học sinh về nhà học bài và soạn bài.
5. Củng cố.

V. Rút kinh nghiệm.


.................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

*************************************************************

Tuần: 7 Ngày soạn: 2/10/


Tiết: 7,8 Ngày dạy :4/10/

Chuyên đề 2: ÔN TẬP TRUYỀN THUYẾT.

I.Mục tiêu:
1.Kiến thức.
- Giúp học sinh củng cố, mở rộng nội dung văn bản các văn bản.
- Hiểu ý nghĩa các truyền thuyết.
- Ý nghĩa các chi tiết kì ảo...
- Biết cảm thụ các hình ảnh, chi tiết trong truyện.
2.Kĩ năng.
Tìm hiểu văn bản.
3.Thái độ.
Giáo dục học sinh tinh thần yêu nước.
II.Chuẩn bị.
1.Giáo viên: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
2.Học sinh:Học bài, soạn bài.
III.Phương pháp.
Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
IV. Tiến trình bài học.
1.Ổn định tổ chức.
2.Kiểm tra bài cũ.
3 Bài mới.

Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1.Tóm tắt, Khái quát nội I.Con Rồng cháu Tiên.
dung,nghệ thuật các văn bản đã học. 1. Tóm tắt.
* Con Rồng cháu Tiên 2.Nội dung và nghệ thuật.
- Gv gọi học sinh đọc lại khái niệm truyền a.Nội dung.
thuyết. + Giải thích, suy tôn nguồn gốc dân tộc
? Em hãy tóm tắt truyện CRCT? Việt.
? Nêu ND và nghệ thuật đặc sắt của truyện + Biểu hiện ý nguyện, điều kiện thống nhất
cộng đồng.
+ Phản ánh quá trình dựng nước, mở nước
của dân tộc.
b.Nghệ thuật: Sử dụng yếu tố tưởng tượng
* VB:Bánh chưng bánh giầy. kì ảo.
? Em hãy tóm tắt truyện Bánh chưng bánh II.Bánh chưng, bánh giầy.
giầy ?
Tóm tắt.
+ Vua Hùng về già muốn truyền ngôi 1.Tóm tắt.
nhưng có 20 con bèn gọi phán bảo nhân lễ
Tiên Vương ai làm vừa ý sẽ truyền ngôi
cho.
+ Các lang thi nhau làm cỗ thật hậu, thật
ngon.
+ Lang Liêu buồn nhất vì từ bé chỉ biết
mỗi việc đồng áng.
+ Một đêm chàng được thần báo mộng
cách làm bánh, sáng ra chàng theo lời thần
làm bánh.
+ Ngày lễ bánh của Lang Liêu được chọn dâng
Tiên Vương, chàng được nối ngôi.
+ Nước ta có tục làm bánh chưng bánh
? Nêu ND và nghệ thuật đặc sắt của truyện 2. Nội dung và nghệ thuật.
¿ a.Nghệ thuật: Yếu tố tưởng tượng kì ảo.
b.Nội dung:
- Giải thích nguồn gốc hai loại bánh.
- Đề cao lao động và nghề nông.
- Kính trời đất, tổ tiên.
2.Luyện tập.
Bài 2: (Trang 12 SGK). a.Bài1: (Trang 12 SGK).
*Ý nghĩa phong tục ngày Tết làm bánh
? Đọc truyện này em thích nhất chi tiết nào chưng bánh giầy.
? Vì sao ? - Đề cao nghề nông, sự thờ kính Trời Đất,
tổ tiên.
- Thể hiện sự giữ gìn truyền thống văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc.
- Làm sống lại câu chuyện "Bánh chưng,
bánh giầy".

* Lời khuyên bảo của Thần


- Nêu bật giá trị hạt gạo.
- Đề cao lao động, trân trọng sản phẩm do con
người làm ra.
- Chi tiết thần kỳ làm tăng sự hấp dẫn cho
truyện. Trong các Lang chỉ có Lang Liêu
được thần giúp.
* Lời vua nhận xét về hai loại bánh.
- Đây là cách đọc, cách thưởng thức nhận
xét về văn hoá. Những cái bình thường
giản dị song lại chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
- Ý nghĩa tư tưởng, tình cảm của nhân dân
về hai loại bánh.
III. Thánh Gióng.
* VB Thánh Gióng. 1. Tóm tắt văn bản.
- Gv Gọi học sinh tóm tắt văn bản. 2. Ý nghĩa hình tượng Thánh Gióng
? Ý nghĩa hình tượng Thánh Gióng ? - Gióng là biểu tượng rực rỡ của ý thức sức
mạnh đánh giặc và khát vọng chiến thắng
giặc ngoại xâm của dân tộc
-Thể hiện quan niệm về mơ ước về sức
mạnh của nhân dân ta về người anh hùng
chống giặc
- Nghệ thuật: Các yếu tố tưởng tượng kì ảo
càng tô đậm vẻ phi thường của nhận vật.
Câu 4: (Trang 23 SGK).
*Truyện Thánh Gióng liên quan đến sự
thật lịch sử nào?
- Vào thời đại Hùng Vương chiến tranh tự
vệ ngày càng trở nên ác liệt đòi hỏi phải
huy động sức mạnh của cả cộng đồng.
- Số lượng và kiểu loại vũ khí của người
Việt cổ tăng lên từ giai đoạn Phùng
Nguyên đến giai đoạn Đông Sơn.
- Vào thời Hùng Vương, cư dân Việt cổ
tuy nhỏ nhưng đã kiên quyết chống lại mọi
đạo.
HĐII: LUYỆN TẬP. II:LUYỆN TẬP.
- Hãy chỉ ra cốt lõi lịch sử trong các truyền BT1: Hãy chỉ ra cốt lõi lịch sử trong các
thuyết đã học? Những cốt lõi lịch sử ấy có truyền thuyết đã học? Những cốt lõi lịch sử
tác dụng ntn đối với người kể,người nghe? ấy có tác dụng ntn đối với người kể,người
nghe?
* Gợi ý:
- Con Rồng cháu Tiên:đó là thời đại
Hùng Vương với quá trình chinh phục
thiên nhiên để gây dựng đất nước như diệt
các lòa ngư tinh,hồ tinh,mộc tinh, cùng các
thành tựu về lao động,sản xuất của thời kì
sơ khai nền nông nghiệp: trồng trọt,chăn
nuôi.
- Bánh chưng, bánh giầy:
- Thời đại Vua Hùng và thể chế chính trị
cha truyền con nối,cùng với các văn minh
nông nghiệp,sáng tạo văn hóa ẩm thực..

* Thánh Gióng
- Thời đại Vua Hùng phát triển về kinh
tế,văn minh,sự đoàn kết trong chiến
đấu.Đánh dấu sự phát triển về nông
nghiệp,các nghề thủ công chế tạo kim
loại...
* Sơn Tinh,Thủy Tinh:
- Hiện tượng lũ lụt hằng năm.
- Công cuộc trị thủy của cộng đòng người
viêt ở lưu vực sông Đà,Sông Hồng thời
Hùng Vương..
BT2:Hãy nêu vai trò các yếu tố tưởng * Sự tích Hồ Gươm:cuộc k/c chống quân
tượng,kì ảo trong các truyền thuyết? Minh của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi
- HS chỉ ra được các yếu tố tưởng tượng,kì lãnh đạo.
ảo trong các truyền thuyết? BT2:Vai trò các yếu tố tưởng tượng,kì
ảo trong các truyền thuyết.
- Con Rồng cháu Tiên:niềm tự hào về
nguồn gốc cao quý,thiêng liêng của người
Việt.
- Bánh chưng,bánh giầy: tự hào về nguồn
gốc của bánh chưng,bánh giầy, đề cao
nghề nông,thể hiện sự bình đẳng,dân chủ..
- Thánh gióng: thể hiện quan niệm về
người anh hùng:vì đất nước không màng
danh lợi.
- Bài học về tinh thần đoàn kết chống giặc
- Em có nhận xét gì về các cốt lõi sự thật ngoại xâm.
l/sử trong các văn bản trên? Qua đay em - Sơn Tinh,Thủy Tinh:khát vọng trị thủy.
hiểu được quy luật gì của truyền thuyết? - Sự tích Hồ Gươm:ca ngợi cuộc chiến
tranh chính nghĩa,thể hiện tình yêu,khát
vọng hòa bình của dân tộc..
BT3: Em có nhận xét gì về các cốt lõi sự
thật l/sử trong các văn bản trên? Qua
đay em hiểu được quy luật gì của truyền
thuyết?
- -Cốt lõi l/s trong VB Sự tích Hồ Gươm rõ
nét hơn các văn bản khác.
- Văn hóa truyền miệng,càng xa xuuwa thì
yếu tố cốt lõi l/s càng mờ đi.
BT4:Tại sao nói truyền thuyết có cốt lõi
- Tại sao nói truyền thuyết có cốt lõi l/sử l/sử nhưng không phải là lịch sử?
nhưng không phải là lịch sử? - Vì truyền thuyết là giả sử,khi kể lại các
nhân vật,các sự kiện đẫ được nhân dân kì
diệu hóa bằng trí tưởng tượng, hư cấu...
4.Củng cố.
5.Dặn dò. Học sinh về nhà học bài và soạn bài.
IV.Rút kinh nghiệm
...............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.......................
********************************************************

Tuần 9: Ngày soạn: . /


Tiêt:11,12 Ngày soạn: /
TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN TỰ SỰ.

I.Mục tiêu:
1.Kiến thức.
- Giúp học sinh củng cố, mở rộng nội dung văn bản tự sự.
- Xác định được một văn bản tự sự, chủ đề, bố cục, sự việc chính của văn bản tự sự.
2.Kĩ năng.
Xác định văn bản tự sự.
3.Thái độ.
Giáo dục học sinh tình yêu gia đình, quê hương, đất nước.
II.Chuẩn bị.
1.Giáo viên: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
2.Học sinh: Học bài, soạn bài.
III.Phương pháp.
Thuyết trình, nêu vấn đề, đàm thoại.
IV. Tiến trình bài học.
1.Ổn định tổ chức.
2.Kiểm tra bài cũ.
3 Bài mới.

Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1:Văn bản. I.Văn bản.
- Gv: Trong cuộc sống chúng ta cần giao tiếp 1. Khái niệm.
với nhau. Giao tiếp là: hoạt động truyền đạt,
tiếp nhận tư tưởng, tình cảm bằng phương tiện - Văn bản: Là chuỗi lời nói miệng hay bài
ngôn ngữ. viết có chủ đề thống nhất, có liên kết,
? Em hãy nêu khái niệm văn bản là gì? Những mạch lạc, vận dụng phương thức biểu đạt
kiểu văn bản thường gặp ? Ví dụ ? phù hợp để thực hiện mục đích giao tiếp.
- Kiểu văn bản thường gặp: 6 kiểu
+Tự sự.
+Miêu tả.
+Biểu cảm.
+Nghị luận.
+Thuyết minh.
+Hành chính.
Gọi học sinh đọc bài, giáo viên nhận xét. 2.Bài tập Sgk.T18.
a, Tự sự. d, Biểu cảm.
b, Miêu tả. đ, Thuyết minh.
? Em hãy nêu khái niệm thế nào là tự sự ? c, Nghị luận.
* Hoạt động 2: Tìm hiểu chung về văn tự sự. II. Tìm hiểu chung về văn tự sự.
1.Khái niệm.
Tự sự (kể chuyện) là phương thức trình
bày một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn
đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một
kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
2. Bài tập Sgk.
? Bài thơ có phải là thơ tự sự không ? Vì sao? 2.Bài tập 2. Bài thơ tự sự kể chuyện Bé
-Hs kể lại câu chuyện bằng miệng. Mây rủ mèo con bẫy chuột, nhưng meo
tham ăn nên đã mắc vào bẫy của chính
mình.
* Hoạt động 3: Sự việc và nhân vật trong văn III.Sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
tự sự. Sự việc trong văn tự sự được trình bày
một cách cụ thể: sự việc xảy ra trong thời
gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể
? Sự việc trong văn tự sự được trình bày như thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết
thế nào ? quả,…Sự việc trong văn tự sự được sắp
xếp theo một trật tự, diễn biến sao cho thể
hiện được tư tưởng mà người kể muốn
biểu đạt.
2. Nhân vật trong văn tự sự.
? Nhân vật trong văn tự sự ? Nhân vật trong văn tự sự là kẻ thực
hiện các sự việc và là kẻ được thể hiện
trong văn bản. Nhân vật chính đóng vai
trò chủ yếu trong việc thể hiện tư tưởng
của văn bản. Nhân vật phụ chỉ giúp nhân
vật chính hoạt động. Nhân vật được thể
hiện qua các mặt: tên gọi, lai lịch, tính
nết, hành động, việc làm…
3.Bài tập.
* HS cần xác định. a.Bài tập 2 Sgk T39.
- Không vâng lời là hiện tượng phổ biến của Một lần không vâng lời.
trẻ em vì các em chưa hiểu hết ý nghĩa của lời
dạy bảo.
- Một lần không vâng lời là nhấn mạnh tới việc
không vâng lời gây hậu quả như trèo cây ngã
gẫy tay, bị công an tạm giữ, quay cóp bị điểm
kém, hút thuốc lá, ham chơi để em ngã, tắm
sông suýt chết.
- Chọn nhân vật, sự việc phù hợp, hiểu sự
tương quan chặt chẽ giữa sự việc và ý nghĩa.
- Hs viết và đọc trước lớp.
? Em hãy nêu nguyên nhân, diễn biến, kết quả,
ý nghĩa trong văn bản Thánh Gióng ? b.Bài tập 1.
* Sự việc.
- Thời gian, địa điểm: Thời Hùng Vương thứ 6.
Tại Làng Gióng.
- Nguyên nhân: Giặc Ân đến xâm phạm nước
ta.
- Diến biến:
+ Sự ra đời và lớn lên kì lạ của Gióng.
+ Giặc Ân đến xâm phạm, vua tìm người tài
giúp nước.
+ Gióng yêu cầu nhà vua chuẩn bị vũ khí để đi
đánh giặc.
+ Gióng lớn nhanh như thổi, trở thành tráng sĩ.
- Kết quả:
Gióng đánh tan giặc, cởi bỏ giáp sắt và bay
thẳng về trời.
- Ý nghĩa.
+Hình tượng Thánh Gióng thể hiện ý thức bảo
vệ đất nước của dân tộc ta, khẳng định sức
mạnh tổng hợp của dân tộc .
+Thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân ta
ngay từ buổi đầu lịch sử về người anh hùng
cứu nước chống ngoại xâm.

* Hoạt động 4: Chủ đề của văn tự sự. IV. Chủ đề của bài văn tự sự.
? Chủ đề của văn tự sự là gì ? Bố cục bài văn 1.Chủ đề.
tự sự ? Chủ đề là vấn đề chính mà người viết
muốn đặt ra trong văn bản.
* Bài văn tự sự gồm 3 phần:
- Mở bài: giới thiệu chung về nhân vật và
sự việc
- Thân bài: Diễn biến của sự việc, câu
chuyện.
Gv : Gọi học sinh đọc và làm bài tập trong - Kết bài: Kể lại kết thúc của truyện
Sgk. 2.Bài tập Sgk T46.
1.Bài tập 1.
a.Chủ đề truyện: Ca ngợi trí thông minh
của người nông dân, chế giễu tính tham
lam, cậy quyền thế của viên quan.
- Chủ đề truyện không nằm trong bất kỳ
câu văn nào mà nó toát lên từ nội dung
câu chuyện.
- Sự việc thể hiện tập trung chủ đề: Câu
nói của người nông dân với vua.
b. Ba phần của truyện:
- Mở bài: Câu đầu.
- Thân bài: Các câu tiếp theo.
- Kết bài: Câu cuối.
c.So sánh.
- Giống nhau: Đều có một nhân vật.
-Khác nhau:
Truyện Tuệ Tĩnh. Truyện Phần
thưởng.
+ Mở bài: Nói rõ + Chỉ giới thiệu
ngay chủ đề. tình huống.
+ Kết bài: Thầy + Kết bài: Viên
thuốc lại bắt đầu quan bị đuổi ra,
một cuộc chữa người nông dân
bệnh mới. được thưởng.
d. Sự việc ở phần thân bài thú vị ở chỗ:
- Đòi hỏi vô lý của viên quan quen thói
hạch sách.
- Sự đồng ý dễ dàng của người nông dân.
- Câu trả lời của người nông dân với vua
thật bất ngờ, thể hiện trí thông minh, khéo
léo mượn tay nhà vua trừng phạt tên thích
nhũng nhiễu dân.
2.Bài tập 2. Viết phần mở bài truyện Sơn
Tinh Thủy Tinh.
4.Củng cố.
5.Dặn dò.
Học sinh về nhà học bài và soạn bài
******************************************************

Tuần 12. Ngày soạn:


Tiết 17,18.Ngày dạy:
DANH TỪ & CỤM DANH TỪ
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố lí thuyết về danh từ, cụm danh từ.
- Cách xác đinh danh từ, cụm danh từ.
2. Kĩ năng.
Sử dụng từ để tạo lập văn bản
3. Thái độ.
Sử dụng danh từ, cụm danh từ đúng hoàn cảnh giao tiếp.
II. Chuẩn bị.
1. Giáo viên: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
2. Học sinh: Soạn bài, học bài.
III. Phương pháp.
Thuyết trình, nêu vấn đề, thảo luận.
IV.Tiến trình dạy học.
1.Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới.
Hoạt động của GV & HS Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1: Danh từ. I. Danh từ.
? Em hãy nêu khái niệm danh từ? 1. Danh từ chỉ sự vật và danh từ chỉ đơn vị.
Chức vụ ngữ pháp của danh từ? a. Khái niệm.
- Biểu thị ý nghĩa chỉ người, vật, khái niệm, hiện
tượng...
- Danh từ thường kết hợp với những từ chỉ số lượng
đứng trước và chỉ từ đứng sau.
- Danh từ thường làm chủ ngữ trong câu.
Danh từ làm vị ngữ khi có từ “là” đứng trước.
- Danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự vật.
b. Bài tập
? Ví dụ về danh từ chỉ sự vật và * Bài tập 1.
danh từ chỉ đơn vị? Danh từ chỉ sự vật.
- Cài bàn - Ngôi nhà
- Tấm vải - Chiếc phản
- Hạt muối - Manh chiếu
- Dải lụa - Manh áo
- Giọt nước - Con ngựa
Danh từ chỉ đơn vị quy ước.
- Mảnh đất - Bát cơm
- Một mét đất - Một lít nước
- Đống vải - Vốc muối
Bài TN: Điền vào chỗ trống - Một mét vải - Một kg muối
- Con đường quê em mềm mại như * Bài tập 2: Tìm các danh từ chỉ đơn vị quy ước có
một …lụa. thể đi kèm các danh từ nước, sữa, dầu.
- Mẹ em biếu bà hàng xóm một...áo - lít, thùng, bát, cốc…(nước)
lụa. * Bài tập 3: Trong hai trường hợp sau, trường hợp
- ...bộ đội thường cho cháu quà và nào có thể điền danh từ tự nhiên vào chỗ trống? Tại
dẫn cháu đi chơi. sao?
- Quê em có...chùa cổ kính. a) Em rất quý ... mèo nhà em.
- Bạn Lan thường thong thả uống b) Tự bao giờ đến giờ…. Mèo cứ xơi chuột mãi nên
từng…nước. chuột mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi.
Đáp án.
a có thể điền loại từ.
b không hàm chỉ số lượng nên không có danh từ
đơn vị.
* Quy tắc viết hoa. 2. Danh từ chung và danh từ riêng.
- Viết hoa chữ cái đầu tên của mỗi a. Khái niệm.
tiếng tạo thành tên riêng: Kim - Danh từ chung: Chỉ chung người và sự vật.Ví dụ:
Đồng, Đà Lạt, Vũng Tàu, … Vua, quan, thần, dân...
- Tên người, tên đất nước ngoài: -Danh từ riêng: là tên riêng của của từng người,
+ Tên người( TQ) : Viết hao tất cả từng vật, từng địa phương. Chu Văn An, Lê Quý
các chữ cái đầu tiên của mỗi tiếng Đôn...
như tên Việt Nam. Ví dụ: Mao * Quy tắc viết hoa.
Trạch Đông...
+ Tên người và địa lí nước ngoài
( Ấn – Âu): Chỉ viết hoa chữ cái
đầu tiên của tiếng thứ 1. Ví dụ:
Vích-to Huy-gô, Mat-xcơ-va,…
- Tên riêng của các cơ quan, tổ b. Bài tập.
chức, các danh hiệu, giải thưởng. * : Cho các tên cơ quan, tổ chức sau
Chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo - Phòng giáo dục và đào tạo quận Long Biên
thành cụm từ này đều được viết - Nhà xuất bản quân đội nhân dân
hoa. - Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
- Trường trung học cơ sở Ái Mộ.
Hãy viết hoa tên các cơ quan tổ chức đó theo đúng
quy tắc đã học.

* Hoạt động 2. Cụm danh từ. II. Cụm danh từ.


? Em hãy nêu khái niệm cụm danh 1. Khái niệm.
từ ? a. Là loại tổ hợp từ do danh từ và một số từ ngữ phụ
Cấu tạo cụm danh từ gồm có mấy thuộc nó tạo thành.
phần ? VD: Những con gà mái hoa mơ// đang ăn thóc
Cụm DT
b. Cấu tạo cụm danh từ.
Phụ trước Trung tâm Phụ sau
T2 T1 T1 T2 S1 S2
Lượng Lượng D đơn D sự Đặc Vị trí
từ chỉ từ chỉ vị vật điểm
toàn số
thể lượng
Tất cả Những Em Học Chăm ấy
sinh ngoan
VD.- Phụ ngữ chỉ toàn thể; tất cả, hết thảy, toàn bộ,
* Bài tập VD. toàn thể, cả…
- Xác định cụm danh từ, từ tục - Phụ nữ chỉ số lượng: mọi, các, từng, những, mỗi,
truyền đời Hùng Vương thứ 6… cứ hai, ba, bốn, bảy.
đặt đâu thì nằm đấy (Thánh Gióng). c. Đặc điểm ý nghĩa và cách dùng.
- Điền cụm danh từ vào bảng cấu - Nghĩa cụm danh từ đầy đủ hơn danh từ.
tạo. - Chức vụ NP: Làm CN, làm phụ ngữ, làm VN có
(Hs điền). "là".
* Bài tập VD: Cho các danh từ mùa
hè, hoa phượng, học sinh.
a) Tạo thành các cụm danh từ.
b) Đặt câu có sử dụng các cụm
danh từ đó.
c) Viết đoạn có sử dụng các cụm
đó. 2.Bài tập.
a. Bài tập 1: (Trang 118) Các cụm danh từ.
*Viết đoạn văn: Nắng tháng 6 chói a) Một người chồng thật xứng đáng.
chang , tiếng ve kêu oi ả. Mùa hè b) Một lưỡi búa của cha để lại.
đã về. Cây phượng già góc trường c) Một con yêu tinh ở trên núi.
điểm những cánh hoa màu đỏ. Vài b. Bài tập 2: (Trang 118). Điền các phụ ngữ.
hôm, sân trường đã rực màu - Chàng vứt luôn thanh sắt ấy
phượng thắm. Nhanh thật! Thế mà - Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi.
đã hè rồi! Mùa hè về, học sinh - Lần thứ ba, vẫn thanh sắt cũ.
được nghỉ hè. Các bạn em có
dường như đã chuẩn bị cho mình
những tua du lịch hay nghỉ mát tại
Đà Nẵng hay Đà Lạt. Em thì - Hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng
khác.Về thăm quê nội, đó là phần là phúc đức.
thưởng mà ba mẹ hứa sẽ cho em - Hai ông bà ao ước.
nếu em đạt học sinh giỏi. Em háo - Một đứa con.
hức chờ tới ngày xe lăn bánh về - Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân.
quê. Thật tuyêt! Về quê,thăm ông - Một cậu bé mặt mũi khôi ngô.
bà nội, được ông kể cho em bao - Hai vợ chồng mừng lắm.
nhiêu là câu chuyện hay, ông dạy
em trồng hoa, bà chỉ em cách làm
bánh lá, ăn vừa dẻo vừa thơm.
Chiều tới em chơi cùng mấy đứa
bạn thủa nhỏ rủ đi chơi bao nhiêu - Một mùa hè ý nghĩa.
là trò; nào thả diều, đá bóng, tắm - Màu hoa phượng thắm.
sông.. thật thú vị.Về thăm quê nội, - Học sinh được nghỉ hè học.
em đã có một mùa hè đáng nhớ ! * Đặt câu:
- Về thăm quê nội, em đã có một mùa hè đáng nhớ.
- Sân trường, rực màu phượng thắm
- Mùa hè đến, học sinh được nghỉ hè.

4. Củng cố.
5. Dặn dò.
Học sinh về nhà học bài và soạn bài.
V. Rút kinh nghiệm.
*************************************************

Tuần: 25 Ngày soạn:


Tiết: 39,40 Ngày dạy:

ÔN TẬP VĂN MIÊU TẢ( TIẾP)

I. Mục tiêu.
1. Kiến thức:
- Nắm chắc cách tả cảnh, tả người.
2. Kĩ năng.
- Luyện tập kĩ năng quan sát và lựa chọn, kĩ năng trình bày những điều quan sát, lựa chọn
theo một thứ tự hợp lí.
3. Thái độ:
- Có ý thức quan sát ghi chép những chi tiết cần thiết khi làm văn tả cảnh, tả người.
II. Chuẩn bị:
1 Giáo viên: Nghiên cứu tài liệu, soạn bài.
2. Học sinh: Ôn tập kiến thức về phương pháp tả cảnh, tả người.
III. Phương pháp.
Thuyết trình, bình giảng nêu vấn đề.
IV. Tiến trình dạy học.
1. Ôn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới.
Hoạt động của GV&HS Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1. Lí thuyết. I. Hệ thống kiến thức cơ bản:
1. Phương pháp tả cảnh.
? Muốn miêu tả cảnh chính xác ta - Muốn tả cảnh cần:
phải làm gì + Xác định đối tượng cần tả.
+ Quan sát lựa chọn chi tiết tiêu biểu + Trình bày
theo thứ tự
? Bố cục bài văn tả cảnh gồm mấy - Bố cục : 3 phần
phần. + Mở bài: giới thiệu cảnh được tả
? Nhiệm vụ từng phần là gì. + Thân bài: Tả chi tiết theo trình tự hợp lý
+ Kết bài: Phát biểu cảm tưởng về cảnh.
* Bài tập:
2. Phương pháp tả người.
? Muốn tả người ta phải làm gì. - Muốn tả người cần:
+ Xác định đối tượng cần tả.
+ Quan sát ,lựa chọn chi tiết tiêu biểu + Trình bày
theo thứ tự
? Bố cục bài văn tả người gồm mấy - Bố cục : 3 phần
phần. + Mở bài: giới thiệu người được tả.
? Nhiệm vụ từng phần là gì. + Thân bài: miêu tả chi tiết (ngoại hình cử chỉ hành
động,lời nói…)
+ Kết bài: Phát biểu cảm tưởng về người được tả.
* Hoạt động 2.Luyện tập II. Luyện tập.
1. Bài tập 1: Tả quang cảnh sân trường giờ ra chơi.
? Nếu tả quang cảnh giờ ra chơi thì - Trống hết tiết 2, báo giờ ra chơi đã đến.
em sẽ quan sát lựa chọn những hình - HS từ các lớp ùa ra sân
ảnh cụ thể, tiêu biểu nào. - Cảnh học sinh chơi đùa
- Các trò chơi quen thuộc
- Góc trái sân, góc phải, ở giữa sân…
- Trống vào lớp
- Cảm xúc khi vào lớp.
? Hãy lựa chọn một cảnh của sân
trường giờ ra chơi ấy để viết thành
một đoạn văn miêu tả.
- Học sinh viết đoạn văn trình bày
trước lớp.
- Nhận xét bổ xung
? Lựa chọn đáp án phù hợp.
2. Bài tập 2: Chi tiết nào không cần thiết đưa vào
dàn ý tả một cây hoa trong dịp tết đến, xuân về.
A. Giới thiệu cây hoa mà em định tả
B. Cây đó được em quan sát ở đâu
C. Giải thích kỹ về nguồn gốc của cây hoa đó
D. Lần lượt tả vẻ đẹp của cây hoa theo thứ tự
Đ. Nêu nhận xét và suy nghĩ về vẻ đẹp của cây hoa.
? Hãy nêu các chi tiết tiêu biểu mà 3. Bài tập 3: Tả em bé.
em sẽ lựa chọn khi miêu tả một em - Khuôn mặt: Tròn xoe, bụ bẫm.
bé chừng 4-5 tuổi. - Cái miệng : cười toe toét, răng sún
- Tóc lơ thơ
- Môi đỏ chon chót
- Hai bàn tay: mũm mĩm
- Giọng nói: ngọng, chưa sõi.

4. Củng cố.
5. Dặn dò.
Học sinh về nhà học bài và soạn bài.
V. Rút kinh nghiệm.

***************************************************

QUÝ THẦY CÔ CẦN BỘ ĐỀ, TÀI LIỆU ÔN HSG NGỮ VĂN 6789 DẠY 9, ÔN
VÀO 10 VUI LÒNG LIÊN HỆ VỚI MÌNH NHÉ QUA SĐT: 0988 126 458.
(TH cô vui lòng kết nối zalo hoặc nhắn messenger dùm em nhé. Trân trọng)

Th cô nhắn qua gmail khó liên hệ a.Xin chân thành cảm ơn!

Mời qúy thầy cô tham gia vào nhóm: Tài liệu ôn thi hsg ngữ văn 6.7.8.9 để tải bài
cho tiện nhé

BỘ VĂN 7: 97 ĐỀ 360Trang, Tặng tài liệu ôn, giáo án 5 HĐ,dạy thêm, phụ đạo, đề
đọc hiểu.

PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI KẾT BÀI HAY

(ÔN THI HỌC SINH GIỎI)


Có nhiều yếu tố để làm nên một bài văn hay, và người ta thường chú trọng phần nội
dung (thân bài) mà quên đi rằng mở bài và kết bài cũng quan trọng không kém. Mở bài
đánh dấu bước khởi đầu trong quá trình trình bày vấn đề nghị luận, và kết bài cho ta
biết việc trình bày vấn đề đã kết thúc để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Để viết
được một mở bài và kết bài hay, lôi cuốn cũng là một kĩ năng rất quan trọng.
I. PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI

1. Tầm quan trọng của một mở bài hay:

Nhà văn M.Gorki đã từng nói: “Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng
như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất
lâu”. Thật vậy, nhiều bạn trẻ thường gặp khó khăn trong việc mở đầu bài văn của mình.
Một mở đầu hay sẽ giúp các bạn có thêm cảm hứng cho bài viết của mình, giúp bài viết
được trôi chảy hơn. Mở bài hay còn tạo ấn tượng cho giám khảo. Và người đọc thấy
được sự thích thú khi cảm nhận bài văn ngay từ phần mở đầu thì có thể khẳng định
được chất lượng bài văn đạt giá trị cao. Một bài văn cần nhiều kỹ năng và mở bài là
một kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định đúng hướng và đi sâu vào vấn
đề cần thể hiện.
2. Các yếu tố của một mở bài hay:

Để có một mở bài hay cho một bài viết không hề dễ dàng, hay ở đây không chỉ là nội
dung thể hiện đủ đúng ý mà mở bài hay còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn từ
viết hay, ngôn ngữ của mỗi người là khác nhau vì cách cảm nhận văn học trong mỗi
người là khác nhau nên trau dồi về kiến thức văn học cũng quan trọng. Có hai nguyên
tắc để viết mở bài hay: thứ nhất là nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài hay còn gọi là
làm “trúng đề”; thứ hai là chỉ được phép nêu những ý khái quát về vấn đề hay là tóm tắt
nội dung thể hiện trong bài viết một cách súc tích nhưng vẫn thể hiện ý rõ diễn đạt.

Một mở bài hay cần có các yếu tố:

-  Ngắn gọn: ở đây được hiểu mở bài hay ngắn gọn là ngắn về số lượng câu và nội dung
thể hiện, số lượng câu chỉ cần khoảng 4 - 6 câu, nội dung chỉ cần sự tóm tắt ngắn gọn.
Phần mở bài quá dài dòng không những khiến bạn mất thời gian mà còn khiến bạn bị
cạn kiệt ý tưởng cho phần thân bài, đôi khi mở bài dài quá khiến sai lệch ý trong cách
thể hiện. Hãy viết mở bài là sự tóm tắt, khơi nguồn nội dung ít để người đọc cảm nhận
được sự tò mò và đi chinh phục nội dung tiếp theo ở phần thân bài

-  Đầy đủ: Một mở bài hay đầy đủ là phải nêu được vấn đề nghị luận, câu nói dẫn dắt,
ngắn nhưng đầy đủ ý mới quan trọng, vấn đề chính cũng như nội dung quan trọng bắt
buộc phải nhắc đến phần mở bài.

-  Độc đáo: Độc đáo trong một mở bài hay là gây được sự chú ý cho người đọc về vấn
đề cần viết bằng những liên tưởng khác lạ, tưởng tượng phong phú trong các bài văn
miêu tả, kể tạo sự thu hút bất ngờ cho người đọc. Sự độc đáo trong mở bài khiến bài
viết của các bạn trở nên nổi bật và nhận được sự chú ý và theo dõi của mọi người về
chất lượng bài văn.

- Tự nhiên: Dùng ngôn từ giản dị, mộc mạc trong cách viết bài, đặc biệt thể hiện ở phần
mở bài là cần thiết để có một mở bài hay.

Phần mở bài có ảnh hưởng đến cảm xúc, tâm  lý người chấm nên sự đầu tư kỹ càng về
kiến thức và kỹ năng cho phần mở bài để tránh lạc đề, sơ sài hay dài dòng, tuân thủ
những nguyên tắc hay những yếu tố cơ bản là cần thiết trong việc tạo một mở bài hay
và ý nghĩa.

3. Cách viết mở bài hay


Thông thường có hai cách mở bài:
a) Trực tiếp (cách này thường dành cho các bạn học sinh trung bình): Là cách đi
thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm hiểu đề và tìm được vấn đề
trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy
nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày cho đủ ý, không nói thiếu nhưng cũng
không nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ các yêu cầu của một phần mở bài đúng
mực trong nhà trường. Đặt vấn đề theo cách trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ
tiếp nhận, tuy nhiên thường khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết.

Nếu đề bài yêu cầu nghị luận về tác phẩm thì mở bài phải giới thiệu được tên tác giả,
phong cách thơ tác giả, tên tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, trích dẫn khổ thơ, hoặc giới
thiệu vấn đề nghị luận.

b) Gián tiếp (dành cho các bạn khá – giỏi): Với cách này người viết phải dẫn dắt vào
đề bằng cách nêu lên những ý có liên quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây sự
chú ý cho người đọc sau đó mới bắt sang luận đề. Người viết xuất phát từ một ý kiến,
một câu chuyện, một đoạn thơ, đoạn văn, một phát ngôn của nhân vật nổi tiếng nào
đó,...
dẫn dắt người đọc đến vấn đề sẽ bàn luận trong bài viết. Mở bài theo cách này tạo được sự uyển
chuyển, linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc.

Các cách mở bài gián tiếp:

So sánh: So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện
giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Cách mở bài so sánh gây thích thú cho người đọc vì
nó chứng tỏ người viết có kiến thức văn học phong phú. Có nhiều cách làm phần mở bài
theo dạng so sánh. Tác phẩm thì có tác giả, đề tài, chủ đề, nội dung, cảm hứng, thể loại,
giai đoạn, giá trị, nhân vật… nên người viết có thể đối chiếu điểm giống nhau, khác nhau
hoặc vừa giống vừa khác của một trong các vấn đề đó.

Đi từ đề tài: Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một đề tài nào đó. Hiểu điều này,
cùng với kiến thức lí luận văn học “Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm”, người viết nghị luận văn học sẽ dễ dàng giới thiệu vấn đề một cách rành mạch.
Các nhà văn viết về mùa thu thì đề tài là mùa thu; viết về tình bạn, tình yêu, tình cảm gia
đình thì đó cũng là đề tài.

Đi từ giai đoạn: Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác
nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác
phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu “triết học gia” ham tìm
tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn.
Đi từ thể loại: Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể
loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải
mã nghệ thuật trong tác phẩm.

Trích dẫn một câu nói, một câu thơ hoặc từ một triết lí cuộc sống
II. PHƯƠNG PHÁP VIẾT KẾT BÀI

1. Tầm quan trọng của kết bài:

Kết bài trong văn nghị luận là một phần khá quan trọng bởi đây là phần sẽ tạo dư
âm cho bài viết. Nếu kết bài có sức nặng sẽ tạo nên những cảm xúc rất tốt cho
người đọc. Kết bài là phần kết thúc bài viết, vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề đã
được đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài, đồng thời mở ra hướng suy nghĩ mới, tình
cảm mới cho người đọc. Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở
mở bài và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho
bài văn.

2. Các yêu cầu viết kết bài hay:

Giống như phần mở bài, phần này chỉ nêu lên những ý khái quát, không trình bày lan
man, dài dòng hoặc lặp lại sự giảng giải, minh họa, nhận xét một cách chi tiết như ở
phần thân bài. Một kết bài thành công không chỉ là nhiệm vụ "gói lại" mà còn phải "mở
ra" - khơi lại suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Thâu tóm lại nội dung bài viết không có
nghĩa là nhắc lại, lặp lại mà phải dùng một hình thức khác để khái quát ngắn gọn; khơi
gợi suy nghĩ hay tạo dư ba trong lòng người đọc; là câu văn khi đã khép lại vẫn khiến
cho người đọc day dứt, trăn trở, hướng về nó.
3. Cách viết mở bài hay:

- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan
điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng
cao vấn đề.

CÁC CÁCH MỞ BÀI HIỆU QUẢ GV CẦN NẮM KHI ÔN HSG KHỐI
789, ÔN CHUYÊN.
1. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT

2. NGHỊ LUẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH, THƠ, VĂN XUÔI

3. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ SO SÁNH CÁC TÁC PHẨM


4. CÁCH MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
a.ĐỀ TÀI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, PHÁP.
b.MỞ BÀI VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN / NHỮNG CON NGƯỜI BẤT HẠNH
4.1. Mở bài bằng nhận định tác giả và quan niệm sáng tác
4.2. Mở bài bằng chủ đề hay hình tượng trung tâm
4.3.Bình luận mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Chứng minh bằng
một số tác phẩm.
4.4.ở bài nghị luận xuất phát từ lý luận văn học
4.5. Mở bài về thơ ca
4.6. Mở bài văn xuôi
5. Mở bài giới thiệu sự trường tồn của tác phầm trong lòng người đọc.
5.1. Đi từ tác phẩm/tác giả

5.2.Đi từ tác phẩm/tác giả


5.3.Đi từ một nhận định
5.4.Sử dụng châm ngôn, ca dao, tục ngữ để bắt đầu
5.5.Đi từ hoàn cảnh sáng tác
5.6. Đi từ chủ đề
5.7 .So sánh
6. Mở bài theo lối đồng điệu cùng chủ đề.
7.Mở bài thông thường

=> TẤT CẢ CÁC PHẦN NÀY ĐÃ CÓ MỘT BỘ CÁCH MỞ BÀI RIÊNG Ạ, GỦI
KHI THẦY CÔ LẤY TRỌN BỘ.

PHẦN 1: BỘ ĐỀ THAM KHẢO

ĐỀ 3
ĐỀ BÀI
Câu 1. (2,0 điểm)Xác định, phân tích giá trị các từ láy và biện pháp tu từ trong đoạn
văn sau:
        “Mưa xuân. Không phải mưa. Đó là sự bâng khuâng gieo hạt xuống mặt đất nồng
ấm, mặt đất lúc nào cũng phập phồng, như muốn thở dài vì bổi hổi, xốn xang… Hoa
xoan rắc nhớ nhung xuống cỏ non ướt đẫm. Đồi đất đỏ lấm tấm một thảm hoa trẩu
trắng”.                              (Vũ Tú Nam)
Câu 2. (8,0 điểm)
- Đem chia đồ chơi ra đi ! – Mẹ tôi ra lệnh.
Thủy mở to đôi mắt như người mất hồn, loạng choạng bám vào cánh tay tôi. Dìu em
vào trong nhà, tôi bảo:
- Không phải chia nữa. Anh cho em tất.
Tôi nhắc lại hai ba lần, Thủy mới giật mình nhìn xuống. Em buồn bã lắc đầu:
- Không, em không lấy. Em để hết lại cho anh.
(Cuộc chia tay của những con búp bê – Khánh Hoài, Ngữ văn 7, Tập I)
Đoạn trích cho em cảm nhận được điều gì? Hãy viết một bài văn ngắn trình bày
suy nghĩ của em về tình cảm gia đình.
Câu 3. (10 điểm)Ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người. Ca dao là tiếng tơ
đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng.
Dựa vào những hiểu biết của mình về ca dao em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

.............................................Hết.............................................

ĐÁP ÁN
Phần I. Hướng dẫn chung
- Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá đúng bài làm của
thí sinh. Tránh cách chấm đếm ý cho điểm.
- Khi vận dụng đáp án và thang điểm, giám khảo cần chủ động, linh hoạt với tinh thần
trân trọng bài làm của học sinh. Đặc biệt là những bài viết có cảm xúc, có ý kiến riêng
thể hiện sự độc lập, sáng tạo trong tư duy và trong cách thể hiện.
- Nếu có việc chi tiết hóa điểm các ý cần phải đảm bảo không sai lệnh với tổng điểm và
được thống nhất trong toàn hội đồng chấm thi.
- Điểm toàn bài là tổng điểm của các câu hỏi trong đề thi, chấm điểm lẻ đến 0,25 và
không làm tròn.
Phần II. Đáp án và thang điểm
Câu Nội dung Điểm
Câu 2,0
1.
(2,0 - Xác định được các từ láy và biện pháp tu từ có trong đoạn văn: 1,0
điểm) + Từ láy: bâng khuâng, phập phồng, bổi hổi, xốn xang, nhớ nhung,
lấm tấm.
+ Biện pháp tu từ: Nhân hóa (mưa xuân bâng khuâng gieo hạt; mặt
đất phập phồng, bổi hổi, xốn xang; hoa xoan nhớ nhung). So sánh (mặt 1,0
đất như muốn thở dài).
- Phân tích:
+ Mưa được cảm nhận như là sự bâng khuâng gieo hạt, những hạt
mưa xuân từ bầu trời xuống mặt đất một cách nhẹ nhàng, đem đến cho đất
trời một sự nồng ấm.
+ Mặt đất đón mưa được cảm nhận trong cái phập phồng, chờ đợi.
Có lẽ sự chờ đón đó rất lâu rồi nên mặt đất thở dài, xốn xang, bổi hổi.
+ Hoa xoan rụng được cảm nhận như cây đang rắc nhớ nhung.
 Các từ láy diễn tả về tâm trạng, cảm xúc con người kết hợp biện pháp
tu từ so sánh, nhân hóa để diễn tả cảnh vật, thiên nhiên đất trời lúc mưa
xuân: làn mưa xuân nhẹ, mỏng, đáng yêu, đem đến hơi thở, sự sống cho
thiên nhiên đất trời của mùa xuân. Mưa xuân được cảm nhận hết sức tinh
tế qua tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên của nhà văn Vũ Tú Nam.
Câu 8,0
2. a. Cảm nhận về đoạn trích 1,0
(8,0 - Nỗi đau buồn của hai anh em phải xa nhau khi gia đình đổ vỡ.
điểm) - Sự yêu thương, nhường nhịn, lo lắng, tình cảm thắm thiết, gắn bó của
Thành và Thủy.
b. Học sinh viết đoạn văn nghị luận về tình cảm gia đình
- Yêu cầu về mặt kỹ năng: Hình thức là một bài văn ngắn, diễn đạt rõ 7,0
ràng, linh hoạt, không mắc các lỗi câu, chính tả; có sự thống nhất chủ đề
trong toàn đoạn.
- Yêu về mặt kiến thức: Trên cơ sở nội dung đoạn trích trongvăn bản
"Cuộc chia tay của những con búp bê" học sinh cần làm rõ một số ý cơ
bản:
+ Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng, cao quý, được thể hiện một
cách phong phú, đa dạng trong cuộc sống.
+ Trong đời sống mỗi người, tình cảm gia đình có ý nghĩa quan trọng, đặc
biệt trong việc hình thành nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc…
+ Hiện nay, tình trạng hôn nhân đổ vỡ, tình cảm gia đình bị rạn nứt ngày
một nhiều dẫn đến những cuộc chia ly, gây tổn thương cho tâm hồn
những đứa trẻ và nhiều hệ lụy khác cho xã hội.
+ Mỗi người cần trân trọng, gìn giữ, xây dựng tình cảm gia đình bền
vững, vượt qua khó khăn, thử thách, không để xảy ra chia lìa, đổ vỡ…
Câu 10
3. (10 * Yêu cầu chung: Học sinh biết làm bài văn chứng minh gồm có ba phần
điểm) rõ ràng. Chú ý các dẫn chứng đưa ra cần có sự phân tích chứ không phải
là bài liệt kê dẫn chứng. Diễn đạt trong sáng, lưu loát và không mắc các
lỗi diễn đạt, chính tả.
* Yêu cầu cụ thể:
a. Mở bài
Giới thiệu về ca dao và dẫn dắt nhận định.
b. Thân bài 1,0
* Giải thích
- Người lao động xưa thường dùng ca dao để bộc lộ suy nghĩ, tình cảm
của mình. Ca dao là tiếng hái tâm tình của người lao động. Những cảm 1,5
xúc, suy nghĩ những tình cảm được biểu hiện trong ca dao có sự gắn bó
trực tiếp với những cảnh ngộ nhất định.
- Ca dao chủ yếu được sáng tác theo thể thơ lục bát là thể thơ truyền
thống của dân tộc mượt mà sâu lắng vì thế người nghệ sĩ dân gian đã 1,5
dùng ca dao để biểu lộ tình cảm, cảm xúc của mình.
- Ca dao đã diễn tả phong phú và tinh tế đời sống tâm hồn của người dân.
* Chứng minh
Luân điểm 1. Tình yêu quê hương đất nước. 1,0
LC1.+ Yêu những cánh đồng cò bay thẳng cánh, lúa tốt bời bời: 
“ Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, mênh mông bát ngát,  1,0
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, bát ngát mênh mông, 
Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.” 
LC2+ Yêu những món ăn dân dã, yêu những con người lao động cần cù vất
vả: 
1,0
“ Anh đi anh nhớ quê nhà 
Nhớ canh rau muống, nhớ cà rầm tương 
Nhớ ai dãi nắng dầm sương 
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” 
LC3+ Yêu những cánh cò trong lời ru của mẹ: 
“ Cái cò đi đón cơn mưa 
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về. 
Cò về thăm quán cùng quê 
Thăm cha, thăm mẹ cò về thăm anh.”  1,0
LC4- Yêu danh lam thắng cảnh
“ Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ 
Xem cầu Thê Húc, Xem chùa Ngọc Sơn 
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn 
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”  0,5
……………………………………
Luân điểm 2. Ca dao là tiếng hát chứa chan về tình cảm gia đình, bạn bè
+ Đó là tình cảm của con cháu với ông bà (Dẫn chứng). 0,5
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu 1,0
LC1.+ Tình cảm của con cái với bố mẹ (Dẫn chứng). 1,0
“Công cha như núi Thái Sơn 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra 
Một lòng thờ mẹ, kính cha 
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.” 
Ơn cha nặng lắm ai ơi, 
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.” 
LC2:+ Tình cảm anh chị em ruột thịt, trân trọng quý mến nhau (Dẫn
chứng).
“Anh em như chân, như tay 
Rách lành đùm bọc dơ hay đỡ đần” 
“ Anh em nào phải người xa 
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân. 
Yêu nhau như thể tay chân 
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.” 
“Khôn ngoan đá đáp người ngoài 
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.” 
Luân điểm 3. - Tình yêu lao động sản xuất.
Không khí làm ăn vui vẻ tấp nập trên cánh đồng:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
- Là tinh thần phản kháng xã hội bất công.
Ca dao là tiếng nói ngọt ngào yêu thương nhưng cũng là tiếng nói căm
hờn bởi những kẻ bóc lột.
Luân điểm 4: Tình yêu đôi lứa
Yêu và nhớ là hai trạng thái tình cảm song hành, nhớ là hệ quả của yêu,
là chất men để tình yêu thêm nồng thắm. Có điều nỗi nhớ trong ca dao cũng
được thể hiện rất đa dạng. 
+ Có khi bồn chồn, da diết: 
“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi 
Như đứng đống lửa như ngồi đống than” 
Có khi ngơ ngẩn thẫn thờ: 
“ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ 
Nhớ ai ai nhơ bây giờ nhớ ai?” 
+ Có khi nhẹ nhàng, sâu lắng: 
“ Đêm qua ra đứng bờ ao 
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. 
Buồn trông con nhện chăng tơ 
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai? 
Buồn trông chênh chếch sao mai 
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?” 
+ Có khi mượn nỗi nhớ để khẳng định một tình yêu chung thủy: 
“ Thuyền về có nhớ bến chăng? 
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.” 

- Trong xã hội cũ thân phận của người phụ nữ lại phải chịu nhiều đắng
cay. Tiếng nói phản kháng của họ có khi yếu ớt thể hiện qua nỗi than thân
đau đớn của mình (dẫn chứng).
…………………………..
c. Kết bài
Khẳng định giá trị to lớn của ca dao với đời sống tinh thần của nhân dân:
- Diễn tả đời sống tâm hồn của người bình dân xưa kia, ca dao là người
bạn thân thuộc đối với mỗi người dân.
- Ca dao mãi là dòng suối mát nuôi dưỡng tâm hồn của các thế hệ người
Việt Nam. Chúng ta học được nhiều bài học bổ ích về đạo làm con cháu,
tình nghĩa gia đình, tình làng nghĩa xóm, tình yêu quê hương xứ sở và
rộng hơn là đạo lý làm người.

***************************************************

ĐỀ :
ĐỀ BÀI
Phần I. Đọc – hiểu: (4 điểm)
MẸ VÀ QUẢ
Nguyễn Khoa Điềm
“…Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ vẫn chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn là một thứ quả non xanh?”
1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là gì? (1điểm)
2. Nêu nội dung của đoạn thơ. (1điểm)
3. Chỉ ra biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh được sử dụng trong bài thơ trên? Tác dụng của
các biện pháp đó? ( 2 điểm)
Phần II. Làm văn (16 điểm)
Câu 1: (6.0 điểm)
Đọc mẩu chuyện sau:
"Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào
thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là...
Người thầy giáo già hoảng hốt:
- Thưa ngài, ngài là...
- Thưa thầy, với thầy con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm
nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào..."
(Quà tặng cuộc sống)
Bằng một bài văn ngắn, hãy nêu suy nghĩ của em về những điều tác giả muốn gửi gắm
qua câu chuyện trên.
Câu 2: (10 điểm)
Đánh giá về ca dao, có ý kiến cho rằng:
“Ca ngợi tình cảm gia đình đằm thắm, tình yêu quê hương đất nước thiết tha là một
nội dung đặc sắc của ca dao”.
Qua các bài ca dao đã học và những hiểu biết của em về ca dao, hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên.
………....Hết………….
ĐÁP ÁN, BIỂU ĐIỂM

Câu Câu trả lời Điểm


PHẦN I
1 Biểu cảm. 1,0
2 Thể hiện lòng biết ơn của người con đối với mẹ. 1,0
3 - So sánh:Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống 1,0
- Ẩn dụ: Quả xanh non – sự dại dột chưa trưởng thành của người con.
- Tác dụng:
+Làm nổi bật công lao to lớn của mẹ, sự vun trồng bồi đắp để con là một
thứ quả ngọt ngào.
Giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa
quả thêm ngọt thơm. 1,0
+ Lay thức tâm hồn con người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn
sinh thành của mỗi con người chúng ta với mẹ...
PHẦN II
1. Về kĩ năng
- Viết đúng thể thức của một bài văn ngắn, đúng kiểu bài nghị luận xã hội.
1,0
- Bố cục 3 phần cân đối, lập luận chặt chẽ; luận điểm rõ ràng.
- Diễn đạt lưu loát; dẫn chứng xác thực; liên hệ mở rộng tốt.
- Trình bày sạch đẹp; ít sai lỗi câu, từ, chính tả.
2. Về kiến thức
Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách nhưng cần làm rõ được các yêu
cầu cơ bản sau:
+ Tóm tắt nội dung câu chuyện: 1,0
1. - Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa người học tò cũ và thầy giáo
già.
- Câu chuyện thể hiện thái độ kính trọng, biết ơn thầy giáo cũ của một
danh tướng.
+ Ý nghĩa câu chuyện 2,0
- Ca ngợi lòng biết ơn vô hạn của danh tướng với thầy giáo cũ.
Người học trò tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức
trọng (một vị danh tướng) nhưng vẫn luôn nhớ tới những người thầy đã
dạy dỗ, giáo dục mình nên người. Việc người học trò trở về thăm trường,
gặp thầy giáo cũ và có những cách ứng xử rất khiêm tốn và đúng mực, thể
hiện thái độ kính trọng và lòng biết ơn của người học trò đối với thầy giáo
mình. Ngay cả khi người thầy giáo già gọi vị tướng là ngài thì ông vẫn
không hề thay đổi cách xưng hô (con – thầy).
- Đem đến lời nhắc nhở với những kẻ vong ân bội nghĩa trong xã hội.
+ Bài học cho bản thân về lòng biết ơn. 2,0
- Cần biết ơn và quí trọng thầy cô trong bất cứ hoàn cảnh nào. Dù sau này
trở thành người tài giỏi, địa vị cao sang cũng luôn nhớ và kính trọng thầy
cô giáo, những người đã dạy dỗ em nên người.
- Biết ơn thầy cô không phải đem quà cáp tặng thầy cô mà chỉ cần những
cử chỉ lời nói lễ phép, kính trọng. Đó là món quà quí giá nhất.

Giám khảo cân nhắc các mức thang điểm trên cho điểm phù hợp.

2. 1) Yêu cầu:
a, Về hình thức: Học sinh hiểu đúng yêu cầu của đề bài, biết cách làm bài
văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí, diễn đạt tốt, trôi
chảy, có cảm xúc.
b, Về nội dung:
Học sinh trình bày trên cơ sở hiểu biết về ý nghĩa của ca dao, làm nổi bật
được: “Tình cảm gia đình đằm thắm, tình yêu quê hương đất nước” trong
ca dao.
A. Mở bài : Dẫn dắt vấn đề - Trích dẫn ý kiến. 1,0

B. Thân bài :
* Giải thích:
2,0
Nước ta có một nền văn hóa nước lâu đời. Cuộc sống của nhân dân luôn
gắn liền với làng quê, cây đa, bến nước, con đò và đồng quê thẳng cánh cò
bay. Từ khi cất tiếng khóc chào đời người nông dân xưa đã gắn bó với
làng quê và với họ ca dao là những câu hát dân gian phản ánh tâm tư, tình
cảm trong đời sống , trong lao động, là “ bài ca sinh ra từ trái tim.” Qua ca
dao, họ gửi trọn tình yêu cho những người thân ruột thịt của mình, cho
ruộng đồng, lũy tre, cho quê hương, đất nước.
Luận điểm 1: Trước hết ca dao là hát yêu thương về tình cảm gia đình. 5,0
* Tình cảm của con cháu đối với ông bà tổ tiên.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Hành động ngó lên bày tỏ sự tôn kính, ngưỡng vọng khi nhớ về ông bà, tổ
tiên. Tác giả dân gian đã sử dụng thủ pháp so sánh rất quen thuộc trong ca
dao:so sánh “nuộc lạt” một sự vật bình thường, gần gũi, gắn với nếp nhà xưa,
với ngôi nhà kỉ niệm của bao đời, với hình ảnh của ông bà, làm cho nỗi nhíơ
ông bà da diết, trĩu nặng, không một phút nào nguôi, đồng thời cho thấy lòng
biết ơn sâu nặng đối với ông bà tổ tiên. Bài ca dao thay cho lời tưởng niệm tổ
tiên của những người con, người cháu hiếu thảo đối với ông bà, nguồn cội
của mình...
* Tình mẫu tử sâu nặng, tình cha con thắm thiết
“ Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.”
Bài ca dao là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon lành, đồng
thời nhắc nhở công lao của cha mẹ và bổn phận làm con. Cái hay trong cách
nói: người mẹ so sánh với công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ với con
cao như núi ngất trời, rộng như nước biển Đông. Công cha, nghĩa mẹ vốn là
những khái niệm trừu tượng được so sánh với những sự vật cụ thể: núi cao,
biển rộng. Những sự vật này biểu tượng cho sự to lớn, cao rộng, vĩnh hằng
của thiên nhiên. Chỉ có những hình ảnh to lớn, cao rộng, không cùng, vĩnh
hằng ấy mới diễn được công ơn sinh thành nuối nấng của cha mẹ. Núi cao
biển rộng không thể đo được cũng như công lao cha mẹ đối với con cái
không thể nào tính được, đo đếm được. Cách dùng thành ngữ “ cù lao chín
chữ ” kín đáo nói về bao hi sinh gian nan, vất vả, để nuôi con khôn lớn của
cha mẹ càng nhấn mạnh hơn công lao sinh thành ấy. Bốn tiếng cuối cùng của
câu thơ như một lời gọi tha thiết nhắc nhở thái độ, hành động của con cái,
nhắc nhở bộn phận làm con. Bài ca dao ngắn gọn nhưng đã tạo nhiều liên
tưởng suy nghĩ trong lòng người đọc, đó là đạo lý tốt đẹp của nhân dân, dân
tộc Việt Nam.
- Liên hệ, mở rộng qua ngạn ngữ,lời bài hát...
* Tình cảm con cái với cha mẹ.
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Âm điệu câu ca dao cất lên nghe buồn da diết. - Cách mượn không gian,
thời gian: Mượn thời gian ban chiều để biểu đạt nỗi thương là một cách nói
thật hay. Chiều hôm là thời điểm sự đoàn tụ. Chim về rừng, thuyền về bến,
con trở về với mái ấm gia đình. Đó là thời khắc gợi bao buồn, nhớ thương
trong lòng người. Nhưng không phải là một chiều mà là “ chiều chiều”. Bằng
cách điệp từ “ chiều chiều” tác giả dân gian đã gợi lên trước mắt ta một thời
gian tiếp nối, triền miên, lê thê. Không phải là một chiều mà là nhiều chiều,
chiều nào cũng vậy. Càng làm cho nỗi nhớ tăng lên chất chứa trong lòng cô
gái. Ngõ sau là một không gian vắng vẻ, quạnh hiu, kín đáo ở làng quê Việt
xưa, là nơi ít người qua lại, rất hợp với tâm trạng cô đơn, buồn bã, không biết
chia sẻ cùng ai của người con gái đi lấy chỗng xa. Chính trong thời gian,
không gian ấy, người con gái trông về quê mẹ nghìn trùng xa vồi vợi với tâm
trạng đau đớn, tái tê như đứt từng khúc ruột. Đây là nỗi niềm chung của
những người con gái đi lấy chồng trong xã hội phong kiến.
* Tình cảm anh em gắn bó, chia sẻ ngọt bùi, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau
“Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Anh em như thể tay chân,
Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy,”
Hai câu đầu là một định nghĩa sâu sắc về tình anh em. Điệp từ “cùng” kết
hợp với các từ ngữ “chung bác mẹ”, “một nhà” làm nổi bật sự gắn bó anh em.
Anh em là cùng một gia đình, cùng một người sinh ra, cùng hưởng sung
sướng, cùng chung hoạn nạn. Lời thơ nôm na, giản dị ấy đã khẳng định: Tình
cảm anh em là tình cảm ruột thiạt, thiêng liêng, gắn bó. Bài ca dao còn hay
bởi cách so sánh: “Anh em như thể tay chân”. Từ mối quan hệ tay chân,
người xưa giúp ta thấy được mối quan hệ máu thịt, không thể tách rời của
anh em. Đồng thời, nhắc nhở anh em phải hoà thuận, thương yêu nhau, hạnh
phúc cùng hưởng, đắng cay cùng chịu.
*Tình cảm vợ chồng cho dù đói nghèo vẫn thuỷ chung
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon
Tình cảm gia đình là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất, là cội
nguồn để hình thành nên những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp khác. Qua
những bài ca dao trên, ta phàn nào thấy được truyền thống đạo lí tốt đẹp của
dân tộc, thấy được nhân dân ta ân tình, ân nghĩa đến nhường nào.
Luận điểm 2: Ca dao không chỉ có tiếng hát yêu thương tình nghĩa của
người lao động trong quan hệ gia đình mà còn là tiếng hát ngợi ca quê
hương, đất nước tươi đẹp.
Từ cực Bắc đến đất Mũi Cà Mau - mảnh đât tận cùng của tổ quốc, đi tới đâu
ta cũng bắt gặp những danh lam thắng cảnh của đất nước. Những cảnh đẹp ấy
do thiên nhiên ban tặng và do con người tạo dựng nên. Những danh lam
thắng cảnh ấy đã soi bóng vào ca dao làm nên những vần thơ tuyệt đẹp.
* Vẻ đẹp cánh đồng quê no ấm, trù phú
“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai”
Bài ca dao là lời cô thôn nữ nói với mọi người về vẻ đẹp của cánh đồng
quê trong buổi nắng mai, diễn tả niềm vui, tâm trạng vui tươi, yêu đời, tự
hào, sung sướng, tràn đấy sức sống của mình khi đứng trước cánh đồng quê
ấy. Hai câu đầu sử dụng thể thơ lục bát biến thể, cấu trúc câu dài kết hợp với
điệp từ “bát ngát, mênh mông” và đảo ngữ nhằm đưa lại cho ta cảm nhận sự
rộng lớn khôn cùng, bao la, bát ngát, xanh ngắt một màu, trù phú của những
cánh đồng quê. Những cánh đồng ở đây chỉ rộng lớn mà còn xa, dài, tít tắp
đến tận chân trời. Những cánh đồng ấy rất đẹp, rất nên thơ và đầy sức sống.
Câu thơ không tả màu xanh, những ta vẫn hình dung một màu xanh tươi của
lúa, ngô, khoai, sắn … trải dài tít tắp dưới sự chăm sóc, vun xới của con
người. Nổi bật trên bức tranh đồng quê ấy là hình ảnh cô thôn nữ. Cách dùng
từ “thân em” ở đây thật độc đáo, không gợi sự tủi hờn, đắng cay, xót xa trăm
bề của người phụ nữ như trong các bài ca dao khác mà “thân em” lại được cất
lên như tiếng reo vui, tự hào, kiêu hãnh. “Thân em” được so sánh với cây lúa
đang độ làm đòng tươi non, mơn mởn, căng đầy sức sống, căng tràn nhựa
sống, đang độ sung sức nhất, hứa hẹn một mùa bội thu. Cách so sánh này làm
nổi bật hình ảnh cô thôn nữ duyên dáng, xinh tươi, khoe khoắn, sức sống tươi
trẻ dào dạt tuôn trào. Hình ảnh cô thôn nữ đã tạ nên cái hồn cho bức tranh,
làm cho bức tranh trở nên sống động, hài hòa. Hình ảnh này còn muốn khắc
đậm vẻ đẹp người phụ nữ làm chủ ruộng đồng, làm chủ cuộc đời. Rõ ràng,
bức tranh đã điểm tô cho vẻ đẹp thanh bình của quê hương, đất nước.
- Đường vô xứ nghệ quoanh quoanh
Non xanh nước biếc....
* Vẻ đẹp những địa danh
“- ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
… ”
Bài ca dao là lời của chàng trai, cô gái hát về miền quê bắc bộ. Chàng trai
hỏi về những địa danh Bắc Bộ nổi tiếng về địa lí, lịch sử, văn hoá. Với những
địa danh ấy, chàng chọn những nét tiêu biểu nhất. Điều đó cho thấy, chàng
rất hiểu về địa lí, lịch sử, văn hoá miền quê ấy. Phải có tình yêu tha thiết với
quê hương thì mới có thể nói về nó một cách đầy tinh tế như vậy. Lời đối đáp
của cô gái cũng đầy thông minh, sắc sảo, chất chứa niềm tự hào về những địa
danh được nhắc đến. Vẻ đẹp của miền quê Bắc Bộ là vẻ đẹp về thành quách,
đền đài, núi sông: sông Lục Đầu gắn với chiến thắng của Trần Hưng Đạo, Hà
Nội nổi tiếng với Năm Cửa Ô … Bài ca dao cho thấy non sông, đất nước tươi
đẹp gắn liền với bao kì tích, với những trang huyền thoại tuyệt đẹp, gợi bao
niềm yêu mến, gắnbó và kiêu hãnh, tự hà
Ca bài ca dao trên đều ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước với những
đặc điểm lịch sử, văn hoá nổi bật của những vùng đất miền quê. Qua đó, bày
tỏ niềm tự hào, yêu mến, gắn bó đối với những vùng đất, miền quê tươi đẹp
ấy. Đó là nghĩa nặng tình sâu của người lao động đối với quê hương, đất
nước. Tình yêu quê hương đất nước là tình cảm thiêng liêng trong trái tim
mỗi người, là nguồn cảm hứng vô tận, là đề tài không bao giờ cũ.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại nhận định trên là đúng đắn, sâu sắc
- Mở rộng liên hệ, khẳng định sức sống của những bài ca dao nói về tình cảm
gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.
* Đánh giá: Tình cảm gia đình đằm thắm và tình yêu quê hương đất nước 1,0
được nhân dân ta thể hiện trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Nó được
thể hiện ở nhiều phương diên, nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Đọc ca
dao ta không chỉ hiểu, yêu mến, tự hào về phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc mình, về cảnh đẹp làng quê, non sông đất nước mình mà còn cảm
phục, trân trọng tình nghĩa sâu nặng, cao đẹp của người dân lao động.
C. Kết bài : 1,0
- Khẳng định ý nghĩa của ca dao .
- Liên hệ cảm nghĩ bản thân .

Đề 12
ĐỀ BÀI.
Câu 1 (5 điểm)
Đọc các đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi cho bên dưới:
"Sáng nay dậy sớm, tôi khẽ mở cửa rón rén đi ra vườn, ngồi xuống gốc cây hồng
xiêm. Chợt thấy động phía sau, tôi quay lại: em tôi đã theo ra từ lúc nào. Em lặng lẽ
đặt tay lên vai tôi. Tôi kéo em ngồi xuống và khẽ vuốt lên mái tóc.           
Chúng tôi cứ ngồi im như vậy. Đằng đông trời hửng dần. Những bông hoa thược
dược đã thoáng hiện trong màn sương sớm và bắt đầu khoe bộ cánh rực rỡ của mình.
Lũ chim sâu nhảy nhót trên cành và chiêm chiếp kêu. Ngoài đường, tiếng xe máy, tiếng
ô tô và tiếng nói chuyện của những người đi chợ mỗi lúc một ríu ran. Cảnh vật vẫn cứ
như hôm qua, hôm kia thôi mà sao tai họa giáng xuống đầu anh em tôi nặng nề thế
này.                          
(...) Tôi dắt em ra khỏi lớp. Nhiều thầy cô ngừng giảng bài, ái ngại nhìn theo
chúng tôi. Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng
vẫn vàng ươm bao trùm lên cảnh vật ".
(Cuộc chia tay của những con búp bê- Khánh Hoà Ngữ văn 7, Tập một, NXB Giáo dục,
2016)
a. "Chúng tôi" được nhắc đến trong đoạn là những nhân vật nào?
b. Trong đoạn văn nhân vật có nói: "tai họa giáng xuống đầu anh em tôi nặng nề thế
này", em hãy cho biết nhân vật muốn nhắc đến điều gì?                 
c. Em hãy phân tích đoạn văn để thấy được: Đoạn văn đã khắc họa rất thành công nội
tâm nhân vật thông qua việc miêu tả ngoại cảnh.
d. Cuộc chia tay đau đớn và đầy cảm động của hai em bé trong truyện khiến người đọc
thấm thía rằng: “Được sống trong tình yêu thương của gia đình là niềm hạnh phúc của
trẻ thơ”. Hãy nêu suy nghĩ của em về quan niệm trên bằng một đoạn văn ngắn.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng: "Thơ ca là tiếng nói của trái tim", qua hai tác phẩm “
Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến và “ Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh em hãy
làm sáng tỏ nhận định trên.
---------------------Hết-------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM

A. YÊU CẦU CHUNG


- Giám khảo nắm chắc phương pháp và nội dung làm bài của học sinh, tránh đếm ý
cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức độ điểm một
cacahs hợp lí, khuyến khích các bài viết sáng tạo, có cảm xúc.
- Học sinh làm bài theo nhiều cách riêng nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản
của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.
- Lưu ý: Điểm bài thi có thể cho lẻ đến 0,25 điểm và không làm tròn số.

B. YÊU CẦU CỤ THỂ


Câu Nội dung Điểm
1 a. 0.5
- Chúng tôi được nhắc đến trong đoạn văn là nhân vật Thành và Thủy
b. 0.5
- Nhân vật muốn nhắc đến cuộc chia tay của cha mẹ dẫn đến cuộc chia tay
của hai anh em Thành và Thủy.
c. ( 2.0 điểm)
- Tác giả sử dụng biện pháp miêu tả đối lập: Những bông hoa rực rỡ sắc 1.0
màu, lũ chim vui vẻ nhảy nhót… Đã làm nổi bật khung cảnh một buổi sớm
thanh bình, hiền hòa tươi đẹp. Ngoại cảnh tươi đẹp đối lập hoàn toàn với
cảnh ngộ đáng thương của hai anh em
- Bằng nghệ thuật miêu tả đối lập ấy, tác giả đã tô đậm nỗi đau buồn, cô
đơn, lạc lõng của hai anh em Thành và Thủy. 0.5
- Đó cũng là sự sẻ chia, đồng cảm của tác giả trước hoàn cảnh éo le của hai
anh em. 0.5
d. (2 điểm)
- Đảm bảo hình thức 1 đoạn văn ngắn. 0,25
- Giới thiệu được vấn đề: “Được sống trong tình yêu thương của gia đình là
niềm hạnh phúc của trẻ thơ”
- Giải thích: 0,5
+ Tình yêu thương gia đình là tình cảm thiêng liêng, giữa những người máu
mủ, ruột rà, trước hết nó chính là tình cảm của những người trong gia đình
dành cho nhau đó là: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em.
+ Hạnh phúc là trạng thái tâm lí vui vẻ, thanh thản khi đạt được hoặc thỏa
mãn điều mong muốn.
+ Niềm vui sướng, hạnh phúc của trẻ thơ chính là được sống trong tình yêu
thương của ông bà, cha mẹ và những người thân yêu trong gia đình.
- Khẳng định: Nhận định trên hoàn toàn đúng.
Bởi vì:
+ Tình yêu thương gia đình chính là nền tảng, là cái nôi nuôi dưỡng trẻ thơ 1,0
khôn lớn, trưởng thành.
+ Tình yêu thương gia đình đã nuôi dưỡng, chắp cánh cho những ước mơ
của trẻ thơ, tạo cho trẻ thơ có được niềm tin, sức mạnh trong cuộc sống.
+ Nếu con người sống không có tình cảm gia đình sẽ trở nên khô cằn, héo
úa và cũng mất đi một điểm tựa của cuộc đời mình. Nếu các em nhỏ từ nhỏ
không có tình yêu thương của gia đình thì nó sẽ trở thành một đứa trẻ cộc
cằn, không cảm nhận được tình cảm từ bố mẹ.
- Chúng ta cần phải nâng niu, trân trọng tình yêu thương của gia đình mà
chúng ta đang có. 0,25
Câu 2 1. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận chứng minh.
2. Xác định đúng vấn đề nghị luận
3. Giới thiệu được vấn đề nghị luận và xây dựng được hệ thống luận điểm, 4.5
phân tích, chứng minh làm sáng tỏ vấn đề nghị luận .
Có thể viết bài theo định hướng sau:
a. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu được vấn đề nghị luận. 0.25
b. Thân bài:
* Giải thích nhận định:
- Thơ ca là hình thức sáng tác nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu để diễn tả
những xúc cảm trào dâng nơi tâm hồn nhà thơ. 0.5
- Thơ ca là tiếng nói tiếng nói của trái tim có nghĩa là: Thơ ca thể hiện
những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc niềm vui buồn, tình yêu ghét... của con
người.
* Chứng minh:
Luận điểm 1: Thơ ca là tiếng nói của tình cảm gia đình, tình bà cháu 1.0
( Phân tích bài thơ “ Tiếng gà trưa):
- Tình bà cháu hiện lên qua dòng kí ức
-> Dòng cảm xúc từ hiện tại đã trôi về miền quá khứ với nỗi xúc động tràn
trề. Tiếng gà trưa đã gợi lên bao kỉ niệm thơ ấu được sống nơi làng xóm với
bà, trong tình yêu thương và bàn tay chăm sóc của bà.
-> Hình ảnh người bà hiện lên trong những kỉ niệm đẹp, gắn liền với đàn gà
cục ta cục tác.
-> Bà hiện lên với dáng vẻ tần tảo, vất vả, chắt chiu, dành dụm để cho cháu
được cuộc sống ấm no.
-  Tình cảm bà cháu gắn bó thiêng liêng trở thành nguồn sức mạnh tinh thần
cho cháu ( khổ cuối)
Luận điểm 2: Thơ ca là tiếng nói của tình cảm bạn bè ( Phân tích bài thơ 1.0
“ Bạn đến chơi nhà”).
- Cảm xúc khi bạn đến chơi nhà
-> Cách giới thiệu giản dị, gần gũi với đời sống:
-> Cách xưng hô: bác – một danh từ chỉ người, được dùng như đại từ, qua
đó thể hiện thái độ niềm nở, thân tình, quý trọng của tác giả đối với bạn.
-> Hai vế câu sóng đôi như một lời reo vui, đón khách, thể hiện sự xúc động
ngọt ngào. Qua đó, cho thấy mối quan hệ gần gũi, thân mật giữa chủ và
khách.
⇒ Câu nhập đề tự nhiên như một lời nói mộc mạc, như một tiếng reo vui,
thể hiện sự chân tình, niềm xúc động của tác giả khi bạn đến chơi nhà.
- Cách tiếp đãi bạn của tác giả
-> Tác giả đã tạo ra một tình huống, một hoàn cảnh rất đặc biệt khi bạn đến
chơi nhà...
->Tình huống được tạo ra có tính bông đùa, có sẵn nhưng hóa ra lại không
có gì, từ đó cho thấy hoàn cảnh éo le của tác giả. Vật chất không có, chỉ có
sự chân tình tiếp đãi bạn.
- Tình bạn thắm thiết của tác giả
-> Sử dụng từ nhiều nghĩa “ta”:
-> Sử dụng quan hệ từ “với” nối liền hai chữ ta, qua đó ta thấy giưa chủ và
khách dường như không còn khoảng cách, tuy hai mà một, gắn bó, hòa hợp,
vui vẻ, trọn vẹn.
-> Câu thơ đã đúc kết lại giá trị của toàn bài thơ, bộc lộ tình cảm sâu sắc của
nhà thơ đối với bạn, khẳng định một tình bạn đậm đà thắm thiết, trọn vẹn
mà trong sáng, vượt qua mọi thử thách tầm thường.
* Liên hệ mở rộng..
=> Bài thơ ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết, mộc mạc của tác giả.
Luận điểm 3: Thơ ca là tiếng nói của tình yêu quê hương, đất nước.
- Trong bài thơ “ Bạn đến chơi nhà”: Tác giả đã khắc họa lên hình ảnh làng
quê thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi....Ta cảm nhận được một tình
yêu quê hương tha thiết của nhà thơ. Đó là một trong những biểu hiện cụ thể
của tình yêu quê hương đất nước.
- Trong bài thơ “ Tiếng gà trưa”: Tình yêu gia đình gắn với người bà đã lớn
lên thành tình yêu quê hương, nơi có tiếng gà cục tác. Từ tình yêu quê
hương, nó lớn dần thành tình yêu tổ quốc, thành quyết tâm đứng lên bảo vệ
những điều bình dị mà thiêng liêng ấy trong tâm tưởng người cháu.
1.0
- Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua từng viết: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu
miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quyết tâm lên đường của người cháu
trong bài thơ “Tiếng gà trưa” cũng bắt nguồn từ những tình cảm giản dị ấy.
Ấy là tình bà cháu, bình dị nơi làng quê ngõ xóm nhưng thật thiêng liêng
bởi nó làm nên tình yêu Tổ quốc.
* Đánh giá khái quát:
- Quả đúng là thơ là tiếng nói của trái tim thể hiện tư tưởng, tình cảm, cảm
0.5
xúc của nhà thơ truyền đến trái tim người đọc.
- Hai tác giả sống ở hai thời đại khác, hai bài thơ được viết theo hai thể thơ
khác nhau nhưng đều đã thể hiện thật hay, thật xúc động về những tình cảm,
cảm xúc thiêng liêng của con người: tình cảm gia đình, tình bạn bè, tình yêu
quê hương đất nước...
- Ngoài hai bài thơ trên còn có nhiều bài thơ khác cũng thể hiện rất hay, rất
0.25
sâu sắc về tình cảm, cảm xúc của con người ( kể tên một vài bài thơ)
c. Kết bài:
- Khẳng định lại nhận định.
- Liên hệ đến tình cảm, cảm xúc của bản thân.
4. Sáng tạo:Cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ, đánh giá riêng , sự phát hiện 0.5
mới mẻ.

****************************************************
ĐỀ 31
ĐỀ BÀI

Câu 1. (4 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X.
(a)
thuộc phủ X. (b)
xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì
vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì
thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập
quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật là
thảm.
Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ,
nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút
xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi
với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này
hỏng mất.
(Trích Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn, Ngữ văn 7, tập
2)
1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
2. Xác định các từ láy trong đoạn trích.
3. Tìm trong đoạn trích các câu đặc biệt.
4. Qua đoạn trích, hình ảnh thiên nhiên và con người hiện lên như thế nào?
Chú thích: (a), (b) Nguyên văn in: XXX.
Câu 2. (6 điểm)
Tổ ấm gia đình là vô cùng quý giá và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng bảo vệ
và gìn giữ, không nên vì bất kì lí do gì làm tổn hại đến những tình cảm tự nhiên, trong
sáng ấy.
(Theo Ngữ văn 7, tập 1)
Từ ý kiến trên, hãy trình bày suy nghĩ về vai trò của tổ ấm gia đình với cuộc đời
mỗi con người.
Câu 3. (10 điểm)
Nhận xét về thơ có ý kiến cho rằng:
Thơ là tiếng lòng.
(Diệp Tiếp)
Em hãy làm rõ “tiếng lòng” của Bác qua hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng
giêng”.
--------------------------------HẾT-------------------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
CÂU NỘI DUNG ĐIỂM
ĐỌC HIỂU 4.0
1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: tự sự. 0.5
2. Các từ láy: tầm tã, bì bõm, lướt thướt, xao xác, cuồn cuộn 1.0
3. Các câu đặc biệt: 1.0
+ Gần một giờ đêm.
+ Than ôi!
CÂU 1 + Lo thay!
+ Nguy thay!
4. Hình ảnh thiên nhiên và con người hiện lên hết sức cụ thể: 1.5
- Mưa gió dữ dội, đê sắp vỡ.
- Những người dân hộ đê làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm.
Họ bì bõm dưới bùn lầy, dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên
nhiên một cách tuyệt vọng.
-> Cảnh tượng tương phản khiến tác giả lo lắng, thốt lên xót xa, đau đớn
trước tình thế tuyệt vọng của người dân lúc này.
CÂU 2 NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 6.0
A. YÊU CẦU VỀ KĨ NĂNG
- Đây là kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội.
- Học sinh biết cách lập luận, diễn đạt mạch lạc. Văn có cảm xúc
B. YÊU CẦU NỘI DUNG
Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách. Dưới đây là một số gợi ý định
hướng chấm bài:
I. MỞ BÀI 0.5
Giới thiệu vấn đề, trích dẫn ý kiến.
II. THÂN BÀI 5.0
1. Giải thích 1.0
- Giải thích “gia đình” là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, là
ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em... Ý kiến trên khẳng định vai trò quan
trọng của gia đình và khuyên nhủ mỗi người biết trân trọng tình cảm đó.
2. Vì sao mỗi con người cần có một mái ấm gia đình 3.0
+ mái ấm gia đình là nơi được chăm sóc, nuôi dưỡng, được yêu thương,
dạy dỗ để trưởng thành...
+ Gia đình có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển nhân cách.
+ Gia đình tan vỡ, trẻ em sẽ là những nạn nhân đau đớn, bất hạnh nhất. Sự
bình yên trong mỗi gia đình góp phần làm nên sự bình yên trong xã hội.
3. Phê phán thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm với gia đình... 0.5
4. Mọi người hãy có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn, không nên vì bất cứ lí 0.5
do gì mà làm tổn hại đến tình cảm gia đình.
III. KẾT BÀI 0.5
Khái quát lại vấn đề.
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC 10.0
A. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách viết bài nghị luận văn học.
- Văn phong trong sáng, lập luận chặt chẽ, có cảm xúc; không mắc các lỗi
chính tả, diễn đạt.
B. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể viết bài theo nhiều cách nhưng về cơ bản, cần đảm bảo
những nội dung sau:
I. MỞ BÀI 0.5
Mở bài: dẫn dắt, nêu vấn đề và giới hạn.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích 0.5
* Giải thích “tiếng lòng”: là những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của tác giả
được gửi gắm qua tác phẩm… Trong hai bài thơ, tâm hồn của nhà thi sĩ,
người chiến sĩ Hồ Chí Minh là tình cảm với thiên nhiên, lòng yêu nước sâu
CÂU 3 nặng và phong thái ung dung của Bác.
2.Chứng minh 8.0
2.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm 0.5
2.2.Tình yêu thiên nhiên thiết tha, phong thái ung dung của Bác: 4.0
+ Trong bài thơ “Cảnh khuya”, thiên nhiên hiện lên sống động, bình dị mà
lung linh, huyền ảo. Tiếng suối chảy róc rách, văng vẳng mơ hồ khiến nhà
thơ tưởng như có tiếng hát êm ái, trong trẻo, ngân xa của ai đó vọng lại làm
cho đêm rừng chiến khu bỗng trở nên gần gũi, thân thương với con người.
Bài thơ vẽ nên một hình ảnh hữu tình, ấm cúng: ánh sáng của trăng bao
trùm lên cây cổ thụ, bóng cây đổ xuống lại bao trùm lên hoa tôn lên vẻ đẹp
của nhau. Điệp từ “lồng” được nhắc đi nhắc lại hai lần tạo nên âm hưởng
ngọt ngào cho câu thơ… (2 điểm)
+ Trong bài thơ “Rằm tháng giêng”, thiên nhiên hiện lên là vẻ đẹp lồng
lộng, bát ngát trăng vàng giữa dòng sông xuân mênh mang của đêm
nguyên tiêu. Bầu trời, vầng trăng và dòng sông tưởng như không có giới
hạn. Điệp từ “xuân” được nhắc đi nhắc lại ba lần mang âm điệu bay bổng,
gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thanh bình. Thủy, nguyệt, thiên vốn là
những chất liệu của thi ca cổ nhưng Bác đã có sự sáng tạo tài hoa để làm
nổi bật cái thần của bức tranh “nguyên tiêu” tươi sáng, rực rỡ, tràn đầy sức
sống của vạn vật, con người… (2 điểm)
2.3 Là tình yêu nước sâu sắc của Bác: 3.0
+ Trong bức tranh đêm rừng chiến khu, xuất hiện hình ảnh con người
“chưa ngủ”. Thì ra Người “chưa ngủ” không phải chỉ vì bắt gặp vẻ đẹp
tinh tế của thiên nhiên mà còn vì “lo nỗi nước nhà”, lo cho cuộc đấu tranh
giành độc lập của dân tộc…
+ Hình ảnh Bác, người chiến sĩ hiện lên đẹp như trong huyền thoại ở nơi
bàn chuyện hệ trọng sống còn của đất nước, Người vẫn vừa đắm say tận
hưởng vầng trăng viên mãn vừa bàn “việc quân”. Con thuyền chở những bí
mật quân sự, chở vị lãnh tụ hết mình lo cho vận mệnh dân tộc…
2.4 Đặc sắc nghệ thuật 0.5
Hai bài thơ có nhiều hình ảnh thiên nhiên đẹp, màu sắc cổ điển mà bình dị
tự nhiên; sử dụng hiệu quả phép so sánh, nhân hóa, điệp ngữ…thể hiện tình
cảm với thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong
thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ.
III. KẾT BÀI 0.5
Khái quát lại vấn đề, liên hệ hoặc bộc lộ cảm xúc.

********************************************************

ĐỀ 37
ĐỀ BÀI

Câu 1 (4,0 điểm)


Đêm nay, mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con.
Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi, đi
con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới
kì diệu sẽ mở ra”.
(Trích Cổng trường mở ra, Lý Lan, Ngữ văn7, tập 1)
Từ việc người mẹ không “ cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để con tự đi, hãy
viết bài văn bàn về tính tự lập.

