Professional Documents
Culture Documents
Uỷ Ban Nhân Dân Tp.Hồ Chí Minh Trường Đại Học Sài Gòn
Uỷ Ban Nhân Dân Tp.Hồ Chí Minh Trường Đại Học Sài Gòn
HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI SỬ DỤNG
DỊCH VỤ ĐẶT XE GRAB BIKE CỦA SINH VIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Hình 2. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng Ý định sử dụng hệ thống tàu điện ngầm
Metro
Nguồn: Đặng Thị Ngọc Dung (2012)
Tác giả Nguyễn Duy Thanh, Huỳnh Thị Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuân
(2015) đã khám phá, phân tích và đề xuất mô hình chấp nhận và sử dụng dịch vụ taxi
Uber. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố kiến thức pháp luật, dễ dàng sử dụng,
chuẩn chủ quan, và giá trị giá cả có ảnh hưởng đến sự chấp nhận và sử dụng Uber tại
Việt Nam.
Hình 3. Mô hình các nhân tố tố ảnh hưởng Chấp nhận Uber và Sử dụng Uber
Nguồn: Nguyễn Duy Thanh, Huỳnh Thị Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuân (2015)
Tác giả Nguyen Thuy Quynh Loan và Ngo Quang Hung (2018) trong nghiên cứu
của mình đã xác định và đo lường các yếu tố tác động đến sự hài lòng và ý định tái
sử dụng dịch vụ xe máy trực tuyến của khách hàng. Kết quả chỉ ra rằng năm yếu tố:
Cảm nhận dịch vụ (Perceived serivce), Giá trị cảm nhận (Perceived value), Sự thuận
tiện trong giao dịch (Transaction), Tính dễ dàng sử dụng (Perceived ease of use) và
Nhận thức sự hữu ích (Perceived usefulness) của dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến sự
hài lòng (Satisfaction) của khách hàng. Đồng thời, ý định tái sử dụng thì bị ảnh hưởng
bởi sự hài lòng của khách hàng và thói quen (Habit).
Hình 4. Mô hình các nhân tố tố ảnh hưởng Sự hài lòng và Ý định tái sử dụng
dịch vụ xe máy trực tuyến của khách hàng
Nguồn: Nguyen Thuy Quynh Loan và Ngo Quang Hung (2018)
Các nghiên cứu nước ngoài
Rizly Septiami, Putu Wuri Handayani và Fatimah Azzahro (2017) xác định
những nhân tố tác động đến ý định hành vi của người tiêu dùng đối với một trong các
dịch vụ vận chuyển trực tuyến ở Indonesia theo mô hình chấp nhận công nghệ (TAM),
thuyết hành vi ý định (TPB) và lý thuyết khuếch tán đổi mới (DOI) bao gồm: Tính
dễ dàng sử dụng (Perceived Ease of Use), Chuẩn chủ quan (Subjective Norm), Khả
năng tương thích (Compatibility), Cảm nhận về sự thích thú (Perceived Enjoyment)
và Sự đa dạng về dịch vụ (Variety of Service).
Hình 5. Mô hình các nhân tố tố ảnh hưởng ý định hành vi của người tiêu dùng
đối với một trong các dịch vụ vận chuyển trực tuyến ở Indonesia
Nguồn: Rizly Septiami, Putu Wuri Handayani và Fatimah Azzahro (2017)
Nhóm tác giả Anggi Gumilar, Dionisius W D, Ivan Oliver, Jeanifer Gunawan và
Sfenrianto Sfenrianto (2019) đã xây dựng mô hình nghiên cứu về ý định sử dụng dịch
vụ gọi xe trực tuyến của khách hàng tại Indonesia dựa theo mô hình chấp nhận công
nghệ (TAM) và đồng thời thêm 3 biến mới gồm có: Sự đổi mới cá nhân (Personal
Innovativeness), Nhận thức rủi ro (Perceived risk) và Thực tế sử dụng (Actual of
Use).