Câu 2. (6,0 điểm)


“Thơ Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại”.
Em hãy chứng minh ý kiến trên qua bài thơ: “Rằm tháng giêng “ (Nguyên tiêu) của
Hồ Chí Minh

----- HẾT -----


HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM

I. HƯỚNG DẪN CHUNG


1. Đây là đáp án mở, thang điểm không quy định điểm chi tiết đối với từng ý nhỏ,
chỉ nêu mức điểm của các phần nội dung nhất thiết phải có.
2. Chỉ cho điểm tối đa theo thang điểm ở từng ý hay cả bài khi đáp ứng cả yêu cầu
chung và yêu cầu cụ thể.
3. Cho điểm lẻ tới 0.25; không làm tròn điểm số của bài.
II. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
Câu Nội dung Điểm
Câu 1 I.Yêu cầu về kĩ năng:
(4đ) -Học sinh biết cách làm một bài văn nghị luận xã hội (Trình bày suy
nghĩ của bản thân về ý nghĩa đặt ra từ một hình ảnh trong câu chuyện,
vận dụng tốt các thao tác nghị luận đã học: chứng minh, giải thích).
-Bố cục rõ ràng; lập luận chặt chẽ; diễ đạt sáng tạo.
II.Yêu cầu về nội dung: 0,5
1.Mở bài: Giới thiệu được vấn đề cần nghị luận:
Hai chữ “ buông tay” là bước ngoặt của hai trạng thái bao bọc và
phải đi một mình. Việc phải bước đi một mình trên đoạn đường phía
trước là biểu hiện của tính tự lập.
2.Thân bài:
a.Giải thích tính tự lâp:
-Tự lập là do chính bản thân mình, không có sự giúp đỡ của người 0,25
khác.
-Người có tính tự lập là người biết tự lo liệu, tạo dựng một cuộc sống 0,25
cho mình mà không ỷ lại. Chủ động đưa ra quyết định và làm lấy mọi
công việc, không dựa vào người khác…
b.Dùng lí lẽ, dẫn chứng: ( Dẫn chứng thực tế về tự lập trong học
tập,lao động, sinh hoạt hàng ngày…) để thể hiện được suy nghĩ của
bản thân về ý nghĩa của tính tự lập nhưng về cơ bản cần đảm bảo
được các ý sau:
-Tự lập là đức tính quan trọng đối với mỗi con người. 0,25
-Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng có cha mẹ bên cạnh để 0,5
dìu dắt hay một người nào đó bên mình để giúp đỡ những khó khăn. Vì
vậy cần rèn luyện tính tự lập để chủ động làm việc, ứng phó với cuộc
sống. (dẫn chứng)
-Người có tính tự lập sẽ dễ đạt được thành công, giá trị bản thân 0,5
được khẳng định, mọi người trân trọng (dẫn chứng)
c. Bình luận, mở rộng để rút ra bài học:
-Tự lập là cần thiết nhưng thực tế không phải ai cũng làm được. 0,25
Nhiều người sống dựa dẫm. Khi dựa dẫm sẽ trở thành gánh nặng cho
người thân và cuộc sống sẽ thụ động, vô nghĩa, khó thành công.(dẫn
chững)
-Tự lập không có nghĩa là tự tách mình ra khỏi cộng đồng, không 0,25
phải là sự tự tin thái quá. Chúng ta phải đoàn kết, dựa vào mọi người để
chia sẻ, học tập tạo sức mạnh tập thể.
-Mỗi cá nhân cần rèn luyện tính tự lập để hình thành tính cách lâu 0,5
bền. Nỗ lực vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống.
-Cần phê phán những người thiếu tinh thần tự lập, sống thụ động, ỷ 0,25
lại…
3.Kết bài: Khẳng định lại vấn đề:
Tính tự lập là đức tính rất cần thiết với mỗi con người trong xã hội 0,5
hiện nay, cần rèn luyện đức tính tốt đẹp đó ngay từ khi còn nhỏ…
Lưu ý: HS cần lấy những dẫn chứng cụ thể, sát thực đời sống, phù
hợp để làm rõ vấn đề
I.Yêu cầu về kĩ năng:
- Học sinh biết cách làm một bài văn nghị luận chứng minh một ý
kiến nhận xét về giá trị của bài “Rằm tháng giêng”.
-Sự dụng linh hoạt các thao tác lập luận.
-Bố cục rõ 3 phần, hệ thống ý sáng tỏ, mạch lạc.
-Diễn đạt chính xác trôi chảy; lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết
phục.
-Biết phân tích văn bản phiên âm chữ Hán trong sự đối chiếu dịch
thơ.
II.Yêu cầu về nội dung: Học sinh có thể trình bày bài viết theo
nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1.Giải thích:
-Cổ điển là vẻ đẹp tinh hoa mẫu mực của cổ thi phương Đông. 0,25
Trong thơ ca chính là những yếu tố về nội dung và thi pháp chịu ảnh
hưởng của thơ ca cổ điển phương Đông : đề tài, thể thơ, thi liệu, cảm
xúc, ngôn ngữ, bút pháp miêu tả, tính hàm súc, phong thái của nhân vật.
-Tinh thần hiện đại là cách thể hiện con người, tâm trạng nhân vật trữ 0,25
tình trong mối quan hệ với thiên nhiên, cảnh vật phải mang tính thời đại.
-Thể hiện quan điểm nghệ thuật, tư tưởng của con người trong xã
hội mà nó nảy sinh, thậm chí vượt trước thời đại…
2. Ý nghĩa khái quát của nhận định: 0,25
Nhận định trên đã khẳng định phong cách thơ của Hồ Chí Minh, nhất
là thơ trữ tình. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp tinh hoa của thơ ca
cổ và tinh thần thời đại, tinh thần của người chiến sĩ cách mạng.
Câu 2 3.Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
(6đ) -Hồ Chí Minh vừa là một chiến sĩ cách mạng vừa là một nhà thơ lớn 0,25
của dân tộc. Thơ của Người luôn có sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển
và tinh thần hiện đại.
-Mùa xuân Mậu Tý năm 1948, Bác “ xuất hành” công tác trên chiến 0,25
khu Việt Bắc, Bác viết bài thơ xuân: “Rằm tháng giêng” (Nguyên tiêu).
4.Phân tích bài thơ để làm rõ sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ
điển và tinh thần hiện đại:
a.Vẻ đẹp cổ điển
-Ngôn ngữ tiếng Hán. Thơ chữ Hán thường cô đọng, hàm súc. 0,25
-Thể loại: Thất ngôn tứ tuyệt, sát mô hình cấu trúc kể cả cách ngắt 0,25
nhịp. Một thể thơ rất cô động, hàm súc, cân đối. Đây là thể thơ quen
thuộc của thơ ca phương Đông. (“Xa ngắm thác núi Lư” của Lí Bạch).
-Đề tài: Mùa xuân, trăng, một đề tài quen thuộc trong thơ cổ 0,25
-Thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ: trăng, trời, dòng sông, khói 0,75
sóng. (Tích hợp hình ảnh trong “ Tĩnh dạ tứ”- Lí Bạch)
+Không gian bao la, trăng thanh, gió mát. Trời , sông, nước, nối liền
bởi ánh trăng. Cảnh vật hòa hợp, nhất thể.
+Không gian nơi sâu thẳm thâm cùng: khói sóng gợi ra một không
gian mờ ảo, thơ mộng, gắn với ẩn sĩ thời xưa.
+Thời gian đêm khuya tĩnh mịch.
-Phong thái nhân vật trữ tình: Ung dung, thưởng ngoạn thiên nhiên, 0,25
đắm say cảnh sắc.
-Bút pháp: Chấm phá tả cảnh ngụ tình. Chỉ qua vài nét vẽ nhưng làm 0,25
hiện lên bức tranh sơn thủy trong một đêm trăng viên mãn thật thơ
mộng, huyền ảo, cổ điển và đồng thời làm hiện lên chân dung nhân vật
trữ tình tự do, tự tại như ẩn sĩ phương Đông đang hòa mình vào cảnh.
b. Tinh thần hiện đại:
-Trong thơ ca cổ, hình ảnh con người thường rất nhỏ bé, thậm chí bị 0,25
hòa tan vào thiên nhiên rộng lớn, con người như ẩn sĩ ẩn dật, lánh đời.
Tích hợp với Nguyễn Trãi qua bài “ Côn Sơn ca” hay “Qua Đèo
Ngang” của bà Huyện Thanh Quan.
-Hình ảnh nhân vật trữ tình:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
+Không gian cụ thể, gắn với núi rừng Việt Bắc. Nếu như không gian
này trong thơ cổ báo hiệu sự chia li, sự nhung nhớ,… thì đằng sau 0,25
không gian mịt mù khói sóng của núi rừng Việt Bắc là không gian của
cách mạng, của việc nước.
+Con người thể hiện cụ thể “ bàn bạc việc quân”.Thi sĩ là chiến sĩ, 0,5
người chỉ huy, người lãnh đạo cuộc kháng chiến, không có trong thơ
xưa. Hình ảnh ấy gắn với thời đại, gắn với những giây phút bàn bạc việc
nước, không đơn thuần chỉ là thả hồn như những thi sĩ ẩn dật trong thơ
cổ. Đó là công việc của người lãnh tụ đang ngày đêm lo cho dân, cho
nước.
+ Tâm hồn: Giữa bộn bề tiếng súng kháng chiến lại có một không
gian thơ mộng hiện ra với một ánh trăng sáng hòa quyện cùng dòng
sông lấp lánh. Thể hiện tâm hồn lãng mạn, tinh thần thép của một người
cộng sản yêu nước, yêu tự do. Dù trong bất kì cảnh ngộ nào, dù bận 0,5
trăm công nghìn việc,Người cũng luôn hướng về cái đẹp, về ánh sáng,
về tương lai với một tinh thần lạc quan.
(Khác với “Tĩnh dạ tứ”, nhìn trăng mà nhớ cố hương ,tâm trạng hoài
cổ, gợi nỗi buồn)
-Sự vận động mạch thơ: 0,25
+Thơ xưa cảnh thường tĩnh lại vì quan niệm tĩnh tại là cái đẹp.Hồ
Chí Minh, một người cộng sản, một nhân vật có trí tuệ uyên thâm nên
đã nhìn thiên nhiên theo quy luật vận động tất yếu của nó. Hình tượng
thơ luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Hình ảnh trăng trong
câu thơ cuối thể hiện sự vận động tất yếu ấy. Ánh sáng lan tỏa, viên
mãn, làm cho không gian nơi sông vắng trở nên lung linh, ấm áp, thơ
mộng.
+ Vẻ đẹp ấy tỏa ra từ cảnh và được thăng hoa từ trong tâm hồn yêu
thiên nhiên, đất nước. Việc nước và trăng xuân hài hòa tạo lên ý nghĩa
sâu xa: sắc xuân, ý xuân, sức xuân trên dòng sông đêm xuân chính là
màu sắc, âm thanh náo nức của mùa xuân tiến quân lịch sử với niềm tin
mãnh liệt: “ Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi!”. Sự lạc quan
phơi phới chính là vẻ đẹp của bài thơ mang tinh thần thời đại, đầy chất
thép trong hồn thơ xuân của Bác. Đó là sức mạnh của một con người trí 0,5
tuệ và chiều sâu trong tâm hồn.
5.Đánh giá vẻ đẹp của chất cổ điển kết hợp với tinh thần hiện
đại trong bài thơ:
-Ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán, thơ phú Đường 0,25
Tống, tiếp thu nhuần nhuyễn văn hóa phương Đông , đồng thời Người là
một nhà hoạt động cách mạng, một kiểu nhà văn mới, nhà văn chiến sĩ
am hiểu văn hóa phương Tây đã tạo nên vẻ đẹp riêng độc đáo : Hài hòa
vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại, giữa chất thép và chất trữ tình, thi
sĩ và chiến sĩ.
- Qua bài thơ,ta có thể cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn, 0,25
yêu thiên nhiên, đất nước , tin vào chiến thắng. Phong thái ung dung,
tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách
nghệ sĩ nhà hiền triết phương Đông.
Lưu ý: Giám khảo linh động khi chấm, đặc biệt những bài viết có
tính sáng tạo, khám phá và thể hiện được sự xúc động chân thực.
------------------HẾT---------------------
**************************************************************
ĐỀ 45
ĐỀ BÀI.
Câu 1 (2,0 điểm)
...“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
(Trích Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh - Ngữ văn 7, tập 1)
a. Xác định các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.
b. Trình bày tác dụng của các biện pháp tu từ vừa tìm được trong việc thể hiện nội
dung của đoạn.
Câu 2(3,0 điểm)
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của xuân trong đoạn văn sau:
“Mưa xuân. Không phải mưa. Đó là sự bâng khuâng gieo hạt xuống mặt đất nồng
ấm, mặt đất lúc nào cũng phập phồng, như muốn thở dài vì bổi hổi, xốn xang… Hoa
xoan rắc nhớ nhung xuống cỏ non ướt đẫm. Đồi đất đỏ lấm tấm một thảm hoa trẩu
trắng”
(Vũ Tú Nam)
Câu 3(5,0 điểm)
Tinh thần nhân đạo là một trong những chủ đề xuyên suốt trong quá trình hình
thành và phát triển Văn học Việt Nam. Qua một số áng văn chương đã học trong
chương trình Ngữ văn 7, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

............................. Hết ...........................


HƯỚNG DẪN CHẤM

Câu Nội dung Điểm


3 1. Mở bài: Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận:
(5,0 - Tinh thần nhân đạo là một trong hai dòng chủ lưu chảy suốt mạch
điểm) nguồn văn học. Nó bắt nguồn từ truyền thống Thương người như thể
thương thân của con người VN.'
- Tinh thần nhân đạo là một trong những chủ đề xuyên suốt trong
quá trình hình thành và phát triển của VHVN; từ văn học dân gian đến
văn học hiện đại.
1. Thân bài: làm sáng tỏ các ý sau:
a) Giải thích khái niệm:
- Tinh thần nhân đạo (Chủ nghĩa nhân đạo) là tinh thần tôn trọng,
trân quý những giá trị của con người như: trí tuệ, phẩm giá, tình cảm,
sức mạnh, vẻ đẹp..
- Những biểu hiện của tinh thần nhân đạo trong văn học rất phong
phú, đa dạng:
+ Xót thương con người, đồng cảm, chia sẻ với nỗi khổ đau, bất
hạnh của con người.
+ Lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp len thân phận con
người.
+ Khẳng định, đề cao con người về các mặt: phẩm chất, tài năng, vẻ
đẹp hình thức.
+ Đồng tình, ủng hộ tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự
do, hạnh phúc vươi tới xã hội công bằng, tốt đẹp của con người.
+ Vạch ra con đường tươi sáng, hướng con người đến cái chân -
thiện - mĩ.
=> Tinh thần nhân đạo chính là thái độ ứng xử giwuax người với
người trên tất cả các phương diện của cuộc sống.
b) Chứng minh tinh thần nhân đạo được thể hiện qua 1 số TPVH
trong chương trình Ngữ văn 7.
b1. Tinh thần nhân đạo trong văn học dân gian (ca dao, tục ngữ)
- Tục ngữ, ca dao thuộc thể loại trữ tình của VHDG. Nó là tiếng nói
của trái tim, tiếng hát tâm trạng của dân lao động xưa. Tiếng nói, tiếng
hát ấy cất lên nhiều cung bậc tình cảm thấm đẫm tinh thần nhân đạo
trong các mối quan hệ giữa con người với con người.
+ Trước hết là tình cảm yêu thương trong gia đình như cha mẹ với
con cái, cháu chắt với ông bà, anh chị em với nhau hay tình nghĩa vợ
chồng... (nêu dẫn chứng)
+ Tình cảm giữa con người cá nhân với cộng đồng xã hội; Lá lành
đùm lá rách, Thương người như thể thương thân, Bầu ơi thương lấy bí
cùng...
- Thơ ca dân gian còn là tiếng nói đồng cảm, chia sẻ với những
người nông dân - kiếp phận con sâu, cái kiến, con cò, con vạc quanh
năm vất vả, đầu tắt mặt tối mà cuộc sống vẫn cơ cực, lầm than, bị giai
cấp thống trị khinh rẻ, chà đạp...
Thương thay thân phận con tằm.....
+ Thơ ca dân gian còn là tiếng nói xót xa, thương cảm cho số phận
người phụ nữ: nết na, tảo tần hết lòng vì gia đình chồng con mà cuộc
đời họ đâu có được hạnh phúc:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay....
=>Cả trăm, cả ngàn tiếng than thân của người phụ nữ nói riêng và
của người nông dân thấp cổ, bé họng nói chung không chỉ dừng lại ở
lời than vãn thân phận hàm chứa ttrong đó muôn nỗi đắng cay, trái
ngang, nghiệt ngã mà còn là lời kêu cứu đối với xã hội.
=> Trong tiếng than ấy, còn hàm chứa sự cảm thông chia sẻ, cả ý
nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội cũ tàn ác, lại có cả ước mơ vươn tới
một xã hội công bằng, bình đẳng, hạnh phúc của con người
b2) Tinh thần nhân đạo trong văn học trung đại:
-Sống trong xã hội đầy rối ren, loạn lạc, nhiều cây bút trong văn học
trung đại đã tập trung phản ánh bi kịch của con người, nhất là thân
phận người phụ nữ.
- Viết về đề tài người phụ nữ, Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương
tràn đầy tinh thần nhân văn:
+ Yêu thương, trân trọng người phụ nữ. Từ hình ảnh chiếc bánh trôi
nước, bà đẩy lên hình tượng người phụ nữ có ngoại hình đẹp đẽ, có
phẩm chất trong trắng, son sắc, thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình với
người mình yêu thương. Nhưng cuộc sống, thân phận của họ lại bị phụ
thuộc, ba chìm bẩy nổi...
+ Qua hình ảnh chiếc bánh trôi nước, nhà thơ đã thể hiện lòng cảm
thông sâu sắc với thân phận chìm nổi của người phụ nữ đồng thời ca
ngợi, trân trọng vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý của họ. Ngầm ẩn
trong đó còn là bức thông điệp chuyển tới XHPK - XH rọng nam khinh
nữ, cần có thái độ bình đẳng giới, người phụ nữ cần phải được trân
trọng và bảo vệ.

b3. Tiếp nối tinh thần nhân đạo trong VHTĐ, các tác phẩ VHHĐ
cũng thấm đẫm tinh thần nhân văn chủ nghĩa.
- Tác phẩm "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn là một
truyện ngắn xuất sắc, vừa giàu tính hiện thực, vừa giàu tính nhân đạo:
+ Tác giả đã tái hiện một cách chân thực nối thống khổ "muôn sầu,
nghìn thảm" của người dân phận con sâu, cái kiến trong cảnh mưa lụt.
Qua đó vạch trần bộ mặt tàn bạo của quan phụ mẫu và thói vô đạo, vô
trách nhiệm của kẻ tham quan cầm quyền.
+ Nhà văn thương cả, chia sẻ và bày tỏ nỗi xót xa với người dân lao
động, đồng thời khơi gợi lòng trắc ẩn nơi người đọc.
- Văn bản "Cuộc chia tay của những con búp bê"của Khánh
Hoài cũng bày tỏ lòng thương cảm đối với những em nhỏ sống trong
gia đình li tán. Tác phẩm ngầm oán trách những người làm cha, làm
mẹ vì lòng ích kỉ mà đẩy những đứa con bé bỏng, đáng thương của
mình vào cuộc sống thiếu thốn, khổ đau, tan đàn xẻ nghé. Truyện ngắn
kêu gọi mọi người hãy biết giữ gìn, trân trọng tổ ấm của mình bởi đó là
cội nguồn hạnh phúc của mỗi người và sự phát triển phồn vinh của xã
hội.
2. Kết bài: Đánh giá vấn đề và suy nghĩ của bản thân
- Tinh thần nhân đạo là mạch nguồn chảy mãi không bao giờ vơi
cạn trong quá trình hình thành và phát triển văn học. Bởi văn học luôn
hướng vào con người, yêu thương và cải tạo con người; xây dựng xã
hội, sửa cái xấu, cái ác, ngợi ca cái tốt; khơi gợi, khẳng định, trân trọng
cái tốt, nuôi dưỡng cái đẹp phát triển.
- Chính tinh thần nhân đạo trong văn chương nghệ thuật đã bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm cho người đọc hoàn thiện bản thân, để mỗi
chúng ta luôn biết hướng tới cái thiện, sống tốt đẹp trong cuôc đời.

***************************************************
ĐỀ 49
ĐỀ BÀI
PHẦN I: ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
“…Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
….

Quê hương mỗi người chỉ một


Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.”
(Trích bài thơ “Quê hương” – Đỗ Trung Quân)
Câu 1(0.5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn thơ trên?
Câu 2(1.0 điểm). Xác định nội dung của đoạn thơ?
Câu 3(2.5 điểm). Tìm và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ có trong đoạn thơ?
Câu 4(2.0 điểm). Qua đoạn thơ tác giả muốn gửi gắm tới người đọc thông điệp gì?
PHẦN II: TẠO LẬP VĂN BẢN (14.0 điểm)
Câu 1(4.0 điểm)
Từ nội dung đoạn thơ ở phần Đọc- hiểu, em hãy viết một đoạn văn(khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về tình yêu quê hương của mỗi người.
Câu 2(10.0 điểm)
Hoài Thanh nhận xét: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có,
luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”. Qua bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân
Hương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

--------------------- Hết ---------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM

Phần Câu Yêu cầu cần đạt Điểm


I ĐỌC HIỂU 6.0
1 Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm 0.5
2 - Đoạn thơ đã thể hiện được tình cảm yêu thương, gắn bó tha 1.0
thiết, sâu nặng với quê hương của tác giả.
3 - Biện pháp tu từ: 1.0
+ Điệp ngữ “quê hương” được lặp lại 4 lần.
+ So sánh: Quê hương là vòng tay ấm; là đêm trăng tỏ; như là
chỉ một mẹ thôi.
- Tác dụng: Nhẫn mạnhtình yêu tha thiết, sự gắn bó sâu nặng 1.5
với quê hương của tác giả. Đồng thời đã làm nổi bật hình ảnh
quê hương thật bình dị, mộc mạc nhưng cũng thật ấm áp, gần
gũi, thân thương, máu thịt, thắm thiết.
4 - HS trình bày thành một đoạn văn (từ 5-7 câu)
- HS xác định thông điệp có ý nghĩa nhất đối với bản thân:
+ Vai trò của quê hương. 1.0
+ Giáo dục tình yêu quê hương. 1.0
II TẠO LẬP VĂN BẢN 14.0
1 Viết một đoạn văn(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ 4.0
*Yêu cầu chung:
a. Đảm bảo thể thức của một đoạn văn 0.25
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận. 0.25
* Yêu cầu cụ thể: 3.5
c. Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao
tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có thể
viết đoạn văn theo hướng sau:
- Tình yêu quê hương: 1.0
+ Là tình cảm tự nhiên mang giá trị nhân bản, thuần khiết trong
tâm hồn mỗi người. quê hương chính là nguồn cội, nơi chôn rau
cắt rốn, nơi gắn bó, nuôi dưỡng sự sống, đặc biệt là đời sống
tâm hồn mỗi người.
+ Quê hương là bến đỗ bình yên, là điểm tựa tinh thần của con 0.5
người trong cuộc sống. Dù đi đâu ở đâu hãy luôn nhớ về nguồn
cội. (dẫn chứng)
- Bàn luận: Tình cảm đối với quê hương sẽ gợi nhắc đến tình 0.5
yêu đất nước. Hướng về quê hương không có nghĩa là chỉ
hướng về mảnh đất nơi mình sinh ra mà phải biết hướng tới tình
cảm lớn lao, thiêng liêng bao trùm là Tổ quốc.
- Phê phán: Có thái độ phê phán trước những hành vi không 0.5
coi trọng quê hương, suy nghĩ chưa tích cự về quê hương: chê
quê hương nghèo khó, lạc hậu, phản bội lại quê hương; không
có ý thức xây dựng quê hương.
- Bài học nhận thức và hành động: Có nhận thức đúng đắn về 0.5
tình cảm đối với quê hương; có ý thức tu dưỡng, học tập, phấn
đấu xây dựng quê hương; xây đắp bảo vệ quê hương, phát huy
những truyền thống tốt đẹp của quê hương là trách nhiệm, là
nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi con người.
d. Sáng tạo: Cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng về vấn đề 0.25
nghị luận
e. Chính tả, dùng từ đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ 0.25
pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.
2 *Yêu cầu chung:
a. Đảm bảo thể thức của một bài văn nghị luận có bố cục ba 0.5
phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu vấn đề nghị
luận; Thân bài giải thích nhận định và triển khai các luận điểm
làm rõ được nhận định; Kết bài khái quát được nội dung nghị
luận.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Những tình cảm sẵn có, 0.5
những tình cảm không có qua bài thơ “Bánh trôi nước”.
* Yêu cầu cụ thể: 9,0
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; có sự
kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Thí sinh có thể giải
quyết vấn đề theo hướng sau:
1. Giới thiệu vấn đề nghị nghị luận và tác phẩm lien quan đến 0.5
vấn đề nghị luận: Văn chương gây cho ta những tình cảm ta
không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có” qua bài thơ
“Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
2. Giải thích ý kiến trên: 1.0
- Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có: Trước
khi đọc tác phẩm văn chương, những tình cảm đó chưa xuất
hiện trong ta. Sau khi đọc tác phẩm, văn chương khơi gợi, giúp
ta tiếp thu những tình cảm cao đẹp, mới mẻ, những nét ứng xử
tinh tế, những bài học về cuộc đời để ta làm giàu thêm tâm hồn.
- Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có: Văn
chương bồi đắp thêm tình cảm, giúp ta nhận thức sâu sắc thêm
về vấn đề để ta biết suy nghĩ, ý thức về mình, về những tình
cảm đã có, để cho tình cảm ấy sâu sắc hơn, cao đẹp hơn.
3. Phân tích, chứng minh qua bài thơ “Bánh trôi nước”:
* Bài thơ “Bánh trôi nước” bồi đắp cho ta những tình cảm ta
sẵn có: 1.0
- Bài thơ lấy đề tài dân dã, gần gũi, bình dị (Bánh trôi nước).
Qua hình ảnh chiếc bánh trôi, bài thơ gửi gắm chủ đề về người
phụ nữ trong XH phong kiến – một chủ đề quen thuộc của văn
học trung đại Việt Nam (vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ
trong XHPK).
- Bánh trôi nước là một bài thơ vịnh vật tài tình, tả chính xác 2.0
chiếc bánh trôi đồng thời còn khơi gợi như
Những liên tưởng sâu xa:
+ Bài thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào của tác giả về vẻ đẹp
ngoại hình, đặc biệt là ngợi ca, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn,
phẩm chất của người phụ nữ (dẫn chứng)
+ Bài thơ làm người đọc xúc động, thương cảm sâu sắc về thân
phận chìm nổi, đắng cay, bất hạnh, phụ thuộc của người phụ nữ
trong XHPK bất công (dẫn chứng).
* Bài thơ “Bánh trôi nước” gợi mở cho ta những tình cảm ta
không có:
- Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu thêm về XHPK xưa – một XH 0.5
trọng nam khinh nữ.
- Từ đó khơi gợi trong lòng người đọc niềm căm phẫn, thái độ 1,0
tố cáo XH đầy rẫy những bất công tàn bạo đã chà đạp lên số
phận của người phụ nữ.
* Nghệ thuật thể hiện: 1,0
- Hình ảnh, ngôn ngữ dân dã, gần gũi, không cầu kì kiểu cách,
ước lệ mà tự nhiên, mang đậm dấu ấn dân giân.
- Giọng điệu: vừa kiêu hãnh, tự hào, vừa ngậm ngùi, xót xa, có
thách thức.
- Thể thơ và kết cấu: Thể thơ Đường luật được sử dụng nhuần
nhuyễn và sáng tạo. Kết cấu chặt chẽ và độc đáo, sự đối lập
giữa thân phận và phẩm chất, bài thơ đã tạo ấn tượng về một vẻ
đẹp ngời sáng của người phụ nữ, về một bản lĩnh Xuân Hương
kiên cường, mạnh mẽ dám nhìn thẳng vào số phận, vượt lên số
phận và thách thức với hoàn cảnh sống.
4. Đánh giá, mở rộng: 0.5
- Nhận định trên cho thấy giá trị của văn chương: nuôi dưỡng,
bồi đắp tình cảm con người, tạo ra phép màu trong cuộc sống,
mở rộng cánh cửa lòng nhân ái, giúp ta hiểu thêm tình đời, tình
người.
- Bài thơ vừa ca ngợi vẻ đẹp cao quý, son sắt của người phụ nữ
trong XHPK, vừa thể hiện niềm thương cảm đối với thân phận
khổ đau của họ. “Bánh trôi nước” là một bài thơ hay bởi nó
giản dị, để lại xúc động và ám ảnh trong lòng người đọc, có sức
sống lâu bền trong trái tim những người yêu thơ.
d. Sáng tạo: cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng về vấn đề 0.25
nghị luận
e. Chính tả, dùng từ đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, 0.25
ngữ nghĩa tiếng Việt.
Điểm tổng cộng: 20.0 điểm

ĐỀ 61
ĐỀ BÀI

PHẦN I: ĐỌC HIỂU(4,0 điểm)


Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Em yêu cánh võng đong đưa
Cánh diều no gió chiều chưa muốn về
Đàn trâu thong thả đường đê
Chon von lá hát vọng về cỏ lau
Trăng lên lốm đốm hạt sao
Gió sông rười rượi hoa màu thiên nhiên
Em đi cuối đất cùng miền
Yêu quê yêu đất gắn liền bước chân
(Yêu lắm quê hương - Hoàng Thanh Tâm, www.manhmap.com - Thơ hay về tình yêu
quê hương - đất nước)
Câu 1: (1,0 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính.
Câu 2: (1,0 điểm). Cho biết thể thơ được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 3: (1,0 điểm) Tìm từ láy trong các từ: thong thả, đường đê, chon von, vọng
về, lốm đốm, rười rượi.
Câu 4: (1,0 điểm). Nội dung của đoạn thơ đã gợi em nghĩ đến điều gì?
PHẦN II: LÀM VĂN(16,0 điểm)
Câu 1:(4,0 điểm) Từ việc đọc hiểu văn bản Một thứ quà của lúa non: cốm - ngữ
văn 7, tập I em hãy cho biết tại sao nhà văn Thạch Lam lại cho rằng ăn cốm phải ăn
thong thả và ngẫm nghĩ.
Câu 2:(12,0 điểm)
Cây bàng trước sân trường đã trở nên trơ trụi trong mùa đông rụng lá nhưng
trong mình nó đang có những mầm sống cựa quậy để hướng tới một sự hồi sinh mạnh
mẽ với biết bao chồi tơ, lộc biếc …
Hãy thay lời cây bàng ấy để nói lên tâm trạng của mình về sự việc này!

ĐÁP ÁN-HƯỚNG DẪN CHẤM


Phần I. Hướng dẫn chung
- Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá đúng bài làm của
thí sinh. Tránh cách chấm đếm ý cho điểm.
- Khi vận dụng đáp án và thang điểm, giám khảo cần chủ động, linh hoạt với tinh thần
trân trọng bài làm của học sinh. Đặc biệt là những bài viết có cảm xúc, có ý kiến riêng
thể hiện sự độc lập, sáng tạo trong tư duy và trong cách thể hiện.
- Nếu có việc chi tiết hóa điểm các ý cần phải đảm bảo không sai lệnh với tổng điểm và
được thống nhất trong toàn hội đồng chấm thi.
- Điểm toàn bài là tổng điểm của các câu hỏi trong đề thi, chấm điểm lẻ đến 0,25 và
không làm tròn.
Phần II. Đáp án và thang điểm
Câu Nội dung Điể
m
4,0
1 -Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm. 1,0
1,0
-Thể thơ: Lục bát.
-Từ láy trong các từ: thong thả, đường đê, chon von, vọng về, lốm đốm, 1,0
rười rượi. là: thong thả, chon von, lốm đốm, rười rượi.
-Đoạn thơ gợi người đọc nghĩ đến tình yêu quê hương đất nước với những 1,0
cái đẹp đơn sơ, mộc mạc, bình dị nhưng lại gắn bó, nghĩa tình.
16,
0
2 Cần làm rõ đây là một nghệ thuật thưởng thức cốm rất tinh tế trong
truyền thống ẩm thực của con người Hà Nội ngàn năm văn hiến được nhà
văn Thạch Lam thể hiện trong tập tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”.
Ăn cốm phải ăn thong thả và ngẫm nghĩ tức là phải ăn từ tốn, chậm rãi
và khoan thai đó là bởi vì:
- Để thưởng thức đến tận cùng sức hấp dẫn của món quà bình dị nhưng
hết sức độc đáo này. Mỗi hạt lúa non là một hạt sữa của đất trời kết đọng 2,0
trong đó ngàn hoa cỏ nội nước Nam. Phải ăn thật chậm rãi thì mới cảm
nhận được những điều thú vị này.
- Cũng phải ăn thong thả và ngẫm nghĩ để thể hiện một phong thái lịch
lãm trong nét đẹp của văn hóa ẩm thực. Ăn chậm rãi và khoan thai không
chỉ là để thưởng thức mà còn là để bày tỏ sự nâng niu trân trọng và biết ơn 2,0
đối với những con người lao động bình dị đã làm ra sản phẩm hạt cốm.
3 Yêu cầu học sinh phải xây dựng thành một bài văn hoàn chỉnh thể hiện rõ
nét kỹ năng viết văn biểu cảm một cách sáng tạo. Người chấm không đếm
ý cho điểm mà phải linh động xét trong tổng thể cả bài. Trong cách làm
bài tổng thể thì giám khảo cần tinh tế trong việc phát hiện các nhân tố.
Phải biết trân trọng những tư duy đột phá của học sinh mà hướng dẫn
chấm này chưa thể đề cập hết.
Với yêu cầu của đề bài thì thí sinh phải nhập vai cây bàng để biểu
cảm. (Có thể sử dụng đại từ: Tôi). Mặc dù là một đề mở, thí sinh có thể có
những cách biểu cảm khác nhau, (Ví dụ viết thư cho bạn chẳng hạn) tuy
nhiên cũng cần phải làm rõ một số dấu ấn cảm xúc cơ bản theo trình tự cấu
trúc ba phần:
Mở bài: Tự giới thiệu được hình ảnh bản thân là một cây bàng mùa đông
đang trụi lá giữa sân trường bằng những lời sinh động, giàu cảm xúc.
Thân bài:
+,Hồi tưởng một cách xúc động và sinh động về những kỷ niệm trong quá 2,0
khứ đặc biệt là những sự gắn bó đối với những cô cậu học trò.
+, Nỗi buồn vì cảnh ngộ của bản thân trong hiện tại. Mùa đông khắc
nghiệt đã cướp đi những màu xanh đẹp đẽ trên cành lá khiến cho bàng ta
trở nên khẳng khiu, gầy guộc, trơ trọi và cũng rất cô đơn. (Vì lũ học trò chỉ 2,0
hóng mát, đùa nghịch, đọc sách… dưới cây bàng khi nó sum suê cành lá).
+, Sự hồi hộp chờ mong những ánh nắng ấm áp của mùa xuân; niềm tin
mãnh liệt về một tương lai khi cảm nhận những mầm sống đang cựa quậy 3,0
để từ đó có thể hướng tới một sự hồi sinh mạnh mẽ với biết bao chồi tơ,
lộc biếc; khát vọng được cống hiến những ngày tháng đẹp đẽ sum suê cành
lá cho sân trường yêu dấu, nơi có thể thắp sáng lên những kỹ niệm đẹp đẽ
của tuổi học trò. 3,0
Kết bài: Bày tỏ tình yêu đối với mái trường, với những thầy cô giáo cũng
như với các bạn học trò.
2,0
Hết
PHẦN 2: THAM KHẢO TÀI LIÊU ÔN

PHẦN 1. ÔN TẬP KIẾN THỨC CƠ BẢN


TÌM HIỂU THÊM VỀ CA DAO – DÂN CA
I. Khái niệm :
- Ca dao dân ca là tên gọi chung của các loại trữ tình dân gian, kết hợp phần lời và
nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
- Dân ca: là sáng tác dân gian kết hợp lời và nhạc.
- Ca dao: là lời thơ dân ca và những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật
chung với lời thơ dân ca.
II. Nội dung :
Khái quát: Ca dao - dân ca diễn tả sinh động, sâu sắc đời sống tâm hồn, tư tưởng tình
cảm của người lao động ( trữ tình). Có ý kiến cho rằng: Ca dao là nguồn sữa tinh thần
nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai
cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người
đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động,
trong gia đình, xã hội.
1. Những câu hát yêu thương – tình nghĩa
* Nội dung: Là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối
với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, ông bà, anh em, vợ chồng, con cái,
bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi.
* Những câu hát về tình cảm gia đình
- Coi trọng công ơn và tình nghĩa trong các mối quan hệ gia đình: cha mẹ, ông bà, tình
cảm anh em gắn bó
- Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất, cội nguồn để hình thành nên những
tình cảm cao đẹp khác
=> Những người lao động sống rất ân tình, ân nghĩa
Ví dụ: Đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên:
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
hay Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
* Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước.
- Ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước, bày tỏ niềm tự hào, mến yêu về những vùng
đất, miền quê tươi đẹp. Đó là nghĩa nặng tình sâu của người lao động với quê hương
đất nước
- Tình yêu quê hương đất nước là tình cảm sâu nặng trong tim mỗi người, là nguồn cảm
hướng vô tận, là đề tài không bao giờ cũ.
2. Những câu hát than thân
* Nội dung ca dao than thân: là những tiếng hát than thở về cuộc đời, cảnh ngộ khổ
cực, đắng cay. Đồng thời, bày tỏ thái độ phản kháng xã hội, phản kháng những điều
ngang trái ẩn chứa rất sâu trong đó.
* Hoàn cảnh ra đời: Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị
áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức:
Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.
- Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và
lễ giáo phong kiến gây ra:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi.
- Cảnh tảo hôn, đa thê, gả bán, ....
Vợ lẽ như giẻ chùi chân,
Chùi xong lại vứt ra sân
Gọi ông hàng xóm có chùi chân thì chùi.
hay
Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Chị em ơi, cho tôi mượn gàu sòng
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.
- Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng không bao
giờ để mất niềm tin:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
* Nội dung các bài ca dao đã học
- Những bài ca dao kể về nỗi thống khổ, cuộc đời trăm đắng ngàn cay của người dân
lao động dưới xã hội phong kiến.
- Qua đó bày tỏ thái độ phản kháng, tố cáo xã hội.
3. Những câu hát châm biếm
- Chủ yếu tập trung phơi bày các sự việc, hiện tượng mâu thuẫn ngược đời, phê phán
những thói hư tật xấu của các hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội như:
phê phán thói lười biếng, siêng ăn nhác làm; đả kích những người hành nghề mê tín dị
đoan phản khoa học và những người đi xêm bói mê tín mù quáng ít hiểu biết và nhẹ dạ
cả tin.
- Cũng như truyện cười, ca dao châm biếm trào phúng là sản phảm độc đáo của tính hài
hước - một phẩm chất đáng quí của người lao động.
III. Nhân vật trữ tình : Thường là người mẹ, vợ, chồng, con, chàng trai, cô gái, người
phụ nữ, người dân cày
IV. Đối tượng trữ tình : con người, cảnh vật, sự vật, loài vật …
V. Nghệ thuật : Có nét đặc trưng riêng, đó là những câu thơ, câu ca rất ngắn gọn viết
theo thể lục bát hoặc lục bát biến thể.Ngôn ngữ, hình ảnh mộc mạc, giản dị, chân thực,
hồn nhiên, và gợi cảm (vì đó là lời ăn tiếng nói của người lao động xưa)
VI. Đặc điểm thơ ca dân gian (ca dao - dân ca) : vốn là một bộ phận của văn hóa
dân gian nói chung cho nên nó mang đầy đủ những đặc điểm của văn hóa dân gian đó

a. Tính nhân dân : Lời ăn, tiếng nói, tâm tư, nỗi niềm, khát vọng của quần chúng nhân
dân xưa
b. Tính truyền miệng : Vì chưa có chữ viết nên ca dao chủ yếu được sáng tác theo
phương thức truyền miệng. Hát lên, ngâm lên cho người khác nghe.Sau đó lưu truyền
đời này qua đời khác, thế hệ này qua thế hệ khác
c. Tính tập thể : Vì truyền miệng nên ca dao không còn là sáng tác của một cá nhân mà
trở thành sáng tác của nhiều người, nhiều thế hệ.Vì vậy cho nên những sáng tác này
được đánh giá là những hòn ngọc quý trong kho tàng văm học Việt Nam

PHẦN II: MỞ RỘNG KIẾN THỨC VÊ MỘT SỐ CHỦ ĐÊ TRONG
CA DAO- DÂN CA 
1. CHỦ ĐỀ CA DAO VỀ TÌNH CẢM GIA ĐÌNH
2. CHỦ ĐỀ CA DAO VỀ TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC 
3. CHỦ ĐỀCA DAO VỀ TÌNH YÊU LAO ĐỘNG, TINH THẦN LẠC 
QUAN TRONG CUỘC SỐNG 
4. CHỦ ĐỀ CA DAO VỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
5. CÁC DẠNG BÀI TẬP VÊ TÌM HIỂU CA DAO- DÂN CA 
6. DẠNG BÀI TẬP 1: CẢM NHẬN MỘT BÀI CA DAO 
7. DẠNG BÀI TẬP 2: PHÂN TÍCH MỘT HÌNH ẢNH MANG TÍNH BIỂU 
TƯỢNG TRONG CA DAO 
CHỨNG MINH MỘT NHẬN ĐỊNH VỀ CA DAO 
*LUYỆN TẬP
Hình ảnh con cò trong ca dao

Con cò bay lả bay la...., Con cò mà đi ăn đêm....Những câu ca dao bắt đầu
bằng con cò đã đi vào tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời nay. Con cò thật là gần
gũi, thân quen. Và nó đã trở thành một hình thường đẹp tronh ca dao. Mỗi hi nhắc đến
con cò với những phẩm chất của nó làm ta nghĩ đến hình ảnh của người nông dân, của
người phụ nữ Việt Nam.
* Hình ảnh con cò là hình ảnh của người nông dân .
Người nông dân Việt Nam rất gần gũi và gắn bó với con cò. Họ đã xem cò là bạn. Nhìn
con cò kiếm ăn trên những cánh đồng họ liên tưởng đến cuộc đời và số phận của
mình. ..... Con cò là loài chim sống ở bờ nước, gần cận nhất, gắn bó  nhất và thân thiết
nhất với nhà nông trồng lúa nước. Con cò với dáng đẹp thanh cao, thoát tục.  Cò lạng
bay vút lên không trung rồi thả mình trong gió, mỏ dài, cổ  dài, thân thon nhỏ, chân
dài,  tất cả duỗi thẳng theo một đường thẳng, liệng la đà trên sóng gió.
Con cò sát cánh với nhà nông trong việc đồng ruộng. Cứ đầu mùa mưa tức đầu mùa
xuân ở đất Bắc, cò lại bay về đồng nước báo cho nhà nông biết mùa trồng lúa bắt đầu.
Có loài cò “gọi mưa”  giống như cóc ếch, khi cất tiếng kêu gọi mưa là  nhà nông biết
trời sắp đổ cơn mưa…Rồi đến cuối thu, mùa lúa chín, mùa gặt hái, cò lại rủ nhau cất
cánh bay đi. Ngày ngày nhà nông sáng tinh mơ ra đồng khi bầy vạc đi ăn đêm bay về tổ
buông những tiếng kêu trong vắt trên không trung lúc ban mai, giống như tiếng hạc
trong truyện Kiều  mà Nguyễn Du đã mô tả: ” trong như tiếng hạc bay qua” và mãi tới
chạng vạng tối nhà nông mới trở về nhà khi đàn cò đi ăn ban ngày  gọi nhau bay về tổ,
gõ nhịp  mỏ rộn ràng trong cái tĩnh lặng của hoàng hôn. Trên cánh đồng, con cò đi theo
sau luống cầy bầu bạn cùng nhà nông trong lúc cầy sâu cuốc bẫm . Con cò  trên bờ
ruộng bắt sâu bọ, cào cào, châu chấu, cua cáy… giúp nhà nông một tay trong việc bảo
vệ mùa màng. Con cò trên  mình trâu, bắt ruồi bọ, ve vắt, săn sóc cho con trâu, người
bạn đồng lao đồng tác với nhà nông. Con cò là hình ảnh của cần cù, siêng năng, chịu
khó, chịu khổ, tự  túc, tực cường, chỉ biết trông cậy vào sức mình, chỉ biết tự lực cánh
sinh để  lo cho bản thân, cho con cái, cho gia đình, cho dòng tộc, đất nước giống như
những người nông dân Việt Nam:
Hỏi cò vội vã đi đâu?
Xung quanh mặt nước, một màu bao la.
Cò tôi bay lả bay la,
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng.
Trời sinh, mẹ đẻ tay không,
Nên tôi bay khắp tây đông kiếm mồi.
Trước là nuôi cái thân tôi,
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con.
Một mai khôn lớn vuông tròn,
Rủ nhau bay khắp nước non xa gần.
Kiếm mồi tự lập lấy thân,
Vẻ vang hãnh diện cho dân con cò.
Mỗi ngày một lớn một to,
Chớ đừng ỷ lại mà lo cậy người.
Để cho nông, vạc chê cười.
Ấy tôi lấy thế làm vui tuổi già.
Nên tôi bay lả bay la,
Bay từ cửa tổ, bay ra cánh đồng…
Ngoài ra cò còn loài loài chim sống từng đàn,  sống với gia đình, họ hàng, làng nước
như ta thấy qua các câu ca dao dưới đây, dù trời đêm tăm tối,  sắp đổ cơn mưa, có kẻ
rình mò bắn giết, cò cũng vẫn về thăm chú bác cô dì:
Con cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về,
Cò về đến gốc cây đề,
Có đứa rình bắn, cò về làm chi?
Cò về thăm bá, thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc, thăm dì xứ Đông.
Hàng ngày bên bờ sông rộng, sóng to, cò cần cù lặn lội kiếm ăn:
Cái cò lặn lội bờ sông,
Cổ dài, mỏ cứng, cánh cong, lưng gù,
Bãi xa, sông rộng, sóng to,
Vì lo cái bụng, đi mò cái ăn.
Những lúc mưa to, gió lớn cây quả  cong queo thu hình, con ốc nằm co nghỉ ngơi,
con tôm vui đùa vùng vẫy đánh đáo trong vũng nước bùn thì lại là lúc cò phải dầm mưa
đi kiếm  ăn:
Trời mưa quả dưa vẹo vọ,
Con ốc nằm co,
Con tôm đánh đáo,
Con cò kiếm ăn…
vì những lúc mưa to gió lớn cá tôm mới vào bờ kiếm thức ăn từ  mặt đất trôi xuống và
vì những lúc này nhờ nước đục, cò thấy cá tôm mà cá tôm lại không thấy cò, cho nên
những lúc trời mưa to gió lạnh là lúc cò mới dễ kiếm ăn, như ta thấy qua câu “đục nước
béo cò”. Cũng cần biết thêm là cò chỉ là loài chim sống ở bờ nước, không bơi lội dưới
nước, nên không có chất dầu nhờn làm  cho lông không bị ướt như loài vịt. “Nước đồ 
đầu vịt” không ướt nhưng mưa trút xuống đầu cò, thân cò thì cò bị ướt sũng và trở
thành “cò bợ mắc mưa”. Vì thế trong cảnh mưa to gió lớn, người ướt sũng nước mưa
mà cò cũng phải đi kiếm ăn chẳng khác gì người nông dân làm ruộng trong mưa gió.
Tóm lại con cò là biểu tượng của ao đầm, đồng ruộng nước, của người nông dân cần
mẫn Việt Nam (cũng nên biết ruộng nước có gốc từ ao đầm, ruộng chiêm là ruộng thấp
cò nhiều nước có gốc là ruộng chằm tức đầm ao
*Con cò là biểu tượng cho người phụ nữ đồng ruộng Việt Nam
Hình ảnh còn là hình ảnh của người phụ nữ. Con cò có dáng vẽ mảnh khảnh, có bộ lông
trắng muốt, khi nào cũng cần cù, siêng năng kiếm ăn lám người ta liên tưởng đến người
phụ nữ.....
Qua văn học dân gian ta thấy con cò mẹ mang hình bóng của người phụ nữ Việt Nam
cao đẹp, tuyệt vời:
Con cò lặn lội bờ ao,
Phất phơ hai giải yếm đào gió bay.
Giống như người đàn bà Việt Nam một đời tần tảo, vất vả ngược xuôi, dù  núi cao, dù
sông rộng, dù biển khơi, dù nắng lửa, mưa dầu, dù phong ba, bão tố,  cò vẫn      lặn lội
đi kiếm ăn lo cho chồng con. Cụ Tú Xương  cũng đã so sánh vợ mình với hình ảnh con
cò:
Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Nuôi đủ năm con với một chồng.
gặp những lúc đất nước chinh chiến, loạn ly,  người phụ nữ Việt ngoài việc thay chồng
nuôi mẹ, nuôi con còn phải thăm nuôi cả chồng đi lính trấn giữ biên cương:
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Ở nhà có nhớ anh chăng?
Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.
Cũng như những tấm lòng mẹ Việt Nam, cò mẹ hy sinh tất cả đời mình cho con:
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
dù ngay cả trong đêm tối,  không phải là lúc cò đi kiếm ăn, mà nhiều khi cũng phải liều
thân đi tìm mồi cho con nên cò mẹ đã “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”:
Con cò mày đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi vào,
Tôi có lòng nào ông hãy sáo măng,
Có sáo thì sáo nước trong,
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.
dù ngay cả lúc biết mình sắp chết trong nồi sáo măng, cò mẹ cũng còn nghĩ đến đàn con
thơ dại trong trắng, cò mẹ muốn được chết trong sạch nên cầu xin người “Có sáo thì sáo
nước trong”  vì “sáo nước đục đau lòng cò con”.
Ngoài việc nuôi dưỡng, mẹ cò  cũng một đời lo lắng chăm sóc cho con ăn học nên
người:
Mặt trời lặn xuống bờ ao,
Có con cò mẹ bay vào bay ra.
Cò con đi học đường xa,
Thẩn thơ chỗ nọ, la cà chỗ kia.
Tối rồi mà chẳng chịu về,
Cơm canh mẹ đợi, còn gì là ngon.
Nhiều khi vì mẹ cò thương con quá mà cò con đâm ra nhõng nhẽo:
Cái cò là cái cò con,
Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ.
Mẹ là tất cả,  thiếu mẹ là thiếu tất cả. Những khi cò mẹ phải đi làm nghĩa vụ công dân
như đắp đàng, vét sông,  cò con thiếu ăn, thiếu sự chăm sóc, thấy bơ vơ,  trở thành tuyệt
vọng:
Cái có là cái cò vàng,
Mẹ đi đắp đàng, con ở với ai?
Con ở với bà, bà không có vú,
Con ở với chú, chú là đàn ông.
Thôi con chết quách cho xong.
Tóm lại mẹ cò mang hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam xinh đẹp, yểu điệu “phất
phơ hai giải yếm đào gió bay” nhưng đảm đang, kiêu chồng, cho con, cho nhà, cho
nước.
“Con cò mà đi hùng. Giữa cuộc đời đầy mưa sa gió táp, khi “lên thác xuống ghềnh”,
lúc “bãi xa, sông rộng, sóng to”, khi binh đao khói lửa, hai cái giải yếm đào đó vẫn một
đời tận
tụy cùng cực lo cho ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Con cò trong bài ca dao là hình ảnh ẩn dụ, là biểu tượng về người nông dân “hai sương
một nắng”. Đó là những con người hiền lành, chất phác cần cù, lam lũ, chịu thương
chịu khó trong cuộc đời. Bất hạnh của con cò “lộn cổ xuống ao” cũng là những bất
hạnh, hoạn nạn của nhà nông đứng trước mọi thế lực thống trị và áp bưc trong xã hội.
Sưu cao thuế nặng. Ách thống trị nặng nề của bọn vua quan. Nạn áp bức, bòn rút của
bọn địa chủ, cường hào. “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ” - Nửa công đưa ở, nửa thuê
bò” (Nguyễn Khuyến). Trải qua hàng ngàn năm, người nông dân Việt Nam đã đổ mồ
hôi vất vả làm ra củ khoai, hạt gạo nuôi sống nhân dân, nhưng cuộc đời của họ có khác
gì thân phận con cò trong bài ca dao nay. Tiếng kêu thương của con cò đã vọng vào
cuộc đời theo thời gian năm tháng. Bài ca dao đã gieo vào lòng chúng ta sự xót thương,
đồng cảm với bao nạn nhân trong xã hội, nhất là đối với số phận người nông dân Việt
Nam đêm trước cách mạng Tháng Tám.
Bài ca dao càng trở nên sâu sắc và thấm thía khi chúng ta đọc đến hai câu cuối:
“Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Gặp tai họa chưa chắc đã thoát hiểm: tính mạng nghìn cân treo sợi tóc. Trước cái
chết cầm chắc trong tay, thế mà cò chỉ nghĩ đến bầy con thơ, thương bầy con nhỏ tội
nghiệp. Cò giàu tình thương yêu, giàu đức hy sinh và vị tha. Cò cam chịu số phận.
Những phẩm chất ấy của cò cũng là những đức tính của nhà nông quê ta.
Cái đặc sắc của bài ca dao là ngoài tình cảm nhân đạo còn hàm chứa tư tưởng rất
đẹp. Đã có câu tục ngữ nêu lên cách ứng xử “đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã có bài
ca dao ca ngợi một tâm thế thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bun”. Đã có một
thế đứng cao đẹp như dáng trúc trước hoạn nạn: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”.
Ở đây cũng vậy, qua thân phận con cò, nhà thơ dân gian đã nêu lên một triết lý nhân
sinh tuyệt đẹp, ca ngợi tâm hồn trong sáng, hồn hậu: thà chết trong còn hơn sống đục!
Hai chữ “trong” và “dục” tương phản nhau, lời nguyền của kẻ tử nạn trở nên thống
thiết, khẳng định một lẽ sống đẹp. Chữ “xáo” được điệp lại 4 lần, ý thơ được nhấn
mạnh diễn tả sự đinh của người bất hạnh trong cảnh ngộ đáng thương.
# GV cung cấp cho học sinh các câu ca dao để học sinh phân tích
-Con cò mà đi ăn đêm...
-Cái cò cái vạc cái nông...
-Cái cò lặn lội bờ sông...
-Con cò bay lả bay la…
-Cha sinh mẹ đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nuôi đàn có con
-Con có chết rũ trên cây
Cò con giở sách xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri ríu rít bay ra chia phần
-Cái cò là cái cò con
Mẹ nó yêu nó nó còn làm thơ
Cái cò bay bổng bay bơ
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng
Đem về nàng nấu, nàng rang
Nàng ăn có rẻo thì nàng lấy anh
-Cái cò chết tối hôm qua
Có một hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thơ vong
Một đồng mua mớ rau rong
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò
-Cái cò mày mổ cái tôm
CáI tôm quắp lại lại ôm cái cò
-Cái cò mày mổ cái trai
Cái trai quắp lại lại nhai cái cò
-Con cò mắc giò mà chết
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
Con cu đánh trống bằng tay
Con mào đội mũ làm thầy đọc văn
Chiền chiện vừa khóc vừa lăn
Một bầy se sẻ bịt khăn cho cò
-Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm
HS làm bài rồi GV kiểm tra
Đề 4: Có ý kiến cho rằng: Ca dao than thân không chỉ diễn tả cuộc đời trăm đắng
ngàn cay của người lao động mà còn bộc lộ vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, tình yêu
thương bao la của họ.
Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Hướng dẫn: Lập dàn ý.


a. Mở bài: Gián tiếp
Dẫn dắt: Ca dao dân ca là ca khúc nội tâm của người lao động. Bên cạnh những tiếng
ca ngọt ngào, chan chứa tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình là những câu
hát than thân ai oán nức nở phản ánh số phận người dân lao động cùng với bao tình cảm
đẹp đẽ mà họ gửi gắm vào trong đó.
Nêu vấn đề( luận điểm xuất phát): Đúng như có ý kiến đã cho rằng: Ca dao than thân
không chỉ diễn tả cuộc đời khổ cực, trăm đắng ngàn cay mà còn thể hiện vẻ đẹp tâm
hồn nhân hậu, tình yêu thương bao la của người lao động.
b. Thân bài:
Luận điểm 1: Ca dao than thân đã diễn tả sinh động cuộc đời khổ cực trăm đắng
ngàn cay của người lao động.
+ Trước hết đó là cuộc đời lận đận, vất vả, gian nan, phải đối mặt với biết bao khó
khăn, trắc trở của người nông dân thông qua hình tượng con cò:

Nước non lận đận một mình


Thân cò lên thác xuống gềnh bấy nay.
Hình ảnh con cò đơn độc, yếu ớt giữa bể đời mênh mông với biết bao sóng gió
trái ngang, khi “lên thác, xuống gềnh” chính là biểu tượng xúc động cho cuộc đời người
nông dân lam lũ, đơn côi giữa cõi nhân gian rộng lớn với bao tai ướng bất trắc khôn
lường. Suốt cuộc đời người nông dân phải tất tả ngược xuôi lận đận kiếm ăn, tìm kế
mưu sinh mà vấn đói nghèo cơ cực.
+ Số kiếp của người lao động là kiếp con tằm, cái kiến phải nai lưng làm việc, bị
bòn rút đến cùng kiệt sức lao động mà vẫn đói nghèo cơ cực. Tiếng than cất lên mới ai
oán làm sao:
Thương thay thân phận con tằm

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ


Thương thay lũ kiến tí ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Kiếp tằm sinh ra là để nhả tơ.Đời tằm ăn ít nhả tơ nhiều.Tằm phải rút từ ruột mình
để dâng cho đời những sời tơ dài quí hiếm. Tơ tằm làm đẹp cho người mặc áo nhứng
bản thân tằm thì ngày một khô kiệt và lặng lẽ kết thúc cuộc đời ngắn ngủi.Còn con
kiến thì thân phận nhỏ nhoi hèn kém, ngày này qua tháng khác cứ mải miết tìm mồi
kiếm ăn mà cũng chẳng được là bao. Như con tăm cái kiến, cuộc đời người lao động
phải nai lưng làm việc, bị bọn địa chủ bóc lột đến đến tân xương tuỷ để đem lại sự giàu
sang cho chúng. Còn mình nếu một mai gục chết vì can kiệt sức lực cũng chẳng ai đoái
thương!
+ Những nỗi khổ của người lao động càng được nhân lên bội phần khi mọi cố gắng
của họ đều vô vọng, tương lai mờ mịt, tối tăm:
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Hình ảnh con chim hạc gầy gò, mải miết bay muôn nơi để kiếm ăn mà cuộc đời vẫn vô
định, tương lai vẫn mờ mịt, tối tăm là hình ảnh người lao động kéo dài mãi kiếp sống
lầm than cơ cực, không niềm hy vọng.
+ Tận cùng của nỗi khổ đau là những cảnh đời bế tắc, những kiếp sống vô vọng, hứng
chịu bao nỗi oan khiên, không được lẽ công bằng soi tỏ:
Thương thay con cuốc giữa trời
Dẫu kêu ra máu biết người nào nghe.
Hình ảnh con chim quốc kêu đau đớn, nức nở giữa trời, tiếng kêu ai oán đứt ruột đến
bật ra máu mà vẫn tan vào hư không khíên ta liên tưởng đến người nông dân thấp cổ bé
họng trong xã hội xưa. Họ đã cực khổ trăm bề lại luôn bị dáng xuống đầu bao nỗi oan
khiến, tiếng kêu than đứt ruột, ứa máu của họ là tận cùng của nỗi khổ đau bất hạnh
trong xã hội xưa.
+ Trong xã hội phong kiến khổ đau nhiều hơn cả là người phụ nữ. Ca dao than thân
đã dành một mảng lớn nói về số phận đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ. Đó là
mảng ca dao bắt đầu từ mô típ thân em:
Thân em như trái bần trôi
Thân em như hạt mưa sa
Thân em như giếng nước giữa đàng.
Đằng sau mỗi từ “ Thân em” là mỗi số phận khác nhau, những hình ảnh “ trái bần
trôi” “ Hạt mưa sa” “ Giếng nước giữa đàng” nghe thật tội nghiệp, đó chính là biểu
tượng sinh động cho cuộc đời rẻ rúng, thân phận thấp hèn, bị lệ thuộc vào xã hội phong
kiến, phó mặc cho cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
=> Khái quát: Có thể nói mỗi bài ca dao than thân mỗi cảnh đời, mỗi hình ảnh là biểu
tượng sinh động cho mỗi số phận. Bằng những hình ảnh ẩn dụ sinh động, cu thể, với lối
nói tượng trưng ca dao than thân đã diễn tả xúc động muôn ngàn cảnh đời tối tăm, bế
tắc của người lao động trong xã hội xưa.
Luận điểm 2: Những bài ca dao than thân không chỉ diễn tả một cách xúc động số
phận cay đắng, buồn thương của người lao động xưa mà còn bộc lộ được vẻ đẹp của
tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương của họ( chuyển ý, nêu luận điểm).
+ Trước hết, những con vật hiền lành, bé nhỏ cũng gợi niềm th ương cảm. Hình ảnh con
tằm, cái kiến nhỏ nhoi, hay con còchăm chỉ kiếm ăn trên đồng ruộng cũng gợi bao ám
ảnh trong ca dao than thân, nỗi thương đó gợi niềm liến tưởng đến bao số phận, bao
kiếp người.
+ Cảm động hơn cả tình yêu thương bao la trước cuộc đời trăm đắng ngàn cay củâ
người lao động. Trong ca dao t hân thân, người lao động không chỉ xót xa cho thân
phận của mình mà trái tim họ luôn thổn thức, luôn rung lên những nhịp đập yêu thương
trước nỗi khổ đau của những người cùng cảnh ngộ. Điệp khúc “thương thay” khắc
khoải vang lên trong suốt 8 dòng ca dao đã mổ ra dằng dặc bao nỗi thương khác nhau
đối với cuộc đời cơ cực, đớn đau của người lao động.Những nỗi thướng đó chính là sự
đồng cảm cao độ, tiếng đồng vọng chung của những tấm lòng để làm vơi đi phần nào
những bất hạnh, đói nghèo, khốn khổ mà xã hội bất công mang lại.
+ Trong xã hội phong kiến, tấm lòng yêu thương, nhân hậu của người lao động luôn
hướng đến người phụ nữ. “ Thân em” vừa là tiếng than tội nghiệp của những người phụ
nữ than cho thân phận của mình nhưng đồng thời cũng là sự hoá thân cao độ của biết
bao tấm lòng giành cho họ.Dường như sau mỗi tiếng “ Thân em” cất lên là dồn nén
bao nức nở nghẹn ngào trước những bất hạnh trái ngang của người phụ nữ.
Có thể nói rằng:tình yêu thương và trái tim nhân hậu của người lao động trong những
bài ca dao thân thân đã làm nên sức lay động lơn cho mỗi bài, để lại trong lòng ta bao
nỗi xúc động không thể nào quên.
* Đánh giá: +Với cách thể hiện thật đa dậng và sinh động thông qua những hình ảnh ẩn
dụ cụ thể và những mô típ quen thuộc thật giàu ý nghĩa.
+ Là bức tranh sinh động về số phận của người lao động đồng thời ta thấy
lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn người VN.
+ Những bài ca dao thật buồn nhưng nỗi buồn ấy có sức nâng đỡ tâm hồn
mỗi người, làm c ho chúng ta lớn lên, tâm hồn sáng trong đẹp đẽ.
c. Kết bài: Có thể khẳng định lại ca dao than thân không chỉ diễn tả số phận khổ đau
của người lao động mà còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn sáng trong cao đẹp của họ.Chính
điều này đã làm nên sức sống bất diệt của những bài ca dao xưa.

PHẦNN II
BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC-
LÀM MẪU CÁCH NGHỊ LUẬN VỀ 1 ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
ĐỀ BÀI 1.
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng
nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy
càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc
Bọn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý
vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm
áp chân thành.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất
ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng
là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Nhận xét, đánh giá, bình luận  Luận điểm 1: Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như
lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường
cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy
khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. bình luận  Cách xưng hô thân mật bằng
bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó
trọng tình giữa chủ và khách. đánh giá  Câu thơ giống như lời chào quen thuộc
hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ
gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm
là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân
thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời ị lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã
lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn.
Nhận xét, đánh giá, bình luận  Luận điểm 2: Thông thường theo phép tắc xã giao
khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn.
Nhưng sau lời hào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia
đình:
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
 Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình. Ngôn ngữ
thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Phân tích  Có tất cả mà cũng chẳng có gì
để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng ...
Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù,
bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Cảm xúc, suy
nghĩ  Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá
và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng?
Phân tích nghệ thuật  Các từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng
(khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô
ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ
này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu.
Dân gian có câu:
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Nhận xét, đánh giá, bình luận  Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ
lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hoá cái nghèo của mình. Một ông quan to
triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng
trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày
tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương
bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương.
Cảm xúc, suy nghĩ  Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều
không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun
đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan
trọng nhưng không phải là tất cả. Liên hệ  Thật xúc động khi đọc nhưng dòng thơ
thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Bác với tôi hôm sớm cùng nhau...
                           (Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)
Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỉ tri âm với nhau
cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần
bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh - ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ.
Bác đến chơi đây, ta với ta
Nhận xét, đánh giá, bình luận  Luận điểm 3: Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình.
Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng.
Phân tích  Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến
thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được. Mong tiếp bạn
bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy
hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm,
trọng tình bằng hữu. Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình
cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng.
  Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp
đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong
bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người.
Liên hệ  Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới
thấy hết được ý vị của nó:
Từ trước bảng vàng nhà có sẵn
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi
(Gửi bác Châu Cầu)
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo
sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống
thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết
ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa
nay.
Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý
thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.

BT.
Bài thơ được lặp ý bằng cách dựng lên một tình huống hoàn toàn không
có gì tiếp bạn nhưng thể hiện được tình bạn đậm đà thắm thiết. Em có
tán thành ý kiến trên không? Vì sao? Từ đó em hãy trình bày suy nghĩ
của em về tình bạn trong cuộc sống?

************************************************
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ BIỂU ĐẠT
CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG ĐOẠN THƠ, ĐOẠN VĂN
I. Cách làm chung
1. Mở đoạn
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, Câu thơ, đoạn thơ (câu văn, đoạn văn) cần phân tích tác
dụng của biện pháp tu từ. (Nghĩa là trả lời cho câu hỏi: Câu thơ, đoạn thơ (câu văn,
đoạn văn) đó nằm trong văn bản nào, của tác giả nào?)
- Giới thiệu, gọi tên các biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ, đoạn thơ (câu văn,
đoạn văn).
- Nêu cảm nhận chung.
Ví dụ: Cảm nhận của em về cái hay trong cách sử dụng các biện pháp tu từ ở hai câu đầu
bài Cảnh khuya.
Tham khảo:
Cách 1: Trong hai câu đầu của bài “Cảnh khuya”, tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng biện
pháp so sánh và điệp ngữ thật đặc sắc và ý nghĩa
Cách 2: Trong văn bản “Cảnh khuya”, tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng các biện pháp
so sánh, diệp ngữ đặc sắc, giàu ý nghĩa ở hai câu đầu.
Cách 3: Trong văn bản “Cảnh khuya”, tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng các biện pháp
so sánh, diệp ngữ đặc sắc, giàu ý nghĩa để miêu tả vẻ đẹp bức tranh cảnh khuya núi
rừng Việt Bắc ở hai câu đầu.
2. Thân đoạn: Gồm các bước:
Bước 1: Chỉ ra biểu hiện cụ thể của phép tu từ. Nghĩa là chỉ rõ, biện pháp tu từ đó đó
được tác giả sử dụng như thế nào trong câu thơ, đoạn thơ.
Chẳng hạn:
+ Nếu là so sánh thì so sánh cái gì với nhau?
+ Nếu là ẩn dụ thì phải chỉ ra được hình ảnh ẩn dụ là hình ảnh nào?
+ Nếu là nhân hóa thì cái gì được nhân hóa?
+ Nếu là điệp từ thì phải chỉ ra là điệp từ nào? Điệp bao nhiêu lần?
Ví dụ: Với đề trên
- So sánh: Tiếng suối – tiếng hát
- Điệp từ “lồng”
Bước 2: Nêu rõ tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó
* Dựa vào đặc điểm của các biện pháp tu từ để nêu tác dụng
Chẳng hạn:
+ Nếu là so sánh, thì phải chỉ rõ
Giá trị gợi hình: Hình ảnh so sánh giúp người đọc có sự hình dung như thế nào?
Giá trị gợi cảm: Từ hình ảnh so sánh, người viết đã bày tỏ thái độ và tình cảm gì?
+ Nếu là nhân hóa:
Làm cho sự vật vô tri, vô giác bỗng trở nên gần gui, quen thuộc, sống động, có
hồn, có cảm xúc
Thể hiện tình cảm của người viết một cacchs sâu sắc và tế nhị
+ Nếu là điệp từ: nhấn mạnh, làm nổi bật sự vật, tính chất, đặc điểm của sự vật.
Lưu ý: nếu đoạn văn, đoạn thơ sư dụng nhiều biện pháp nghệ thuật thì:
+ Lần lượt chỉ ra và phân tích hiệu quả thẩm mĩ của từng biện pháp
+ Khái quát hiệu quả chung của các biện pháp nghệ thuật đó trong toàn đoạn
Ví dụ: Đối với đề trên, có thể chỉ ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật như sau:
+ Biện pháp so sánh: Tiếng suối như tiếng hát
Cách so sánh này giúp ta hình dung được: âm thanh tiếng suối từ xa vọng lại êm
ái, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng hát của con người.
Đọc câu thơ, người đọc như cảm nhận được, tiếng suối vô hồn, lạnh lẽo bỗng
trở nên sống động, có hồn.
So sánh kết hợp với nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm nổi bật sự yên tĩnh, vẻ đẹp
tĩnh lặng của đêm trăng rừng. Tiếng suối được ví như tiếng hát cho thấy con người là
trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Không gian chìm trong yên tĩnh mà vẫn mang hơi
ấm của con người, vẫn ấm tiếng người, tiếng hát. Làm cho cảnh núi rừng đêm khuya
mà xiết bao gần gũi, yêu thương, đêm chiến khu mà bình yên quá đỗi.
=> Như vậy, chỉ bằng biện pháp so sánh ở câu thơ đầu, Hồ Chí Minh đã gợi vẻ đẹp
đêm trăng rừng Việt Bắc qua ấn tượng âm thanh.
+Điệp từ: Từ lồng được nhắc lại 3 lần trong một câu thơ
Giúp ta hình dung: ánh trăng lồng vào cổ thụ, bóng cổ thụ lồng vào những bông
hoa hay ánh trăng lồng vào cổ thụ, bóng cổ thụ in hình xuống mặt đất như những bông
hoa xinh xắn tạo nên bức tranh trăng lung linh, huyền ảo.
Điệp từ “lồng” có tác dụng làm cho cảnh vật đan lồng vào nhau tạo nên bức
tranh nhiều tầng lớp, đường nét, hình khối lung linh ánh sáng. Nét đậm là dáng hình cổ
thụ trên cao lấp lánh ánh sáng, nét nhạt là bóng cây là lung linh xao động trên mặt đất.
Điệp từ “lồng” còn có tác dụng, làm cho ba vật thể (Trăng, cổ thụ, hoa) vốn dĩ
cách xa nhau đan cài quấn quýt, hoà quyện vào nhau, soi sáng cho nhau rất hữu tình.
Lưu ý: nếu người đưa ra đoạn văn, đoạn thơ là một nhân vật trong tác phẩm thì sau khi
phân tích xong tác dụng, phải chỉ ra tình cảm của người đó trước khi đánh giá tác giả.
Bước 3: Đánh giá tác giả: tài năng và tấm lòng.
Ví dụ: Với đề trên
- Tài năng: Các biện pháp tu từ đó góp phần tạo nên bức tranh trăng đêm rừng Việt bắc
rất đẹp, nên thơ, lung linh ánh sáng.
- Tấm lòng: Qua đó cho thấy tâm hồn nhà thơ- tâm hồn thi sĩ nhạy cảm với cái đẹp và
có tìnhyêu thiên nhiên say đắm.
3. Kết đoạn: Nêu cảm nghĩ của em về biện pháp tu từ được sử dụng
II. Luyện tập
1. Cảm nhận của em về cái hay trong cách sử dụng điệp từ “vì” trong bài thơ
Tiếng gà trưa của tác giả Xuân Quỳnh:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ Quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ô trứng hồng tuổi thơ”
Gợi ý:
Bước 1: Khổ cuối bài TGT tác giả XQ đã sử dụng biện pháp điệp từ vì thật đặc sắc và ý
nghĩa.
Bước 2: Chỉ rõ: Điệp từ vì được nhắc lại 4 lần chủ yếu là đầu mỗi dòng thơ
Bước 3: Tác dụng:
Nhấn mạnh những lí do cầm súng của người chiến sĩ: rất lớn lao cao cả nhưng
cũng rất bình thường, giản dị.
Làm nổi bật, khắc sâu mối quan hệ giữa các tình cảm đó, tình yêu Tổ quốc bắt
nguồn từ những điều bình thường, giản dị: tình cảm dành cho người thân ruột thịt, những
kỉ niệm bình dị của tuổi thơ. Những tình cảm đó là cội nguồn sâu xa của tình yêu tổ quốc,
làm ch tình yêu tổ quốc nồng nàn hơn, tha thiết hơn trong trái tim người chiến sĩ.
- Diễn tả tình yêu tổ quốc thiết tha, cháy bỏng, thôi thúc người chiến sĩ cầm chắc tay
súng, chiến thắng kẻ thù.
- Góp thêm một định nghĩa về tình yêu Tổ quốc đơn sơ, giản dị mà sâu sắc.
=> Mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ là lẽ sống cao đẹp của cả dân tộc ta thời
đại đánh Mĩ anh hùng.
Bước 4: Đánh giá:
- Tài năng: Ngòi bút tài hoa của nữ sĩ XQ trong việc sử dụng thơ ngũ ngôn với biện
pháp tu từ đặc sắc để diễn tả tình cảm cao đẹp.
- Tấm lòng: Trái tim yêu thương, tấm lòng gắn bó sâu nặng với đất nước
2. Cảm nhận của em về cái hay trong cách sử dụng biện pháp tu từ trong khổ
đầu bài thơ Tiếng gà trưa của tác giả Xuân Quỳnh:
Gợi ý:
Bước 1: Trong khổ thơ đầu bài “TGT”, tác giả Xuân Quỳnh đã sử dụng biện pháp tu từ
thật đặc sắc và ý nghĩa.
Bước 2, 3: Chỉ rõ và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ
* Điệp từ nghe được nhắc lại 3 lần, đầu mỗi dòng thơ, gợi cảm giác tiếng gà như ngưng
lại, lắng đọng lại trong không gian và đọng lại trong lòng người. Diễn tả được cảm xúc
đang trào dâng dào dạt trong lòng người chiến sĩ.
* Kết hợp với nghệ thuật: ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và đảo ngữ: xao động nắng trưa
co thấy, người chiến sĩ cảm nhận âm thanh tiếng gà trưa không chỉ bằng tai, bằng mắt
mà bằng mọi giác quan, bằng cả tâm hồn, bằng hồi tưởng
=> Diễn tả tác động diệu kì của âm thanh tiếng gà: Âm thanh Tiếng gà trưa cất lên làm
cho nắng trưa trở nên lung linh, xao động, không gian trưa yên ắng bỗng trở nên sống
động lạ tương; xua đi bao vất vả mệt nhọc trên đường hành quân, nâng đỡ bước chân
người chiến sĩ và tiếp thêm sức mạnh cho họ. Đặc biệt, âm thanh ấy còn gọi về cả một
trời kỉ niệm tuổi tơ yêu dấu ở làng quê, về những năm tháng ấu thơ sống bên bà.
=> Tâm trạng của người chiến sĩ: Bồi hồi, bâng khuâng, xao xuyến, hạnh phúc
Bước 4: Đánh giá:
- Tài năng: Ngòi bút tài hoa của nữ sĩ XQ trong việc sử dụng thơ ngũ ngôn với biện
pháp tu từ đặc sắc để diễn tả tình cảm cao đẹp.
- Tấm lòng: Trái tim yêu thương, tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, với những
kỉ niệm tuổi thơ.
3. Cái hay trong cách sử dụng biện pháp tu từ trong hai câu đầu bài Cảnh khuya
Bước 1: Trong hai câu đầu bài cảnh khuya, Hồ Chí Minh đã sử dụng biện pháp tu từ so
sánh và nhân hoá thật hay và giàu ý nghĩa.
Bước 2, 3: Nêu và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ
* Biện pháp so sánh: Tiếng suối như tiếng hát
- Cách so sánh này giúp ta hình dung được: âm thanh tiếng suối từ xa vọng lại êm ái,
trong trẻo, ngọt ngào như tiếng hát của con người.
- Đọc câu thơ, người đọc như cảm nhận được, tiếng suối vô hồn, lạnh lẽo bỗng trở nên
sống động, có hồn.
- So sánh kết hợp với nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm nổi bật sự yên tĩnh, vẻ đẹp tĩnh
lặng của đêm trăng rừng. Tiếng suối được ví như tiếng hát cho thấy con người là trung
tâm của bức tranh thiên nhiên. Không gian chìm trong yên tĩnh mà vẫn mang hơi ấm
của con người, vẫn ấm tiếng người, tiếng hát. Làm cho cảnh núi rừng đêm khuya mà
xiết bao gần gũi, yêu thương, đêm chiến khu mà bình yên quá đỗi.
=> Như vậy, chỉ bằng biện pháp so sánh ở câu thơ đầu, Hồ Chí Minh đã gợi vẻ đẹp đêm
trăng rừng Việt Bắc qua ấn tượng âm thanh.
* Điệp từ: Từ lồng được nhắc lại 3 lần trong một câu thơ
- Giúp ta hình dung: ánh trăng lồng vào cổ thụ, bóng cổ thụ lồng vào những bông hoa
hay ánh trăng lồng vào cổ thụ, bóng cổ thụ in hình xuống mặt đất như những bông hoa
xinh xắn tạo nên bức tranh trăng lung linh, huyền ảo.
- Điệp từ lồng có tác dụng làm cho cảnh vật đan lồng vào nhau tạo nên bức tranh nhiều
tầng lớp, đường nét, hình khối lung linh ánh sáng. Nét đậm là dáng hình cổ thụ trên cao
lấp lánh ánh sáng, nét nhạt là bóng cây là lung linh xao động trên mặt đất.
- Điệp từ lồng còn có tác dụng, làm cho ba vật thể (Trăng, cổ thụ, hoa) vốn dĩ cách xa
nhau đan cài quấn quýt, hoà quyện vào nhau, soi sáng cho nhau rất hữu tình.
Bước 4: Khái quát:
- Các biện pháp tu từ đó góp phần tạo nên bức tranh trăng đêm rừng Việt bắc rất đẹp,
nên thơ, lung linh ánh sáng.
- Qua đó cho thấy tâm hồn nhà thơ- tâm hồn thi sĩ nhạy cảm với cái đẹp và có tìnhyêu
thiên nhiên say đắm.
4. Cái hay trong cách sử dụng cụm từ ta với ta qua hai bài thơ qua đèo Ngang và
Bạn đến chơi nhà (So sánh cụm từ ta với ta trong bài thơ qua đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan và cụm từ ta với ta trong bài thơ Bạn đến chơi nhà của
Nguyễn Khuyến).
Dàn ý:
A. Mở bài:
- Văn học Trung đại Việt nam thế kỉ XIX đánh dấu những mốc son chói lọi của văn học
Việt nam suốt hàng chục thế kỉ qua gắn liền với hai tên tuổi nổi bật là Bà Huyện Thanh
Quan và tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
- Điểm gặp gỡ kì diệu của hai bài thơ “Qua đèo Ngang” và “Bạn đến chơi nhà” là hai
bài đều sử dụng cụm từ “ta với ta”. Tuy nhiên, sắc thái biểu cảm của hai cụm từ này
trong hai bài thơ lại rất khác nhau.
B. Thân bài:
* Sắc thái biểu cảm:
- Cụm từ “ta với ta trong bài “Qua đèo Ngang” chỉ mộ người và một tâm trạng. “ta - Bà
Huyện Thanh Quan, một lữ khách xa nhà, là nhân vật trữ tình của bài thơ đang đối diện
với lòng mình giữa đất trời bao la, mênh mông, vắng lặng, hoang sơ chốn đèo Ngang.
Một mình ôn nỗi hoài cổ không biết chia sẻ cùng ai và cô đơn đến tê lòng. Hình tượng
con người cô đơn đến tuyệt đỉnh giữa bóng chiều tà ở đèo Ngang.
- Trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến, cụm từ “ta với ta” được hiểu
theo cách khác:
+ Ta với ta chỉ hai người: là nhà thơ Nguyễn Khuyến và người bạn của mình, là chủ và
khách, là tôi và bác,
+ Cụm từ ta với ta ở đây là những người bạn hiểu nhau, gắn bó tri kỉ, tri âm với nhau.
Cụm từ này đã giao hòa tuyệt đối giữa hai người bạn tri âm, tri kỉ.
+ Khi xưng hô “tôi và bác” tách bạch làm hai. Khi nói “ta với ta” thì hai người đã gắn
bó làm một.
+ Đại từ “ta” được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển, sáng tạo: vừa là ngôi thứ nhất vừa
là ngôi thứ hai, vừa số ít vừa số nhiều. Cách sử dụng cụm từ này thể hiện rõ nét niềm tự
hào, kiêu hãnh của Nguyễn Khuyến về tình bạn của mình, một tình bạn thủy chung, gắn
bó, đồng điệu về tâm hồn, lẽ sống. Tình bạn vượt lên mọi giá trị vật chất, chỉ cần tôi và
bác, chỉ cần “ta với ta” là có tất cả. Tình bạn tự nó là một bữa tiệc tình thần, cần gì đến
mâm cao cỗ đầy.
* Đánh giá, nâng cao:
- Đây là sự gặp gỡ của những tâm hồn thi sĩ lớn.
- Sự kì diệu ấy xảy ra bởi sự giàu đẹp của tiếng việt.
- Cách sử dụng đại từ “ta với ta” đã góp phần làm nên cái hay của hai bài thơ và để lại
suy ngẫm cho nhiều thế hệ độc giả.
*************************************************
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN
A. Lí thuyết
1. Văn nghị luận: là văn bản viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một quan
điểm, tư tưởng nào đó.
2. Đặc điểm văn nghị luận:
a. Luận điểm:
- Là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của người viết
- Hình thức: câu khẳng định (hoặc phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán.
+ -- - Vai trò: là sợi chỉ đỏ xuyện suốt bài văn , là linh hồn của bài văn nghị luận, nó
thống nhất các đoạn văn thành 1 khối.
- Yêu cầu:
+ Hình thức: ngắn gọn, sáng rõ ý, dễ hiểu
+ Nội dung: Luận điểm phải đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có
sức thuyết phục.
- Lưu ý: Một bài văn nghị luận có thể có 1 luận điểm chính và các luận điểm phụ.
+ Luận điểm chính: Thường nằm ở phần Mở bài
+ Luận điểm phụ: ở phần Thân bài. Mỗi luận điểm phụ thường được thể hiện bằng đoạn
văn
b. Luận cứ: là những lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở đề thuyết phục luận điểm
- Lí lẽ: là lời văn giải thích, phân tích rõ ràng, sắc bén, thấu đáo
- Dẫn chứng: là những bằng chứng xác thực, tiêu biểu được mọi người thừa nhận
c. Lập luận
- Là cách sắp xếp luận cứ để dẫn tới luận điểm
- Là cách sắp xếp luận điểm phụ để thuyết phục luận điểm chính
VD: Chống nạn thất học
- Ý kiến: Chống nạn thất học, nâng cao dân trí.
Câu luận điểm : Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao
dân trí.
+ Nguyên nhân chống nạn thất học: xuất phát từ thực trạng của đất nước
+ Mục đích chống nạn thất học: để xây dựng nước nhà.
+ Cách thực hiện việc chống nạn thất học: 3 luận cứ
Người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ
Người chưa biết chữ phải cố gắng học
Phụ nữ lại càng phải học

3. Đoạn văn nghị luận:


- Hình thức: Tính từ chỗ viết hoa lùi vào đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng
- Nội dung: thông thường: làm sáng tỏ luận điểm
- Cách trình bày:
+ Diễn dịch: Luận điểm  luận cứ 1  luận cứ 2 … (Đánh giá)
+ Tổng phân hợp: Luận điểm  luận cứ 1  luận cứ 2  luận cứ 3  luận điểm kết
luận
+ Quy nạp: Luận cứ 1  luận cứ 2  luận cứ 3  luận điểm
4. Cách viết các đoạn văn nghị luận:
a. Cách 1: Viết đoạn văn nghị luận có câu nêu luận điểm đứng đầu đoạn văn (đoạn văn
diễn dịch)
Mô hình:
Câu 1 (Câu nêu luận)

Câu 2 Câu 3 Câu 4 …


Ví dụ: “Trăng trong thơ bác thật đẹp” (1). Đó là ánh trăng “lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
giữa rừng khuya Việt Bắc (2). Đó là ánh trăng lung linh trên sông nước mùa xuân (3).
Đó là ánh trăng ngàn đầy con thuyền kháng chiến (4). Đó là ánh trăng làm đắm say,
ngây ngất lòng người (5).
b. Cách 2: Viết đoạn văn nghị luận có câu nêu luận điểm đứng cuối đoạn văn (đoạn
văn quy nạp). Nghĩa là các câu đầu đoạn dẫn dắt đi tới câu cuối đoạn là câu tóm lại ý
chính, ý khái quát toàn diện
Câu1 Câu2 Câu 3 Câu 4
Câu 5
Ví dụ: Trăng giữ rừng khuya Việt Bắc là “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (1). Trăng
trong đêm rằm tháng giêng là ánh trăng lung linh giữ sông nước mùa xuân (2). Là ánh
trăng ngân đầy trên con thuyền kháng chiến (3). Là ánh trăng làm đắm say, ngây ngất
lòng thi nhân (4). Quả thật, “trăng trong thơ Bác rất đẹp” (5).
c. Cách 3 Viết đoạn văn nghị luận theo cấu tạo tổng - phân - hợp (nghĩa là câu đầu nêu
ý khái quát toàn đoạn; các câu tiếp làm roc cho ý chính, triển khai ý chính; câu cuối
khái quát lại, mở rộng, nâng cao)
Ví dụ: Rất nhiêu nhà phê bình đã từng nhận xét “Trăng trong thơ Bác rất đẹp” (1). Đọc
bài thơ “Cảnh khuya” ta sẽ thấy rất rõ điều đó (2). Vì ta bắt gặp ở đây vẻ đẹp “Trăng
lồng cổ thụ bống lồng hoa”, một vẻ đẹp vừa hiện đại vừ cổ kính, vừa thực vừa ảo…(3)
Và đây nữa, ta còn bắt gặp ánh trăng trong đêm nguyện tiêu (4). Một vầng trăng xuận
lung linh trên sông nước mùa xuân (5). Một con thuyền ăm ắp ánh trăng xuân (6). Quả
thật, “trăng trong thơ Bác rất đẹp” (7).
B. Luyện tập
Đề 1: Viết đoạn văn triển khai luận điểm: Ca dao than thân diễn tả xúc động số
phận khổ đau của người lao động

*****************************************

PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI KẾT BÀI HAY

(ÔN THI HỌC SINH GIỎI)


Có nhiều yếu tố để làm nên một bài văn hay, và người ta thường chú trọng phần nội
dung (thân bài) mà quên đi rằng mở bài và kết bài cũng quan trọng không kém. Mở bài
đánh dấu bước khởi đầu trong quá trình trình bày vấn đề nghị luận, và kết bài cho ta
biết việc trình bày vấn đề đã kết thúc để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Để viết
được một mở bài và kết bài hay, lôi cuốn cũng là một kĩ năng rất quan trọng.
I. PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI

1. Tầm quan trọng của một mở bài hay:


Nhà văn M.Gorki đã từng nói: “Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng
như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất
lâu”. Thật vậy, nhiều bạn trẻ thường gặp khó khăn trong việc mở đầu bài văn của mình.
Một mở đầu hay sẽ giúp các bạn có thêm cảm hứng cho bài viết của mình, giúp bài viết
được trôi chảy hơn. Mở bài hay còn tạo ấn tượng cho giám khảo. Và người đọc thấy
được sự thích thú khi cảm nhận bài văn ngay từ phần mở đầu thì có thể khẳng định
được chất lượng bài văn đạt giá trị cao. Một bài văn cần nhiều kỹ năng và mở bài là
một kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định đúng hướng và đi sâu vào vấn
đề cần thể hiện.
2. Các yếu tố của một mở bài hay:

Để có một mở bài hay cho một bài viết không hề dễ dàng, hay ở đây không chỉ là nội
dung thể hiện đủ đúng ý mà mở bài hay còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn từ
viết hay, ngôn ngữ của mỗi người là khác nhau vì cách cảm nhận văn học trong mỗi
người là khác nhau nên trau dồi về kiến thức văn học cũng quan trọng. Có hai nguyên
tắc để viết mở bài hay: thứ nhất là nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài hay còn gọi là
làm “trúng đề”; thứ hai là chỉ được phép nêu những ý khái quát về vấn đề hay là tóm tắt
nội dung thể hiện trong bài viết một cách súc tích nhưng vẫn thể hiện ý rõ diễn đạt.

Một mở bài hay cần có các yếu tố:

-  Ngắn gọn: ở đây được hiểu mở bài hay ngắn gọn là ngắn về số lượng câu và nội dung
thể hiện, số lượng câu chỉ cần khoảng 4 - 6 câu, nội dung chỉ cần sự tóm tắt ngắn gọn.
Phần mở bài quá dài dòng không những khiến bạn mất thời gian mà còn khiến bạn bị
cạn kiệt ý tưởng cho phần thân bài, đôi khi mở bài dài quá khiến sai lệch ý trong cách
thể hiện. Hãy viết mở bài là sự tóm tắt, khơi nguồn nội dung ít để người đọc cảm nhận
được sự tò mò và đi chinh phục nội dung tiếp theo ở phần thân bài

-  Đầy đủ: Một mở bài hay đầy đủ là phải nêu được vấn đề nghị luận, câu nói dẫn dắt,
ngắn nhưng đầy đủ ý mới quan trọng, vấn đề chính cũng như nội dung quan trọng bắt
buộc phải nhắc đến phần mở bài.

-  Độc đáo: Độc đáo trong một mở bài hay là gây được sự chú ý cho người đọc về vấn
đề cần viết bằng những liên tưởng khác lạ, tưởng tượng phong phú trong các bài văn
miêu tả, kể tạo sự thu hút bất ngờ cho người đọc. Sự độc đáo trong mở bài khiến bài
viết của các bạn trở nên nổi bật và nhận được sự chú ý và theo dõi của mọi người về
chất lượng bài văn.

- Tự nhiên: Dùng ngôn từ giản dị, mộc mạc trong cách viết bài, đặc biệt thể hiện ở phần
mở bài là cần thiết để có một mở bài hay.

Phần mở bài có ảnh hưởng đến cảm xúc, tâm  lý người chấm nên sự đầu tư kỹ càng về
kiến thức và kỹ năng cho phần mở bài để tránh lạc đề, sơ sài hay dài dòng, tuân thủ
những nguyên tắc hay những yếu tố cơ bản là cần thiết trong việc tạo một mở bài hay
và ý nghĩa.

3. Cách viết mở bài hay


Thông thường có hai cách mở bài:

a) Trực tiếp (cách này thường dành cho các bạn học sinh trung bình): Là cách đi
thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm hiểu đề và tìm được vấn đề
trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy
nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày cho đủ ý, không nói thiếu nhưng cũng
không nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ các yêu cầu của một phần mở bài đúng
mực trong nhà trường. Đặt vấn đề theo cách trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ
tiếp nhận, tuy nhiên thường khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết.

Nếu đề bài yêu cầu nghị luận về tác phẩm thì mở bài phải giới thiệu được tên tác giả,
phong cách thơ tác giả, tên tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, trích dẫn khổ thơ, hoặc giới
thiệu vấn đề nghị luận.

b) Gián tiếp (dành cho các bạn khá – giỏi): Với cách này người viết phải dẫn dắt vào
đề bằng cách nêu lên những ý có liên quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây sự
chú ý cho người đọc sau đó mới bắt sang luận đề. Người viết xuất phát từ một ý kiến,
một câu chuyện, một đoạn thơ, đoạn văn, một phát ngôn của nhân vật nổi tiếng nào
đó,...
dẫn dắt người đọc đến vấn đề sẽ bàn luận trong bài viết. Mở bài theo cách này tạo được
sự uyển chuyển, linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc.

Các cách mở bài gián tiếp:

So sánh: So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện
giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Cách mở bài so sánh gây thích thú cho người đọc vì
nó chứng tỏ người viết có kiến thức văn học phong phú. Có nhiều cách làm phần mở bài
theo dạng so sánh. Tác phẩm thì có tác giả, đề tài, chủ đề, nội dung, cảm hứng, thể loại,
giai đoạn, giá trị, nhân vật… nên người viết có thể đối chiếu điểm giống nhau, khác nhau
hoặc vừa giống vừa khác của một trong các vấn đề đó.

Đi từ đề tài: Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một đề tài nào đó. Hiểu điều này,
cùng với kiến thức lí luận văn học “Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm”, người viết nghị luận văn học sẽ dễ dàng giới thiệu vấn đề một cách rành mạch.
Các nhà văn viết về mùa thu thì đề tài là mùa thu; viết về tình bạn, tình yêu, tình cảm gia
đình thì đó cũng là đề tài.
Đi từ giai đoạn: Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác
nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác
phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu “triết học gia” ham tìm
tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn.

Đi từ thể loại: Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể
loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải
mã nghệ thuật trong tác phẩm.

Trích dẫn một câu nói, một câu thơ hoặc từ một triết lí cuộc sống
II. PHƯƠNG PHÁP VIẾT KẾT BÀI

1. Tầm quan trọng của kết bài:

Kết bài trong văn nghị luận là một phần khá quan trọng bởi đây là phần sẽ tạo dư
âm cho bài viết. Nếu kết bài có sức nặng sẽ tạo nên những cảm xúc rất tốt cho
người đọc. Kết bài là phần kết thúc bài viết, vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề đã
được đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài, đồng thời mở ra hướng suy nghĩ mới, tình
cảm mới cho người đọc. Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở
mở bài và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho
bài văn.

2. Các yêu cầu viết kết bài hay:

Giống như phần mở bài, phần này chỉ nêu lên những ý khái quát, không trình bày lan
man, dài dòng hoặc lặp lại sự giảng giải, minh họa, nhận xét một cách chi tiết như ở
phần thân bài. Một kết bài thành công không chỉ là nhiệm vụ "gói lại" mà còn phải "mở
ra" - khơi lại suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Thâu tóm lại nội dung bài viết không có
nghĩa là nhắc lại, lặp lại mà phải dùng một hình thức khác để khái quát ngắn gọn; khơi
gợi suy nghĩ hay tạo dư ba trong lòng người đọc; là câu văn khi đã khép lại vẫn khiến
cho người đọc day dứt, trăn trở, hướng về nó.
3. Cách viết mở bài hay:

- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan
điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng
cao vấn đề.

CÁC CÁCH MỞ BÀI HIỆU QUẢ GV CẦN NẮM KHI ÔN HSG KHỐI
789, ÔN CHUYÊN.
1. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT
2. NGHỊ LUẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH, THƠ, VĂN XUÔI
3. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ SO SÁNH CÁC TÁC PHẨM
4. CÁCH MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
a.ĐỀ TÀI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, PHÁP.
b.MỞ BÀI VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN / NHỮNG CON NGƯỜI BẤT HẠNH
4.1. Mở bài bằng nhận định tác giả và quan niệm sáng tác
4.2. Mở bài bằng chủ đề hay hình tượng trung tâm
4.3.Bình luận mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Chứng minh bằng
một số tác phẩm.
4.4.ở bài nghị luận xuất phát từ lý luận văn học
4.5. Mở bài về thơ ca
4.6. Mở bài văn xuôi
5. Mở bài giới thiệu sự trường tồn của tác phầm trong lòng người đọc.
5.1. Đi từ tác phẩm/tác giả
5.2.Đi từ tác phẩm/tác giả
5.3.Đi từ một nhận định
5.4.Sử dụng châm ngôn, ca dao, tục ngữ để bắt đầu
5.5.Đi từ hoàn cảnh sáng tác
5.6. Đi từ chủ đề
5.7 .So sánh
5.8. Phản đề
6. Mở bài theo lối đồng điệu cùng chủ đề.
7.Mở bài thông thường
8. Mở bài cho một chi tiết truyện

=> TẤT CẢ CÁC PHẦN NÀY ĐÃ CÓ MỘT BỘ CÁCH MỞ BÀI RIÊNG Ạ, GỦI KHI THẦY
CÔ LẤY TRỌN BỘ.

CHUYÊN ĐỀ: QUÊ HƯƠNG- TẾ HANH


P1. - KIẾN THỨC VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM.
- CÁCH NGHỊ LUẬN, NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM

Quê hương của Tế Hanh nhìn từ phía đề từ

1.Với tư cách là "thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm"(1), lời đề từ "Chim
bay dọc biển đem tin cá" trong bài thơ Quê hương nổi tiếng của Tế Hanh ít khi được
người đọc dành cho sự quan tâm cần thiết, thậm chí có lúc còn bị lãng quên. Ngay cả
tuyển thơ Thi nhân Việt Nam (1941) cũng bỏ qua lời đề từ ấy. Trong lời "Nhỏ to..." in
cuối cuốn sách, các tác giả bộc bạch: "Tôi xin lỗi vì đã tự tiện bỏ hầu hết những lời đề
tặng trên các bài thơ. Trong một quyển hợp tuyển những lời ấy sẽ thành vô nghĩa. Tôi
chỉ giữ lại những lời đề tặng cần phải có mới hiểu được ý thơ"(2). Các tác giả Thi nhân
Việt Nam là những người có phong cách cẩn trọng và quan điểm phê bình "lấy hồn tôi
để hiểu hồn người". Với lời đề tặng mà cân nhắc như thế, thì với đề từ chắc chắn họ sẽ
rất đắn đo. Bởi thế, trong phạm vi tư liệu có thể tìm hiểu, chúng tôi chỉ hơi ngạc nhiên
về điều thiếu sót này. Có thể nhà soạn sách chép thơ theo trí nhớ chăng?! Nhưng đáng
ngạc nhiên hơn ở chỗ: sách giáo khoa hiện hành đã in nguyên dạng rồi (SGK chú thích
nguồn: trong Thi nhân Việt Nam??), mà nhiều người vẫn sơ ý bỏ qua. 

2. Hơn một lần, cả trong thơ và trong những bài trả lời phỏng vấn của bạn văn, Tế Hanh
nhắc đến lời đề từ ấy. Xin trích một đoạn điển hình: "Tôi đến với thi ca khá sớm. Cha
tôi là một nhà nho (...) Ông thường đọc cho tôi nghe những bài thơ chữ Hán của các
nhà thơ đời Đường và của ông cha ta trước kia, dù không hiểu gì mấy nhưng tôi vẫn
thấy hay. Ngoài ra, cha tôi còn làm nhiều bài thơ chữ Nôm. Tôi nhớ nhất là bài tả cảnh
quê nhà, trong đó có hai câu mà tôi rất thích: Chim bay dọc biển đem tin cá/ Nhà ở kề
sân, sát mái nhà. Khi làm bài thơ Quê hương vào năm 1939, tôi đã lấy câu thơ của cha
tôi làm tiêu đề."(3) Như vậy, có thể khẳng định Tế Hanh đã sử dụng câu đề từ (ông gọi
là "tiêu đề") "Chim bay dọc biển đem tin cá" và chú thích dòng chữ "Câu thơ của thân
phụ tôi" ngay khi sáng tác bài thơ và chép tay vào tập "Nghẹn ngào" (tập thơ đoạt giải
thưởng Tự lực văn đoàn, năm 1945 bổ sung tái bản với cái tên "Hoa niên"). Điều này
rất có ý nghĩa. Nó chứng tỏ dù là "thành phần nằm ngoài văn bản" nhưng trong trường
hợp này giữa lời đề từ và văn bản thơ "Quê hương" chắc chắn có mối quan hệ hữu cơ.
Cách gọi đề từ là "tiêu đề" cũng rất đáng lưu tâm. Có thể nhà thơ của chúng ta không
mấy quan tâm đến thuật ngữ, nhưng chữ "tiêu đề" mà ông dùng trong trường hợp này
nó gợi một cách hiểu linh hoạt. Tiêu đề chính thức của văn bản là Quê hương, phải
chăng theo thi nhân nó còn có thể có một tiêu đề khác nữa? Nếu thế, cái "tiêu đề" mà
Tế Hanh nói chẳng phải đã cùng sinh mệnh với 20 dòng thơ kia rồi sao?! Mặt khác,
chúng ta cũng cần chú ý tới thái độ hết sức kính trọng của tác giả trong cách chú thích
lời đề từ: "Câu thơ của phụ thân tôi". Trong thái độ kính trọng phụ thân còn biểu hiện
sự hàm ơn. Hàm ơn không chỉ bởi nhà thơ tưởng nhớ công sinh thành trời biển mà còn
vì công "nuôi dưỡng tâm hồn" (Thơ đã hóa tâm hồn/ Sách đã thành tri kỷ - bài Cái tủ
sách của cha tôi), công lao dắt dẫn mình vào thế giới diệu kì của thi ca. Bài Quê
hươngviết trong xa cách, trong nỗi niềm da diết nhớ quê. Nỗi nhớ quê gắn liền với nỗi
nhớ gia đình và người thân, đặc biệt là nỗi nhớ người cha thích cảm tác và ngâm vịnh
văn chương. Không bắt đầu từ những gì gắn bó nhất, thân thuộc nhất, máu thịt nhất,
liệu cảm xúc có trào dâng và tài năng Tế Hanh có thăng hoa để Quê hương có thể thành
kiệt tác? Câu trả lời tưởng đã quá rõ! Nói theo cách của các tác giả Từ điển thuật ngữ
văn học thì ở đây chính lời đề từ đã "khơi nguồn cảm hứng cho tác giả trong quá trình
sáng tạo"(4). Và như vậy, nhìn phía lời đề từ nghĩa là nhìn phía tâm lý sáng tạo, trong
trường hợp này là nhìn phía sự kiện đời sống làm bật nảy tứ thơ, khơi dậy và định hình
dòng cảm xúc mãnh liệt trong bài thơ. Nhìn phía lời đề từ, bởi thế, cũng là một góc
nhìn giúp người đọc thấy thêm nhiều vẻ đẹp của tác phẩm, có thêm cơ hội chiếm lĩnh
được bài thơ trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó. 

3. Nhưng nhiều người chắc chẳng thấy thuyết phục bởi cách lý giải theo quy luật bếp
núc ấy? Họ sẽ cho đó là suy diễn. Nói gì thì nói, văn chương là sáng tạo, là nghệ thuật
của ngôn từ, là "cây đời xanh tươi", không thể quy kết nếu không bám vào thế giới hình
tượng. Thế nên, chúng ta cần nhận rõ mối quan hệ hữu cơ giữa lời đề từ và văn bản thơ
Quê hương. Vì sao trong vô số bài thơ mà người cha từng đọc, nhà thơ lại nhớ và thích
nhất câu thơ "Chim bay dọc biển đem tin cá"? Là người có lòng với văn chương nhưng
cụ Trần Tất Tố hình như không có duyên cùng chữ nghĩa. Bạn đọc biết đến lòng yêu
văn chương của cụ có lẽ chỉ bởi câu thơ được con trai cụ lấy làm đề từ trong bài thơ nổi
tiếng này thôi. Câu thơ rất bình thường trích trong một bài thơ cụ làm tả cảnh quê nhà.
Nói là bình thường bởi dù viết với hình thức thất ngôn với mục đích vịnh cảnh nhưng
lời thơ rất giản dị, nôm na. Thế nhưng, khi tách khỏi bài thơ, nó lại có sức gợi lạ lùng.
Nó giản dị như một câu tục ngữ nhưng lại có sức gợi mạnh mẽ như ca dao trữ tình. Có
lẽ Tế Hanh cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu đó của câu thơ chỉ từ khi chàng trai 15 tuổi
mang theo nó trong kí ức xa quê, trải nghiệm trong nỗi niềm nhớ quê? Và có lẽ mỗi lúc
nhớ quê, chàng trai ấy lại hướng lòng về xứ Quảng và ngâm nga "Chim bay dọc biển
đem tin cá/ Nhà ở kề sân, sát mái nhà"?!... Câu thơ thứ hai thuần tả cảnh, giản đơn. Câu
thứ nhất vừa tả cảnh vừa tái hiện bức tranh cuộc sống sinh động. Câu thơ viết về cảnh
"chim bay dọc biển" khiến người đọc hình dung một không gian cao rộng, trải dài,
khoáng đạt của trời biển bao la. Những cánh chim bay "dọc biển" gợi sự thanh bình,
yên ả của cuộc sống, nhất là cuộc sống của dân chài lưới ven biển, bám biển. Vế sau
của câu thơ, đặt trong mối liên hệ với vế trước còn hé lộ một kinh nghiệm sống của dân
chài: Chim bay dọc biển đem tin cá. Với dân biển, muốn biết tình hình thời tiết để ra
khơi, theo kinh nghiệm xưa, họ quan sát bầu trời để thu thập thông tin rồi mới quyết
định. Những cánh chim bay "dọc biển" là một trong rất nhiều thông số quan trọng. Nếu
chim bay gấp gáp, loạn xạ, có khi như lao vút, như muốn đâm đầu vào những xóm mạc
ở đất liền... chính là dấu hiệu chẳng lành, là tín hiệu của bão tố, phong ba. Những cánh
chim hiền hòa "dọc biển" dạo bay trong không gian một bên là bờ bãi và một bên là
biển cả xanh biếc mênh mông mang theo thông điệp bí mật và tinh tế của thiên nhiên về
những ngày trời yên bể lặng. Chim đem tin, và dân biển sẽ nhận tin! Bộc lộ một tình
cảm gắn bó với quê hương, gợi một cảnh vật điển hình và mang chở một kinh nghiệm
truyền thống quý báu trong một hình thức ngôn từ giản dị, đó là vẻ đẹp của câu thơ
"Chim bay dọc biển đem tin cá". Ngẫm câu thơ này, chợt nhớ một ý của Hữu Thỉnh:
"Những câu thơ hay thường có xu hướng tách ra khỏi bài thơ để trở thành các giá trị
độc lập. Nói một cách khác, những câu thơ hay thường xóa bỏ xuất xứ của nó"(5). Có
thể coi câu thơ chúng ta đang đọc thuộc vào số ấy. Cụ Trần Tất Tố tả cảnh mà gợi được
cái thần sắc, cái linh hồn kì diệu của cảnh đã có sức khơi gợi mạnh mẽ những vùng
sáng trong kí ức người đọc. Người đọc tâm đắc trước hết của cụ chính là Trần Tế Hanh,
con trai cụ. Chính câu thơ gợi linh hồn làng biển của cụ đã thức dậy cảm hứng mãnh
liệt của Tế Hanh, để nhà thơ trẻ viết nên kiệt tác về quê hương vạn chài - ở kiệt tác ấy
linh hồn làng biển hiện lên đầy hình sắc. Nói câu thơ đề từ là sự kiện đời sống làm bật
nảy tứ thơ,khơi dậy và định hình dòng cảm xúc mãnh liệt trong bài thơ là nói theo ý
nghĩa ấy. Câu đề từ gợi hứng, hình ảnh và kỷ niệm bừng dậy, bài thơ cứ thế hình thành
một cách hết sức tự nhiên như bức tranh cuộc sống vốn vậy. Đọc Quê hương, nếu bỏ
qua những điều vừa nói ở trên, liệu có làm mất đi cơ hội thấy thêm nhiều vẻ đẹp của tác
phẩm, có thể chiếm lĩnh được bài thơ trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó? Rất có thể.
Ở trên, ta vừa nói đặc sắc của bài thơ quê hương là đã gợi hình sắc linh hồn làng biển từ
trong nỗi nhớ. Thực tế, vì sơ ý bỏ qua lời đề từ, nhiều người đã đọc và giảng dạyQuê
hương theo những hướng khác nhau, ít chú ý khai thác điểm đặc sắc, có tính khác biệt
của nhà thơ xứ Quảng trong bài thơ về một chủ đề quá quen thuộc. Về hai câu thơ mở
đầu bài thơ, các tác giả của Sách giáo viên Ngữ văn 8, tập 2, tr. 23 hướng dẫn: "Hai câu
thơ mở đầu rất bình dị, tự nhiên, tác giả giới thiệu chung về làng quê của mình, nội
dung hầu như chỉ có ý nghĩa thông tin,...". Nói Tế Hanh giới thiệu chung về làng quê
"bình dị", "tự nhiên" là đúng nhưng nói "nội dung hầu như chỉ có ý nghĩa thông tin" thì
không chính xác. Chi tiết thơ "cách biển nửa ngày sông" là cách nói quá quen thuộc với
tác giả - người có 15 năm tuổi thơ gắn bó với quê hương làng chài, nhưng lại lạ lẫm với
tất cả chúng ta. Đó là cách nói đặc trưng của người dân có gốc gác "vốn làm nghề chài
lưới". "Từ đất quế, sông Trà Bồng thẳng một dòng chảy về hướng đông. Đến đoạn thôn
Giao Thủy, xã Bình Thới, huyện Bình Sơn, sông tách ra làm đôi ôm kín một vùng đất
rồi hợp dòng xuôi về cửa biển Sa Cần. Đất cù lao ấy có tên gọi là xa Bình Dương, nơi
chôn nhau cắt rốn của nhà thơ Tế Hanh."(6) Vị trí, khoảng cách ấy qua thơ Tế Hanh
thật khác. Cách đo khoảng cách bằng "ngày sông" chẳng phải là lối nói bằng hình
tượng độc đáo của những con người mộc mạc chốn làng quê đó sao?! Cách nói, cách
nghĩ của người dân quê nơi nào thường gắn với thổ ngơi nơi ấy! Ở đoạn thơ thứ hai,
trong cảm hứng mà câu thơ "Chim bay dọc biển..." khơi gợi, tác giả nhớ lại và đặc tả
cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá. Đó là bức tranh cuộc sống lao động sáng tươi
và khỏe khoắn. Kí ức về cảnh sinh hoạt quê nhà trong Tế Hanh như vẫn nguyên sơ.
Trung tâm bức tranh là hình ảnh con thuyền và người dân chài. Những dòng thơ tả
cảnh, tả người ở đây đều sinh động, tài hoa. Tả con thuyền "hăng như con tuấn mã/
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang" mà gợi lên vẻ đẹp cường tráng, dồi dào
của người dân lao động miền quê biển. Đặc biệt, linh hồn làng biển hiện hình qua câu
thơ tài hoa chớp được cận cảnh "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng/ Rướn thân
trắng bao la thâu góp gió". Phép so sánh thông thường chỉ làm cho sự vật hiện lên cụ
thể, sao qua cách so sánh của Tế Hanh sự vật bỗng trở nên trừu tượng, lớn lao, kì vĩ và
linh thiêng?! Tế Hanh không có ý định tái hiện cảnh lao động một cách trọn vẹn, mà chỉ
tập trung thể hiện những dáng nét ấn tượng, thân quen. "Quảng Ngãi ơi! Nơi đã sinh ta/
Đến tuổi mười lăm sống tại nhà/ Từ đấy ta đi, quê khắp xứ/ Suốt đời quê mẹ vẫn không
xa." Đó là bài thơ Gửi Quảng Ngãi (1983), một kênh lý giải cội nguồn cảm hứng trong
sự nghiệp thơ của ông, và góp phần cho chúng ta hiểu hơn bài thơ Quê hương. Những
hình ảnh làng quê hiện về trong kí ức, thức dậy những kỷ niệm, và vì không trải nghiệm
cuộc sống thực sự của người dân đánh cá nên thi sĩ không nói về cảnh "Ra đậu dăm
khơi dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng" (Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận),
chỉ nhớ cảnh trên bờ. Với tình cảm sâu sắc, khả năng quan sát tinh tế, Tế Hanh đã thể
hiện được nhiều nét thần tình. Một câu nói quá đỗi quen thuộc của người dân chài "Nhờ
ơn trời biển lặng cá đầy ghe" được nhớ lại, gợi nhắc không khí náo nhiệt, đặc tả niềm
vui bình dị, tình cảm chân thành cảm tạ thiên nhiên. Cảm tạ "ơn trời" phải chăng là cảm
tạ từ ân huệ thiên nhiên ban tặng qua tín hiệu "Chim bay dọc biển..."? Màu sắc tín
ngưỡng trong câu thơ giản dị khắc họa rõ nét thêm vẻ đẹp mộc mạc của tâm hồn người
lao động! Với cảm hứng tái hiện nét thần tình của cảnh vật đang dâng trào mãnh liệt,
Tế Hanh đã có được những dòng tuyệt bút: "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/ Cả
thân hình nổng thở vị xa xăm;/ Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm/ Nghe chất muối
thấm dần trong thớ vỏ". Con thuyền đánh cá ở biển và người dân lao động làng chài đã
hiện lên đúng thần thái, hồn vía và trở nên sống động phi thường. Trong đoạn kết trực
tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê, nhà thơ đã khái quát những nét tiêu biểu đọng lại trong tâm
tưởng khi "xa cách": màu nước biển biếc xanh, màu cá bạc tươi ngon, màu của cánh
buồm vôi lộng gió... Tất cả vẫn còn hằn in. Cùng với đó là hình ảnh "động": "Thoáng
con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi". Quê hương tươi nguyên trong trái tim người xa cách
không chỉ với những ảnh hình từ "tĩnh" đến "động" mà còn với cả "cái mùi nồng mặn"
đặc trưng. Đó là cái vị xa xăm mặn mòi của biển khơi ngấm đọng trong thân hình dân
chài lưới, cái mùi thấm sâu trong từng thớ gỗ của những con thuyền hòa lẫn cái mùi
phảng phất trên khắp vùng quê biển "Gió đưa thơm mùi cá nướng ngọt ngào"... Cái mùi
ấy mơ hồ nhưng chính nó khiến cho nỗi nhớ quê thường trực, da diết trở nên hiện hữu,
sâu sắc và ám ảnh lòng người hơn bao giờ hết! 

4. Chế Lan Viên nói Tế Hanh có "khả năng nhìn thấy hồn sự vật"(7), bài thơ Quê
hương có lẽ là minh chứng thuyết phục nhất cho điều đó. Thuyết phục bởi nó thuộc vào
số những tác phẩm đầu tay, khi phẩm chất thi sĩ bộc lộ một cách hồn nhiên, trong sáng
nhất. Thuyết phục còn bởi trong sự nghiệp thơ ca của Tế Hanh đóng góp lớn cho thơ ca
dân tộc, đây là một trong những bài xuất sắc điển hình. Cái khả năng "nhìn thấy hồn sự
vật" ấy phải chăng là biểu hiện gien trội di truyền từ ông đồ nho Trần Tất Tố từng kết
tinh ở câu thơ "Chim bay dọc biển đem tin cá" ngày xưa?!

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm.


* Tác giả: Tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh 1921, quê ở 1 làng chài ven biển -
Quảng Ngãi.
- Là nhà thơ trong pt Thơ mới - chặng cuối (40 - 45).
- Quê hương là cảm hứng lớn trong suốt đời thơ của TH.
* Tác phẩm: là sáng tác mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương.
+ Nhà thơ đã viết “Quê hương” bằng cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và
hùng tráng của quê hương, mến yêu những con người lao động tràn trề sức lực; bằng
những kỉ niệm sâu đậm, nồng nàn của thời niên thiếu.
+ Bài thơ được viết theo thể 8 chữ, kết hợp cả 2 kiểu gieo vần: liên tiếp và vần ôm.

*II. Đôi nét về bài thơ Quê hương


1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một
làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó
được in trong tập Hoa niên (1945)
2. Bố cục
- 2 câu đầu: Giới thiệu chung về làng quê.
- 6 câu tiếp: Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá
- 8 câu tiếp: Cảnh thuyền cá về bến.
- 4 câu tiếp: Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương
3. Nội dung
- Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển.
Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh
sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha
thiết của nhà thơ.
4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, giọng thơ khỏe khoắn hào hùng
- Hình ảnh thơ phong phú, giàu ý nghĩa
- Nhiềuphép tu từ được sử dụng đạt hiệu quả nghệ thuật
Các bước phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Đôi nét về nhà thơ Tế Hanh
Tế Hanh (sinh năm 1921 – mất năm 2009) có tên khai sinh là Trần Tế Hanh. Ông sinh
thành tại một làng chài ven biển ở xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Làng chài có dòng sông Trà Bồng bao quanh ấy chính là hình ảnh để lại ấn tượng đậm
sâu trong lòng nhà thơ và trở đi trở lại rất nhiều trong những sáng tác của nhà thơ sau
này. Tế Hanh có khoảng thời gian gắn bó, học tập ở làng quê sau đó ông có cơ hội ra
Huế học trung học vào năm 15 tuổi.

Cái duyên của Tế Hanh với thơ ca xuất phát từ niềm ham mê thuở nhỏ khi có cha làm
nghề dạy học. Bên cạnh đó, khoảng thời gian học tập ở Huế đã cho ông nhiều trải
nghiệm với thơ ca khi được gặp gỡ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới,
được tiếp xúc với những bài thơ trữ tình, lãng mạn của Pháp, ông bắt đầu có những
sáng tác đầu tay.

Đến năm 1945, ông đã bắt đầu “dấn thân” vào sự nghiệp cách mạng và hoạt động văn
hóa văn nghệ ở Liên khu V. Khoảng thời gian tập kết ra Bắc vào năm 1954 cũng là thời
gian Tế Hanh gắn bó với các hoạt động ở Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là dịp để ông có
thể thể hiện khả năng sáng tác của bản thân và chính nhờ những nỗ lực của mình mà
năm 1996, Tế Hanh đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Bên cạnh những tác phẩm viết về niềm khát khao cháy bỏng Nam Bắc hai miền sum
họp một nhà, Tế Hanh thường được biết đến với những sáng tác viết về những bài thơ
thể hiện nỗi nhớ thiết tha, trìu mến với quê hương bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, hiền hòa và
đằm thắm. Ông có những tác phẩm có thể kể đến như: “Hoa niên” (năm 1945, còn có
tên khác là “Nghẹn ngào”), “Gửi miền Bắc” (năm 1955), “Tiếng sóng” (năm
1960), “Hai nửa yêu thương” (năm 1963), và “Khúc ca mới” (năm 1966)…
Những nét chính về bài thơ Quê hương
Trước khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, ta cần nắm được hoàn cảnh cùng
những nét chính về tác phẩm này. “Quê hương” là bài thơ được rút ra từ tập “Nghẹn
ngào” (năm 1939). Đây là một trong những sáng tác đầu tay, cũng là bài thơ mở đầu
cho nguồn cảm hứng lớn về quê hương của suốt đời thơ Tế Hanh. Bài thơ được viết
theo thể thơ 8 chữ với âm hưởng khỏe khoắn, đã diễn tả được những tình cảm đậm đà,
sáng trong mà nhà thơ dành cho làng chài “cách biển nửa ngày sông” của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Tâm tình về “làng tôi”, bức tranh sinh hoạt của làng quê miền biển, những tình cảm
chân thành và nỗi nhớ da diết của tác giả… là những nét chính khi phân tích bài thơ
Quê hương của Tế Hanh.
Lời giới thiệu về “làng tôi” bình dị đầy mến thương
Để khơi nguồn cảm xúc cho bài thơ, nhà thơ đã nhắc lại “câu thơ của phụ
thân”: “Chim bay dọc biển đem tin cá” và rồi cánh chim ấy đã mang về biết bao hình
ảnh đẹp tươi về quê hương của nhà thơ.
Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, Tế Hanh đã giới thiệu về làng quê của mình một cách
rất bình dị và tự nhiên:

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới


Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.”
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy trong lời thơ ấy, ta như thấy gợi lên ở
đó một hình ảnh của một làng chài nhỏ ven biển. Ở nơi ấy, những người dân quê ông
mưu sinh bằng cái nghề cả đời gắn liền với nắng gió, với từng hơi thở của biển – chài
lưới. Cả một đời bám biển bằng những chuyến tàu đi về của họ đã trở thành một ấn
tượng sâu đậm mà khi cất tiếng gọi thân thương “làng tôi”, để rồi hình ảnh về con
người quê mình cũng đồng thời hiện ra cùng lúc.
Nhớ về quê hương, tác giả cũng nhớ về cái địa thế đặc biệt của làng mình khi đó là một
nơi “nước bao vây” khắp các bề như một đặc ân đem về cho họ nguồn sống bất tận.
Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh
yên bình, thân thuộc của một làng chài ven biển.
Bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động chăm chỉ
Sau hai câu thơ mở đầu, nhà thơ đã dành những dòng viết tiếp theo để miêu tả cảnh dân
làng ra khơi đánh cá vào một ngày có sự ủng hộ của tiết trời:

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng


Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.”
Đó là những câu thơ đẹp với những hình ảnh vừa rất thực tại và cũng vừa lãng mạn
như“trời trong”, “gió nhẹ” và “sớm mai hồng”. Những hình ảnh ấy đã mở ra cảnh
tượng trong trẻo, thoáng đãng của bầu trời có pha vào đó màu hồng tươi tắn của ánh
nắng ban mai. Trên phông nền của cảnh ấy, hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi
xuất hiện thật nổi bật. Chúng xuất hiện bên những “trai tráng” khỏe mạnh, lực lưỡng,
vạm vỡ và dũng cảm và dưới sự lèo lái của họ, những chiếc thuyền lao đi hăng hái như
những con tuấn mã được thúc vó băng vạn dặm xa.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy thông qua hình ảnh so sánh “con
tuấn mã” kết hợp với hàng loạt các động từ “hăng”, “phăng”, “vượt”, nhà thơ đã diễn
tả một không khí hồ hởi, một sức sống mạnh mẽ và cả vẻ đẹp hùng tráng đầy lôi cuốn
của con người trong khoảnh khắc khởi đầu đầy ấn tượng. Do đó, những câu thơ không
còn là những nét vẽ đơn thuần về một bức tranh phong cảnh thiên nhiên với sắc màu
tươi sáng mà còn lột tả cả bức tranh lao động sôi nổi, hào hứng như hứa hẹn một ngày
lao động gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp.
Khí thế băng băng tới trùng khơi dũng mãnh của đoàn thuyền cũng có lúc hiện lên với
vẻ đẹp lãng mạn ở cách miêu tả cánh buồm no gió trong hai câu thơ tiếp theo:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng


Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Giữa biển khơi muôn trùng sóng nước, cánh buồm căng gió làm cho bức tranh lao động
trở nên thơ mộng đến vô cùng. Cánh buồm khi cùng con người trong hành trình ra khơi
đã không còn là một vật vô tri mà trở thành một sinh thể, là “mảnh hồn làng”. Nó
biết “rướn thân trắng” để “thâu góp gió”, tiếp sức cho đoàn thuyền vươn khơi mạnh
mẽ.
Khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, ta thấy hình ảnh cánh buồm khiến cho
ta dễ liên tưởng công việc ra khơi đánh bắt của những người đàn ông miền biển. Bên
cạnh đó thì những người ở lại cũng vẫn đồng hành cùng với họ bằng sự dõi theo, bằng
sự nguyện cầu về những điều tốt lành và bằng cả niềm hi vọng về cuộc mưu sinh thuận
lợi. Đó phải chăng chính là ý nghĩa thiêng liêng mà tác giả muốn gửi gắm vào hình
tượng miêu tả ấy?

Cảnh ra khơi được tái hiện bằng một bức tranh tươi sáng, hứng khởi và lúc đoàn thuyền
trở về, nó lại hiện hữu trong một bức tranh náo nhiệt, đầy ắp niềm vui:

“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ


Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Không khí “ồn ào”, “tấp nập” được tái hiện bởi trong mỗi người dân đều ánh lên niềm
vui trong mắt bởi thu về “cá đầy ghe”. Trông “những con cá tươi ngon thân bạc
trắng” lấp lánh trong ngày thuyền cập bến, ắt hẳn người làng chài đã cảm thấy rất đỗi
hạnh phúc vì sự hăng say, nhiệt thành trong lao động của họ đã được đáp đền lại bằng
một thành quả vô cùng ngọt ngào và xứng đáng.
Họ cũng nhận ra rất rõ một điều là để thu về những sản phẩm lao động giá trị như vậy
cũng là nhờ vào sự ủng hộ của trời đất khi giúp họ bằng cách để sóng yên, biển lặng.
Thế nên, với sự giúp sức ấy, họ cũng thầm gửi đến một sự cảm tạ chân thành.

Sau khi đã phăng phăng, phơi phới “vượt trường giang”, giờ là lúc con người và con
thuyền được nghỉ ngơi trên bến:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Khắp thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Không biết tự bao giờ, cái nắng gió của biển trời, vị xa xăm của gió khơi đã in hình,
khắc tạc vào trong vóc dáng của những người con làng chài. Họ là những con người có
tầm vóc phi thường nhưng sự phi thường ấy lại được đắp bồi bởi những thứ đặc trưng
của quê hương, xứ sở.

Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy cách miêu tả con thuyền trong trạng
thái “trở về nằm” cũng không kém phần đặc sắc. Nếu như lúc vươn khơi, nó “hăng
như con tuấn mã” thì khi về nó lắng lại để bến bờ dỗ giấc. Vốn là một sinh thể có hồn,
lúc ra khơi nỗ lực, hăng hái giúp người dân thì sau ngần ấy những nỗ lực, nó cảm nhận
rõ sự mỏi mệt để rồi gác lại cái sôi nổi ban đầu, nó tự “lắng nghe chất muối thấm dần
trong thớ vỏ” của nó. Trong sự im lặng vẫn hiện tồn sự chuyển động…
Giống như con người, với biển khơi, con thuyền cũng có một sự gắn bó đậm sâu khi
ngấm vào trong mình chất muối đặc trưng. Với ngòi bút tài hoa và sự thấu hiểu đến
tường tận con người và cảnh vật quê hương, tác giả đã tạo ra những câu thơ xuất thần
và thật ý nghĩa.

Tình cảm sâu nặng cùng nỗi nhớ tha thiết của tác giả với quê hương
Ở những câu thơ cuối cùng, nhà thơ đã viết nên những dòng thơ nói về tâm tư, nỗi lòng
của riêng mình với quê hương trong hoàn cảnh xa cách:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ,


Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng vượt ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Những dòng trên đã được viết bằng tấm lòng thơm thảo của người con xa xứ luôn
hướng về quê hương của mình. Với nhà thơ, từ hình ảnh “màu nước xanh”, “cá bạc”,
từ “chiếc buồm vôi” căng gió, “con thuyền rẽ sóng” mạnh mẽ và đặc biệt là “cái mùi
nồng mặn quá”, nhà thơ đều khắc ghi rõ trong tâm trí đến từng chi tiết.
Tác giả nhớ tất cả những điều đó bởi một lẽ rất giản đơn, đó là những đặc trưng của
miền biển quê ông, là những gì làm nên quê hương mà suốt đời ông luôn “tưởng nhớ”.
Khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, người đọc cũng nhận thấy trong cách
diễn đạt từ trái tim rất giản dị và da diết ấy, nỗi nhớ hiện lên khôn nguôi nhưng cũng
thật hồn hậu và tự nhiên.

Đánh giá nghệ thuật khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Bài thơ “Quê hương” mang đặc sắc nghệ thuật của một bài thơ trữ tình. Tuy phần
nhiều là những câu thơ miêu tả nhưng bao trùm lên tất cả cảnh vật, cuộc sống và hình
ảnh con người vẫn là nỗi nhớ da diết, cồn cào của nhà thơ về quê hương. Phân tích bài
thơ Quê hương của Tế Hanh, ta cũng thấy được cái hay của tác phẩm còn được tạo nên
bởi những hình ảnh thơ độc đáo, vận dụng hiệu quả các biện pháp so sánh nghệ thuật…
Chính điều đó đã góp phần tạo nên khung cảnh sinh hoạt chốn quê hương vừa là những
cảnh thực nhưng cũng vô cùng bay bổng, lãng mạn…
Tất cả những đặc sắc nói trên về nghệ thuật đã giúp Tế Hanh khắc họa được một bức
tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê ven biển và nổi bật hơn cả là vẻ đẹp của con
người lao động khỏe khoắn đầy sức sống.

Tác giả đã sử dụng thể thơ tám chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc
giản dị, tự nhiên
Những hình ảnh trong bài thơ thể hiện sự liên tưởng, so sánh cũng như nhân hóa vô
cùng đa dạng và độc đáo.
Quê hương của Tế Hanh giản dị, mộc mạc với giọng điệu nhẹ nhàng và đầy tha thiết.
Kết bài: Như vậy, với “Quê hương”, Tế Hanh đã góp vào làng thơ Việt một thi phẩm
mang vẻ đẹp tươi sáng của bức tranh làng quê vùng biển. Bài thơ cũng góp phần thể
hiện tình cảm trong sáng và tha thiết mà tác giả dành cho con người và cảnh vật ở quê
hương. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh đã khiến mỗi chúng ta thêm trân quý
nhiều hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình….
******************************************

Cảm nhận của em về bài thơ “Quê hương" của Tế Hanh

"Làng tôi ờ vốn làm nghê chài lưới...",

"Quê hương tôi có con sông xanh biếc

- Nước gương trong soi tóc những hàng tre...",

những vần thơ tha thiết đối với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh
hơn 60 năm qua. Bài thơ "Quê hương" được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa
tròn 18 tuổi, đang học Trung học tại Huế. Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương thân yêu ở
Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Bài thơ man mác nhớ
thương vơi đầy.

Luận điểm 1: Hai câu thơ đầu là lời giới thiệu về "làng tôi" thật thân mật, tự hào,
yêu thương...

"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông"


Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước "bao váy", một làng nghèo thuộc vùng
duyên hải miền Trung "cách biển nửa ngày sông". Con sông mà nhà thơ nhắc tới là
sông Trà Bồng chảy qua huyện Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Giọng điệu tâm
tình, một cách nói chân quê dân'dã vừa cụ thể vừa trừu tượng nghe "dịu ngọt".

Luận điểm 2: Sáu câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương. Đó
là cảnh làng chài ra khơi đánh cá. Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng
tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có "gió nhẹ", có ánh mai "hồng". Có những chàng
trai cường tráng, khỏe mạnh "bơi thuyền đi đánh cá". Cảnh đẹp sáng trong, giọng thơ
nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh và niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi:

"Khỉ trời trong, gió nhẹ, sớm mơi hồng

Dân trơi tráng bơi thuyền đi đánh cá".

Nhận xét đánh giá về nghệ thuật Một loạt ẩn dụ, so sánh mới mẻ nói về con
thuyền, mái chèo và cánh buồm... Tuấn mã là ngựa tơ, đẹp, phi nhanh. Ví chiếc thuyền
"nhẹ hăng như con tuấn mã", tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí
thế hăng hái, phấn khởi lén đường. Chữ "hăng" dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết
với các từ ngữ: "dán trơi tráng" và "tuấn mã" hợp thành tính hệ thống, một vẻ đẹp của
văn chương. Có người lầm tưởng là chữ "băng" rồi bình giảng "băng băng lướt sóng "!
Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lổ chém xuống nước, "phăng" xuống nước một
cách mạnh mẽ, đưa con thuyền "vượt trường giang". Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái
chèo là hình ảnh "cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng". "Trương" nghĩa là căng
lên đổ đón gió ra khơi. Nhận xét đánh giá về nghệ thuật So sánh "cánh buồm" to
như "mảnh hồn làng" là hay, đặc sắc. Cánh buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức
sống quê hương. Nó tượng trưng cho sức mạnh , lao dộng sáng tạo, ước mơ vê ấm no
hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng đi chinh phục biển
của đoăh trai tráng bơi thuyồn đi đánh cá. Nhận xét đánh giá  Câu thơ "Rướn thán
trắng bao la thâu góp gió" là một câu thư đậm đà ý vị mang cám hứng lao động và cảm
hứng vũ trụ. Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ "rướn thân trắng" gợi tả một cuộc đời
trải qua nhiổu mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sác tả
cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, lự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân
thương:

"Chiếc thuyền nhẹ hãng như con tuấn mã


Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."

Nhận xét đánh giá Phải cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn
thiêt tha gắn bó thì mới có thể liên tưởng “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.
Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi vốn gần gũi, quen thuộc bỗng trở nên lớn
lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Nhà thơ chợt nhận ra linh hồn của làng
chài quê hương trong hình ảnh cánh buồm. Câu thơ vừa vẽ ra chính xác hình thể vừa
gợi ra cái linh hồn của sự vật. Tuy nhiên, phép so sánh ở (đây không làm cho việc miêu
tả được cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao. Bao nhiêu
trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân làng chài còn có thể
gửi gắm vào đâu đầy đủ hơn là ở hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi? Nhận
xét đánh giá Đứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn
thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Phân tích từ ngữ Các từ ngữ: "ồn ào", "tấp nập"
diễn tả niềm vui mừng "đón ghe vê". Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của
"khấp dân làng". Cảnh "đón ghe về" thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân:

"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến dỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về".

Phân tích từ ngữ Những tính từ ồn ào, tấp nập toát lên không khí đông vui. Người
đọc như thực sự được nhập vào cái không khí ấy, được nghe cả lời cảm tạ chân thành
đất trời đã sóng yên biển lặng để người đi chài trở về an toàn với cá đầy ghe, được nhìn
thấy những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật là thích mắt.

Cá "tươi ngon thán bạc trắng" đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm
vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng
sóng êm, cho "cá đầy ghe", sự cầu mong và niềm tin thánh thiện "nhờ ơn trời" ấy đã
biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với
biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết:

"Nhở ơn trời, biển lặng cá dầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng".


Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh:

- "ơn trời mưa nắng phải thì,


Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu"...

- "Nhờ trời hạ kê'sang đông,


Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi...".

Luận điểm 3: Những câu thơ tiếp theo là ảnh bình yên khi đoàn thuyền trở về.
Những chàng trai làng chài có "làn da ngăm rám nắng" khỏe mạnh, can trường được tôi
luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển.
Phân tích từ ngữ Hai chữ "nồng thở" rất thần tình làm nổi bật nhịp sống, lao động
hăng say, dũng cảm của những dân chài mang lình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ
đẹp lãng mạn:

"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thán hình nồng thở vị xa xăm".

Nét vẽ thứ hai là con thuyền là sau một chuyến ra khơi vất vả trở về, nó mỏi mệt nàm
im trên bén. Con thuyền là một biếu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải
qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió:

"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".

Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương. Vẫn thấy giàu cảm xúc, mang tính
triết lí vồ lao động trong thanh bình. Chữ "nghe" (nghe chất muối) thổ hiện sự chuyển
đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Nhận xét đánh giá bình luận Đây chính là những
câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Câu đầu tả làn da ngăm rám nắng của người
dân chài theo lối tả thực, câu sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn: “Cả thân hình
nồng thở vị xa xăm” - thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đậm hơi thở của biển
cả, nồng nàn vị xa xăm của đại dương bao la. bình luận Cái hay độc đáo của câu
thơ là gợi tả linh hồn và tầm vóc của những người con biển cả. Hai câu thơ miêu tả con
thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về cũng là một sáng tạo nghệ
thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thây con thuyền nằm im trên bến mà còn cảm thây sự
3

mệt mỏi của con thuyền, và còn cảm thấy con thuyền như đang lắng nghe chât muôi
của đại dương đang thấm dần trong thớ ưỏ của nó. Cũng như người dân chài, con
thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muôi mặn của biển khơi. Con thuyên vô tri bỗng
trở nên có hồn. Nhận xét đánh giá Không phải là một người con của vạn chài thiêt
tha gắn bó với quê hương thì không thể viết được những câu thơ như thê! Và cũng chỉ
có thể viết được những câu thơ như thế khi nhà thơ biết đặt ca hôn mình vào đôi tượng,
vào người, vào cảnh để lắng nghe. Có cảm nhận được câu thơ đê' từ ấy ta mới nắm bắt
được tình thương nhớ quê hương của Tế Hanh qua bài thơ kiệt tác này.

Bài thơ "Quê hương" đã đi suốt một hành trình trên 60 năm. Nó gắn liền với tâm hồn
trong sáng, với tuổi hoa niên của Tế Hanh. Thể thơ 8 tiếng, giọng thơ đằm thắm dào
dạt, gợi cảm. Những câu thơ nói về dòng sông, con thuyền, cánh buồm, khoang cá,
chàng trai đánh cá, bến quê... và nỗi nhớ của dứa con xa quê... rất hay, đậm đà biểu lộ
một hồn thơ đẹp. Nghệ thuật phối sắc, sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh,
nhân hóa và chuyển đổi cảm giác khá thành công, tạo nên những vần thơ trữ tình chứa
chan thi vị.

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, tác phẩm này của Tế Hanh được coi là bài thơ đầu
tiên, bài thơ có "hồn vía" nhất viết về quê hương. Nó đã khơi dòng, để sau này có nhiều
bài thơ tuyệt bút nối tiếp xuất hiện như "Bên kia sông Đuống" (Hoàng Cầm), "Quê
hương" (Giang Nam), "Nhớ con sông quê hương" (Tế Hanh), "Quê hương" (Đỗ Trung
Quân),... Người đọc tìm thấy hình bóng tuổi thơ đồng hiện với quê hương. Quê hương
của một người đã trở thành của muôn người và muôn đời là thế!

bày tỏ cảm xúc Có lẽ chất muôi mặn mòi kia cũng đã thâm sâu vào làn da thớ thịt,
vào tâm hồn của nhà thơ Tê Hanh để thành niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Cái
tinh tê, tài hoa của Tế Hanh là ở chỗ “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không
thanh âm như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương... Thơ Tê Hanh đưa ta vào một
thê giới thật gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta
đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bến...”
(Hoài Thanh).

Luận điểm 4: Đoạn thơ cuối nhiều bồi hổi thương nhớ, thương nhớ hình bóng quê
hương. Phân tích nghệ thuật, từ ngữ Điệp ngữ "nhớ" làm cho giọng thơ thiết tha,
bổi hổi, sâu lắng. Xa quê nôn "tưởng nhớ" khôn nguôi. Nhớ "niàìt nước xanh" của
sông, biển làng chài. Nhớ "cá hạc", nhớ "chiếc buồm vôi"... Thấp thoáng trong hoài
niệm là hình ảnh con thuyên "rẽ sóng ra khơi" đánh cá. Xa quê nên mới "thấy nhớ"
hương vị biển, hương vị làng chài thương yêu "cái mùi nồng mặn quá".Tình cảm thấm
vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn quê vơi
đầy thương nhớ. Cảm xúc đằm thắm mênh mang:

"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ củi mùi nồng mặn quá".

bình luận  Nếu không có mấy câu thơ này, khó có thể biết bài thơ được viết trong
xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi - bởi những cảnh tượng bên trên được miêu
tả quá sống động, hệt như chúng đang diễn ra trước mắt nhà thơ. Nỗi nhớ thiết tha
trong xa cách bật ra thành lời thơ giản dị, tự nhiên như một lời nói tự đáy lòng: “Tôi
thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”. Cậu học trò xa quê Tế Hanh nhớ về làng quê mình
với tất cả màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm trắng, những con thuyền rẽ sóng chạy ra
khơi, nhưng nhớ nhất là cái mùi nồng mặn đặc trưng của quê hương. Với Tế Hanh, cái
hương vị đó chính là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương, là chất thơ bình dị
và khỏe khoắn toát lên từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng, từ
đời sông lao động hàng ngày của người dân.

BT2.Hình ảnh người dân làng chài qua bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Gợi ý

Hình ảnh nổi bật trong bài thơ của Tế Hanh là hình ảnh làng chài với những sinh hoạt
vô cùng thân thuộc, những người dân chài mạnh khoẻ, cường tráng và đương nhiên
không thể thiếu hình ảnh những người dân chài bơi thuyền ra khơi và cảnh đón thuyền
cá về bến - những hoạt động vốn được coi là biểu tượng của làng chài.
Đoàn thuyền ra khơi trong một ngày thật đẹp:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.

Thời tiết đẹp không chỉ thiết thực với người dân chài (thời tiết có đẹp thì mới ra khơi
được) mà còn làm nổi loạt vẻ đẹp của làng chài trong tình yêu và nỗi nhớ của nhà thơ.
Sức lực tràn trề của những người trai làng như truyền vào con thuyền, tạo nên khung
cảnh ấn tượng, rất mạnh mẽ và hoành tráng:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

Những con thuyền rẽ sóng băng băng và lời thơ cũng theo đó mà bay bổng trong không
gian vô cùng rộng rãi, khoáng đạt. Mọi hình ảnh đều được nâng lên đến mức biểu
tượng.Chiếc thuyền thì "hăng như con tấu mã", một từ "phăng" thật mạnh mẽ, dứt
khoát đã đưa con thuyền "mạnh mẽ vượt trường giang".
Sau cảnh "khắp dân làng tấp nập đón ghe về" (gợi tả không khí sinh hoạt vô cùng thân
thuộc của làng chài), những câu thơ đột ngột chùng xuống:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Từ tả thực, những câu thơ lại dần nghiêng về sắc thái biểu tượng lắng sâu.Điều đó góp
phần tạo cho bài thơ một cấu trúc hài hoà, cân đối.Bên trên là cảnh rẽ sóng vượt trùng
dương thì đến đây là cảnh nghỉ ngơi.Cái tĩnh đi liền ngay sau cái động nhưng không
tách biệt hoàn toàn. Có một sợi dây liên kết, một sự gắn bó rất mật thiết phía sau hình
ảnh "làn da ngăm rám nắng" và "thân hình nồng thở vị xa xăm” của những người trai
làng chài, bên cạnh đó còn phải kể đến chi tiết rất gợi cảm: chiếc thuyền đã trở về nghỉ
ngơi trên bến nhưng vẫn "nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ". Từ "chất muối" cho
đến hơi thở "vị xa xăm" đều gợi đến biển cả, đến những chuyển động vượt qua muôn
ngàn sóng gió. Đó chính là khát vọng chinh phục đại dương rất mãnh liệt, đã ngấm sâu
trong huyết quản của những người dân làng chài, được lưư truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Ai sinh ra ở vùng duyên hải hẳn chẳng lạ gì những cánh buồm. Thế nhưng những câu
thơ của
Tế Hanh vẫn có một cái gì đó là lạ và cuốn hút:

Cánh buồm giương tơ như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

Cánh buồm vô tri đã được người thi sĩ thổi vào một tâm hồn.Đó chính là cái hồn thiêng
liềng (trong tâm khảm nhà thơ) của ngôi làng ấy.Nhà thơ đã lấy cái đặc trưng nhất
(những cánh buồm) để mà gợi ra bao ước mơ khao khát về một cuốc sống no ấm, đủ
đầy.Câu thơ sau thấm chí còn “có hồn” hơn.Thuyền không phải tự ra khơi mà đang
“rướn” mình ra biển cả.Hình ảnh thơ đẹp và thi vị biết bao.
Hai câu thơ dưới đây lại mang một hương vị khác - hương vị nồng mặn của biển khơi:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Hai câu thơ là một bức tranh vẽ phác về hình ảnh dân chài. Đó là những con người
dường như đựợc sinh ra từ biển. Cuộc sống biển khơi dãi dầu mưa nắng làm cho làn da
“ngăm rám” lại, trong cả “hơi thở” của thân hình cũng là hương vị xa xăm của biển.
Hai câu thơ không phải chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà nó là sự cảm nhận bằng cả một
tâm hồn sâu sắc với quê hương.
Trên đây là những hình ảnh sâu đậm, rõ nét nhất được tái hiện từ kí ức. Đến bốn câu
thơ cuối, nhà thơ đã giãi bày trực tiếp tình cảm của mình với quê hương:
………………………………………………………………………………………………………………….
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ.
Trong nỗi nhớ lại thấp thoáng màu nước xanh, cát bạc, cánh buồm... và hẳn không thể
thiếu con thuyền "rẽ sóng chạy ra khơi". Có thể thấy những hình ảnh ấy cứ trở đi trở
lại, day dứt mãi trong tâm trí nhà thơ để rồi cuối cùng lại làm bật lên cảm xúc:

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Câu thơ được viết thật giản dị nhưng cũng thật gợi cảm, đủ nôn nao lòng người.Bởi nó
có sức nặng ngay từ nỗi nhớ da diết và chân thành của tác giả đối với quê hương.

Nét đắc sắc, nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ này là sự sáng tạo các hình ảnh thơ.
Bài thơ cho thấy một sự quan sát tinh tế, một sự cảm nhận và miêu tả sắc sảo. Hình
ảnh thơ phong phú, vừa chân thực lại vừa bay bổng và lãng mạn khiến cho cả bài thơ
rất có hồn và tràn đầy thi vị.
Bài thơ sử dụng kết hợp phương thức miêu tả và biểu cảm.Nhưng yếu tố miêu tả chủ
yếu nhằm phục vụ cho biểu cảm, trữ tình. Nhờ sự kết hợp này mà hình ảnh thơ vừa lột
tả được chân thực, tinh tế cảnh vật và con người của cuộc sống miền biển vừa thể hiện
sâu sắc những rung động của tâm hồn nhà thơ.

BT3: Cảm nhận về tình quê hương trong bài thơ Quê hương
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời Tế Hanh.
Cái làng chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày
sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên
những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công
khởi đầu rực rỡ.

Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu thiết tha, trong Sáng, đầy thơ mộng
của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng trong một sớm
mai đẹp như mơ:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng 
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Tâm hồn nhà thơ náo nức những hình ảnh đầy sức mạnh:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 


Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang 
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng 
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh lực
dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình
ảnh so sánh như con tuấn mã. Đằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc hoạ tư thế
kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng
về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm Tế Hanh
………………………………………………………………………………………………………………….
đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên
mới liên tưởng Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng
liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy.

Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha
thiết:

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ 


Khắp dân làng tấp nập đón ghe về 
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền, hơi thở
băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm
vui nó ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh
tế nhất của Quê hương:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng 


Cả thân hình nồng thở vị xa xăm 
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm 
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Chỉ ai sinh ra và lớn lên ở nơi sông nước mới viết được những câu thơ như thế. Tế
Hanh xây dựng tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc
và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn mòi
của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối mặn
mòi ấy ngấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc
thuyền hay đã ngấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn thơ Tế Hanh để thành niềm
cảm xúc bâng khuâng, kì diệu?

Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nổi nhớ quê
hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái
mùi nồng mặn quá – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực
của Tế Hanh.

Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái
làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi
người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.

BT4. Cảm nhận hai câu thơ "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân
tráng bao la thâu góp gió"
Quê hương là chùm khế ngọt 
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học 
Con về rợp bướm vàng bay
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
………………………………………………………………………………………………………………….
Quê hương, khái niệm trừu tượng, thiêng liêng nhưng lại hết sức bình dị, thân thiết với
mỗi chúng ta. Đó là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi ấy có ông bà, cha mẹ, nơi ta tha
thiết gắn bó khi gần và quay quắt nhớ lúc chia xa. Mỗi một miền quê đều có một nét
riêng, ta gọi đó là hồn quê, có khi đó là luỹ tre xanh, là hàng dừa trước ngõ, là con
đường đất đỏ đến trường…

Với Tế Hanh, chàng trai mười tám tuổi xa quê, nhớ về quê hương, một làng chài giáp
sông, ven biển của mình, ông lại nhớ:

Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng 


Rướn thân trắng, bao la thâu góp gió.
Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết làng quê
mình. Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với
mảnh hồn làng.

Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái
vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị
với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hoá cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế,
chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.

Đến với huế thơ, ta sẽ đến với chùa Thiên Mụ, đến với dòng sông Hương dịu dàng pha
lẫn trầm tư y còn đến miền quê quan họ vùng đồng bằng Bắc Bộ là ta lại đến với
hương nếp thơm nồng, tranh Đồng Hồ gà lợn nét tươi trong: Đây chính là hồn quê
hương. Còn với Tế Hanh quê hương ông là:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:


Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Thì điệu hồn ấy phải hoành tráng, lãng mạn giống như cánh buồm giương. Đó là hồn
của miền quê biển, giản dị mà sức vóc tung toả biết bao. Phải chăng Tế Hanh đã hoá
hồn mình vào cánh buồm đó để nghe thấy hồn làng trên một cánh buồm giương.

Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám đã có những hình ảnh đẹp, lãng mạn miêu tả
về cánh buồm:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng


Lưới giữa mây cao với biển bằng
Ở đây Tế Hanh cũng miêu tả cánh buồm no gió, nhưng nhà thơ đã nhân hoá nó với
dáng vóc của chàng trai mười tám khoẻ mạnh, vạm vỡ đẹp lãng mạn đến say người.

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió


Cánh buồm cảng là do có gió thổi vào nhưng ở đây có sự đảo ngược, cánh buồm ấy
mang dáng vóc của một chàng lực sĩ rướn thân trắng, ưỡn căng lồng ngực mênh mông,
hít một hơi dài chủ động thu hết sóng gió bao,la của biển khơi để bay lên, ngang tầm
………………………………………………………………………………………………………………….
với không gian mênh mông của đại dương. Hình ảnh thơ thật hào hùng, kỳ vĩ, mơ
mộng đầy chất lãng tử, thi nhân. Đẹp biết bao cánh buồm ấy, như một sinh thể che chở
bảo vệ cho con thuyền, cho làng chài bằng tất cả sức mạnh tích tụ từ biển khơi. Nó
phập phồng hơi thở, sự sống, nhịp đập của trái tim biển cả.

Biển không chỉ cho ta cá như lòng mẹ, biển quê hương còn cho ta nguồn thơ đầy sức
sống. Rõ ràng đây là hai câu thơ được viết ra từ tấm lòng tha thiết gắn bó miền quê
giáp sông, ven biển, mặn mòi hương vị biển. Câu thơ đẹp nhưng quả thật nó linh diệu,
lung linh giữa khả giải và bất khả giải.

BT5.
Cảm nhận của em về khổ thơ.
"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm".

Sau chuyến đi biển miệt mài, trở về đất liền, hình ảnh người dân chài hiện lên thật đẹp
đẽ:
"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm".
"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".

Không hề có dấu hiệu của sự mệt mỏi, biển đêm không khiến con người sợ hãi và yếu
đuối. "Làn da ngăm rám nắng" là làn da đặc trưng của người dân vùng chài, vốn đã trải
qua nhiều dầu dãi nắng mưa, nay ánh lên sự mạnh mẽ, rắn rỏi. Bước xuống đất liền từ
con thuyền chòng chành cập bến, các anh giống như những Thạch Sanh vùng biển:
"Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Không chỉ làn da mà còn từ ánh mắt, bàn tay, bước
đi, từ "cả thân hình" đều nồng thở cái hương vị mặn mòi của biển cả. "Vị xa xăm" là
hương vị từ phương xa, là gió đại dương, là muối đại dương, là nắng đại dương, là hơi
thở của đại dương nữa, "xa xăm" vốn là cảm nhận của thị giác, chỉ sự xa xôi, mơ hồ;
nay được kết hợp với từ chỉ xúc giác "vị" khiến cho câu thơ trở nên tinh tế vô cùng.
Trong từ "nồng thở" còn như ẩn chứa một sức mạnh dồi dào, bền bỉ đã được tôi rèn từ
lâu trong tâm hồn để từ làn da, đôi mắt, nụ cười... đều sáng bừng sự sống.
Cùng với các chàng trai vùng chài là những con thuyền "bạn người đi biển":
"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".
Sau thời gian lao động vất vả, con thuyền không giấu giếm vẻ mệt mỏi của mình:
"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm". Biện pháp nhân hoá khiến người đọc hình
dung rất rõ dáng vẻ nặng nề, thấm mệt của chiếc thuyền khi chậm chạp neo vào bến
………………………………………………………………………………………………………………….
đỗ. Nó lặng im "Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ". Trong câu thơ này, Tế Hanh
đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách một cách tinh tế. "Nghe" là
động từ chỉ hoạt động của thính giác, "thấm" lại là cảm nhận của xúc giác. Con thuyền
nằm nghỉ đồng thời cảm nhận từng chuyển động tinh vi nhất đang diễn ra trong mình.
Cách viết ấy vừa gợi sự mệt nhọc thấm thía của con thuyền vừa thể hiện được sự tinh
tế tuyệt vời của nhà thơ, tưởng như Tế Hanh đồng cảm sâu sắc với cảm giác, cảm xúc
của con thuyền... Khổ thơ trên là một trong những khổ thơ hay nhất trong bài thơ "Quê
hương" của Tế Hanh. Đọc khí thơ, người đọc có thể cảm nhận trong đó bao nhiêu
niềm yêu mến, tự hào về quê hương xứ sở của nhà thơ.

BT6 Phân tích bài thơ Quê hương


Anh đi anh nhớ quê nhà… Đó là tâm trạng chung của bất cứ ai khi phải xa quê – Tế
Hanh cũng vậy – Từ lúc còn là một cậu học trò mười tám tuổi, đang theo học ở Huế –
Chàng thanh niên ấy đã nhớ nhà nhớ quê, nhở cái làng chài ven biển, nơi chôn nhau
cắt rốn của mình. Thế là những câu thơ tưởng nhớ quê lại ra đời một cách tự nhiên
chân thành và tha thiết. Mấy ai quên được bài thơ Quê hương của Tế Hanh thuở hoa
niên ấy.

Bài thơ mở đầu như là lời tự xưng danh, tự thuật rất đỗi tự nhiên và mộc mạc.
Làng tôi ờ vốn làm nghề chài lưới.
Và sau đó nhà thơ đã kể, đã tường thuật về cái làng chài của mình. Câu thơ có tính
thông báo tiếp theo cho thấy đây là một làng chài ờ vùng cửa sông gần biển. Bằng hai
câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu vị trí địa lý và đặc điểm nghề nghiệp của làng
quê. Quê là làng – nghề của làng là chài lưới.

Trong tâm tưởng của nhà thơ, sau lời giới thiệu ấy, hình ảnh làng chài như đang hiện
ra trước mắt. Và nhà thơ đã miêu tả cụ thể một ngày ra khơi đẹp trời, dân làng bơi
thuyền đi đánh cá. Trong khung cảnh trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Phải nói đó là
một buổi sáng dẹp trời lý tưởng – vẻ đẹp tinh khôi, mát mẻ, dễ chịu, thoáng đãng, bao
la sắc hồn của bình minh. Và chỉ những người làm nghề chài lưới mới thấy hết được
tầm quan trọng thiết yếu của những buổi đẹp trời – Không chỉ báo hiệu một buổi ra
khơi yên lành, mà còn hứa hẹn những mẻ lưới bội thu. Trong cái quanh cảnh dễ làm
lòng người phấn khích ấy, đoàn trai tráng bơi thuyền ra khơi, bắt đầu một ngày lao
động của mình. Làm nghề đánh cá nặng nhọc này phải là những người khoẻ mạnh vạm
vỡ mới có thể đảm đương nổi. Chỉ có những chàng trai mới có thể điều khiển được
chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp
cảnh dân làng ra khơi đánh cá có ý nghĩa như những chi tiết tả thực giúp người đọc
hình dung được không gian hình ảnh, đoàn thuyền khá sinh động. Trên nền kể tả ấy
………………………………………………………………………………………………………………….
xuất hiện hai câu thơ mang vẻ đẹp bất ngờ:

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng


Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Cánh buồm là một vật cụ thể hữu hình được ví với mảnh hồn làng là cái trừu tượng, vô
hình – một cách ví von nhờ sự liên tưởng khá xa và độc đáo của tác giả. Mỗi một vùng
quê sinh sống lâu đời, dường như bao giờ cũng mang một nét rất riêng. Và người xa
quê thường cảm nhận nó như linh hồn của làng quê. Đối với Tế Hanh thuở mười tám
tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi dường như mang hơi thở, nhịp đập, quê hương. Một
cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức
vóc tung toả của nó. Hai câu thơ diễn đạt hình ảnh giàu ý nghĩa, đưa nó lên thành biểu
tượng của tâm hồn.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lại được miêu tả trong bốn câu thơ:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ 


Khắp dân làng tấp nập đón ghe về 
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Tác giả không tả một ai cụ thể, mà là tả chung không khí làng chài. Ở đây chỉ có âm
thanh ồn ào; chỉ có trạng thái tấp nập, nhưng rõ ràng là một không khí vui vẻ, rộn ràng,
thoả mãn. Nhờ ơn trời như là tiếng reo vui, tiếng thở phào nhẹ nhõm cảm tạ thiền
nhiên trời biển đã giúp đỡ. Phải con em làng chài mới thấy hết được niềm vui bình dị
khi đón ghe đầy những con cá tươi ngon.

Trong khung cảnh ấy, hình ảnh những trai tráng sức vóc dạn dày sóng gió, có làn da
ngăm rám nắng được hiện lên qua những câu thơ thật đẹp Cả thân hình nồng thở vị xa
xăm. Đây là chân dung những người dân chài lưới, đó như là những sinh thể được tách
ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển, mang theo về cả những hương vị biển xa. Họ là
những đứa con của biển khơi. Câu thơ thật lãng mạn, khoáng đạt, mang vẻ đẹp giản dị
nhưng cũng thật khoẻ khoắn, thơ mộng.

Con thuyền trước đây hăng như tuấn mã phăng mái chèo mạnh mẽ ra đi, bây giờ mỏi
mệt trở về bến nghỉ. Con thuyền lại được nhân hoá, nó nằm im, mỏi mệt thư giãn và
lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Trạng thái nghỉ ngơi của con thuyền thật
đặc biệt. Và cũng phải yêu quý lắm, với có thể thấy con thuyền cũng là một thành viên
của làng biển như tác giả đã hình dung. Nhưng nói về con thuyền, kì thực cũng nói về
con người cả thôi. Giờ đây những người dân chài có thể hoàn toàn yên tâm mà ngả
mình mãn nguyện và lặng yên thư giãn. Dư vị của chuyến đi chỉ còn là đôi hình ảnh
thấp thoáng, chập chờn trong tưởng tượng êm dịu của họ.

Kết thức bài thơ, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ về hình ảnh làng chài theo ấn tượng
chung nhất: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vơi, con thuyền rẽ sóng, và đặc biệt
nhớ cái mùi nồng mặn quá.
………………………………………………………………………………………………………………….
Nhớ đến cả cái mùi vị riêng biệt của xứ biển tức là nỗi nhớ thật da diết và thật sâu sắc.
Vâng, đó là mùi của biển cả, của sóng, của gió, của rong rêu, của cá, của cả cái vị mồ
hôi trên lưng áo người đi biển. Cái mùi vị quen thuộc và thân thương đó cũng chính là
một phần của hồn làng của quê hương.

Bài thơ trong trẻo từ đầu đến cuối. Đó là tấm lòng yêu nhớ quê hương của một chàng
trai thuần hậu gắn bó với cuộc đời. Với Tế Hanh, cái làng chài lưới này đã trở thành
nguồn thi cảm không vơi cạn. Người ta thường nói ông là nhà thơ của quê hương sông
nước, mà trong nhiều trường hợp quê hương chỉ thu gọn về một cái làng chài lưới của
riêng ông.

Tóm lại Quê hương là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ dung dị đằm thắm của Tế
Hanh. Với nghệ thuật đặc sắc ở cách cảm nhận tinh thế, hình ảnh đặc trưng và chắt lọc,
tác giả làm sống mãi một làng chài thân thương trìu mến. Thuỷ chung với một miền
quê – một miền thơ như thế nên vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn giữ mãi một vẻ
riêng độc đáo, hấp dẫn bao thế hệ yêu thơ.

BT7.Chứng minh tình yêu và nỗi nhớ quê hương của tác giả Tế Hanh qua bài
thơ ‘QUÊ HƯƠNG”

Quê hương, hai tiếng vang lên thật ngọt ngào, da diết biết bao. Nó đánh thức trong mỗi
con người tình yêu thương thiêng liêng, cháy bỏng với một miền quê – nơi mình sinh
ra, trưởng thành. Tinh yêu đó đã được hoá thân vào những bản nhạc du dương, những
bức tranh tươi sắc màu và đặc biệt hoá thân vào những vần thơ chan chứa bao cảm
xúc. Quê hương của nhà thơ Tế Hanh là một trong số những vần thơ như thế, những
vần thơ có sức lay động lòng người, thể hiện tình yêu quê hương bất diệt.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu với người đọc về quê hương dấu yêu của mình:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Chỉ qua hai câu thơ ngắn gọn, Tế Hanh đã cho người đọc biết đến một vùng quê ven
biển, với “nghề chài lưới”. Cách gọi “làng tôi” thật dân giã, thân mật, khiến câu thơ
không giấu nổi niềm cảm xúc tự hào. Nhà thơ đã đặc tả cụ thể vị trí của làng “Nước
bao vây, cách biển nửa ngày sông”. Ngôi làng hiện ra như một hòn ngọc giữa màu
xanh trong của nước biển. Cách đo thời gian bằng không gian “nửa ngày sông”, không
gian của sông nước thật độc đáo tạo cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vùng quê
chài lưới thanh bình, tươi đẹp. Vùng quê đó càng trở nên đẹp hơn, như một bức tranh
tươi màu sự sống khi tác giả đặc tả cảnh dân chài ra khơi vào một buổi “sớm mai
hồng”:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
………………………………………………………………………………………………………………….
Cả một khung cảnh bao la của vùng biển như được tác giả tái hiện qua câu thơ: “Khi
trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”. Tất cả hiện lên ở vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy nhất.
Các tính từ “trong, nhẹ, hồng” đã tuyệt đối vẻ đẹp của tạo hoá. Đặc biệt vẽ ra bức tranh
bình yên của vùng biển rộng lớn. Đó không phải là ngày biển ào ào giông tố mà là một
ngày biển lặng, sóng êm. Câu thơ ngắt nhịp 3/2/3, với âm bằng chiếm chủ yếu phải
chăng thể hiện những con sóng dạt dào vỗ vào bờ ? Nổi bật lên giữa thiên nhiên đó là
hình ảnh con thuyền ra khơi căng tràn sự sống:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
So sánh độc đáo “chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã”, giàu sức gợi tả, thể hiện
sức mạnh không gì ngăn nổi của những chiếc thuyền ra khơi. Bên cạnh đó tác giả sử
dụng biện pháp đảo ngữ, đưa các động từ, tính từ đặc tả sức mạnh lên đầu câu: “phăng
mái chèo”, “mạnh mẽ vượt”, một lần nữa khẳng định những chiếc thuyền mang trên
mình sức mạnh như vũ bão. Câu thơ mở ra một khung cảnh ra khơi hùng tráng, mỹ lệ.
Khung cảnh đó càng trở nên kì vĩ hơn với hình ảnh:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Lấy cái hữu hình so sánh với cái vô hình, tác giả như muốn huyền thoại hóa, mang
màu sắc linh thiêng thổi hồn vào cánh buồm. Cánh buồm là nơi chứa đựng bao ước
mơ, khát vọng của người dân làng chài vì thế nó cũng giống như hồn vía của ngôi
làng. Tế Hanh đã sử dụng từ ngữ miêu tả rất tinh tế: “cánh buồm giương to” chứ không
phải “cánh buồm trương to”. Nếu “trương to” thì thật trần trụi, thô ráp, chỉ gợi độ rộng.
Còn “giương to” vừa thể hiện sự rộng lớn vừa thể hiện xu hướng tiến về phía trước,
đồng thời cũng đầy linh thiêng. Cánh buồm như kiêu hãnh hơn, mạnh mẽ hơn với hình
ảnh: “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”. Động từ “rướn” diễn tả tư thế vươn
mình tiến lên được đặt đầu câu nhấn mạnh sự chủ động. Cánh buồm như vươn mình ra
xa để thu hết những luồng gió, để tăng thêm sinh lực, mạnh mẽ vượt qua các con sóng
lao ra khơi xa. Đoạn thơ miêu tả cảnh ra khơi chỉ gồm sáu câu nhưng đã lột tả được cái
thần, cái chất của khung cảnh tráng lệ. Các câu thơ luôn kết thúc với âm mở: a, ang, o,
… như mở ra một đại dương bao la, đầy hứa hẹn những mẻ cá đầy, nơi mà con thuyền
đang hướng tới. Có lẽ trong văn đàn Việt Nam hiếm có cuộc ra khơi nào mà lại được
miêu tả một cách hùng tráng, kì vĩ, thấm đượm chất biển như trong thơ Tế Hanh, ông
đã viết về quê hương dấu yêu với cả tình yêu quê hương tha thiết, dạt dào.
Sức hấp dẫn của những vần thơ viết về quê hương của Tế Hanh không chỉ dừng lại ở
việc miêu tả cảnh vật vùng biển kì vĩ mà hồn thơ Tế Hanh còn dành tình yêu đặc biệt
………………………………………………………………………………………………………………….
với những người dân vạn chài nơi đây. Ông viết về họ với tất cả niềm tự hào, hứng
khởi:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Sau một ngày ra khơi, đoàn thuyền trở về trong sự đón đợi của dân làng “khắp dân
làng tấp nập đón ghe về”. Cách gọi có sự đổi thay, từ những “chiếc thuyền” chuyển
sang “ghe” mang đậm tính địa phương vùng biển, người đọc hiểu rằng trong từng câu
chữ đều thấm đượm một tình yêu cháy bỏng. Hình ảnh “Những con cá tươi ngon thân
bạc trắng” báo hiệu một chuyến ra khơi tốt đẹp và càng tô thêm sức sống cho bức
tranh vùng vạn chài. Nổi bật lên trên nền bức tranh đó là những người dân chài. Tế
Hanh đã chọn lọc những nét tiêu biểu, đúng chất nhất để nói về người dân quê mình.
Đó là những con người khoẻ khoắn, rắn rỏi với “làn da ngăm rám nắng”, làn da đã trải
qua bao sương gió. Họ là những con người lao động thực sự. Đặc biệt, nhà thơ đã nói
lên nét đặc trưng của người miền biển với hình ảnh giàu sức gợi cảm: “Cả thân hình
nồng thở vị xa xăm”. Những chàng trai chài lưới hiện lên mang vẻ đẹp kì vĩ, cường
tráng sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ. Ở họ có nét đẹp của con người đã hiên ngang
chinh phục thiên nhiên. “Vị xa xăm” là vị vô hình, vị của lao động miệt mài, vị của
thiên nhiên hòa lẫn với con người. Hình ảnh vừa thực mà vừa lãng mạn, đầy chất thơ.
Có lẽ chất muối của biển không chỉ thấm vào những con thuyền, thấm vào những
người dân chài mà đã thấm đượm cả trang thơ Tế Hanh. Hình ảnh quê hương trong
dòng hồi tưởng của nhà thơ khép lại với hình ảnh bình yên: “Chiếc thuyền im bến mỏi
trở về nằm – Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Dù là “bến mỏi” nhưng không
gợi nên sự rã rời, mệt mỏi mà ở đó là sự nghỉ ngơi thư thái chuẩn bị cho một chuyến ra
khơi lại sắp sửa.
Bài thơ kết thúc trong nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của người con xa xứ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Quê hương vạn chài yêu dấu với khung cảnh tráng lệ, với nhịp sống căng tràn mà bình
yên sẽ mãi là hình ảnh in đậm trong tâm trí nhà thơ: “nước xanh”, “cá bạc”, “con
thuyền rẽ sóng ra khơi” cứ chập chờn trong nỗi nhớ mơ hồ, nhữ càng khắc sâu thêm
nỗi nhớ mong da diết. Câu thơ kết là một tiếng kêu bộc lộ cảm xúc đến tận độ: “Tôi
thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá !”. “Mùi nồng mặn” không đơn thuần là mùi của muối
biển mà là vị của quê hương, vị của tình yêu, do đó mà nỗi nhớ càng khắc khoải.
………………………………………………………………………………………………………………….
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ, lời thơ tự nhiên, hình ảnh thơ giàu sức biểu
cảm, đặc biệt lối gieo vần chân thể hiện dòng cảm xúc yêu quê hương miên man, như
sóng cuộn trào của người con Quảng Ngãi Tế Hanh. Người đọc không hề bị choáng
ngợp bởi những câu thơ hoa mĩ, mà bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi tình cảm chân thành đằm
thắm mà nhà thơ dành cho quê hương mình. Một tình cảm thiêng liêng, sâu sắc.
Những vần thơ của Tế Hanh thực sự có sức lay động mạnh mẽ tới độc giả, nó đánh
thức trái tim chúng ta trong tình yêu, nỗi nhớ về vùng quê thân thương, yêu dấu của
chính mình. Hai tiếng “quê hương” cứ mãi vang lên trong lòng tôi, vang mãi, vang xa.

BT9: Qua các bài thơ về quê hương đã học làm sáng tỏ nhận định quê hương chiếm khoảng
rộng trong trái tim tình yêu của Thơ mớ

Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ đến Cách mạng tháng Tám 1945 là bộ phận
khá quan trọng trong nền văn học nước nhà. Thời kì này xuất hiện nhiều mảng văn
học với nhiều trào lưu khác nhau. Nổi bật lên là sự ra đời của phong trào Thơ mới. Thơ
mới đã mở ra cả một thời đại thi ca và làm xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng. Bên cạnh
các giá trị nghệ thuật, Thơ mới cũng đạt nhiều giá trị nội dung mang tính dân tộc. Một
trong những nội dung đó là tình yêu đất nước, chính nội dung này “đã chiếm một
khoảng rộng trong trái tim tình yêu của Thơ mới”. Nội dung trên được phản ánh sâu
sắc qua các tác phẩm Quê hương của Tế Hanh, Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ, Nắng mới
của Lưu Trọng Lư và Nhớ rừng của Thế Lữ.

Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước nhà mất chủ quyền, dân làm nô lệ, đất nước quằn
quại trong đau thương, chìm ngập trong bóng tối, các nhà Thơ mới chán ghét thực tại,
tìm đến những cảnh đẹp của quê hương đất nước để bày tỏ tấm lòng yêu nướcthầm kín
của mình.

Tế Hanh tìm về làng chài yêu dấu thân thương của mình trong bài “Quê hương”. Quê
hương của nhà thơ là một làng chài ven biển êm vui, đầm ấm với những buổi
sáng trong xanh, gió nhẹ, trời êm, dân trai tráng đua nhau bơi thuyền ra khơi đánh cá.
Nổi lên trên nền trời nước mênh mông là những cánh buồm trắng đang rướn mình
mạnh mẽ “vượt trường giang”, là những cánh tay trai làng vạm vỡ, khỏe mạnh:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng


Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
………………………………………………………………………………………………………………….
Cảnh những buổi dân làng sung sướng đón thuyền trở về cũng rạng rỡ trong tâm
hồn nhà thơ. Cảnh có cái thanh thản của con thuyền trở về nằm nghỉ nồng nàn hơi thở
mặn mòi của biển, cái mùi vị đặc biệt mà chỉ làng chài mới có. Làng chài êm ả, thanh
bình đã làm cồn lên nỗi nhớ tha thiết trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ da diết từ con cá
bạc, chiếc buồm vôi đến cái vị nồng nồng mằn mặn của quê hương. Phải yêu quê
hương tha thiết, sâu nặng lắm, nhà thơ mới khắc họa được một bức tranh quê hương
đầy đủ, sông động và tươi đẹp đến vậy.
Yêu quê hương đất nước, Đoàn Văn Cừ đã hướng tâm hồn mình về với những nét
đẹp truyền thông văn hóa của dân tộc với cuộc sống sinh hoạt dân dã của quê hương.
Một phiên chợ Tết vui tươi, sống động, rực rỡ màu sắc hàng hóa, của trang phục
những người đi chợ Tết bừng sáng trong tâm hồn nhà thơ. Bức tranh chợ Tết có đủ
gương mặt mọi người: già trẻ, gái trai, người mua kẻ bán đông vui, tấp nập. Nổi lên là
hình ảnh cụ đồ nho “khoan khoái vuốt râu cằm, miệng nhẩm đọc vài ba câu đối đỏ”
biểu hiện nét đẹp truyền thông văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Người vui, cảnh vật cũng vui, thiên nhiên mang tâm hồn người, cùng hòa vui vào
tâm hồn người:

Sương trắng đỏ đầu cành như giọt sữa


Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Thiên nhiên đang mang hồn sông của quê hương trong những ngày giáp Tết. Cảnh vật
đẹp và sông động như vậy, nhà thơ không yêu mến sao được.
Lưu Trọng Lư trở về với dòng hoài niệm tuổi thơ, những ngày còn mẹ. Hình ảnh mẹ
hiện lên giữa khung cảnh thiên nhiên sáng màu nắng mới:

Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời


Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.
Cả hai hình ảnh mẹ và thiên nhiên đã tạo nên gương mặt đẹp của quê hương,
lúc này đang xôn xao thức dậy bừng sáng trong tâm hồn nhà thơ, khơi gợi lên bao nỗi
nhớ, tình yêu quê hương tha thiết.
Thế Lữ đã gửi gắm tâm sự yêu nước thầm kín của mình vào lời con hổ trong bài
thơ “Nhớ rừng”. Nhà thơ để con hổ quằn lòng nuôi tiếc quá khứ vàng son, oanh liệt:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những đêm mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
………………………………………………………………………………………………………………….
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu.
Phải chăng tâm trạng tiếc nuối quá khứ vàng son oanh liệt của con hổ cũng chính là
tâm trạng tiếc nuôi quá khứ anh hùng của dân tộc trong nhà thơ?

Là những trí thức tiểu tư sản dân tộc có tinh thần yêu nước, rất ý thức mình cũng đang
chịu chung số phận người dân của một dân tộc bị nô lệ, thế nhưng do chịu ảnh hưởng
tư tưởng bạc nhược của giai cấp xuất thân sợ sức mạnh đế quốc, không dám đứng vào
đội ngũ đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo lúc bấy giờ, các
nhà Thơ mới đành gửi gắm tâm sự yêu quê hương đất nước của mình vào những bức
tranh thiên nhiên, cuộc sống của dân tộc hoặc vào những tâm sự u hoài nuôi tiếc quá
khứ vàng son. Dẫu sao chúng ta cũng ghi nhận và trân trọng trái tim yêu đáng quý ấy
ở họ. Các nhà Thơ mới thực sự đã giành một khoảng rộng cho tình yêu quê hương đất
nước trong trái tim yêu của mình.
BT10. Nhận xét về một trong những cảm hứng của Thơ mới Việt Nam giai đoạn
1930- 1945, có ý kiến nhận xét: “Tình yêu quê hương đất nước một khoảng rộng
trong trái tim của thơ mới”. Bằng hiểu biết của mình về hai bài thơ Nhớ rừng của
Thế Lữ và Quê hương của Tế Hanh em hãy làm sáng tỏ ý kiến về Tình Yêu Quê
Hương Đất Nước Qua 2 Bài Thơ
Thơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói
riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng
trong nền văn học dân tộc với các “hoàng tử thơ”: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v… Phong trào Thơ mới đã tạo nên một thời đại rực rỡ
phong phú trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Việt
Nam: “… trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bào giờ có một thời đại phong phú như
thời đại này. Chưa bao giờ người ta thất xuất hiện cùng một kần một hồn thơ rộng mở
như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế
Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Thơ mới là thời đại của
những phong cách thơ độc đáo và một trong những nội dung tiêu biểu của thơ mới là
tình yêu quê hương như một nhà nghiên cứu từng nhận xét: “Tình yêu quê hương đất
nước một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới”.
Thơ mới ra đời trong hoàn cảnh đất nước chìm trong chế độ thực dân nửa phong
kiến. Các nhà thơ mới nhận thức rõ nỗi đau mất nước, chán ghét thực tại nên họ gửi
gắm nỗi niềm về đất nước, quê hương vào những vần thơ. Tình quê hương đấtnước
trong Thơ mới thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: lúc ca ngợi cảnh đẹp của quê
hương, lúc nhớ quê hương da diết, lúc hoài niệm ngưỡng mộ và tiếc nuối một né đẹp
văn hóa trong quá khứ, lúc gửi gắm niềm tâm sự thầm kín… Và một trong những bài
thơ xuất sắc của phong trào thơ mới viết thành công với đề tài này, không thể không
nhắc tới Thế Lữ với Nhớ rừng, Tế Hanh với Quê hương.
Viết về tình yêu quê hương đất nước, thứ nhất, hai bài thơ này ca ngợi cảnh đẹp thiên
nhiên.
………………………………………………………………………………………………………………….
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ dựng lên hai khoảng không gian, đối lập: sự hùng
vĩ của thiên nhiên và sự chật hẹp, tù túng của vườn bách thú nơi con hổ đang sống.
Thiên nhiên trong bài thơ hiện lên thật đẹp đẽ, ấn tượng. Đó là cảnh bóng cả, cây
già với những gió gào ngàn, nguồn hét núi:
“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”
Cảnh thiên nhiên ở nơi rừng xanh, nơi con hổ từng là chúa tể của muôn loài trái
ngược với những cảnh giả tạo, bắt chước của vườn bách thú. Và đặc biệt, ca ngợi vẻ
đẹp của thiên nhiên, Thế Lữ đã rất thành công khi miêu tả hình ảnh bộ tranh tứ bình
tinh xảo và độc đáo. Đầu tiên là bức tranh rừng núi trong đêm:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.”
Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu
trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh
vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo
của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ
ta không biết bao lần ngây ngẩt trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những
đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và
ảo mộng.
Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên
hùng vĩ vào những ngày mưa:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”
Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng
mắc cữi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội
rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên
nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền
cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của
một nghệ sĩ kỳ tài.
Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh
lúc nầy đang ngon giấc:
“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”
Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã
thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời: giấc ngủ “tưng
bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu
càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá
má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động.
Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
Bức tranh nầy khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng.
Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng
tươi củanắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh
mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc nầy cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày
………………………………………………………………………………………………………………….
nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng
máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt
trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ.
Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi,
chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ
dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.

Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm,
đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ
có một không hai trong lịch sử văn học.
Quả thật, bức tranh hoành tráng của rừng thẳm oai linh, của gió gào ngàn, nguồn hét
núi, bóng cả, cây già. Trong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ thâm nghiêm ấy làm nền cho hình
bóng của chúa sơn lâm mang vẻ đẹp dõng dạc, đường hoàng với những đêm vàng,
sáng xanh, chiều đỏ, tiếng chim ca tất cả mang vẻ đẹp lãng mạn, muôn màu muôn vẻ
của thiên nhiên của cách nhìn lãng mạn và bút pháp lãng mạn.
Nếu như thiên nhiên trong Nhớ rừng là vẻ đẹp của sự hùng tráng, mạnh mẽ của núi
rừng, thì thiên nhiên trong thơ Tế Hanh lại êm đềm, đằm thắm với cảnh sông nước
bình dị. Hình ảnh làng chài ven biển đẹp, trong trẻo thoáng đãng là tâm điểm mà nhà
thơ muốn ca ngợi qua bài thơQuê hương của mình.
Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh,
đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng
như: Nhớ con sông quê hương, Quê hương, Trở lại con sông quê hương. Mở đầu bài
thư Quê hương, tác giả viết:
“Làng tôi ở vốn nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
Hai câu đầu giới thiệu ngắn gọn “làng tôi”. Đây là hai câu thơ giản dị nhưng nếu thiếu
lời giới thiệu này, quê hương sẽ trở nên trừu tượng, thiếu sức truyền cảm. Qua lời giới
thiệu này, chúng ta thấy nhà thơ Tế Hanh rất tự hào về quê hương miền biển của mình.
Niềm tự hào đó thể hiện sâu sắc tình yêu của ông dành cho quê hương.
Đến những câu thơ tiếp theo bức tranh thiên nhiên được vẽ ra qua tự giới thiệu về làng
tôi của tác giả. Khung cảnh được tác giả vẽ ra là một khung cảnh của buổi sớm mai,
với không gian thoáng đạt, trời trong, gió nhẹ, nắng mai hồng, với hình ảnh những con
người dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
“Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”
Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Thiên nhiên
trong thơ ông còn là bức tranh lao động rất đỗi bình dị, gần gũi nhưng đầy sức sống:
“Ngày hôm sau, ôn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển động cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”
Có thể nói, qua con mắt của một người con yêu quê nhưng phải sống xa quê, bức tranh
thiên nhiên qua thơ Tế Hanh hiện lên thật đẹp, tràn đầy nhựa sống. Nó khác hẳn với
cái vẻ buồn bã, thê lương đang hiện hữu trong thơ mới giai đoạn này.
………………………………………………………………………………………………………………….
Tiếp theo, chúng ta thấy, tình yêu quê hương của hai nhà thơ còn được thể hiện thông
qua việc gửi gắm tâm sự thầm kín. Với Thế Lữ, ông gửi lòng yêu nước vào tâm sự
thầm kín của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng, nhớ biết bao nhiêu thời vàng son oanh
liệt. Ta nghe đó như chính là nỗi nhớ lịch sử vàng son oanh liệt của đất nước. Tâm
trạng của con hổ là một ẩn dụ thể hiệ ntâm trạng của tác giả của người dân Việt Nam
lúc đó. Đó là những con người đang ở trong vòng nô lệ, chịu sự áp bức, bóc lột của
bọn thực dân Pháp và của xã hội phong kiến. Con hổ muốn được thoát khỏi song sắt
chật hẹp của vườn bách thú cũng giống như tâm trạng của người dân muốn thoát khỏi
cái vòng vây nô lệ đó:

“Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”


Giấc mộng ngàn của chúa sơn lâm cũng là khao khát tự do thầm kín của con người
được gửi gắm một cách tế nhị trong thơ.
Còn đối với Quê hương của Tế Hanh, tình yêu quê hương đất nước là nỗi nhớ quê
hương da diết khi xa quê. Mười bảy tuổi, xa quê, Tế Hanh luôn nhớ về quê hương làng
vạn chài của mình. Với tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, bức tranh làng chài thật sinh
động và đậm nét qua cảm xúc của nhà thơ. Khi tả cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá
Tế Hanh đã dựng lên một không gian trong trẻo gió nhẹ rực rỡ nắng hồng… Con
thuyền dũng mãnh vượt Trường Giang với sức sống mạnh mẽ mang một vẻ đẹp hùng
tráng, bất ngờ hiếm thấy trong thơ mới, một bức tranh lao động đầy hứng khởi và đầy
sức sống trong thơ mới. Phải cảm nhận được sức sống lao động của làng quê bằng cả
tâm hồn thiết tha gắn bó mới viết được những câu thơ thật hay, thật đặc sắc:
“ Cánh buồm giương to như mảnh hồnlàng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Mảnh hồn làng ấy chính là nơi cho tâm hồn nghệ sỹ neo đậu với tấm lòng tha thiết nhớ
thương về quê hương. Và đặc biệt hơn cả, nỗi nhớ quê hương, tình yêu quê hương
được bộc lộ một cách trực tiếp ở khổ thơ cuối:
“Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ:
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Nhớ về quê hương miền biển của mình, nhà thơ nhớ: màu nước xanh, cá bạc, chiếc
buồm vôi, nhớ con thuyền rẽ sóng và đặc biệt hơn cả là nhớ mùi vị mặn mòi của biển
khơi – mùi vị đặc trưng mà chỉ có ở miền biển mới có được. Nối nhớ thiết tha trong xa
cách là chất thơ đày bình dị mà khỏe khoắn toát lên từ bứctranh thiên nhiên tươi sáng
thơ mộng.
Quả thực, khi viết về tình yêu quê hương trong thơ mới, đặc biệt qua hai bài thơ Nhớ
rừng và Quê hương, chúng ta phải nhìn nhận rằng cái “tôi” trong mỗi tác giả vừa được
giải phóng tỏa hương thành vườn hoa đầy hương sắc của Thơ mới. Và mặc dù tình quê
hương đất nước trong các bài thơ tuy chưa tích cực như thơ văn Cách mạng nhưng
đáng trân trọng. Đó là một khoảng rộng trong trái tim yêu dào dạt của các nhà thơ mới
trong đó có Thế Lữ và Tế Hanh.
………………………………………………………………………………………………………………….

Nhớ con sông quê hương


Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu

Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu


Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
Hình ảnh cô em đôi má ửng hồng...

Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc


Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ không nguôi ánh sáng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết...
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không gành thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
………………………………………………………………………………………………………………….
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương

6-1956

Bài thơ được sáng tác khi tác giả tập kết ra miền Bắc sau cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nguồn: Tế Hanh, Lòng miền Nam, NXB Văn nghệ, 195

PHẦN 2: CÁC ĐỀ THI VỀ TÁC PHẨM

CHUYÊN ĐỀ 1: ( 1TRONG 14 CHUYÊN ĐỀ CỦA BỘ ĐỀ)


CHUYÊN ĐỀ QUÊ HƯƠNG-TẾ HANH

ĐỀ 1:
KÌ THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN
Năm học 2019 – 2020
Môn thi: Ngữ văn 8
Thời gian 150 phút (không kể thời gian phát đề)

I. ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm)

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

“Ngày xưa tựu trường chúng con bên nhau thầy vẫn đọc lời văn năm cũ: “Hằng năm
cứ vào cuối thu …

Mười mấy năm xa trường chạm kiếp bể dâu đôi lần trường xưa hiện lên như chớp lửa
đôi đứa trong chúng con đã thành ông này bà nọ chỉ kỉ niệm là cứ trẻ hoài như màu
mắt trẻ thơ

Kỉ niệm cứ hóa thành chiếc lá sau mưa cứ ẩm mát mặt sân trường cũ riêng thầy hóa
thành cây phượng già năm cũ buổi con về tí tách trận mưa hoa ”

(Trương Vũ Thiên An – Chiếc lá, in trong tập thơ “Tạ”, NXB Hội Nhà Văn, 2018,
trang 36)

Câu 1. Chỉ ra “lời văn năm cũ” mà thầy vẫn đọc trong ngày tựu trường ở đoạn thơ
trên. (0.5 điểm)

Câu 2. Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ hai. (0.5 điểm)

Câu 3. Trình bày ngắn gọn cảm nhận của em về hình ảnh người thầy trong hai dòng
thơ sau:
………………………………………………………………………………………………………………….
“ riêng thầy hóa thành cây phượng già năm cũ

buổi con về tí tách trận mưa hoa”  (1.0 điểm)

Câu 4.  Đoạn thơ gợi cho em những cảm nghĩ gì về mái trường (viết khoảng 5 đến 7
dòng)? (2.0 điểm)
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (6.0 điểm)
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười.
(Trịnh Công Sơn. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui )
Từ nội dung của những ca từ trên, em hãy viết một bài văn bàn luận về niềm vui
trong cuộc sống.
Câu 2. (10.0 điểm)
Nhận xét về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, có ý kiến cho rằng: “Sức hấp dẫn
của những vần thơ viết về quê hương của Tế Hanh không chỉ dừng lại ở việc miêu tả
cảnh vật vùng biển kì vĩ mà hồn thơ Tế Hanh còn dành tình yêu đặc biệt với những
người dân vạn chài nơi đây”.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
------------Hết------------

HƯỚNG DẪN CHẤM

PHẦN I. ĐỌC HIỂU


Câu Nội dung yêu cầu Điểm
1 Lời văn năm cũ mà thầy vẫn đọc trong ngày tựu trường: “Hằng năm 0.5
cứ vào cuối thu…”
Biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
2 0.5
3 Hình ảnh người thầy: 1

– Trong suy cảm của nhà thơ, người thầy “hóa thân” vào cây
phượng già, bung nở muôn hoa ngày học sinh cũ về thăm.

– Như cây phượng già, người thầy năm cũ vẫn hiện hữu, gắn mình
với mái trường, vững chãi và lặng lẽ dõi theo sự trưởng thành của
bao lớp học trò; nao nức vui khi đón trò cũ trở về.
4 Học sinh có thể trình bày cảm nghĩ với những nội dung khác nhau. 2
Song cảm xúc phải chân thành, tích cực, phù hợp với chuẩn mực
đạo đức và pháp luật. Sau đây là một vài

– Đoạn thơ gợi nỗi nhớ thầy xưa, trường cũ.


………………………………………………………………………………………………………………….

– Gợi cảm xúc tiếc nhớ tuổi học trò, tình cảm yêu quý trường lớp,
thầy cô, bè bạn sau ba năm học tập.

– Thái độ trân quý hiện tại, nỗ lực sống, học tập, rèn luyện để thành
đạt…

Tổng điểm 3.0


PHẦN II. LÀM VĂN
Câu Nội dung yêu cầu Điểm
1 I. Yêu cầu về kĩ năng 1.0
- Kiểu bài: nghị luận xã hội
- Phạm vi dẫn chứng: trong cuộc sống
- Bài làm có bố cục rõ 3 phần
- Lập luận chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục; diễn đạt trôi
chảy, mạch lạc, ít mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp…
II. Yêu cầu về kiến thức 5.0
Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm
bảo một số ý cơ bản mang tính định hướng sau:
1. Mở bài 0.5
- Giới thiệu vấn đề
- Trích dẫn đoạn ca từ
2. Thân bài
a. Giải thích được nội dung của những ca từ: 1.0
+ Câu hát khẳng định: cuộc sống đan xen giữa niềm vui và nỗi
buồn, giữa hạnh phúc và đau khổ. Mỗi người sẽ có những thái độ,
lựa chọn khác nhau trước những vấn đề của cuộc sống. Để cuộc
sống trở nên nhẹ nhàng, ý nghĩa chúng ta nên chọn cho mình niềm
vui, niềm hạnh phúc...
+ Niềm vui không hẳn là những điều to tát mà có thể chỉ là những
điều nhỏ bé, giản dị như ngắm một bông hoa, nở một nụ cười. 3.5
b. Bàn luận về vấn đề:
- Hiểu biết chung về niềm vui:
Niềm vui là những điều mang lại cảm xúc vui vẻ, hạnh phúc, hân
hoan cho con người trong cuộc sống.
- Chỉ ra được ý nghĩa của niềm vui:
+ Niềm vui đem lại cho con người sự sảng khoái về tinh thần, là
động lực cho con người tham gia tốt tất cả mọi công việc. (dẫn
chứng)
+ Có niềm vui, con người thêm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống.
(dẫn chứng)
+ Niềm vui nâng cao sức khỏe và trí tuệ cho con người. (dẫn chứng)
- Chỉ ra được những biểu hiện của niềm vui:
+ Người có niềm vui là người luôn hòa đồng, sống chan hòa, yêu
………………………………………………………………………………………………………………….
đời, yêu cuộc sống. (dẫn chứng)
+ Người có niềm vui luôn biết đồng cảm và tạo ra niềm vui cho
những người xung quanh. (dẫn chứng)
- Liên hệ:
+ Cần rèn luyện cho mình thái độ sống tích cực, lạc quan, yêu đời, 0.5
biết tìm niềm vui trong những điều giản dị nhất.
+ Thái độ của bản thân đối với những người sống bi quan, tiêu cực.
3. Kết bài 0.5
Khẳng định lại tính đúng đắn của quan điểm.
Mong muốn của bản thân.
2 I. Yêu cầu về kĩ năng 1.0
- Kiểu bài: nghị luận xã hội
- Bài làm có bố cục rõ 3 phần
- Lập luận chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục; diễn đạt trôi
chảy, mạch lạc, ít mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp…
II. Yêu cầu về kiến thức 9.0
Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm
bảo một số ý cơ bản mang tính định hướng sau:
1. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề 0.5
- Trích dẫn ý kiến
2. Thân bài
a. Giải thích ý kiến: Sức hấp dẫn của bài thơ Quê hương với người 0.5
đọc không chỉ bởi cảnh vật vùng biển được miêu tả rất đẹp bằng
ngòi bút tinh tế mà còn hấp dẫn bởi tình yêu chân thành tha thiết mà
Tế Hanh dành cho con người quê hương.
b. Làm sáng tỏ ý kiến: 6.5
- Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi cảnh vật vùng biển quê hương:
+ Giới thiệu về vùng quê thanh bình
+ Cảnh dân chài ra khơi:
+) Hình ảnh thiên nhiên: yên ả, trong lành, tươi sáng, kì vĩ.
+) Hình ảnh con thuyền ra khơi: căng tràn sức sống.
Biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, sử dụng động từ mạnh
=> Bức tranh thiên nhiên vùng biển tươi sáng, sống động.
- Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi tình yêu dành cho người dân vạn
chài:
+ Cảnh đoàn thuyền trở về bến: bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp
niềm vui và sự sống.
+ Hình ảnh người dân chài khỏe mạnh, rắn rỏi.
Nghệ thuật miêu tả: kết hợp tả thực và lãng mạn.
+ Hình ảnh con thuyền mệt mỏi sau hành trình.
Nghệ thuật: nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
- Nỗi nhớ quê hương.
c. Đánh giá, mở rộng 1.0
- Khẳng định ý kiến là đúng
………………………………………………………………………………………………………………….
- Liên hệ, mở rộng một số tác phẩm khác.
3. Kết bài:
Khẳng định lại vấn đề chứng minh, khẳng định giá trị của bài thơ 0.5
Quê hương về nội dung và nghệ thuật.

**********************************

ĐỀ 2:
Đề học sinh giỏi Ngữ Văn 8 năm
Môn: Ngữ văn 8
Thời gian làm bài: 150 phút ( không kể thời gian giao đề)

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)


Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi :
Trong dòng đời vội vã có nhiều người dường như đã quên đi tình nghĩa giữa người với
người. Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra
cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc toàn diện mà còn đó
nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ. Chúng ta đâu chỉ
sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác. (Đó chính là
sự “cho” và “nhận” trong cuộc đời này).
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể
cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai
biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận
về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói? Cho nên, giữa
nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi
cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản
thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng
đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không
đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương.
Cuộc sống này có qua nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là
tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi
nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất.
(Trích “Lời khuyên cuộc sống…”. Nguồn: radiovietnam.vn/…/xa…/loi-
khuyen-cuoc-song-suy-nghi-ve-cho-va-nhan)
Câu 1. Nội dung chính của văn bản trên? ( 0,5 điểm)
Câu 2. Em hiểu như thế nào về câu nói: “Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ
thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân
mình.’’ ? (0.5 điểm)
Câu 3. Theo em, vì sao tác giả cho rằng: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta
được nhận lại nhiều nhất.”? (1.0 điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
II. TẠO LẬP VĂN BẢN

Câu 1 (6 điểm):


Đọc đoạn văn sau:
"Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ
thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn;
không  bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương …"
                                                                             (Trích “Lão Hạc” – Nam Cao)
          Từ triết lí tình thương của ông giáo thể hiện qua đoạn văn trên, hãy nêu lên suy
nghĩ của em về vai trò của tình thương trong cuộc sống.
 
Câu 3 (10 điểm):
     Một trong những cảm hứng của thơ ca đầu thế kỉ XX là ca ngợi vẻ đẹp của thiên
nhiên. Qua bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh và bài thơ “Khi con tu hú” của
nhà thơ Tố Hữu, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
 
HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG HỌC SINH GIỎI
Câu 1 (4 điểm)
Câu 1: Nội dung chính của đoạn văn: Bàn về “cho” và “nhận” trong cuộc 1đ
sống.

Câu 2: Người “cho đi” chỉ thật sự hạnh phúc khi hành động đó xuất phát 1đ
từ tấm lòng yêu thương thực sự, không tính toán hơn thiệt, không vụ lợi.

Câu 3:
– Nếu như ta đem một niềm vui đến cho người khác có nghĩa là đã tạo 1đ
được cho mình một niềm hạnh phúc.
– Nếu như ta đem nhiều niềm vui đến cho nhiều người, có nghĩa là ta đã 1đ
đón nhận rất nhiều niềm vui hạnh phúc.

Câu 2 (6 điểm)


        Về kĩ năng : Hs biết viết bài văn nghị luận đúng về hình thức, biết vận dụng một
số thao tác lập luận để bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của bản thân.
         Về kiến thức : Cần đảm bảo một số ý
a, Mở bài: (0,25 điểm)
          Học sinh đưa dẫn vấn đề từ câu nói của nhà văn Nam Cao trong
truyện Lão Hạc để khảng định tình yêu thương rất cần trong cuộc sống.
b, Thân bài: (5,5 điểm)
   - Giải thích: Tình yêu thương  là tình cảm tốt đẹp giữa con người với con
người. Đó là sự sẻ chia, đồng cảm, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau…trong
cuộc sống (0,5 điểm)
   -Ý nghĩa: Tình yêu thương có ý nghĩa và sức mạnh lớn lao.
          Tình yêu thương đem đến cho con người niềm vui, hạnh phúc, cao
hơn là mang lại sự sống, sự cảm hoá kì diệu, tiếp thêm sức mạnh để con
người vượt qua mọi thử thách, khó khăn. (Dẫn chứng) (1 điểm)
          Người cho đi tình yêu thương cũng cảm thấy thanh thản, hạnh phúc
………………………………………………………………………………………………………………….
trong lòng. (Dẫn chứng) (1 điểm)
          Tình yêu thương làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, là lực hấp dẫn kéo
gần con người lại với nhau. Đáng sợ biết bao khi thế giới này chỉ có hận
thù, chiến tranh. (0,5 điểm)
  - Bàn luận (Mở rộng):
          Phê phán những kẻ sống ích kỉ, thơ ơ vô cảm trước nỗi đau đồng loại
(0,5 điểm)
          Tuy nhiên tình yêu thương không phải là thứ có sẵn trong mỗi người,
chỉ có được khi con người có ý thức nuôi dưỡng, vun trồng. (0,5 điểm)
          Tình yêu thương cho đi phải trong sáng, không vụ lợi có thể nó mới
có ý nghĩa. (0,5 điểm)
          Hãy biến yêu thương thành hành động, yêu thương đúng cách, không
mù quáng... (0,5 điểm)
- Rút ra bài học nhận thức và hành động : Sống yêu thương, trân trọng tình
yêu thương của người khác dành cho mình và cũng cần biết san sẻ tình yêu
thương với mọi người. (0,5 điểm)

c, Kết bài (0,25 điểm).


          Khẳng định lại tình yêu thương là thứ tình cảm không thể thiếu trong
cuộc sống của mỗi con người.
 

Câu 3 (10 điểm):


   Yêu cầu chung
          Về kĩ năng: Biết viết bài văn có bố cục rõ ràng, biết vận dụng linh hoạt các thao
tác lập luận, các phương thức biểu đạt. Diễn đạt trong sáng, giàu hình ảnh và cảm xúc
          Về kiến thức: Hiểu được nội dung ý kiến, phân tích làm sáng tỏ nội dung ấy
trong bài thơ, nghệ thuật biểu hiện tiếng lòng của tác giả.
          *Yêu cầu cụ thể: Cần đảm bảo một số ý cơ bản sau :
a, Mở bài (0,5 điểm)
    - Dẫn dắt một cách hợp lí, logic: Khái quát về hai tác giả, hai bài thơ
    - Giới thiệu vấn đề: những cảm hứng của thơ ca đầu thế kỉ XX thường
ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên.

b. Thân bài (9 điểm)


   Bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh:
          Bức tranh thiên nhiên được vẽ ra qua tự giới thiệu về làng tôi của
tác giả. Khung cảnh được tác giả vẽ ra là một khung cảnh của buổi sớm
mai, với không gian thoáng đạt, trời trong, gió nhẹ, nắng mai hồng, với
hình ảnh những con người dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá (1 điểm)
Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
          Nổi lên trên nền trời nước mênh mông là những cánh buồm trắng
đang rướn thân mình mạnh mẽ vượt trường giang
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
………………………………………………………………………………………………………………….
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
   Việc sử dụng nghệ thuật so sánh Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn
mã và Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, nghệ thuật ẩn dụ mảnh
hồn làng kết với dùng động từ mạnh phăng, vượt  gợi hình ảnh cánh
buồm no gió, căng đầy. Dáng vóc thật hiên ngang, phóng khoáng tràn
đầy sinh lực, trần trề nhựa sống. Đó còn là khát vọng của người dân làng
chài muốn chinh phục thiên nhiên biển cả, không gian với nhiều vùng
biển xa xôi. Cánh buồm còn là biểu tượng cho những tâm hồn khoáng
đạt bay bổng của làng quê. Không chỉ vẽ ra vẻ đẹp của làng quê qua hình
ảnh buổi sơm mai hồng, con thuyền, dân trai tráng. Cảnh thiên nhiên
trong bài thơ còn được thể hiện trong những buổi dân làng đón ghe về:
(1,5 điểm)
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
          Cảnh thật ồn ào náo nhiệt của một vùng quê đón những người đi
biển trở về thật là tấp nập, những âm thanh vui vẻ của một đời sống
thanh bình khi kết quả lao động thật tốt đẹp biển lặng, cá đầy ghe. (1
điểm)
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
          Nghệ thuật nhân hóa im bến mỏi trở về nằm và ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác làm cho con thuyền trở nên như con người. Sau chuyến đi biển
dài ngày con thuyền thanh thản trở về nằm nghỉ mà nồng nàn hơi thở
mặn mòi của biển cả. Chỉ có một tình yêu thiên nhiên đến tha thiết, một
nỗi nhớ quê da diết, cảnh sắc thiên nhiên của quê hương Tế Hanh dường
như lúc nào cũng thường trực trong tâm tưởng nhà thơ, xa quê tác giả
nhớ tới cái đặc trưng của làng chài: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm
vôi và cái mùi nồng mặn của biển cả (1,5 điểm).
Nay xa cách lòng tôi luôi tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồn mặn quá!
          Với Tố Hữu thì bức tranh thiên nhiên được vẽ ra không chỉ ở một
quê cụ thể nào mà đó là không gian của cả một mùa hè ngọt ngào hương
vị, khoáng đạt nên thơ. Mỗi hình ảnh thơ được viết ra từ tình yêu thiên
nhiên, làng quê của tác giả (1 điểm)
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy san nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
          Khung cảnh thiên nhiên được mở ra với âm thanh của con chim tu
………………………………………………………………………………………………………………….
hú. Thật là một bức tranh thiên nhiên tràn trề nhựa sống, đầy sắc màu của
hương đồng gió nội: Sắc lúa đang chín vàng, trái chín , thêm sắc vàng
của ngô đang phơi dưới cái nắng đào.  (1 điểm)
          Bức tranh thiên nhiên ở đây cũng thật rộn rã âm thanh: âm thanh
của tiếng chim tu hú kêu, âm thanh của tiếng ve ngân râm ran, tiếng sáo
diều vi vu.. Trong bức tranh cũng đã có sự chuyển hóa hoạt động của sự
vật lúa chiêm đanng chín, trái cây ngọt dần, diều đương lộn nhào. Chỉ có
những con người có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến tha thiết
như nhà thơ Tố Hữu mới vẽ ra một bức tranh thiên nhiên trần  trề nhựa
sống đầy đủ sắc màu đến như vậy. (1,5 điểm)
* Đánh giá:
          Bức tranh thiên nhiên ở hai bài thơ được vẽ ra đầy ắp những sáng
tạo về câu chữ, nhịp điệu thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lý đã
tạo nên những bức trang về quê hương thật đặc sắc. Bức tranh được tạo
ra khi chỉ là một làng chài ven biển cũng có khi là cả một vùng quê rộng
lớn nhưng đêu chất chứa tình cảm, tình yêu với quê hương đất nước. (0,5
điểm)

c, Kết bài: (0,5 điểm)


 Khẳng định lại ý kiến nhận định.

***********************************************************

ĐỀ SỐ 3
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN
NĂM HỌC 2018 - 2019
Môn thi: NGỮ VĂN – LỚP 8
Thời gian: 150 phút (không kể thời gian giao đề)

I.PHẦN ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)


Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Làm sao để niềm vui của người này không còn là nỗi buồn của người kia. Làm
sao để công nghiệp hóa một ngôi làng nhưng lại không ung thư hóa dân làng. Làm sao
để tăng lợi nhuận đầu tư nhưng đừng đổ chất thải ám hại môi trường sống. Làm sao
để tăng trưởng, để giàu có hơn nhưng đừng bức tử nguồn nước cho mai sau… Chỉ có
thể là thế khi mình biết nghĩ đến người khác. Mình không nói cho hả giận khi người
khác nhói lòng. Mình không chỉ lo cho được việc cho riêng mình mặc ai kia khổ sở…
…Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng cơ
thể. Bởi vì thiểu năng cảm xúc nghĩa là dù không phải trời bắt tội, em cũng đã bị tật
nguyền ngay trong cơ thể khỏe mạnh, đẹp đẽ của chính mình.
(Trích Yêu xứ sở, thương đồng bào, Đoàn Công
Lê Huy)
………………………………………………………………………………………………………………….

1. Xét về mục đích nói, câu Làm sao để niềm vui của người này không còn là
nỗi buồn của người kia thuộc kiểu câu gì?
2. Chỉ ra đặc điểm hình thức và chức năng của câu văn vừa xét về mục đích nói.
3. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp ngữ được sử dụng trong đoạn văn (trình
bày bằng 2-3 câu văn).
4. Thông điệp mà đoạn văn gửi đến người đọc là gì?

II. PHẦN TẠO LẬP VĂN BẢN (14,0 điểm)


Câu 1 (4.0 điểm).
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 25-30 câu) triển khai câu chủ đề “Vô cảm với
người khác là thiểu năng cảm xúc” để phê phán sự việc một số bạn học sinh nhìn
thấy bạn bị đánh, bắt nạt nhưng không can thiệp, không báo cáo nhà trường, giáo viên
để giải quyết, trái lại còn cổ vũ, tiếp tay… cho bạo lực học đường.

Câu 2 (10,0 điểm).


Xuân Diệu khẳng định thơ hay là “hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Hãy chứng
minh qua bài thơ Quê hương của Tế Hanh.

(Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)

HƯỚNG DẪN CHẤM

I. PHẦN ĐỌC HIỂU

1. Xét về mục đích nói, câu Làm sao để niềm vui của người này không còn là nỗi buồn
của người kia thuộc kiểu câu: Nghi vấn (1,0).
2. Chỉ ra đặc điểm hình thức và chức năng:
+ Dấu hiệu hình thức: từ để hỏi Làm sao.
+ Chức năng: Bộc lộ cảm xúc.
3. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp ngữ:
Hs nêu được tác dụng của phép điệp ngữ để nhấn mạnh, làm nổi bật niềm trăn
trở, băn khoăn của tác giả về vấn đề phát triển xã hội ổn định trên nhiều mặt (2,0)

4. Thông điệp mà đoạn văn gửi đến người đọc: Mỗi chúng ta hãy biết nghĩ đến người
khác, đừng để cảm xúc bị “thiểu năng” vì sự vô cảm.

II. PHẦN TẠO LẬP VĂN BẢN


Câu 1 (4,0).
+ Về hình thức: HS viết đúng cấu trúc đoạn văn diễn dịch; đảm bảo dung lượng
đoạn văn.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Về nội dung: Đây là một đề mở để HS bàn luận vấn đề nóng hổi về tình trạng
sự vô cảm trước bạo lực học đường. Học sinh có thể triển khai ý theo nhiều cách, bài
viết có thể không giống đáp án nhưng làm nổi bật được vấn đề giám khảo vẫn cho
điểm tối đa.
Gợi ý đáp án:
* Mở bài (0,5 điểm):
Giới thiệu về bạo lực học đường, sự việc một số bạn học sinh nhìn thấy bạn bị
đánh, bắt nạt nhưng không can thiệp, không báo cáo nhà trường, giáo viên để giải
quyết, trái lại còn cổ vũ, tiếp tay… cho bạo lực học đường. sự vô cảm ấy chính là biểu
hiện của căn bệnh “thiểu năng cảm xúc”

* Thân bài: Nghị luận khái quát về bạo lực học đường và sự vô cảm
- Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, ngang ngược, bất chấp công lý,
đạo lý, xúc phạm trấn áp người khác gây nên những tổn thương về tinh thần và thể
xác.
Biểu hiện của sự vô cảm cần lên án: Hiện nay, trạng thái trơ lì cảm xúc của HS
đang diễn ra ngày càng nhiều, hàng loạt HS chứng kiến bạn cùng lớp, cùng trường…
bị đánh đập dã man, lột quần áo, bị chửi bới xúc phạm mà không hề phản ứng, can
ngăn hay kêu gọi sự can thiệp, trái lại còn cổ vũ, tiếp tay (dùng điện thoại quay clip
đưa lên mạng…)
- Nguyên nhân của sự vô cảm (1,0 điểm):
+ Nguyên nhân trước tiên khiến HS sống thiếu tình yêu thương, thiếu niềm tin
cuộc sống, cảm xúc… là bởi gia đình, cha mẹ ít giáo dục con về sự đồng cảm với
những người xung quanh; chưa thực sự quan tâm và có hình thức để giáo dục lối sống,
đạo đức.
+ Mặt trái của công nghệ thông tin, của kinh tế thị trường, sự phát triển và hội
nhập kinh tế, lối sống thực dụng…
- Bàn luận để tìm giải pháp khắc phục sự Vô cảm (1,0):
Chỉ cần các bạn biết sống yêu thương hơn, không vô cảm trước nỗi đau của
người khác để từ đó có những phản ứng, can thiệt kịp thời thì chắc hẳn bạo lực học
đường đã được hạn chế hoặc bị ngăn chặn.…
* Kết bài (0,5 điểm):
Học sinh nêu cảm nghĩ: Đây là một hành vi không tốt. Em sẽ làm gì để góp phần
ngăn chặn tình trạng này.

Câu 2 (10 điểm)


* Yêu cầu về kỹ năng
- Biết vận dụng kỹ năng giải thích, lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, cụ thể, toàn
diện, làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận.
- Kết cấu, lập luận chặt chẽ; diễn đạt trong sáng, rõ ràng, không mắc lỗi chính
tả, ngữ pháp, dùng từ.
* Yêu Cầu về nội dung
Học sinh trình bày theo nhiều hướng, nhưng cần đảm bảo làm rõ nội dung:
Mở bài (1,0):
………………………………………………………………………………………………………………….
- Dẫn dắt được vấn đề và hướng vào nhận định của Xuân Diệu về thơ hay phải
là “ hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”.
- Khẳng định bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đúng với nhận định về thơ của
thi sĩ Xuân Diệu.

Thân bài (8,0)


1 Giải thích nhận định (2,0)
+ Xuân Diệu thật tinh tế khi quan niệm về thơ hay, thơ hay phải là “ hay cả
hồn lẫn xác, hay cả bài”. Hồn ở đây chính là nội dung, là tình cảm, là tấm lòng, là hiện
thực và điều gửi gắm của tác giả vào bài thơ, còn xác là nghệ thuật thơ hay chính là
hình thức thơ, là cấu tứ, thể thơ, ngôn từ, nhịp điệu, giọng điệu, hình ảnh thơ, là cái
phản ánh nội dung của bài thơ. Có thể thấy quan niệm của Xuân Diệu thật toàn vẹn,
đầy đủ và hài hòa về thơ hay, phải là một thi sĩ, một người am hiểu và từng trải về
nghệ thuật mới có cái nhìn sâu sắc đến vậy.
+ Cái hồn trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh chính là tình cảm yêu nhớ
quê hương của nhà thơ, tình cảm ấy hướng về vị trí địa lí, nghề nghiệp của làng, là
cảnh dân làng ra khơi đánh cá, cảnh trở về, là hình ảnh con thuyền và những chàng trai
miền biển đầy thơ mộng, là cánh buồm căng gió, là nỗi nhớ chơi vơi, da diết, còn xác
trong bài thơ là thể thơ tám chữ, hình ảnh thơ bay bổng, lãng mạn, ngôn từ, giọng điệu
trong sáng, thiết tha, là phương thức miêu tả kết hợp với biểu cảm và các biện pháp tu
từ được sử dụng tinh tế, hài hòa.
2. Chứng minh nhận định qua việc phân tích chi tiết bài thơ (4,0).
* Nội dung bài thơ (3,0)
( Đây là luận điểm chủ yếu: kết hợp phân tích cả nội dung và nghệ thuật).
+ Vị trí, nghề nghiệp: Hai câu đầu giới thiệu về vị trí rất đặc biệt và nghề chài
lưới của làng quê tác giả.
+ Cảnh ra khơi đánh cá: Đó là cảnh rất đẹp, đầy khí thế với những hình ảnh thật
đẹp và ấn tượng về thời tiết, con người, cánh buồm.
“ Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
……………………………………….
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
- Thời tiết trong lành, sáng sủa, mát mẻ: trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Con
người khỏe mạnh: Dân trai tráng.
- Chiếc thuyền được so sánh và nhân hóa như: con tuấn mã rất hăng hái vượt
trường giang.
- Cánh buồm là hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo được so sánh như mảnh hồn
làng, nhân hóa như con người biết “Rướn thân trắng” để thâu góp gió.
+ Cảnh trở về thật ồn ào, đông đúc, yên bình, tươi vui, no đủ, một bức tranh ấm
cúng, giàu sự sống, thơ mộng với lời cảm tạ chân tình của người dân chài.
“ Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
……………………………………
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
- Hình ảnh người dân chài vừa tả thực vừa sáng tạo với nước da nhuộm nắng
gió, thân hình vạm vỡ thấm đậm vị mặn mòi, nồng tỏa vị xa xăm của biển.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Con thuyền được nhân hóa như có một tâm hồn tinh tế biết nằm nghỉ ngơi và lắng
nghe.
- Người viết có một tâm hồn tinh tế, tài hoa, có tấm lòng gắn bó sâu nặng với
quê hương.
+ Nỗi nhớ quê hương: Biểu cảm trực tiếp với nỗi nhớ biển, cá, cánh buồm,
thuyền, mùi biển… tất cả được cảm nhận bằng tấm tình trung hiếu của người con xa
quê.
“ Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
………………………………………
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”

* Nghệ thuật ( 1,0)


- Quê hương là bài thơ trữ tình, phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm. Ngòi
bút miêu tả thẫm đẫm cảm xúc. Hình ảnh, ngôn từ đẹp, bay bổng, lãng mạn, biện pháp
nhân hóa, so sánh độc đáo thổi linh hồn vào sự vật.
- Sáng tạo hình ảnh thơ rất phong phú, chính xác, chân thực qua ngôn ngữ giản
dị.

3. Kết bài (1,0)


- Học sinh khái quát bài thơ và đánh giá nhận định
************************************************************************

ĐỀ 4

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI


NĂM HỌC 2017-2018
MÔN THI: Ngữ văn; LỚP: 8
Thời gian làm bài 150 phút

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)


Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi :
Trong dòng đời vội vã có nhiều người dường như đã quên đi tình nghĩa giữa người với
người. Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra
cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc toàn diện mà còn đó
nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ. Chúng ta đâu chỉ
sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác. (Đó chính là
sự “cho” và “nhận” trong cuộc đời này).
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể
cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai
biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận
về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói? Cho nên, giữa
nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi
cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản
thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng
………………………………………………………………………………………………………………….
đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không
đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương.
Cuộc sống này có qua nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là
tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi
nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất.
(Trích “Lời khuyên cuộc sống…”. Nguồn: radiovietnam.vn/…/xa…/loi-khuyen-cuoc-song-suy-nghi-ve-cho-va-
nhan)
Câu 1. Nội dung chính của văn bản trên? ( 0,5 điểm)
Câu 2. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: “Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho
đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân
mình.’’ ? (0.5 điểm)
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc
ta được nhận lại nhiều nhất.”? (1.0 điểm)
Câu 4. Anh/chị hãy nêu thông điệp từ đoạn trích? (1.0 điểm)

II. TẠO LẬP VĂN BẢN


Câu 2. (6,0 điểm)
Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri, hình ảnh chiếc lá thường
xuân được cụ Bơ-men vẽ trên bức tường đã giữ lại sự sống cho Giôn-xi trong lúc cô
tuyệt vọng nhất.
Hình ảnh ấy đã đem đến cho em bài học gì về cuộc sống?
Câu 3. (10,0 điểm)
Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:
… Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
(Quê hương – Tế Hanh, Ngữ Văn 8, T2, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.16 - 17)
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
` Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
(Khi con tu hú – Tố Hữu, Ngữ văn 8, T2, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.19)
--------------------------------Hết-------------------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
………………………………………………………………………………………………………………….

Câu Ý Nội dung Điểm


Câu 1 Tiếng Việt 4,0
1 Nội dung chính của đoạn văn: Bàn về “cho” và “nhận” trong cuộc 1
sống.
2 Người “cho đi” chỉ thật sự hạnh phúc khi hành động đó xuất phát
từ tấm lòng yêu thương thực sự, không tính toán hơn thiệt, không 1,0
vụ lợi.

3 – Nếu như ta đem một niềm vui đến cho người khác có nghĩa là 1
đã tạo được cho mình một niềm hạnh phúc.
– Nếu như ta đem nhiều niềm vui đến cho nhiều người, có nghĩa
là ta đã đón nhận rất nhiều niềm vui hạnh phúc.
Thí sinh tự rút ra những ý nghĩa có giá trị sâu sắc định hướng cho 1,0
nhận thức và hành động của bản thân và có kĩ năng diến đạt rõ,
gọn)(Tham khảo: Cái quan trọng nhất thực sự tồn tại trong cuộc
sống là tình yêu thương. Chúng ta không chỉ sống cho riêng mình
mà phải biết sống vì người khác. Vì thế đừng quá chú trọng đến
cái tôi của chính bản thân mình, phải biết sống vì mọi người, yêu
thương, chia sẻ.)
Câu 2 Bài học từ hình ảnh chiếc lá cuối cùng mà nhân vật họa sĩ Bơ- 6,0
men vẽ trong tác phẩm cùng tên của O Hen-ri.
Yêu cầu về mặt kỹ năng
Học sinh vận dụng các kỹ năng, thao tác nghị luận để viết một
đoạn, hoặc một bài văn nghị luận ngắn về bài học rút ra từ hình
ảnh chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri.
Bài (đoạn) văn cần đảm bảo yêu cầu sau:
- Bố cục mạch lạc, lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, dẫn chứng
tiêu biểu, xác thực, phù hợp.
- Diễn đạt lưu loát, linh hoạt; hành văn uyển chuyển, kết hợp các
thao tác chứng minh, giải thích, bình luận, phân tích, bác bỏ…
- Không mắc các lỗi về viết câu, dùng từ, chính tả.
Yêu cầu về kiến thức
Đây là một dạng đề mở, học sinh có thể có nhiều cách hiểu,
rút ra nhiều bài học khác nhau từ một hình ảnh giàu sức gợi trong
tác phẩm. Do đó, bài làm có thể tập trung nghị luận về một hoặc
nhiều bài học mà học sinh rút ra từ hình ảnh này. Dưới đây là một
số khả năng nghị luận:
- Niềm tin, nghị lực trong cuộc sống.
- Tình yêu thương, sự đồng cảm, sẻ chia.
- Nét tính cách bao dung, vị tha.
- Lối sống nhân ái, giàu đức hy sinh, sẵn sàng cho, thậm chí là cả
cuộc sống của mình vì người khác.
Tuy nhiên, dù nghị luận theo hướng nào cũng cần thể hiện
được những luận cơ bản sau: 2,0
………………………………………………………………………………………………………………….
- Giải thích rõ ý nghĩa của hình ảnh chiếc lá cuối cùng theo cách
hiểu của học sinh, rút ra bài học về lẽ sống từ đó.
- Luận bàn về bài học đã được rút ra: 1,0
+ Những biểu hiện cụ thể. 1,0
+ Ý nghĩa, tác dụng. 1,0
+ Liên hệ thực tế đời sống và bản thân. 1,0
+ Phương hướng rèn luyện để hình thành cho mình tư tưởng, lẽ
sống tích cực.
Câu 3 Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Quê hương của Tế Hanh và 10,0
đoạn thơ trong bài Khi con tu hú của Tố Hữu.
Yêu cầu về mặt kỹ năng:
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm, đoạn trích thơ trữ tình
với những yêu cầu cụ thể sau:
- Hình thức một bài văn: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có sự
phân tích, bình giá, cảm thụ về nội dung cảm xúc, các yếu tố nghệ
thuật (ngôn từ, hình ảnh, thể thơ, nhịp điệu, các thủ pháp tu từ…)
trong hai đoạn trích thơ.
- Diễn đạt rõ ràng, linh hoạt, uyển chuyển; không mắc các lỗi viết
câu, dùng từ, chính tả.
Yêu cầu về kiến thức:
a. Giới thiệu vấn đề nghị luận (1,0 điểm)
- Giới thiệu về tác giả Tế Hanh và bài thơ Quê hương, tác giả Tố 1,0
Hữu và bài Khi con tu hú.
- Dẫn dắt và trích hai đoạn thơ trong đề bài.
b. Cảm nhận về hai đoạn thơ (7,0 điểm)
* Về đoạn thơ trong bài Quê hương của Tế Hanh
- Nội dung, cảm xúc:
+ Đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp của quê hương miền biển qua nỗi nhớ 0,5
của nhân vật trữ tình khi đã rời xa, với hình ảnh gần gũi, bình dị
mà xúc động. 0,5
+ Khung cảnh làng quê với không gian bao la, kỳ vĩ của biển cả,
của bầu trời mang tầm vóc vũ trụ, mang điệu hồn riêng của làng 0,5
chài.
+ Không khí lao động khẩn trương, sôi nổi, tấp nập khi đoàn
thuyền đánh cá về bến đỗ với tôm cá đầy khoang. Khung cảnh ấy 0,5
gợi ra một cuộc sống yên bình, ấm no, vui tươi và hạnh phúc.
+ Hình con người lao động quê nhà bình dị, chất phác, lam lũ, cơ 0,5
cực mà vạm vỡ, mạnh mẽ, lớn lao sánh ngang với sự kỳ vĩ của
thiên nhiên, biển trời.
+ Tình yêu, sự gắn bó sâu sắc và niềm tự hào của nhân vật trữ 0,5
tình về vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống và con người quê hương.
- Nghệ thuật: 0,5
+ Hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giàu sức gợi, mang ý nghĩa
biểu tượng cao, để lại ấn tượng mạnh mẽ.
+ Ngôn ngữ giàu sức sợi, giàu chất tạo hình và biểu cảm, cùng 0,5
………………………………………………………………………………………………………………….
với cách diễn đạt gần với lời ăn tiếng nói của người miền biển;
các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, so sánh… được sử dụng linh
hoạt, tinh tế. 0,5
+ Giọng điệu say mê, hào sảng, xen với giọng trữ tình đằm thắm
của nỗi nhớ.
* Về đoạn thơ trong bài Khi con tu hú của Tố Hữu. 0,5
- Nội dung, cảm xúc:
+ Đoạn thơ là những dòng hồi ức về quê hương, về đồng ruộng 0,5
thân yêu, quen thuộc được đánh thức từ tiếng chim tu hú gọi hè
vang vọng vào nhà nhà ngục khi tác giả bị giam cầm trong xà lim
ở Thừa Thiên. 0,5
+ Khung cảnh quê hương được mở ra với không gian mênh
mông, bát ngát của đồng ruộng vào mùa, của bầu trời xanh trong,
của vườn đang đơm hoa kết trái. 0,5
+ Hình ảnh quê nhà trong ký ức của người tù – nhân vật trữ tình
hiện ra lung linh trong nắng hè với màu sắc, âm thanh, ánh sáng, 0,5
hương vị… được miểu tả sống động, ngập tràn vẻ đẹp và nhựa
sống.
+ Nỗi nhớ đồng quê gắn với niềm cô đơn, u uất, với khát vọng tự
do của người tù phải xa cuộc sống, xa đồng bào đồng chí. 0,5
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết;
ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. 0,5
+ Hình thơ bình dị, mộc mạc mà bay bổng, lãng mạn; kết hợp
nhiều giác quan trong việc cảm nhận và thể hiện vẻ đẹp của quê
hương, đồng ruộng.
c. Điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn thơ (2,0 điểm).
- Điểm tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ về quê hương với những 0,5
hình ảnh thân thương, gần gũi, hằn sâu trong tâm tưởng, với
không bao la, bát ngát mang hồn cốt riêng của mỗi vùng quê qua
tình yêu mãnh liệt, cảm xúc sâu lắng.
+ Ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm; hình ảnh thơ dung dị, mộc mạc
mà ý nghĩa biểu tượng cao; giọng điệu tha thiết, say mê. 0,5
- Sự khác biệt:
+ Khung cảnh quê hương trong đoạn thơ của Tế Hanh mang nét
đặc trưng của không gian miền biển, gắn với những kỷ niệm tuổi
thơ, với cuộc sống, lao động của con người; cảm xúc thơ nghiêng
về yêu thương, tự hào về mảnh đất, vẻ đẹp của con người quê
hương. Còn đoạn thơ của Tố Hữu khắc họa khung cảnh đồng quê
ngày hè với âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hương vị đặc trưng, với
vẻ đẹp lung linh, sống động; cảm xúc thiên về nỗi niềm cô đơn,
khắc khoải của một người tu khao khát tự do bị cách ly khỏi cuộc
sống.
+ Tế Hanh sử dụng thể thơ thất ngôn; hình ảnh, thi liệu thiên về
………………………………………………………………………………………………………………….
những trải nghiệm, những quan sát thực tế tuổi thơ với những ấn
tượng đậm nét nhất trong ký ức. Còn nhà thơ Tố Hữu lại sử dụng
thể thơ lục bát mang đậm phong vị dân gian; hình ảnh, thi liệu
mang đậm cảm xúc lãng mạn, bay bổng trong tương quan đối lập
giữa thế giới đồng quê tươi đẹp với không gian ngục tù tăm tối,
mất tư do.
Tổng điểm toàn bài: 20,0

--------------------------------Hết----------------------------

ĐỀ 5

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN


Môn thi: Ngữ văn 8
Thời gian : 150 phút (không kể thời gian giao đề)
PHẦN I- ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:

Đại đa số người sở dĩ thất bại, chỉ là bởi không nguyện ý nhẫn nại thêm một lần nữa,
kết quả lại là, chính ngay cái thời khắc thành công gần kề đó, bản thân lại đầu hàng
chính mình. Thất bại là cơ hội và kinh nghiệm không ngừng tích lũy cho thành công
sau này, nếu như từ bỏ nỗ lực phấn đấu, đó mới là thất bại thật sự.
Có nhiều người lâm vào cảnh suy sụp sau khi gặp thất bại, cũng có không ít người đã
đánh mất bản thân khi không gặt hái được thành công, song lại có nhiều người thất
bại cả nghìn lần nhưng vẫn miệt mài làm lại, để rồi trở thành người nổi tiếng.
Churchill từng bị đúp năm lớp 6. Ông cũng bị đánh bại ở tất cả các vị trí trong những
cơ quan chính phủ mà ông xin vào. Tuy nhiên, tới năm 62 tuổi, Churchill đã trở thành
Thủ tướng Anh. Ông tự nhận mình là “một người bi quan luôn thấy sự khó khăn trong
mọi cơ hội” và “một người lạc quan luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn”.
Edison – nhà phát minh đại tài đã làm hơn 1.200 lần thí nghiệm, mới khiến cho dây
tóc bóng đèn lóe sáng được 5 giây. Một phóng viên trẻ tuổi đã từng hỏi ông cảm tưởng
về 1.200 lần thất bại đó, ông thản nhiên trả lời rằng: “Tôi vốn chưa từng thất bại lần
nào cả, tôi phát minh ra bóng đèn điện, mà toàn bộ quá trình vừa khéo là cần hơn
1.200 bước đi”.

(Quang Minh- Con đường đi đến thành công)

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản? (0,5 điểm)

Câu 2: Theo tác giả, vì sao lại có nhiều người thất bại trong cuộc sống? (0,5 điểm)

Câu 3: Muốn gặt hái được thành công, con người cần có những phẩm chất nào?(1,5
điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 4: Nêu ngắn gọn suy nghĩ của em về câu nói của Churchill:“một người bi quan
luôn thấy sự khó khăn trong mọi cơ hội” và “một người lạc quan luôn tìm thấy cơ hội
trong mọi khó khăn”.?(1,5 điểm)

PHẦN II-TẬP LÀM VĂN (14.0 điểm)


Câu 1 (6.0 điểm) : Từ nội dung câu chuyện ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một
đoạn văn ( khoảng 200 chữ) suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần lạc quan trong cuộc
sống.
Câu 2 ( 10.0 điểm)
Trong cuốn “ Từ điển văn học”, Nguyễn Xuân Nam viết : “ Thơ là hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm trạng, những cảm xúc dạt dào,
những tưởng tượng mạnh mẽ, một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ
ràng”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh, hãy
làm sáng tỏ ý kiến trên.
------------------- Hết -------------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM


Câu Nội dung Điểm
I ĐỌC HIỂU
1 Phương thức biểu đạt: nghị luận 0.5điểm
2 Vì : thiếu sự nhẫn nại, đánh mất bản thân, từ bỏ sự nỗ lực. 0.5.điểm
3 Muốn thành công, cần có những phẩm chất: lòng kiên nhẫn, bản lĩnh, ý 1.5đ
chí, nghị lực vượt khó, niềm tin lạc quan…
4 Nêu ngắn gọn suy nghĩ của em về câu nói của Churchill:“một người bi 1.5
quan luôn thấy sự khó khăn trong mọi cơ hội” và “một người lạc quan
luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn”.
II TẬP LÀM VĂN
1 Nghị luận xã hội
a- Đảm bảo thể thức của một đoan văn nghị luận: Mở đoạn giới thiệu 0.25điể
vấn đề nghị luận; Thân đoạn làm rõ vấn đề nghị luận, triển khai được m
luận điểm; Kết đoạn khái quát được nội dung nghị luận

b-Xác định đúng vấn đề nghị luận : ý nghĩa của tinh thần lạc quan 0.25điể
m
………………………………………………………………………………………………………………….
c- Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao tác lập 5.0 điểm
luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có thể viết đoạn văn theo
hướng sau:
*Giải thích vấn đề:
- Lạc quan là một trạng thái cảm xúc tích cực, luôn yêu đời, xem cuộc
đời là đáng sống, luôn giữ một niềm tin, hi vọng về những điều tốt đẹp
dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, phiền muộn, gian truân.
*Bàn luận vấn đề:
- Vì sao con người cần phải có tinh thần lạc quan:
+ Cuộc sống có muôn vàn khó khăn, thử thách, sống lạc quan giúp con
người có cái nhìn sáng suốt, trí tuệ minh mẫn, hành động đúng đắn để
giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp.
+ Sống lạc quan giúp con người trở nên can đảm, tự tin vào bản thân,
tâm hồn phong phú, rộng mở, sống có ích, họ luôn học hỏi được những
kinh nghiệm quí giá kể cả trong thành công hay thất bại.
+ Thái độ sống lạc quan giúp mỗi người luôn nhận ra mặt tích cực của
mọi vấn đề, nhận ra những cơ hội mà người sống bi quan không thể
nhận ra, từ đó gặt hái được những thành công trong cuộc sống.
+ Lạc quan là biểu hiện của thái độ sống đẹp, được mọi người yêu quí,
trân trọng.
-Trong cuộc sống có biết bao người phải trải qua nhiều khó khăn, thử
thách nhưng họ luôn lạc quan, kiên cường vượt lên và chiến thắng
( HS lấy dẫn chứng để chứng minh cho mỗi ý của vấn đề nghị luận)
- Mở rộng vấn đề: Cần lên án những người sống bi quan, gặp khó khăn
là chán nản, buông xuôi, họ sẽ thất bại trong cuộc sống. Tuy nhiên, lạc
quan không phải là luôn nhìn cuộc đời bằng lăng kính màu hồng, thậm
chí mù quáng trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Bài học nhận thức và hành động:
+ Cần nuôi dưỡng, phát huy tinh thần lạc quan, thực hiện ước mơ trong
cuộc sống, hãy có niềm tin vào bản thân, không gục ngã trước khó khăn,
………………………………………………………………………………………………………………….
có ý chí nghị lực vươn lên, biết chia sẻ với mọi người và luôn tin vào
những điều tốt đẹp trong cuộc đời.
+ Liên hệ bản thân.
d- Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến 0.25
giải mới mẻ về vấn đề điểm
e- Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo những qui tắc về chuẩn chính tả, 0.25
dùng từ, đặt câu. điểm
2 Nghị luận văn học
a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận : Có đầy đủ phần Mở 0,25
bài, thân bài, kết bài. Mở bài giới thiệu vấn đề nghị luận; Thân bài làm điểm
rõ được nhận định, triển khai được luận điểm; Kết bài khái quát được
nội dung nghị luận

b- Xác định đúng vấn đề nghị luận: đặc trưng của thơ ca, lấy bài “ Quê 0,25
hương’ của Tế Hanh để chứng minh điểm
c- HS triển khai vấn đề: luận điểm cụ thể, rõ ràng, thể hiện sự cảm nhận 9.0 điểm
sâu sắc, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. HS có thể trình bày
theo hướng sau:
1- Giải thích nhận định
Ý kiến của Nguyễn Xuân Nam khẳng định vể đẹp của thơ trên hai 1,0điểm
phương diện : nội dung và hình thức.
* Vẻ đẹp nội dung: “ Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh 0,5 điểm
cuộc sống qua những tâm trạng, những cảm xúc dạt dào, những
tưởng tượng mạnh mẽ”:
-Thơ ca phản ánh cuộc sống:
+ Thơ phản ánh cái đẹp của cuộc sống, thiên nhiên, tạo vật
+ Thơ chắt lọc vẻ đẹp tinh túy, bình dị cao quí của con người, cuộc đời
-Thơ phản ánh tâm trạng, những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng
mạnh mẽ:
+Thơ là thể loại trữ tình biểu hiện sự rung động mãnh liệt trong tâm
………………………………………………………………………………………………………………….
hồn của người nghệ sĩ trước cuộc đời
+ Thơ là tiếng nói của tình cảm, tình cảm càng chân thành bao nhiêu thì
hồn thơ càng thăng hoa bấy nhiêu. Vẻ đẹp muôn màu sắc của cuộc sống
hiện ra qua “ những cảm xúc dạt dào, sự tưởng tượng mạnh mẽ” của thi
sĩ.
* Vẻ đẹp hình thức: Thơ- một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có 0.5 điểm
nhịp điệu rõ ràng”
+Thơ hay phải có ngôn từ đẹp, giàu sức gợi và sắc điệu thẩm mĩ, thơ là
hình tượng.
+Thơ hay phải có âm điệu, nhạc điệu, nhịp điệu trầm bổng, du dương,
khoan thai, hùng tráng, thiết tha.. thơ là nhạc
=> Ý kiến trên khẳng định thơ hay phải hay cả nội dung và hình thức “
Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác” ( Xuân Diệu)
2-Chứng minh qua bài thơ “ Quê hương” ( Tế Hanh) 5.0 điểm
- Giới thiệu những nét chính về tác giả Tế Hanh và bài thơ “ Quê 0,5 điểm
hương” ( Xuất xứ, chủ đề)
* Quê hương- sáng tác văn học “phản ánh cuộc sống qua những tâm
trạng, những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ”:
* Giới thiệu làng chài ven biển Quảng Ngãi. Quê hương của Tế Hanh 0,5
là một làng nghèo thuộc duyên hải miền Trung “ cách biển nửa ngày
sông”. Con sông mà nhà thơ nhắc tới là con sông Trà Bồng chảy qua
huyện Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Làng như một điểm ấm
sáng duyên dáng, chơi vơi trong nỗi thương nhớ đến quặn lòng của thi
nhân
* Khí thế của người dân chài ra khơi 1,25
+ Một loạt hình ảnh so sánh, ẩn dụ mới mẻ về con thuyền, mái chèo và điểm
cánh buồm..”Tuấn mã” là chú ngựa tơ, đẹp, phi nhanh. Ví chiếc thuyền
“ nhẹ hăng như con tuấn mã”, tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ
trung, diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lên đường, chinh phục biển
rộng sông dài
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Tính từ “ hăng” dùng rất hay liên kết với các từ ngữ “ dân trai tráng”
và “ tuấn mã” hợp thành tính hệ thống.. Mái chèo như những lưỡi kiếm
khổng lồ chém xuống nước, động từ “phăng” đầy mạnh mẽ, đưa con
thuyền “ vượt trường giang”.
+ Hình ảnh “ Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng” là so sánh đẹp,
sáng tạo biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương, tượng trưng
cho sức mạnh, lao động sáng tạo, ước mơ về ấm no hạnh phúc . Nó còn
tiêu biểu cho chí khí và khát vọng chinh phục biển khơi của đoàn trai
tráng đang hừng hực khí thế.
+Hình ảnh nhân hóa “ rướn thân trắng bao la thâu góp gió” mang đậm
cảm hứng lao động và cảm hứng vũ trụ.. Ba chữ “ rướn thân trắng” gợi
tả một cuộc đời trải qua nhiều mưa nắng, đồng thời thể hiện tư thế làm
chủ thiên nhiên. Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt
quê hương, “cánh buồm” gắn với con thuyền như "hồn vía" làng quê
chở che, neo giữ họ...Tế Hanh, với trái tim mẫn cảm đã thấy ở cánh
buồm tâm hồn lộng gió của quê hương mình
* Cảnh dân làng chài đón đoàn thuyền đánh cá trở về
+ Cảnh dân làng đón thuyền về đông vui “khắp dân làng tấp nập đón 0.5 điểm
ghe về”, đó là ngày hội lao đông đầy ắp niềm vui và sự sống, toát ra từ
không khí ồn ào, tấp nập, đông vui…
+ Người dân chài cảm tạ trời đất, biển mẹ đã cho những chiếc ghe đầy
cá, từ những “con cá tươi ngon thân bạc trắng” - là hình ảnh cụ thể
thành quả lao động của chuyến đi biển, đem lại niềm vui và hứa hẹn sự
no đủ của làng chài đến “biển lặng” sóng êm để họ trở về an toàn.
*Hình ảnh người dân chài và con thuyền trở về sau chuyến ra khơi.
+ Hình ảnh dân chài lưới “làn da ngăm rám nắng” là hình ảnh tả thực 1.25
người dân chài nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió thân hình vạm điểm
vỡ, rắn chắc, khỏe mạnh…
+ “Cả thân hình nồng thở vị thở xa xăm” là ẩn dụ sáng tạo độc đáo gợi
cảm, thú vị bởi thân hình người dân chài thấm đậm vị mặn mòi, nồng
………………………………………………………………………………………………………………….
tỏa “vị xa xăm” khoáng đạt, huyền bí của đại dương -> Hình ảnh người
dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn đã trở nên có tầm
vóc phi thường ngang với không gian thời gian…
+ Hình ảnh “con thuyền” nằm im nghỉ ngơi trên bến sau khi vật lộn
cùng sóng gió trở về. Nhà thơ đã sử dụng kết hợp hai biện pháp tu từ:
nhân hóa con thuyền qua các từ ngữ “im, mỏi, trở về, nằm…” và ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “nghe” đã biến con thuyền vốn là một sự vật vô tri
đã trở nên có hồn rất tinh tế. Con thuyền cũng như người dân làng chài
sau chuyến ra khơi về nghỉ ngơi để chiêm nghiệm, thấm đẫm vị mặn
mòi của biển khơi, nghĩ đến những vất vả và niềm vui trong cuộc sống
của mình.
* Nối nhớ quê hương cúa Tế Hanh
+ Xa quê nên “ tưởng nhớ” khôn nguôi, nhớ “ màu nước xanh” “ cá
bạc”, “ chiếc buồm vôi”,.. Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con
thuyền “ rẽ sóng ra khơi” đánh cá. Xa quê nên mới“ thấy nhớ” hương 1.0 điểm
vị biển, hương vị làng chài thân yêu “ cái mùi nồng mặn quá”. Tình cảm
thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang
trải hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc dịu dàng, đằm thắm, mênh
mang -> Tình yêu quê hương sâu nặng, gắn bó máu thịt....
* Quê hương- sáng tác văn học được diễn đạt bằng“ một ngôn ngữ
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng”
-Giàu hình ảnh đẹp: các hình ảnh “ nước bao vây”, “ con thuyền”, “
cánh buồm”, “ mảnh hồn làng”, “ dân chài lưới”, “ chiếc thuyền im 2.0 điểm
bến mỏi”, “ thân hình nồng thở vị xa xăm”, “ màu nước xanh”, “ cá
bạc”... Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi khiến cho bài thơ thêm phần thi 0.5 điểm
vị, bay bổng
-Nhịp điệu : nhẹ nhàng khoan thai, hào hùng, vui tươi, tha thiết theo
từng cung bậc cảm xúc..
- Thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc trữ tình, kết hợp khéo léo
phương thức biểu cảm và miêu tả, bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn. 0.5 điểm
………………………………………………………………………………………………………………….
sự quan sát, cảm nhận vô cùng sắc sảo, tinh tế của nhà thơ.
-Các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và sử dụng các từ 0.5 điểm
láy ( ồn ào, tấp nập, xa xăm..) thành công.
3- Đánh giá:
-Đoạn thơ là bức tranh đẹp về cảnh vật, con người lúc đoàn thuyền đánh 0.5 điểm
cá trở về bến. Tế Hanh phải là người có tâm hồn tinh tế, tài hoa, nhất là
tấm lòng gắn bó sâu nặng, tình yêu máu thịt quê hương thì mới sáng tạo
nên những vần thơ đẹp đến vậy. Bài thơ xứng đáng với lời nhận xét của 1.0 điểm
Nguyện Xuân Nam về một tác phẩm thơ hay
- Để sáng tác được một bài thơ hay, người nghệ sĩ cần đến với cuộc đời
bằng trái tim nhiệt huyết, sự sáng tạo, nỗ lực không ngừng.
-Người đọc khi tiếp nhận tác phẩm cần mở rộng tâm hồn, trái tim để
cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà người nghệ sĩ gửi gắm trong thi
phẩm
d- Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến 0.25
giải mới mẻ về vấn đề điểm
e- Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo những qui tắc về chuẩn chính tả, 0.25
dùng từ, đặt câu. điểm

******************************************************************
ĐỀ 6:
KỲ THI CHỌN HSG CẤP HUYỆN
NĂM HỌC 2017 – 2018
Môn: Ngữ Văn – Lớp 8
Thời gian: 150 phút, không kể thời gian giao đề
(Đề thi có 01 trang, gồm 03 câu)

Câu1(2.0 điểm): Phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"
( “Mùa xuân nho nhỏ” - Thanh Hải, Ngữ văn 9, Tập 2)

Câu 2 (6,0 điểm):


“Mỗi ngày ta chọn một niềm vui
………………………………………………………………………………………………………………….
Chọn những bông hoa và những nụ cười.”
(“Mỗi ngày một niềm vui” – Trịnh Công Sơn)
Từ nội dung của những ca từ trên, em hãy viết một bài văn bàn luận về niềm vui
trong cuộc sống.
Câu 3 (12,0 điểm): Bàn về văn chương, Hoài Thanh viết: “Văn chương gây cho ta
những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.”
(Trích “Ý nghĩa văn chương” – Ngữ văn 7, Tập 2)
Bằng hiểu biết của em về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên./.

------------Hết-------------

HƯỚNG DẪN CHẤM NGỮ VĂN 8 (Đề chính thức)

CÂU Hướng dẫn chấm ĐIỂ


M
Câu 1 1. Xác định biện pháp tu từ: 0,5đ
- Biện pháp tu từ ẩn dụ: Mùa xuân nho nhỏ
- Điệp ngữ: Dù là
- Hoán dụ: Tuổi hai mươi, khi tóc bạc
2. Giá trị của biện pháp tu từ: 1,5đ
- Hình ảnh "mùa xuân nho nhỏ" chỉ con người cá nhân với lối sống
đẹp, với tất cả sức sống tươi trẻ, mạnh mẽ, rực rỡ nhất, đẹp nhất của 0,5đ
4,0 đời người góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung.
điểm - Điệp ngữ: “Dù là” được nhắc lại hai lần nhằm khẳng định sự cống 0,25đ
hiến chân thành, vô điều kiện.
- Biện pháp hoán dụ: "tuổi hai mươi" chỉ tuổi trẻ mạnh mẽ, đầy sức 0,25đ
sống; "khi tóc bạc" chỉ tuổi khi đã xế bóng, cho thấy khát vọng cống
hiến, hiến dâng tất cả sức lực của mình cho cuộc đời, cho đất nước.
Các biện pháp tu từ nhằm diễn tả khát vọng cống hiến của nhà thơ
- những gì đẹp đẽ, tinh túy nhất của cuộc đời dâng hiến cho non sông 0,5đ
đất nước, không một chút toan tính, vụ lợi.
Câu 2 * Yêu cầu về kĩ năng: 1,0đ
- Bài viết có bố cục và cách trình bày hợp lí.
- Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt
Diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức: (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo 5,0đ
nhiều cách, nhưng cần đảm bảo một số ý cơ bản mang tính định
hướng dưới đây).
6,0 1,5đ
- Giải thích được nội dung của những ca từ:
điểm
+ Câu hát khẳng định: cuộc sống đan xen giữa niềm vui và nỗi buồn,
………………………………………………………………………………………………………………….

giữa hạnh phúc và đau khổ. Vì vậy, con người nên chọn niềm vui là
phương châm sống của mình.
+ Niềm vui không hẳn là những điều to tát mà có thể chỉ là những
điều nhỏ bé, giản dị như ngắm một bông hoa, nở một nụ cười.
- Hiểu biết chung về niềm vui:
Niềm vui là những điều mang lại cảm xúc vui vẻ, hạnh phúc, hân
hoan cho con người trong cuộc sống. 0,5đ
- Chỉ ra được ý nghĩa của niềm vui:
+ Niềm vui đem lại cho con người sự sảng khoái về tinh thần, là động 1,5đ
lực cho con người tham gia tốt tất cả mọi công việc.
+ Có niềm vui, con người thêm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống.
+ Niềm vui nâng cao sức khỏe và trí tuệ cho con người: Một nụ cười
bằng mười thang thuốc bổ.
+ Bên cạnh đó cũng có những người có lối sống bi quan, chán nản,
tiêu cực, chúng ta cần phê phán.
- Chỉ ra được những biểu hiện của niềm vui:
+ Người có niềm vui là người luôn hòa đồng, sống chan hòa, yêu đời,
yêu cuộc sống. 1,0đ
+ Người có niềm vui luôn biết đồng cảm và tạo ra niềm vui cho những
người xung quanh.
- Liên hệ:
+ Cần rèn luyện cho mình niềm lạc quan, yêu đời, phải biết tìm niềm 0,5đ
vui trong những điều giản dị nhất.
+ Thái độ của bản thân đối với những người sống bi quan, tiêu cực.
Câu 3 NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
* Yêu cầu về kĩ năng: 1,0đ
- Bài viết có bố cục và cách trình bày hợp lí.
- Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt
Diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức: (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo 11,0đ
nhiều cách, nhưng cần đảm bảo một số ý cơ bản mang tính định
hướng dưới đây).
Mở bài:
1,0đ
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, giới thiệu ý kiến của Hoài
Thanh gắn với nội dung chính của bài thơ Quê hương: bài thơ thể
hiện tình yêu quê hương sâu nặng.
………………………………………………………………………………………………………………….

Thân bài: 9,0đ


1. Giải thích tổng quát: 1,5đ
- Hoài Thanh khẳng định: văn chương gây cho ta những tình cảm ta
không có, tức là khẳng định các tác phẩm văn chương có khả năng
khơi dậy những tình cảm, rung cảm đẹp đẽ cho mỗi người khi tiếp cận
12,0 tác phẩm.
điểm
- Ông còn khẳng định: văn chương luyện cho ta những tình cảm ta
sẵn có, tức là nhấn mạnh khả năng văn chương bồi đắp tâm hồn, tình
cảm của mỗi người thêm sâu sắc, thêm đẹp đẽ, bền vững.
- Nhận định đã khái quát một cách sâu sắc hai vấn đề: khái quát quy
luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương: đều xuất phát từ tình cảm, cảm
xúc của tác giả và bạn đọc; khái quát chức năng giáo dục và thẩm mỹ
của văn chương đối với con người.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ Quê hương: bài thơ được viết năm
1939, khi Tế Hanh 18 tuổi, đang học ở Huế; quê hương hiện lên trong
hoài niệm, nỗi nhớ nhung, trong sự bùng cháy mãnh liệt của cảm xúc.
Khẳng định: bài thơ khơi dậy, bồi đắp thêm cho tình yêu con người, 6,5đ
tình yêu quê hương, đất nước của mỗi người. Bài thơ là minh chứng
cho nhận định của Hoài Thanh. 1,0đ
2. Phân tích, chứng minh:
a. Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho
mỗi người đọc qua niềm tự hào của tác giả khi giới thiệu về quê
hương mình một cách đầy trìu mến. (hai câu thơ đầu)
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ giới thiệu về “làng tôi ở” rất giản dị
3,0đ
và trìu mến. Hai câu thơ gợi lên một vùng quê sông nước mênh mông
và công việc chính của người dân nơi đây là nghề chài lưới.
b. Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình yêu quê hương, đất nước
cho mỗi người đọc qua việc ngợi ca vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên 1,5đ
và cuộc sống của người dân làng chài ven biển.
- Cảnh ra khơi đầy hứng khởi giữa thiên nhiên sông nước gần gũi,
khoáng đạt, thi vị. (phân tích khổ thơ thứ hai)
+ Thiên nhiên: sớm mai hồng thơ mộng và trong trẻo.
+ Con người lao động: những người dân trai tráng tràn trề sức lực.
+ Đoàn thuyền: nghệ thuật so sánh miêu tả đoàn thuyền ra khơi với
khí thế hùng tráng, mang theo ước mơ của những người dân làng chài
về một chuyến đi biển bình yên.
=> Toàn bộ đoạn thơ gợi lên khung cảnh thiên nhiên vùng biển đẹp
thơ mộng, những người con trai tráng của làng chài căng tràn nhựa
sống và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đầy tráng khí. Qua đó, Tế Hanh
1,5đ
đã thể hiện tình yêu, lòng tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người quê hương.
………………………………………………………………………………………………………………….

- Cảnh trở về tấp nập, no đủ, bình yên. (phân tích khổ thơ thứ ba)
+ Không khí: tấp nập vui tươi với những người lao động làng chài hồn
hậu, yêu lao động và biển cả bao dung cho những khoang thuyền tươi
ngon đầy ắp cá.
+ Vẻ đẹp tràn đầy sinh lực của những người con ưu tú của làng chài:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”.
+ Hình ảnh con thuyền được nhân hóa, trở về nghỉ ngơi sau một
chuyến biển dài. Con thuyền mang trong thớ vỏ dư vị mặn mòi của
biển cả bao la.
=> Các hình ảnh thuyền, biển và con người làng chài gắn bó, hòa
quyện cùng nhau trong mối quan hệ linh thiêng. Tế Hanh đã sử dụng 2,5 đ
những câu thơ đằm thắm, ngọt ngào, những biện pháp tu từ nhân hóa,
ẩn dụ đặc sắc để tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng, hùng tráng,
vẻ đẹp tràn trề sinh lực của người lao động làng chài. Ông ca ngợi
cuộc sống lao động bình dị mà vui tươi trên quê hương mình với một
tình yêu thương tha thiết, chân thành.
c. Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho
mỗi người đọc qua tình cảm thiết tha, nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối
với quê hương được bộc lộ trực tiếp ở khổ thơ cuối: nhớ quê hương là
Tế Hanh nhớ về những hình ảnh, những sự vật bình dị, gần gũi, quen 1,0đ
thuộc mang vẻ đẹp mộc mạc của làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi:
màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền, mùi nồng mặn,

(Khi trình bày, HS phải phân tích được các hình ảnh vừa chân thực,
vừa bay bổng lãng mạn, bất ngờ; từ ngữ chọn lọc; biện pháp tu từ độc
đáo; nhịp thơ tha thiết, lời thơ giản dị, đằm thắm,…) 1,0đ
3. Đánh giá:
Tâm hồn trong sáng, tình cảm thiết tha của nhà thơ Tế Hanh đối với
quê hương đã khơi dậy, bồi đắp thêm cho mỗi bạn đọc tình yêu con
người, tình yêu quê hương, đất nước. Đây chính là chức năng giáo dục
và thẩm mỹ của văn chương đối với con người, là yếu tố quyết định
cho sức sống bền vững của một tác phẩm văn học trong lòng độc giả.
Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của bài thơ Quê hương và bộc lộ suy nghĩ
riêng.

*******************************************************
ĐỀ 7:
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Môn: Ngữ văn 8
Thời gian làm bài: 150 phút
………………………………………………………………………………………………………………….
(Không kể thời gian giao đề)
Câu 1 (4.0 điểm) :
TẤT CẢ SỨC MẠNH
Có một cậu bé đang chơi ở đống cát trước sân. Khi đào một đường hầm trong đống
cát, cậu bé đụng phải một tảng đá lớn. Cậu bé liền tìm cách đẩy nó ra khỏi đống cát.
Cậu bé dùng đủ mọi cách, cố hết sức lực nhưng rốt cuộc vẫn không thể đẩy
được tảng đá ra khỏi đống cát. Đã vậy bàn tay cậu còn bị trầy xước, rướm máu. Cậu
bật khóc rấm rứt trong thất vọng.
Người bố ngồi trong nhà lặng lẽ theo dõi mọi chuyện. Và khi cậu bé bật khóc,
người bố bước tới: “Con trai, tại sao con không dùng hết sức mạnh của mình?”.
Cậu bé thổn thức đáp: “Có mà! Con đã dùng hết sức rồi mà bố!”.
“Không con trai – người bố nhẹ nhàng nói – con đã không dùng đến tất cả sức
mạnh của con. Con đã không nhờ bố giúp”.
Nói rồi người bố cúi xuống bới tảng đá ra, nhấc lên và vứt đi chỗ khác.
(Theo báo Tuổi trẻ - Bùi Xuân Lộc phỏng dịch từ “Faith to Move Mountains”).
Suy nghĩ của anh/chị về bài học rút ra từ câu chuyện trên.
Câu 2 ( 6.0 điểm):
Nhận xét về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, có ý kiến cho rằng: " Sức hấp dẫn
của những vần thơ viết về quê hương của Tế Hanh không chỉ dừng lại ở việc miêu tả
cảnh vật vùng biển kỳ vĩ mà hồn thơ Tế Hanh còn dành tình yêu đặc biệt với những
người dân vạn chài nơi đây".

Bằng hiểu biết về bài thơ Quê hương , em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên !

--- Hết ---


HUONG DÂN CHÂM
I. Hướng dẫn chung
- Giáo viên cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm thi để đánh giá tổng quát bài
làm của học sinh, tránh trường hợp đếm ý cho điểm hoặc bỏ sót ý trong bài làm của
học sinh.
- Do đặc trưng của môn Ngữ văn nên giáo viên cần chủ động, linh hoạt trong việc
vận dụng đáp án và thang điểm; khuyến khích những bài viết có sáng tạo, có ý
tưởng riêng và giàu chất văn.
- Giáo viên cần vận dụng đầy đủ các thang điểm. Điểm toàn bài tính đến 0,25 điểm
(không làm tròn).
………………………………………………………………………………………………………………….
II. Đáp án và thang điểm
Câu 1 (4.0 điểm) :
NỘI DUNG ĐIỂ
M
1. Yêu cầu về kĩ năng
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí đặt ra trong
tác phẩm văn học. Bài viết thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội; dẫn
chứng thực tế, phong phú, có sức thuyết phục; bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ,
diễn đạt tốt; không mắc lỗi đặt câu, dùng từ, chính tả,...

2. Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau,
chấp nhận cả các ý ngoài đáp án, miễn là phù hợp với đề bài và có kiến giải hợp
lí, có sức thuyết phục. Sau đây là những yêu cầu cơ bản:
a. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận 0.5
b. Giải thích nội dung, ý nghĩa câu chuyện và rút ra bài học 0.5
- Cậu bé đối diện với khó khăn, dù cố gắng hết sức vẫn thất bại, khóc và tuyệt
vọng vì nghĩ rằng sức mạnh của con người nằm trong chính bản thân mình.
- Người cha với lời nói và hành động mang đến một thông điệp: sức mạnh của
mỗi người là sức mạnh của bản thân và sự giúp đỡ từ người khác.
=> Bài học: Tự lực là cần thiết nhưng nếu không biết dựa vào sự giúp đỡ từ
người khác khi cần thiết cũng khó thành công hơn.
c. Bàn luận 2.0
- Tại sao mỗi người nên nhận sự giúp đỡ của người khác?
+ Thực tế cuộc sống đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, bất ngờ vượt khỏi khả năng
của mỗi cá nhân; có những vấn đề phải nhiều người mới giải quyết được.
+ Mỗi người luôn có khát vọng được thành công trên nhiều lĩnh vực.
- Ý nghĩa của sự giúp đỡ từ người khác:
+ Sự thành công sẽ nhanh và bền vững hơn.
+ Người nhận sự giúp đỡ có thêm sức mạnh và niềm tin, hạn chế được những rủi
ro và thất bại.
+ Tạo lập mối quan hệ tốt đẹp, gắn kết giữa người với người, nhất là trong xu thế
hội nhập hiện nay.
- Giúp đỡ không phải là làm thay; giúp đỡ phải vô tư, chân thành, tự nguyện.
- Phê phán những người tự cao không cần đến sự giúp đỡ của người khác, những
người ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.
d. Bài học nhận thức và hành động 0.5
- Phải nhận thấy sức mạnh của cá nhân là sức mạnh tổng hợp.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Chủ động tìm sự giúp đỡ và chỉ nhận sự giúp đỡ khi bản thân thực sự cần.
- Có thói quen giúp đỡ mọi người.
e. Khái quát vấn đề 0.5

Câu 2 (6.0 điểm) :


Nội dung Điể
m
Về kĩ năng:
- Biết cách viết một bài văn nghị luận văn học. Bố cục bài viết sáng rõ, các
luận điểm liên kết mạch lạc, liên kết chặt chẽ; văn phong trong sáng, có cảm
xúc,…
- Biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lí luận và năng lực cảm thụ văn
học.
Về kiến thức: Thí sinh có thể sắp xếp các luận điểm trong bài viết theo nhiều
cách nhưng về cơ bản, cần đảm bảo những nội dung sau:
a. Mở bài: 0.5
- Dẫn dắt để giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn ý kiến.
b. Thân bài : Chứng minh qua tác phẩm: 5.0
*Khái quát được ý kiến: 0.5
- Ý kiến trên muốn khẳng định sức hấp dẫn của bài thơ Quê hương với người
đọc không chỉ bởi cảnh vật vùng biển quê ông được miêu tả rất đẹp bằng
ngòi bút tinh tế mà còn hấp dẫn bởi tình yêu chân thành, tha thiết mà Tế
Hanh dành trọn cho con người quê hương.
* Luận điểm 1: Bài thơ hấp dẫn người đọc trước hết bởi cảnh vật vùng biển 2.0
quê hương hiện lên thật tự nhiên mà cũng thật đẹp.
- Ngay ở lời thơ mở đầu nhà thơ đã giới thiệu với người đọc về quê hương
yêu dấu của mình với nghề nghiệp và vị trí cụ thể -> với niềm tự hào về một
vùng quê chài lưới thanh bình.
- Vùng quê đó càng đẹp hơn khi tác giả đặc tả cảnh dân chài ra khơi vào buổi
sớm mai hồng:
+ Đó là khung cảnh thời tiết đẹp, lí tưởng,cho một chuyến ra khơi.
+ Nổi bật lên giữa thiên nhiên hùng vĩ là hình ảnh con thuyền ra khơi căng
tràn sự sống.(chú ý vào hình ảnh so sánh tinh tế, độc đáo của nhà thơ khi
miêu tả con thuyền và cánh buồm..)
=> Bức tranh thiên nhiên vùng biển hiện lên thật tinh tế và sống động dưới
nét vẽ tài tình của nhà thơ.
* Luận điểm 2: Bài thơ còn hấp dẫn người đọc bởi tình yêu đặc biệt của 2.0
người con xa quê dành cho người dân vạn chài nơi đây.
- Ông viết về họ với tất cả niềm tự hào hứng khởi:
+ Đó là cảnh đoàn thuyền trở về trong sự mong đợi của dân chài...
+ Đó là hình ảnh những con người khỏe mạnh rắn rỏi (chú ý bút pháp tả thực
………………………………………………………………………………………………………………….
kết hợp bút pháp lãng mạn). Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp đặc trưng của con
người nơi đây.
+ Đó còn là hình ảnh con thuyền mệt mỏi say sưa sau một hành trình vất vả..
(NT nhân hóa và ẩn dụ chuyển đổi cảm giác)
- Bài thơ kết thúc trong nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của người con xa xứ.
(Nếu không có bốn câu thơ cuối bài có lẽ người đọc không thể biết được nhà
thơ viết bài thơ khi xa quê.)

* Đánh giá chung:


- Khẳng định ý kiến là đúng
- Để đạt được giá trị đó cần có một cách viết giản dị tự nhiên mà sâu sắc qua 0.5
ngôn ngữ, hình ảnh thơ...
c. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề chứng minh. 0.5
- Liên hệ: Thơ Tế Hanh có sức lay động mạnh mẽ tới độc giả. Nó đánh thức
trái tim ta trong tình yêu nỗi nhớ quê hương...
********************************************************

ĐỀ 8:
KÌ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 8 CẤP HUYỆN
NĂM HỌC: 2018-2019
Môn thi: Ngữ văn.
Thời gian: 150 phút

I. ĐỌC - HIỂU (4,0 điểm)


Đọc phần trích sau và thực hiện các yêu cầu:
... Thế là em quẹt những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại!
Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và
đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi,
chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về chầu thượng đế.
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên cao, trong sáng,
chói chang trên bầu trời xanh nhợt (...). Trong buổi sáng lãnh lẽo ấy, người ta thấy
một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì đói rét trong đêm
giao thừa.
(Ngữ văn 8, tập 1, NXB GD 2010)
Câu 1 (1,0 điểm): Nêu phương thức biểu đạt chính của phần trích?
Câu 2 (2,0 điểm): Vận dụng kiến thức về phép tu từ, chỉ ra sự khác nhau trong cách
viết của hai câu văn được gạch chân? Hiệu quả nghệ thuật của các cách viết đó?
Câu 3 (1,0 điểm): Thông điệp sâu sắc từ phần trích trên?
II. LÀM VĂN (16,0 điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 1 (4,0 điểm):
Bài thơ" Tức cảnh Pác Bó" (Hồ Chí Minh, Văn 8, tập 2, NXB GD 2010) kết
thúc bằng câu thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Viết đoạn văn cảm nhận về vẻ
đẹp của câu thơ trên và nét độc đáo trong "thú lâm tuyền" của Hồ Chí Minh với người
xưa?
Câu 2 (12,0 điểm):
Hình tượng quê hương trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tế Hanh (Văn 8, tập
2, NXB GD 2010); từ đó nêu suy nghĩ về giá trị của quê hương trong cuộc sống?
-----------------------Hết-----------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM


(Hướng dẫn chấm này có 03 trang)
I. Hướng dẫn chung
- Giám khảo cần vận dụng hướng dẫn chấm chủ động, linh hoạt, tránh cứng
nhắc, máy móc và phải biết cân nhắc trong từng trường hợp cụ thể để ngoài kiểm tra
kiến thức cơ bản, giám khảo cần trân trọng những bài làm thể hiện được tố chất của
một học sinh giỏi (kiến thức vững chắc, có năng lực cảm thụ văn học sâu sắc, tinh tế,
kỹ năng làm bài tốt, diễn đạt có cảm xúc...) đặc biệt khuyến khích những bài làm có sự
sáng tạo, có phong cách riêng.
- Giám khảo cần đánh giá bài làm của học sinh một cách tổng thể ở từng câu và
cả bài, không đếm ý cho cho điểm nhằm đánh giá bài làm của học sinh trên cả hai
phương diện: kiến thức và kỹ năng.
- Hướng dẫn chấm thi chỉ nêu ý chính và thang điểm cơ bản, trên cơ sở đó, giám
khảo có thể thống nhất để định ra ý chi tiết và thang điểm cụ thể hơn.
- Nếu thí sinh làm bài theo cách riêng nhưng đáp ứng được yêu cầu cơ bản, hợp
lý, có sức thuyết phục, giám khảo căn cứ vào thực tế bài làm để cho điểm một cách
chính xác, khoa học, khách quan, công bằng.
- Tổng điểm toàn bài là 20 điểm, cho điểm lẻ đến 0,5 điểm.
II. Hướng dẫn cụ thể

Câu Nội dung Điểm

I. ĐỌC - HIỂU
1 - Phương thức biểu đạt chính: tự sự 1,0

* Sự khác nhau trong cách viết của 2 câu văn đã cho:


- Câu 1: “Họ đã về chầu thượng đế”: Dùng cách nói giảm nói tránh. 0,5
2 - Câu 2: “Em đã chết vì đói rét trong đêm giao thừa”: Không dùng 0,5
cách nói giảm nói tránh.
………………………………………………………………………………………………………………….

*Hiệu quả của cách viết đó:


- Câu 1: Tránh sự nặng nề, tạo cảm giác nhẹ nhàng, phù hợp với tâm lí 0, 5
và khát khao của nhân vật, sự thấu hiểu và tinh tế của nhà văn.
- Câu 2: Nổi bật bi kịch, tăng tiếng nói tố cáo, bức thông điệp gửi đến 0,5
người đọc càng sâu sắc hơn.
- HS rút ra những thông điệp hợp lí, thuyết phục, phù hợp với nội dung 1,0
3 phần trích trên.
II. LÀM VĂN
Bài thơ" Tức cảnh Pác Bó" (Hồ Chí Minh) kết thúc bằng câu
thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Viết đoạn văn cảm nhận
1
về vẻ đẹp của câu thơ trên và nét độc đáo trong "thú lâm tuyền"
của Hồ Chí Minh với người xưa?
a. Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Viết đúng thể thức của đoạn văn, có 0,5
kĩ năng cảm thụ thơ.
- Diễn đạt trôi chảy, có hình ảnh và cảm xúc, không mắc lỗi chính tả,
dùng từ đặt câu.
b. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày nhiều cách, nhưng
cần đảm bảo các ý sau:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, câu thơ. 0,5
- Vẻ đẹp của câu thơ: 1,0
+ Niềm vui thích của nhân vật trữ tình về cuộc đời cách mạng -> Nổi
bật vẻ đẹp của niềm lạc quan phong thái ung dung của Hồ Chí Minh
trong hoàn cảnh cách mạng còn nhiều gian khổ, thử thách.
+ Nghệ thuật điểm nhãn, giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp triết lí và trữ
tình...
- Nét độc đáo trong "thú lâm tuyền" của Hồ Chí Minh: 1,0
+ Thiên nhiên là căn cứ địa, là nơi "hành đạo" của người chiến sĩ cách
mạng
+ "Khách lâm tuyền" có dáng dấp ẩn sĩ nhưng vẫn mang cốt cách
chiến sĩ.
Hình tượng quê hương trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tế
2 Hanh, từ đó nêu suy nghĩ về giá trị của quê hương trong cuộc
sống?
………………………………………………………………………………………………………………….

a. Yêu cầu về kĩ năng: 1,0


- Biết cách tạo lập văn bản nghị luận văn học, từ đó trình bày suy nghĩ
của mình về vấn đề trong đời sống xã hội.
- Bố cục bài văn chặt chẽ, mạch lạc.
- Diễn đạt trôi chảy, văn có hình ảnh, cảm xúc, không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, đặt câu.
b. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày nhiều cách, nhưng
cần đảm bảo các ý sau: 1,0
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
- Nêu ngắn gọn cách hiểu về hình tượng văn học quê hương: Là cội 1,0
nguồn gần gũi, thiêng liêng, là nơi gửi gắm tình cảm, là điểm tựa tinh
thần của cuộc đời mỗi con người...
- Cảm nhận về hình tượng quê hương trong bài thơ: Quê hương hiện 6,0
lên trong dòng tâm tưởng là một miền quê bình dị, sức sống, trong
sáng, tươi sáng và mang đậm đặc trưng của quê hương vùng biển: Qua
vẻ đẹp của con người và cảnh sắc quê hương trong cảnh ra khơi, cảnh
trở về trong nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ...
+ Đánh giá, khái quát: hình tượng quê hương, hình tượng cái tôi nhà 1,0
thơ Tế Hanh, liên hệ, mở rộng...
- Giá trị của quê hương:
+ Giá trị của quê hương: Là cội nguồn sinh dưỡng gần gũi và thiêng 1,0
liêng, là nơi lưu giữ những buồn vui của mỗi người và những đặc
trưng của vùng miền về văn hóa, phong tục...một điểm tựa tinh thần
bền bỉ trong cuộc đời mỗi người.
+ Phản đề, bài học... 1,0

***************************************************

ĐỀ 9:
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI NĂM HỌC 2017-2018
MÔN NGỮ VĂN 8
Thời gian làm bài: 120 phút
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu sau:
Tiểu đội giải phóng quân chúng tôi trong Trung đội “ký con” đã hoàn thành nhiệm
vụ. Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết
………………………………………………………………………………………………………………….
trong một mùa Xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân
chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn.
Còn như chúng tôi được phát hiện muộn hơn sau 5 năm 10 năm – tự do quý giá, thì
xin cho chúng tôi gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó, trong
một thời đại vinh quang, lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của
chúng tôi giữ được  đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như
chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày
càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng.
(Trích Thư gửi thế hệ mai sau của 3 liệt lĩ Lê Hoàng Vũ, Nguyễn Chí, Trần Viết
Dũng thuộc Tiểu đội 1 - Trung đội Ký Con, Trung đoàn Bình Giã, Quân giải phóng
miền Nam)
Câu 1. (0,5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt của văn bản
Câu 2. (1,5 điểm): Nêu nội dung chính của văn bản
Câu 3. (2,0 điểm): Suy nghĩ về những lời tâm sự của các anh hùng liệt sĩ trong đoạn
trích gửi đến chúng ta – những con người thế hệ hôm nay (trình bày 6 đến 8 dòng)
II. LÀM VĂN (16,0 điểm)
Câu 1. (6,0 điểm)
Nhưng ô kìa ! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt cả
một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám
trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá còn giữ màu
xanh sẫm, nhưng với rìa là hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng
cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ.
(Trích Chiếc lá cuối cùng, O Hen-ri, Ngữ văn 8, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2011, tr.87)
Từ ý nghĩa đoạn trích trên, hãy trình bày suy nghĩ về nghị lực sống của con người.
Câu 2.(10,0 điểm)
Đánh giá về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, trong phần ghi nhớ, Sách giáo khoa
Ngữ văn 8, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam trang 18 viết:
“Với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ Quê hương của Tế Hanh đã vẽ ra
một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên
hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng
chài”
Hãy phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh để thấy: “một bức tranh tươi sáng,
sinh động về một làng quê miền biển” và “hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của
người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài”
…………………Hết………………..

HƯỚNG DẪN CHẤM


Câu Nội dung Điểm
ĐỌC HIỂU 4,0
1 Phương thức biểu đạt: tự sự, biểu cảm. 0,5

2 Nội dung chính của đoạn trích: 1,5


- Lời nhắn gửi của những người lính đến thế hệ mai sau: ghi nhận
………………………………………………………………………………………………………………….
họ đã từng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ Tổ quốc
- Mong ước thế hệ mai sau tiếp tục lao động, cống hiến dựng xây
đất nước
3 - Suy nghĩ về những lời tâm sự của các anh hùng liệt sĩ gửi đến
chúng ta – những con người của thế hệ hôm nay
- Thí sinh bày tỏ suy nghĩ theo những cách riêng miễn là hợp lí,
thuyết phục. Dưới đây là một hướng suy nghĩ:
+ Trân trọng biết ơn những gì mà thế hệ cha anh đi trước đã hi sinh
cho Tổ quốc để chúng ta có được cuộc sống hòa bình hôm nay 2,0
+ Từ đó biết sống xứng đáng, cống hiến sức mình để dựng xây quê
hương, đất nước ngày càng giàu đẹp
LÀM VĂN 16,0
1 Từ ý nghĩa đoạn trích, hãy trình bày suy nghĩ về nghị lực sống 6,0
của con người.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Mở bài giới thiệu được vấn đề, 0,25
Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Nghị lực sống của con 0,25
người
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:Triển khai luận 5.0
điểm theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt thao
tác lập luận để làm rõ luận điểm; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa
dẫn chứng; dẫn chứng phải phù hợp, cụ thể sinh động. Thí sinh có
thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm nổi bật các ý sau:

* Giới thiệu tác giả và vấn đề nghị luận 0.5


* Nghị luận về đoạn trích: Đoạn trích làm hiện lên hình ảnh chiếc 1
lá cuối cùng trên cây thường xuân. Trước sự dữ dội của thiên nhiên,
chiếc lá vẫn kiên cường treo bám vào cành. Từ sức sống mãnh liệt ta
nghĩ về nghị lực của con người trong cuộc sống.
* Nghị luận về nghị lực sống của con người 0,5
- Nghị lực sống của con người chính là bản lĩnh, ý chí, sự cố gắng
để vượt lên tất cả những khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám sống.
- Vai trò, ý nghĩa của nghị lực sống: 1,5
+ Tạo cho ta bản lĩnh và lòng dũng cảm, tự tin trong cuộc sống
+ Ứng phó và cải biến được khó khăn, thử thách
+ Ngoài trí tuệ và tài năng, tình cảm và nhiệt huyết thì nghị lực sống
là một nhân tố quan trọng, là động lực giúp cho con người thành
công trong cuộc sống.
+ Nghị lực sống là thước đo phẩm chất con người
- Nêu và phân tích những tấm gương cụ thể trong đời sống trên các 0,5
mặt: vượt khó để học tập, lập nghiệp, lao động và sáng tạo…
- Phê phán những biểu hiện tiêu cực: thiếu nghị lực, bản lĩnh, chỉ 0,5
biết sống trong sự bao bọc, chở che, không dám đối diện với khó
khăn, thử thách
………………………………………………………………………………………………………………….
- Rút ra bài học: 0,5
+ Rèn luyện nghị lực sống để vượt qua khó khăn, gian khổ và vượt
qua chính mình
+ Kiên định mục đích sống của mình, không chán nản, bi quan, bỏ
cuộc
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu. Đảm bảo quy tắc chính tả, ngữ nghĩa, 0,25
dùng từ, đặt câu.
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo, sáng tạo (viết câu, sử dụng từ 0,25
ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm…; thể hiện được quan điểm
và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực xã hội)

2 Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh để thấy: “một bức 10,0
tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển” và “hình
ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt
lao động làng chài”
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Mở bài giới thiệu được vấn đề, 0,5
Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Một bức tranh tươi sáng, 0,5
sinh động về một làng quê miền biển và hình ảnh khỏe khoắn, đầy
sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài…
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm theo trình tự hợp lí,
có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt thao tác lập luận để làm rõ luận
điểm; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng; dẫn chứng phải
phù hợp, cụ thể sinh động.
- Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, miễn là hợp lí, thuyết 8,0
phục. Sau đây là một định hướng:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận 0,5
* Giải thích ý kiến: 1,0
- Ý kiến trên nhằm khẳng định sức hấp dẫn của bài thơ Quê hương
khi nhà thơ đã vẽ ra được bức tranh cảnh vật vùng biển tươi sáng
bằng ngòi bút tinh tế, sinh động, tình yêu quê hương sâu nặng.
- Điểm sáng trong bức tranh ấy là vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức
sống, tinh thần lao động miệt mài của người dân chài và sinh hoạt
lao động làng chài
* Chứng minh: 1
- Vẻ đẹp tươi sáng, sinh động của một làng quê miền biển
+ Khung cảnh ra khơi trong trẻo, tươi sáng được khắc họa trong
buổi sớm mai hồng
+ Cảnh đoàn thuyền trở về mang hơi thở mặn mòi của địa dương
- Nổi bật lên trong bức tranh ấy là hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức
sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài:
+ Khí thế lao động hăng hái được gợi tả qua hình ảnh những chàng 1
trai phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Hình ảnh cánh buồn là một so sánh độc đáo gợi ra linh hồn của 1
làng chài với bao ước mơ, khát vọng của người dân vùng biển
+ Cảnh ồn ào tấp nập là một bức tranh sinh hoạt lao động ở làng 1,5
chài được miêu tả hết sức sinh động, chan chứa niềm vui sướng
trước thành quả lao động và thể hiện khát vọng ấm no, hạnh phúc
của người dân làng chài.
(Chú ý phân tích nhịp thơ, giọng thơ, từ ngữ, hình ảnh và các biện
pháp nghệ thuật để làm rõ)
* Đánh giá: 1
- Đằng sau hình ảnh bức tranh làng quê mà nổi bật là hình ảnh
người dân chài là niềm vui, niềm tự hào, tình yêu của nhà thơ Tế
Hanh đối với quê hương. Từ đó làm nên cảm hứng thơ mãnh liệt.
- Với cách viết giản dị, tự nhiên mà sâu sắc qua ngôn ngữ mộc mạc,
gợi cảm, hình ảnh thơ tươi sáng, giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, âm
điệu vui tươi, đằm thắm, hồn thơ trẻ trung của một cái nhìn ấm áp
về làng quê trong kỉ niệm.
- Bài thơ viết về làng quê riêng của chính tác giả nhưng mang theo
nét đẹp của cuộc sống và con người ở mọi làng chài, do vậy nó có
sức hấp dẫn, đánh thức trái tim con người Việt Nam.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu. Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt 0,5
câu.
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện cảm nhận sâu sắc về 0,5
vấn đề nghị luận.