Hình 6. Mô hình các nhân tố tố ảnh hưởng đến ý định hành vi sử dụng dịch vụ
gọi xe trực tuyến và thực tế sử dụng của khách hàng tại Indonesia
Nguồn: Anggi Gumilar, Dionisius W D, Ivan Oliver, Jeanifer Gunawan và Sfenrianto
Sfenrianto (2019)
Tác giả Muhammad Khubaib Zafar và Ummeh Habiba Faria Benteh Rahman
(2018) đã nghiên cứu và chỉ ra rằng phụ nữ ở Bangladesh và Pakistan quan tâm đến
việc sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến Uber hơn là đàn ông. Đồng thời các nhân tố
tác động đến ý định hành vi của họ cho việc lựa chọn loại hình dịch vụ này dược
nhóm tác giả trình bày ở mô hình nghiên cứu sau đây:
Hình 7. Mô hình các nhân tố tố ảnh hưởng đến ý định hành vi sử dụng dịch vụ
Uber của khách hàng tại Bangladesh và Pakistan
Nguồn: Muhammad Khubaib Zafar và Ummeh Habiba Faria Benteh Rahman (2018)
2.2.2. Nhận xét
Nhìn chung trong nhiều năm qua (2012 – 2019) đã có nhiều tác giả nghiên cứu
về các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi và ý định sử dụng dịch vụ đặt xe trực tuyến
của khách hàng cũng như sử dụng các dịch vụ phương tiện lưu thông mới. Các nghiên
cứu này đã được thực hiện tại Việt Nam, Indonesia, Bangladesh và Pakistan. Kết quả
cho thấy rằng có không ít các nhân tố tác động đến hành vi và ý định sử dụng dịch vụ
đặt xe trực tuyến của khách hàng. Nhưng những nhân tố đặc biệt được nhiều tác giả
nghiên cứu gồm: Nhận thức sự hữu ích của dịch vụ (Perceived Usefulness), Chuẩn
chủ quan (Subjective Norm), Tính dễ dàng sử dụng (Perceived Ease of Use). Trong
7 bài nghiên cứu trên, các nhân tố này đã xuất hiện từ 4 lần trở lên. Những nhân tố
còn lại thì xuất hiện với tần suất ít hơn như: Giá trị giá cả (Price Value), Cảm nhận
chất lượng dịch vụ (Perceived Service),…cần được khám phá và nghiên cứu thêm.
2.3. Mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết
2.3.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Dựa vào mô hình nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Bình Minh, Phạm Nguyễn
Hoàng Hải, Nguyễn Việt Dũng và Đỗ Thanh Long năm 2017 (Hình 1) đồng thời kết
hợp với các nhân tố mới chưa được nghiên cứu nhiều như đã nêu ở phần nhận xét
2.2.2, nhóm nghiên cứu xin được đề xuất mô hình nghiên cứu có thêm 2 biến mới
gồm có: cảm nhận chất lượng dịch vụ (Perceived serivce) của nhóm tác giả Nguyen
Thuy Quynh Loan và Ngo Quang Hung (2018) và giá trị giá cả (Price Value) của
nhóm tác giả Nguyễn Duy Thanh, Huỳnh Thị Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuân
(2015) như sau:
Hình 8. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ Grab
của sinh viên tại Tp.HCM
Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu
2.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Nhận thức sự hữu ích của dịch vụ
Nhận thức sự hữu ích của dịch vụ là mức độ mà một người tin rằng việc sử dụng
một hệ thống cụ thể sẽ nâng cao hiệu suất công việc của họ (Davis, 1989; Venkatesh
và cộng sự, 2003). Họ tìm thấy rằng nhận thức sự hữu ích có một tác động tích cực
lên hành vi sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng. Vì vậy, giả thuyết sau đây được xây
dựng. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ giữa nhận thức sự hữu ích của
dịch vụ với hành vi chấp nhận sản phẩm (Gumilar, D, Oliver, Gunawan, & Sfenrianto,
2019) hoặc nhóm tác giả Nguyễn Bình Minh, Phạm Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Việt
Dũng và Đỗ Thanh Long (2017).
H1: Nhận thức sự hữu ích của dịch vụ ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch
vụ GrabBike của sinh viên tại Tp.HCM
Cảm nhận chất lượng dịch vụ
Cảm nhận chất lượng dịch vụ được xem là mức độ và hướng khác biệt giữa nhận
thức và kỳ vọng của người tiêu dùng (Parasuraman, Zeithaml, & Berry, 1988). Nói
cách khác, cảm nhận chất lượng dịch vụ là sự đánh giá của người tiêu dùng về hiệu
quả dịch vụ mà họ nhận được và so với kỳ vọng của họ (Jiang & Wang, 2006). Cảm
nhận chất lượng dịch vụ của khách hàng là yếu tố có thể ảnh hưởng đến hành vi sử
dụng dịch vụ thông qua cảm nhận của họ về trải nghiệm thực tế sau khi sử dụng các
dịch vụ này theo nghiên cứu của tác giả Nguyen Thuy Quynh Loan và Ngo Quang
Hung (2018). Và để tiếp tục khẳng định nhân tố này có tác động đến hành vi sử dụng
dịch vụ của khách hàng hay không? Giả thuyết H2 được đề xuất như sau:
H2: Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của sinh
viên tại Tp.HCM
Chuẩn chủ quan
Chuẩn chủ quan được định nghĩa là nhận thức của một người về việc hầu hết
những người quan trọng đối với cá nhân này nghĩ là anh ấy/ cô ấy nên hay không nên
thực hiện hành vi nào đó (Ajzen và Fishbein, 1980). Các nhân tố thuộc chuẩn chủ
quan là các ý kiến của gia đình và bạn bè (Borith L. và cộng sự, 2010); ý kiến cộng
đồng và các chính sách của chính quyền (Aoife A., 2001). Các nghiên cứu thực
nghiệm cũng đã tìm được tác động của chuẩn chủ quan có tác động đến hành vi sử
dụng hay chấp nhận sản phẩm/ dịch vụ (Septiani, Handayani, & Azzahro, 2017) hoặc
(Gumilar, D, Oliver, Gunawan, & Sfenrianto, 2019).