******************************************************

ĐỀ 10.
PHÒNG GD& ĐT ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 8
(Thời gian làm bài 150 phút )

ĐỀ BÀI

I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


………………………………………………………………………………………………………………….
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu

Bất cứ ai trong chúng ta cũng khao khát có được một cuộc sống đầy cảm hứng, hạnh
phúc và thành công. Tuy nhiên, để đạt được những gì bạn thật sự mong ước, tất cả đều
phải xuất phát từ việc nhận ra sự quan trọng và tìm được cho mình một thái độ sống
thông minh và tích cực nhất.

Một thái độ sống tích cực sẽ giúp bạn luôn lạc quan, yêu đời, tự tin để nhẹ nhàng lướt
qua mọi gian nan, thử thách trong cuộc sống. Ngược lại, một thái độ sống tiêu cực sẽ
đóng chặt bạn vào những suy nghĩ, cách nhìn phiến diện, vị kỷ, tự ti, đau khổ và dễ
dàng dẫn đến thất bại, bất hạnh. Thái độ của bạn ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của
cuộc sống và quyết định kết quả của mọi việc bạn làm.

Chúng ta ai cũng ít nhất một đôi lần mắc phải sai lầm, gặp thất bại, hay ở một trạng
thái tinh thần chán nản tồi tệ – nhưng không vì thế mà chúng ta mãi bị ám ảnh, day
dứt mà không bao giờ dám tin mình sẽ khác đi hay không dám làm một điều gì cả.
Chính thái độ sống của chúng ta sau những va vấp ấy sẽ quyết định: Liệu chúng ta có
cho phép mình trượt dài trên những thất bại triền miên hay sự va vấp ấy sẽ chính là
một cơ hội, một bài học, một trải nghiệm quí báu để chúng ta vươn lên, vững vàng và
hoàn thiện mình hơn?

(Nhập đề – Thay Thái Độ Đổi Cuộc Đời 2 – Keith D. Harrell –


https://gacsach.com/doc-online))

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản. (0,5 điểm)

Câu 2. Nội dung của văn bản bàn về vấn đề gì? (0,5 điểm)

Câu 3. Theo tác giả, thái độ sống tích cực sẽ mang đến điều ích lợi gì cho mỗi người?
(1,0 điểm)

Câu 4. Anh/ chị có đồng ý với ý kiến cho rằng “Thái độ của bạn ảnh hưởng đến mọi
khía cạnh của cuộc sống và quyết định kết quả của mọi việc bạn làm”? Vì sao?(1,0
điểm).

II. TẠO LẬP VĂN BẢN


Câu 1: Từ nội dung của văn bản trên viết bài văn nghị luận ngắn về vai trò của thái độ sống tích cực
Câu 2 (12,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng “Quê hương” của Tế Hanh là bài thơ trữ tình có sử dụng
yếu tố miêu tả và tự sự rất hợp lý, nhưng miêu tả và tự sự ở đây chỉ giúp cho yếu tố trữ
tình càng thêm nổi bật. Nhờ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố này nên hình
ảnh thơ càng chân thực, tinh tế, thể hiện tấm lòng yêu quê hương dạt dào của nhà thơ.
Bằng những hiểu biết của em về bài thơ “Quê hương”, hãy làm sáng tỏ ý kiến
trên?
--------------------------------------Hết-----------------------------------
………………………………………………………………………………………………………………….
HƯỚNG DẪN CHẤM

Câu Nội dung Điể


m
Câu I 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản: nghị luận 0.5
(3,0
điểm)

2.Thái độ sống ảnh hưởng đến cuộc sống 0.5


3.Giúp mỗi người luôn lạc quan, yêu đời, tự tin để vượt qua mọi khó 1
khăn, thử thách trong cuộc sống.
4.Đồng ý.Vì: 1
+ Thái độ sống tích cực giúp chúng ta có năng lượng và tự tin trong công
việc.
+ Ngược lại, thái độ tiêu cực sẽ kiềm hãm năng lực, khiến con người trở
nên nhút nhát, tự ti.
Dàn bài:
II
1. Giải thích:
Câu
– Tài sản: của cải vật chất và tinh thần có giá trị với chủ sở hữu.
1
– Thái độ sống tích cực: Thái độ chủ động trước cuộc sống, được biểu
hiện thông qua cách nhìn, cách nghĩ, cách hành dộng.

– Về nội dung: ý kiến cho rằng thái độ sống tích cực chính là tài sản có
giá trị nhất mà mỗi người đang có.

– Về ý nghĩa: câu nói khẳng định ý nghĩa to lớn của thái độ sống tích cực
từ đó khích lệ động viên con người sống tích cực.

2. Luận bàn ý kiến:

a. Biểu hiện của thái độ sống tích cực:

– Có cái nhìn đúng đắn về cuộc sống, về mối liên hệ giữa cá nhân với
cuộc đời, về trách nhiệm của bản thân với gia đình và xã hội.

– Luôn chủ động trước cuộc sống:

+ Xác định được mục tiêu sống, có ước mơ, hoài bão, dám phấn đấu cho
ước mơ, hoài bão dù phải đối diện với nhiều thử thách khó khăn.

+ Luôn có khát vọng vươn lên khẳng định bản thân và hoàn thiện mình,
luôn phấn đấu sống tốt, cho mình và cho mọi người.
………………………………………………………………………………………………………………….

+ Có năng lực sống, năng lực tinh thần mạnh mẽ, không buông xuôi đầu
hàng trước khó khăn, không dựa dẫm ỷ lại vào người khác.

– Thái độ sống tích cực là phẩm chất đáng quý của con người, là lối sống
đẹp.

b. Những giá trị mà thái độ sống tích cực mang lại:


* Với cá nhân:

– Người có thái độ sống tích cực cơ hội thành công trong cuộc sống sẽ
cao hơn đồng nghĩa với việc tạo dựng được những thành quả từ chính sức
lực, trí tuệ, lối sống của mình.

+ Những giá trị vật chất sẽ đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của cá nhân,
góp phần giúp đỡ người thân, cộng đồng.

+ Những giá trị tinh thần đem lại cho con người nhiều niềm vui, niềm
hạnh phúc khi thấy cuộc sống của mình có ích, có nghĩa, được quý trọng,
có được sự tự chủ, niềm lạc quan, sự vững vàng từ những trải nghiệm
cuộc sống.

* Với xã hội: Thái độ sống tích cực của cá nhân góp phần thúc đẩy xã hội
phát triển, tiến bộ.

3. Bài học nhận thức và hành động:

– Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa to lớn của thái độ sống tích cực nhất là
trong xu thế hội nhập của đất nước.

– Tích cực phấn đấu rèn luyện trong học tập, trong cuộc sống, bồi dưỡng
lòng tự tin, ý thức tự chủ.

Câu Câu 2:
2 * Yêu cầu về kĩ năng:
(12,0 - Bài làm có bố cục hoàn chỉnh.
điểm) - HS viết dạng bài nghị luận chứng minh, kết hợp được với giải thích
nhận định. Bài viết thể hiện HS có kiến thức về bài thơ “Quê hương”, về
tác giả Tế Hanh về những biện pháp nghệ thuật được thể hiện ở hình ảnh
thơ chân thực, tinh tế, sự kết hợp giữa 3 phương thức biểu đạt song
phương thức chính vẫn là biểu cảm và phải làm nổi bật tình yêu quê
hương dạt dào của nhà thơ.
- Diễn đạt mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng chính xác. Dùng từ, đặt
câu chuẩn xác.
* Yêu cầu về nội dung
………………………………………………………………………………………………………………….
1. Giải thích nội dung nhận định và khẳng đinh nhận định hoàn toàn 3,0
đúng điể
m
“Quê hương” của Tế Hanh là bài thơ trữ tình có sử dụng yếu tố 0,
miêu tả và tự sự rất hợp lý, nhưng miêu tả và tự sự ở đây chỉ giúp cho yếu 5
tố trữ tình càng thêm nổi bật. Nhờ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba
yếu tố này nên hình ảnh thơ càng chân thực, tinh tế, thể hiện tấm lòng yêu
quê hương dạt dào của nhà thơ.
- Miêu tả (mô tả đặc điểm tính chất của sự vật, hiện tượng), tự sự
(kể về người, việc,…) là yếu tố làm cơ sở bộc lộ cảm xúc, giúp cho yếu tố 0,5
trữ tình có căn cứ và càng thêm nổi bật.
- Trong bài thơ:
+ Tự sự: Thể hiện ở việc kể về nghề nghiệp của người dân quê
hương, vị trí, công việc hằng ngày ra khơi đánh cá, trở về, về hoàn cảnh 0,5
của tác giả khi xa quê.
+ Miêu tả: Quang cảnh thiên nhiên khi ra khơi đánh cá, nổi bật là
hình ảnh người dân chài lưới với con thuyền làm chủ công việc, làm chủ 0,5
vũ trụ, cảnh tấp nập khi đoàn thuyền trở về đầy cá, người dân chài lưới
sau những ngày vất vả với bao thành quả lao động. Và chiếc thuyền sau
mỗi lần về bến. Trong trí nhớ của tác giả về màu nước xanh, cánh buồm
trắng, mùi vị…
Song tất cả sự tự sự và miêu tả trên đều làm cho hình ảnh thơ thêm
chân thực, tinh tế, phục vụ xuyên suốt cho một mạch cảm xúc trữ tình: 0,5
Tình yêu quê hương dạt dào của nhà thơ.
- Điều này hoàn toàn đúng.
0,5
2. Chứng minh tính đúng đắn của ý kiến 7,0
điể
m
a. Kể, tả khi giới thiệu quê hương với niềm tự hào, sự am hiểu, gần
gũi 0,7
+ Lời kể giản dị, chân thực nhưng tinh tế, lấy những nét riêng, đặc trưng 5
của người miền biển: lấy thời gian để đo chiều dài của không gian.
+ Lời thơ tha thiết, bồi hồi, chan chứa niềm tự hào về quê hương. 0,7
b. Kể, tả về cảnh lao động (ra khơi đánh cá, trở về) của người dân 5
chài lưới cùng với những công cụ gắn bó thân thiết của họ (con
thuyền, cánh buồm gắn với con người lao động) để bộc lộ cảm xúc tự 0,7
hào, tự tin, yêu mến, trân trọng thành quả lao động. Qua đó thể hiện 5
sự tinh tế trong cách miêu tả, chân thực trong cảm xúc và sự am hiểu,
gắn bó với con người, cuộc sống lao động và quê hương- những biểu
hiện của tình yêu quê hương tha thiết
+ Chỉ vài nét chấm phá tinh tế về cảnh “dân trai tráng bơi thuyền đi đánh
cá” trong một “sớm mai hồng”, câu thơ đã mở ra bức tranh thiên nhiên
tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. 0,5
Thể hiện cái nhìn lạc quan tin tưởng về một chuyến ra khơi bình yên, mưa
………………………………………………………………………………………………………………….
thuận gió hòa, niềm mong mỏi của nhà thơ về sự che chở của thiên nhiên
đối với người dân.
+ Đặc tả về chiếc thuyền khi ra khơi bằng biên pháp so sánh, các động từ
mạnh “hăng”, “phăng”, “vượt”; cánh buồn được so sánh với mảnh hồn
làng vừa tinh tế, vừa giàu sức gợi (cả tâm hồn của làng quê gửi gắm với 0,5
cánh buồn ra khơi) “rướn” tấm thân đón gió, nắng biển khơi như mang cả
làng quê ra khơi đánh cá. Con thuyền được làm vật trung tâm truyền cảm
hứng cho nhà thơ đặc tả. Nó chở chính người lao động ra khơi, rồi trở về,
chở cả niềm tin, sự sống, thành quả lao động của làng quê.
+ Kể và đặc biệt là tả về cảnh đoàn thuyền trở về để bộc lộ sự trân trọng
thành quả, niềm tin vào sức mạnh của lao động, sự chinh phục thiên nhiên
của con người để xây dựng quê hương đất nước. Các tính từ: ”Ồn ào”, 0,5
”tấp nập” -> toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh
buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không
khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để
người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con
cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt
cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút
lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.

Đặc tả về người dân chài- nhân vật trung tâm làm nên thành quả lao động
với những nét chấm phá tinh tế, tiêu biểu thể hiện tình cảm chân thành và
sự am hiểu về vẻ bề ngoài người dân lao động miền biển: làn da ngăm 0,7
rám nắng. Thân hình nồng thở vị xa xăm là cách nói gợi cảm thể hiện sự 5
liên tưởng từ hình khối sang cảm giác được ngửi thấy, nếm thử. Hình ảnh
người dân chài vừa chân thực vừa lãng mạn với tầm vóc phi thường. Ông
không những chỉ tả chân thực về họ mà còn thổi cho họ một sức mạnh phi
thường với niềm tin tưởng, sự cảm phục về sự cường tráng và sức mạnh
chinh phục thiên nhiên, ngang tầm vũ trụ.
Chiếc thuyền- người bạn đồng hành được nhân hóa như những con người
lao động biết mệt mỏi, nghỉ ngơi để nếm trải những hạnh phúc khi hoàn
thành nhiệm vụ lao động.
c. Phác kể về hoàn cảnh của bản thân xa quê để thể hiện trực tiếp 0,5
trong nỗi nhớ khôn nguôi về quê hương của người con khi xa cách
+ Nỗi nhớ chân thành, tha thiết nên lời thơ kể giản dị; cách bộc lộ cảm
xúc trực tiếp “Nay xa cách…Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” 0,5
+ Tả về hương vị lao động làng chài chính là ông đã nhớ đến cháy lòng
hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương. Dường như nỗi nhớ quê của 0,5
ông không những bắt nguồn từ những gì ông nhìn thấy “nước xanh”,
“cánh buồn vôi”, những gì ông mô tả, ông kể mà còn là những vị mùi 1,0
thấm vào hơi thở, thớ thịt của người xa quê, còn là mùi vị xa xăm hắt về
của biển cả. Nhà thơ đã cảm nhận được chất thơ trong cuộc sống lao động
hàng ngày của người dân nên hình ảnh thơ tươi sáng, khỏe khoắn, mang
hơi thở nồng ấm của lao động, của sự sống.
………………………………………………………………………………………………………………….
3. Đánh giá về vai trò của 3 phương thức biểu đạt trong bài thơ và 2,0
khẳng định tính chủ yếu, bao trùm của cảm xúc. Nâng cao, bình luận điể
về tình yêu quê hương của Tế Hanh m

- Tế Hanh đã kể, tả không phải để chỉ kể tả, không phải để rườm rà câu 0,5
chữ mà trong kể, tả đã có nỗi lòng, cảm xúc. Vì vậy ông đã sáng tạo được
nhiều hình ảnh thơ chân thực nhưng cũng rất đẹp, bay bổng lãng mạn.
Nhà thơ đã thổi linh hồn vào cách miêu tả, cách kể sự việc, sự vật gần
gũi, giản dị khiến cho các sự vật mang một vẻ đẹp, một tầm vóc bất ngờ.
Từ đó, tình yêu quê hương của Tế Hanh càng trở nên tha thiết, sâu nặng
hơn. 0,5
- Tình yêu quê hương của ông không chỉ là những cảm xúc xáo rỗng mà
còn là những việc, người cảnh, những hình ảnh gắn bó máu thịt, sự am
hiểu về cuộc sống, con người lao động miền biển. Còn bắt nguồn từ
những quan sát, trải nghiệm và cả trong hoàn cảnh đặc biệt xa quê. 0,5
- Tình yêu quê hương ấy còn được biến thành những hành động cụ thể
của một người con làng chài: Ông là một trong nhà thơ trong phong trào
thơ Mới với những sáng tác mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê hương
thắm thiết. Sau 1945, những sáng tác của ông vẫn thể hiện sự nhớ thương
quê hương miền nam da diết và khát khao, tin tưởng đất nước thống nhất 0,5
“Tôi sẽ về nơi tôi hằng mong ước….”. Ông đã được tặng giải thưởng
HCM về VHNT năm 1996. Chúng ta trân trọng, tự hào về những người
con như thế.
- HS liên hệ

****************************************************

ĐỀ 11

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 8


NĂM HỌC 2017-2018
Thời gian : 150 phút (không kể thời gian giao đề)

PHẦN I- ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)


Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Một chàng trai trẻ đến xin học một ông giáo già với tâm trạng bi quan và chỉ thích
phàn nàn. Đối với anh, cuộc sống là một chuỗi ngày buồn chán, không có gì thú vị.
Một lần, khi chàng trai than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, người thầy
im lặng lắng nghe rồi đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ.
- Con cho thìa muối này vào cốc nước và uống thử đi.
………………………………………………………………………………………………………………….
Lập tức, chàng trai làm theo.
- Cốc nước mặn chát. Chàng trai trả lời.
Người thầy lại dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước:
- Bây giờ con hãy nếm thử nước trong hồ đi.
- Nước trong hồ vẫn vậy thôi, thưa thầy. Nó chẳng hề mặn lên chút nào – Chàng trai
nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử.
Người thầy chậm rãi nói:
-Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Và những khó khăn đó
giống như thìa muối này đây, nhưng mỗi người hòa tan nó theo một cách khác nhau.
Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ
mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc
nước, họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học
được điều gì có ích.
(Theo “Câu chuyện về những hạt muối”- vietnamnet.vn, 17/06/2015)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản ?
Câu 2: Em hiểu gì về các chi tiết, hình ảnh “thìa muối”, “ hòa tan”  trong văn bản ?
Câu 3: Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu : " những người có
tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm cho họ mất đi niềm
vui và sự yêu đời”?
Câu 4: Em rút ra bài học gì có ý nghĩa cho bản thân từ văn bản trên?
PHẦN II-TẬP LÀM VĂN (14.0 điểm)
Câu 1 (4.0 điểm) : Từ nội dung câu chuyện ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn
văn ( khoảng 200 chữ) suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần lạc quan trong cuộc sống.
Câu 2 ( 10.0 điểm)
Trong cuốn “ Từ điển văn học”, Nguyễn Xuân Nam viết : “ Thơ là hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm trạng, những cảm xúc dạt dào,
những tưởng tượng mạnh mẽ, một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ
ràng”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh, hãy
làm sáng tỏ ý kiến trên.
------------------- Hết -------------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM

Câu Nội dung


Điể
m
I ĐỌC HIỂU
1 Phương thức biểu đạt chính: Tự sự 0.5đi
ểm
2 -Hình ảnh “thìa muối” tượng trưng cho khó khăn, thử thách, những nỗi 1.5
buồn đau, phiền muộn mà con người gặp phải trong cuộc đời điểm
- Chi tiết “ hòa tan” là thái độ sống, cách giải quyết những khó khăn,
thách thức, những buồn đau, phiền muộn của mỗi người
3 2- Chỉ ra: 2.0
………………………………………………………………………………………………………………….
- Biện pháp tu từ so sánh: " những người có tâm hồn rộng mở giống điểm
như một hồ nước” 0.5
- Hiệu quả: điểm
+ Khẳng định những con người có thái độ sống tích cực, luôn lạc quan,
yêu đời, mở rộng tấm lòng, biết chia sẻ với mọi người xung quanh, luôn 1.5
có niêm tin vào bản thân và mọi người dù cuộc sống gặp chông gai, điểm
trắc trở
+ Tạo ra cách diễn đạt giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, tăng sức thuyết
phục cho lời văn.
4 Bài học rút ra: Cuộc sống luôn có những khó khăn và thử thách, thành 2.0
công phụ thuộc rất lớn vào thái độ sống của mỗi người.Thái độ sống
tích cực sẽ giúp chúng ta có được niềm tin, sức mạnh, bản lĩnh, giúp ta
khám phá khả năng vô hạn của bản thân. Chúng ta không nên sống bi
quan, chán nản mà phải sống lạc quan, yêu đời, hãy mở rộng tâm hồn
giống như hồ nước để nỗi buồn sẽ vơi đi và niềm vui được nhân lên khi
hoà tan.
II TẬP LÀM VĂN
1 Nghị luận xã hội
a- Đảm bảo thể thức của một đoan văn nghị luận: Mở đoạn giới thiệu 0.25
vấn đề nghị luận; Thân đoạn làm rõ vấn đề nghị luận, triển khai được
luận điểm; Kết đoạn khái quát được nội dung nghị luận

b-Xác định đúng vấn đề nghị luận : ý nghĩa của tinh thần lạc quan 0.25

c- Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao tác lập 3.
luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có thể viết đoạn văn theo
hướng sau:
*Giải thích vấn đề: 0.5
- Lạc quan là một trạng thái cảm xúc tích cực, luôn yêu đời, xem cuộc
đời là đáng sống, luôn giữ một niềm tin, hi vọng về những điều tốt đẹp
dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, phiền muộn, gian truân.
*Bàn luận vấn đề:
- Vì sao con người cần phải có tinh thần lạc quan: 0.25
+ Cuộc sống có muôn vàn khó khăn, thử thách, sống lạc quan giúp con
người có cái nhìn sáng suốt, trí tuệ minh mẫn, hành động đúng đắn để
giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp.
+ Sống lạc quan giúp con người trở nên can đảm, tự tin vào bản thân, 0.25
tâm hồn phong phú, rộng mở, sống có ích, họ luôn học hỏi được những
kinh nghiệm quí giá kể cả trong thành công hay thất bại.
+ Thái độ sống lạc quan giúp mỗi người luôn nhận ra mặt tích cực của 0.25
mọi vấn đề, nhận ra những cơ hội mà người sống bi quan không thể
nhận ra, từ đó gặt hái được những thành công trong cuộc sống.
+ Lạc quan là biểu hiện của thái độ sống đẹp, được mọi người yêu quí, 0.25
trân trọng.
-Trong cuộc sống có biết bao người phải trải qua nhiều khó khăn, thử 0.5
………………………………………………………………………………………………………………….
thách nhưng họ luôn lạc quan, kiên cường vượt lên và chiến thắng
( HS lấy dẫn chứng để chứng minh cho mỗi ý của vấn đề nghị luận)
- Mở rộng vấn đề: Cần lên án những người sống bi quan, gặp khó khăn 0.5
là chán nản, buông xuôi, họ sẽ thất bại trong cuộc sống. Tuy nhiên, lạc
quan không phải là luôn nhìn cuộc đời bằng lăng kính màu hồng, thậm
chí mù quáng trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Bài học nhận thức và hành động: 0.5
+ Cần nuôi dưỡng, phát huy tinh thần lạc quan, thực hiện ước mơ trong điểm
cuộc sống, hãy có niềm tin vào bản thân, không gục ngã trước khó khăn,
có ý chí nghị lực vươn lên, biết chia sẻ với mọi người và luôn tin vào
những điều tốt đẹp trong cuộc đời.
+ Liên hệ bản thân.
d- Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến 0.25
giải mới mẻ về vấn đề
e- Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo những qui tắc về chuẩn chính tả, 0.25
dùng từ, đặt câu.
2 Nghị luận văn học

a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận : Có đầy đủ phần Mở 0,25
bài, thân bài, kết bài. Mở bài giới thiệu vấn đề nghị luận; Thân bài làm
rõ được nhận định, triển khai được luận điểm; Kết bài khái quát được
nội dung nghị luận
b- Xác định đúng vấn đề nghị luận: đặc trưng của thơ ca, lấy bài “ Quê 0,25
hương’ của Tế Hanh để chứng minh
c- HS triển khai vấn đề: luận điểm cụ thể, rõ ràng, thể hiện sự cảm nhận
sâu sắc, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. HS có thể trình bày
theo hướng sau:
1- Giải thích nhận định 1,0
Ý kiến của Nguyễn Xuân Nam khẳng định vể đẹp của thơ trên hai
phương diện : nội dung và hình thức. 0,5
* Vẻ đẹp nội dung: “ Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh
cuộc sống qua những tâm trạng, những cảm xúc dạt dào, những
tưởng tượng mạnh mẽ”: 0.5
-Thơ ca phản ánh cuộc sống: điểm
+ Thơ phản ánh cái đẹp của cuộc sống, thiên nhiên, tạo vật
+ Thơ chắt lọc vẻ đẹp tinh túy, bình dị cao quí của con người, cuộc đời
-Thơ phản ánh tâm trạng, những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng
mạnh mẽ:
+Thơ là thể loại trữ tình biểu hiện sự rung động mãnh liệt trong tâm
hồn của người nghệ sĩ trước cuộc đời
+ Thơ là tiếng nói của tình cảm, tình cảm càng chân thành bao nhiêu thì
hồn thơ càng thăng hoa bấy nhiêu. Vẻ đẹp muôn màu sắc của cuộc
sống hiện ra qua “ những cảm xúc dạt dào, sự tưởng tượng mạnh mẽ”
của thi sĩ. 5.0
* Vẻ đẹp hình thức: Thơ- một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có điểm
………………………………………………………………………………………………………………….
nhịp điệu rõ ràng”
+Thơ hay phải có ngôn từ đẹp, giàu sức gợi và sắc điệu thẩm mĩ, thơ là 0,5
hình tượng. điểm
+Thơ hay phải có âm điệu, nhạc điệu, nhịp điệu trầm bổng, du dương,
khoan thai, hùng tráng, thiết tha.. thơ là nhạc
=> Ý kiến trên khẳng định thơ hay phải hay cả nội dung và hình thức “
Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác” ( Xuân Diệu) 0,5
2-Chứng minh qua bài thơ “ Quê hương” ( Tế Hanh)
- Giới thiệu những nét chính về tác giả Tế Hanh và bài thơ “ Quê 1,25
hương” ( Xuất xứ, chủ đề) điểm
* Quê hương- sáng tác văn học “phản ánh cuộc sống qua những tâm
trạng, những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ”:
* Giới thiệu làng chài ven biển Quảng Ngãi. Quê hương của Tế Hanh
là một làng nghèo thuộc duyên hải miền Trung “ cách biển nửa ngày
sông”. Con sông mà nhà thơ nhắc tới là con sông Trà Bồng chảy qua
huyện Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Làng như một điểm ấm
sáng duyên dáng, chơi vơi trong nỗi thương nhớ đến quặn lòng của thi
nhân
* Khí thế của người dân chài ra khơi
+ Một loạt hình ảnh so sánh, ẩn dụ mới mẻ về con thuyền, mái chèo và
cánh buồm..”Tuấn mã” là chú ngựa tơ, đẹp, phi nhanh. Ví chiếc thuyền
“ nhẹ hăng như con tuấn mã”, tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ
trung, diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lên đường, chinh phục biển
rộng sông dài
+ Tính từ “ hăng” dùng rất hay liên kết với các từ ngữ “ dân trai tráng”
và “ tuấn mã” hợp thành tính hệ thống.. Mái chèo như những lưỡi kiếm
khổng lồ chém xuống nước, động từ “phăng” đầy mạnh mẽ, đưa con 0.5
thuyền “ vượt trường giang”. điểm
+ Hình ảnh “ Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng” là so sánh đẹp,
sáng tạo biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương, tượng trưng
cho sức mạnh, lao động sáng tạo, ước mơ về ấm no hạnh phúc . Nó còn
tiêu biểu cho chí khí và khát vọng chinh phục biển khơi của đoàn trai
tráng đang hừng hực khí thế.
+Hình ảnh nhân hóa “ rướn thân trắng bao la thâu góp gió” mang đậm
cảm hứng lao động và cảm hứng vũ trụ.. Ba chữ “ rướn thân trắng” gợi
tả một cuộc đời trải qua nhiều mưa nắng, đồng thời thể hiện tư thế làm 1.25
chủ thiên nhiên. Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt điểm
quê hương, “cánh buồm” gắn với con thuyền như "hồn vía" làng quê
chở che, neo giữ họ...Tế Hanh, với trái tim mẫn cảm đã thấy ở cánh
buồm tâm hồn lộng gió của quê hương mình
* Cảnh dân làng chài đón đoàn thuyền đánh cá trở về
+ Cảnh dân làng đón thuyền về đông vui “khắp dân làng tấp nập đón
ghe về”, đó là ngày hội lao đông đầy ắp niềm vui và sự sống, toát ra từ
không khí ồn ào, tấp nập, đông vui…
+ Người dân chài cảm tạ trời đất, biển mẹ đã cho những chiếc ghe đầy
………………………………………………………………………………………………………………….
cá, từ những “con cá tươi ngon thân bạc trắng” - là hình ảnh cụ thể
thành quả lao động của chuyến đi biển, đem lại niềm vui và hứa hẹn sự
no đủ của làng chài đến “biển lặng” sóng êm để họ trở về an toàn.
*Hình ảnh người dân chài và con thuyền trở về sau chuyến ra khơi.
+ Hình ảnh dân chài lưới “làn da ngăm rám nắng” là hình ảnh tả thực
người dân chài nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió thân hình vạm
vỡ, rắn chắc, khỏe mạnh…
+ “Cả thân hình nồng thở vị thở xa xăm” là ẩn dụ sáng tạo độc đáo gợi
cảm, thú vị bởi thân hình người dân chài thấm đậm vị mặn mòi, nồng
tỏa “vị xa xăm” khoáng đạt, huyền bí của đại dương -> Hình ảnh người 1.0
dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn đã trở nên có tầm điểm
vóc phi thường ngang với không gian thời gian…
+ Hình ảnh “con thuyền” nằm im nghỉ ngơi trên bến sau khi vật lộn
cùng sóng gió trở về. Nhà thơ đã sử dụng kết hợp hai biện pháp tu từ:
nhân hóa con thuyền qua các từ ngữ “im, mỏi, trở về, nằm…” và ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “nghe” đã biến con thuyền vốn là một sự vật vô tri
đã trở nên có hồn rất tinh tế. Con thuyền cũng như người dân làng chài
sau chuyến ra khơi về nghỉ ngơi để chiêm nghiệm, thấm đẫm vị mặn
mòi của biển khơi, nghĩ đến những vất vả và niềm vui trong cuộc sống 2.0
của mình. điểm
* Nối nhớ quê hương cúa Tế Hanh
+ Xa quê nên “ tưởng nhớ” khôn nguôi, nhớ “ màu nước xanh” “ cá 0.5
bạc”, “ chiếc buồm vôi”,.. Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con điểm
thuyền “ rẽ sóng ra khơi” đánh cá. Xa quê nên mới“ thấy nhớ” hương
vị biển, hương vị làng chài thân yêu “ cái mùi nồng mặn quá”. Tình cảm
thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang
trải hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc dịu dàng, đằm thắm, mênh
mang -> Tình yêu quê hương sâu nặng, gắn bó máu thịt.... 0.5
* Quê hương- sáng tác văn học được diễn đạt bằng“ một ngôn ngữ điểm
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng”
-Giàu hình ảnh đẹp: các hình ảnh “ nước bao vây”, “ con thuyền”, “ 0.5
cánh buồm”, “ mảnh hồn làng”, “ dân chài lưới”, “ chiếc thuyền im điểm
bến mỏi”, “ thân hình nồng thở vị xa xăm”, “ màu nước xanh”, “ cá
bạc”... Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi khiến cho bài thơ thêm phần thi
vị, bay bổng 0.5
-Nhịp điệu : nhẹ nhàng khoan thai, hào hùng, vui tươi, tha thiết theo điểm
từng cung bậc cảm xúc..
- Thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc trữ tình, kết hợp khéo léo
phương thức biểu cảm và miêu tả, bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn. 1.0
sự quan sát, cảm nhận vô cùng sắc sảo, tinh tế của nhà thơ. điểm
-Các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và sử dụng các từ
láy ( ồn ào, tấp nập, xa xăm..) thành công.
3- Đánh giá:
-Đoạn thơ là bức tranh đẹp về cảnh vật, con người lúc đoàn thuyền đánh
cá trở về bến. Tế Hanh phải là người có tâm hồn tinh tế, tài hoa, nhất là
………………………………………………………………………………………………………………….
tấm lòng gắn bó sâu nặng, tình yêu máu thịt quê hương thì mới sáng tạo
nên những vần thơ đẹp đến vậy. Bài thơ xứng đáng với lời nhận xét của
Nguyện Xuân Nam về một tác phẩm thơ hay
- Để sáng tác được một bài thơ hay, người nghệ sĩ cần đến với cuộc đời
bằng trái tim nhiệt huyết, sự sáng tạo, nỗ lực không ngừng.
-Người đọc khi tiếp nhận tác phẩm cần mở rộng tâm hồn, trái tim để
cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà người nghệ sĩ gửi gắm trong thi
phẩm
d- Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến 0.25
giải mới mẻ về vấn đề điểm
e- Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo những qui tắc về chuẩn chính tả, 0.25
dùng từ, đặt câu. điểm

**************************************************************

ĐỀ 12:
ĐỀ KHẢO SÁT NĂNG LỰC HỌC SINH GIỎI
Năm học 2019 – 2020
Môn: Ngữ văn 8
Thời gian làm bài: 150 phút

Câu 1 (4 điểm)
Trên trang Vnexpress.net, Thứ tư, 8/4/2020, trong bài: Cây 'ATM gạo' cho người
nghèo có đoạn viết:
Thấy việc phát gạo từ thiện tiềm ẩn nguy cơ lây bệnh, anh Hoàng Tuấn Anh (35
tuổi) sáng chế máy phát gạo tự động được mọi người gọi là cây "ATM gạo".
Sáng 7/4, ông Nguyễn Văn Mạnh (68 tuổi), làm nghề bán vé số ở quận 11, tiến
lại gần tấm bảng "Điểm phát gạo tự động cho người nghèo", với tay lấy một túi nilon
và rụt rè bấm nút cạnh chiếc bồn inox. Một dòng gạo trắng từ trong chiếc ống nhựa
chảy ra, nằm gọn gàng trong túi. Khuôn mặt giãn ra, ông Mạnh xách túi gạo ra về,
nhường chỗ cho người tiếp theo đang xếp hàng cách ông 2 mét.
"Trước giờ tôi cũng được người ta cho gạo nhưng lần đầu thấy có cái máy tự
động này. Nhân viên ở đây nói, ăn hết thì tới lấy tiếp nên tui không lo thiếu gạo trong
mùa dịch này nữa", người đàn ông bán vé số đang thất nghiệp vì Covid-19 nói.
Từ phần tin trên, em hãy viết bài văn nghị luận với chủ đề: Yêu thương và sáng
tạo.
Câu 2 (6 điểm)
Nhận định về thơ, Diệp Tiến cho rằng: “Thơ ca là tiếng lòng người nghệ sĩ”.
………………………………………………………………………………………………………………….
Em hãy cảm nhận về tiếng lòng mà nhà thơ Tế Hanh gửi gắm trong bài thơ Quê
hương ?
---------------------Hết-------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
A. YÊU CẦU CHUNG
- Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh
đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức độ điểm
một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ
bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.
- Điểm bài thi có thể cho lẻ đến 0,25 điểm và không làm tròn.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ
Câu 1(4,0 điểm)
1. Về kĩ năng
Biết cách viết bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có sức
thuyết phục, văn viết mạch lạc, trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
2. Về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
Nội dung Điểm
a. Mở bài:
- Khái quát nội dung mẩu tin 0,5
- Dẫn ra vấn đề nghị luận: Yêu thương và sáng tạo.
b. Thân bài:
* Giải thích vấn đề:
- Yêu thương: là một khái niệm chỉ một phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn
của con người. Đó là tình cảm thương yêu, chia sẻ và đùm bọc một cách thắm 0.25
thiết. Yêu thương con người là sự quan tâm, giúp đỡ của chúng ta đối với
những người xung quanh, là làm những điều tốt đẹp cho người khác và nhất là
những người gặp khó khăn hoạn nạn.
- Sáng tạo: sáng tạo chính là hoạt động của con người khi tìm thấy cũng như 0.25
làm nên giá trị vật chất hay giá trị tinh thần mới mẻ mà trước đó chưa có. Bên
cạnh đó, sáng tạo còn được hiểu là các hoạt động nhằm tạo ra bất cứ cái gì có
đồng thời tính mới và tính ích lợi
=> Là hai yếu tố vô cùng cần thiết trong cuộc sống của con người, giữa chúng 0.25
có quan hệ chặt chẽ với nhau.
………………………………………………………………………………………………………………….
* Bàn luận ý nghĩa vấn đề:
- Vai trò và ý nghĩa của yêu thương và sáng tạo trong cuộc sống:
+ Sáng tạo rất cần thiết trong các lĩnh vực của cuộc sống: học tập, lao động, 0.75
kinh doanh, … Sáng tạo sẽ đem lại sự khác biệt, giúp con người vượt qua trở
ngại cuộc sống, rút ngắn thời gian, tăng hiệu quả công việc,… là yếu tố cần
thiết để đem lại sự tiến bộ cho xã hội. (dẫn chứng)
+ Yêu thương: Sưởi ấm tâm hồn những con người cô đơn, đau khổ, bất hạnh, 0.75
truyền cho họ sức mạnh, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Tạo sức mạnh cảm
hoá kì diệu đối với những người “lầm đường lạc lối”; mang lại niềm hạnh phúc,
niềm tin và cơ hội để có cuộc sống tốt đẹp hơn; là cơ sở xây dựng một xã hội
tốt đẹp, có văn hóa… (dẫn chứng)
- Mối quan hệ giữa yêu thương và sáng tạo: 0.75
+ Từ yêu thương đến sáng tạo là một quá trình đi từ suy nghĩ, tình cảm đến
hành động. Đó chính là biểu hiện của lối sống sẻ chia.
+ Yêu thương là cội nguồn sức mạnh của sáng tạo. Có yêu thương, con người
sẽ biết vì người khác mà sáng tạo. Ngược lại, sự sáng tạo sẽ nhân rộng, làm
tình yêu thương được nở hoa (dẫn chứng qua mẩu tin)
+ Nếu sự sáng tạo không xuất phát từ tình yêu thương thì sự sáng tạo ấy sẽ là
mối họa (dẫn chứng)
* Bàn bạc mở rộng:
- Yêu thương và sáng tạo phải xuất phát từ chính đáy lòng, từ ý thức mà đi đến 0.5
hành động cụ thể. Không vì toan tính cá nhân, không vì lợi ích trước mắt … mà
làm.
- Biết cho đi, bạn sẽ nhận lại hạnh phúc trong tâm hồn.
- Xã hội vẫn còn những con người ích kỉ, làm việc, sáng tạo vì toan tính cá
nhân, không xuất phát từ tình yêu thương, cần lên án….
c. Kết bài:
- Nêu bài học nhận thức, hành động cho bản thân.

Câu 2 (6,0 điểm)


1. Về kĩ năng
+ Hiểu đúng yêu cầu của đề, có kĩ năng làm bài nghị luận văn học. Biết kết hợp nhuần
nhuyễn các phép lập luận đã học, vận dụng tích hợp liên môn.
+ Có kĩ năng xây dựng luận điểm đúng đắn, sáng tỏ, dẫn chứng chọn lọc, lí lẽ thuyết
phục, không mắc lỗi chính tả và lỗi diễn đạt.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Văn viết trong sáng, có cảm xúc, thể hiện được năng lực cảm nhận sâu sắc.
2. Về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những
nội dung cơ bản sau:
Nội dung Điể
m
a. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận 0,5
b. Thân bài
* Lí giải và khẳng định vấn đề:
+ Thơ là hình thức sáng tác nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu để diễn tả 0,5
những xúc cảm trào dâng nơi tâm hồn nhà thơ.
+ Nói “thơ là tiếng lòng”: chính là những rung động mãnh liệt bật ra trong
một phút thăng hoa cảm xúc của nhà thơ.
=> Thơ được tạo ra từ thực tiễn cuộc sống và cảm xúc tình cảm của nhà thơ.
Cũng thông qua thơ, người nghệ sĩ gửi gắm tình cảm của mình.
+ Bài thơ “Quê hương” là nỗi nhớ tha thiết đằm sâu của người con xa quê, 0,5
cũng là tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả. Đó là tiếng lòng mà Tế Hanh gửi
gắm.
* Chứng minh vấn đề:
- Làm rõ “tiếng lòng” hay chính là tình cảm, cảm xúc, là tình yêu, nỗi nhớ … của
Tế Hanh được thể hiện trong bài thơ Quê hương
+ Trước hết tiếng lòng ấy là nỗi nhớ quê hương, ghi khắc hình ảnh quê hương,
hình ảnh làng tôi thông qua cách gọi tên làng, cách nói về những nét đặc trưng của 0,7
làng … 5
+ Tiếng lòng, cảm xúc của Tế Hanh còn được thể hiện qua nỗi nhớ về bức tranh
lao động, nhịp sống, mưu sinh của người quê mình (phân tích chứng minh qua 0,7
cảnh đoàn thuyền ra khơi và trở về) 5
+ Tiếng lòng hay cảm xúc đó còn là nỗi nhớ người: “ Dân chài lưới…”
+ Đó là nỗi nhớ sâu trở thành tưởng nhớ về những điều vừa bình dị, vừa mang nét
đặc trưng nhất của quê nhà: màu nước, vị biển, con thuyền… 0,7
+ Tiếng lòng ấy còn là ước mong, khát vọng được trở về quê hương, khát vọng về 5
đất nước độc lập, Bắc Nam thống nhất… 0,7
* Đánh giá khái quát: 5
- Khái quát được: Tiếng lòng của nhà thơ Tế Hanh được bộc lộ qua tình yêu, nỗi
………………………………………………………………………………………………………………….
nhớ, sự trân trọng quê hương từ những điều bình dị nhất: Nhớ quê, nhớ biển, nhớ 0,5
cảnh, nhớ người, nhớ màu, nhớ mùi, nhớ vị…. => Quê hương có một vị trí thiêng
liêng trang trong trong trái tim những người con xa xứ.
- Thơ Tế Hanh có sức lay động mạnh mẽ tới độc giả. Nó đánh thức trái tim ta trong 1,0
tình yêu, nỗi nhớ quê hương.
- Để đạt được giá trị đó, cần có một cách viết giản dị, tự nhiên mà sâu sắc qua ngôn
ngữ, hình ảnh thơ. (Đánh giá về nghệ thuật)
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Đây là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ dạt dào
tình cảm của Tế Hanh và cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình
cảm quê hương.
c. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận.
* Lưu ý: Người chấm cần phân biệt rõ bài làm biết xây dựng luận điểm,
chứng minh luận điểm để làm sáng tỏ đề bài (dù chứng minh nông hay sâu, đủ ý
hay chưa đủ ý... nhưng có ý thức biện luận), với bài phân tích tác phẩm thông
thường. Nếu chỉ phân tích tác phẩm thông thường thì chưa có kỹ năng làm nghị
luận văn học.

***********************************************
ĐỀ 13:
KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 8 CẤP
HUYỆN
ĐỀ CHÍNH THỨC NĂM HỌC 2019-2020
MÔN NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút
(Đề thi có 01 trang)

Câu 1: (8,0 điểm)


Suy nghĩ của em về tình mẫu tử và ý nghĩa của sự sống được gợi ra từ bài báo
sau:
Thiếu úy 25 tuổi Đậu Thị Huyền Trâm công tác tại Công an tỉnh Hà Tĩnh, chị
mang thai tháng thứ 5 thì phát hiện ra mình bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Bác sĩ
khuyên chị đình chỉ thai nghén, hóa trị để kéo dài sự sống của mình. Tuy nhiên chị
kiên quyết không điều trị để cho con trai chị có cơ hội chào đời.
Với sự cứu chữa tận tình nhất của các bác sĩ Bệnh viện K, Bệnh viện Phụ sản
Trung ương, ngày 10/7/2016, chị được mổ đẻ, không gây mê khi thai nhi tròn 29 tuần
tuổi. Con trai chị, bé Gấu hiện tại đang được chăm sóc đặc biệt tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương và có những diễn biến khả quan.
………………………………………………………………………………………………………………….
Ngày 21/7/2016, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng chị được gặp Gấu trong vài
phút. Ngày 26/7/2016, sức khỏe diễn biến xấu, chị được đưa về quê nhà Hà Tĩnh. Ngày
27/7/2016, người thiếu úy quả cảm, hy sinh cuộc đời mình vì con trai đã vĩnh viễn ra
đi.
(Theo “thanhnien.vn”; ngày 28/7/2016)

Câu 2: (12,0 điểm)


Nhà thơ Ta-gor từng bày tỏ: “Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển
để tìm ra tiếng nói của riêng mình”.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích bài thơ “Quê hương” của nhà
thơ Tế Hanh để làm sáng tỏ ý kiến trên.

---------------------- Hết ----------------------

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN


Câu 1: (8,0 điểm)
Yêu cầu cần đạt Điểm
1. Yêu cầu chung:
- Học sinh tạo lập một văn bản nghị luận xã hội hoàn chỉnh, bàn về một vấn đê
tư tưởng, đạo lí.
- Bố cục văn bản chặt chẽ, trình bày ít mắc lỗi.
2. Yêu cầu cụ thể:
2.1. Giới thiệu chung: Khái quát vấn đề nghị luận thông qua đoạn thông tin (0,5)
2.2. Trình bày suy nghĩ, ý kiến
a. Giải thích:
- Hành động từ chối điều trị ung thư để kéo dài sự sống của chị Huyền Trâm (1,5)
nói lên tình mẫu tử thiêng liêng, thể hiện ở sự hi sinh cả mạng sống cho con. 0,5
- Việc chị Huyền Trâm chọn cái chết để con được sống nói lên quan niệm về sự
sống và cái chết: sống là đáng quý, nhưng chết không có nghĩa là hết, không vô 0,5
nghĩa, có những cái chết đem lại sự sống, gieo mầm cho sự sống bất diệt.
=> Câu chuyện về chị Huyền Trâm thể hiện tình mẫu tử cao đẹp, bất tử của
người mẹ và thể hiện cách nghĩ dũng cảm, nhân văn, tích cực: chọn cái chết để
gieo mầm cho sự sống. 0,5
b. Bàn luận:
- Tình mẫu tử có nhiều biểu hiện, mà sự hi sinh cho con là một trong những (4,5)
biểu hiện đẹp đẽ nhất. Sự hi sinnh của người mẹ - kể cả mạng sống - cho con là
minh chứng cho tình cảm cao đẹp nhất của con người. 1,0
- Tình mẫu tử đem đến hạnh phúc cho mỗi chúng ta mà không có gì có thể thay
thế hay đánh đổi. 0,5
- Có nhiều người có cách quan niệm về sự sống và cái chết rất tích cực, nên họ
không sợ hãi cái chết. Cái chết không nên là vô nghĩa, nhiều khi đó là sự khởi
đầu cho những điều tốt đẹp của cuộc sống. 1,0
- Khi con người có suy nghĩ tích cực về chuyện sống chết thì người ta không sợ
hãi, đầu hàng số phận, mà dũng cảm đối mặt số phận để làm những điều có 1,0
………………………………………………………………………………………………………………….
nghĩa
- Những người không biết trân trọng tình mẫu tử hay có những người mẹ không
thương con, đối xử nhẫn tâm với con đều đáng lên án; người suy nghĩ quá tiêu 1,0
cực về chuyện sống chết thì rất dễ rơi vào bế tắc, lo âu, sợ hãi.
c. Bài học nhận thức và hành động: (1,0)
- Cần nhận thức đầy đủ về tình mẫu tử; Biết trân trọng tình mẫu tử, sống hiếu 0,5
thảo với cha mẹ nói chung.
- Biết trân trọng cuộc sống và sống có ích. 0,5
2.3. Kết luận chung: Câu chuyện là một bài học sâu sắc về cuộc sống và thêm (0,5)
một lần ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng.

Câu 2: (12,0 điểm)


Yêu cầu cần đạt Điểm
1. Yêu cầu chung
- HS biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng các thao tác lập luận: giải
thích, phân tích, chứng minh, bình luận một vấn đề qua các tác phẩm cụ thể.
- Bố cục đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ. Diễn đạt trôi chảy, hành văn mạch lạc, lưu
loát, văn viết giàu hình ảnh và cảm xúc. Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết
câu.
2. Yêu cầu cụ thể
2.1.Giải thích 1,25
- ngọn gió: cảm xúc,, cảm hứng sáng tạo, tài năng nghệ thuật của nhà thơ. 0,25
- tiếng nói riêng: cái độc đáo, nét riêng trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ và
cách thể hiện của nhà thơ, tạo nên sự khác biệt và sức hấp dẫn trong tác phẩm. 0,5

=> Bằng cách diễn đạt giàu hình ảnh tượng trưng, ý kiến khẳng định: nhà thơ
phải có cảm xúc chân thành, rung động từ trái tim, tâm hồn, để tạo nên nét riêng 0,5
biệt trong sáng tác của mình.
2.2. Bàn luận: Khẳng định ý kiến hoàn toàn chính xác 1,75
+ Thơ là tiếng nói của trái tim, là những rung cảm mạnh mẽ của người nghệ sĩ
thể hiện cá tính sáng tạo rất riêng có sức hấp dẫn trong tác phẩm. 0,5
+ Mỗi tác phẩm thơ luôn thể hiện được mối quan hệ giữa tài năng, tư tưởng,
những trải nghiệm cá nhân và phong cách của nhà văn. Cái tài, cái tâm cùng với
0,75
những rung cảm thẩm mĩ là cơ sở để nhà thơ có được “tiếng nói riêng”, giúp tác
phẩm vượt qua những giới hạn, những rào cản để đến với người đọc và tạo lập
nên những giá trị độc đáo.
+ Vì thế nhà thơ cần có cảm xúc chân thành, mãnh liệt (cái tâm) và sự công phu 0,5
trong sáng tạo (cái tài), giúp người đọc nhận ra những giá trị đích thực, độc đáo
của tác phẩm.
2.3. Phân tích, chứng minh 8,0
a. Khái quát
- Giới thiệu bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh. 0,5
- Gắn tác phẩm với nhận định: Bài thơ là tiếng nói riêng, độc đáo, thể hiện cảm
………………………………………………………………………………………………………………….
xúc thiết tha chân thành của tác giả về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của làng
chài; tình yêu quê hương tha thiết của người con xa quê.
b. Những rung cảm mãnh liệt, rất riêng được tác giả cảm nhận qua vẻ đẹp 1,0
trong sáng của thiên nhiên
- Bức tranh thiên nhiên đầy sức sống trong buổi sáng bình minh. 0,5
- Vẻ đẹp con thuyền sau ngày lao động mệt mỏi. 0,5
c. Những rung cảm mãnh liệt, rất riêng được tác giả cảm nhận qua cuộc 3,5
sống lao động bình dị của ngư dân miền biển
- Vẻ đẹp căng tràn sức sống khi đoàn thuyền ra khơi. 1,25
- Thành quả lao động sau những vất vả. 0,5
- Vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất của con người quê hương miền biển. 0,75
1,0
- Nỗi nhớ da diết, gắn bó bền chặt với quê hương.
d. Nét riêng ở hình thức biểu hiện 3,0

- Xây dựng hình ảnh thơ giản dị, chân thực nhưng rất lãng mạn, phóng khoáng 1,0
đẹp đẽ thổi hồn cho cảm hứng của nhà thơ.
- Thể thơ tám chữ, kết hợp với giọng thơ tha thiết khi thì trầm lắng khi thì bay 0,5
bổng gợi cảm xúc miên man.
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ bình dị mang vẻ đẹp tâm hồn ngư dân làng chài. 0,5
- Giọng điệu thơ trong sáng, thiết tha phù hợp với cảm xúc trong trẻo, nỗi nhớ 0,5
da diết của người con xa quê.
- Cách đặt nhan đề, cách sử dụng đại từ tôi giúp bộc lộ cảm xúc trực tiếp của 0,5
nhà thơ đầy sáng tạo.
e. Đánh giá 1,0
- Bài thơ đã thể hiện những rung cảm chân thực, bình dị từ tình yêu quê hương 0,5
tha thiết của tác giả.
- Với người sáng tác: sáng tạo bằng tài năng và tâm huyết; cần tạo ra tác phẩm 0,25
độc đáo.
- Với người đọc: không ngừng trau dồi những kiến thức để hiểu và đồng cảm 0,25
với chiều sâu cảm xúc của tác giả, cảm thụ được những dấu ấn sáng tạo trong
mỗi tác phẩm.

----------Hết--------
**************************************************************

ĐỀ 14: ĐỀ KIỂM TRA KHẢO SÁT NĂNG KHIẾU


HỌC SINH LỚP 8
Môn: Ngữ văn

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)


Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 4:
………………………………………………………………………………………………………………….
Con cò bay lả bay la
Theo câu quan họ bay ra chiến trường
Nghe ai hát giữa núi non
Mà hương đồng cứ rập rờn trong mây

Nghìn năm trên dải đất này


Cũ sao được cánh cò bay la đà
Cũ sao được sắc mây xa
Cũ sao được khúc dân ca quê mình!
(Khúc dân ca – Nguyễn Duy, Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973)
1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên?

2. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào?

3. Tìm biện pháp tu từ nổi bật và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng
trong 4 câu cuối đoạn trích trên.
4. Đoạn thơ trên khơi gợi trong em tình cảm, cảm xúc gì?
II. LÀM VĂN (16,0 điểm)
Câu 1: (6,0 điểm)
Từ sự hồi sinh kì diệu của nhân vật Giôn-xi trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng
của nhà văn O Hen-ri, em hãy viết một đoạn văn khoảng 20 dòng bàn về nghị lực sống
của mỗi con người.
Câu 2: (10,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Bài thơ Quê hương là bức tranh về quê hương vùng biển,
cảnh và người vùng biển, nhất là tình của nhà thơ với quê hương đầy dư vị, ngân nga.
(Vũ Dương Quý - Lê Bảo, Bình giảng văn học 8).
Bằng sự hiểu biết của em về bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh, em hãy
làm sáng tỏ ý kiến trên.

---------- Hết ----------


HƯỚNG DẪN CHẤM

*YÊU CẦU CHUNG:


1. Có kiến thức văn học và xã hội đúng đắn, bước đầu thể hiện chiều sâu; kĩ năng
làm văn khá tốt: bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, giàu hình ảnh và
sức gợi cảm, ít mắc lỗi về chính tả, ngữ pháp…

2. Hướng dẫn chấm chỉ nêu một số nội dung cơ bản, định tính chứ không định
lượng. Giám khảo cần hết sức linh hoạt khi vận dụng hướng dẫn chấm, không chỉ đánh
giá kiến thức và kĩ năng mà còn chú ý đến thái độ, cảm xúc, tình cảm của người viết.
Cần khuyến khích những tìm tòi, sáng tạo riêng trong nội dung và hình thức bài làm.
………………………………………………………………………………………………………………….
3. Tổng điểm của toàn bài là 20,0 điểm, cho lẻ đến 0,25 điểm
B. YÊU CẦU CỤ THỂ:

ĐÁP ÁN ĐIỂM
I. ĐỌC HIỂU. (4,0 điểm) 4,0
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: biểu cảm 1,0
Câu 2. Thể thơ: lục bát 1,0
Câu 3. - BPTT nổi bật: 1,0
+ điệp ngữ: cũ sao
- Hiệu quả của BPTT:
+ Nhấn mạnh những câu hát dân ca không bao giờ lạc hậu, xưa cũ.
+ Thể hiện niềm tin vào sức sống bền bỉ mãnh liệt của dân ca nói riêng
và giá trị văn hóa truyền thống nói chung…
Câu 4. Học sinh có thể tự do phát biểu cảm xúc của mình: tự hào, yêu quý đối 1,0
với khúc hát dân ca quê hương… tình yêu, sự gắn bó với nguồn cội với
quê hương, đất nước…
II. LÀM VĂN. (16,0 điểm)
Câu 1: 6,0
a. Đảm bảo cấu trúc viết đoạn văn nghị luận. 0,5
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận. 0,5
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác
lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
HS có thể có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng cần đảm bảo yêu cầu sau: 4,0
- Giới thiệu vài nét về hoàn cảnh sống, trạng thái tinh thần và nghị lực sống của
nhân vật Giôn-xi trong tác phẩm.
- Bàn về nghị lực sống: trọng tâm:
+ Nghị lực sống là không lùi bước trước khó khăn thử thách, luôn lạc quan tin
tưởng...
+ Là phẩm chất cao đẹp, cần thiết: tiếp sức cho con người vượt qua khó khăn,
gian khổ… là con đường dẫn đến thành công... (lấy dẫn chứng).
+ Phản biện: trong cuộc sống có một số người thiếu ý chí nghị lực, thấy khó khăn
thì nản chí, buông xuôi…
+ Nhận thức và hành động bản thân: ý thức được vai trò của nghị lực sống, biết
cách rèn luyện và duy trì ý chí tinh thần,...
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ mới mẻ, sâu sắc về vấn 0,5
đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu 0,5
Câu 2: 10,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. 0,5
Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận. 0,5


c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác
………………………………………………………………………………………………………………….
lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
HS có thể có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng cần đảm bảo yêu cầu sau: 8,0
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận.
- Chứng minh ý kiến:
Ý 1: Quê hương là bức tranh về quê hương vùng biển, cảnh và người vùng
biển.
4,0
- Giới thiệu về quê hương làng chài.
- Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân làng chài.
+ Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá: con thuyền, cánh buồm…->Bức tranh lao
động đầy hứng khởi, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống.
+ Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về: tấp nập, nhộn nhịp, niềm vui lời cảm tạ
chân thành của người đi biển..
+ Vẻ đẹp con người vùng biển: vừa chân thực vừa lãng mạn với tầm vóc phi
thường…
Ý 2: Tình yêu quê hương của nhà thơ đầy dư vị, ngân nga.
- Tự hào về một làng quê miền biển…
- Nỗi nhớ da diết, đằm sâu về cảnh và người vùng biển... 3,0
- Nỗi nhớ bộc lộ trực tiếp: nhớ hương vị riêng của quê hương...
Ý 3: Đánh giá: Với những hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn, giọng điệu tươi vui,
tha thiết nhẹ nhàng, cảm xúc trong trẻo, khỏe khoắn, bút pháp lãng mạn kết hợp
với các BPTT đặc sắc: so sánh, nhân hóa… Bài thơ Quê hương được xem là một
giọng điệu lạ trong phong trào thơ mới lãng mạn (so sánh cảm xúc trong thơ lãng
mạn thường buồn bã, cô đơn, bế tắc..) 1,0
=> Thơ Tế Hanh không có màu sắc bi lụy buồn thương mà hồn hậu, trong trẻo thể
hiện một tình yêu tha thiết nồng thắm về quê hương đất nước.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ mới mẻ, sâu sắc về vấn 0,5
đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,5

********************************************************

ĐỀ 15:

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2019- 2020
MÔN: NGỮ VĂN 8
ĐỀ CHÍNH THỨC Thời gian làm bài: 120 phút
(Đề gồm 2 câu, 01 trang)

Câu 1 (4,0 điểm):


Đọc hai đoạn trích sau:
………………………………………………………………………………………………………………….
a.“ Tôi dắt em ra khỏi lớp. Nhiều thầy cô ngừng giảng bài, ái ngại nhìn theo
chúng tôi. Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và
nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật.”
(Khánh Hoài, Cuộc chia tay của những con búp bê, Ngữ văn 7, tập một)
b.“Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng,
chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy có một em gái có đôi
má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.”
(An-đéc-xen, Cô bé bán diêm, Ngữ văn 8, tập một)
Bài học cuộc sống mà em rút ra qua hai đoạn trích trên. Em có nhắn gửi gì đến
thế hệ trẻ hiện nay.
Câu 2 (6,0 điểm):
Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ,
chỉ còn thấy tình người trong đó.
Từ cảm nhận về bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh, em hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên.

---------------------Hết-------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
A. YÊU CẦU CHUNG
- Giám khảo nắm được nội dung trình bày trong bài làm của học sinh để đánh
giá một cách khái quát, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt đáp án, nên sử dụng
nhiều mức điểm một cách hợp lí; khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo
phát triển được năng lực của học sinh.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách riêng nhưng đáp ứng được các yêu cầu
cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.
- Lưu ý: Điểm bài thi có thể lẻ đến 0,25 điểm, không làm tròn số.

B. YÊU CẦU CỤ THỂ


Câu Nội dung đạt được Điểm
Câu 1 1. Tiêu chí về nội dung các phần bài viết: 3,5
a. Mở bài: 0,25
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận trong hai đoạn trích
b. Thân bài: 3,0
* Khái quát nội dung hai đoạn trích: 0,5
- Đoạn trích a: Trích trong văn bản Cuộc chia tay của những con
búp bê, nhà văn Khánh Hoài đã nói về nỗi đau và sự mất mát quá
lớn mà hai anh em Thành và Thủy phải chịu đựng khi cha mẹ chia
tay. Đặc biệt là Thủy, em không được quyền học tập, vui chơi...
Nhưng “mọi người vẫn đi lại bình thường” khiến “tôi kinh ngạc” vì
em nhận ra sự lạnh lùng, vô cảm, dửng dưng của người đời với nỗi
bất hạnh của em.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Đoạn trích b: Trích trong văn bản Cô bé bán diêm, nhà văn An-
đéc-xen đã nói về cái chết thương tâm của em bé bất hạnh. Em chết
vì giá rét trong đêm giao thừa, giữa sự lạnh lùng vô cảm của người
đời.
=> Cả 2 đoạn trích đều cho thấy thái độ vô cảm, lạnh lùng của mọi 0,5
người đối với những hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương.
* Giải thích vô cảm là gì?
- “vô” là không; “cảm” là tình cảm, cảm xúc. “Vô cảm” là không
có tình cảm, không có cảm xúc, sống khép mình, thờ ơ, lạnh nhạt,
dửng dưng với tất cả mọi người, mọi việc xung quanh.
- Đây là một thói xấu có tác hại cho cả xã hội loài người
=> Bài học rút ra qua hai đoạn trích: Đó là biểu hiện của sự vô 0,5
cảm trong cuộc sống.
* Biểu hiện của sự vô cảm:
- Trong văn chương sự vô cảm, thờ ơ của mọi người được thể hiện
khá nhiều. Tiêu biểu là hai đoạn trích trong hai văn bản trên.
- Trong cuộc sống sự vô cảm biểu hiện khá đa dạng:
+ Trong gia đình: Con cái ích kỉ chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình;
không quan tâm, không có trách nhiệm với ông bà, cha mẹ, anh chị
em.
+ Ở trường lớp: Thờ ơ, dửng dưng trước sự bất hạnh của bạn bè;
thấy bạn bè gặp nạn không giúp đỡ, thậm chí còn xúi giục cổ vũ cho
những việc làm xấu.
+ Ra ngoài xã hội: Thấy người tàn tật, người hành khất không
giúp đỡ thậm chí còn cười cợt, dè bỉu, xua đuổi. Thấy người gặp 0,5
nạn bỏ đi không sẵn sàng cứu giúp; có kẻ còn hôi của, cướp của của
người gặp nạn...
* Nguyên nhân của sự vô cảm:
- Do lối sống ích kỉ, ham chơi, chỉ biết hưởng thụ không có trách
nhiệm với gia đình, tập thể, xã hội.
- Do không chịu tu dưỡng, rèn luyện các phẩm chất đạo đức tốt
đẹp; thờ ơ, dửng dưng với mọi người, với tập thể.
- Do cha mẹ nuông chiều con cái, thiếu quan tâm đến hành vi,
nhân cách của con. 0,25
- Do nền kinh tế thị trường phát triển, con người coi trọng vật chất
hơn tình cảm.
* Tác hại của sự vô cảm:
- Làm suy thoái về đạo đức của một bộ phận cá nhân. 0,25
- Biến con người thành những kẻ vô lương tâm, vô trách nhiệm.
- Làm mất lối sống nhân nghĩa; mất đi tinh thần đoàn kết tương
trợ; mất đi truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc.
* Biện pháp khắc phục:
- Mỗi người tự rèn luyện các phẩm chất đạo đức tốt đẹp 0,5
- Tích cực tham gia các phong trào nhân đạo, phong trào từ thiện.
Biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ người khác đặc biệt là những người
………………………………………………………………………………………………………………….
có hoàn cảnh bất hạnh.
*Lời nhắn gửi đến thế hệ trẻ hiện nay:
- Hãy nuôi dưỡng lòng nhân ái, sống có trách nhiệm với bản thân,
gia đình, xã hội và yêu thương nhiều hơn.
- Tuyên truyền lối sống đúng đắn, biết yêu thương, quan tâm đến
mọi người xung quanh.
- Tránh xa và phê phán lối sống vô cảm chỉ biết vun vén cho cá
nhân, quay lưng lại với cộng đồng; chỉ biết chạy theo vật chất mà
quên đi đạo lí Lá lành đùm lá rách.
c. Kết bài: 0,25
- Khẳng định, khái quát lại vấn đề.
- Xác định thái độ sống đúng đắn cho bản thân trong tập thể, cộng
đồng, thể hiện niềm tin vào tương lai tốt đẹp.
+ Mức tối đa (3,5 điểm): Đạt các yêu cầu trên.
+ Mức chưa tối đa (0,25-> 3,25 điểm): Căn cứ vào bài làm của
HS cho điểm hợp lí.
+ Mức không đạt (0 điểm): Không làm bài hoặc làm lạc đề.
2. Tiêu chí về hình thức: 0,5
- Bài viết dưới hình thức nghị luận xã hội.
- Bố cục ba phần rõ ràng, chặt chẽ.
- Luận điểm rõ ràng, mạch lac; dẫn chứng cụ thể; lời văn có cảm
xúc; chữ viết sạch đẹp.
+ Mức tối đa (0,5 điểm): Đạt các yêu cầu trên.
+ Mức chưa tối đa (0,25 điểm): Căn cứ vào bài làm của HS cho
điểm hợp lí.
+ Mức không đạt (0 điểm): Bài làm không có bố cục.
Câu 2 1. Tiêu chí về nội dung: 5,0
+ Mức tối đa (5,0 điểm): Đáp ứng tốt các yêu cầu.
+ Mức chưa tối đa (0,25-> 4,75 điểm): Căn cứ vào bài làm của
HS cho điểm hợp lí.
+ Mức không đạt (0 điểm): Không làm bài hoặc làm lạc đề.
a. Mở bài: 0,5
- Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến.
b. Thân bài: (4,0)
* Giải thích: 0,5
- Câu thơ hay: là sản phẩm lao động sáng tạo của nhà thơ, kết tinh
những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm qua hình thức
phù hợp.
- Tình người: là tư tưởng, tình cảm, cảm xúc tạo nên giá trị nội
dung của thơ.
=> Quan niệm của Tố Hữu nhấn mạnh giá trị của thơ là những tư
tưởng, tình cảm được biểu hiện trong thơ. Tình cảm, cảm xúc càng
sâu sắc, mãnh liệt, lớn lao càng khiến thơ lay động lòng người.
………………………………………………………………………………………………………………….
* Chứng minh 3,5
a. Tình người trong bài thơ “Quê hương”: 3,0
Thể hiện qua tình cảm của nhà thơ đối với quê hương: Biểu hiện
qua niềm tự hào và nỗi nhớ khôn nguôi về làng chài của mình.
+ Vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào một buổi
sớm bình minh. (Phân tích tám câu thơ đầu)
+ Vẻ đẹp của đoàn thuyền đánh cá trở về bến - một bức tranh lao
động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống. (Phân tích tám câu thơ
tiếp)
+ Tình cảm nhớ thương quê hương của tác giả -.nhớ nhất mùi vị
nồng mặn đặc trưng của quê hương. (Phân tích bốn câu cuối)
=> “Quê hương” đã khắc hoạ được bức tranh tươi sáng, khoẻ
khoắn, đầy sức sống về cuộc sống lao động của một làng quê miền
biển, qua đó thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của
tác giả.
b. Hình thức biểu đạt: 0,5
- Thể thơ: tự do, nhịp thơ linh hoạt.
- Từ ngữ, hình ảnh: hình ảnh đẹp, tiêu biểu, chọn lọc, ngôn ngữ tự
nhiên, trong sáng.
- Biện pháp nghệ thuật: so sánh, ví von, nhân hóa sáng tạo và hấp
dẫn,...
- Giọng thơ: mộc mạc, chân thành, đằm thắm, gợi cảm…
* Đánh giá: 0,5
- Quê hương của Tế Hanh là một bài thơ hay bởi nó được viết lên
từ cảm xúc chân thành, tình cảm mãnh liệt. Bài thơ không chỉ là
riêng tình cảm của tác giả giành cho quê hương; mà bài thơ này còn
nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương qua hình thức
nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn.
- Đọc bài Quê hương ta cảm thấy yêu thơ và tâm hồn thơ của Tế
Hanh. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chôn rau cắt rốn,
yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng…
c. Kết bài: 0,5
- Khẳng định tình cảm của nhà thơ dành cho quê hương là tình
cảm sâu nặng, thiết tha, đằm thắm…
- Liên hệ tình cảm, thái độ của bản thân.
2. Tiêu chí về hình thức: 0,5
- Bài viết dưới hình thức nghị luận văn học; sử dụng tốt các thao
tác lập luận giải thích, chứng minh, phân tích.
- Bố cục ba phần rõ ràng, chặt chẽ.
- Luận điểm rõ ràng, mạch lac; dẫn chứng cụ thể; lời văn có cảm
………………………………………………………………………………………………………………….
xúc; chữ viết sạch đẹp.
+ Mức tối đa (05 điểm): Đạt các yêu cầu trên.
+ Mức chưa tối đa (0,25 điểm): Căn cứ vào bài làm của HS cho
điểm hợp lí.
+ Mức không đạt (0 điểm): Bài làm không có bố cục.
3. Sáng tạo: 0,5
+ Mức tối đa (0,5 điểm): Diễn đạt sinh động, giàu hình ảnh, hấp
dẫn, biết sử dụng các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả trong bài nghị
luận một cách hợp lí.
+ Mức chưa tối đa (0,25 điểm): Có sáng tạo song chưa đạt các yêu
cầu trên.
+ Mức không đạt (0 điểm): Không có sự sáng tạo nào.

---------------------Hết-------------------****************************

ĐỀ 16:

PHÒNG GD - ĐT HUYỆN ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI


NĂM HỌC 2018 - 2019
MÔN: VĂN 8

Câu 1: (2,0 điểm)


Nét độc đáo và tài hoa của Vũ Đình Liên trong hai câu thơ:
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu...
(Ông đồ )
Câu 2 (3,0 điểm)
“Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ… Mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng”
Từ suy ngẫm của nhà thơ Nguyễn Duy, em hãy viết một bài văn ngắn về tình yêu và lòng
biết ơn mẹ.
Câu 3 (5,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng:
Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.
Bằng sự hiểu biết về bài thơ Quê hương (Tế Hanh) trong chương trình Ngữ văn lớp 8, em
hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
 
HƯỚNG DẪN CHẤM THI HỌC SINH GIỎI

Câu Yêu cầu cần đạt Điểm


Câu 1 * Yêu cầu về kĩ năng: học sinh trình bày thành bài văn ngắn, hành
………………………………………………………………………………………………………………….
(2điểm) văn trôi chảy không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả.
* Yêu cầu về kiến thức: HS cảm nhận được nét độc đáo và tài hoa
của Vũ Đình Liên trong câu thơ trên 2 phương diện: nội dung và
nghệ thuật.
- Ông đồ vẫn xuất hiện vào dịp tết với mực tàu, giấy đỏ nhưng cảnh
tượng vắng vẻ đến thê lương. Khi chữ Nho suy tàn, ông đồ bị mọi 0.25đ
người lãng quên.
- Nghệ thuật nhân hoá (Giấy đỏ - buồn không thắm; mực - đọng trong
nghiên sầu...), giọng thơ đượm buồn, hoài cổ.  nỗi sầu như lan ra 1.25đ
cả những vật vô tri vô giác. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy mà chẳng được
đụng đến trở thành bẽ bàng, màu đỏ của nó trở thành vô duyên,
không thắm lên được. Nghiên mực cũng vậy, không hề được chiếc
bút lông chấm vào, nên mực như đọng lại bao sầu tủi và trở thành
nghiên sầu. 0.5
- Hai câu thơ thể hiện nỗi niềm thương tiếc khắc khoải của Vũ Đình
Liên. Nhà thơ thương tiếc ông đồ cũng là thương tiếc những giá trị
tinh thần tốt đẹp bị tàn tạ, lãng quên.

Câu 2 a. Mục đích: Kiểm tra kĩ năng nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo
(3 lí.
điểm) b. Yêu cầu:
- Về kĩ năng: học sinh biết cách làm một bài văn nghị luận xã hội, có
đầy đủ bố cục ba phần, biết sử dụng dẫn chứng để bàn luận vấn đề.
Diễn đạt mạch lạc, trôi chảy, thuyết phục.
- Về nội dung kiến thức: 0,75đ
Học sinh cần trình bày các ý sau:
1. Giải thích ý thơ của Nguyễn Duy và xác định vấn đề cần bàn
luận
- Câu thơ ca ngợi công lao to lớn của mẹ với mỗi người : 1.25đ
+ Sữa nuôi phần xác: Nuôi dưỡng con về thể chất /
+ Hát nuôi phần hồn: Nuôi dưỡng con về tinh thần
+ Lẽ phải ở đời là: Làm con phải yêu thương và
thấm thía công ơn mẹ.
=> Vậy vấn đề bàn luận: Đạo làm con là yêu thương và biết ơn mẹ.
2. Bàn luận
- Đạo làm con phải yêu thương, biết ơn mẹ là hoàn toàn đúng đắn và 0.5đ
mang tính nhân văn cao đẹp vì:
+ Mẹ là người trao cho con cuộc sống, đưa con đến với thế
giới này.
+ Mẹ chắt lọc sự sống của thể chất mình cho con và chăm lo
cho con bằng tất cả tình yêu và đức hi sinh của mình (d/c) 0,5đ
+ Tình yêu và sự chăm lo của mẹ cho con bền bỉ, tận tuỵ và vị
tha, vượt mọi khoảng cách thời gian, không gian... không đòi hỏi đền
đáp bao giờ....(d/c)
3. Những biểu hiện về tình yêu và lòng biết ơn của con với mẹ.
  + Cảm nhận và thấm thía những khát vọng mẹ gửi gắm ở con.
  +Cố gắng học tập và rèn luyện để thực hiện những khát vọng
………………………………………………………………………………………………………………….
ấy của mẹ, xứng đáng với tình yêu và sự hi sinh của mẹ.
 + Thương yêu và biết ơn mẹ bằng những việc làm cụ thể hàng
ngày: giúp đỡ việc gia đình, chăm sóc khi mẹ đau ốm, động viên an
ủi mẹ khi mẹ buồn....
4: Liên hệ mở rộng :
+ Dân tộc ta vốn có truyền thống coi trọng tình yêu và sự biết
ơn của con với mẹ: nhiều câu ca dao tục ngữ khẳng định điều này:
Nghĩa mẹ như nước.... Nghĩa mẹ bằng trời..... Và các nhà thơ nhà văn
hiện đại đó tiếp tục nguồn cảm hứng vô tận.
+ Phê phán: những thái độ vô ơn, vô cảm trước tình yêu và sự
hi sinh của mẹ, có những thái độ việc làm sai trái với mẹ....
* Tiêu chuẩn cho điểm câu 2:
Câu 3 - Yêu cầu về kĩ năng: HS phải xác định được đây là kiểu bài nghị
(5điểm) luận văn học nhằm làm sáng tỏ một nhận định; vận dụng thành thạo
các phép lập luận giải thích, chứng minh, bình luận...
- Bố cục phải rõ ràng, hệ thống luận điểm minh bạch, luận cứ thuyết
phục, lập luận chặt chẽ, văn phong trôi chảy và có chất văn.

- Yêu cầu về kiến thức: Hs sinh phải biết vận dụng kiến thức từ một
văn bản đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 8 để làm sáng
tỏ ý kiến. 1.0
* Giải thích nhận định
Thơ ca bắt rễ tự lòng người: thơ ca bắt nguồn sâu xa trong lòng
người với những tình cảm, cảm xúc chân thành, mãnh liệt.
Nở hoa nơi từ ngữ: kết tinh vẻ đẹp cảm xúc ở ngôn từ giàu giá trị, có
sức gợi hình, biểu cảm, giàu nhạc tính, làm nên lối diễn đạt độc đáo.
bắt rễ - nở hoa: hình tượng về mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung
cảm xúc và nghệ thuật thể hiện.
Bằng cách nói hình ảnh, ý kiến đã khẳng định đặc trưng nổi bật của
thơ ca.
* Chứng minh: 3.0
1. Bắt rễ từ tình yêu và lòng tự hào về quê hương, thơ Tế Hanh nở
hoa nơi từ ngữ để giới thiệu về quê hương mình một cách tự nhiên,
bình dị, mộc mạc, chân thành (phân tích 2 câu đầu, chú ý từ ngữ làng
tôi, vốn, hình ảnh quen thuộc: nghề chài lưới, cách biển nửa ngày
sông)
2. Bắt rễ từ tình cảm gắn bó với quê hương vạn chài, thơ Tế Hanh nở
hoa nơi từ ngữ để vẽ lên bức tranh làng chài thơ mộng, tươi sáng với
cuộc sống lao động bình dị, vất vả, con người khỏe khoắn, đầy sức
sống:
Khổ 2: Cảnh ra khơi đánh cá
- Nghệ thuật miêu tả:
+ Từ ngữ gợi tả, gợi cảm: dân trai tráng, tính từ (trong, nhẹ, hồng)
+ Phép liệt kê: trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.
Thiên nhiên tươi đẹp với không gian khoáng đạt, bao la, nhuốm sắc
hồng của bình minh tươi sáng, trong trẻo.
- Nghệ thuật so sánh đặc sắc: lấy cái cụ thể so sánh với cái cụ thể
………………………………………………………………………………………………………………….
(chiếc thuyền với con tuấn mã), kết hợp với các động từ mạnh (hăng,
phăng, vượt), các tính từ (nhẹ, mạnh mẽ) đã diễn tả khí thế mạnh mẽ
của con thuyền khi ra khơi.
- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
→ So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, động từ mạnh.
=> Cánh buồm trở nên gần gũi, lớn lao, thiêng liêng, là biểu tượng
cho linh hồn làng chài, ẩn chứa niềm tin, hi vọng của những người
dân chài.
Khổ 3: Cảnh đánh cá trở về bến
- Hình ảnh: ồn ào, tấp nập, cá đầy ghe, cá tươi ngon thân bạc
trắng.→Tính từ gợi tả.
=> Không khí đông vui, rộn ràng, náo nức, gợi cuộc sống ấm no.
- Người dân chài:
+ Làn da ngăm rám nắng: da ngăm đen, trải qua nhiều nắng gió biển
khơi.
+ Thân hình nồng thở vị xa xăm: mang hơi thở của đại dương, vị mặn
mòi của biển cả.
=> Bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn. Những người dân chài mang
vẻ đẹp dạn dày, khỏe khoắn, vạm vỡ.
- Chiếc thuyền:- Nghệ thuật nhân hoá (mỏi trở về nằm), ẩn dụ (nghe).
=> Con thuyền trở nên sinh động, có hồn.
3.Tế Hanh trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê hương qua khổ thơ cuối.
- Cụm từ luôn tưởng nhớ, nhớ… quá!
- Nhớ tất cả những hình ảnh thân quen: màu nước xanh, cá bạc, chiếc
buồm vôi, con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, và mùi nồng mặn quá.
- Biện pháp tu từ: điệp ngữ, liệt kê. => Tình yêu quê hương tha thiết,
sự gắn bó thủy chung, sâu nặng với quê hương làng chài của nhà thơ
Tế Hanh.
* Đánh giá
- Bắt rễ tự lòng người, nở hoa nơi từ ngữ - đó là đặc trưng và cũng là
phẩm chất của thơ.
- Để làm nên phẩm chất đó, gốc rễ lòng người phải sâu sắc, chân
thành; từ ngữ phải có giá trị mới có thể nở hoa. Người đọc cũng phải
rèn luyện tâm hồn và vốn hiểu biết để cảm hiểu chiều sâu lòng nhà
thơ và thưởng thức vẻ đẹp từ ngữ.
- Bài thơ Quê hương quả đúng là đã “bắt rễ từ lòng người”, xuất phát
từ những tình cảm chân thành của Tế Hanh với quê hương mình, và
được “nở hoa nơi từ ngữ” bằng tài năng chính ông.
* Tiêu chuẩn cho điểm câu 3:

                                  **************************************************

ĐỀ 17:
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 8
NĂM HỌC 2018 -2019
Môn thi : Ngữ Văn
………………………………………………………………………………………………………………….
I.PHẦN ĐỌC HIỂU( 4, 0 điểm ): Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới

MUỐI TO, MUỐI BÉ


Hạt muối Bé nói với hạt muối To:
- Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
Muối To trố mắt:
- Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế? Em muốn thì cứ làm, chị không
điên!
Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống
trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh khỉnh.
Thu hoạch, người ta gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh
trắng kia được đóng vào bao sạch đẹp…
Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho muối
To vào nồi cám heo. Tủi nhục ê chề, nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi trăm độ
cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó. Khi rửa máng heo, người ta phát hiện nó,
và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường. Người người qua lại đạp lên nó.
Trời đổ mưa, muối Bé, bây giờ là hạt mưa, gặp lại muối To. Muối Bé hí hửng kể:
- Tuyệt lắm chị ơi! Khi em hòa tan trong nước biển, em được bay lên trời, sau đó em
thành mưa tưới mát cho Trái Đất thêm xanh tươi. Thôi chào chị, em còn đi chu du
nhiều nơi trên Trái Đất trước khi về biển, chuẩn bị một hành trình tuyệt vời khác…
- Nhìn muối Bé hòa mình với dòng chảy, xa dần, xa dần… bỗng dưng muối To thèm
khát cuộc sống như muối Bé, muốn hòa tan, hòa tan…
( Theo Truyện cổ tích chọn lọc)
Câu 1( 0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2 ( 1,0 điểm). Phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu văn:
Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
Câu 3 (1,0 điểm). Trước việc hòa tan vào đại dương, tại sao muối To cho đó là “ dại” còn
muối Bé lại thấy là “ tuyệt lắm” ?
Câu 4 (0,5 điểm). Khi vào mùa thu hoach, số phận của muối To như thế nào?
Câu 5(1,0 điểm). Nêu ý nghĩa biểu tượng của hạt muối trong câu chuyện trên?
II. PHẦN LÀM VĂN ( 16, 0 ĐIỂM)
Câu 1 (6,0 điểm). Trình bày suy nghĩ của em về cách sống của muối Bé trong câu chuyện
ở phần ĐỌC HIỂU.
Câu 2 ( 10,0 điểm). Nhận xét về bài thơ Quê Hương của Tế Hanh, có ý kiến cho rằng:
Tuy viết về một đề tài không mới nhưng nhà thơ đã tạo lên nhiều điều hấp dẫn, mới
mẻ.
Bằng sự hiểu biết của mình, em hãy chứng minh.
………………….HẾT………………….

HƯỚNG DẪN CHẤM


B . HƯỚNG DẪN CỤ THỂ:
I/ PHẦN ĐỌC HIỂU( 4,0 điểm)
Câu Yêu cầu cần đạt Điểm
1 Phương thức biểu đạt chính: Tự sự 0,5
2. Phân tích được cấu trúc ngữ pháp của câu văn đã cho. Mỗi thành phần 1,0
được 0,25 điểm.
………………………………………………………………………………………………………………….
Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
CN VN CN VN
3. - Muối To cho rằng việc hòa tan vào đại dương là “ dai” vì sẽ đánh mất 0,5
mình, sẽ bị biến mất, không còn giữ được những cái của riêng mình nữa.
- Muối Bé cho là “ tuyệt lắm” vì khi hòa vào biển, nó được hóa thân, 0,5
được cống hiến sức mình cho trái Đất…
4. Vào mùa thu hoạch, muối To bị gạt ra ngoài, bị xếp vào loại phế phẩm. 0,5
5 Ý nghĩa biểu tượng của mỗi hình ảnh: 1,0
- Muối To: Hình ảnh của con người sống ích kỉ, chỉ khư khư giữ lấy
giá trị riêng của mình.

- Muối Bé: Hình ảnh của con người biết cống hiến, biết dâng cho
đời những điều đẹp đẽ, tinh túy nhất của cuộc đời mình.

II. PHẦN LÀM VĂN ( 16,0 điểm)


Câu Yêu cầu cần đạt Điểm
a/ Về hình thức: 1,0
- Viết được bài văn nghị luận:

+ Luận cứ chính xác, tiêu biểu


+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục.
- Không mắc các loại lỗi về câu, từ, chính tả.

b/ Về nội dung: Trình bày được suy nghĩ về cách sống của muối Bé
1 được gợi ra từ câu chuyện Phần ĐỌC HIỂU. Thí sinh có thể có nhiều
6.0đ cách trình bày, miễn sao hợp lí. Dưới đây là một số ý tham khảo:
+ Xác định cách sống của muối Bé ( sống cống hiến cho cuộc đời) 0,5
+ Phân tích cụ thể về ý nghĩa, sự cần thiết của cách sống cống hiến. 2,0
+ Đưa ra và phân tích được các dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục về lối 2,0
sống cống hiến.
+ Rút ra bài học: Mỗi người cần và nên biết sống cống hiến để đem lại 0,5
lợi ích chung cho cộng đồng, làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
1.Yêu cầu về kĩ năng 1,0
Biết làm bài văn nghị luận về một ý kiến văn học. Có kiến thức vững
chắc về văn bản Quê Hương của Tế Hanh. Văn viết có tính khái quát; có
cảm xúc, hình ảnh; bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ; không mắc lỗi về
dùng từ, chính tả, diễn đat, kiến thức và ngữ pháp.
2.Yêu cầu về kiến thức và cách cho điểm.
- Có thể có nhiều cách trình bày những bài viết cần đame bảo những ý
cơ bản trong Hướng dẫn chấm.
- Những bài làm có hướng đi khác nhưng phù hợp, thuyết phụcvẫn chấp
nhận.
*Giới thiệu tác giả, tác phẩm và trích dẫn được ý kiến đánh giá về 1,0
bài thơ.
*Giải thích về ý kiến đánh giá:
- Bài thơ viết về tình yêu quê hương- một đề tài không mới, một tình cảm
có tính truyền thống được nhiều nhà thơ khai thác.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Tế Hanh đem đến nhiều điều hấp dẫn, mới mẻ chỉ riêng có bài thơ Quê
2 hương: 1,0
10.0đ Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, những hình
ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của người dân chài; những vần thơ bình dị
nhưng gợi cảm, nhiều ý nghĩa sâu xa…
*Làm sáng tỏ ý kiên đã cho:
-Vẻ hấp dẫn, mới mẻ của những bức tranh làng chài:
+ Khung cảnh ra khơi trong bình minh tươi sáng; con người trẻ trung, 1,5
khỏe mạnh, hăm hở; những con thuyền đầy khí thế, những cánh buồm
bao la mang nét vẻ đẹp riêng không hề lẫn của làng chài.
+ Cảnh trở về tấp nập, no đủ, bình an; những con người trở về nhuộm
nắng gió biển khơi, toát lên vẻ từng trải, gợi niềm khát khao khám phá, 1,5
trinh phục biển rộng sông dài; những con thuyền mệt nằm thư gian, bằng
lòng với một chuyến ra khơi tốt đẹp.
+ Nỗi nhớ nằm sâu da diết, thường trực về những dấu hiệu đặc trưng, 1,0
thân thiết, của làng chài.
-Vẻ hấp dẫn, mới mẻ của thể thơ tám chữ; của những biện pháp tu từ 1,0
đặc sắc( so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…),của các từ ngữ giàu sức
gợi(phăng phăng, vượt; dân trai tráng; im bến mỏi…)
*Đánh giá về tính đúng đắn của nhận định. 1,0
*Sáng tạo: Có cách diễn đạt, trình bày sáng tạo, tỏ ra am hiểu sâu sắc 1,0
về kiểu bài chứng minh văn học cũng như về tác phẩm.
*************************************************

ĐỀ 18:
KÌ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9 CẤP HUYỆN
NĂM HỌC 2017 – 2018
Môn: NGỮ VĂN
Thời gian: 150 phút (không kể thời gian phát đề)

I.PHẦN ĐỌC HIỂU( 4, 0 điểm ):


Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới
MUỐI TO, MUỐI BÉ
Hạt muối Bé nói với hạt muối To:
- Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
Muối To trố mắt:
………………………………………………………………………………………………………………….
- Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế? Em muốn thì cứ làm, chị không điên!
Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống
trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh
khỉnh. Thu hoạch, người ta gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt
muối tinh trắng kia được đóng vào bao sạch đẹp…
Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho
muối To vào nồi cám heo. Tủi nhục ê chề, nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi
trăm độ cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó. Khi rửa máng heo, người ta
phát hiện nó, và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường. Người người qua lại đạp lên
nó.
Trời đổ mưa, muối Bé, bây giờ là hạt mưa, gặp lại muối To. Muối Bé hí hửng kể:
Tuyệt lắm chị ơi! Khi em hòa tan trong nước biển, em được bay lên trời, sau đó em
thành mưa tưới mát cho Trái Đất thêm xanh tươi. Thôi chào chị, em còn đi chu du
nhiều nơi trên Trái Đất trước khi về biển, chuẩn bị một hành trình tuyệt vời khác…
Nhìn muối Bé hòa mình với dòng chảy, xa dần, xa dần… bỗng dưng muối To thèm
khát cuộc sống như muối Bé, muốn hòa tan, hòa tan…
( Theo Truyện cổ tích chọn lọc)
Câu 1( 0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2 ( 1,0 điểm). Phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu văn:
Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
Câu 3 (1,0 điểm). Trước việc hòa tan vào đại dương, tại sao muối To cho đó là “ dại”
còn muối Bé lại thấy là “ tuyệt lắm” ?
Câu 4 (0,5 điểm). Khi vào mùa thu hoach, số phận của muối To như thế nào?
Câu 5(1,0 điểm). Nêu ý nghĩa biểu tượng của hạt muối trong câu chuyện trên?
II. PHẦN LÀM VĂN ( 16, 0 ĐIỂM)
Câu 1 (6,0 điểm). Trình bày suy nghĩ của em về cách sống của muối Bé trong câu
chuyện ở phần ĐỌC HIỂU.
Câu 2 ( 10,0 điểm). Nhận xét về bài thơ Quê Hương của Tế Hanh, có ý kiến cho
rằng:
………………………………………………………………………………………………………………….
Tuy viết về một đề tài không mới nhưng nhà thơ đã tạo lên nhiều điều hấp dẫn,
mới mẻ.
Bằng sự hiểu biết của mình, em hãy chứng minh.

HƯỚNG DẪN CHẤM


Câu Yêu cầu cần đạt Điểm
1 Phương thức biểu đạt chính: Tự sự 0,5
2. Phân tích được cấu trúc ngữ pháp của câu văn đã cho. Mỗi thành phần 1,0
được 0,25 điểm.
Em đến chia tay chị này, em sắp được hòa trong đại dương.
CN VN CN VN
3. - Muối To cho rằng việc hòa tan vào đại dương là “ dai” vì sẽ đánh 0,5
mất mình, sẽ bị biến mất, không còn giữ được những cái của riêng
mình nữa.
- Muối Bé cho là “ tuyệt lắm” vì khi hòa vào biển, nó được hóa thân, 0,5
được cống hiến sức mình cho trái Đất…
4. Vào mùa thu hoạch, muối To bị gạt ra ngoài, bị xếp vào loại phế 0,5
phẩm.
5 Ý nghĩa biểu tượng của mỗi hình ảnh: 1,0
- Muối To: Hình ảnh của con người sống ích kỉ, chỉ khư khư giữ
lấy giá trị riêng của mình.
- Muối Bé: Hình ảnh của con người biết cống hiến, biết dâng cho
đời những điều đẹp đẽ, tinh túy nhất của cuộc đời mình.
II. PHẦN LÀM VĂN ( 16,0 điểm)
Câu Yêu cầu cần đạt Điểm
a/ Về hình thức: 1,0
- Viết được bài văn nghị luận:
+ Luận cứ chính xác, tiêu biểu
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục.
- Không mắc các loại lỗi về câu, từ, chính tả.
………………………………………………………………………………………………………………….
b/ Về nội dung: Trình bày được suy nghĩ về cách sống của muối Bé
được gợi ra từ câu chuyện Phần ĐỌC HIỂU. Thí sinh có thể có
nhiều cách trình bày, miễn sao hợp lí. Dưới đây là một số ý tham
1 khảo: 0,5
6.0đ + Xác định cách sống của muối Bé ( sống cống hiến cho cuộc đời)
+ Phân tích cụ thể về ý nghĩa, sự cần thiết của cách sống cống hiến. 2,0
+ Đưa ra và phân tích được các dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục về 2,0
lối sống cống hiến.
+ Rút ra bài học: Mỗi người cần và nên biết sống cống hiến để đem 0,5
lại lợi ích chung cho cộng đồng, làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp
hơn.
1.Yêu cầu về kĩ năng 1,0
Biết làm bài văn nghị luận về một ý kiến văn học. Có kiến thức
vững chắc về văn bản Quê Hương của Tế Hanh. Văn viết có tính
khái quát; có cảm xúc, hình ảnh; bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ;
không mắc lỗi về dùng từ, chính tả, diễn đat, kiến thức và ngữ pháp.

2.Yêu cầu về kiến thức và cách cho điểm.


- Có thể có nhiều cách trình bày những bài viết cần đame bảo
những ý cơ bản trong Hướng dẫn chấm.
- Những bài làm có hướng đi khác nhưng phù hợp, thuyết phụcvẫn
chấp nhận.

*Giới thiệu tác giả, tác phẩm và trích dẫn được ý kiến đánh giá 1,0
về bài thơ.
*Giải thích về ý kiến đánh giá:
- Bài thơ viết về tình yêu quê hương- một đề tài không mới, một tình
2 cảm có tính truyền thống được nhiều nhà thơ khai thác.
10.0đ - Tế Hanh đem đến nhiều điều hấp dẫn, mới mẻ chỉ riêng có bài thơ
Quê hương: 1,0
………………………………………………………………………………………………………………….
Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, những
hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của người dân chài; những vần
thơ bình dị nhưng gợi cảm, nhiều ý nghĩa sâu xa…
*Làm sáng tỏ ý kiên đã cho:
-Vẻ hấp dẫn, mới mẻ của những bức tranh làng chài:
+ Khung cảnh ra khơi trong bình minh tươi sáng; con người trẻ 1,5
trung, khỏe mạnh, hăm hở; những con thuyền đầy khí thế, những
cánh buồm bao la mang nét vẻ đẹp riêng không hề lẫn của làng chài.
+ Cảnh trở về tấp nập, no đủ, bình an; những con người trở về
nhuộm nắng gió biển khơi, toát lên vẻ từng trải, gợi niềm khát khao 1,5
khám phá, trinh phục biển rộng sông dài; những con thuyền mệt nằm
thư gian, bằng lòng với một chuyến ra khơi tốt đẹp.
+ Nỗi nhớ nằm sâu da diết, thường trực về những dấu hiệu đặc 1,0
trưng, thân thiết, của làng chài.
-Vẻ hấp dẫn, mới mẻ của thể thơ tám chữ; của những biện pháp tu 1,0
từ đặc sắc( so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…),của các từ ngữ giàu sức
gợi(phăng phăng, vượt; dân trai tráng; im bến mỏi…)
*Đánh giá về tính đúng đắn của nhận định. 1,0
*Sáng tạo: Có cách diễn đạt, trình bày sáng tạo, tỏ ra am hiểu sâu 1,0
sắc về kiểu bài chứng minh văn học cũng như về tác phẩm.

ĐỀ THI TUYỂN CHỌN HSG


NGỮ VĂN 8
Câu 1 (4,0 điểm)
Em có nhận xét gì về cách kết thúc “Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ? Cách kết thúc đó có ý nghĩa gì?
Câu 2 (6,0 điểm)
Hãy viết một bài văn nghị luận ngắn (Khoảng 1 trang giấy thi) bàn về ý nghĩa
của câu nói: “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa cỏ dại vẫn mọc lên và nở những
chùm hoa thật đẹp”
Câu 3 (10,0 điểm)
Nhận định về bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh có ý kiến cho rằng: “Đề tài
không lạ nhưng mới, kết cấu ngỡ như rời rạc mà độc đáo lạ thường, hình ảnh, ngôn từ
bình dị nhưng lay chuyển được cảm xúc người đọc […] và có lẽ dấu ấn thể hiện rõ
………………………………………………………………………………………………………………….
nhất sự tài hoa của nhà thơ là ở khả năng đánh thức tình yêu quê hương thiết tha
trong mỗi một con người”. Em hãy phân tích làm rõ vấn đề trên.
*******************************************************************

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGỊ LUẬN VỀ MỘT NHÂN VẬT, ĐOẠN TRÍCH…
TRÁNH HS ĐI TÓM TẮT.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC


Mở bài 1:
Viết về đồ tài nông dân trước cách mạng, “Lão Hạc” là một truyện ngăn độc đáo,
đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao
nỗi xót thương khi tác giâ kể về cuộc đời cô dơn bất hạnh và cái chêt đau đớn của một
lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã đổ lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về
số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Mở bài 2:
Nam cao là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Truyện
ngắn lão hạc viết 1943 là một trong những tác phẩm tiểu biểu nhất của ông. Truyện đã
thể hiện thành công nhân vạt Lão Hạc dù rơi vào hoàn cảnh bi đát nhưng vẫn giữ được
tấm lòng lượng thiện, trong sáng của mình.
Mở bài 3: Cũng viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ nhưng nếu Tắt đèn nhà
văn Ngô Tất Tố đã để`cho nhân vật của mình vùng lên đấu tranh chống lịa cường
quyền thì với tá phẩm lão Hạc Nam Cao lại để cho Lão hạc phải chết trong đau đớn,
………………………………………………………………………………………………………………….
quằn quại. Tuy kết thúc khác nhau nhưng lại đều thể hiện cuộc sống bần cùng, bế tăc
và vẻ đẹp sáng ngời nhân cách của họ. Lão Hạc chính là một con người như thế.
Luận điểm 1:Đọc tác phẩm, ta thấy Lão Hạc, một con người nghèo khổ, hất hạnh.
Ba sào vườn vợ lão thắt lưng buộc bụng tậu về, một túp lêu, một con chó vàng là của
con trai lão mua... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Thì ra tài sản lão làm ra chẳng có gì,
tất cả đều của vợ và con lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm
thuê kiếm sống. Nhận xét đánh giá Có ai hiểu được gia cảnh lão khi không có bàn
tay của người vợ, người mẹ thế mà lão vẫn cố sống đẻ nuôi con. Đó là một sự hi sinh
không hề nhỏ. Đó là tất cả cuộc đời của lão khiến lão phải thốt lên rằng: “cuộc đời như
thế chỉ “nhỉnh” hơn cái kiếp con chó”! Và cũng chính từ cái nghèo, cái đói mà người
cha như lão đành phải chịu khuất phục trước hạnh phúc của đứa con trai “độc đinh”.
Thế rồi, con trai lão quyết chí đi đồn điền cao su để có tiền cho “bõ tức”. Cuộc đời của
lão như nhói lên một nỗi đau, một cảnh đời cùng khổ của những người nông dân trước
cách mạng Tháng Tám. Nhận xét đánh giá Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh
ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Khổng một
người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tinh cảnh ấy
thật đáng thương! Nhận xét đánh giá Có lẽ khi viết về hoàn cảnh nghèo đói của lão
hạc, nhà văn Nam Cao đã không cầm được nước mắt xót thương cho Lão Hạc. Nhận
xét đánh giá Có lẽ khi viết về gia cảnh Lão Hạc, nhà văn Nam Cao như ứa từng giọt
lệ bởi lẽ ở cái tuổi gần đất xa trời nhưng bên cạnh lão không có người thân để nương
tựa mỗi khi trái gió trở trời. Niềm an ủi duy hất của lão chính là cậu vàng nên lão xem
ó như một vật báu. Ngòi bút của Nam Cao như tuôn từng dòng lệ khi viết về cuộc đời
của người nông dân trước cách mạng.Bình, đánh giá=>Qua số phận nhân vật ta
nhận ra bóng dáng của thời đại, nhận ra bức tranh hiện thực của xã hội mà
nhân vật đang sống.
Luận điểm 2: . Sống trong nghèo đói nhưng ở con người Lão Hạc vẫn toát lên một
tình yêu thương vô bờ bến. Đó là tình yêu con đến cả quên mình. Lão rất yêu con,
Á biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ “lão thương con lắm... ”. Lão đau đớn khi
>

con sắp đi làm phu đổn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: “Thẻ của nó, người ta giữ.
Hình của nó, người ta đã chụp rồi (...). Nó là người của người la rồi, chứ dâu còn là
………………………………………………………………………………………………………………….
con tòi? “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao). Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đua mất con, có
nỗi đau nào khi người cha không lo nỗi hạnh phúc riêng cho đứa con độc nhất của
mình. Cho nên mỗi khi nhắc đến con là lão lại rấn rấn nước mắt với một giọng buồn
thương. Con trai lão Hạc đã đi “bẳn bặt ” năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn,
bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm
ăn ”. Lão tự bảo: “Manh vườn là của con ta... Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...”. Đói
khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết,
“thà chết chứ không chịu bán đi một sào ”. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực
kì to lớn! Nhận xét đánh giá  Có thể nói nỗi đau lớn nhất của lão Hạc là nỗi đau
thân phận làm cha nhưng cũng có thể nói rằng sự hi sinh của lão đối với con cũng
không gì sánh được. Một người cha sẵn sàng hi sinh cả sự sống của mình chỉ để giữ
thêm chút tiền cho con thật là chưa từng có.Bình=>Cái chết củ lão hạc là cái chết đồi
sự sống,sống trong sạch như bông sen giữa bùn nhơ của xã hội thực dân phong kiến
cũng đồng thời là tiếng nói tố cáo đã đẩy con người đến bước đường cùng đầy nghiệt
ngã.Chi tiết cái chết của lão hạc đã kết thúc một chuỗi dài những bi kịch của cuộc đời
lão và trở thành chi tiết điển hình của tác phẩm.Nó chở đc những thông điệp của tác
phẩm cũng như nỗi lòng nhân ái của tác giả.LH,NX=>Đến đây ta nhớ đến tác phẩm
một bữa no của nhà văn, cái đói quay quắt để rồi khi no lại chết. Nam Cao đã phải thốt
lên- cuộc đời này không ăn uống sẽ giản dị biết bao. Lão hạc thì lại khác, ông lựa
chọn cái chết để giữ cho mình trong sạch.. thế mới thấy sự hi sinh của tình người cha
lớn nhường nào!Bình,đánh giá. Phải chăng nhà văn đã đứng trong lao khổ, mở hồn
đón lấy mọi vang động của cuộc đời để viết nên những trang văn chân thực, giàu tình
người, tình yêu thương đến thế!mỗi trang văn không chỉ là trang đời mà còn là những
dằn vặt trăn trở suy nghĩ của nhà văn.Đó chính là sự tổng hòa của cái tâm cao cả, cái
tài, cái tình của nhà văn Nam cao.Thật đúng khi nhận xét rằng:không có câu chuyện cổ
tích nào đẹp hơn câu chuyện do cuộc sống viết ra.Lão Hạc chết đi nhưng hình ảnh, tình
yêu thương, nhân cách sống của nhân vật vẫn sống mãi trong lòng người đọc.
Luận điểm 3: Tình yêu thương của lão còn thể hiện sâu sắc đối với cậu vàng,
mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cậu Vàng ”. Cho nó ăn cơm trong
bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu
>

t

‘3

*
………………………………………………………………………………………………………………….
Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại
gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng
như tâm sự với một người thân yêu ruột rà. Nhận xét đánh giá  Có thể nói, cậu
Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; no là nguồn vui, chỗ dựa
tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay
đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên
bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng
đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm
thương.Bình.=>Tình yêu thương khiến Lão Hạc quên đi mọi khổ đau, hiện thực cám
cảnh trước mắt, lão như sống ở một thế giới khác- thế giới êm ái lạ lùng mênh mang
như lơ lửng ở một tầng khác- đó là thế giới của tình yêu thương, tình phụ tử thiêng
liêng cao cả.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng.Trong đói
khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy..., ông giáo mời lão ãn khoai, uống nước chè,
lão cười hồn hậu và khất “ông giáo cho để khi khác ”. ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ,
lão từ chối “một cách gần như hách dịch Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong rồi,
lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa
một con chó".Nhận xét đánh giá Một người đớn dau, dằn vặt vì bán đi một con chó,
R
L; một người khổ tâm, buồn bã đến phải tự tử vì mất đi một con chó làm bầu bạn có lẽ chỉ

'ti có Lão hạc mà thôi.Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền
đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (...). Của mẹ nó tậu thì nó hưởng ”. Trước khi chết,
'P

/ lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đổng bạc để “lỡ có chết... gọi là
của lão có tí chút... ”, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nhận xét đánh giá
Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ “làm nghề ăn trộm ” ở phần cuối
truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của
lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Luận điểm: Đoạn trích phản ánh hiện thực xã hội sâu sắc.
…………………………………………………………………………………………
…..
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………….
=>Đến với đoạn trich “Lão Hạc” Nam cao như đang cho cúng ta xem một thước phim
cận cảnh trở về quá khứ - thời đại nhân vật sống. Nam Cao đã đưa chúng ta đến với
những mặt trái của xã hội , những bức xúc nhức nhối của xã hội, của một thời đại được
phơi bày một cách không khoan nhượng, để rồi nõi đau của nhân vật trở thành nỗi đau
của con người, nỗi đau của nhân loại.
Luận điểm : Đoạn trích thể hiện tình thần nhân đạo sâu sắc. Đó là nhà văn đã vạch
trần bộ mặt tàn ác của xã hội thực dân phong kiến với hàng loạt cái xấu xa. Là lòng
trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân cũng như sự cảm thông, chia sẻ
với số phận bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ. Giá trị nhân đạo của đoạn
trích còn là sự hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn.NXĐG=>Thế mới thấy văn
học chính là cuộc đời.Mỗi tác phẩm văn học cũng là một mảnh đời, một số phận, tiếng
nói lương tri của thời đại.Văn chương không chỉ nói chuyện lòng người mà còn nói
chuyện cuộc đời.những khoảnh khắc hiện thực đầy biến cố.

Nhận xét đánh giá Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và
bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế,
lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong

Ị sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội
7
1
’ cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một
tinh thần nhân đạo thống thiết.

*********************************

P1.CHUYÊN ĐỀ 1:VĂN HỌC TRUNG ĐẠI:

( 1 TRONG 14 CHUYÊN ĐỀ CỦA BỘ ĐỀ HƠN 600 TRANG)


………………………………………………………………………………………………………………….
PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI KẾT BÀI HAY

(ÔN THI HỌC SINH GIỎI)


Có nhiều yếu tố để làm nên một bài văn hay, và người ta thường chú trọng phần nội
dung (thân bài) mà quên đi rằng mở bài và kết bài cũng quan trọng không kém. Mở bài
đánh dấu bước khởi đầu trong quá trình trình bày vấn đề nghị luận, và kết bài cho ta
biết việc trình bày vấn đề đã kết thúc để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Để viết
được một mở bài và kết bài hay, lôi cuốn cũng là một kĩ năng rất quan trọng.
I. PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI

1. Tầm quan trọng của một mở bài hay:

Nhà văn M.Gorki đã từng nói: “Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng
như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất
lâu”. Thật vậy, nhiều bạn trẻ thường gặp khó khăn trong việc mở đầu bài văn của
mình. Một mở đầu hay sẽ giúp các bạn có thêm cảm hứng cho bài viết của mình, giúp
bài viết được trôi chảy hơn. Mở bài hay còn tạo ấn tượng cho giám khảo. Và người đọc
thấy được sự thích thú khi cảm nhận bài văn ngay từ phần mở đầu thì có thể khẳng
định được chất lượng bài văn đạt giá trị cao. Một bài văn cần nhiều kỹ năng và mở bài
là một kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định đúng hướng và đi sâu vào
vấn đề cần thể hiện.
2. Các yếu tố của một mở bài hay:

Để có một mở bài hay cho một bài viết không hề dễ dàng, hay ở đây không chỉ là nội
dung thể hiện đủ đúng ý mà mở bài hay còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn từ
viết hay, ngôn ngữ của mỗi người là khác nhau vì cách cảm nhận văn học trong mỗi
người là khác nhau nên trau dồi về kiến thức văn học cũng quan trọng. Có hai nguyên
tắc để viết mở bài hay: thứ nhất là nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài hay còn gọi là
làm “trúng đề”; thứ hai là chỉ được phép nêu những ý khái quát về vấn đề hay là tóm
tắt nội dung thể hiện trong bài viết một cách súc tích nhưng vẫn thể hiện ý rõ diễn đạt.

Một mở bài hay cần có các yếu tố:

-  Ngắn gọn: ở đây được hiểu mở bài hay ngắn gọn là ngắn về số lượng câu và nội
dung thể hiện, số lượng câu chỉ cần khoảng 4 - 6 câu, nội dung chỉ cần sự tóm tắt ngắn
gọn. Phần mở bài quá dài dòng không những khiến bạn mất thời gian mà còn khiến
bạn bị cạn kiệt ý tưởng cho phần thân bài, đôi khi mở bài dài quá khiến sai lệch ý trong
cách thể hiện. Hãy viết mở bài là sự tóm tắt, khơi nguồn nội dung ít để người đọc cảm
nhận được sự tò mò và đi chinh phục nội dung tiếp theo ở phần thân bài
………………………………………………………………………………………………………………….
-  Đầy đủ: Một mở bài hay đầy đủ là phải nêu được vấn đề nghị luận, câu nói dẫn dắt,
ngắn nhưng đầy đủ ý mới quan trọng, vấn đề chính cũng như nội dung quan trọng bắt
buộc phải nhắc đến phần mở bài.

-  Độc đáo: Độc đáo trong một mở bài hay là gây được sự chú ý cho người đọc về vấn
đề cần viết bằng những liên tưởng khác lạ, tưởng tượng phong phú trong các bài văn
miêu tả, kể tạo sự thu hút bất ngờ cho người đọc. Sự độc đáo trong mở bài khiến bài
viết của các bạn trở nên nổi bật và nhận được sự chú ý và theo dõi của mọi người về
chất lượng bài văn.

- Tự nhiên: Dùng ngôn từ giản dị, mộc mạc trong cách viết bài, đặc biệt thể hiện ở
phần mở bài là cần thiết để có một mở bài hay.

Phần mở bài có ảnh hưởng đến cảm xúc, tâm  lý người chấm nên sự đầu tư kỹ càng về
kiến thức và kỹ năng cho phần mở bài để tránh lạc đề, sơ sài hay dài dòng, tuân thủ
những nguyên tắc hay những yếu tố cơ bản là cần thiết trong việc tạo một mở bài hay
và ý nghĩa.

3. Cách viết mở bài hay


Thông thường có hai cách mở bài:

a) Trực tiếp (cách này thường dành cho các bạn học sinh trung bình): Là cách đi
thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm hiểu đề và tìm được vấn đề
trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra bằng một luận điểm rõ ràng.
Tuy nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày cho đủ ý, không nói thiếu nhưng
cũng không nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ các yêu cầu của một phần mở bài
đúng mực trong nhà trường. Đặt vấn đề theo cách trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự
nhiên, dễ tiếp nhận, tuy nhiên thường khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết.

Nếu đề bài yêu cầu nghị luận về tác phẩm thì mở bài phải giới thiệu được tên tác giả,
phong cách thơ tác giả, tên tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, trích dẫn khổ thơ, hoặc giới
thiệu vấn đề nghị luận.

b) Gián tiếp (dành cho các bạn khá – giỏi): Với cách này người viết phải dẫn dắt vào
đề bằng cách nêu lên những ý có liên quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây
sự chú ý cho người đọc sau đó mới bắt sang luận đề. Người viết xuất phát từ một ý
kiến, một câu chuyện, một đoạn thơ, đoạn văn, một phát ngôn của nhân vật nổi tiếng
nào đó,...
dẫn dắt người đọc đến vấn đề sẽ bàn luận trong bài viết. Mở bài theo cách này tạo được sự uyển
chuyển, linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc.
………………………………………………………………………………………………………………….

Các cách mở bài gián tiếp:

So sánh: So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện
giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Cách mở bài so sánh gây thích thú cho người đọc vì
nó chứng tỏ người viết có kiến thức văn học phong phú. Có nhiều cách làm phần mở bài
theo dạng so sánh. Tác phẩm thì có tác giả, đề tài, chủ đề, nội dung, cảm hứng, thể loại,
giai đoạn, giá trị, nhân vật… nên người viết có thể đối chiếu điểm giống nhau, khác nhau
hoặc vừa giống vừa khác của một trong các vấn đề đó.

Đi từ đề tài: Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một đề tài nào đó. Hiểu điều này,
cùng với kiến thức lí luận văn học “Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm”, người viết nghị luận văn học sẽ dễ dàng giới thiệu vấn đề một cách rành mạch.
Các nhà văn viết về mùa thu thì đề tài là mùa thu; viết về tình bạn, tình yêu, tình cảm gia
đình thì đó cũng là đề tài.

Đi từ giai đoạn: Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác
nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác
phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu “triết học gia” ham tìm
tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn.

Đi từ thể loại: Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể
loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải
mã nghệ thuật trong tác phẩm.

Trích dẫn một câu nói, một câu thơ hoặc từ một triết lí cuộc sống
II. PHƯƠNG PHÁP VIẾT KẾT BÀI

1. Tầm quan trọng của kết bài:

Kết bài trong văn nghị luận là một phần khá quan trọng bởi đây là phần sẽ tạo
dư âm cho bài viết. Nếu kết bài có sức nặng sẽ tạo nên những cảm xúc rất tốt cho
người đọc. Kết bài là phần kết thúc bài viết, vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề đã
được đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài, đồng thời mở ra hướng suy nghĩ mới,
tình cảm mới cho người đọc. Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra
………………………………………………………………………………………………………………….
ở mở bài và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn
cho bài văn.

2. Các yêu cầu viết kết bài hay:

Giống như phần mở bài, phần này chỉ nêu lên những ý khái quát, không trình bày lan
man, dài dòng hoặc lặp lại sự giảng giải, minh họa, nhận xét một cách chi tiết như ở
phần thân bài. Một kết bài thành công không chỉ là nhiệm vụ "gói lại" mà còn phải
"mở ra" - khơi lại suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Thâu tóm lại nội dung bài viết
không có nghĩa là nhắc lại, lặp lại mà phải dùng một hình thức khác để khái quát ngắn
gọn; khơi gợi suy nghĩ hay tạo dư ba trong lòng người đọc; là câu văn khi đã khép lại
vẫn khiến cho người đọc day dứt, trăn trở, hướng về nó.
3. Cách viết mở bài hay:

- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan
điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng
nâng cao vấn đề.

CÁC CÁCH MỞ BÀI HIỆU QUẢ GV CẦN NẮM KHI ÔN HSG


KHỐI 789, ÔN CHUYÊN.
1. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT
2. NGHỊ LUẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH, THƠ, VĂN XUÔI
3. MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ SO SÁNH CÁC TÁC PHẨM
4. CÁCH MỞ BÀI CHO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
4.1.ĐỀ TÀI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, PHÁP.
4.2MỞ BÀI VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN / NHỮNG CON NGƯỜI BẤT HẠNH
4.3. Mở bài bằng nhận định tác giả và quan niệm sáng tác
4.4. Mở bài bằng chủ đề hay hình tượng trung tâm
4.5.Bình luận mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Chứng minh
bằng một số tác phẩm.
4.6.ở bài nghị luận xuất phát từ lý luận văn học
4.7. Mở bài về thơ ca
4.8. Mở bài văn xuôi
5. Mở bài giới thiệu sự trường tồn của tác phầm trong lòng người đọc.
5.1. Đi từ tác phẩm/tác giả
5.2.Đi từ tác phẩm/tác giả
5.3.Đi từ một nhận định
5.4.Sử dụng châm ngôn, ca dao, tục ngữ để bắt đầu
5.5.Đi từ hoàn cảnh sáng tác
5.6. Đi từ chủ đề
5.7 .So sánh
5.8. Phản đề
………………………………………………………………………………………………………………….
6. Mở bài theo lối đồng điệu cùng chủ đề.
7.Mở bài thông thường
=> TẤT CẢ CÁC PHẦN NÀY ĐÃ CÓ MỘT BỘ CÁCH MỞ BÀI RIÊNG Ạ,
GỦI KHI THẦY CÔ LẤY TRỌN BỘ.

CHUYÊN ĐỀ VHTĐ: ÔN HSG VĂN 9

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG- TRUYỆN KIỀU

ĐỀ SỐ 27
Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm):
Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi
“Còn gì đáng buồn hơn khi mà giàu có về vật chất thì lại nghèo nàn đến thảm hại về
văn hóa tinh thần,... Một bộ phận thanh niên bây giờ nghĩ nhiều, nói nhiều đến tiền
bạc, hưởng thụ. Ăn mặc đẹp, tiện nghi, hiện đại lắm nhưng con người thì vô cùng
mỏng. Gió thổi nhẹ là bay biến tứ tán ngay. Ngày trước dân ta nghèo nhưng đức dày,
nhân cách vững vàng, phong ba bão táp không hề gì,... chung quy tại giáo dục mà ra.
Cha mẹ bây giờ chiều con quá, không để chúng thiếu thốn gì. Vì thế mà chúng rất
mong manh, dễ vỡ, dễ hư hỏng…”
(Theo Nguyễn Khải, báo Đầu tư, sách Ngữ Văn 11 Nâng cao, NXB Giáo dục, 2014)
 
Câu 1: Văn bản trên nói về hiện tượng gì trong đời sống? (0,5 điểm)
Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 3: Trong văn bản trên có sử dụng thành ngữ. Hãy ghi lại chính xác và giải thích ý
nghĩa của thành ngữ đó. (2 điểm)
Câu 4: Chữ “mỏng” trong văn bản được hiểu như thế nào? (1,0 điểm)
 
Phần II. Làm văn: (16 điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 1: ( 6.0 điểm)
Một trong những tình cảm thiêng liêng luôn thường trực trong mỗi con người Việt
Nam là tình yêu Tổ quốc. Đặc biệt, tình cảm đó đã được nhiều nhà thơ, nhà văn thể
hiện trong tác phẩm của mình.
Trong bài thơ “Tình sông núi”, nhà thơ Trần Mai Ninh viết:
Có mối tình nào hơn thế nữa
Nói bằng súng, bằng gươm sáng rền
Có mối tình nào hơn thế nữa
Trộn hoà lao động với giang sơn
Có mối tình nào hơn Tổ quốc?
Dựa vào ý thơ trên và các bài thơ hiện đại đã được học ở chương trình Ngữ văn lớp 9 -
tập 1, em hãy viết một bài văn với nhan đề: Tình yêu Tổ quốc.
Câu 2. ( 10.0 điểm)
Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn
vật, muôn loài…
(Hoài Thanh, Ý nghĩa văn chương, SGK Ngữ văn 7, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam,
2011, Tr.60)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Chuyện người con gái
Nam Xương (Trích “Truyền kỳ mạn lục”) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu
Ngưng Bích (Trích “Truyện Kiều”) của Nguyễn Du.
-----------HẾT----------

HƯỚNG DẪN CHẤM


Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
CÂU NỘI DUNG
I. PHẦN ĐỌC HIỂU
Câu 1: Văn bản nói về hiện tượng một bộ phận thanh niên mải chạy theo những nhu cầu
về vật chất, không chú trọng đến đời sống văn hóa tinh thần. 0.5đ
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận. 0.5đ
Câu 3: Thành ngữ được sử dụng trong văn bản là “phong ba bão táp”. 
………………………………………………………………………………………………………………….
Thành ngữ “phong ba bão táp” có nghĩa là những khó khăn, gian khổ. 2đ
Câu 4: Chữ “mỏng” có nghĩa là sự yếu đuối, kém cỏi về đạo đức, nhân cách, nghị lực,
sức mạnh, bản lĩnh, ý chí,… không đủ sức chống đỡ những thử thách gian khổ trong cuộc
sống. 1,0đ

Phần II. Làm văn: (16 điểm)


Câu 1:
* Yêu cầu về kĩ năng: Bài làm yêu cầu đảm bảo là một bài văn hoàn chỉnh, kết hợp
nghị luận và biểu cảm, đúng chủ đề về tình yêu Tổ quốc trong các bài thơ hiện đại đã
được học trong chương trình ngữ văn 9, tập 1.
* Yêu cầu nội dung:
- Vào bài tự nhiên, hấp dẫn, hướng người đọc vào vấn đề mà đề bài yêu cầu, trích dẫn
được đoạn thơ của nhà thơ Trần Mai Ninh.
- Nêu được vấn đề mà đề bài yêu cầu: Tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam
trong chiến đấu và trong lao động, được thể hiện trong các bài thơ hiện đại ở chương
trình Ngữ văn lớp 9 tập 1. 
a) Tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam trong chiến đấu: 
(Trong các bài: Đồng chí - Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến
Duật), với các biểu hiện cụ thể:
+ Họ trước hết là những người nông dân mặc áo lính. Khi quê hương bị giày xéo trước
gót chân kẻ thù xâm lược, thì bằng tình yêu thiêng liêng với Tổ quốc, họ đã bỏ lại tất
cả ở quê nhà để ra đi chiến đấu, quét sạch bóng kẻ thù. (dẫn chứng trong bài thơ Đồng
chí) 
+ Tình yêu đối với đất nước cùng với lí tưởng cao cả là chiến đấu đánh đuổi kẻ thù
xâm lượcđã giúp họ vượt lên mọi khó khăn gian khổ để sống và chiến đấu cho dù trên
con đướng đó họ có thể gặp nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh với một niềm tin và lạc
quan: (dẫn chứng trong bài thơ Đồng chí, Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
=> Như vậy, khi Tổ quốc bị kẻ thù xâm lược thì tình yêu Tổ quốc của con người Việt
Nam là: “Nói bằng súng, bằng gươm sáng rền”.
………………………………………………………………………………………………………………….
b) Tình yêu Tổ quốc không chỉ trong chiến đấu mà trong lao động mà tình yêu ấy
cũng được thiết tha đối với đất nước thân yêu. 
- Đó là thứ tình yêu được thể hiện bằng những công việc, những tình cảm tuy lặng
thầm nhưng không kém phần sâu sắc được thể hiện trong các bài thơ: Đoàn thuyền
đánh cá - Huy Cận, Bếp lửa - Bằng Việt, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ -
Nguyễn Khoa Điềm; Ánh trăng - Nguyễn Duy:
+ Đó là niềm tự hào khi con người Việt Nam đợc làm chủ cả một vùng biển Đông rộng
lớn, đợc ra khơi khai thác tài nguyên biển để làm giàu cho Tổ quốc. Vì vậy dù công
việc rất vất vả nhng họ vẫn luôn lạc quan, ra khơi trong tiếng hát hào hứng và say mê.
(dẫn chứng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá)
+ Đó là hình ảnh người bà đáng kính tuy không trực tiếp lao động sản xuất nhưng đã
hết lòng vì con vi cháu cho các con công tác để phục vụ cho đất nước và cũng là người
bà giàu nghị lực, giàu ý chí và niềm tin. (dẫn chứng trong bài thơ Bếp lửa)
+ Đó là người mẹ dân tộc Tà Ôi đã có sự thống nhất giữa tình yêu con và tình yêu Tổ
quốc: Công việc của bà tuy vất vả nhưng luôn gắn với dân làng, bộ đội, đất nước, tình
cảm, mơ ước của bà không chỉ cho con mà còn gắn với dân làng, bộ đội, đất nước.
(dẫn chứng trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ) 
+ Đó còn là sự giật mình thức tỉnh nối dài hiện tại với quá khứ, để sống đúng với đạo lí
“Uống nước nhớ nguồn” trước ánh trăng - nhân dân đất nước bình dị, độ lượng, bao
dung, khi con người được sống trong hoà bình, đã vô tình lãng quên quá khứ. (dẫn
chững trong bài Ánh trăng)
c) Tình yêu Tổ quốc còn là đấu tranh chống lịa thế lực thù địch, chống lại tiêu cực
trong XH
- Dẫn chứng…
=> Như vậy, tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam là mối tình trộn hoà lao động
với giang sơn và không có mối tình nào hơn thế.
- Khép lại vấn đề một cách hợp lý, tương ứng với phần mở bài, có liên hệ thực tế hoặc
nêu cảm nghĩ của bản thân. 
d) Mở rộng vấn đề, liên hệ bản thân.
Câu 2:.
………………………………………………………………………………………………………………….
1.Yêu cầu về kĩ năng:
- HS có kĩ năng làm bài nghị luận văn học tổng hợp, biết kết hợp các phép lập luận
như giải thích, phân tích, chứng minh...
- Hiểu đúng và hướng trúng vào vấn đề mà đề bài yêu cầu: giá trị nhân đạo trong tác
phẩm văn chương.
- Biết lựa chọn dẫn chứng, phân tích và bình dẫn chứng sao cho làm sáng rõ vấn đề.
- Biết kết hợp với liên hệ, mở rộng để trình bày vấn đề một cách thấu đáo, toàn diện.
- Văn viết có cảm xúc, diễn đạt lưu loát, trôi chảy; biết dùng từ, đặt câu chuẩn xác, gợi
cảm.
- Bố cục bài phải hoàn chỉnh, chặt chẽ.
2.Yêu cầu về nội dung kiến thức:
a. Giới thiệu vấn đề nghị luận: 
- Vấn đề trung tâm của văn chương là vấn đề con người và nguồn gốc cốt yếu của văn
chương chính là lòng thương người.
- Lòng thương người hay nói rộng ra là giá trị nhân đạo là phẩm chất cốt lõi, là tiêu
chuẩn cho một tác phẩm văn học chân chính.
b. Giải thích ý kiến: 
- Hoài Thanh đã đưa ra vấn đề quan trọng, được coi là nguồn gốc cốt yếu của văn
chương:lòng thương người mà rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài.
+ Văn chương: chỉ các tác phẩm thơ văn. Đối tượng phản ánh của tác phẩm văn
chương là con người và vạn vật. Nhà văn sáng tác tác phẩm, một mặt phản ánh hiện
thực, mặt khác bày tỏ tình cảm với con người và vạn vật. Tác phẩm là tiếng nói của
tâm hồn, cảm xúc của người sáng tác, được hình thành, nảy nở từ tình cảm của tác giả
đối với cuộc sống, con người, quan trọng nhất là tình thương.
+Tình thương người, thương cả muôn vật, muôn loài: là lòng nhân ái – một tình cảm
rộng lớn, cao cả, mang tầm nhân loại. Tình cảm ấy không chỉ là cội nguồn của văn
chương mà còn là thước đo giá trị của tác phẩm văn chương chân chính. Đó chính là
giá trị nhân đạo, là những ý nghĩa nhân
văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Nói đến giá trị nhân đạo, đến ý nghĩa nhân văn là nói đến vấn đề con người, vấn đề
nhân sinh đặt ra trong tác phẩm. Ở đó, con người luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, trong
mối quan tâm thường trực của các nhà văn.
Ý kiến của Hoài Thanh là một nhận định về giá trị tư tưởng của tác phẩm văn chương,
khẳng định nguồn gốc cốt yếu của các tác phẩm văn chương chính là giá trị nhân đạo.
+ Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm rất đa dạng song thường tập trung vào
những mặt cụ thể sau: lòng thương yêu, sự cảm thông, xót xa trước những hoàn cảnh,
những số phận bất hạnh; lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của
con người; ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp, phẩm giá cao quý; trân trọng, nâng niu khát
vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người.
- Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng
Bích (Truyện Kiều) của Nguyễn Du là minh chứng rõ nhất cho quan điểm: nguồn gốc
cốt yếu của văn chương chính là lòng thương người.
C.Giá trị nhân đạo qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và đoạn
trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: 
- Tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà
bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời: số phận của Kiểu bị ném vào nhà chứa, rồi
giam lỏng trong lầu Ngưng Bích với nỗi cô đơn, buồn tủi, thương thân, xót phận; là
tình cảnh oan khiên nghiệt ngã của Vũ Nương, đến mức nàng phải dùng cái chết để
chứng tỏ tấm lòng trong trắng, tiết hạnh của mình. 
- Qua bi kịch thân phận của Kiều và Vũ Nương, cả hai nhà văn gián tiếp lên án, tố cáo
xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Đó
là chiến tranh phi nghĩa, là chế độ nam quyền (Chuyện người con gái Nam Xương), là
bọn quan lại tham lam, là lũ buôn thịt bán người dồn đẩy con người vào cảnh ngộ đau
thương (Truyện Kiều).
- Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của
họ bất hạnh, khổ đau, oan trái, truân chuyên. Đó là lòng chung thủy, sự hiếu hạnh, giàu
tình yêu thương, luôn sống vì người khác, nghĩ cho người khác của Kiều và Vũ
Nương.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng về tình
yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy.
d. Đánh giá về ý kiến của Hoài Thanh. 
- Ý kiến của Hoài Thanh về nguồn gốc, phẩm chất của văn chương là ý kiến đúng đắn,
khoa học bởi nó đã nói lên đặc trưng, thuộc tính quan trọng nhất của văn học: Văn học
là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc; văn học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc “Văn học là
nhân học” (M. Gorki).
- Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn
Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã thể
hiện rõ nét quan niệm văn học của Hoài Thanh. Bởi cả hai đều là những tác phẩm
mang giá trị nhân đạo cao cả, hướng tới con người, vì con người
***********************************************
ĐỀ SỐ 29
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm).
Hãy đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“Trong dòng đời vội vã có nhiều người dường như đã quên đi tình nghĩa giữa người
với người. Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra
cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc toàn diện mà còn đó
nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ. Chúng ta đâu chỉ
sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác. (Đó chính là sự
“cho” và “nhận” trong cuộc đời này).
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể
cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai
biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận
về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói? Cho nên, giữa
nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi
cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản
thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng
đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không
đơn điệu và để trái tim cỏ những nhịp đập yêu thương.
Cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là
tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi
nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất”.
(Trích “Lời khuyên cuộc sống…”)
Câu 1. Nêu nội dung chính của văn bản trên?
Câu 2. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 3. Theo tác giả, cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng
nhất thực sự tồn tại là cái gì?
Câu 4. Tại sao lại nói: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại
nhiều nhất”.
II. LÀM VĂN (16.0 điểm)
Câu 1 (7.0 điểm)
Từ nội dung văn bản trên, anh/chị hãy viết đoạn văn suy nghĩ về “cho” và “nhận”
trong cuộc sống.

Câu 2 (10.0 điểm)


Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kì mạn lục của Nguyễn
Dữ) đã phản ánh bi kịch và khát vọng muôn thuở của con người. Hãy phân tích nhân
vật Vũ Nương trong truyện để làm sáng tỏ điều đó./.

.........Hết........
ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN:
Phần I
1 Nội dung văn bản: Bàn về cho và nhận trong cuộc sống
2 Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
3 Theo tác giả, cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất
  thực sự tồn tại là: tình yêu thương
Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất vì: cho đi là
biểu hiện của hành động đẹp, của việc làm tốt, việc có ích. Vì thế, ngay khi cho
4 đi, ta sẽ nhận được niềm vui, sự thanh thản trong tâm hồn

Phần II
Câu1.
1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề đặt ra
từ phần đọc hiểu

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức của một đoạn văn.

b. Xác định đúng các vấn đề nghị luận.

c. Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết
hợp chặt chẽ các dẫn chứng. có thể viết đoạn theo định hướng sau:
1. Mở Bài
- Giới thiệu về cho và nhận trong cuộc sống
………………………………………………………………………………………………………………….
2. Thân Bài
a. Giải thích
- Cho: Ban tặng, sẻ chia, chuyển những thứ thuộc quyền sở hữu của mình sang
cho người khác mà không đổi lấy thứ gì.
- Nhận: Lấy về cái được cho, được ban tặng.
-> Cho và nhận là truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay.
-> Cho và nhận có mối quan hệ mật thiết với nhau.
b. Biểu hiện
- Chúng ta có thể cho đi những thứ vật chất, tiền bạc thông qua các hành động từ
thiện, quyên góp ủng hộ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn.
- Đó cũng có thể là những hành động giúp đỡ, chia sẻ nỗi buồn, nỗi mất mát với
những người xung quanh mình.
- Cho và nhận là hành động xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con
người.
- Đó là hành động hoàn toàn tự nguyện, không vụ lợi cá nhân.
- Khi chúng ta cho đi cũng là lúc chúng ta được nhận lại. Điều chúng ta nhận lại
có thể là một lời cảm ơn chân thành, một nụ cười, một cử chỉ ấm áp khiến chúng
ta vui lòng.
c. Ý nghĩa của cho và nhận
- Cho và nhận gắn kết con người lại với nhau nhiều hơn.
- Giúp chúng ta biết yêu thương đồng loại, sống nhân ái, vị tha hơn.
- Những người biết cho đi sẽ được mọi người quý mến.
d. Bài học
- Không sống ích kỉ mà phải biết chia sẻ với người khác, biết cho đi.
- Phê phán lối sống vị kỉ, chỉ biết nhận mà không biết cho đi.
3. Kết Bài
- Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của cho và nhận trong cuộc sống.
d. Chính tả: Đảm bảo những quy tắc về chính tả, dùng từ, đặt câu.

  e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt độc đáo , có suy nghĩ riêng về vấn đề nghị luận

Câu 2:
Câu 3 1.Về kĩ năng: 3 điểm
(10 điểm) 1.0
- Hiểu đúng yêu cầu của đề. Biết cách viết bài văn nghị luận kiểu
phân tích nhân vật để làm sáng tỏ một vấn đề đặt ra trong tác phẩm
………………………………………………………………………………………………………………….
truyện. Học sinh biết huy động năng lực phân tích , cảm thụ nhân
1.5
vật trong tác phẩm truyện, vận dụng các thao tác nghị luận hợp lí.
- Bài viết có bố cục rõ ràng: luận điểm trình bày mạch lạc, lập luận
0.5
chặt chẽ.
- Không mắc lỗi chính tả, không mắc các lỗi cơ bản về cách dùng
từ, về ngữ pháp.
2.Về nội dung: 7 điểm
Hs có thể trình bày những cách thức khác nhau nhưng phải làm
sáng tỏ vấn đề nghị luận và hướng đến các nội dung chính sau: 0.5
I.Đặt vấn đề: dẫn dắt, giới thiệu tác phẩm, nhân vật, nhận định.
II. Giải quyết vần đề: ( 6.0 điểm)
0.5
1.Giải thích khái quát nhận định:
- Bi kịch và khát vọng luôn có mối quan hệ với nhau. Càng đau
khổ, con người càng có khát vọng vươn lên trên đau khổ. Tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ đã phản ánh được bi kịch và khát vọng muôn thưở của
0.5
con người trong cuộc sống gia đình.
0.5
2. Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ nhận định.
a.Cuộc đời, số phận của Vũ Nương là một bi kịch ( 2,5 điểm) 0.5
- Cuộc sống gia đình của Vũ Nương ngay từ đầu đã ẩn chứa mầm
0.75
mống bi kịch ( dẫn chứng và phân tích).
- Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương phải một mình chịu gánh
nặng gia đình và sống trong cảnh cô đơn, buồn nhớ chồng (dẫn
chứng và phân tích).
- Ngày Trương Sinh trở về, Vũ Nương bị vu oan và chịu sự đối xử
tệ bạc (dẫn chứng và phân tích).
- Cuối cùng Vũ Nương chịu cái chết oan ngiệt.
+ Nguyên nhân trực tiếp:
Do sự hiểu lầm từ nhiều cái ngẫu nhiên: chiến tranh, cha con xa
cách nên ngày trở về con không nhận cha, còn nói những lời thơ
………………………………………………………………………………………………………………….
ngây về một người cha khác khiến Trương Sinh hiểu lầm.
+ Nguyên nhân sâu xa:
1.5
Do Trương Sinh gia trưởng, thất học, đa nghi, độc đoán, vũ phu,
ghen tuông mù quáng.
0.5
Do chế phong kiến phụ quyền bất bình đẳng đã tạo cho Trương
Sinh cái thế của kẻ giàu có bên cạnh cái thế của người đàn ông gia
trưởng.
0.5
Do chiến tranh phong kiến.
->Vũ Nương phải chọn cái chết để chứng minh cho tiết hạnh, thủy
chung chính là bi kịch đau đớn của số phận cuộc đời nàng. Kết
thúc truyện , nàng dù có được trở về dương thế nhưng cũng chỉ
trong khoảnh khắc. Nàng không bao giờ có được hạnh phúc gia
đình trọn vẹn ở cõi người. 0.5
b. Dù sống trong bi kịch Vũ Nương vẫn ủ ấp khát vọng về hạnh
phúc gia đình- một khát vọng bình dị cần có và nên có.
- Vũ Nương theo đuổi và tạo dựng khát vọng ấy trong cõi
sống.Nàng chỉ mong được cùng chồng vun đắp hạnh phúc gia đình
0.5
bình yên, khao khát cảnh vợ chồng, cha con được đoàn tụ khi chiến
tranh gây xa cách.
( Nêu dẫn chứng và phân tích xoay quanh những hành động, lời nói
của nàng lúc chia tay chồng đi lính “chỉ mong ngày về mang theo
được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”, những lúc “ ngày thường ở
một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo cha Đản”, khi
khẳng định với Trương Sinh “ thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì
cái thú vui nghi gia nghi thất...”)
-Vũ Nương vẫn không nguôi quên và tha thiết với gia đình cả khi ở
dưới thủy cung ( Dẫn chứng và phân tích cụ thể lời của Vũ Nương
nói với Phan Lang “ Vả chăng ngựa hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu
cành Nam. Cảm vì nỗi ấy , tôi tất tìm về có ngày”, ở hành động trở
về dương thế, nói lời chia biệt với Trương Sinh “ Đa tạ tình chàng
………………………………………………………………………………………………………………….
nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa’...).
-Kết thúc truyện , Vũ Nương và chồng con vẫn âm dương cách trở,
hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn nhưng khát vọng hạnh phúc
gia đình vẫn tha thiết không nguôi.
* Trong bi kịch, Vũ Nương khao khát được minh oan, được bảo
toàn danh dự, được lẽ công bằng soi tỏ ( Dẫn chứng và phân tích
lời cầu xin chồng “ Dám xin bày tỏ để cởi bỏ mối nghi ngờ. Mong
chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, ở lời than với thần sông
trước khi chết “ ...thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp
nếu đoan trang giữ tiết , trinh bạch gìn lòng, vào nước làm xin làm
ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu mĩ...”, ở sự lựa chọn cái
chết.)
3. Đánh giá chung: (1 điểm)
- Nhân vật Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt
Nam trong xã hội phong kiến xưa. Ở họ hội tụ đáng quý nhưng
cuộc đời , số phận của họ đầy bi kịch. Nguyễn Dữ đã thể hiện sự
0.5
thấu hiểu , đồng cảm với người phụ nữ và bộc lộ thái độ bênh vực
họ khi phản ảnh cái hiện thực bất công đó.
0.5
- Khát vọng của Vũ Nương không chỉ là của người phụ nữ xưa mà
còn là khát vọng của người phụ nữ ở mọi thời đại. Qua đó Nguyễn
Dữ đã lên tiếng đấu tranh đòi quyền sống, quyền được hạnh phúc
xứng đáng cho họ.
III.Kết thúc vấn đề 0.5
Khẳng định và nâng cao vấn đề nghị luận

CHUYÊN ĐỀ THƠ:
ĐỀ 3
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Năm học
Môn: Ngữ Văn 9
Thời gian làm bài: 150 phút
(Không kể thời gian giao đề)
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 1.(4 đ)
Nhận xét về cách kết thúc " Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ,
có ý kiến cho rằng: " Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về
sự công bằng trong cuộc đời", song có ý kiến khác lại khẳng định: " Tính bi kịch của
truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay cái kết lung linh kì ảo".
Hãy trình bày suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
Câu 2. (6đ)
Nhà văn người Mĩ Helen Keller có nói: " Tôi đã khóc vì không có giầy để đi cho
đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giầy".
Suy nghĩ của em về lời tâm sự trên.
Câu 3. (10đ)
Ra-xum Ga-đa-tốp được mệnh danh là " nhà thơ của mọi thời đại" có dành cho báo
Nước Nga văn học một cuộc trò chuyện trong đó bày tỏ sâu sắc suy nghĩ của mình về văn
học:
" ...Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài
nghệ của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một
cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo." ( Đọc hiểu văn
bản sách giáo khoa ngữ văn 9, 2005, trang 160)
Em hiểu lời bàn trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về hoàn cảnh lịch sử
đất nước, con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, hãy
làm sáng tỏ lời bàn ấy qua tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe
không kính của Phạm Tiến Duật.

HƯỚNG DẪN ĐÁP ÁN ĐỀ THI HSG HUYỆN NGỮ VĂN 9


Câu 1.
- Yêu cầu về kĩ năng:
+ Hs có thể viết dưới hình thức bài văn ngắn hoặc trình bày theo ý. Song cách lập luận
phải sáng tỏ, rõ ràng, chặt chẽ.
+ Chú ý cách dùng từ, viết câu và diễn đạt chuẩn xác và trôi chảy.
- Yêu cầu về nội dung:
+ Giới thiệu khái quát truyện truyền kì của Nguyễn Dữ và kết thúc của tác phẩm Chuyện
người con gái Nam Xương.
+ Nhận xét trình bày về hai ý kiến:
* Ý kiến 1. Nhìn thấy giá trị nhân văn của tác phẩm, giống như truyện cổ tích:
người tốt dù phải trải qua bao khó khăn, gian khổ, bất hạnh nhưng cuối cùng sẽ được giải
oan, được trả lại phẩm giá, được hạnh phúc. Điều đó đồng tình với quan điểm của Nguyễn
Dữ: chi tiết kì ảo vừa là tạo ra một kết thúc li kì, hấp dẫn và có hậu, vừa thể hiện ước mơ
của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao
công bằng, hạnh phúc cho người lương thiện, nhất là người phụ nữ bất hạnh như Vũ
Nương.
* Ý kiến 2. Xuất phát từ giá trị hiện thực của tác phẩm. Sự trở về của Vũ Nương
chỉ trong thoáng chốc, một ảo ảnh loang loáng, mờ nhạt giữa dòng sông cùng lời nói: " Đa
tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa" rồi biến mất, đó là hiện thực bi kịch
cuộc đời. Vũ Nương được sống sung sướng bình yên dưới thủy cung chỉ là một giấc mơ
đẹp. Sự trở về gặp chồng trong chốc lát cũng chỉ là giấc mơ. Thực tế chàng-nàng vẫn âm
dương đôi ngả. Khói sương đàn tràng của Trương Sinh không xóa được nỗi oan khuất
của vợ. Sự ân hận muộn màng cũng không cứu vãn được hạnh phúc. Hiện thực phũ phàng
………………………………………………………………………………………………………………….
bi kịch vẫn là bi kịch. Sự trở về ấy càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm. Là lời
cảnh tỉnh, sự trừng phạt đối với Trương Sinh và dư vị ngậm ngùi, bài học thấm thía cho
bất cứ ai về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình.
+ Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau để hoàn thiện một quan điểm, cách nhìn
của nhà văn....
Câu 2.
* Yêu cầu về kĩ năng:
- Hs viết dưới hình thức bài văn ngắn, phương pháp giải thích, phân tích, bình luận, lập
luận phải sáng tỏ, rõ ràng, chặt chẽ.
- Chú ý cách dùng từ, viết câu và diễn đạt chuẩn xác và trôi chảy.
* Yêu cầu về nội dung:
- Vấn đề nghị luận: Sự thiếu thốn, khó khăn của riêng mình chắng thấm gì nếu so với
những khổ đau, bất hạnh của nhiều người khác trong cuộc sống.
- Tư liệu trong đời sống thực tế.
* Xác lập được các ý sau:
- Giải thích hình ảnh đối lập: " không có giầy để đi/không có chân để đi giầy"
+ " không có giầy để đi": gợi ra sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất ( hoàn cảnh nghèo
khó)
+ "không có chân để đi giầy": gợi ra nỗi bất hạnh nghiệt ngã của số phận (nỗi đau về thể
xác, tinh thần còn hơn cả sự nghèo khổ đơn thuần)
=> Ý nghĩa của lời tâm sự: Cuộc sống muôn vàn nỗi khổ đau và bất hạnh, sự thiếu thốn,
cùng túng của bạn chẳng thấm vào đâu khi so với nỗi bất hạnh của nhiều người khác. Hãy
thấy mình còn là người may mắn để biết sẻ chia và cố gắng vươn lên.
- Phân tích, bình luận:
+ Người ta khóc là khi trạng thái tâm hồn xúc động, đau thương, buồn tủi hay kể cả lúc
quá vui. Nữ sĩ đã khóc vì hoàn cảnh cùng túng của mình " không có giầy để đi". Nữ sĩ
khóc về buồn khổ, yếu đuối, tuyệt vọng trước hoàn cảnh của mình. Khóc mãi, khóc mãi
cho đến một ngày bà nhìn thấy một người không có cả đôi chân để đi giầy, bà mới nhận ra
là mình còn may mắn hơn họ. Dù là đôi chân trần, mình còn có chân để bước trên con
đường đời, đứng vững trên đôi chân của mình để có thể làm ra bất cứ thứ gì mình muốn.
Còn họ, không có chân để đi thì dù có giầy cũng không thề đi được, không thể làm bất cứ
điều gì họ muốn. Như vậy, bà đã ngộ ra: mình còn may mắn, hạnh phúc hơn, những thiếu
thốn của mình chẳng thấm gì so với người khác.
+ Lời tâm sự của nhà văn Mĩ không dừng lại ở đôi giầy, đôi chân. Đôi giầy là ước mơ,
khát vọng của mình thì đôi chân lại là ước mơ, khát vọng của người khác. Hãy biết hài
lòng với những gì mình đang có và biết sẻ chia nỗi bất hạnh cùng người khác, thiếu bản
lĩnh, nghị lực, cuộc đời sẽ dễ rơi vào tuyệt vọng.
+ Lời tâm sự không chỉ thể hiện sự thức ngộ trước cuộc sống mà còn hàm chứa lời động
viên, khích lệ: Dù ở bất kì hoàn cảnh nào cũng không ngục ngã, phải gắng sức vươn lên,
khó khăn, bất hạnh chính là thử thách tôi luyện ta trưởng thành, hoàn thiện.
- Bài học:
Lời tâm sự của nữ Helle Keller đem lại bài học cho những ai đang than vãn, bi
quan trước hoàn cảnh của mình, hiểu ra giá trị đích thực của cuộc sống. Cuộc sống của
mỗi người được quyết định bởi sự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng.
Hơn thế, ta còn phải nhìn ra cuộc đời để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ. Từ đó thêm sức
mạnh, lòng tin yêu cuộc sống để làm việc và cống hiến nhiều hơn.
Câu 3.
………………………………………………………………………………………………………………….
* Yêu cầu về kĩ năng:
- Hs viết dưới hình thức bài văn, phương pháp giải thích, chứng minh, phân tích tổng hợp,
bình luận, lập luận phải sáng tỏ, rõ ràng, chặt chẽ.
- Chú ý cách dùng từ, viết câu và diễn đạt chuẩn xác và trôi chảy.
* Yêu cầu về nội dung:

MB:* Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận:


- Văn học nghệ thuật bao giờ cũng lấy chất liệu từ đời sống hiện thực khách quan. Người
nghệ sĩ phải phản ánh hiện thực đó một cách vừa trung thực vừa sáng tạo.
- Dẫn lời nhận xét của Ra-xum Ga-đa-top
- Khái quát hoàn cảnh đất nước Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX – đương đầu với TD Pháp và
Đế quốc Mĩ. Văn học cách mạng đã hướng ngòi bút vào hiện thực ấy, ca hát về thời đại
mình khổ đau mà vô cùng vĩ đại, trong đó có Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu
đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
TB
* Giải thích khái niệm trong nhận định về mối quan hệ giữa cuộc sống - tác giả - tác phẩm
- Chân lí là sự phản ánh sự vật hiện tượng của hiện thực vào nhận thức của con người đúng
như chúng tồn tại.
- Văn học là thư kí của cuộc sống hiện thực, là tấm gương phản chiếu hiện thực thông qua
lăng kính chủ quan và sự sáng tạo của người cầm bút. Hiện thực được phản ánh phải trung
thực, phù hợp với hoàn cảnh của thời đại: “… Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là
chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nhà văn”.
- Với tài năng của người nghệ sĩ, hiện thực cuộc sống được ghi lại trong tác phẩm bằng
những hình ảnh hấp dẫn và sáng tạo để tác phẩm đó sống mãi với thời gian. Vì vậy, văn học
thường mang nội dung cụ thể của thời đại mình.
* Chứng minh nhận định của Ga-đa-tôp:nền tảng chân lý qua hai tác phẩm Đồng chí (Chính
Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
- Nền tảng chân lý của bài thơ Đồng chí  là hiện thực của đất nước trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp từ 1946 - 1954. Dân tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến với
bao khó khăn, gian khổ và thiếu thốn. Lực lượng chính là nông dân. Họ sẵn sàng hi sinh tất
cả sức người sức của để giành lấy độc lập, tự do. Và bài Đồng chí được sáng tác năm 1948,
sau chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của quân
Pháp cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Chính Hữu – một nhà thơ, một người
………………………………………………………………………………………………………………….
chiến sĩ lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng đơn vị của mình
tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Bài thơ ra đời là kết quả của những trải nghiệm thực và
những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ của tác giả với những người đồng đội trong chiến dịch
Việt Bắc.
- Nền tảng chân lý của Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hiện thực của đất nước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954 đến 1975. Miền Bắc vừa xây dựng đất
nước, vừa làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Giặc Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh
hủy diệt, tàn khốc với dân tộc Việt Nam. Song cả dân tộc với tinh thần độc lập, tự do đã
đoàn kết đứng dậy đấu tranh, quyết đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Đặc biệt là tinh
thần của lớp thanh niên quyết “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Tố Hữu). Phạm Tiến
Duật cũng là một nhà thơ - chiến sĩ có mặt trong đội ngũ trùng trùng điệp điệp ấy. Ông đã
sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính năm 1969, khi ông trực tiếp ngồi trên những
chiếc xe không kính “hở hông hốc” (lời tác giả) cùng đoàn xe tiến thẳng vào miềnNam qua
tuyến đường Trường Sơn.
=> Hai bài thơ đã phản ánh trung thành hiện thực chiến tranh của đất nước: khổ đau mà vĩ
đại, bi tráng mà hào hùng. Khẳng định chân lý bất biến của dân tộc: “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do!” (Hồ Chí Minh)
* Giai điệu về thời đại được phản ánh một cách chân thực, sinh động, hấp dẫn qua hai thi
phẩm
- Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
+ Giai điệu về thời đại được nhà thơ Chính Hữu khai thác từ hiện thực của cuộc chiến đấu
đầy khó khăn gian khổ, hi sinh của người lính trong buổi đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Hệ thống hình ảnh trong bài thơ từ hiện thực đó đi vào tác phẩm không hề
tô vẽ. Cũng nhờ vậy mà vẻ đẹp đồng chíđược tỏa sáng.
+ Đồng chí- họ là những người lính nông dân từ những vùng quê nghèo khó hội tụ về thành
đồng chíđồng đội, đồng chíhướng, đồng nhiệm vụ cầm súng bảo vệ độc lập, tự do cho dân
tộc. Buổi đầu xa lạ để rồi thành “tri kỉ”, thành “đồng chí”, “thương nhau tay nắm lấy bàn
tay” vượt lên tất cả.
+ Họ cùng chung cuộc sống gian nan, thiếu thốn: “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo
rách”,”quần vá”, “miệng cười buốt giá”, “chân không giầy”, “rừng hoang sương muối”.
+ Gian nan, thiếu thốn, hi sinh nhưng lí tưởng của người lính vô cùng cao đẹp. Đó là lí
………………………………………………………………………………………………………………….
tưởng chiến đấu bảo vệ đất nước. Vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất hào hoa của người lính
được nhà thơ thể hiện bằng hình ảnh nghệ thuật đầy sáng tạo: “Đầu súng trăng treo”. Bút
pháp lãng mạn bay bổng ở hình ảnh kết thúc của bài thơ để lại ấn tượng, dư ba trong tâm
hồn người đọc.
=> Hình ảnh người lính thể hiện lên chân thực, giản dị, gắn bó keo sơn trong mọi hoàn
cảnh. Vất vả, gian nan nhưng họ vẫn lạc quan, vẫn tin ở thắng lợi cuối cùng. Bài thơ Đồng
chí trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
+ Giai điệu về thời đại được nhà thơ khai thác từ hiện thực những chiếc xe không kính và
người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống
Mỹ. Giặc Mĩ bắn phá miền Bắc ác liệt với âm mưu hủy diệt, chặn đứng con đường huyết
mạch nối liền hai miền Nam - Bắc. Dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những chiếc xe vận
tải tiếp sức cho tiền tuyến đã bị biến dạng: không kính, không đèn, không mui… Song
chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi, những chiếc xe vẫn ngày đêm băng qua bom đạn tiến
thẳng ra mặt trận, đã trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, phản ánh đúng tính
chất khốc liệt của cuộc chiến. Hình ảnh thơ trần trụi nhưng lại là hình ảnh độc đáo, đầy
sáng tạo của nhà thơ. Nhờ đó mà bài thơ đã được lưu truyền rộng rãi trong công chúng,
được nhiều người ưa thích.
+ Song cái giai điệu về thời đại mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn ca hát, đó là vẻ đẹp hình
tượng người chiến sĩ lái xe. Với tư thế ung dung, tinh thần lạc quan, yêu đời, thái độ coi
thường hiểm nguy, thử thách, trẻ trung hồn nhiên, ấm áp tinh thần đồng đội, ý chí quyết
tâm giải phóng miền Nam của người lính trẻ, nhà thơ đã tạc nên chân dung người lính - tuổi
trẻ Việt Nam thời chống Mĩ: bất khuất, kiên cường, kiêu hùng và lãng mạn.
=> Bài thơ vừa mang thanh khí của thời đại, vừa mang tầm vóc lịch sử. Đó là tiếng nói của
cuộc sống hiện thực hào hùng, oanh liệt thời chống Mĩ. Nó là biểu tượng anh hùng tuyệt
vời về người lính Trường Sơn. Bài thơ góp phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên
thời đại Hồ Chí Minh gian khổ mà oanh liệt, “Vang tự hào giữa thế kỉ hai mươi” (Tố Hữu)
KB
* Đánh giá khái quát:
- Hai bài thơ là hai giai điệu minh chứng cho thực tế lịch sử; là bài ca ca ngợi về người lính
giúp thế hệ sau thấy được thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ gian khổ,
………………………………………………………………………………………………………………….
hi sinh nhưng rất anh hùng.
- Bằng tài năng, tâm huyết và sự sáng tạo, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã góp mặt vào
thơ ca kháng chiến hai thi phẩm - hai bài ca sống mãi với thời gian làm rung động lòng
người. Vẻ đẹp của nó đã chứng minh cho nhận định của Ra-xum Ga-đa-tôp là hoàn toàn
đúng đắn: “hát đúng giai điệu về thời đại của mình” và “miêu tả một cách trung thực bằng
hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo”

******************************************************

ĐỀ 5
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Môn: Ngữ Văn 9
Thời gian làm bài: 150 phút
(Không kể thời gian giao đề)

Câu 1 (4 điểm).
      Phát hiện và phân tích giá trị của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“Cái  cò... sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho đến mùa thu


trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho đến tháng năm
mẹ ta trải chiếu ta nằm đếm sao”
                                      (Trích: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,  Nguyễn Duy)
Câu 2:  (6,0 điểm).
Hãy chia sẻ suy nghĩ của em sau khi đọc câu chuyện dưới đây:
LẠNH
Sáu con người, do sự tình cờ của số phận, mắc kẹt vào cùng một cái hang rất tối và
lạnh. Mỗi người còn một que củi nhỏ trong khi đống lửa chính đang lụi dần.
………………………………………………………………………………………………………………….
Người phụ nữ đầu tiên định quẳng que củi vào lửa nhưng đột nhiên rụt tay lại. Bà
vừa nhìn thấy một khuôn mặt da đen trong nhóm người da trắng. Người thứ hai lướt qua
các bộ mặt quanh đống lửa, thấy một người trong số đó không đi chung nhà thờ với ông
ta. Vậy là thanh củi cũng bị thu về. Người thứ ba trầm ngâm trong một bộ quần áo nhàu
nát. Ông ta kéo áo lên tận cổ, nhìn người đối diện, nghĩ thầm: “Tại sao mình lại phải hi
sinh thanh củi để sưởi ấm cho con heo béo ị và giàu có kia?”. Người đàn ông giàu có lui
lại một chút, nhẩm tính: “Thanh củi trong tay, phải khó nhọc lắm mới kiếm được, tại sao
ta phải chia sẻ nó với tên khố rách áo ôm lười biếng đó?”. Ánh lửa bùng lên một lần cuối,
soi rõ khuôn mặt người da đen đang đanh lại, lộ ra những nét hằn thù: "Không, ta không
cho phép mình dùng thanh củi này sưởi ấm những gã da trắng!”. Chỉ còn lại người cuối
cùng trong nhóm. Nhìn những người khác trầm ngâm trong im lặng, anh ta tự nhủ: “Mình
sẽ cho thanh củi, nếu có ai đó ném phần của họ vào đống lửa trước”.
Cứ thế, đêm xuống dần. Sáu con người nhìn nhau căng thẳng, tay nắm chặt những
khúc củi. Đống lửa chỉ còn than đỏ rồi lụi tắt. Sáng hôm sau, khi những người cứu hộ tới
nơi, cả sáu đều đã chết cóng.

Câu 3:
Trong bài “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi có viết:
"Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được . Ta sẽ dừng tay
trên trang giấy đáng lẽ lật đi , và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc…”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào ?
Hãy chứng tỏ rằng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là “Một bài thơ hay” như thế?
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu                                        Nội dung cần đạt
1 Phát hiện và phân tích giá trị của các biện pháp tu từ
- Phép ẩn dụ: Hình ảnh cái cò, sung chát, đào chua- những sự vật quen thuộc trong đời
sống, trong ca dao xưa -  tượng trưng cho người phụ nữ, người mẹ  và bao nỗi gian truân
vất vả của cuộc đời.
- Phép nhân hoá: hồng, bưởi đánh đu - Sự vật trở nên sinh động, gần gũi; thể hiện niềm
yêu thích tự hào của tuổi thơ.
- Phép điệp từ ngữ
   + Từ  “mẹ - ta” được lặp lại tô đậm nỗi nhớ thương. “Ta” vừa là cái tôi của chính  nhà
thơ muốn giãi bày tâm sự vừa  là lời của số đông khi có sự đồng cảm.
   + Điệp ngữ “Bao giờ cho đến...” Nhấn mạnh  niềm khát khao thủa nhỏ và sự hoài
niệm thiết tha về những kí ức tuổi thơ đẹp đẽ đi cùng với người mẹ thân yêu của nhà
thơ.
- Nói quá: Ta đi trọn kiếp con người/ cũng không đi hết mấy lời mẹ ru: nhấn mạnh tình
mẹ thật bao la, sâu sắc. Trải qua trọn kiếp con người cũng không sao thấu hiểu hết tấm
………………………………………………………………………………………………………………….
lòng của mẹ qua những lời ru.
- Đánh giá khái quát: Việc sử dụng những biện pháp tu từ trên giúp cảm xúc của nhân
vật trữ tình được bộc bạch, dãi bày. Người đọc vừa cảm nhận được hình ảnh người mẹ
tần tảo yêu thương vừa hiểu tình cảm thương nhớ, kính yêu, sự hàm ơn, tiếc nuối khôn
nguôi của nhà thơ.
 

Câu Đáp án Điểm


I. Yêu cầu về kĩ năng: Hiểu được yêu cầu của đề ra. Tạo lập được một văn
bản nghị luận xã hội có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, lời văn trong sáng,
2 có cảm xúc và giọng điệu riêng. Trình bày đúng chính tả và ngữ pháp.
II. Yêu cầu kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau,
nhưng cần đạt những nội dung sau:
A.Mở bài: Giới thiệu và trích dẫn vấn đề nghị luận 0,25
B.Thân bài:
1. Từ câu chuyện Lạnh, thí sinh rút ra những vấn đề cần nghị luận:
- Con người sống ích kỉ, không chia sẻ với người khác, tâm hồn sẽ trở nên 0,5
giá lạnh, tàn nhẫn.
- Sự giá lạnh của tâm hồn có sức huỷ hoại ghê gớm đối với người khác và
0,5
với chính bản thân mình.
2. Bình luận về những vấn đề đã rút ra:
- Khẳng định câu chuyện ẩn chứa thông điệp sâu sắc, đúng đắn:
- Con người không muốn chia sẻ với người khác có nhiều lí do: Sự phân biệt 0,5
chủng tộc, tôn giáo, đẳng cấp xã hội, tính toán hơn thiệt nhưng tất cả đều bắt
nguồn từ lối sống ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân mình.
- Sự ích kỉ khiến tâm hồn con người mất đi niềm đồng cảm khiến họ không 0,5
thể chia sẻ, hi sinh, giúp đỡ người khác. Chính vì thế, con người sống gần
nhau mà vẫn cô độc, giá lạnh, tàn nhẫn.
- Sự ích kỉ dẫn đến những hậu quả khôn lường với người khác và với chính 0,5
mình vì quay lưng với người khác là đánh mất đi cơ hội nhận được sự chia
sẻ, giúp đỡ của chính mình trong những hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn.
………………………………………………………………………………………………………………….
* Thí sinh lấy dẫn chứng từ câu chuyện và trong cuộc sống để làm sáng tỏ
vấn đề đang bàn luận.
3 Bàn bạc mở rộng:
0,5
- Trong cuộc sống, có nhiều tấm lòng biết chia sẻ, yêu thương nhưng cũng
có không ít kẻ sống ích kỉ, vô cảm, tàn nhẫn cần bị phê phán.
- Rút ra bài học: Đừng sống lạnh lùng, ích kỉ; bỏ qua những khác biệt, mở 0,5
rộng tấm lòng yêu thương, chia sẻ để cuộc sống con người trở nên gần gũi,
ấm áp.
Kết bài: - Khắng định vấn đề nghị luận. 0,25
- Đưa ra lời kêu gọi hướng tới mọi ngưòi.
CÂU 3
A.Mở bài
Từ thuở thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh
những đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta , có thể
nói chưa bao giờ tổng kết được những định nghĩa về thơ . Có người cho thơ là "
tơ lơ mơ" , "thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt" , thậm chí
"thơ là một cái gì mà người ta không định nghĩa được". Phải chăng vì thế mà
thơ thuộc một cõi huyền nhiệm , mông lung xa vời vợi ? Không , thơ ca chính
bắt nguồn từ những lần ta vô tình mở lướt qua một bài thơ rồi ta nhận thấy như
có mình trong đó . Và phải chăng thơ ở đây như trong ý kiến của Nguyễn Đình
Thi " mỗi bài thơ hay không bao bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được .
ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi , và đọc lại bài thơ . tất cả tâm hồn
chúng ta đọc không phải chỉ có tri thức . cho đến 1 câu thơ kia người đọc nghe
thì thầm mãi trong lòng , mắt không rời khỏi trang giấy ". Bài thơ khiến cho tôi
mắt không rời trang giấy , tim như hòa cùng nhịp thở của ngày ấy - những năm
tháng kháng chiến chống Pháp ác liệt trong hơi thở và xúc cảm từ "Đồng chí"
của Chính Hữu
B.Thân bài 
1. Nhận xét chung về bài thơ
Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã
gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp
điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở
thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của
một nhà thơ cách mạngBài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt
Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong thời kháng
chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in vào
báo Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở
thành tải sản chung của mọi người.
2.Phân tích sâu bài thơ
1. Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai "gương mặt"
người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một
………………………………………………………………………………………………………………….
tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ
sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn
nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ
mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh,
đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau
này.
2. Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ"
rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi
rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những
ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến
đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc
lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý
hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri
kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ
bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri kỉ" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết
mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí ! Câu thơ 7, 8 từ đột
ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí !" diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi
trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí
cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì
vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử
dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó
thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ,
tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể
quên:
"Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc..."
("Chiều mưa đường số 5" - Thâm Tâm)
3. Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng chung một nỗi nhớ: nhớ
ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình
ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong
ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được
………………………………………………………………………………………………………………….
Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía.
Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng
hình anh trai cày ra trận ? Hay "người ra lính" vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng
quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tình yêu quê hương đã
góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính
vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy,
trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?"
4. Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực
kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã
quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,...
nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những
ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí,
thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,... Người lính ra trận "áo vải chân
không đi lùng giặc đánh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng,
"Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lanh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hồi.
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày..."
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử
thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như
một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4
tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc
quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê,
cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình
thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm
lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau,
truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và
làm nên thắng trận".
Đến cuối bài thơ , tim ta như ngừng lại trước tình cảm cao đẹp của những người
chiến sĩ , ta mới hiểu thêm biết bao điều về chiến tranh. Chiến tranh không hề bi
lụy , không hề đau thương bởi những nhà thơ - người chiến sĩ như Chính Hữu
đã khắc họa rõ nét những điều thật đẹp mà không nơi nào có ngoài những chiến
trường , những mặt trận ác liệt
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến đấu.
………………………………………………………………………………………………………………….
Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là "rừng
hoang sương muối", một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng
chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ
vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên
chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".
Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì
có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng. Về khuya trăng tà, trăng lơ
lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ
đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh.
"Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian
khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ
ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một
sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính
Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc,
trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương
mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư
thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra
đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó
cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật
chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi
nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh - người lính binh nhì buổi
đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm
tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo
nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và
màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
. C. Kết bài 
Ý kiến về thơ của Nguyễn Đình Thi quả thật xác đáng cho ta suy nghĩ và nghiền
ngẫm . Thơ đâu phải quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt , Thơ ca luôn
nồng nàn ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người
cầm bút . Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời và len vào tâm hồn con người
những mạch ngầm cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi . "Đồng chí " là một
bài thơ như thế , Chính Hữu đã biết cách thổi vào thơ ca một cái gì đó man
mác , nhẹ dịu với những vần thơ kháng chiến mở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm
cho dòng thơ văn cách mạng . Tôi yêu những vần thơ ấy bởi tôi đã nhận ra được
hương vị của cuộc đời , " chất người " ủ kín bên trong và tôi sẽ đọc đi ,đọc
lại ..... rồi lại dừng lại để chiêm nghiệm. Thật đáng yêu biết bao những vần thơ
như thế

**************************************************
*****************************

TÀI LIỆU THAM KHẢO ÔN


………………………………………………………………………………………………………………….
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG- TRUYỆN KIỀU
Nguyễn Dữ

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là
cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ
hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ
thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp
thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
- Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
- Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” ( áng văn hay ngàn đời ).
- Gồm 20 truyện, đề tài phong phú. - Nhân vật:
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên
bình , hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy
họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với
thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách
thanh cao.
b. Văn bản:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện
cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.
- So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương”
phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất
của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và
xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà
phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên
tường mà bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ
đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính
hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương
chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã
muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
-Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị
nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
………………………………………………………………………………………………………………….
-Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ
khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ
chồng:
-Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn
khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình
cảm gia đình đầm ấm, yên vui.Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng
mực!
-Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đấtnước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải
đầu quân ra trận ở biên ải xaxôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy,
dặn dò chồng nhữnglời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dámmong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ ấy, chứng tỏ nàng
luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi côngdanh phù phiếm. Nàng cảm
thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phảichịu đựng: “Chỉ e việc quân khó
liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩnlút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre
chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo
lắng”. Qua lời nói dịu dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn
trăng soi thành cũ, lạisửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâmtình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh
hồngbay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịudàng.
Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biếtđợi chờ để yên
lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
-Khi xa chồng,VũNương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm
uhlòng thủychung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa
chưahề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn
đầyvườn,mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.Nàng
vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngàyphải đối mặt
với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của VũNương cũng là tâm trạng
chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạcxưa nay:
“Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
(Chinh phụ ngâm_Đoàn Thị Điểm)
=> Thể hiện tâmtrạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ
Nương, vừa cangợi tấmlòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
-Khi hạnh phúc giađình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người
chồng trútcơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng
đãviện đến cảthân phận và tấm lòng củamình đểthuyết phục chồng “Thiếp vốn conkẻkhó
được nương tựa nhà giàu.....cáchbiệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún
nhường tha thiết đó chothấy thái độ trân trọng chồng, trântrọng gia đình nhà chồng, niềm
tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của VũNương.
………………………………………………………………………………………………………………….
-Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sungsướng nàng vẫn không
nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia
đình nàng đãứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặnglời thề sống chết với Linh Phi
nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng controng giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng
chồng. Rõ ràng trong trái tim ngườiphụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu
thương và lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo vớimẹ chồng, một người mẹ hiền đầy
tình yêu thươngcon.
-Trong banămchồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ
để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
-Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo.Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng
phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những
lời khôn khéođể khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớthương con. Đến khi bà mất, nàng đã
hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọnghệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy
quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những
lời yêu thương, độngviên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc
đức giốngdòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con
đãchẳng phụ mẹ".
- con thơ nànghết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé
Đản, mộtmình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng
việccon cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuấtphát từ
tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tìnhcảm của người
cha.
=>Nguyễn Dữ đãdành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang
truyện, từ đókhắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất
tốt đẹp.

b. Số phận oannghiệt, bất hạnh:


* Là nạn nhân củachế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và
tự do.
- Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương làthua thiệt về vị thế. Cuộc hôn
nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần khôngbình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ
khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độkhi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng
vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bứcgiàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và
cũng là cái thế khiến Trương Sinhcó thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.
* Là nạn nhân củachiến tranh phi nghĩa:
- Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân củachế độ phụ quyền phong
kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến , củacuộc nội chiến huynh đệ tương
tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúcuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được
bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mìnhVũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra
đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh váctrọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ
già, chăm sóc con thơ, trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng. - Chiến tranh đã
làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầmtrở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng
………………………………………………………………………………………………………………….
là ngòi nổ cho thói hay ghen, đanghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết
oan uổng của VũNương.
* Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.
- Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan vàđối xử bất công, tàn
nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinhđã nghi oan chovợ, mắng nhiếc, đánh
đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
- Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị,bôi bẩn bởi chính người
chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oanức, thoát khỏi cuộc đời
đầy đau khổ, oan nghiệt.
* Cái kết thúctưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong
thân phậnVũ Nương.
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơước của tác giả về một kết thúc
tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khaomột cuộc sống công bằng nới cái thiện cái
đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tínhchất bi kịch của tác phẩm. Vũ
Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sựhiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh
ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đónàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ
chồng con cái vẫn âm dương đôingả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được
sum họp bên chồng bên concuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và
lời từ biệt củanàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau
nàykhông có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lạichốn
nhân gian được nữa”
=>Tuy có nhữngphẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận
cay đắng,oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bấtcông
phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
=> Xây dựng hìnhtượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn
đáng quý củangười phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận
bấthạnh của họvà cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chàđạp, rẻ
rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cầnkhai thác chân
dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo củangòi bút Nguyễn Dữ.
*Những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà Vũ Nương phải chịu?
-Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hếtlà lời nói ngây thơ của con trẻ
nhưng sau đó là là tính ghen tuông của ngườichồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây
thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo đểhăt hủi, ruồng rẫy cho
hả dạ. (Trực tiếp)
-Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bảntính anh ta vốn vậy và còn
vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả mọt chế độnam quyền trọng nam khinh nữ. Lễ
giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ôngquyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt
là với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ
với chiếc bánh trôi nước “rắn nátmặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì
đàn ông quả thực làthượng đế có thể "nặn" ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ.
………………………………………………………………………………………………………………….
TrươngSinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay
cảkhi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
-Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bikịch Vũ Nương đó là chiến
tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gâynên cảnh sinh li và sau đó góp phần
tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnhchiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống
chia cách để rồi dẫn đến bikịch oan khuất trên.(Gián tiếp)
-Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVIkhi chiến tranh phi nghĩa giữa
các tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc, Lê - Trịnhkéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh
sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tốcáo của tác phẩm rất sâu sắc.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ
Nương, được trở về dương thế.
- Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan chonàng ở bến Hoàng
Giang.
b. Ý nghĩa:
- Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phongphú.
- Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, mộtngười dù đã ở thế giới
khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổtiên, khao khát được phục hồi
danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngànđời của nhân dân ta về
sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oankhuất, cuối cùng sẽ được minh oan.
- Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảmcủa người phụ nữ trong
xã hội phong kiến.
3. Ý nghĩa chi tiếtcái bóng:
a. Cách kể chuyện:
- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệthuật độc đáo làm cho
câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút lànó, mà mở nút
cũng là nó.
b. Góp phần thểhiện tính cách nhân vật:
- Bé Đản ngây thơ
- Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
- Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phầntố cáo xã hội phong kiến xung tàn, khiến hạnh phúc của người
phụ nữ hết sứcmong manh.
III. Tổng kết:
1.Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của VũNương, “Chuyện người con
gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đốivới số phận oan nghiệt của người phụ nữ
Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồngthời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
………………………………………………………………………………………………………………….
2.Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xâydựng truyện, miêu tả nhân
vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
********************************
1.VŨ NƯƠNG - CUỘC SỐNG VÀ CÁI CHẾT
a.VŨ NƯƠNG, BI KỊCH SỐNG KHÔNG ĐƯỢC LỰA CHỌN
Câu chuyện bắt đầu từ cuộc hôn nhân của Vũ Thị Thiết, “người con gái quê ở Nam
Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng, có chàng Trương
Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”.
Như vậy là hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh (cũng như bao nhiêu cặp vợ chồng
khác trong xã hội phong kiến) là không xuất phát từ tình yêu. Với Vũ Nương, nàng đã
được/bị cha mẹ gả bán. Chớ trách nàng ham giàu, cũng đừng trách nàng sống dựa dẫm,
bởi “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, nàng làm gì được có ý kiến, lại càng không được
quyết định việc hôn nhân của mình.
Đó là bi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho
giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được
chọn chồng của người phụ nữ.
Dù hôn nhân không phải trên cơ sở tình yêu, người chồng Trương Sinh đã “không có học”
lại “có tính đa nghi”, nhưng là người “thùy mị, nết na”, ắt nàng hiểu được bổn phận làm
dâu, làm vợ, nên đã giữ gìn khuôn phép để không từng lúc nào vợ chồng phải đến thất
hòa.
Phụ nữ ngày xưa sống theo bổn phận. Vũ Nương đã cố gắng hết sức để làm tròn bổn phận
đó.
Bổn phận hàng đầu của người con (mà dâu cũng là con), đó là hiếu thảo. Hoàn cảnh đã
thử thách và minh chứng lòng hiếu của nàng. Chồng đi lính, Vũ Nương dẫu một mình
nuôi con nhỏ nhưng đã hết lòng khuyên lơn, chăm sóc, thuốc thang, phụng dưỡng mẹ
chồng khi bà ấy đau yếu; và khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, ma chay tế lễ chu
đáo như đối với cha mẹ đẻ của mình. Mẹ chồng chứng kiến và trời xanh kia chứng giám
cho lòng hiếu của nàng. Chừng đó đã đủ cho nàng thành gương sáng của đạo hiếu.
Bổn phận hàng đầu của người vợ là chung thủy, tiết hạnh. Hoàn cảnh đã thử thách và
minh chứng lòng chung thủy, tiết hạnh của nàng. Chồng nàng đi lính gần 3 năm. Nàng
đang ở tuổi xuân, vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối”, khi chàng Trương ra đi
nàng đang mang thai sắp ngày sinh nở, những ngày vắng chồng hẳn vô cùng khao khát
tình chồng vợ. Nhưng nàng đã “giữ gìn một tiết”, “ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Không chỉ sống tròn bổn phận, mà nàng còn thực sự yêu thương chồng. Ngay trong buổi
tiễn đưa chồng, dù chàng Trương chưa xa, mới chỉ sắp xa mà nàng đã nói những lời tràn
đầy yêu thương, nhung nhớ khiến cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Trong những đêm
xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng
thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Chỉ là để trả lời câu
hỏi ngây thơ của con, cũng để cho vơi nỗi nhớ, chứ đâu phải nàng sống ảo như ai đó đã
phê phán nàng. Trò trỏ bóng trên vách này, xưa kia các nhà dùng đèn đầu (khi chưa có
điện) vẫn thường làm.
Nàng làm sao lường trước được hậu quả giáng xuống nàng và gia đình bé nhỏ của nàng
do trò đùa đó. Chỉ có chúng ta, người đời sau, được đọc câu chuyện về nàng mới biết trò
đùa đó đã là nguyên nhân gián tiếp đẩy nàng đến chỗ chết.
b.VŨ NƯƠNG, BI KỊCH CHẾT DO LỰA CHỌN
Ai đẩy nàng đến chỗ chết?
………………………………………………………………………………………………………………….
Trương Sinh, bé Đản hay chế độ phong kiến nam quyền bất công? Không, nếu có phiên
tòa xét xử thì Trương Sinh vô can, bé Đản lại càng không, còn chế độ thì không thể bởi nó
không có hình hài cụ thể.
Chúng ta đều biết nàng tự giết cuộc đời mình, nàng tự chọn cái chết. Và đó là thứ đầu tiên
và có lẽ duy nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình nàng được tự chọn.
Đành rằng, cái chết đó, có lẽ khiến nhiều người thương cảm (nhân dân đã lập miếu thờ
nàng, ông vua thi sĩ Lê Thánh Tông khi qua đây đã làm thơ viếng nàng), và có người chê
trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm.
Khác với truyện cổ tích Vợ chàng Trương, khi bị chồng la mắng, đánh và đuổi đi, Vũ
Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang gieo mình xuống sông tự vẫn; ở Chuyện
người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã để cho nàng nói mấy lời đau buồn có ý nghĩa
từ biệt, tắm gội chay sạch rồi mới ra bến Hoàng Giang. Như vậy là nàng đến với cái chết
không phải do nóng giận mất khôn mà đó là sự lựa chọn của nàng sau khi đã suy nghĩ kỹ.
Bởi, nàng đã không có lựa chọn nào khác.
Nàng thanh minh bằng những lời tha thiết, Trương Sinh đã không tin. “Họ hàng, làng xóm
bênh vực, biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả”. Mẹ chồng, người hiểu và biết ơn
nàng thì đã chết. Con trai nàng, đau đớn thay, sự thật thà và ngây thơ của nó lại chính là
nguyên do gây nên cơn ghen mà bất cứ người đàn ông xa nhà nào cũng có thể mắc phải
chứ không chỉ Trương Sinh. Đáng tiếc là “nàng đã hỏi chuyện do ai nói thì Trương Sinh
đã giấu không kể lời con nói, chỉ lấy chuyện bóng gió mắng nhiếc nàng”.
Nàng nương tựa chàng Trương, như lời nàng nói lúc từ biệt là vì thú vui nghi gia nghi
thất. Nàng coi trọng con người Trương Sinh nên dặn chàng tránh mũi tên hòn đạn, cũng
không mong mang hai chữ phong hầu mặc áo gấm trở về, mà chỉ cần hai chữ bình yên.
Vậy mà, giờ đây, ngay ngày đầu chàng Trương trở về, nàng thấy cuộc hôn nhân mà nàng
đã cố gắng đến mức cao nhất để gìn giữ đã tan vỡ, không còn cách cứu vãn. Chồng nàng
đã mắng chửi và đánh rồi đuổi nàng đi. Nàng đi đâu? Không thể trở về nhà cha mẹ bởi
thời xưa quan niệm con gái đã lấy chồng bị chồng đuổi mà trở về là mang tiếng nhục cho
gia đình. Nàng bị chồng cho là thất tiết, đó là tội lớn nhất của người đàn bà, người làm vợ.
Thanh danh của nàng đã không còn. Vũ Nương đành lựa chọn, một sự lựa chọn đau đớn,
đó là nàng phải chết để bày tỏ nỗi oan khiên, để minh chứng sự trong sạch của mình.
Bản năng con người là ham sống. Hẳn Vũ Nương đã rất tha thiết với cuộc sống. Nàng
đang ở tuổi thanh xuân, lại càng không muốn chết. Khi lựa chọn chết chứ không tiếp tục
sống trong sự nghi ngờ, phải mang tiếng là thất tiết, chứng tỏ nàng coi danh dự, phẩm giá
cao hơn cả sự sống. Vì danh dự nàng hy sinh sự sống mà mỗi người chỉ có được một lần.
Câu chuyện cổ tích Vợ chàng Trương kết thúc ngay khi cuộc sống của nàng kết thúc.
Nhưng với Chuyện người con gái Nam Xương, nhà văn Nguyễn Dữ đã sáng tạo tiếp. Ứng
với lời nguyền, Vũ Nương khi gieo mình xuống dòng Hoàng Giang đã không bị làm mồi
cho cá tôm mà đã được Linh Phi - vợ vua Nam Hải cứu đưa vào động, thành cung nữ.
Phần sáng tạo có tính hoang đường ấy ngoài việc tăng hấp dẫn cho câu chuyện, còn
chuyển tải được ý đồ của nhà văn về cái gọi là kết thúc có hậu. Dẫu sao thì nàng đã được
minh oan, không chỉ riêng chàng Trương thấu nỗi oan của vợ, mà quan trọng hơn là mọi
người cũng biết được điều đó qua việc Trương Sinh lập đàn tràng suốt ba ngày ba đêm
bên bến Hoàng Giang.
Thực ra đó là một lý do quan trọng để nàng còn tiếp tục “sống” ở dưới thủy cung. Nỗi oan
chưa được giải, nàng chưa “chết” được. Cho nên khi gặp Phan Lang, nàng nhắn gửi với
chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Oan được giải, nàng bấy giờ mới thanh thản
sang cõi khác.
………………………………………………………………………………………………………………….
Việc Vũ Nương phải chết giữa tuổi thanh xuân mà nguyên nhân từ chuyện ghen tuông, từ
bi kịch gia đình thực ra thời nào cũng có. Song với Chuyện người con gái Nam Xương và
truyện nữa trong Truyền kỳ mạn lục là Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, câu chuyện kể về
nàng Nhị Khanh bị chồng gá bạc nhục nhã tìm đến cái chết để giải thoát, Nguyễn Dữ
muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo về thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ
thời ông sống phải chịu nhiều bất công, phải chịu sự nghiệt ngã của số phận.
Đành rằng cuộc sống là không có chữ “nếu”, nhưng nếu như Vũ Thị Thiết và Nhị Khanh
được chồng tôn trọng, lắng nghe thì số phận của họ đã khác. Xã hội phong kiến đã cho
người chồng có quyền đánh chửi vợ hay lấy vợ mình gá bạc mà không cần hỏi ý kiến đã
chứng tỏ xã hội bất bình đẳng nghiêm trọng. Còn bất bình đẳng, bất công thì còn nhiều
phụ nữ hoặc phải âm thầm chịu đựng, hoặc đẩy họ đến bế tắc cùng đường đành phải chọn
cái chết bi thảm.
Có lẽ vì thế mà trên con đường đến với xã hội văn minh, thế kỷ XXI rồi, cách thời
Nguyễn Dữ sống 300 năm mà thế giới mới đây vẫn lấy ngày 25/11 làm Ngày chống bạo
lực với phụ nữ.
Vì thế nên đền thờ Vũ Nương bên bến Hoàng Giang vẫn nghi ngút tỏa khói hương và câu
chuyện về người thiếu phụ Nam Xương vẫn còn nhiều ý nghĩa.
*********************************************************
Đề bài: Cảm nhận chi tiết chiếc bóng trên vách trong tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” của tác giả Nguyễn Dữ
Bài làm
Chiếc bóng trên vách trong truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của tác giả
Nguyễn Dữ là một chi tiết đặc sắc, gần như mọi tình huống truyện đều xoay quanh chi tiết
này. Lần đầu cái bóng xuất hiện gián tiếp qua lời kể của bé Đản trong chuyến đi thăm mộ
bà nôi cùng với Trương Sinh, cái bóng đã nhóm lửa cho ngọn lửa ghen tuông bùng cháy
dữ dội trong người chàng. Lần thứ hai cái bóng xuất hiện qua lời nói và tình huống cụ thể
của đứa con khi Vũ nương đã chết. Giấu chi tiết này xuống phần mở nút thắt cho tác
phẩm, tác giả đã gây bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc cũng như khiến truyện hấp dẫn
và cuốn hút hơn, đồng thời nó làm nổi bật tính cách con người Trương sinh. Chi tiết ấy
xảy ra khi Vũ Nương đã chết, sự đã rồi, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm và chính lúc
này Trương Sinh đã lộ hết bản chất vũ phu, độc đoán, gia trưởng của mình. Cái bóng còn
thể hiện sự cô độc, buồn tủi của người vợ trẻ xa chồng, người mẹ yêu thương con, mong
con có một tuổi thơ êm ấm và rồi cũng vừa cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Nó thể
hiện một khát khao sum họp sau nhiều năm xa cách, đau thương hơn đó lại là một trò đùa
trong thương nhớ, một lời nói dối đầy thiện chí và bất ngờ thành nỗi oan muôn thuở. Dù
chiếc bóng gây nên kì oan cho nàng nhưng rồi cũng chính cái bóng ấy đã giải oan, thanh
minh sự trong trắng đức hạnh của người con gái kia, ngoài ra nó còn ẩn dụ cho số phận
mong manh trong xã hội phong kiến. Từ đó chiếc bóng trên vách là một bài học cho
những người đàn ông có tính ghen tuông bóng gió và khi nhận ra thì đã quá muộn màng,
đồng thời nó cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm cho người đọc là phải biết tin
yêu, vị tha đừng để cái bóng ghen tuông làm mờ lí trí! Chính vì vậy, tác phẩm ấy đã được
đánh giá là một áng thiên cổ kì bút quả là không sai!