H3: Chuẩn chủ quan ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của sinh
viên tại Tp.HCM
Tính dễ dàng sử dụng
Nhận thức tính dễ sử dụng theo mô hình chấp nhận công nghệ TAM của (Davis,
1989) đề cập đến việc người sử dụng tin rằng việc sử dụng hệ thống, sản phẩm công
nghệ thông tin sẽ không đòi hỏi nhiều nỗ lực và họ sẽ cảm thấy dễ dàng khi sử dụng
sản phẩm. Họ thấy rằng nhận thức tính dễ sử dụng có một ảnh hưởng tích cực lên sự
tin tưởng bởi vì nhận thức tính dễ sử dụng có thể giúp thúc đẩy khách hàng trong việc
sử dụng dịch vụ mua sắm trực tuyến lần đầu và hơn nữa làm cho khách hàng sẵn sàng
đầu tư và cam kết trong mối quan hệ giữa người mua và người bán. Nghiên cứu trong
nước của nhóm tác giả Nguyễn Bình Minh, Phạm Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Việt
Dũng và Đỗ Thanh Long (2017) cho thấy kết quả tính dễ dàng sử dụng dịch vụ có tác
động đến hành vi chấp nhận sản phẩm.
H4: Tính dễ dàng sử dụng ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của sinh
viên tại Tp.HCM
Độ an toàn
Độ an toàn được hiểu là an toàn trong giao dịch khi lưu hành giao thông và tan
toàn khi đăng nhập vào ứng dụng công nghệ trên điện thoại di động. Grab Bike là
dịch vụ thuộc ngành giao thông đường bộ, chính vì vậy độ an toàn khi sử dụng dịch
vụ được coi là điều vô cùng quan trọng đối với khách hàng. Các nghiên cứu của nhóm
tác giả Nguyễn Duy Thanh, Huỳnh Thị Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuân (2015)
hay nhóm tác giả Nguyễn Bình Minh, Phạm Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Việt Dũng
và Đỗ Thanh Long (2017) cũng ủng hộ quan điểm độ an toàn có tác động đến hành
vi sử dụng dịch vụ.
H5: Độ an toàn ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của sinh viên tại
Tp.HCM
Giá trị giá cả
Giá trị giá cả được đi kèm cùng với chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ để xác
định giá trị của sản phẩm hay dịch vụ đó. Theo (Venkatesh, Morris, Davis, & Davis,
2003) giá trị giá cả được xem là tích cực khi những lợi ích của việc sử dụng công
nghệ lớn hơn chi phí bỏ ra, và có tác động tích cực đến ý định hành vi. Trong nghiên
cứu này, giá trị giá cả dựa theo nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Duy Thanh,
Huỳnh Thị Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuân (2015). Và để khẳng định lại nhân tố
giá trị giá cả này có thực sự tác động đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của khách
hàng hay không? Giả thuyết H6 được đề xuất:
H6: Giá trị giá cả ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ GrabBike của sinh viên
tại Tp.HCM
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu
Quy trình được thực hiện thông qua 2 bước chính: Thứ nhất là nghiên cứu bằng
phương pháp định tính thực hiện thông qua kỹ thuật thảo luận nhóm và tham khảo
các tài liệu nghiên cứu trước, thứ hai nghiên cứu chính thức sẽ được sử dụng phương
pháp định lượng được thực hiện bằng kỹ thuật khảo sát trực tuyến thông qua bảng
câu hỏi chi tiết nhằm đánh giá các thang đo và kiểm định mô hình đã đặt ra.