***************************************************
………………………………………………………………………………………………………………….
Mời quý thầy cô tham gia nhóm: Tài liệu ôn HSG ngữ văn 6.7.8.9. để tải tài liệu cho tiện a
Lấy trọn bộ vui lòng liên hệ qua zalo hoăc mesenger 0988 126 458
(Trọn bộ: bộ đề chia theo từng văn bản, chủ đề 620trang, TL ôn 550 trang kèm bộ đề đọc hiểu ngoài CT 90 đề 150 trang)
(Đề đọc hiểu ngoài chương trình tham khảo trang 81-91 nhé thầy cô 90 đề 150 trang)
PHẦN 1: ÔN KIẾN THỨC
CHUYÊN ĐỀ THƠ HIỆN ĐẠI
ÔN TẬP VĂN BẢN: ĐỒNG CHÍ( Chính Hữu)
Nhà thơ Chính Hữu tâm sự về bài thơ “Đồng chí”
MỘT VÀI KỈ NIỆM NHỎ VỀ BÀI THƠ "ĐỔNG CHÍ"
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và
hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy
kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô
cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu
không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có
chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi
cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ.
Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại
điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo
hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.
Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá
là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài
thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có
một chỗ dựa dườngnhưlàduy nhấtđếtồntại, để
chiếnđấulàtìnhđồngchí,tìnhđồngđội.Đồngchíở đây là tình đồng đội, không có đồng
đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã
chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn
nông dân của mình.Bài thơ viết có đối tượng.Tôi hiểu và quý
mếnngườiđồngđộicủatôinêntiếngnóithơcagiảndịvàchânthật.TuynhiênĐồngchí
không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ,
tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm
súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của
Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến,
tuổi trẻnhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phán ánh một mặt khía cạnh của tâm
trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi.Bài thơ được làm
nhanh.Tôi làm để tặng bạn.Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng
không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá.Cái tôi trong
bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của
tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh
tật... bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn
bó trong tình đồng đội.Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên
vềkhaithácđờisốngnộitâm,tìnhcảm,ítcónhữngchuyệnđùngđoàng, chiếnđấu.
Tôi làm bài Đồng chí cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng
gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.Bài thơ có những
hình ảnh cô đúc như đầu súng trăng treo. Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu
………………………………………………………………………………………………………………….
súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng
trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có
thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn.Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn.
Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng.Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ
có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện
với nhau tạo ra hình ảnh "đầu súng trăng treo". Lúc đầu tôi viết là "đầu súng mảnh
trăng treo" sau đó bớt đi một chữ. "Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ
này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát
ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm
vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi
súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người
bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc
rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối.Sương muối làm buốt tê da như
những mũi kimchâm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả
những gian khố của đời lính trong giai đoạn này thật khó kế hết nhưngchúng tôi vẫn
vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quần ngũ. Cho đến
hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi
hồi.(Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội,1994)

I. Kiến thức cơ bản


1. Tác - Chính Hữu ( 1926 – 2007), tên khai sinh là Trình Đình Đắc, quê ở huyện
giả Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt
động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- Chính Hữu làm thơ từ năm 1947, thành công chủ yếu về đề tài người lính
và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình
đồng chí, đồng đội, tình quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu
phương… Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ
và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- Tác phẩm chính : Đầu súng trăng treo ( 1966), Thơ Chính Hữu ( 1977),
Tuyền tập Chính Hữu 1988).
- Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật năm 2000.
a) Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng
2. Văn đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947)
bản đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc.
Như vậy, bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc
sâu sa , mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc.
- Bài thơ được in trong tập Đầu súng trăng treo ( 1966)
b, Phương thức biểu đat: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm. (biểu
cảm là chủ yếu).
c, Bố cục của văn bản.
+ Phần 1: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội
+ Phần 2: 10 câu tiếp: Những biểu niện của tình đồng chí đồng đội
+ Phần 3: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội
………………………………………………………………………………………………………………….
d, Thể thơ: Tự do
e) Nghệ thuật
- Bài thơ viết theo thể thơ tự do.
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết chân thực.
- Hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng.
- Hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
g) Nội dung :
-Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những
người lính Cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản
dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp.
- Niềm tự hào về thế hệ cha anh, khơi gợi tinh thần yêu nước sâu ắc bao thế
hệ.
3, Ý - Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.
nghĩa - Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình
nhan cảm mới, tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng
đề văn cách mạng kháng chiến
bản - Đồng chí còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể
cách mạng, của những người lính, ngời công nhân, người cán bộ từ sau cách
mạng.
-> Vì vậy, đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu
sắc tình đồng đội.

Định hướng GVtiếp cận bài thơ


Cơ sở hình thành nên tình đồng chí (Đồng chí là cùng gia cấp, cùng lí tưởng) –
Trước hết, tình đông chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo
khó:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Hai câu thơ giới thiệu về quê hương của những người lính. Anh và tôi đều là những người
lính xuất thân từ nông dân, có lẽ vì thế mà mối quan tâm hàng đầu của họ là đất đai, giới
thiệu về mình là giới thiệu về đồng đất quê mình. Nước mặn đồng chua là vùng ven biển,
đất khó làm ăn; đất cày lên sỏi đá là vùng đồi núi trung du, đất khó canh tác. Họ đều
chung cái nghèo, đó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính. Chính điều đó
khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở
nên thân quen với nhau.
– Tình đồng chí còn được nảy sinh từ sự cùng chung lí tưởng, sát cánh chiến đấu vì
độc lập, tự do của Tổ quốc: Súng bên súng, đầu sát bên đầu Hình ảnh thơ có sự sóng đôi,
gợi nên tình gắn bó của những người chung một đội ngũ, chung lí tưởng cao cả.
– Tình đồng chí, đồng đội đã nảy nở và ngày càng gắn bó trong cuộc sống, chiến đấu
biết bao gian khổ của người lính: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Câu thơ đầy ắp kỉ
niệm và ấm áp tình thân hữu – tình tri kỉ. Những hình ảnh thơ ở đây vừa cụ thể, sinh
động, vừa mang ý nghĩa khái quát gợi liên tưởng sâu xa.
– Từ sự sóng đôi của “anh” và “tôi” trong từng dòng thơ đến sự gần gũi “anh với tôi”
trong một dòng thơ và đến thành một đôi nhưng “đôi người xa lạ” rồi mới thành “đôi tri
kỉ” – đôi bạn trí cốt, hiểu nhau sâu sắc và cao hơn nữa là “Đồng chí!”. Từ rời rạc, riêng rẻ,
………………………………………………………………………………………………………………….
dần nhập thành chung, thành một, khăng khít, keo sơn, khó tách rời. Câu thơ thứ bảy chỉ
gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm than tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha,
xúc động vừa như một phát hiện, một kết luận, vừa như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ,
làm nổi rõ một tất yếu: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của
nhau và mở ra ý tiếp – đồng chí còn như thế nào nữa. Những biểu hiện cao đẹp của tình
đồng chí (Đồng chí là thấu hiểu nhau, là đồng cam cộng khổ)
– Đồng chí, đó là sự cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín
của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Ba câu thơ chỉ nói về “anh”, về bạn bởi vì họ cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, đó
cũng là tình tri kỉ, hiểu bạn như hiểu mình. Người lính ra đi chiến đấu để lại những gì quý
giá, thân thiết nhất nơi làng quê (ruộng nương, gian nhà). “Mặc kệ” là quyết ra đi, mang
dáng dấp trượng phu, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương. Hình ảnh “gian nhà
không” đầy gợi cảm, vừa gợi cái nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cái trống trải trong lòng
người ở lại khi người đàn ông ra trận. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống để ra đi, đó
là một sự hi sinh. Hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu
phương là tình tri kỉ. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là một cách nói tế nhị và
giàu sức gợi, vừa là nhân hóa vừa là hoán dụ. Câu thơ nói về quê hương nhớ người lính
mà thực ra là người lính nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết. Chỉ nói ai khác nhớ,
đó cũng là cách tự vượt lên mình, nén tình riêng vì sự nghiệp chung.
– Gắn bó với nhau trong đời thường, người lính càng gắn bó với nhau trong chiến
đấu. Chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm để cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời
người lính với biết bao gian khổ: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng
trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân
không  giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Những người lính cùng chịu bệnh tật –
những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ
đội ta những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ nhìn thấu và thương nhau từ
những chi tiết nhỏ của đời sống. Những cặp câu thơ sóng đôi, đối xứng nhau (từng cặp
hoặc trong từng câu) góp phần diễn tả sự sẻ chia, giống nhau trong mọi cảnh ngộ của
người lính. Chữ “anh” và chữ “tôi” đến đây lại cùng xuất hiện, để cùng gánh vác, sẻ
chia,không ai giành lấy cho mình sự ưu ái hơn. Tình đồng chí cho họ sức mạnh để vượt
lên buốt giá – “miệng cười buốt giá” và ấm áp giữa buốt giá: “Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay”, nắm lấy bàn tay nhau để ấm đôi bàn chân, để vượt lên gian khó. Những bàn tay
như biết nói. Họ gắn bó với nhau để có thêm sức mạnh, niềm tin, hướng tới lí tưởng cao
đẹp. Và đó là tình gắn bó sâu dày suốt trường kì kháng chiến. Biểu hiện cao đẹp nhất của
tình đồng chí (Đồng chí là cùng chung chiến hào) Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là
đánh giặc, vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu
chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.
Tình đồng chí đã được tôi luyện trong thử thách gian lao và đây là thử thách lớn nhất.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ như dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí – trong hoàn cảnh
khắc nghiệt, đêm, rừng hoang, sương muối, những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới” – tạo nên tư thế “thành đồng vách sắt” trước quân thù, làm mờ đi cái gian khổ, ác
………………………………………………………………………………………………………………….
liệt của cuộc chiến đấu. Hình ảnh họ tượng hình lại trong chi tiết bất ngờ, độc đáo: “Đầu
súng trăng treo”. Câu thơ không trực tiếp nói về những người đồng chí mà vẫn hiển hiện
tình đồng chí. Rất thực mà cũng rất lãng mạn. Trăng trôi trên nền trời, nhìn lên, trăng như
treo đầu ngọn súng. Hình ảnh này có nguồn gốc thực tế. Trăng trôi trên nền trời, đến thời
điểm nào đó, nhìn trăng lên, trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp 2/2 gợi sự sóng đôi
và như gợi sự bát ngát, lơ lửng chứ không cột chặt. Súng và trăng cũng là một cặp đồng
chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia. Tình đồng chí khiến người lính vẫn bình thản và
lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, khiến học thấy cuộc đời vẫn đẹp đẽ, thơ mộng ngay
giữa nguy hiểm, gian lao, khiến họ có sức manh trong tư thế, có sự đằm thắm trong tâm
hồn tình cảm.
Hình ảnh thơ ở đây giàu sức khái quát , gợi nhiều liên tưởng. Súng: hình ảnh của chiến
tranh, khói lửa; trăng: hình ảnh của thiên  nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa
hợp giữa súng và trăng toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tính đồng chí của họ, vừa
nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống chiến đấu. Người lính cầm súng là đẻ bảo vệ độc
lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Súng và trăng, thực và mộng, cứng rắn và dịu hiền , chiến
sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ tình,…Đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời
người lính cách mạng. Xa hơn, có thể xem đó là biểu tượng của thơ ca kháng chiến, nền
thơ kết hợp chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh người lính cách mạng trong
bài thơ: Qua bài thơ về tình đồng chí hiện lên vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính
cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ này là bức chân dung  đẹp về người lính
cụ Hồ.
– Đó là những người lính xuất thân từ nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo khó trên
khắp mọi miền đất nước. Họ đã gác lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê để
ra đi chiến đấu nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu.
– Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sót run người, trang phục
phong phanh giữa mùa đông buốt giá (áo rách, quần vá, chân không  giày). Những gian
lao, thiếu thốn càng làm sáng lên nụ cười của họ (miệng cười buốt giá).
– Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết. Tình đồng chí sưởi ấm
lòng người chiến sĩ, tiếp cho họ sức mạnh, vượt lên tất cả, chiến đấu và chiến thắng. Hình
ảnh người lính và tình đồng chí của họ kết tinh và tỏa sáng trong đoạn cuối bài thơ. Tình
đồng chí xuất phát từ tình yêu nước và là cội nguồn của chiến thắng, kết tinh những tình
cảm xã hội cao đẹp, làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ. Đó cũng là truyền thống cao
đẹp của quân đội ta.
Cảm nhận bài thơ Đồng chí từ nhiều góc nhìn
Ý kiến của Nguyễn Đức Quyền (…) Câu thơ hai chữ Đồng chí Gần như đứng giữa bài
thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong, nửa trên là một mảng quy nạp (như thế
này là đồng chí), nửa dưới là một diễn dịch (đồng chí còn là như thế này nữa) một kết cấu
chính luận cho một bài thơ trữ tình lạ. Chủ đề dồng chí lại hiện lên trong từng cấu truc
ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. Tôi với anh khi thì xếp dọc: Quê hương anh
nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Khi thì xếp ngang: Tôi với anh đôi
người xa lạ Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm): Súng bên
súng, đầu sát bên đầu Để đến đêm rét trùm chung một cái chăn thì nhập lại thành đồng
chí. Và cái chăn đắp lại thì tâm sự mở ra. Họ soi vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi
lòng sâu kín của anh: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay (…) Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để dựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:
Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo
Chung nhau một cái chăn là một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm cả bàn tay và ấm cả
………………………………………………………………………………………………………………….
đôi bàn chân là một cặp đòng chí. Đêm nay, rừng hoang sương muối “Đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Và lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp
đồng chí: Đầu súng trăng treo Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ
thể và gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng, cứng rắn và hiền dịu, súng và trăng, chiến sĩ và
thi sĩ; súng và trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí: (Nguyễn Đức Quyền, Báo Văn
nghệ số 30/1134 ngày 27/7/1985)
Ý kiến của Vũ Nho “Những dòng thơ cuối cùng cũng như một tượng đài sừng sững
cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ thiên nhiên, cánh rừng trải
rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là
những hình ảnh thực trong những đêm phục kích giặc của tác giả, nhưng chính tầm
cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh có
một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng”. (Vũ Nho, Để cảm hiểu và thưởng thức những
bài thơ ở lớp 8 và lớp 9, 1991) Đề tài đồng chí là một nỗi ám ảnh với hồn thơ Chính
Hữu. Trong bài “Giá từng thước đất”, Chính Hữu đã viết: Năm mươi sáu ngày đêm
bom ầm pháo dội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta là hớp nước uống
chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh
em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời,
chia nhau cái chết.

III.Tìm hiểu văn bản


Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháptrong bài thơ “Đồng chí”
của ChínhHữu.

Dàn ý chi tiết


Dàn ý đại
cương
1.Mở bài:
- Giới thiệu vài -Chính Hữu là nhà thơ quân đội hoạt động trong hai cuộc kháng
nét
về nhà thơ Chính chiến chống Pháp. Thơ ông hầu như chỉ viết về người lính và chiến
Hữu tranh.
- Giới thiệu về -Bài thơ “Đ ồng chí” được ông viết năm 1948,in trong tập “Đầu súng
bài thơ “Đồng trăng treo”.
chí”
- Giới thiệu -Đến với bài thơ, người đọc cảm phục và yêu quí người lính cách
vấnđề mạng thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
nghị luận
2.Thân bài:
a. Người lính -Đọc bài thơ, cảm nhận đầu tiên của chúng ta là hình ảnh người lính
giản dị, mộc hiện lên rất chân thực như cuộc sống còn nhiều vất vả và lo
mạc… toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ,
trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê đất
Việt:
- Họ là Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi
những người nghèo đất cày lên sỏi đá
nông dân Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân
quê. Tác giả tuy không chỉ đích danh, bản quán nơi cư ngụ từng người,
song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất
………………………………………………………………………………………………………………….
cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người
lính. Họ đến từ mọi miền Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ
quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn sỏi đá. Quê
hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi nhưng giống nhau ở cái nghèo,
sự lam lũ, khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh
ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những người xa lạ, họ tập hợp
lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với
nhau:
b. Họ cùng Súng bên súng, đầu sát bên đầu
chung lí tưởng, Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Câu thơ “Súng
mục đích chiến bên súng, đầu sát bên đầu” là câu thơ giàu ý nghĩa. Điệp từ “bên” cùng
đấu. nghệ thuật sóng đôi có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa
những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
“súng bên sung”, cùng chung lí tưởng, suy nghĩ “đầu sát bên đầu”. Dù
gian khổ đến đâu, dù nguy hiểm, sóng gió đến nhường nào, các anh vẫn
trung thành với con đường của mình đã chọn. Đọc câu thơ, ta không
nhận ra “anh” và “tôi” nữa màhọ
đã trở thành “những anh”, “những tôi” nhòa đi sau những khẩu
súng,những máiđầu.
->Thì ra cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành cuộc “gặp gỡ” của
bao người yêu nước. Mới đây thôi, họ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Giờ đây họ lại sát cánh
bênnhau thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính lí tưởng chung
của thời đại đã gắn kết họ với nhau trong hàng ngũ quân đội cáchmạng.
-Ở nơi chiến trường đầy khói bom thuốc súng, người chiến sĩ phải
chống chọi với cái rét:
c. Ý chí nghị Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
lực phi Cái rét ở rừng già Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống
thường, vượt Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến
lên gian khó. ấy:
+ Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua
rừng đèo Khế gió sang.
+ Đêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại
mùa qua rét nhức xương.
( Tố Hữu – “Lên Tây Bắc”)
d. Tình đồng chí, -Nhưng câu thơ của Chính Hữu nói đến cái rét gợi cho người đọc một
đồng đội…
cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Cái hay của nhà
thơ là đã biết đem “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi ấm mối tình
đồng chí lên thành mức độ tri kỉ. Những người lính đến với nhau nhẹ
nhàng, bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của
một đôi bạn ý hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người
cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau:
Đồng chí!
-Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc bằng dấu chấm than tạo một nốt
nhấn, vang lên như một sự phát hiện, lời khẳng định. Đồng thời như
một chiếc bản lề khép mở sự lí giải cội nguồn của tình đồng chí ở sáu
câu thơ trước với những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí trong
………………………………………………………………………………………………………………….
những câu thơ tiếp theo của bài thơ.
=> Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống thì hai tiếng “Đồng chí” như
một trái tim hồng nuôi sống cả bài thơ. Nó có sức vang dội và ngân nga
mãi trong lòng người đọc.
=> Tám mươi năm nô lệ nay mới được gọi nhau là đồng chí sung
sướng và kiêu hãnh biết bao! Từ nay tình cảm gì cũng phải nâng lên
thành tình đồng chí, phải đo bằng tình đồng chí. Tình cảm cao đẹp này
đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất, dồi dào nhất của thơ ca kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
=> Chính Hữu đã có lời nhận xét: “Những năm đầu cách mạng từ
“đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó
khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một
người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một
người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù,
cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một
lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng chí bấy
giờ”.
-Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự
e. Tình yêu nguyện:
quê hương, Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian
đất nước của nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước
người lính gốc đa nhớ người ra lính
-Từ bao đời nay, ai cũng biết rằng ruộng nương và nhà cửa là những
tài sản quý giá nhất đối với người nông dân vì họ phải tốn
biết bao mồ hôi nước mắt mới có được. Cho nên họ vô cùng gắn bó sâu
nặng, gìn giữ, trân trọng với những thứ của cải ấy.Vậy mà họ
lạidễdàng gạtbỏlạisaulưng,lênđườngtheotiếnggọicủaquê
hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người
- Thái độ ra đi dân quê vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, dứt khoát,
cứu nước dứt mạnh mẽ vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì
khoát, kiên gia đình họ, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ
quyết lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên
đường”, họ sẵn sàng hi sinh cho dân tộc. Ai ngờ những người nông
dân quê mùa, hiền lành như hạt lúa, củ khoai, cả đời chỉ biết cầm cày
gieo lên mầm xanh, nhân lên sự sống cho quê hương đất nước lại dễ
dàng từ bỏ xóm làng đến thế! Các anh đã biết đặt tình cảm chung lên
tình cảm cá nhân, đặt tình yêu nước lêntrên tình cảm gia đình. Hai tiếng
“mặc kệ” không phải hiểu theo nghĩa phó mặc mà trong ngôn ngữ giản
dị của người lính là “Cứ chờ đó, cách mạng thành công mọi chuyện sẽ
làm lại sau”. Đó mới chính là ngôn ngữ, là ý tưởng mà họ muốn thể
hiện trong hành động “dứt áo” ra đi củamình.
- Nỗi nhớ quê -Vì thế quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
hương -Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca
dao xưa nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ
thuật hoán dụ “Giếng nước gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của
………………………………………………………………………………………………………………….
những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên
mảnh đất quê hương. Song hai hình ảnh này còn được nhân hóa. Nói
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của
người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. “Giếng nước gốc đá” cồn
cào đến chừng nào! Đời sống tình cảm của họ với làng quê da diết vô
cùng. Bao tình cảm sâu nặng như đều dồn tụ trong tiếng “nhớ” giản dị
ấy!
=>Song, góc nhớ thương đó không làm cho các anh mềm lòng, mất đi ý
chí cứu nước mà nó thôi thúc, động viên người lính nông dân bền gan
vững chí, cầm chắc tay súng lập công. Bởi lẽ nước nhà sớm độc lập thì
các anh mới sớm được trở về với quê hương, xóm làng…
h. Càng gian -Đọc bài thơ, chúng ta còn cảm phục người lính nông dân ở tinh thần
khó, họ càng vượt khó, vượt khổ:
yêu thương Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run
nhau. người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách
vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng
cười buốt giá Chân không giày
-Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng
nước độc, chướng khí âm u nên hầu như người lính nàocũng bị mắc
căn bệnh sốt rét ác tính. Căn bệnh quái ác này làm cho họ tóc rụng da
xanh, gầy còm yếu ớt, thậm chí tử vong nữa. Ai đã từng nói: “Đánh
trận tử vọng ít, sót rét tử vongnhiều”.
-Nhưng đó không phải là gian khổ duy nhất mà người lính phải trải
qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh giá, trong khi quân phục lại

không đủ đầy: người lính thường xuyên phải mặc “áo rách”, “quần
vá” và “chân không giày”. Vậy mà họ vẫn không một lời kêu ca,
không một tiếng phàn nàn, một lời than thở…
=> Từ một dân tộc nô lệ với gậy tầm vong giáo mác, chúng ta vùng lên
chọi lại xe tăng đại bác của kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu một mất một
còn này, anh bộ đội là người trực tiếp chịu đựng biết bao gian khổ. Hơn
nửa thế kỉ trôi qua, đọc lại những vần thơ của Chính Hữu mấy ai mà
không cầm được nước mắt, mấy ai không thán phục sức chịu đựng phi
thường của các anh.
-Viết về hiện thực cuộc sống của người lính nông dân, Chính Hữu
khôngphảiđịnhkểkhổđểlàmbàithơtrởnênbithảm,lòngngười bi quan mà
Ý nghĩa của cái chỉ để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau
nắm bàn tay tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau”
đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không
phải là “yêu”. Trong “Thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả
sự cảm thông, xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính
tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa.
+ Đó là cái nắm tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo
sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi
………………………………………………………………………………………………………………….
núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa
tình cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần
lời nói hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi ấm từ trái tim,
vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai
người, làm hai người nở một nụ cười, dù là “buốt giá”.
+ Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt
Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút làm
ăn” ( Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con
trâu…N hưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên
đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình
yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng cao đẹp đã tiếp thêm sức
mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, đểhọ vững
tay súng, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệTổ
quốc.
- Tâm hồn Ba câu kết khắc họa thật đẹp bức chân dung của người lính trong một
lãng mạn, đêm canh gác ở rừng:
baybổng. Đêm nay rừng hoang sươngmuối Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng
trăngtreo.
-Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường
khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt ( “rừng hoang”, “sương muối”) hình
ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng đẹp biết bao! Họ truyền
cho nhau hơi ấm sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn
Tổ quốc. Có thể nói chính hoàn cảnh khắcnghiệt
của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng
đội thiêng liêng cao cả của những người lính.
-Hình ảnh người lính tỏa sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo: “Đầu
súng trăng treo”. Trăng như treo trên đầu súng gợi ra vẻ đẹp hư ảo, gần
mà xa, thực mà mộng, một không gian bát ngát bao la có cái gì cứ bông
bênh khó tả. Họ đã vượt lên gian khổ, vượt lên thiếu thốn, hiểm nguy
để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng, của thiên nhiên đất trời ban tặng.
Ánh trăng lúc này như người bạn tri âm tri kỉ đối với người lính. Vầng
trăng trên bầu trời như xuống thấp, soi sáng đôi bạn, muốn ngợi ca, soi
rõ tình đồng đội thiêng liêng cao cả của họ. Chỉ một nét vẽ khéo léo,
một sự tưởng tượng hết sức diệu kì, Chính Hữu đã xóa đi bao ám ảnh
của rừng hoa sương muối, của cái chết, của trận đánh sắp bắt đầu, nâng
hình ảnh người lính cao hơn, sáng hơn, và ngàn lần đẹp hơn.
=> Hóa ra cuộc đời người lính nông dân mộc mạc, chân chất kia, tâm
hồn cũng rất lãng mạn bay bổng biết bao! Họ không chỉ biết siết cò
súng mà còn biết làm thơ nữa! Tâm hồn chiến sĩ hòa quyện với tâm
hồn thi si đã tạo nên nét đẹp độc đáo của người lính nông dân.
k. Vẻ đẹp hiện -Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng”
thực và lãng là biểu tưởng cho sắt thép, lửa đạn chiến tranh, khiến cho nhân loại căm
mạn. giận lên án. Còn “trăng” biểu tượng cho hòa bình, hạnh phúc – ước mơ
ngàn đời con người muốn vươn tới.
- Gian khó là => Chính Hữu đã liên kết hai hình ảnh đối lập trong một câu thơ để
………………………………………………………………………………………………………………….
nơi thử thách diễn tả một ý tưởng sâu sắc: người chiến sĩ của chúng ta quyết tâm cầm
tình đồng chí chắc cây súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Để cho
em thơ ngủ ngon, để cho nhân dân hạnh phúc, yên bình, để vầng trăng
kia sáng mãi, các anh chỉ có cách duy nhất: cầm súng. Với cây súng
các anh đã trở thành linh hồn của đất nước, của không gian và thời
gian. Với cây súng các anh đã thêu dệt nên những bản tình ca không
thể nào quên trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc.
- Ý nghĩa biểu =>“Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất viết
tượng của về người chiến sĩ trong thời kì chống Pháp: gian khổmà anh
hìnhảnh “Đầu dũng, hiện thực mà thơmộng. Chủ đề của bài thơ được nâng cao và lắng
súng trăng sâutrong lòng người đọc cũng là nhờ hình ảnh thơ tuyệt đẹp
treo”. này. Và Chính Hữu cũng đã lấy hình ảnh thơ này làm tựa đề cho tập thơ
gồm hai mươi tư bài của mình.
Nhận xét đánh gi
Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, bút pháp hiện thực, không
một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh.
3.Kết bài:
-Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm tình cảm của người lính.
Vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính mà nơi
phát ra vầng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hòa
quyện vào tình giai cấp.
-Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính
lên đến đỉnh cao khái quát, trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng
mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

III.ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Câu 1: Em hãy nêu tóm tắt nội dung của đoạn trích trên?
Trả lời:
Đoạn trích trên thể nói tới cơ sở hình thành tình đồng chí:

    + Chung cảnh ngộ, hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.

    + Cùng chung hoàn cảnh, lý tưởng chiến đấu.

    + Hình thành trên sự sẻ chia, đồng cảm mọi gian lao, mọi niềm vui nỗi buồn.

Câu 2: Em hãy nêu một thành ngữ có trong đoạn thơ trên. Giải thích nghĩa của thành
ngữ đó.

Trả lời:
………………………………………………………………………………………………………………….
Thành ngữ được sử dụng trong đoạn thơ trên:

“Nước mặn đồng chua”: vùng đất nghèo ven biển nhiễm phèn, nhiễm mặn khó làm
ăn.

“Đất cày lên sỏi đá”: nơi đồi núi, trung du, đất đá bị ong hóa, khó canh tác.

→ Hai thành ngữ này để nhằm chỉ ra sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó
là cơ sở hình thành tình đồng chí.

Câu 3: Nêu cấu trúc câu thơ sóng đôi được sử dụng trong đoạn thơ trên và nêu tác
dụng của cấu trúc đó trong việc thể hiện nội dung đoạn thơ.

Trả lời:

Hai câu thơ đối ứng nhau về ý:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sự đối ứng “quê hương anh - làng tôi”; “nước mặn đồng chua” – đất cày lên sỏi
đá”khắc họa được sự nghèo khó về xuất thân, cảnh ngộ, đó là cơ sở hình thành tình
đồng chí, tạo nên sự nhịp nhàng đồng điệu giữa những người lính.

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Câu thơ đối xứng nhau ngay trong từng vế câu, làm nổi bật hoàn cảnh chiến đấu khắc
nghiệt nhưng những người lính vẫn sát cánh bên nhau, cùng nhau chiến đấu, cùng
nhau đối diện với hiểm nguy.

Câu 4: Có bạn viết: “Chỉ với 7 câu văn đã cho người đọc thấy được sự tương đồng và
gắn bó của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ”.

Câu văn trên bạn viết sai ở đâu, hãy sửa lại cho đúng và chuyển câu trên thành câu bị
động.

Trả lời:

Sửa câu: “Chỉ với bảy câu thơ người đọc thấy được sự tương đồng và gắn bó của
người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp”.

Câu 5: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu”, nêu tác dụng của biện pháp đó.

Trả lời:
………………………………………………………………………………………………………………….
Biện pháp điệp từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” nhằm
tạo nên sự đối ứng trong một câu thơ:

    + Gợi lên sự khắc nghiệt, nguy hiểm của chiến tranh (hình ảnh súng sẵn sàng chiến
đấu).

    + Thể hiện sự chung sức, cùng nhau đoàn kết, chiến đấu.

Câu 6: Từ “tri kỉ” trong bài có ý nghĩa gì? Em hãy chép chính xác một câu thơ trong
bài em đã học cũng sử dụng từ tri kỉ, ghi rõ tên tác giả tác phẩm.So sánh hai từ tri kỉ
đó.

Trả lời:

Từ “tri kỉ” có nghĩa: thấu hiểu mình, hiểu bạn như hiểu bản thân mình.

Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Duy có chứa từ tri kỉ:

“Vầng trăng thành tri kỉ”

Từ tri kỉ trong bài đồng chí diễn tả sự thấu hiểu giữa 2 người lính cùng chiến tuyến,
cùng lý tưởng chiến đấu, cùng hoàn cảnh chiến đấu.

Từ tri kỉ trong bài Ánh trăng diễn tả sự đồng điệu thấu hiểu của trăng với con người,
của con người với chính quá khứ của mình.

Tri kỉ trong bài "Đồng chí" tuy hai nhưng một.

BÀI TẬP 2.
Cho câu thơ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua”
a) Chép tiếp 5 câu thơ tiếp theo. Cho biết đoạn thơ nằm trong bài thơ nào? Của ai?
Hoàn cảnh sáng tác.
b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác
dụng?
c) Đoạn thơ gợi cho em nhớ tới bài thơ nào cũng viết về tình đồng chí, đồng đội
của người lính trong chương trình Ngữ văn 9. Chép lại câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện
và tình cảm của những người lính cách mạng. Cho biết tên tác giả, tác phẩm.
d) Viết đoạn văn khoảng 12 dòng theo cách diễn dịch. Phân tích đoạn thơ trên để
thấy được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí .

Gợi ý :
a, Tự trả lời
b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp
ngữ, hoán dụ.
Cách nói hàm súc, giàu hình tượng, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng.
………………………………………………………………………………………………………………….
Nghệ thuật hoán dụ “súng”, “đầu”: “súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu.
“Đầu” biểu tượng cho lí tưởng.
Tả thực tư thế chiến đấu của người linh khi có giặc, tượng trưng chung hành động
và lí tưởng của người lính.
Tác dụng: Chính Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, hoán dụ trong câu
thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” cho ta thấy sự đoàn kết, gắn bó keo sơn của tình
đồng đội, sự gắn kế trọn vẹn cả về lí trí, lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành
độc lập tự do cho Tổ quốc.
c) Câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện và tình cảm của người lính cách mạng:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Thuộc tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật.
d)
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn có độ dài khoảng 12 dòng theo lối diễn dịch, qui
nạp, hay tổng phân hợp, có một câu ghép
Yêu cầu về nội dung: Cần làm nổi bật nội dụng sau:
- Sự gắn bó của những con người từ những vùng quê nghèo khổ khác nhau: xa lạ-
tri kỉ
- Họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu
- Chú ý vào các từ ngữ hình ảnh giàu sức gợi: chung chăn, tri kỉ, súng bên súng,
đầu sát bên đầu.
Đoạn văn tham khảo:
Đoạn thơ trên trích trong văn bản “Đồng chí” – Chính Hữu sáng tác năm 1946 đã
rất thành công trong việc thể hiện được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí. Mở đầu
là hai câu thơ:“Quê hương anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Nghệ thuật đối xứng “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” giúp ta hình dung ra
những người lính đều là con em của những người nông dân từ các miền quê nghèo khó,
hội tụ về đây trong đội ngũ chiến đấu. “Anh với tôi đôi người xa lạ, Tự phương trời chẳng
hẹn quen nhau”. Từ “đôi” chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau, thể hiện
sự đoàn kết, gắn bó keo sơn kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn.
Từ phương trời tuy chẳng hẹn quen nhau nhưng họ là những người cùng chung lí tưởng,
nhiệm vụ, trong trái tim của họ nảy nở lên những ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc. Tình đồng chí – tình cảm ấy không chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn
vẹn cả về lí trí lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ
quốc. “Súng bên súng đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính Hữu
sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ qua từ “súng”, “đầu”, “bên” và nghệ thuật hoán dụ
“súng, đầu” đã thể hiện điều đó.Từ “chung” ở đây bao hàm nhiều nghĩa: chung cảnh ngộ,
chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng, …“Tri kỉ” cho thấy họ là những
đôi bạn thân thiết, luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời. Tóm lại, những người lính
tuy xuất thân từ những vùng quê nghèo khó nhưng
họvẫn chung mục đích, chung một lí tưởng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

BÀI TẬP 3:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
………………………………………………………………………………………………………………….
Anh với tôi hai người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí !
(Theo Chính Hữu, Đồng chí, trong Ngữ văn 9, tập một,
NXB Giáo dục, 2005, trang 128)
1. Trong những câu thơ trên có một từ bị chép sai. Đó là từ nào ? Hãy chép lại chính
xác câu thơ đó. Việc chép sai từ như vậy ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ như
thế nào ?
2. Câu. thứ sáu trong đoạn thơ trên có từ tri kỉ. Một bài thơ đã học trong chương trình
Ngữ văn lớp 9 cũng có câu thơ dùng từ tri kỉ. Đó là câu thơ nào ? Thuộc bài thơ nào ?
Về ý nghĩa và cách dùng từ tri kỉ trong hai câu thơ đó có điểm gì giống nhau, khác nhau
?
3. Xét về cấu tạo và mục đích nói, câu thơ "Đồng chí!" lần lượt thuộc các kiểu câu gì?
câu thơ này có gì đặc biệt? Nêu ngắn gọn tác dụng của việc sử dụng kiểu câu đó trong
văn cảnh?

4. Câu thứ bảy trong đoạn thơ trên là một câu đặc biệt. Hãy viết đoạn văn khoảng 10
câu phân tích nét đặc sắc của câu thơ đó.

Gợi ý :
1. Trong đoạn thơ có từ bị chép sai là hai, phải chép lại là đôi :Anh với tôi đôi
người xa lạ.
Chép sai như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ :Hai là từ chỉ
số lượng còn đôi là danh từ chỉ đơn vị. Từ hai chỉ sư riêng biệt, từ đôi chỉ sự không
tách rời. Như vậy, phải chăng trong xa lạ dã có cơ sở của sự thân quen ? Điều đó tạo
nền móng cho chuyển biến tình cảm của họ.
2. Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Du có từ tri kỉ :

hồi chiến tranh ở rừng


vầng trăng thành tri kỉ
Từ tri kỉ trong hai câu thơ cùng có nghĩa chỉ đôi bạn thân thiết, hiểu nhau.
Nhưng trong mỗi trường hợp cụ thể, nét nghĩa có khác : ở câu thơ của Chính
Hữu, tri kỉ chỉ tình bạn giữa người với người. Còn ở câu thơ của Nguyễn Duy, tri kỉ
lại chỉ tình bạn giữa trăng với người.
3. Tác dụng:
– Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu, là bản lề khép mở ý thơ…
Về nội dung: Giúp thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà thơ: biểu hiện sự cô đặc,
………………………………………………………………………………………………………………….
dồn thụ sức nặng tư tưởng, cảm xúc của tác giả…)
4. Viết đoạn văn :
* Về nội dung, cần chỉ ra được :
- Câu thơ chỉ có hai tiếng và dẩu chấm than, là nốt nhấn, là lời khẳng định.
- Gắn kết hai đoạn của bài thơ, tổng kết phần trên và mở ra hướng cảm xúc cho
phần sau : cội nguồn của tình đồng chí và những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng
chí.
* Về hình thức : không quy định cụ thể, nên có thể tự lựa chọn cấu trúc đoạn
cho phù hợp.
Đoạn văn tham khảo:

Bài thơ ” Đồng chí” của Chính Hữu ca ngợi tình cảm cao đẹp của những người
lính anh bộ đội cụ Hồ trong đó tính hàm xúc của bài thơ được đặc biệt thể hiện ở
dòng thơ thứ 7 trong bài thơ ” Đồng chí”, dòng thơ chỉ có một từ kết hợp với dấu
chấm than, đứng riêng thành một dòng thơ và có ý nghĩa biểu cảm lớn, nhấn mạnh
tình cảm mới mẻ thiêng liêng – tình đồng chí. Đây là tình cảm kết tinh từ mọi cảm
xúc, là cao độ của tình bạn, tình người, có nghĩa được bắt nguồn từ những tình cảm
mang tính truyền thống, đồng thời là sự gắn kết của bài thơ, nó là bản lề khẳng định
khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí của sáu câu thơ trước, còn với những câu thơ
phía sau là sự mở rộng, sự triển khai biểu hiện cụ thể của tình đồng chí, với ý nghĩa
đặc biệt như vậy nên dòng thơ thứ 7 đã được lấy làm nhan đề cho bài thơ “Đồng chí”
của Chính Hữu.

BÀI TẬP 4:

Cho đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi :


(…) Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. (…)
1, Đoạn thơ trên trích từ tác phẩm nào? Của ai? Từ Đồng chí nghĩa là gì? Theo em, vì
sao tác giả lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí?
2, Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính”
3, Nêu những khó khăn mà người lính phải trải qua.
4, Qua đoạn thơ trên, em có suy nghĩ gì về sức mạnh của tình đồng đội, đồng chí.
5, Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 câu) theo cách lập luận
tổng hợp – phân tích – tổng hợp trong đó có sử dụng phép thế và một phủ định để làm
………………………………………………………………………………………………………………….
rõ sự đồng cảm, sẻ chia giữa những người đồng đội. (Gạch dưới câu phủ định và
những từ ngữ dùng làm phép thế).

Gợi ý:
1,
-Trích từ tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu.
- Đồng chí : người có cùng chí hướng, lí tưởng. Người cùng ở trong một đoàn thể
chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945, “đồng chí” trở thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan,
đoàn thể, đơn vị bộ đội.
Bài thơ được đặt tên “Đồng chí” nhằm nhấn mạnh sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của
người lính cách mạng – những người có cùng chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu, gắn
bó keo sơn trong chiến đấu gian khổ thời chống Pháp. Tình đồng chí vừa là tình chiến
đấu, vừa là tình thân. Cả hai đều là máu thịt, hữu cơ, nó là sinh mạng con người cầm
súng. Nó còn là lời nhắn gửi, lời kí thác của nhà thơ với người, với mình, nó là tiếng
gọi sâu thẳm, thiêng liêng, nó là vật báu phải giữ gìn trân trọng.

2, Hoán dụ kết hợp nhân hóa cho ta thấy nỗi nhớ 2 chiều: quê hương, hậu phương nhớ
người lính và người lính cũng 1 lòng gắn bó yêu mến quê hương
3, Những khó khăn, thiếu thốn của người lính:
- Áo anh: rách vai
- Quần tôi: vài mảnh vá
- Chân: không giày
=> Bằng bút pháp tả thực + liệt kê, nhà thơ đã làm nổi bật lên những khó khăn, thiếu
thốn về quân trang, quân dụng của những người lính.
4, Yêu cầu
 Hình thức: từ 5-7 dòng, đảm bảo đủ 3 phần chính của đoạn văn.
 Nội dung
Đồng chí, đồng đội là cùng nhau chia sẻ khó khăn, thiếu thốn:
-“Anh với tôi”-“từng cơn ớn lạnh, sốt run người...”
-“miệng cười buốt giá”-“thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
=> Sức mạnh của tình đồng đội, đồng chí giúp người lính hoàn thành nhiệm vụ, vượt
qua mọi khó khăn để hướng về tương lai tốt đẹp
5, Tình đồng chí cao đẹp đã mang lại sự đồng cảm, chia sẻ sâu sắc giữa những người
đồng đội (1). Tuy xuất thân từ những làng quê cụ thể khác nhau nhưng những người
chiến sĩ ấy đã có cùng một cảnh ngộ (2). Họ đã phải từ giã ruộng nương, làng mạc để
bước chân vào quân ngũ (3). Họ để lại sau lưng những người thân với cuộc sống khó
khăn, vất vả, với những tình cảm nhớ thương tha thiết (4). Bước chân vào cuộc chiến
đấu trong giai đoạn đầu gian khổ, những người lính không có cả những trang phục
bình thường, quen thuộc của một người bộ đội (5). Áo thì rách vai, quần thì có vài
mảnh vá, chân thì không giày (6). Nhưng tinh thần của họ vẫn lạc quan : miệng cười
buốt giá (7). Họ lại yêu thương, đoàn kết, gắn bó nhau trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy :
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (8). Tình đồng chí như một ngọn lửa nồng đã sưởi
ấm tâm hồn, cuộc sống của những người vệ quốc quân Việt Nam (9). Chính tình đồng
………………………………………………………………………………………………………………….
chí cao đẹp đó đã mang lại sức mạnh và làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến
chống Pháp (10).
(1) : Tổng hợp  nêu nội dung chính của cả đoạn.
Các câu từ câu (2)  câu (9) : Phân tích  nêu những biểu hiện của tình đồng chí:
đồng cảm, sẻ chia.
Câu (10) : Tổng hợp  tổng kết và nâng cao, khẳng định giá trị của tình đồng chí.

BT5:
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi phía dưới:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Câu 1: Trong câu thơ “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, vì sao Chính Hữu lại
dùng từ “chờ” mà không dùng từ “đợi”?

Câu 2: Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cho thấy cảm xúc gì được thể hiện trong bài
thơ? Qua đó em hiểu thêm gì về tâm hồn của những người lính trong kháng chiến
chống Pháp?

Câu 3: Viết đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp của ba câu thơ cuối trong bài có sử dụng
câu cảm thán?

Gợi ý:

Câu 1:

    - Đối diện cảnh núi rừng lạnh lẽo và hoang vu và hoàn cảnh chiến đấu nguy hiểm,
những người lính cùng sát cánh bên cạnh nhau.

       + Nhiệm vụ canh gác, đối mặt với hiểm nguy trong gang tấc cũng chính nơi đó sự
sống cái chết cách nhau trong gang tấc.

       + Trong hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm tình đồng đội thực sự thiêng liêng, cao
đẹp

    - Tâm thế chủ động, sẵn sàng “chờ giặc tới” thật hào hùng:

       + Những người lính sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi khó khăn, nguy hiểm
trực chờ phía trước của cuộc kháng chiến gian khổ.

→ Ca ngợi tình đồng chí, sức mạnh đồng đội giúp người lính vượt lên khắc nghiệt về
thời tiết và nỗi nguy hiểm trên trận tuyến.

Câu 2:
………………………………………………………………………………………………………………….
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, cũng chính là điểm nhấn
của toàn bài thơ.

       + Hình ảnh thực và lãng mạn.

       + Súng là hình ảnh đại diện cho chiến tranh, khói lửa.

       + Trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, thanh bình.

    - Sự hòa hợp giữa trăng với súng tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và đồng
đội , nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc.

→ Câu thơ như nhãn tự của toàn bài thơ, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái
lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí.

Câu 3:
- Yêu cầu về hình thức: một đoạn văn theo lối viết nào cũng được, có câu cảm thán
- Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo nội dung sau:
+ Bức tranh đẹp về tình đồng chí
+ Biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ
Đoạn văn tham khảo:
Ba câu thơ trên được trích trong văn bản “ Đồng chí” của tác giả Chính Hữu đã
rất thành công trong việc miêu tả biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ, về tình
đồng chí. Hai người lính luôn kề vai sát cánh bên nhau, sưởi ấm lòng nhau, xua đi cái
rét ở chiến tranh Việt Bắc. dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu họ luôn trong tư thế sẵn
sàng chờ giặc tới. Trong đêm phục kích, vầng trăng trên đầu trở thành người làm
chứng cho tình đồng chí trong các anh. Trong lúc chờ giặc tới, trong không khí căng
thẳng của giờ phút xuất kích sắp đến họ vẫn tràn đầy một tâm hồn lãng mạn, họ đã
nhận ra “ đầu súng trăng treo”. Câu thơ vừa có nghĩa tả thực, vừa giàu nghĩa tượng
trưng: súng và trăng vốn là hai sự vật rất xa nhau nhưng trong con mắt người chiến sĩ
chúng lại rất gần nhau. Súng và trăng là gần và xa, là thực và mộng, là chiến tranh và
hòa bình là chiến sĩ và thi sĩ. Hình ảnh thơ khép laị đã trở thành một biểu tượng đẹp
của người chiến sĩ cách mạng với sự đan cài: cuộc sống chiến đấu của họ dù khó khăn,
gian khổ nhưng trong họ tràn đầy sự lãng mạn. Hình tượng đó trở thành nền thơ ca
cách mạng Việt Nam- cảm hứng hiện thực- lãng mạn. Ôi, yêu biết mấy những người
lính cụ Hồ!
* TÌM HIÊU, PHÂN TÍCH VĂN BẢN. ĐỒNG CHÍ (BÀI 2)
1, a) Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
Nhữn -Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ
g cơ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trong trang thơ và tỏa sáng một vẻ
sở của đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Ngay từ những câu thơ
tình mở đầu, nhà thơ lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết,
đồng sâu nặng của “anh” và “tôi”, của người lính và ngườilính:
chí( 7
câu “Quê hương anh nước mặn đồng chua
thơ Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá”
+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng
………………………………………………………………………………………………………………….
đầu) đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác
nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ.
+ Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người
đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ
+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng
chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như
manh nha từ trong những làn nước
+ HÌnh ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi,
đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu
vào trong lòng đất.
=>“Quê hương anh”- “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người
miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm làm ăn, canh tác, đều
chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là dở sở đồng cảm giai cấp của
những người lính.
=>Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông
dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sựu đồng cảm về giai cấp là
sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những
người đồng chí, đồng đội với nha
b, Cở sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước.
-Họ là những người nông dân áo vải, ra đi từ miền quê nghèo, lam lũ của
mọi miền Tổ quốc và gặp gỡ nhau ở tình yêu đất nước lớn lao.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ
đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung
một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung
đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.
-
Hìnhảnhsóngđôi“súngbênsúng”,”đầusátbênđầu”vàgiọngđiệuthơtrởnênthat
hiết, trầm lắng thể hiện sự gắn bó của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến
đấu
+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người
lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và
giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho
chính số phận của họ
+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí, quyết tâm
chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân
tộc.
+ Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến cho câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn
mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh-tôi” đứng trên từng dòng thơ như một
kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với
………………………………………………………………………………………………………………….
“tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi.Từ những người xa lạ họ đã
hoàn toàn trở nên gắn kết
=> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là
cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
c, Cơ sở thứ ba: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn
- Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu
tả rõ nét tình cảm của những người lính:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của
cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng.
Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.
+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến
những con người “xa lạ” sát lại gần bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và
trở thành “tri kỉ”
+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý
nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp,
chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.
- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chon từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi”
ở câu thơ trên:
+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà sử dụng từ “đôi” vì “đôi” cũng
có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời
+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình
thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo
bởi hai từ: “Đồng chí!”.
+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa
cho tình đồng chí
+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc,
trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội
+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng cảu tình đồng chí
+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ
đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy
bỗng như chất chứa bao trìu mến, yêu thương.
=> Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng
thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân
hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết
có nhau.
2, a, Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
Nhữn
g biểu “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
hiện Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
của Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
………………………………………………………………………………………………………………….
tình *Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê
đồng nhà:
chí, - Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: Neo người, thiếu sức lao động.
đồng Các anh ra đi đnáh giặc để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng,
đội phải nhờ người thân giúp đỡ
(mười - Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn:
câu
thơ + Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất
tiếp) trong gia đình các anh
+ Đồng thời, diễn ra sự thiếu vắng các anh – người trụ cột trong gia đình
*Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê
hương, dân tộc.
- “Ruộng nương”, “căn nhà” là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn bó, vậy
mà họ lại bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích
chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc.
-Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức
gợi:
+ Từ “mặc kệ” chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ
những gì quý giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn.
+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sang hi sinh một cách thầm lặng của các
anh vì đất nước
* Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn
người lính
- Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết là nỗi
nhớ người thân. Những người lính đã dùng lí trí để chế ngự tình cảm,
nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở nên da diết
- Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như
một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một
cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính
- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người
ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho
“giếng nước gốc đa” một tâm hồn.
=> Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã
hiện lên tràn đầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc
lập, tự do của Tổ quốc
b, Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ
Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông
năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của
cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian
khổ của các anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
………………………………………………………………………………………………………………….
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc,
nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với
sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của từng cơn
sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.
+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính
đã trở thành điểm tựa vững trắc để họ vượt qua những gian khổ, khó khăn
- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách chính xác những thiếu
thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”.
Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.
+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn
bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: Sự buốt giá của những đêm rừng
hoang sương muối
-> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng
chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà
đi, đạp núi mà tiến.
- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng
cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên
khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ
- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả
sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.
=> Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại
thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương đó
lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.
c, Biểu hiện thứ ba: Luôn sẵn sang chia sẻ, yêu thương, gắn bó.
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hìn ảnh thơ rất
thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Những cái bắt tay chắt chứa bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã
lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng
về tinh thần
- Những cái bắt là lời động viên chân thành, để những người lính cùng
nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.
- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho nhau
thêm sức mạnh
- Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng
quân thù
=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng
liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng đỡ
bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường
………………………………………………………………………………………………………………….
chiến đấu.

3, Sức * Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:
mạnh “Đêm nay rừng hoang sương muối”
và vẻ - Thời gian: Một đêm phục kích giặc
đẹp - Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phủ
của đầy sương muối.
tình
đồng * Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm
chí, thế
đồng “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
đội - Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tinh thần đoàn kết, luôn sát
cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh
- Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sang
chiến đấu của người lính
* Kết thúc bài thơ là một hình ảnh rất độc đáo, là điểm sáng của một bức
tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn:
- Chất hiện thực: Gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc,.nhìn rừ
xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã
phát hiện ra một điều hú vị và bất ngờ: trăng lơ lửng như treo đầu mũi
súng.
- Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn
sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở
đây rất thơ mộng, nối liền mặt đất với bầu trời.
- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa:
+ Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng là biểu tượng cho non
nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho
người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình; hiện thực và
ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ – vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ …
+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên
giữa lúc cam go khốc liệt
+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất
yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
=> Hình ảnh này xứng đáng trở thanh biểu tượng của thơ ca kháng chiến:
một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn.

IV.LUYỆN TẬP NÂNG CAO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

VỀ BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ”…


BÀI THAM KHẢO1
( Theo thầy Nguyễn Công Đức – GV trường THCS Quảng An – Hà Nội )
………………………………………………………………………………………………………………….
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí
(1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị,
mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày
kháng chiến gian lao.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình:
"... Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc
chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình
đồng chí, tình đồng đội.Đồng chí ở đây là tình đồng đội.Không có đồng đội, tôi
không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng
chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông
dân của mình."
Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm
toả ra từtìnhngười,từtìnhtrikỉ,kềvaisátcánhbênnhaucủanhữngcon
ngườichunglítưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũcách mạng, chiến đấu
cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ
chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống trongtìnhđồngđội,nhờđồngđội,vìđồngđội.
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm
giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với
nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất
đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất
cao "cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm
rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính
cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp
chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của
mỗi người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất
nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng"
(Trần Đình Sử - Đọc văn học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét
thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự
gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung.
Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái
chung giữa "anh" và "tôi".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần
duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu
thơ.Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài.Nó đánh dấu một mốc
mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa.Sáu câu thơ đầu là tình
đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí
………………………………………………………………………………………………………………….
nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả.
Những người đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân
tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người
cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự
giao kết của "rừng cây", nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng
đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

o phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện
tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ
quê hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước,
gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong
lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở
đây là nỗi
nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn
cào về giếng nước, gốc đa.Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những
người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện ra
cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong
mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa
vững chắc cho người lính, là đồng đội:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt
run người vừng trán ướt mồ hôi áo
anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân
không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái
gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da
trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da Khuôn
mặt đã lên màu tậtbệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thươngxót
Muốn viết bài thơ thấm lệnhòa
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
………………………………………………………………………………………………………………….
Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của
bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về
cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác
giữ sơn hà", QuangDũngnóiđếnsốtrétđểtô đậmvẻđẹp
bitrángcủanhữngngườichiếnsĩthìChính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét
là để nói về tình đồng đội, đồng chí tronggian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa
những người lính. Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san
sẻ cho nhau: "Anh với tôi biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "taynắm lấy bàn tay". Cái
"Miệng cười buốt giá" kialà cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong
buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội.
Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vìthế.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ
đang làm nhiệm vụ chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sươngmuối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăngtreo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca
kháng chiến.Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút
pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn.Trên sắc xám
lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu
súng - vầng trăng. Dướicáinhìncủangườitrongcuộc,ngườitrựctiếp
đangcầmsúng,trongmộtsựkếthợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn
khoảng cách xa về không gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện
thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho
hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái
đẹp yên bình, thơ mộng.Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý nghĩa khái quát về
tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính.Nói rộng
ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí
sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dântộc Việt Nam.
Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người nghệ sĩ cũng
trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm với nhau trước
những người áo vải:
Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai" Súng bắn chưaquen,
Quân sự mươibài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đườngtàu,
Rèn thêm dao kiếm, áo
vải chân không, Đi lùng
giặcđánh.
Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,... những
người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân
………………………………………………………………………………………………………………….
tộc. Bài thơ “Đồng chí” đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và
chiến đấu cho hạnh phúc, tự do.
BÀI THAM KHẢO 2
PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ" 

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều


Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”

Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ Tố
Hữu! Chẳng biết tự bao giờ, hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó
phai mờ. Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp nhưng bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác. Đó là mối tình đồng chí đồng
đội được hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian
khổ để tạo nên phẩm chất dẹp đẽ, một trong những nguòn sức mạnh của quân đội ta.

Thật vậy, bài thơ “Đồng chí” không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ
được nhiều người biết đến nhất, thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến
“Đồng chí”. Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí
keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng
nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội thật sâu
sắc. Mở đầu bài thơ tác giả viết :

“Quê hương anh nước mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Thành ngữ “Nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá” đã mang
đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những
người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những
người sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói “ nước mặn đồng chua ”, “đất
cày lên sỏi đá ”. Họ thật sự là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán
cuốc ”, đang chống chọi lại với thời tiết khắc nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để
khoát lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu.

Mỗi người một vùng quê, những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề
quen biết nhau.

“Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và
chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ
………………………………………………………………………………………………………………….
dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “ Nhớ ” của mình cũng
thể hiện tình cảm này.

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ


Gặp nhau hòi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến ”

Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết phải nói
tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến
đấu.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu


Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Súng bên súng là cách nói hàm súc, hình tượng. Cùng chung lí tưởng chiến đấu. Anh
cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập tự do và sống
còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm
giao. Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ
cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Súng và đầu, ý chí và tình cảm là sự
gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng. Câu thơ “ Đêm
rét chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một
thời gian khổ. Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau, chia sẻ ngọt bùi cho
nhau. Phải là người bạn chí cốt bên nhau. Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ
phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu. Câu thơ được
biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm.

“Đồng chí!”. Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài
thời, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là
sự kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Tình đồng chí là cao độ của tình bạn tình
người. Câu thơ thứ bảy trở thành bản lề gắn kết giữa hai dòng cảm xúc: một bên là cơ
sở hình thành tình đồng chí và một bên là những biểu hiện thiêng liêng của tình cảm
đẹp ấy. Biểu hiện đầu tiên của tình đồng đội thắm thiết chính là ở học có sự thấu hiểu
nhau sâu sắc:

“Ruông nương anh gởi bạn thân cày


Gian nhà không mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính”

Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người lính
vốn là nông dân đó. Gơi bạn thân cày mảnh ruộng của mình. Nhớ tới gian nhà trống
không “ gió lung lay ”. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết của cuộc sống
người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Hai chữ “mặc kệ ” đã nói được một
cách dứt khoát mạnh mẽ của những người lính ra trận. Họ dứt khoát nhưng không vô
………………………………………………………………………………………………………………….
tình, trong lòng họ vẫn nặng tình với quê hương thân yêu. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi
có viết :

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại


Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

“Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín
đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “ Cây đa giếng nước sân
đình ”. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu
phương đối người ra trận. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây thêm ấn tượng mạnh
mẽ.

Mối tình đồng chí keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi
lòng của nhau mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời
người lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”

Bằng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động, gợi tả, gợi hình. Tác giả đã làm sống
dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống
Pháp. Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng
trán ứơt mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét. Những gian lao
thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn
nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá ” thật đáng yêu làm sao. Hình
ảnh người lính thật đáng trân trọng mỗi khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống
kham khổ của họ.

“Áo vải chân không


Đi lùng giặc đánh”

Chúng ta mới cảm thấy khâm phục và tự hào biết bao.


Vậy sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy ?
Có phải chăng đó là tình đồng chí dồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”.

Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở hững
người lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử
thách cao nhất là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi chiến hào. 
Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là biểu tượng đẹp nhất
của tình đồng chí:

“Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
………………………………………………………………………………………………………………….

Có thể nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, là một biểu
tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối ” những
người chiến sĩ phục kích chờ giặc đứng bên nhau, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp
họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình
đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy
có vầng trăng như treo trên đầu súng. Một hình ảnh thơ rất đặc sắc chỉ có bốn tiếng
thôi nhưng dã gây cho người đọc một bất ngờ thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu
tượng. Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ
tình, chiến sĩ và thi sĩ. Súng còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do.
Trăng là biểu tượng của non nước thanh bình cùng đặt trên một bình diện “đầu súng
trăng treo ”. Ý thơ đã đem đến cho chúng ta một liên tưởng về tâm hồn người lính rất
đẹp. 
Trong ác liệt chiến tranh vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình
yên vui. Có thể nói đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời
người lính cách mạng. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ
tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu rất hàm súc, mộc mạc, chân thực và có sức gợi tả
khái quát cao, đã khắc họa được một trong những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ
Hồ. Đớ là mối tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, gian khổ có nhau, sóg chết có
nhau. Bài thơ có thực có hư tạo nên vẻ đẹp hài hòa, gây cho người đọc những suy tư
sâu sắc, những xúc động sâu lắng. Có thể nói bài thơ Đồng chí là một tượng đài chiến
sĩ tráng lệ, mộc mạc, bình dị cao cả và thiêng liêng.

Khi làm bài thơ Đồng chí, Chính Hữu từng bộc bạch: "Tôi làm bài thơ Đồng Chí, đó là
lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội". Bài thơ là kết quả của những kỉ trải nghiệm thực
tế và cảm xúc sâu sắc mạnh mẽ, thiết tha của nhà thơ với đồng chí, đồng đội của mình
trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ.
Có những tình cảm thật đẹp trong kháng chiến, nó không chỉ là tình thân gia đình, tình
yêu mà còn là tình đồng chí. Đó là tình cảm của những người có xuất thân giống nhau,
ngày đêm cùng nhau chiến đấu:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Hai câu đầu với cấu trúc sóng đôi cùng cách xưng hô “anh - tôi” thân mật gần gũi đã
thể hiện sự tương đồng về hoàn cảnh của những người lính. Có lẽ cả hai nhân vật
“anh” và “tôi” đều là những người nông dân quen cầm cuốc ra đồng vất vả khó nhọc
và quê hương các anh đều là những vùng quê nghèo khó. Người ở vùng chiêm trũng,
“nước mặn đồng chua”, người thì ở nơi khô cằn toàn “sỏi đá” khó có thể trồng trọt.
Những khi họ theo tiếng gọi của tổ quốc, khoác súng lên vai, họ thành người lính dũng
cảm, kiên cường, họ từ những người không quen mặt biết tên mà trở thành “đồng chí”:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Sự gặp gỡ tình cờ như một mối duyên hình thành bởi lí tưởng cao đẹp, mục đích bảo
vệ tổ quốc của hai người lính. Họ cùng chung hoàn cảnh, lí tưởng và cả nhiệm vụ
………………………………………………………………………………………………………………….
chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Hai hình ảnh “súng” và “đầu” là hình ảnh
mang ý nghĩa tượng trưng cao đẹp. “Súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu”
tượng trưng cho lí tưởng. Trong câu thơ ấy, hình ảnh sóng đôi được lặp lại hai lần
nhằm nhấn mạnh thứ tình cảm thiêng liêng gắn bó trong chiến đấu gian khổ của những
người đồng chí. Từ việc thể hiện tình cảm giữa những người lính trong nhiệm vụ quan
trọng, tác giả đã thể hiện thứ tình cảm gắn bó thân thiết qua cuộc sống sinh hoạt, nhỏ
nhặt: “đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". Đây là một hình ảnh thật trong cuộc sống
gian lao của những người lính, họ phải chịu đói, chịu rét. Nhất là những cơn sốt rét ở
núi rừng Việt Bắc, họ là người biết rõ nhất. Nhưng trong những khó khăn ấy tình đồng
chí nảy nở sinh sôi và gắn kết với nhau một cách bền chặt từ những người “xa lạ” trở
thành “tri kỉ”. Những câu thơ hết sức giản dị chân thành được đúc kết từ trải nghiệm
thời chiến loạn đã tái hiện lại không gian và thời gian mang những người lính lại gần
nhau hơn. Họ là “đồng chí” một từ rất thiêng liêng. Từ “đồng chí” được tách riêng
thành một câu thơ kết hợp với dấu chấm cảm tạo sự hàm súc cho câu thơ. Những
người lính có xuất thân như nhau, cùng chung lí tưởng bảo vệ tổ quốc đã trở thành “tri
kỉ" trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến thế, trở thành một khối gắn bó mật thiết.
Những người lính từ quen biết mà trở thành “tri kỉ” bởi họ thấu hiểu hoàn cảnh tâm tư
và nỗi lòng của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Họ, những người nông dân, những chiến sĩ đã hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi vì tổ
quốc, vì đất nước. Chôn sâu trong lòng những trăn trở, những băn khoăn day dứt với
quê hương xóm làng. Đối với chúng ta thì nhà, ruộng vườn của cải đóng vai trò rất
quan trọng nhưng những người lính lại có một quan niệm khác biệt: “ruộng nương” thì
gửi “bạn thân cày”, “gian nhà không” thì kệ “gió lung lay”. “Anh” lên đường ra mặt
trận để lại sau lưng tất cả mọi thứ cả vật chất lẫn tình thương. Trong câu thơ có từ
"mặc kệ” tưởng chừng những người lính vô tâm không nghĩ nhưng thật ra đó là sự dứt
khoát và quyết tâm mạnh mẽ đang đè nén những thứ tình cảm cá nhân của những
chàng trai có lí tưởng, có mục đích lớn lao. Dù sự dứt khoát quyết tâm có mạnh mẽ
đến đâu thì trong sâu thẳm những chiến sĩ vẫn còn nặng lòng với quê hương, với xóm
nước: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay ngược lại “người ra lính” đang nhớ
quê hương. Hình ảnh nhân hóa kết hợp hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” hiện lên rất
đỗi thân thuộc gần gũi đã góp phần thể hiện tình yêu với quê hương đất nước của
những người chiến sĩ. Đó quả là sự hy sinh quá lớn lao, nó cần được thấu hiểu và sẻ
chia, dường như nỗi lòng của “anh” cũng là tâm sự bấy lâu của “tôi”. Anh và tôi cũng
nhau dốc bầu tâm sự để vơi nỗi lòng. Chính tình yêu quê hương, nỗi nhớ làng xóm
thân thuộc đã tiếp thêm một nguồn sức mạnh cho tình đồng chí.
Không chỉ là thấu hiểu mà những người lính còn đồng cam khổ, vượt qua gian nan:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
………………………………………………………………………………………………………………….
Những người lính trải qua bao khó khăn gian khổ, không ai chưa từng trải qua cảm
giác bị sốt rét ở núi rừng Việt Bắc sâu thẳm, càng đắp thêm chăn càng lạnh, lại không
có đầy đủ thuốc men y tế. Và thường xuyên trong cảnh thiếu thốn manh áo vào tiết trời
đông lạnh giá “áo rách vai”. Vào cái thời kháng chiến mà những anh vệ quốc quân còn
được gọi là “vệ Nâu” “vệ túm”, nhưng chính họ lại là người kiên cường chiến đấu trên
mọi mặt trận để bảo vệ tổ quốc khỏi giặc ngoại xâm.
Trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy nhưng những người lính vẫn luôn lạc quan,
với niềm tin tưởng, vẫn luôn nở nụ cười “miệng cười buốt giá” như mang đến hơi ấm
của tình người, tình đồng chí. Họ cười họ nắm lấy tay nhau cùng nhau cố gắng:
"thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những cái nắm tay là sự kết nối bền chặt giữa
những cơ thể, trái tim và cảm xúc. Họ truyền cho nhau sự ấm áp và ý chí quật cường,
cùng nhau tiến về phía trước, tiến đến nơi bom đạn, khói lửa giăng mịt mù.
Kết thúc bài thơ, tác giả mở ra một bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Trong cảnh đêm khuya thanh vắng của núi rừng sâu hút, những màn sương lạnh lẽo
giăng đầy cỏ cây, hoa lá, vương trên áo của người lính, các anh đứng cạnh bên nhau,
lặng lẽ chờ địch, không một tiếng nói nhưng bên trong đó là sự đoàn kết, đồng lòng,
cùng nhau chủ động làm nhiệm vụ không màng nguy hiểm, bất chấp sự khắc nhiệt của
thời tiết. Nhưng ba câu thơ với hình ảnh đối lập giữa sự khắc nghiệt và nên thơ bởi có
ánh trăng trong câu thơ: "đầu súng trăng treo”. Câu thơ như điểm nhấn làm sáng cả bài
thơ. Động từ “treo” giữa hai chủ thể “đầu súng” và “trăng” đã tạo ra mối quan hệ giữa
mặt đất và bầu trời gợi cho độc giả những liên tưởng thú vị. “Súng” biểu tượng cho
chiến tranh, chiến đầu” còn “trăng” biểu tượng cho ánh sáng, cái đẹp của trần thế, Như
vậy hai hình ảnh hư và thực hài hòa tạo ra một vẻ đẹp trong chiến đấu: đó là tình đồng
chí. Dường như cái đẹp trong đêm núi rừng tạo cho họ động lực chiến đấu.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu với chủ đề về tình đồng chí được triển khai xuyên
suốt tác phẩm, đồng thời cũng làm hiện lên hình ảnh người chiến sĩ trong thời kì đầu
kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Với lối thơ hàm súc, tác giả để lại những cảm
xúc khó phai trong lòng người đọc.

Đề 1 :Phân tích bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu( BÀI PT3)
1. Mở bài :
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội, thành công chủ yếu về đề tài người lính và chiến
tranh. Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh
chọn lọc, hàm súc.
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948 sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham
gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947). Bài thơ ca ngợi tình đồng
chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính Cách mạng.Đồng thời còn làm
hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp.
2. Thân bài
………………………………………………………………………………………………………………….
* Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí( 7 câu thơ đầu)
a, Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ
bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng
đội:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương
đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với
nhau trong một tình cảm mới mẻ.
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người” anh” và
“tôi”.
+ Mượn thành ngữ “ nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm , nước
trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong
những làn nước
+ Hình ảnh “ đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị
ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất
-> “ Quê hương anh”- “ làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ
miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính
là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
-> Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Chính sự
tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối họ lại với
nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội với nhau.
b, Cơ sở thứ 2: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở
một điểm chung: cùng chung nhịp đập traí tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng
chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.
- Hình ảnh thơ “ súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc
diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:
+ “ Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng
chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê
hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.
+ “ Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu
của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
- Điệp từ “ Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết,
cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh”- “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng
danh khi găp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một
dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.
-> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn
kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
c, Cơ sở thứ 3: Cùng trải qua những khó khăn , thiếu thốn.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm
của những người lính:
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
+“ Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời
người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh
đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.
+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con
người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành” tri kỉ”
+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “ chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu
sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng,
chung khát vọng giải phóng dân tộc.
- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “ đôi” ở câu thơ
trên:
+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. Vì đôi cũng có nghĩa là
hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.\
+ Từ “ đôi người xa lạ” họ đã trở thành “ đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết,
hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt. Câu thơ “ Đồng chí!”
được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm
than như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tính đồng chí là một tình
cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp là sự kết tinh của tình bạn, tình người
giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ “
Đồng chí” như một bản lề gắn kết tự nhiên, khéo léo giữa hai phần của bài thơ: khép
lại phần giải thích cội nguồn cao quý thiêng liêng của tình đồng chí và mở ra những
biểu hiện cao đẹp hơn của tình đồng chí.
=> Tóm lại, 7 câu thơ đầu, đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng
thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ
trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

* Luận điểm 2: Những biểu hiện của tình đồng chí( 10 câu thơ tiếp)
a, Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:
+ Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: neo nguời, thiếu sức lao động. Các anh ra
đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân
giúp đỡ.

+ Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn. Hình ảnh
“ gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình các
anh. Đồng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh- người trụ cột trong gia đình các anh
- Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân
tộc.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ “ Ruộng nương”, “ căn nhà” là những tài sản quí giá, gần gũi gắn bó, vậy mà họ sẵn
sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự
do của toàn dân tộc
+ Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc nhưng giaù sức gợi: Từ “mặc
kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quí giá nhất,
thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn. Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một
cách thầm lặng của các anh vì đất nước.
- Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính
+ Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà , nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những
người thân. Những người lính đã dùng lí trí để trí ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự
thì nỗi nhớ nhúng càng trở nên da diết.
+ Hình ảnh “ giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình
ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh
tế tâm hồn người lính.
+ “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn
canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “ giếng nước gốc đa” một
tâm hồn.
=> Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã hiện lên tràn dầy
khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc lập, tự do của TQ.
c, Biểu hiện thứ 2: Những người lính đã đồng cam cộng khổ trong cuộc đời quân
ngũ
Chính Hữu là người trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai
khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng
thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc
kháng chiến chống pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên
bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết là
những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét
rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.
+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành
điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những khoa khăn, gian khổ.
- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn
của người lính: “ áo rách vai, quần vài mảnh, chân không giày”. Đó là những chi tiết
rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự
khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.
-> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những
gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.
- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá”
cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết,
đồng cảm giữa những người lính.
-> Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc
tấm lòng yêu thương người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.
c, Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm
động, chứa đựng biết bao ý nghiã:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Những cái bát tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự
thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần
- Những cái bắt tay là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt
qua những khó khăn, thiếu thốn.
- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm truyền cho nhau thêm sức mạnh.
- đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.
=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính
những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng bước chân người lính và sưởi ấm tâm
hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
* Luận điểm 3: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội
- Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm nay rừng hoang sương muối”
+ Thời gian: Một đêm phục kích giặc
+ Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phr đầy sương
muối.
- Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm thế:
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
+ Hình ảnh “ đứng cạnh bên nhau” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng
chiến đấu của người lính.
- Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình
đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn: Đầu súng trăng treo.
+ Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng
trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị
và bất ngờ: Trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà
lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “ treo” ở đây rất thơ mộng. nối liền mặt đất
với bầu trời.
+ Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa: Súng là biểu tượng cho cuộc chiến
đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình
diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình, hiện
thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ- vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ. Gợi
lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa cam go khốc
liệt. Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời
và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
-> Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng
chiến: một nền thơ ca có sự kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
* Đánh giá về nghệ thuật: Với thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết,
hình ảnh chân thực cô đọng, hàm súc nhưng giàu sức biểu cảm, bài thơ Đồng chí đã để
lại những ấn tượng sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội và chân dung anh bộ đội Cụ Hồ
thời kì kháng chiến chống Pháp : chân thực, giản dị mà vô cùng cao đẹp.
3. Kết bài
Tóm lại, với bài thơ “Đồng chí” nhà thơ Chính Hữu đã thành công trong việc
thể hiện tình đồng chí, đồng đội. Đồng chí là một trong những bài thơ hay viết về
người lính. Cái hay, cái đẹp của bài thơ không chỉ còn trên trang giấy mà đã lan tỏa
thấm vào lòng người đọc để mỗi chúng ta biết sống đẹp hơn, biết yêu quê hương, đất
nước hơn, sống xứng đáng hơn với thế hệ cha anh đã không tiếc xương máu đổi lấy
hòa bình, hạnh phúc hôm nay.
Đề 2: Kết thúc bài thơ đồng chí, Chính Hữu viết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cảm nhận sâu sắc của em về vẻ đẹp của đoạn thơ trên.
* Gợi ý trả lời:
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả.
- Phong cách sáng tác.
- Giới thiệu văn bản.
- Giới thiệu nội dung chính của đoạn thơ ta đi cảm nhận.
2. Thân bài: Cần đi cảm nhận nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.
- Câu thơ đầu gợi ra hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 đem đến ba thông tin về thời gian: “ đêm nay”, về
không gian: “ Rừng hoang”, về thời tiết, “ Sương muối”. Tất cả đều nhấn vào cái
hoang vu, cái lạnh thấu xương khi những người lính đứng gác, nơi rừng sâu giá lạnh
trong khi trang phục các anh lại phong phanh: áo rách, quần vá, đầu trần, chân đất, khó
có thể chống được cái lạnh thấu xương. “ Đêm nay” là một đêm phục kích cụ thể
nhưng có ý nghĩa khái quát như bao đêm khác, việc phục kích trong hoàn cảnh khắc
nghiệt với các anh đã thành thường lệ.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Câu thơ thứ hai:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Có sự đối lập giữa hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt với vẻ đẹp của lí tưởng cách
mạng và tình đồng chí keo sơn. Dù cho cái rét có thấm vào xương thịt, các anh vẫn bất
chấp tất cả, vẫn “ Đứng cạnh bên nhau”, vẫn kề vai sát cánh, đoàn kết chung một
chiến hào trong tư thế chủ động “ chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng các
anh, xua đi cái hoang vu, giá lạnh của núi rừng.Việt Bắc. Trong cái bát ngát của núi
rừng, hai người lính hiện lên sừng sững, hiên ngang, cao cả sánh ngang cùng núi rừng
Việt Bắc.
- Bài thơ khép lại bằng hình ảnh đẹp “ Đầu súng trăng treo”. Hình ảnh thơ giàu ý
nghĩa tả thự và biểu tượng.
+ Ý nghĩa tả thực: Hình ảnh thơ được nhận ra sau ngiều đêm đi phục kích của
tác giả ; Đêm đã về khuya, nơi rừng hoang, sương muối xuống mỗi lúc một nhiều, bầu
trời như sả xuống thấp dần, vầng trăng cũng như sà xuống thấp hơn. Hai người lính
đang kề vai sát cánh trong tư thế chủ động xuất kích, nhìn ở một góc độ nào đó họ
nhận ra trăng như đang treo lơ lửng trên đầu mũi súng.
+ Ý nghĩa biểu tượng: từ ý nghĩa tả thực, hình ảnh “ súng” và “ trăng” còn gợi ra
trong lòng người đọc những liên tưởng sâu xa. Súng và trăng – hai hình ảnh vốn rất xa
nhau nhưng trong cảm nhận của người chiến sĩ lại đan cài, gắn kết tự nhiên. Súng và
trăng là biểu tượng của gần và xa, của chiến tranh và hòa bình, của hiện thực và lãng
mạn, của cứng dắn và dịu hiền, là chất chiến sĩ và chất thi sĩ, chất thép và chất trữ tình
… đã trở thành biểu tượng về người lính: cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng tâm hồn
các anh luôn trong trẻo, tràn đầy cảm hứng lạc quan, lãng mạn. Hình ảnh thơ đã trở
thành biểu tượng cho thơ ca cách mạng – nền thơ ca kết hợp hài hòa giữa cảm hứng
hiện thực và lãng mạn.
3, Kết bài: Khẳng định lại nội dung và nghệ thuật của khổ thơ trên.
Tham khảo kết bài: Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ tự do, sử dụng hình ảnh biểu
tượng khổ thơ đã khắc họa thành công biểu tượng về người lính cụ Hồ với những
phẩm chất cao đẹp.
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài
tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý
kiến.
Gợi ý dàn bài:
Mở bài - Nêu khái quát chung về tác giả, văn bản
+ Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp- Mĩ.
Sáng tác của ông chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc
kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó giữa tiền
tuyến và hậu phương.
+ Bài thơ ra đời năm 1948. Là kết quả của những trải nghiệm thuwcvj,
những cảm xúc sâu xa, những suy ngẫm của tác giả về tình đồng đội trong
chiến dich VB
- Nêu nhận định về bài thơ
Thân 1. Giải thích nhận định: Lời nhận định trên đã đánh giá chính xá sự thành
bài công của bài thơ Đồng chí. Bức tượng đài tráng lệ là hình ảnh của những
………………………………………………………………………………………………………………….
người lính được khắc họa rực rỡ, đẹp đẽ, cao cả và thiêng liêng
2. Chứng minh nhận định:
- Vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện rất rõ
trong đoạn thơ nói về cơ sở hình thành tình đồng chí:
+ Những người lính có xuất thân nghèo khổ. Họ đều là những người nông
dân từ đồng bằng ven biển, từ miền núi có nhiều khó khăn, gian khổ.
+ Người lính có chung lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Dù ở mọi phương trời
khác nhau, nhưng họ nghe theo tiếng gọi của TQ mà lên đường chiến đấu.
+ Người lính có chung hoàn cảnh sống và chiến đấu: Súng bên súng, đầu sát
bên đầu, đêm rét chung chăn. Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, họ vẫn kề
vai, sát cánh bên nhau, để từ xa lạ, đến quan nhau, thành tri kỉ và đòng chí.
+ Kết thúc khổ thơ là một nốt nhấn, một sự kết tinh cảm xúc: Đồng chí!
- Vẻ đẹp rực rõ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện ở tình
đồng chí gắn bó với nhau trong cuộc sống gian lao:
+ Họ cảm thông, chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ quê : nhớ ruộng nương, lo cảnh gian
nhà không nghèo khổ. Từ “ mặc kệ” chỉ thái độ cương quyết, quyết tâm lên
đường ra đi. Không cần phải nói ra, nhưng họ hiểu cảm xúc của nhau
+ Người lính cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn, những cơn sốt rét rừng
nguy hiểm. Tác giả khắc họa hình ảnh người lính bằng bút pháp hiện thực,
những hình ảnh thơ song hành, đối nhau: áo rách vai/ chân không giày…Dù
khó khăn, gian khổ nhưng họ vẫn vượt lên, kiên cường chiến đấu bằng tình
đồng chí, đồng đội sâu sắc: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đó là cái nắm
tay để san sẻ khó khăn, động viên nhau bằng tình đồng chí gắn bó keo sơn.
- Vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí được thể hiện thật lãng mạn
khi họ sát cánh bên nhau canh gác:
+ Những người lính canh gác trong không gian, thời gian khắc nghiệt: đêm,
rừng hoang, sương muối.
+ Họ sát cánh bên nhau vì cùng chung chiến hào, chung nhiemj vụ chiến đấu,
chủ động trong tư thế: chờ giặc.
+ Hình ảnh người lính cao đẹp, thiêng liêng được kết tinh trong hình ảnh thơ
rất đẹp: đầu súng trăng treo. Đó là bức tượng đài người lính, hình ảnh đẹp
nhất, cao quý nhất của tình đồng chí. Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hiện
thực, vừa là tinh thần thép của những người lính, vừa là tâm hồn thi sĩ lãng
mạn.
Kết - Khẳng định ý nghĩa lời nhận định.
bài + Cái hay của bài thơ ở chỗ: Viết về người lính mà không có tiếng súng, sự
chết chóc, đau thương. Dù vậy, hình ảnh của người lính vẫn cao cả, hào
hùng.
+ Nhà thơ đã khai thác thành công chất thơ từ những cái bình dị của đời
thường.

V) DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾ CHỦ ĐỀ


ĐỀ 1: * Hãy viết 1 đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về
vài trò của tình bạn trong cuộc sống của mỗi con người
………………………………………………………………………………………………………………….
1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1
đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn  khoảng 2/3 tờ giấy thi
( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu mở đoạn, thân đoạn, kết
đoạn
2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
* Câu mở đoạn: Tình bạn là mối quan hệ không thể thiếu trong đời sống của tất cả
chúng ta.
* Các câu thân đoạn:
- Giải thích:
+ Tình bạn là tình cảm gắn bó thân thiết giưa những người có nét chung về sở thích,
tính tình, ước mơ, lí tưởng...
+ Tình bạn đẹp là tình bạn gắn bó, yêu thương, chia sẻ, đồng cảm trách nhiệm và giúp
đỡ nhau trong cuộc sống. Tình bạn đẹp được hình thành trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau,
chân thành, tin tưởng lẫn nhau.
- Bàn luận: Tình bạn đẹp có vai trò, ý nghãi quan trọng trong cuộc sống của mỗi
người.
+ Là nguồn động viên tinh thần, giúp ta vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc
sống.
+ Giúp con người có thể chia sẻ với nhau cho niềm vui nhân lên và nỗi buồn được vợi
đi, được xoa dịu.
+ Cho ta học hỏi thêm những điều hay lẽ phải để hoàn thiện bản thân. chúng ta đã thấy
tình bạn tri âm tri kỉ như Lưu Bình – Dương Lễ, hay Nguyễn Khuyến – Dương Khuê,
Các Mác và Ăng -ghen,…
- Mở rộng vấn đề:
+ Để nuôi dưỡng và giữ gìn tình bạn đẹp, phải sống chân thành, tôn trọng, tin tưởng,
bảo vệ lẫn nhau và có lòng vị tha.Tuy nhiên, bảo vệ không có nghĩa là bao che cái xấu
màphải thẳng thắn chỉ ra lỗi lầm của nhau để giúp nhau cùng tiến bộ.
+ Phê phán việc rủ rê, lôi kéo, kích động bạn bè làm việc xấu bởi đó là biểu hiện của
tình bạn xấu.
- Bài học:
+ Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cùng xây dựng những tình bạn đẹp để
động viên, giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong học tậ và cuócống.
+ Cần chọn bạn mà chơi, tránh những mối quan hệ xấu có hại cho mình hoặc làm hại
bạn.
+ Liên hệ bản thân
* Câu kết đoạn:Vì vậy, tất cả chúng ta cần đối xử với những người bạn của mình
bằng tất cả sự chân thành và không ngừng giúp đỡ nhau vươn lên trong cuộc sống.
ĐỀ 2: Em hãy nêu suy nghĩ về hình ảnh người lính trong kháng chiến và trong
thời bình?
Gợi ý:
-Hình tượng người lính trong kháng chiến:
- Họ là những người yêu nước, có lí tưởng sống, chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất
nước (lấy DC, phân tích)
………………………………………………………………………………………………………………….
- Họ dũng cảm, coi thường hiểm nguy, pha chút ngang tàng đầy chất lính
- Họ cũng là những người giàu tình cảm, có tình đồng đội sâu sắc, chính tình đồng đội
tiếp thêm sức mạnh cho họ
- Họ cũng là những người có tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, lạc quan phơi phới
b-Hình tượng người lính trong thời bình:
-Đó là những chiến sĩ bảo vệ biên giới, hải đảo, những chiến sĩ ngày đêm luyện tập
trong quân ngũ-> họ đang tiếp tục bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, bảo vệ độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.  Ở họ vẫn sáng ngời những phẩm chất : yêu nước,
dũng cảm, có tình đồng đội sâu sắc, trẻ trung, lãng mạn.

ĐỀ 3: SUY NGHĨ VỀ LÒNG YÊU NƯỚC

I. Mở bài: giới thiệu lòng yêu nước


Đất nước Việt Nam là một dân tộc chịu nhau đau thương và khó khăn do chịu nhiều
cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng ta đã trải qua 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô
hộ giắc tây và 20 năm đô hộ nôi chiến. Một thời kì mà chúng trải qua bao nhiêu đau
thương và mất mát. Và trải qua từng thời kì giặc ngoại xâm thì chúng ta mới biết bao
nhiêu anh hùng bao nhiêu người Việt Nam có lòng yêu nước, đứng dậy đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về lòng yêu nước.
II. Thân bài:
1. Khái niệm lòng yêu nước:
- Tình yêu nước là tình yêu quê hương, yêu nơi chon nhau cắt rốn
- Yêu nước là một tình cảm cao quý và thiêng liêng sẵn sang đem tài năng và trí tuệ để
bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Lòng yêu nước là hành động góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
2. Biểu hiện về lòng yêu nước:
a. Thời chiến tranh:
- Sẵn sàng ra chiến trường cầm súng chiến đấu vì dân tộc vì dất nước
- Không ngại khó khan, gian khổ để xây dựng đất nước
- Yêu nước là nguyện hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc
- Những tấm gương về lòng yêu nước: Võ Thị Sáu; Nguyễn Văn Trỗi; Kim Đồng;
Nguyễn Đình Giót;….
b. Thời bình:
- Cống hiến trí tuệ và tài năng để xây dựng đất nước ngày càng phát triển
- Luôn giữ vững quyết tâm đưa đất nước sánh vai với các cường quốc
- Lòng yêu nước còn được thể hiện ở lòng tự hào dân tộc: biểu hiện cụ thể qua các áng
thơ văn ngợi ca tinh thần ngoan cường của dân tộc; lưu giữ các kỉ vật của các anh
hung; mang lại các huy chương vàng cho đất nước qua các cuộc thi trí tuệ và sức khỏe;
….
………………………………………………………………………………………………………………….
3. Vai trò của lòng yêu nước:
- Là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn đưa ra các áng văn bất hủ
- Làm cho con người yêu thương gia đình, cuộc sống; khi yêu nước sẽ yêu mọi thứ dù
nhỏ nhặt nhất.
*Phê phán những biểu hiện tiêu cực, sống vô ơn,phản bội tổ quốc,cần phải bị loại bỏ.

4. Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong thời kì hiện nay:


- Không ngừng học tập và nỗ lực phấn đấu
- Nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật
- Tố cáo các hành vi không thể hiện lòng yêu nước
- Dung cảm đối mặt với cái xấu
- Bảo vệ môi trường hay việc nhỏ nhất cũng là thể hiện lòng yêu nước
- Biết ơn các chiến sĩ, anh hung liệt sĩ;…..
III. Kết bài:
- Khẳng định lòng yêu nước của bản thân
- Kêu gọi mọi người thể hiện lòng yêu nước
- Phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật

Đề bài: Viết đoạn văn từ khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ
trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay.

1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, đoạn văn nghi luận xã hội, học
sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an
toàn  khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu
mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.

2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :

* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận


Tham khảo câu mở đoạn: Thế hệ trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay là vô
cùng quan trong.
* Thân đoạn: Cần có các ý sau:
- Nhận thức được vai trò , trách nhiệm của thế hệ trẻ: thế hệ trẻ là tương lai của đất
nước, đất nước mạnh hay yếu đều tùy thuộc vào lớp trẻ. Bởi vậy, những người trẻ hôm
nay cần nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, gánh vác
những trách nhiệm mà cha ông giao cho.
- Đặc điểm , tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay:
+ Chúng ta vẫn giữ được những thành quả cách mạng của ông cha, đanng trên đà phát
triển, hướng tới là một nước công nghiệp giàu mạnh, đời sống nhân dân ấm no, hạnh
phúc.
+ Chúng ta đang trong thời kì hội nhập với thế giới, có nhiều cơ hội giao lưu học hỏi,
phát triển song cũng có không ít thách thức.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Chủ quyền của dân tộc vẫn thường đe dọa, nhất là trên biển Đông.
- Trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay:
+ Khắc sâu công ơn của các thế hệ đi trước, bảo vệ giữ gìn nền hòa bình, độc lập toàn
vẹn lãnh thổ.
+ Biến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở thành
sự thực.
+ Đưa nước ta sánh ngang tầm các nước phát triển trên thế giới, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
- Những việc nên và không nên của lớp trẻ hiện nay.
+ Nên ra sức học tập, trau dồi kiến thức, kĩ năng (nhất là học ngoại ngữ), rèn luyện thể
chất để có sức khỏe, trí tuệ, phục vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng, phát triển kinh tế
đất nước.
+ Nên sống chủ động, tự lập, phát huy thế mạnh của người Việt: cần cù, chăm chỉ,
đoàn kết, nhân ái, ham học hỏi,..tránh xa lười biếng, ỷ lại, sự ích kỉ, đố kị; nên mạnh
dạn sáng tạo, tránh sự dập khuôn, máy móc; yêu lao động, tránh lãng phí thời gian vào
những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội hay những thứ vô bổ như rượu, bia, thuốc lá, cờ
bạc…
+ Nên đề cao cảnh giác và sự tỉnh táo trước những âm mưu chống phá Nhà nước của
các thế lực thù địch; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; sẵn sàng chiến đấu khi tổ
quốc cần.
* Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề
Tham khảo câu kết đoạn: Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước cần nhận thức
rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong giai đoạn hiện nay.

PHẦN II: LUYỆN ĐỀ ÔN ĐẠI TRÀ, ÔN VÀO 10

TỔNG HỢP ĐỀ THI VÀO 10 CHUYÊN ĐỀ ĐỒNG CHÍ


ĐỀ SỐ 1
Phần I. Đọc-hiểu (3,0 điểm)
Câu 1.(3,0 điểm) Đọc đoạn văn và thực hiện các yêu cầu sau: 
“Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa,
cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không
nghĩ như vậy nữa. Và, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình
được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia.
Công việc của cháu gian khổ thế đấy.cử cất nó đi, cháu buồn đến chết mất".
(Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, tr. 185) 
a) Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Tác giả là ai?
b) Xác định thành phần trạng ngữ trong câu “Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ
như vậy nữa”.
c) Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ từ vựng được sử dụng trong câu “Công
việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất".
………………………………………………………………………………………………………………….
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở Câu 1, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của em về ý nghĩa của những công việc thầm lặng trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm) Phân tích đoạn thơ sau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. 
Anh với tôi đôi người xa lạ 
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, 
Súng bền vững, đầu sát bên đầu, 
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
(Đồng chí - Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, tr.128)
GỢI Ý LÀM BÀI
Phần I. Đọc-hiểu (3,0 điểm)
Câu 1.(3,0 điểm)
a) Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm Lặng lẽ Sapa của tác giả Nguyễn Thành Long
b) Thành phần trạng ngữ trong câu “Bây giờ làm nghề này”.
c) Biện pháp tu từ: thế “Công việc của cháu" - "nó".
Tác dụng: nhấn mạnh hơn về công việc mà nhân vật đang nói đến, tạo cảm giác quen
thuộc, gắn bó với công việc của nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm.
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Vấn đề nghị luận: Suy nghĩ của em về ý nghĩa của những công việc thầm lặng trong
cuộc sống.
Yêu cầu: Đoạn văn 200 chữ
Đoạn văn tham khảo
Chiến trường nào cũng biết bao gian khổ, trận chiến nào cũng có những mất mát hy
sinh.Trong cuộc chiến phòng, chống dịch COVID-19 hiện nay đã đọng lại trong em
thật nhiều suy nghĩ của những công việc thầm lặng trong cuộc sống. Cuộc chiến chống
dịch bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt trong 4 tháng qua, với lời kêu gọi "Chống
dịch như chống giặc": toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã đồng tâm, đồng sức, đồng
lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chống lại đại dịch COVID-19. Phát huy
truyền thống của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh vệ quốc oanh liệt, hào hùng, với
sức mạnh đoàn kết, ý chí một lòng của dân ta đã đưa Việt Nam trở thành “điểm sáng”
trong phòng chống dịch COVID-19 toàn cầu. Trong cuộc chiến chống lại đại dịch,
Việt Nam đã có biết bao anh hùng thầm lặng, không quản gian khó hy sinh. Chúng ta
dễ dàng bắt gặp những hình ảnh các chiến sĩ "ăn núi, ngủ rừng", vội vàng những bữa
cơm chiều, rồi đến những đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ của đội ngũ y, bác sĩ, chiến
sĩ lực lượng vũ trang nơi tuyến đầu “chống giặc” đã làm lay động hàng triệu trái tim.
Họ tạm gác lại cuộc sống thường nhật, phải xa gia đình, người thân yêu để "chiến đấu"
ở tuyến đầu. Họ còn được gọi là "những anh hùng thầm lặng trên mặt trận không tiếng
súng", những người mà chúng ta không thể chỉ dùng từ "cảm ơn" là đủ. Và những việc
làm thầm lặng trong cuộc sống trong thời đại công nghệ số lại càng được lan tỏa mạnh
………………………………………………………………………………………………………………….
mẽ hơn, nó giúp cho chúng ta hướng tới những điều tốt đẹp, về những con người anh
hùng. 
Câu 2. (5,0 điểm)
DÀN Ý 
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và trích dẫn 7 câu thơ đầu.
2. Thân bài
- Cảm nhận về xuất thân của những người lính: Họ đều là những người con của vùng
quê nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”
- Cảm nhận về sự tương đồng trong nhiệm vụ và lí tưởng sống của người lính: Mỗi
người một quê hương khác nhau và họ là những người xa lạ với nhau nhưng họ đều
tập trung tại đây, đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục đích chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc
- Hoàn cảnh gian khổ khó khăn đã gắn kết tình cảm người lính: Hoàn cảnh chiến đấu
nơi quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét đến thấu xương chỉ có tấm chăn mỏng để đắp
chung, chính từ hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau
- Sự thiêng liêng, cao cả trong tình đồng chí: Tình đồng chí không chỉ là chung chí
hướng, cùng mục đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ,
khó khăn
3. Kết bài
Qua bảy câu thơ đầu của bài thơ “ Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng nhiều hình ảnh
chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, không
phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị.
BÀI VĂN MẪU
     Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ hay nhất về tình đồng đội, đồng chí
của các anh bộ đội cụ hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Với cảm nhận tinh tế,
tác giả Chính Hữu – một nhà thơ, chiến sĩ đã xúc động mà sáng tác ra bài thơ. Tình
đồng chí đồng đội sâu nặng dù trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn được thể hiện
rõ nhất trong 7 câu thơ đầu cảu bài thơ.
     Mở đầu đoạn thơ là tác giả đã miêu tả rõ nét nguồn gốc xuất thân của những người
lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
     Họ là những người xuất thân từ nông dân, hình ảnh đó được tác giả mô tả rất chân
thực, giản dị mà đầy cao đẹp.Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể chuyện, giới
thiệu về quê hương của anh và tôi. Họ đều là những người con của vùng quê nghèo
khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc sống nơi quê nhà còn
nhiều khó khăn, đói nghèo nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ sẵn sàng
tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước. Đó là sự đồng cảnh ngộ, là niềm đồng cảm sâu
sắc giữa những người lính ngày đầu gặp mặt.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
     Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ của
nhau nhưng họ đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục đích chiến
………………………………………………………………………………………………………………….
đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ
những gian khổ của cuộc sống chiến trường, tác giả đã sử dụng một hình ảnh rất cụ
thể, giản dị và gợi cảm để nói lên tình gắn bó đó:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
     Hoàn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét
đến thấu xương.Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ hoàn
cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả, khắc nghiệt
và nguy nan đã gắn kết họ lại với nhau, khiến cho những người đồng chí trở thành
người bạn tâm giao gắn bó. Chính tác giả cũng đã từng là một người lính, nên câu thơ
đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu mến sâu nặng với đồng đội. 
     Câu thơ cuối cùng, chỉ 2 tiếng đơn giản “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn gọn
nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí hướng, cùng mục
đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn. Chẳng
còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở thành một khối thống nhất,
đoàn kết và gắn bó.
     Chi với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh
chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, không
phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình
đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những
người lính cũng như con người Việt Nam.

----------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ SÔ 2
Câu 1 (2,0 điểm)
Đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi:
    Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa
tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt
đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng.
Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào
xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì
giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung... Những lúc im lặng
lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.
(Trích Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, tr.183-184)
a) Đoạn văn trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?
b) Tìm các từ cùng trường từ vựng chỉ thời tiết trong đoạn văn trên. Qua trường từ
vựng đó, em hiểu gì về hoàn cảnh sống và làm việc của nhân vật?
c) Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: Cải lặng im
lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát
chội lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung... 
Câu 2 (2,0 điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
Viết một đoạn văn (từ 10 đến 12 câu) trình bày suy nghĩ của em về vai trò của tính tự
lập trong cuộc sống.
Câu 3 (6,0 điểm) Cảm nhận đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Trích Đồng chí - Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập một,
NXB Giáo dục, 2019, tr.128-129)
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1 (2,0 điểm)
a) Đoạn văn trên trích trong văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
b) Các từ cùng trường từ vựng chỉ thời tiết trong đoạn văn trên: mưa, tuyết, bão, gió
Qua trường từ vựng đó, ta thấy hoàn cảnh sống và làm việc của nhân vật anh thanh
niên thật khắc nghiệt, đầy gian khổ.
c) Trong câu văn: Cải lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc,
mà gió thì giống những nhát chội lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung... đã sử
dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa:
+ So sánh: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn
muốn quét đi tất cả.
+ Nhân hóa: chặt, quét.
Tác dụng: Nhấn mạnh hoàn cảnh làm việc đầy khó khăn, vất vả của anh thanh niên.
Qua đó làm nổi bật sự hy sinh thầm lặng của nhân vật này.
Câu 2 (2,0 điểm)
Vấn đề nghị luận: Suy nghĩ của em về vai trò của tính tự lập trong cuộc sống.
1. Mở đoạn
- Không thể thành công nếu như con người thiếu tính tự lập. Tự lập là đức tính cần
thiết và quan trọng.
2. Thân đoạn
- Giải thích tính tự lập: Tự lập chính là một cách sống tự quyết định, tự hành động, tự
lựa chọn cho mình một con đường trong tương lai để đi. Tự lập là hành động mà
không dựa dẫm vào người khác.
- Biểu hiện của tính tự lập
+ Tự học mà bố mẹ không phải thúc giục
+ Hoàn thành mọi bài tập bằng sức của mình, không đi chép bài
+ Dám đưa ra ý kiến, quan điểm của mình…
- Vì sao phải có tính tự lập?
+ Tự lập là đức tính quan trọng mà cha ông chúng ta dạy từ thuở nhỏ.
+ Tự lập giúp con người có tính sáng tạo hơn.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Khi tự lập, con người có ý thức hơn trong mọi hành động
+ Tính tự lập giúp con người nhận thức toàn diện hơn về mọi mặt, có cái nhìn bao quát
hơn về mọi mặt cuộc sống.
+ Tính tự lập giúp con người khẳng định giá trị bản thân.
+ Tính tự lập giúp xã hội hoàn thiện và phát triển
- Hiện trạng tính tự lập trong giới trẻ hiện nay
+ Học sinh đang thiếu dần tính tự lập, ỷ lại vào học thêm, mạng Internet, sách tham
khảo,…
+ Nhiều người dựa dẫm, chờ đợi người khác
+ Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người biết sống tự lập, không phải chờ đợi, dựa dẫm,
sống bằng chính bản thân.
- Bài học nhận thức và hành động
+ Chăm chỉ rèn luyện học tập
+ Giúp đỡ mọi người xung quanh cùng rèn luyện tính tự lập
3. Kết đoạn
- Đừng để thành công xa rời bạn vì bạn không phải là người có tính tự lập.
ĐOẠN VĂN THAM KHẢO
1/ Tự lập là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu dẫn đến sự thành công của
con người. Tự lập là chúng ta có khả năng tự xây dựng lấy cuộc sống cho mình, không
ỉ lại, không nhờ vả người khác.Nó thể hiện sự tự tin của bản thân ta. Tính tự lập còn
giúp cho ta rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp khác nữa như: cần cù, chịu
khó, kiên nhẫn,…Giúp cho ta dần dần hoàn thiện trong cuộc sống. Bên cạnh đó, tính tự
lập còn tạo cho bản thân những thử thách mới lạ, tạo niềm vui cho cuộc sống.Có tính
tự lập thì chúng ta sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự lập là một đức tính rất
tốt, quý báu. Chúng ta cần phải rèn luyện, trau dồi, bồi dưỡng đức tính quý báu này để
ta có thể đương đầu một cách tự tin trước cuộc đời đầy bon chen xô bồ này.
2/ Tính tự lập có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Vậy tính tự lập là gì?Tính tự lập là sự tự ý thức của con người khi làm một việc gì đó
mà không cần sự nhắc nhớ, đôn đốc hay dựa dẫm và người khác.Người có tính tự lập
luôn luôn là người đạt nhiều thành công trong cuộc sống.Thực tế cho chúng ta thấy có
rất nhiều người có tính tự lập. Như Jack Ma, nhờ có tính tự lập mà ông đã trở thành tỉ
phú. Thử hỏi xem nếu không có tính tự lập thì chúng ta sẽ làm được gì?  Sẽ đạt được
thành công, sẽ bước trên con đường trải đầy hoa hay không?Tính tự lập giúp chúng ta
có động lực để làm việc. Có tự lập, chúng ta mới biết được ngoài kia có biết bao sóng
gió, thử thách. Nếu không có tự lập, bạn sẽ chẳng bao giờ làm được việc gì thậm chí
hình thành thói ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.Hiện nay, có rất nhiều các bậc phụ
huynh rất nuông chiều con, không cho con sống tự lập để rồi gây ra nhiều hậu quả
đáng tiếc.Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng tự lập.Đôi lúc chúng ta vẫn
phải hỏi ý kiến của người lớn, những người thân trong gia đình để có hướng đi tốt nhất
cho chính bản thân mình. Thật vậy, mỗi người hãy rèn cho mình tính tự lập bới tự lập
không phải tự có, xuất hiện trong chúng ta, nó chỉ có khi chúng ta biết trau dồi, biết rèn
luyện mà thôi!
3/ Dựa vào người khác không bằng dựa vào chính mình.Muốn thành công trong cuộc
sống, tự lập là năng lực cần có ở mỗi con người.Tự lập là tự làm lấy, tự giải quyết
công việc của mình, tự lo liệu, tạo dựng cho cuộc sống của mình, không trông chờ, dựa
………………………………………………………………………………………………………………….
dẫm phụ thuộc vào người khác. Người có tính tự lập là người có bản lĩnh, luôn tự tin
trước cuộc sống, có ý chí nỗ lực phấn đấu, kiên trì bền bỉ, sẵn sàng vượt qua khó khăn,
gian khổ để hoàn thành tốt công việc. Người có tính tự lập hường gặt hái được nhiều
thành công trong cuộc sống và luôn nhận được sự kính trọng của mọi người.Người
không biết tự lập thường sống ích kỉ, dựa dẫm vào người khác, lười biếng, ỷ lại trong
công việc, bị mọi người khinh ghét và xa lánh. Là học sinh, muốn có tính tự lập, trước
hết phải chăm chỉ học tập tốt, biết tự mình hoàn thành tốt mọi công việc được giao, tự
chịu trách nhiệm về công việc mình làm, luôn năng động và sáng tạo trong học tập và
trong cuộc sống, không bao giờ chán nản hay lùi bước trước khó khăn trở ngại. Có làm
được như vậy, học sinh sẽ sớm hình thành được bản lĩnh tự lập, mai này trở thành
người hữ ích, đem sức mình xây dựng quê hương, đất nước.
Câu 3 (6,0 điểm)
Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm.
- Dẫn dắt đoạn trích thơ.
Thân bài: Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí
   - Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những
người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội
mình:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
    Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng
nương, gian nhà, giếng nước gốc đa,...Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của
người lính.Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận,
họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời
người lính :
    + Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng
chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự
khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói
cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ
có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
     + Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và thời
tiết "buốt giá". Cặp từ xưng hô "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung
trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó,
chia sẻ của những người đồng đội.
Kết bài
--------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ SỐ 3
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 1 (2 điểm).

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu:

“Mẹ ơi những ngày xa

Là con thương mẹ nhất

Mẹ đặt tay lên tim

Có con đang ở đó

Như ngọt ngào cơn gió

Như nồng nàn cơn mưa

Với vạn ngàn nỗi nhớ

Mẹ dịu dàng trong con!”

(Trích Dặn mẹ - Đỗ Nhật Nam)

1. Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ?

2. Tìm từ láy có trong đoạn thơ.

3. Hai câu thơ sau mang hàm ý gì?

   “Mẹ đặt tay lên tim

   Có con đang ở đó”

Câu 2 (3 điểm).

   "Cuộc sống quanh ta đang bị ngập trong rác."

Em hãy viết một bài văn nghị luận nêu ý kiến của mình về vấn đề trên.

Câu 3 (5 điểm).

Phân tích những câu thơ sau trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,


………………………………………………………………………………………………………………….
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

Đồng chí!

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

(Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục 2017, Tr. 128-129)

GỢI Ý LÀM BÀI


Câu 1: Về đoạn trích trong bài thơ Dặn mẹ của Đỗ Nhật Nam.

a.

- Đoạn trích được viết theo thể thơ năm chữ (ngũ ngôn).

- Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm.

b. Từ láy có trong đoạn: Ngọt ngào, nồng nàn, dịu dàng.

c.

- Hai câu thơ muốn người nghe (người đọc) hiểu theo hàm ý: Mẹ luôn yêu con tha
thiết và trong trái tim người mẹ luôn lưu giữ hình ảnh của con mình.

- Đồng thời qua đó thể hiện tình yêu mẹ sâu sắc của tác giả.

Câu 2: Đề mang tính mở nên thí sinh có thể viết theo nhiều cách. Dưới đây là một số
gợi ý cơ bản nhằm định hướng chấm bài:

Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận

Thân bài:

Gợi hướng :

- Rác là gì? Trong đời sống hiện nay có những loại rác nào? (rác: sinh hoạt, sản xuất,
âm thanh, … rác văn hóa, rác trong tính cách..)

- Hiện nay, tình trạng rác đang tràn ngập cuộc sống ra sao?

- Nguyên nhân nào dẫn đến cuộc sống của nhân loại bị ngập bởi rác?

- Rác gây ra những hậu quả gì với cuộc sống của chúng ta?
………………………………………………………………………………………………………………….
- Cần làm gì để làm cho cuộc sống không bị ngập bởi rác?

Kết bài: Trở lại vấn đề nghị luận và nêu lời kêu gọi hành động

Câu 3: Phân tích đoạn thơ trong bài Đồng chí của Chính Hữu

Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích và trích dẫn đoạn
thơ.

Thân bài:

A, Về nội dung: (2,5 điểm)

* Cơ sở hình thành tình đồng chí (7 câu đầu)

- Họ xuất thân cùng cảnh ngộ nghèo khó;

- Tình đồng chí đồng đội còn bắt nguồn từ sự cùng chung lí tưởng, mục đích chiến
đấu;

- Tình đồng chí được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi thiếu
thốn;

 Câu thơ thứ 7: Câu đặc biệt - một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng
trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng.

* Vẻ đẹp của tình đồng chí (3 câu cuối)

- Bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc
đời người lính, sát cánh bên nhau chiến đấu trong tư thế chủ động.

- Nổi nên trên nền cảnh rừng đêm là ba hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu
súng, vầng trăng…

- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cảnh vừa thực, lại vừa mộng, là vẻ đẹp hài hoà của
tâm hồn chiến sĩ, thi sĩ.

B, Về nghệ thuật: (1,0 điểm)

 Đoạn trích đã sử dụng thành công bút pháp tả thực kết hợp với lãng mạn tạo nên hình
ảnh thơ đẹp mang ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ bình dị, tình cảm chân thành, sử dụng thành công kiểu câu đặc biệt và
phép tu từ ẩn dụ.

Kết bài: - Đánh giá lại giá trị của đoạn tríc
………………………………………………………………………………………………………………….
ĐỀ SỐ 4
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 ĐIỂM)  
     Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 3:
     … Ông lại muôn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào,
khuân đá. (1) Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? (2) Những
đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. (3)…
(Theo Làng – Kim Lân, Ngữ văn 9, Tập 1, tr.163, NXB Giáo dục)
Câu 1: (1.0 điểm) Xác định các phương thức biểu đạt của đoạn trích
Câu 2: (1.0 điểm) 
Gọi tên, chỉ ra một biện pháp tu từ và nêu hiệu quả diễn đạt của biện pháp tu từ đó
trong câu sau: “Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ,
xẻ hào, khuân đá,…”
Câu 3: (1.0 điểm) 
Trong đoan trích trên, câu nào là lời trần thuật của tác giả? Câu nào là lời độc thoại nội
tâm của nhân vật? Nêu tác dụng của các lời độc thoại nội tâm trong việc biểu đạt nội
dung.
II. TẬP LÀM VĂN (7.0 ĐIỂM)
Câu 1: (3.0 điểm) 
Em hãy viết một bài văn (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về tính dũng
cảm.
Câu 2: (4.0 điểm) Phân tích đoạn thơ sau đây để làm nổi bật những cơ sở tạo nên tình
đồng chí cao đẹp:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau 
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
(Trích Đồng chí – Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập 1, tr. 128, NXB Giáo dục)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Đọc hiểu
Câu 1. Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt tự sự, biểu cảm.
Câu 2.
- Chỉ ra một biện pháp tu từ: liệt kê: đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.
- Tác dụng: nói lên ước muốn của ông Hai, mong được về làng để cùng anh em đồng
chí tham gia công cuộc kháng chiến mà trước khi đi tản cư ông vẫn hay làm.
Câu 3. Trong đoạn trích trên, câu (1) là câu lời trần thuật của tác giả. Câu (2) (3) là lời
độc thoại nội tâm của nhân vật.
Tác dụng của các lời độc thoại nội tâm trong việc biểu đạt nội dung là: thể hiện nỗi
nhớ làng của ông Hai khi ông phải đi tản cư. Trong lòng người nông dân yêu làng quê
………………………………………………………………………………………………………………….
thê thiết này, mong muốn được trở về làng để tham gia kháng chiến. Tình yêu làng đó
cũng là biểu hiện của tình yêu đất nước.
II. Làm văn
Câu 1.
* Yêu cầu về hình thức
- Bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi).
- Trình bày rõ ràng, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
- Hiểu đúng yêu cầu của đề, có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận.
* Yêu cầu về nội dung
I. Mở bài: Nêu lên vấn đề lòng dũng cảm của con người.
II. Thân bài
1. Giải thích: Dũng cảm là đức tính của con người dám đứng lên đấu tranh, vượt qua
thách thức, hiểm nguy, khó khăn, cám dỗ để bảo vệ lẽ phải, công lý.
2. Bàn luận vấn đề
* Lí giải vì sao cần đức tính dũng cảm
- Con người cần dũng cảm để chống lại những gì phản tiến bộ, phản nhân văn, những
điều xấu, điều ác để khiến xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
- Dũng cảm dạy chúng ta biết đấu tranh cho lẽ phải, thậm chí biết cứu giúp người
khác, biết hi sinh cho những điều xứng đáng để cuộc sống tươi đẹp hơn.
* Ý nghĩa lòng dũng cảm:
- Cái xấu cái ác sẽ bị đẩy lùi, cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn.
- Luôn được mọi người yêu quý.
* Chứng minh
- Trong lịch sử dân tộc ta, mặc dù bị phương Bắc đô hộ, nhưng tổ tiên vẫn kiên cường,
gan dạ, dũng cảm chống giặc ngoại xâm. Không chỉ vậy cha ông còn anh dũng đánh
trả những kẻ thù lớn mạnh như Pháp, Mỹ.
- Cuộc sống hòa bình nhưng vẫn có nhiều tấm gương phòng chống tội phạm, chiến sĩ
công an hi sinh thân mình để bắt tội phạm,…
- Đối với học sinh lòng dũng cảm đơn giản như dám thừa nhận về việc chưa làm bài
tập về nhà, làm sai dám nhận lỗi, dũng cảm nói ra các khuyết điểm của bạn bè trong
lớp, bảo vệ cái tốt và lên án cái xấu.
4. Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân: 
- Phê phán tính hèn nhát: một số trường hợp phê phán như không dám thừa nhận lỗi
mà mình tự gây ra,  hèn nhát khi gặp khó khăn, tính ích kỉ chỉ nghĩ đến bản thân.
- Liên hệ bản thân: là học sinh cần phải nhận thức được lòng dũng cảm là đức tính tốt
đẹp. Rèn luyện thêm lòng dũng cảm để sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thử thách trong
cuộc sống.
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 2.
I. Giới thiệu chung 
-  Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
-  Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén,
ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, giàu hình ảnh.
- Khổ thơ gồm 7 câu thơ đầu của bài thơ “Đồng chí” đã nêu lên những cơ sở cao đẹp
của tình đồng chí.
II. Phân tích
1. Cơ sở của tình đồng chí
Tình đồng chí được xây dựng trên cơ sở những điểm chung giữa những con người từ
xa lạ trở nên thân quen và thành tri kỉ. Đó là điểm chung như sau:
- Chung nhau về hoàn cảnh xuất thân
+ Thủ pháp đối: “quê hương anh” – “làng tôi” cho thấy sự tương đồng trong lai lịch,
cảnh ngộ của những người lính thời chống Pháp. Họ đều ra đi từ những miền quê
nghèo khó.
- Chung nhau về lí tưởng, lòng yêu nước:
+ Từ những miền quê xa lạ, họ nhập ngũ và quen nhau trong quân ngũ.
+ Họ cùng chung một chiến tuyến chống kẻ thù chung.
- Cùng chung nhiệm vụ:
+ “Súng bên súng” -> nhiệm vụ trong cuộc chiến.
+ “Đầu sát bên đầu”, “chung chăn” -> cùng trải qua cuộc sống gian khổ, chia sẻ cho
nhau những tình cảm nồng ấm.
=> Từ đó hình thành tình đồng chí. Đây là cả một quá trình, từ:
+ “Anh” – “tôi” thành “anh với tôi”  rồi “đôi tri kỉ” và “đồng chí”.
+ “Bên”, “sát” thành “chung”
-> Từ người xa lạ nhưng cuộc đời người lính với rất nhiều điểm tương đồng đã khiến
tình cảm đượm dần lên để trở thành tình đồng chí. Hình ảnh “đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỉ” gợi cho tình đồng chí sự sẻ chia vui buồn, xóa đi mọi khoảng cách,
thân thương, gắn bó như tình bạn bè chân thật.
- Khép lại đoạn thơ chỉ vẻn vẹn 2 từ “Đồng chí!” đứng tách riêng thể hiện cảm xúc
dồn nén, chân thành và gợi sự thiêng liêng, sâu nặng của tình đồng chí. Câu thơ kết
thúc bằng dấu “!” như một nốt nhấn, một lời khẳng đinh sự kết tinh tình cảm của người
lính, tạo bản lề cho đoạn sau.
=> Đoạn thơ vừa lí giải cơ sở của tình đồng chí lại vừa cho thấy sự biến đổi kì diệu: từ
những người nông dân xa lạ họ trở thành những đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
=> Tình đồng chí là tình cảm của giai cấp cần lao, từ những người chung mục đích, lí
tưởng, gắn bó tự nguyện thành bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ. Từ những điểm
chung này, tình đồng chí sẽ được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể và kết tinh cao
đẹp bằng hình tượng ở những đoạn thơ tiếp theo.
………………………………………………………………………………………………………………….
2. Nghệ thuật
- Đoạn thơ được viết bằng thể thơ tự do, bút pháp tả thực.
- L ời thơ giản dị, mộc mạc, cô đọng;
- Hình ảnh thơ gợi cảm, giàu ý nghĩa…
III. Tổng kết
- Đoạn thơ đã khắc họa chân thực mà sinh động tình đồng chí gắn bó keo sơn của
những lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng
nghệ thuật của tác giả.
-------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ SỐ 5
Câu 1. (2,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Bà con của một người bà con dẫn cô lên giúp việc nhà họ vào một bữa trời mưa…
Ngay cái ngày đầu tiên đó cô đã mang một chuẩn mực mới đến với gia đình họ, tạm
gọi là “phải ở dưới quê…” Ngó mấy con cá rô nằm cạnh rổ cải bắp, cô thẫn thờ, trời
ơi, “phải ở dưới quê, mình nấu cá rô với bông so đũa, ngọt nước lắm. Bông so đũa
mùa này trổ trắng trên mấy bờ kinh, mật ơi là mật” Hàng xóm cãi nhau, cô ngó qua
rào, “phải ở dưới quê thế nào cũng có người chạy tới can, người ngoài mới tiếng ngọt,
tiếng lạt, cũng đỡ căng” Sau mỗi bữa ăn, cô tần ngần “phải ở dưới quê, đồ ăn dư như
vầy là nuôi được mấy con heo”
(…) Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu so sánh. Chủ
nhà từng nghĩ cuộc sống hiện đại, sung túc là thiên đường. Nhưng bây giờ thì họ
hoang mang, thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ trước cô giúp việc…
(Biển của mỗi người, Nguyễn Ngọc Tư, NXB Kim Đồng, 2016, tr. 5, 6, 7)
a) Những phương thức  biểu đạt bào được sử dụng trong đoạn trích trên?
b) Tại sao chủ nhà lại “hoang mang” và cảm thấy “thế giới mơ ước của họ có nguy cơ
đổ vỡ” trước cô giúp việc?
Câu 2: (3.0 điểm
Thời gian – Quà tặng kì diệu của cuộc sống! Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 300 – 400
chữ) bàn về ý nghĩa của thời gian đối với lứa tuổi học trò hiện nay.
Câu 3: (5.0 điểm)
Cảm nhận về hình ảnh người lính trong đoạn thơ sau:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
………………………………………………………………………………………………………………….
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1. NXBGDVN, 2014)
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1.
a) Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên: tự sự, nghị luận.
b) Chủ nhà “hoang mang” và cảm thấy “thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ” vì:
- Họ sống trong một cuộc sống hiện đại với sự quy chiếu giá trị từ đời sống hiện đại,
nếp sống của phố xá kể cả trong sinh hoạt lẫn trong nếp nghĩ.
- Cô giúp việc mang đến gia đình họ những lối suy nghĩ và nếp sống của người ở dưới
quê.
Sư chênh lệch về chuẩn mực trong suy nghĩ và nếp sống dẫn đến những khác biệt, xáo
trộn về tâm lí khiến chủ nhà hoang mang trước nếp sống và suy nghĩ của chính mình.
Câu 2.
Phương pháp: HS vận dụng các phương pháp giải thích, phân tích, chứng minh để
làm bài văn nghị luận xã hội.
*Yêu cầu về kĩ năng:
- Học sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng để viết một đoạn văn nghị luận xã hội.
- Đoạn văn phải có bố cục, kết cấu rõ ràng; lập luận thuyết phục; diễn đạt mạch lạc;
không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau; có thể bày tỏ quan điểm, suy
nghĩ riêng nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; có thái độ chân thành, nghiêm túc,
phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
*Yêu cầu về nội dung:
1. Nêu vấn đề.
2. Giải thích vấn đề:
- Thời gian: là khái niệm dùng dể diễn tả trình tự xảy ra của các sự kiện, biến cố và
khoảng kéo dài của chúng.
- Thời gian trong quan niệm của người xưa là thời gian có khả năng trở đi trở lại – thời
gian tuần hoàn. Tuy nhiên, với những nghiên cứu trong xã hội hiện đại, con người biết
rằng thời gian là thứ một đi không trở lại – thời gian tuyến tính.
Như vậy thời gian cho mỗi con người là hữu hạn. Vì vậy, mỗi người cần biết quý trọng
quỹ thời gian của mình.
3. Phân tích, bàn luận vấn đề:
- Ý nghĩa của thời gian với lứa tuổi học trò:
+ Khi còn đang ở tuổi học trò – tuổi trẻ, con người sẽ có nhiều thời gian.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Thời gian ở thời điểm này nên dùng vào việc học tập, tích lũy kiến thức, hoàn thiện
bản thân
+ Thời gian nên dùng vào việc quan tâm đến gia đình, bạn bè,…
- Thời gian là nhân chứng cho những giá trị đích thực mà mỗi bạn sẽ tạo ra.
- Lãng phí thời gian là thứ lãng phí không bao giờ có thể bù đắp được.
- Không nên cậy mình còn trẻ mà rong chơi, mải chạy theo những thứ vô bổ ở cuộc
đời. Mỗi bạn cần xây dựng kế hoạch để sử dụng quỹ thời gian cho hợp lí vì “Thời gian
thấm thoắt thoi đưa/… ”
- Phê phán những bạn còn mải chơi, không quý trọng thời gian.
- Liên hệ bản thân.
Câu 3.
Phương pháp: phân tích, chứng minh, tổng hợp
Yêu cầu về kĩ năng:
- Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học.
- Lý lẽ rõ ràng, dẫn chứng xác thực.
- Văn viết giàu cảm xúc, diễn đạt trôi chảy.
- Bố cục ba phần rõ ràng, cân đối.
- Trình bày sạch đẹp; ít sai lỗi câu, từ, chính tả.
Yêu cầu về kiến thức: đảm bảo được các ý sau:
1. Giới thiệu chung
Tác giả:
- Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- Từng cầm súng chiến đấu -> am hiểu tâm tư, cuộc đời người lính.
- Bắt đầu sáng tác năm 1947, chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh.
- Đặc điểm thơ Chính Hữu: cảm xúc chân thành, mãnh liệt, ngôn ngữ giàu hình ảnh,
giọng điệu phong phú.
Tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác: mùa xuân năm 1948, được in trong tập “Đầu súng trăng
treo” (1966)
- Vị trí:
+ Là một trong những thi phẩm thành công nhất của Chính Hữu.
+ Tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946-1954)
- Đoạn trích đã nêu lên biểu hiện của tình đồng chí và khẳng định sức mạnh, vẻ đẹp
tình đồng chí cao đẹp.
………………………………………………………………………………………………………………….
2. Phân tích
a. Biểu hiện của tình đồng chí
* Là sự thấu hiểu những tâm tư, tình cảm của nhau:
- Nhân vật trữ tình nói về nỗi lòng của đồng đội mà như đang bộc bạch nỗi lòng của
chính mình.
- Thấu hiểu:
+ Cảnh ngộ, nỗi bận lòng về hậu phương.
+ Ý chí lên đường, tình cảm cách mạng mãnh liệt. Khi cần họ biết hi sinh hạnh phúc
cá nhân vì dân tộc.Họ bỏ lại ruộng vườn, ngôi nhà – là những tài sản quý giá để vào
lính.Từ “mặc kệ” đã nói lên sự lựa chọn dứt khoát ấy.
+ Nỗi nhớ quê nhà đau đáu trong tâm hồn người lính.
* Là sự đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời người lính:
- Đó là những cơn sốt rét rừng đã từng cướp đi bao sinh mạng, trong hoàn cảnh đó
họ vẫn quan tâm, lo lắng cho nhau.
- Đó còn là cái hiện thực thiếu thốn, khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính. Họ
đã sống trong hoàn cảnh nghèo nàn về vật chất: thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men…
nhưng họ vượt lên tất cả nhờ sức mạnh của tình đồng chí.
- Đó còn là những khắc nghiệt của khí hậu núi rừng -> họ vượt lên nhờ tinh thần lạc
quan cách mạng, sự ấm áp của tình đồng chí.
* Là niềm yêu thương, gắn bó sâu nặng họ dành cho nhau.
- Hình ảnh “tay nắm bàn tay”:
+ Chất chứa bao yêu thương trìu mến.
+Sẵn lòng chia sẻ khó khăn.
=> Chính tình đồng chí chân thành, cảm động và sâu sắc đã nâng đỡ bước chân người
lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
b. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí:
* Được xây dựng trên nền một hoàn cảnh khắc nghiệt:
- Thời gian, không gian: rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo.
- Không khí căng thẳng trước một trận chiến đấu.
-> Tâm hồn họ vẫn bay lên với hình ảnh vầng trăng nơi đầu súng.
-> Họ vẫn xuất hiện trong tư thế điềm tĩnh, chủ động “chờ giặc tới”.
=> Nhờ tựa vào sức mạnh của tinh thần đồng đội. Họ “đứng cạnh bên nhau” và trở
thành một khối thống nhất không gì lay chuyển nổi.
* Được biểu hiện qua một hình ảnh thơ độc đáo, đầy sáng tạo: “Đầu súng trăng treo”:
- Vốn là một hình ảnh thơ được cảm nhận từ thực tiễn chiến đấu.
- Song hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa biểu tượng phong phú:
+ Gợi liên tưởng: chiến tranh  - hòa bình, hiện thực - ảo mộng, kiên cường – lãng mạn,
chất chiến sĩ – chất thi sĩ.
………………………………………………………………………………………………………………….
+ Gợi vẻ đẹp của tình đồng chí snags trong, sâu sắc. sự xuất hiện của vầng trăng là một
bằng chứng về sức mạnh kì diệu của tình đồng đội. Tình cảm ấy giúp tâm hồn người
lính bay lên giữa lúc gay go, khốc liệt của chiến tranh.
+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính – một tâm hồn luôn trong trẻo, tươi mát dẫu phải
băng qua lửa đạn chiến tranh.
+ Gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một bàn tay giữ chắc cây súng mà trái tim
luôn hướng đến những khát vọng thanh bình.
III. Tổng kết:
- Nội dung: Bài thơ thể hiện chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại,
đó là tình đồng chí bền chặt, thiêng liêng của những người lính cách mạng. Qua đó tác
giả đã khắc họa thành công hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp.
- Nghệ thuật: Lối miêu tả chân thực, tự nhiên; từ ngữ, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi,
cảm xúc dồn nén.
---------------------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 6
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm). 
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Hai biển hồ
     Người ta bảo ở bên Palextin có hai biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng
như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước
trong hồ không có một loài cá nào có thể sống nổi mà người uống phải cũng bị bệnh.
Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu
hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con
người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi
đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này.
     Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan.
Nước sông Jordan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình
mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón
nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy
nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con
người...
Quà tặng cuộc sống (Nhà xuất bản Trẻ, 2007) 
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. 
Câu 2. Theo tác giả, vì sao Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu: “Biển Chết đón nhận và
giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát.”
Câu 4. Em rút ra được bài học gì từ văn bản trên? 
II. LÀM VĂN (7,0 điểm) 
Câu 1 (2,0 điểm).
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của cho
và nhận trong cuộc sống, nhất là trong những ngày cả nước tập trung phòng, chống
dịch Covid-19.
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 2 (5,0 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau trong bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu: 
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vùng trán tướt mồ hôi. 
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày 
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. 
 
Đêm nay rừng hoang sương muối 
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
Đấu súng trăng treo. 
(Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, trang 129)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận
Câu 2. Theo tác giả, Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết bởi không có sự sống nào bên
trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loài cá nào có
thể sống nổi mà người uống phải cũng bị bệnh.Ai ai cũng đều không muốn sống gần
đó.
Câu 3. trong câu: “Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ
nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát.”
- Biện pháp tu từ: Nhân hóa. (hoặc điệp)
- Tác dụng: Làm nổi bật đặc điểm của Biển Chết.
Câu 4. Bài học rút ra được từ văn bản trên:
- Cho và nhận;
- Lối sống giữ lại cho riêng mình.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Đoạn văn ngắn 200 chữ về ý nghĩa của cho và nhận
    Giữa cuộc sống bộn bề lo toan, chúng ta rất cần những yêu thương và sẻ chia.Trao
đi yêu thương dể nhận lại yêu thương là một quy luật trong cuộc sống. Sống không chỉ
là nhận mà còn phải biết cho đi vì ”Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được
nhận lại nhiều nhất”. Cho và nhận tưởng chừng như là những khái niệm đơn giản
nhưng để hiểu và làm được thì không dễ dàng. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi có
sự sẻ chia, kết nối giữa con người với con người.Khi “cho” chúng ta không mong được
“nhận” lại, không mong người khác sẽ trả ơn lại cho mình là lúc ta hạnh phúc nhất, khi
ta đem niềm vui đến cho người khác có nghĩa là đã nhận được cho mình niềm vui,
hạnh phúc. Trong cuộc sống của chúng ta, có rất nhiều những con người luôn giúp đỡ
người khác mà không đòi hỏi báo đáp. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều sống theo một lối
sống ích kỉ, chỉ biết nghĩ đến bản thân mình. Họ không quan tâm đến chuyện gì, cũng
như không quan tâm đến những người xung quanh.Ý kiến trên như một lời nhắn nhủ
mỗi người chúng ta cần phải biết quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh, từ
những việc nhỏ nhặt nhất, vì lúc cho đi là lúc ta nhận lại.
………………………………………………………………………………………………………………….

Câu 2

Mở Bài

Giới thiệu tác giả:Chính Hữu là nhà thơ quân đội. ông sống và viết xuyên suốt chiểu
dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc nên những sáng tác của
ông tập trung chủ yếu vào đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông mang đậm chất
liệu của hiện thực cuộc sống.

Giới thiệu tác phẩm :Bài thơ "Đổng chí"được sáng tác vào đầu xuân năm 1948, thời kì
đẩu của cuộc kháng chiến chổng Pháp. Tác phẩm đã viết rất chân thực, cảm động về
tình đồng đội, đồng chí cao quý của các anh bộ đội cụ Hó thời kháng chiến chống
Pháp và trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về để tài này.

Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/.. ./Đầu súng trăng
treo" thể hiện rất rõ nội dung đó.

Thân bài

Cảm nhận về đoạn thơ

7 câu thơ đầu

Hiện thực gian khổ nơi chiến trường

Những người lính phải đối mặt với bệnh tật ngay giữa hoàn cảnh thiếu thốn, không
thuốc men. Căn bệnh sốt rét rừng hành hạ các anh bằng những “cơn ớn lạnh",những
trận "sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi".Thậm chí, nhiều người bị vắt kiệt sức lực
hay phải nằm lại giữa rừng.Thực tế ấy cũng từng được ghi lại trong bài thơ "Tây Tiến"
củaQuang Dũng sau này:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá, dữ oai hùm"

Áo rách, quần vá, chân đi đất: đó là những thiếu thốn, khó khăn chung của những ngày
đẩu kháng chiến.

Miệng cười buốt giá: Đó là cái buốt giá của đất trời, của núi rừng. Hai từ "buốt
giá"khiến người đọc cảm nhận thật rõ cái khắc nghiệt của rừng thiêng nước độc!

Tinh đồng đội keo sơn

Những người lính đã đồng cam cộng khổ, khi là sự sánh đôi "anh với tôi",khi là sự đối
xứng " áo anh" - "quần tôi".
………………………………………………………………………………………………………………….
Nhưng cảm động nhất là họ vẫn trao nhau những nụ cười, vẫn nắm chặt tay nhau để
xoa dịu đi những khó khăn, thiếu thốn ấy. Một nụ cười bằng cả mười thang thuốc bổ
và ở đây còn có sức mạnh sưởi ấm. Cả cái siết tay nắm chặt cũng đầy sự cảm thông và
chia sẻ, như muốn truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tiếng "thương"nghe sao thật
ấm áp, ân tình!

Anh với tôi luôn luôn sóng đôi với nhau, có khi cùng nằm trong một câu thơ, có khi
sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người
đổng đội.

3 câu cuối - bức tranh trước giờ chiến đấu

Hình ảnh những người lính được miêu tả trên nển thiên nhiên khấc nghiệt

+ Thời gian: đêm tối, lạnh lẽo.

+ Không gian: "Rừng hoang sương muối" -không gian vừa mênh mông, hoang sơ, vừa
lạnh lẽo.

Họ vẫn vững vàng tay súng “chờ giặc tới"- tư thế chủ động, tự tin, sẵn sàng chiến đấu
vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập, tự do của dân tộc.

Có được tâm thế ấy là bởi họ có đồng đội "đứng cạnh bên nhau".

Quả thực, tình đổng đội, tình đồng chí giúp họ tự tin, bình tĩnh, chủ động đối diện với
kẻ thù và vượt qua tất cả.

"Đầu súng trâng treo"là một hình ảnh đặc sắc. Trước hết, đó là hình ảnh thực mà
Chính Hữu đã nhận ra trong suốt những đêm phục kích chờ giặc. Nhưng đó còn là một
hình ảnh giàu biểu tượng:

+Súng là biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. Đổng thời là biểutượng
cho lí tưởng, nhiệm vụ của người lính.

+Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp mơ mộng, yên bình, lãng mạn.

=> Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh đơn sơ
mà đầy thi vị về người lính. Trong không gian bát ngát của rừng khuya, vầng trảng bất
ngờ xuất hiện, chơi vơi trên đầu ngọn súng. Người lính nông dân hiện lên như những
người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị mà đẹp đẽ. Hai hình ảnh súng và trăng kết hợp tạo
nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ
mộng. Đó là vẻ đẹp mang cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu chất
hiện thực và dạt dào cảm hứnglãng mạn.         

Nghệ thuật
………………………………………………………………………………………………………………….
Bút pháp tả thực và nghệ thuật liệt kê đã vẽ nên bức tranh hiện thực vô cùng chân thực
về đời sống chiến đấu của những người lính thời chống Pháp.

-Thể thơ tự do, linh hoạt trong việc giãi bày, miêu tả.

Tạo dựng được hình ảnh có sức gợi, sức biểu tượng cao (nắm tay, đầu súng trâng treo).

Kết Bài

Đoạn thơ đã giúp ta hiểu và trân trọng tình đồng đội, đồng chí - đó là sự đồng cam
cộng khổ, sẵn sàng chia sẻ khó khăn, sẵn sàng động viên, tiếp sức cho nhau và cùng
nhau chiến đấu vì lí tưởng chung.

Khẳng định lại vị trí của bài thơ trong nền thơ ca thời kì đẩu kháng chiếnchống Pháp.

Rút ra bài học liên hệ về tình bạn, về lí tưởng sống đẹp.

------------------------------------------------------------------------------------------------- 

ĐỀ SÔ 7
Câu 1. (2.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
(...) Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ô, sao mà
độ ấy vui thế.Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man
suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng
anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá... Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong
chưa?Những đường hầm bí mật chắc còn lả khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng
quá.”. 
(Kim Lân - Làng, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2005, trang 162,163)
a. Chỉ ra và gọi tên thành phần biệt lập trong mỗi câu sau:
- Ô, sao mà độ ấy vui thế.
- Những đường hầm bí mật chắc còn lả khướt lắm.
b. Nêu ngắn gọn nội dung, ý nghĩa của đoạn trích. 
Câu 2. (3.0 điểm)
Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận ngắn giải thích câu ngạn ngữ:
“Cái rễ của học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì ngọt ngào.”(Ngạn ngữ Hy Lạp) 
Câu 3. (5.0 điểm)
ĐỒNG CHÍ
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ.
 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
………………………………………………………………………………………………………………….
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
1948
(Chính Hữu – Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1. (2.0 điểm)
a.
- Ồ, sao mà độ ấy vui thế. => Thành phần biệt lập cảm thán: Ồ
- Những đường hầm bí mật chắc còn lả khướt lắm. =>Thành phần biệt lập: Tình
thái: chắc còn là khướt lắm
b. Nội dung của đoạn trích: Là dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão khi ông
nghĩ về cái làng của ông: nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em; cũng hát
hỏng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày; muốn về làng, muốn được cùng anh em
đào đường, đắp ụ, …; nhớ làng, nhớ cái làng quá.
Ý nghĩa: Thể hiện cái tình yêu làng của nhân vật ông Hai.
Câu 2. (3.0 điểm)
Dàn ý tham khảo:
1.Mở bài:
- Những người có trình độ học vấn cao thường đạt những thành công trong cuộc đời và
sự nghiệp. Chúng ta ngưỡng mộ tài năng của họ nhưng ko mấy ai nghĩ rằng họ đã phải
trải qua bao gian khổ trong học tập, nghiên cứu...
- Ngạn ngữ:"..."
2. Thân bài:
a) ý nghĩa của câu NN
- Học vấn thường được hiểu là trình độ hiểu biết của người có học.
- con đường đi tới học vấn luôn đầy khó khăn, gian khổ (những chùm rễ đắng cay )
- Học vấn mang lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người (quả ngọt)
- Phải nhìn thấy cả 2 mặt của vẫn đề và cần xác định rõ chỉ có không ngại khó, chúng
ta mới có thể thành công trong học tập.
b) Khẳng định chân lí của câu ngạn ngữ
- có học vấn thì con ngưòi mới có đủ khả năng làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, và
nhất là làm chủ vận mệnh của
mình. Trên cơ sở ấy, đời sống vật chất và tinh thần mới được nâng cao.
- Muốn có học vấn thì phải không ngừng nỗ lực. Học tập là quá trình chiếm lĩnh tri
thức, là nghiên cứu, phát minh ... Tư duy con người phải hoạt động căng thẳng.lao
động trí óc vất vả, phải lao tâm khổ trí.
………………………………………………………………………………………………………………….
- Trong thực tế, học tập và nghiên cứu , chúng ta thường gặp ngững vấn đề phức tạp,
đòi hỏi một tinh thần cố gắng liên tục, phải tranh thủ thời gian, dồn hết tâm huyết....
Thăng ko kiêu, bại không nản
- Xưa nay, nhiều ngưòi vừa lao đọng kiếm sống vừa học tập. Môt tấm gương tiêu biểu
là Bác Hồ (cái này tự phân tích nha bạn)
- Lấy thêm dẫn chứng
c) Mở rộng và nâng cao:
- ko nên quan niệm học vấn chỉ là sự hiểu biết về mọi mặt kiến thức. học vấn bao gồm
cả việc rèn luyệ tư tưởng, tình cảm, đạo đức, nhân cách...
- để đạt được điều đó, ta phải cố gắng rất nhiều....
- không phải lúc nào quá trình học tập cũng cứ mệt nhọc là lo vui, nhiều lúc niềm say
mê sẽ giúp ta quên đi mệt nhọc...
3. Kết bài:
- Ai cũng muốn hái quả ngọt trên cây học vấn nhưng nó chỉ dành cho những ai chấp
nhận được những chùm rễ cay đắng.
- thế hệ trẻ sau này phait tự trang bị cho mình tinh thần ko sợ khó, không sợ khổ thì
mới có thể thành công
Câu 3. (5.0 điểm)
Dàn ý tham khảo
I. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm Đồng chí và tác giả Chính Hữu
- Sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của những người
lính thời kháng chiến chống Pháp đồng thời làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị
mà cao đẹp của người lính cụ Hồ.
II. Thân bài
1. Khái quát chung về bài thơ
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vị trí đoạn trích
2. Phân tích vẻ đẹp tình đồng chí
a. Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín
- Thấu hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, thấu hiểu nỗi lòng riêng tư của người bạn
lính, chia sẻ niềm thương nhớ, nặng lòng với quê hương bạn
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Hiểu được sự hy sinh thầm lặng, sự nhớ thương mong ngóng của những người ở hậu
phương
    + Hình ảnh hoán dụ giếng nước, gốc đa gợi lên hình ảnh về quê hương, người thân
nơi hậu phương của người lính
    + Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, nỗi nhớ nhà, cùng nhau vượt lên nỗi nhớ đó
để chiến đấu
b. Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương
- Họ chia sẻ những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính “ Sốt run
người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”
- Họ cùng nhau trải qua khó khăn, khắc nghiệt trong chiến đấu
    + Tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, bao giờ người lính cũng
nhìn bạn nói về bạn trước khi nói tới mình.
………………………………………………………………………………………………………………….
    + Cách nói thể hiện nét đẹp thương người như thể thương thân, trọng người hơn
mình
    + Tình đồng chí, tri kỉ đã giúp họ vượt lên trên buốt giá
- Họ quên mình để động viên nhau, cùng nhau vượt lên trên buốt giá và những bàn tay
động viên, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Yêu thương nhau bằng cả tấm lòng chân thành sâu nặng với những cử chỉ nghĩa tình
- Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan, sức mạnh của tình đồng
đội “miệng cười buốt giá”
→ Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ
c. Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí
- Tình đồng chí được tôi luyện khi họ cùng nhau sát cánh thực hiện nhiệm vụ đánh
giặc
- Chính ở nơi thử thách, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết gần kề tình
đồng chí thực sự thiêng liêng cao đẹp
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
- Trên nền khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng khắc nghiệt, những người lính
với tư thế chủ động “chờ” giặc thật hào hùng.
- Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người lính vượt
lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết
- Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ: đây là sự
kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn
    + Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy trăng treo
lơ lửng nơi họng súng
    + Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm - đây là
hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng là biểu tượng thanh mát, yên bình.
- Hình ảnh này kết hợp, cô đọng vẻ đẹp tâm hồn người lính với sự tỏa sáng vẻ đẹp của
tình đồng chí, khiến người lính ngay cả trong hiểm nguy vẫn bình thản, lãng mạn.
3. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, nhằm diễn tả
cụ thể tình cảm thiêng liêng cao đẹp - tình đồng chí.
- Giọng thơ sâu lắng, xúc động như lời tâm tình tha thiết.
III. Kết bài
- Tình đồng chí được thể hiện chân thực, cao đẹp qua thể thơ tự do, ngôn từ hình ảnh
giản dị mà hàm súc
- Đoạn thơ góp phần cùng bài thơ làm nên một áng thơ đẹp về tình đồng chí nói riêng
và hình tượng người lính cách mạng nói chung.
-------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ SỐ 10

I. Phần đọc hiểu: (3,0 điểm)


Đọc kĩ ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu biên dưới:
………………………………………………………………………………………………………………….
Âm nhạc là phương tiện chuyển tới cảm xúc tuyệt vời nhất, trọn vẹn nhất, giúp
chúng ta cảm nhận được từng ngõ ngách sâu thẳm nhất của tâm hồn [...] Âm nhạc là
chất xúc tác lãng mạn, thi vị làm khuấy động xúc cảm. Thử hình dung những thước
phim lãng mạn sẽ buồn tẻ, vô hồn đến nhường nào nếu không có giai điệu của những
bản tình ca. Có một câu nói mà tôi rất tâm đắc" từng nốt nhạc chặm vào da thịt tôi,
vuốt ve xoa dịu nỗi cô đơn tưởng như đá hóa thạch trong tâm hồn". Âm nhạc là một
người bạn thủy chung, biết chia sẻ. Khi buồn , nó là liều thuốc xoa dịu nỗi sầu, làm
tâm hồn nhẹ nhàng, thanh thản..Khi vui, nó lại là chất xúc tác màu hồng tô vẽ cảm
xúc, giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của cuộc sống
(Dr Bernie S Siegel, Quà tặng cuộc sống, biên dịch Thu Quỳnh -Hạnh Nguyên,
NXHTH TP HCM, tr. 11)
Câu 1: (0,5 diểm)
Xác định phương thức biểu đạt chính của ngữ liệu trên
Câu 2: (0,5 điểm)
Đặt một nhan đề phù hợp cho ngữ liệu:
Câu 3: (1,0 điểm)
Chỉ rõ hai phép liên kết về hình thức có trong ngữ liệu.
Câu 4: (1,0 điểm)
Xác định và nêu ngắn gọn tác dụng của biện pháp tu từ từ vựng trong câu : Âm nhạc là
một người bạn thủy chung, biết chia sẻ.
II. Phần tập làm văn (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn nghị luận (không quá một trong giấy thi) bàn về ý nghĩa của tinh
thần lạc quan đối với cuộc sống của mỗi người.
Câu 2: (5 điểm)
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chời giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Chính Hữu, Đồng chí, ngữ văn 9 tập 1. NXB Giáo dục Việt Nam. 2016, tr 129)
Không có kính không phải xe không có kính
Bơm giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi.
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thằng.

(Phạm Tiến Duật, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, ngữ văn 9 tập 1. NXB Giáo dục
Việt Nam. 2016, tr 129)
Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về hai đoạn thơ trên.
GỢI Ý LÀM BÀI

I. Phần đọc hiểu: (3,0 điểm )


Câu 1: (0,5 diểm)
Phương thức biểu đạt chính của ngữ liệu trên: Nghị luận
Câu 2: (0,5 điểm)
Đặt một nhan đề phù hợp cho ngữ liệu: Âm nhạc là điều tuyệt vời của cuộc sống.
Câu 3: (1,0 điểm)
Hai phép liên kết về hình thức có trong ngữ liệu:
- Phép lặp: âm nhạc là
………………………………………………………………………………………………………………….
- Phép thế: "nó" = "âm nhạc"
Câu 4: (1,0 điểm)
Biện pháp tu từ từ vựng trong câu: nhân hóa
Tác đụng: làm câu văn gợi cảm xúc, nhấn mạnh rằng âm nhạc là người bạn đồng hành
cùng chúng ta
II. Phần tập làm văn (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
I. Mở đoạn
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: tinh thần lạc quan trong cuộc sống
II. Thân đoạn: Bàn luận về tinh thần lạc quan
1. Lạc quan là gì?
- Lạc quan là thái độ sống
- Lạc quan là luôn vui tươi, vui cười dù có bất kì chuyện gì xảy ra
- Lạc quan như là một liều thuốc bổ cho cuộc sống tươi đẹp hơn.
2. Ý nghĩa của tinh thần lạc quan
- Lạc quan sẽ tạo nên cuộc sống tươi đẹp cho tất cả mọi người
- Giúp chúng ta biết sống một cách có ý nghĩa hơn
- Giúp con người tránh khỏi những hiểm họa trong cuộc sống
- Những người lạc quan thường thành công trong cuộc sống và công việc
4. Biểu hiện của tinh thần lạc quan
- Luôn tươi cười dù có chuyện gì xảy ra
- Luôn yêu đời
- Luôn bình tĩnh xử lí mọi tình huống dù có chuyện gì xảy ra
3. Một số tấm gương về tinh thần lạc quan
- Bác Hồ ở trong tù vẫn có thể sáng tác thơ, ngắm trăng
- Các bệnh nhân ung thư vẫn lạc quan để chiến đấu bệnh tật để giành giật sự sống
- Các em bé mồ côi vẫn lạc quan sống để mong ngày gặp lại cha mẹ của mình
III. Kết thúc vấn đề
Nêu cảm nghĩ của em về tinh thần lạc quan:
- Đây là một tinh thần rất tốt, giúp con người vượt qua số phận
- Bênh cạnh đó nó còn có những tác động xấu khi con người có tinh thần lạc quan thái
quá.
--------------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 11
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi, từ câu 1 đến câu 3:
(1) Hai ông con theo bậc cấp bước xuống đồi, đến mặt đường nhìn lên, không thấy
người con trai đứng đấy nữa. (2) Anh ta đã vào nhà trong. (3) Ông xách cái làn trứng,
cô ôm bó hoa to. (4) Lúc bấy giờ, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng
hực như một bó đuốc lớn.
(Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long)
Câu 1. (1.0 điểm)
Tìm từ ngữ liên kết và gọi tên phép liên kết được dùng trong câu (1) và câu (2). 
Câu 2. (1.0 điểm)
Câu (2) và (3), câu nào là câu ghép?Chỉ ra kiểu quan hệ về nghĩa giữa các vế trong câu
ghép đó.
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 3. (1.0 điểm)
Xác định thành phần trạng ngữ trong câu (4) và cho biết nó bổ sung ý nghĩa gì cho
câu? 
Câu 4. (3.0 điểm)
Viết một đoạn văn giải thích ý nghĩa câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”. 
Câu 5. (4.0 điểm) Phân tích đoạn thơ sau:
“ Quê hương anh nước mặn, đồng chua 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. 
Anh với tôi đôi người xa lạ 
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, 
Súng bên súng, đầu sát bên đầu, 
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. 
Đồng chí!"
(Trích Đồng chí - Chính Hữu - dẫn theo Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2012,
trang 128)
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1. (1.0 điểm)
Từ ngữ liên kết: anh ta 
Phép liên kết: thế (Anh ta thế cho người con trai)
Câu 2. (1.0 điểm)
Câu (3) là câu ghép
Chỉ ra kiểu quan hệ về nghĩa giữa các vế: quan hệ đẳng lập (2 cụm chủ vị đề chỉ hành
động của chủ ngữ trong câu)
Câu 3. (1.0 điểm)
Thành phần trạng ngữ trong câu (4): Lúc bấy giờ,
Nó bổ sung ý nghĩa về mặt thời gian trong câu.
Câu 4. (3.0 điểm)
I. Giới thiệu câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”.
II. Bàn luận vấn đề: giải thích câu tự ngữ “Lá lành đùm lá rách”
1. Giải thích câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”
- Nghĩa đen: khi dùng chiếc lá này rách, ta có thể dùng lá lành hơn đùm lá rách lại.
- Nghĩa bóng: “lá lành” là người có cuộc sống giàu có, thuận lợi và yên ổn, còn “lá
rách” là người có cuộc sống nghèo khó, khổ cực và khó khăn.
- Câu tục ngữ muốn khuyên ra nên yêu thương con người, đùm bọc họ khi họ khó
khăn, gian khổ.
2. Đánh giá về câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”
- Nhắc nhở chúng ta không nên chê bai, ghẻ lạnh đối với những người khó khan, mà
chúng ta nên yêu thương, giúp đỡ học khi học gặp khó khăn, đó mới là điều tốt đẹp.
- Trong cuộc sống luôn tồn tại nhiều hoàn cảnh khó khan, chính vì thế mà chúng ta nên
giúp đỡ họ
- Lòng thương người, nhân ái của mỗi con người đều có, vậy mà ta hãy nên giúp đỡ
mọi người xung quanh gặp khó khan
- “lá lành đùm lá rách” là một hình động rất cần thiết trong xã hội hiện nay.
3. Bình luận về câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”
- Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
………………………………………………………………………………………………………………….
- Khi chúng ta giúp đỡ người khác thì tâm hồn ta sẽ trở nên thanh thản và yêu đời hơn
III. Kết thúc vấn đề: nêu cảm nghĩ của em về câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”
- Câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” hoàn toàn đúng
- Chúng ta nên phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại.
Câu 5. (4.0 điểm) 
Dàn ý: 
I. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm: Đồng chí, tác giả: Chính Hữu.
- Hoàn cảnh sáng tác: đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến
dịch Việt Bắc.
II. Thân bài: Phân tích: Cơ sở hình thành tình đồng chí
    - Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những
người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
    "Anh" ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá". Hai
miền đất xa nhau, "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo". Hai câu thơ
giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: họ là những người nông dân
nghèo.
     - Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát
cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
     Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại
với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng. "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến
đấu, "đầu" biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm
điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
     - Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng
như niềm vui:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.
     Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung
chăn". Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở
thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ".
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa
những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để
mở ra đoạn hai.
- Chỉ vẻn vẹn 2 từ “Đồng chí!” đứng tách riêng thể hiện một cảm xúc dồn nén, chân
thành và gợi sự thiêng liêng, sâu nặng của tình đồng chí.
=> Đoạn thơ vừa lí giải cơ sở của tình đồng chí lại vừa cho thấy sự biến đổi kì diệu: từ
những người nông dân xa lạ họ trở thành những đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
--------------------------------------------------------------------------
………………………………………………………………………………………………………………….

MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO.


THAM KHẢO ĐỀ ĐỌC HIỂU NGỮ LIỆUNGOÀI SÁCH GIÁO KHOA

ĐỀ1: Bàn, hiểu về chủ đề tự hào dân tộc

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

[1] …Thật khó để rao giảng sự tự hào dân tộc. Hầu như chúng ta có cảm xúc đó trong
một hoàn cảnh cụ thể khi chúng ta đứng trước một biển người cùng hòa vang quốc
ca hoặc khi chúng ta nghe một câu chuyện thành công của những nhân tài của đất
nước hay chúng ta bất bình trước một vấn đề ảnh hưởng đến con người và quê hương
mình. Nhưng hãy nói về một câu chuyện đơn giản hơn, ở lứa tuổi học sinh, chúng ta sẽ
thể hiện sự tự hào đó như thế nào?

[2] Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta thuộc ca dao, tục ngữ, thơ văn lưu loát
mà là có sự cảm nhận về vẻ đẹp của văn hóa dân tộc và mang trong mình tâm thế
chia sẻ, quảng bá những vẻ đẹp truyền thống của đất nước ra thế giới. Tự hào dân tộc
không phải là việc chúng ta thuộc lòng những tình tiết lịch sử nước nhà mà là tôn
trọng các nền văn hóa, các quốc gia khác nhau và biết hành động vì vị thế của đất
nước. Tự hào dân tộc không phải là việc vỗ ngực xưng tên, xem nhẹ các nền văn hóa
khác mà là thể hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh quốc tế.

(Trích Thư gửi học sinh nhân ngày tựu trường năm học 2016-2017, Marcel
van Miert, chủ tịch điều hành hệ thống Trường Quốc tế Việt – Úc)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.

Câu 2: Theo tác giả, niềm tự hào dân tộc xuất hiện trong hoàn cảnh cụ thể nào?

Câu 3: Chỉ rõ biện pháp tu từ cú pháp trong đoạn [2] của văn bản và nêu hiệu quả
của biện pháp tu từ đó.

Câu 4: Quan điểm của anh chị về ý kiến: “Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta
thuộc ca dao, tục ngữ, thơ văn lưu loát mà là có sự cảm nhận về vẻ đẹp của văn hóa
dân tộc và mang trong mình tâm thế chia sẻ, quảng bá những vẻ đẹp truyền thống của
đất nước ra thế giới”.

Hướng dẫn trả lời:


………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 1:  Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.

Câu 2: Theo tác giả, niềm tự hào dân tộc xuất hiện trong những hoàn cảnh: khi chúng
ta đứng trước một biển người cùng hòa vang quốc ca khi chúng ta nghe một câu
chuyện thành công của những nhân tài của đất nước chúng ta bất bình trước một vấn
đề ảnh hưởng đến con người và quê hương mình.

Câu 3:

Biện pháp tu từ: Lặp cấu trúc cú pháp: “Tự hào dân tộc không phải… mà là…”

Hiệu quả: Nhấn mạnh và khẳng định quan điểm của người viết về niềm tự hào dân tộc.

Câu 4: Khẳng định đây là một ý kiến đúng đắn, xác đáng bởi lẽ: Bản sắc dân tộc là
những nét riêng ưu việt nhất của dân tộc đó cần được thể hiện và giữ gìn trong thời kì
hội nhập.

Cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc về văn hoá dân tộc, tích cực quảng bá những nét độc
đáo của văn hoá quê hương, những hình ảnh đẹp trên khắp mọi miền đất nước, luôn
gìn giữ, phát huy những vẻ đẹp truyền thống….

ĐỀ4: Bàn về Tuổi trẻ Việt Nam

PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu:

Những dấu chân lùi lại phía sau 


Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất 
Mười tám hai mươi sắc như cỏ 
Dày như cỏ 
Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ 
Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt 
Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất 
Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên 
Hơn một điều bất chợt 
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình 
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc) 
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

(Trích: Trường ca Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Câu 1. Tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ được tác giả
miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh nào? (0,5 điểm)

Câu 2. Nêu tác dụng của biện pháp so sánh được sử dụng trong các câu thơ “Mười tám
hai mươi sắc như cỏ/Dày như cỏ/Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ”. (0,75 điểm)
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về nội dung câu thơ: “Hoa chuẩn bị âm thầm trong
đất/Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên”? (0,75 điểm)

Câu 4. Điều anh/chị tâm đắc nhất trong đoạn trích trên là gì? (1,0 điểm)

Hướng dẫn trả lời:

Câu 1: Những từ ngữ, hình ảnh nói về tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng
kháng chiến chống Mĩ: trẻ nhất, sắc, dày, yếu mềm, mãnh liệt, không tiếc đời mình.
(Thí sinh cần chỉ ra ít nhất 02 từ ngữ trong các từ ngữ trên)0,52

Câu 2: Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh:

–  Giúp người đọc dễ hình dung những đặc điểm nổi bật của tuổi 20: kiên cường, mạnh
mẽ, đoàn kết, lãng mạn, nhiệt huyết,…

– Thái độ ngợi ca, trân trọng và tình yêu của tác giả với những năm tháng đẹp đẽ nhất
của cuộc đời.

Câu 3: Nội dung câu thơ: “Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất / Nơi đó nhất định mùa
xuân sẽ bùng lên” có thể hiểu:

Hoa: vẻ đẹp của sức mạnh ý chí tinh thần, tâm hồn của tuổi trẻ

Mùa xuân: thắng lợi, thành quả

⇒ Ý nghĩa: Tuổi trẻ với vẻ đẹp tâm hồn, với sức mạnh ý chí và tinh thần quyết tâm
tiêu diệt kẻ thù  nhất định sẽ giành thắng lợi – đó là lời động viên, đồng thời cũng thể
hiện niềm tin tưởng của tác giả với tuổi trẻ.

Câu 4: HS trình bày suy nghĩ cá nhân, nêu rõ vì sao thông điệp đó có ý nghĩa với em
nhất. Có thể lựa chọn thông điệp về lí tưởng sống hoặc một đặc điểm nào đó của tuổi
trẻ: kiên cường, mạnh mẽ, đoàn kết, lãng mạn, nhiệt huyết,…

ĐỀ 30 Lòng dũng cảm


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
 Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Con đã được học và nghe giảng rất nhiều về lòng dũng cảm. Nhưng những gì
mà con đã được thấy ở sâu thẳm cuộc sống xung quanh đã chép lại trong con
một định nghĩa rất mới về lòng dũng cảm, không cô đọng nhưng đầy ý nghĩa.
Là bố, người đã nén nỗi đau quặn thắt vì căn bệnh ung thư mà mỗi tối vẫn đặt
tay lên vai con, nói với con về cuộc đời, về đôi vai con sẽ là chỗ dựa vững chắc
nhất cho mẹ và chị. Những phút giây bố giành giật sự sống của mình để nhìn
………………………………………………………………………………………………………………….
con lớn lên từng ngày, con không bao giờ quên. Bố đã gửi lòng dũng cảm của
mình trên đôi vai con, để con luôn đứng vừng và mạnh mẽ tiến về phía trước…
Là mẹ, người đã vất vả, tất bật vì công việc mà nuôi hai chị em con ăn học. Suốt
mười mấy năm, quần quật từ lúc giọt sương chưa tan đến tận khi mặt trời co
rúm ró phía đằng Tây, nhưng chưa buổi tối nào, mẹ bỏ con ngồi học một mình.
Hình phạt “nặng nề” trong buổi học của con là những lần thước vào tay. Mẹ đã
gửi lòng dũng cảm và niềm tin của mình trong bàn tay con, để những lần con
nhìn thấy đường chỉ trên bàn tay và lại nghĩ về những vết chân chim nứt nẻ trên
ruộng đồng mỗi mùa hạn hán…
Là chị, người đã cố gắng hết mình nhưng vẫn bị “trì hoãn thành công” sau kì
thi Đại học. Nhưng suốt một năm sau đó, chị đã miệt mài hằng đêm với những
quyển sách dày cộm, chỉ với một quyết tâm: “phải học cho mẹ đỡ khổ”. Ngày
cầm trên tay tờ giấy báo trúng tuyển, chị đã bật khóc lên vì sung sướng trong
vòng tay mẹ. Những giọt nước mắt của chị cho con biết rằng thành công phải
đổi bằng mặn chát của nước mắt và lòng dũng cảm của mình…
Hai mươi tuổi, con đã bước đi bằng hành trang vô giá là lòng dũng cảm. Bàn
chân nhiều lúc tập tễnh ngã dúi dụi về phía trước, nhưng chưa một lần có ý định
dừng lại… “Nhặt kiếm lên và đi vào rừng thẳm”, đó là cách duy nhất để con đã
đang và sẽ vững bước trên chặng đường dài phía trước. Con đã đi, bước ra
cuộc đời như thế!
(Nguyễn Thái Anh, Dũng cảm bước đi, bài dự thi báo Văn hóa và Thể thao ngày
14/5/2009)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
Câu 2. Theo anh/chị vì sao người viết cho rằng: “Bố đã gửi lòng dũng cảm của
mình trên đôi vai con, để con luôn đứng vừng và mạnh mẽ tiến về phía trước…”
Câu 3. “Nhưng những gì mà con đã được thấy ở sâu thẳm cuộc sống xung
quanh đã chép lại trong con một định nghĩa rất mới về lòng dũng cảm”. Theo
anh/chị người viết đã “định nghĩa rất mới về lòng dũng cảm” như thế nào?
Câu 4: Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với anh/chị?

 * Gợi ý trả lời:


Câu 1: Phương thức biểu đạt: Nghị luận
Câu 2:  Người viết nói như vậy vì:
– Người bố đã dũng cảm chống chọi với căn bệnh ung thư nguy hiểm để giảnh
giật sự sống cho mình.
– Chính người bố là tấm gương sáng truyền cho con lòng dũng cảm, dám đương
đầu với khó khăn, thử thách làm chỗ dựa cho người thân trong gia đình và luôn
đứng vững trong cuộc đời.
Câu 3: “định nghĩa rất mới về lòng dũng cảm”:
– Là sự mạnh mẽ nén nỗi đau của ban thân, đối mặt với khó khăn, thử thách, để
vượt lên số phận, sống có ý nghĩa.
– Là sự nhẫn nại, hi sinh, gánh lấy nỗi vất vả khó nhọc để đem lại niềm vui và
cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.
………………………………………………………………………………………………………………….
– Là sự chăm chỉ, nỗ lực không ngừng, để vượt qua thất bại, gặt hái được thành
công.
Câu 4: Thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích:
HS đọc và nhận ra những thông điệp hàm ẩn trong văn bản. Trình bày suy nghĩ
cá nhân, nêu rõ vì sao thông điệp đó có ý nghĩa nhất. Có thể lựa chọn thông điệp
về sự nỗ lực vươn lên thử thách/ hoặc về sự nhẫn nại, đức hi sinh, lòng biết
ơn…

ĐỀ 58 Đừng sợ vấp ngã

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được
nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời.

Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi
thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc
nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được ngoại ngữ! Một
người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì. Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó
đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời.

(Theo Ngữ văn 7, tập 2, tr.43, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015)

Câu 1 (0.5 điểm): Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
trên.

Câu 2(0.5 điểm): Theo tác giả, người lúc nào cũng sợ thất bại là người như thế nào
Câu 3 (1.0 điểm): Anh/chị hiểu như thế nào về câu văn: “Một người mà không chịu
mất gì thì sẽ không được gì”?
Câu 4 (1.0 điểm): Anh/Chị hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất từ đoạn trích trên.

* Gợi ý trả lời:

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích: nghị luận

Câu 2: Theo tác giả, một người lúc nào cũng sợ thất bại là một người sợ hãi thực tế,
trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được

Câu 3:
………………………………………………………………………………………………………………….
– Một người mà không chịu mất gì nghĩa là không chấp nhận mất mát về thời gian,
công sức, tiền bạc, trí tuệ…thì sẽ không được gì nghĩa là không đạt được thành công,
không rút ra được những bài học kinh nghiệm, không có sức mạnh, bản lĩnh ý chí
vươn lên… và không thể trưởng thành trong cuộc đời.

Câu 4: HS trình bày ý kiến cá nhân nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Chẳng hạn:
Đừng sợ thất bại, sai lầm, đừng sợ mọi thử thách, gian khổ, hãy bản lĩnh, tự tin đối mặt
với mọi sóng gió để rèn luyện bản thân.

ĐỀ 73 Sống có ước mơ

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau, và trả lời các câu hỏi :

“Chúng tôi có một kế hoạch kinh tế rất lớn. Chúng ta sẽ tăng gấp đôi tốc độ tăng
trưởng hiện tại và trở thành nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Đồng thời chúng ta sẽ đi
cùng với những quốc gia sẵn sàng ủng hộ chúng ta. Chúng ta sẽ có được những mối
quan hệ tuyệt vời. Không có ước mơ nào là quá lớn, không có thử thách nào là quá
khó. Không có gì thuộc về tương lai chúng ta muốn chạm tới mà chúng ta không thể
thực hiện được.

Nước Mỹ sẽ không chấp nhận những gì mà không phải là tốt nhất. Chúng ta phải đòi
lại số phận của nước ta và có những ước mơ lớn, táo bạo và liều lĩnh. Chúng ta phải
làm điều đó. Một lần nữa, chúng ta sẽ mơ về những điều đẹp đẽ, thành công cho đất
nước.”

(Bài phát biểu nhận chức Tổng thống Mỹ của Donal Trum, 09/11/2016)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?

Câu 2: Lời phát biểu của Donal Trum đã đặt ra những mục tiêu gì cho nước Mỹ trong
tương lai?

Câu 3: Nêu nội dung chính của lời phát biểu trên?

Câu 4: Anh/chị có đồng tình với câu nói: “Không có ước mơ nào là quá lớn, không có
thử thách nào là quá khó.”?

* Hướng dẫn trả lời:

Câu 1: Phương thức biểu đạt: Nghị luận.

Câu 2: Mục tiêu là đưa nước Mỹ trở thành nền kinh tế mạnh nhất trên thế giới.

Câu 3: Nội dung chính: Thể hiện khát vọng và nỗ lực thực hiện khát vọng của nước
Mỹ.
………………………………………………………………………………………………………………….
Câu 4: HS có thể trả lời đồng tình hoặc không đồng tình. Lí giải hợp lí, thuyết phục,
quan điểm đúng đắn.

ĐỀ 77 Vẻ đẹp người lính

Đọc bài thơ và thực hiện các yêu cầu:

Dáng đứng Việt Nam

“Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất


Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công.
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh dẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để gì lại cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ơi Anh Giải phóng quân
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong bài thơ.

Câu 2. Xác định hình tượng nhân vật trung tâm trong bài thơ.

Câu 3. Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Anh vẫn đứng lặng im
như bức thành đồng”. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

Câu 4.  Nêu cảm nghĩ của anh (chị ) về hai câu thơ :

Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
………………………………………………………………………………………………………………….
Gợi ý trả lời:

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính trong bài thơ: Biểu cảm.

Câu 2. Hình tượng nhân vật trung: người lính, Anh Giải phóng quân.

Câu 3. – Biện pháp tu từ : so sánh

– Hiệu quả nghệ thuật: Khắc họa vẻ đẹp của người lính uy nghi, lẫm liệt trước lúc đi
xa.

Câu 4. Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, miễn là hợp lý, sau đây là
gợi ý:

– Bài thơ khép lại bằng hình ảnh “Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn
Nhất,Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” đã mở ra một chân trời mới tràn ngập niềm
lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của dân tộc Việt Nam

ĐỀ 90.Tình yêu đất nước

Đề bài 1:

I. Đọc – hiểu (3.0 điểm)

Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu:

Trong Diễn văn khai giảng năm học 2014 – 2015 ở trường Lương Thế Vinh (Hà Nội),
Giáo sư Văn Như Cương – Hiệu trưởng nhà trường – có nói:

(1) Chúng ta hãy thể hiện tình yêu nồng thắm và lớn lao đối với đất nước mình. Chúng
ta yêu núi cao, sông dài, yêu rừng xanh, biển bạc, yêu đất liền và đảo xa. Một nắm đất
ở vùng biên giới, một vốc cát ở Trường Sa hay Hoàng Sa đều do ông cha ta để lại, đều
không thể mất…Chúng ta hãy yêu mến nhân dân mình, gần gũi nhất là yêu gia đình
mình, yêu bạn bè, yêu thầy cô…Hãy nhớ rằng chúng ta được nuôi dưỡng bằng dòng
sữa Mẹ Việt Nam, tuy rất ngọt ngào nhưng được chắt lọc từ biết bao nhọc nhằn và cay
đắng…

(2) Tình yêu thương đất nước và nhân dân sẽ là động lực lớn thúc đẩy các em làm tốt
nhiệm vụ của mình trong lúc còn ngồi trên ghế nhà trường: Nhiệm vụ đó chính là học
tập tốt về mọi mặt. Hãy học tập không chỉ bằng khối óc mà còn bằng cả trái tim mình.
Các em hãy nhớ lời của Bác Hồ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, mà một dân
tộc yếu thì không làm chủ được chính mình, không bao giờ đạt được điều chúng ta
mong muốn là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”.
………………………………………………………………………………………………………………….
(Theo http://www.tinmoi.vn ngày 4/9/2014)

Câu 1. Xác định thao tác lập luận chủ yếu trong đoạn (2)? (0.5 điểm)

Câu 2. Những biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu sau: Chúng ta yêu núi cao,
sông dài, yêu rừng xanh, biển bạc, yêu đất liền và đảo xa. (0.5 điểm)

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về lời nhắn nhủ của thầy Văn Như Cương: Hãy học
tập không chỉ bằng khối óc mà còn bằng cả trái tim mình ? (1,0 điểm)

Câu 4. Anh/chị có đồng ý với quan điểm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, mà
một dân tộc yếu thì không làm chủ được chính mình? Hãy nêu ít nhất hai lí do cho ý
kiến của mình. (1,0 điểm)

* Hướng dẫn trả lời:

Câu 1. Thao tác lập luận chủ yếu trong đoạn (2): Bình luận

Câu 2. Biện pháp tu từ trong câu: Chúng ta yêu núi cao, sông dài, yêu rừng xanh, biển
bạc, yêu đất liền và đảo xa:

– Phép điệp (điệp từ): yêu

– Phép liệt kê: núi cao, sông dài, rừng xanh, biển bạc, đất liền, đảo xa

Câu 3. Ý nghĩa câu nói: Hãy học tập không chỉ bằng khối óc mà còn bằng cả trái tim
mình.

Hs có thể hiểu theo nhiều cách miễn hợp lí, có cơ sở.

– Hãy học tập không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng cả tình yêu và trách nhiệm đối với
Tổ quốc của mình.

– Hãy học tập với tất cả sự thông minh và niềm đam mê, khao khát của mình.

Câu 4. Hs bày tỏ rõ quan điểm cá nhân: đồng tình/không đồng tình; nêu 2 lí do hợp lí,
thuyết phục
………………………………………………………………………………………………………………….

You might also like