You are on page 1of 26

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

KHOA LUẬT


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Đề tài:

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG


TRÊN CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Giáo viên hướng dẫn : Th.S Dương Việt Anh


Sinh viên thực hiện : Nguyễn Ái Hồng Ân
Lớp : 45K13.1

Đà Nẵng, tháng 05/2022


Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

1
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ................................................................................5
1.1. Tìm hiểu chung về thương mại điện tử.....................................................
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử................................................................
1.1.2. Đặc điểm hoạt động thương mại điện tử.................................................
1.1.3. Hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử....................................
1.1.4. Chủ thể hoạt động...................................................................................
1.2. Mục đích của hoạt động thương mại điện tử............................................
1.3. Các hành vi bị cấm trong hoạt động thương mại điện tử........................
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRÊN CÁC HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.................................................................11
2.1. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại
điện tử...............................................................................................................
2.1.1. Quyền cơ bản của người tiêu dùng........................................................11
2.1.2. Các nội dung cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện
tử ..............................................................................................................11
2.1.3. Các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng trên các hoạt động
thương mại điện tử............................................................................................14
2.1.4. Chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử...................................................................................17
2.2. Các hạn chế đối với chế tài pháp lý bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng trong thương mại điện tử...............................................................
2.3. Những giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trên môi trường thương mại điện tử....................................................
KẾT LUẬN......................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................25

2
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thương mại điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành kênh
phân phối với nhiều tiện ích. Sự phát triển của hoạt động có yếu tố thương mại
điện tử trên mạng xã hội với lợi thế chi phí gia nhập thị trường thấp, thuận tiện,
giảm chi phí tìm kiếm, giao dịch đã thu hút nhiều người bán và người mua. Tuy
nhiên các hoạt động thương mại điện tử đặc biệt là các hoạt động hỗ trợ thương
mại điện tử trên nền tảng mạng xã hội, cũng nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý đáng
quan tâm. Bên cạnh những lợi ích mang lại thì hoạt động thương mại điện tử vẫn
tiềm ẩn nhiều rủi ro, người tiêu dùng vẫn chưa yên tâm bởi các hành vi thương
mại không công bằng, thanh toán không đảm bảo, bị lộ thông tin cá nhân, hàng
giả, hàng kém chất lượng.
Sự tăng trưởng nhanh chóng của mô hình kinh tế dựa trên nền tảng trực
tuyến đã đặt ra những thách thức mới cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong khi các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn chưa kịp điều
chỉnh cho phù hợp. Vì vậy, quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng vẫn bị xâm
phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi
người tiêu có nhiều đóng góp trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
nhưng hoạt động của tổ chức tham gia vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có
nguyên nhân từ chính sách, pháp luật.
Trên thực tiễn, việc áp dụng đem lại những kết quả tích cực bảo vệ hợp
pháp quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử nhưng
vẫn còn tồn đọng một số vướng mắc, hạn chế trong khi áp dụng các quy định
pháp luật. Do đó, việc này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
quy định pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao tính bảo đảm quyền
lợi người tiêu dùng trên hoạt động thương mại điện tử
Tại Việt Nam, Nhà nước đã xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Các văn bản
như: Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Luật thương mại điện tử 2005
và các văn bản dưới luật có liên quan. Tuy nhiên, các quy định pháp luật đó có
nội dung chưa thực sự phù hợp với thực trạng hiện nay khi mà quyền lợi người
tiêu dùng ngày một gia tăng trên các trang thương mại điện tử. Ngoài ra, các cơ
chế kiểm soát, quản lí của các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ, dẫn đến quyền
lợi người tiêu dùng bị xâm hại dễ dàng ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan có
thẩm quyền.

2. Mục tiêu nghiên cứu


 Mục đích của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thương mại điện
tử và pháp luật về bảo vệ quyền của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại
điện tử. Đặc biệt đề tài nêu ra những khó khăn, bất cập có liên quan để từ đó đề
xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về việc bảo vệ quyền của người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. Trên cơ sở đó, đề xuất các khuyến
3
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

nghị về phương hướng cụ thể cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
riêng biệt về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong Thương mại điện tử tại Việt
Nam để đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành tại Việt Nam cũng
như thực trạng và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài ra,
làm rõ cơ sở khoa học về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt
Nam những vấn đề lý luận chung về hoạt động thương mại điện tử.

3. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu đề tài là những quy định pháp luật có liên quan
đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Thực tiễn
và thực thi các quy định pháp luật ở Việt Nam về xây dựng pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
kèm theo, luân văn gồm có 2 Chương với những nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động thương mại điện tử
Chương 2: Thực trạng pháp luật và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trên các hoạt động thương mại điện tử

4
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT


ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Tìm hiểu chung về thương mại điện tử
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
“ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác ”1
Trong khi đó, Khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định:
“Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy
trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng
Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”. 2
Vì vậy, về cơ bản thì thương mại điện tử vẫn là hoạt động mua bán hàng
hoá, nhưng thay vì diễn ra trực tiếp thông qua hành vi của các cá nhân, tổ chức
thì sẽ diễn ra trên các nền tảng mạng viễn thông được đăng ký theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động thương mại điện tử
Hoạt động thương mại điện tử có các đặc điểm cấu thành của thương mại
truyền thống.
Một là, các hoạt động thương mại điện tử được thực hiện thông qua hình
thức kết nối mạng. Khác với thương mại truyền thống được thực hiện dựa trên
các tài liệu bằng văn bản, thương mại điện tử sử dụng các phương tiện điện tử để
giao dịch và lưu trữ thông tin và thông qua mạng lưới thông tin để người mua và
người bán có thể thực hiện mua hàng một cách gián tiếp, nhanh chóng.
Hai là, các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện không phụ thuộc
vào thời gian. Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, việc sử dụng các phương
tiện điện tử với công nghệ hiện đại và công nghệ truyền dẫn không dây có thể
giúp người tham gia giao dịch tiến hành tự động hóa một số bước trong giao dịch
thương mại điện tử.
Ba là, phạm vi hoạt động không phụ thuộc vào vị trí địa lý. Đối với
thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi
dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì đây chính là thị trường mà các chủ thể
của các hoạt động thương mại điện tử tiến hành thông qua địa điểm bất kì. Vì vậy
thương mại điện tử là một thị trường không có biên giới mà đây chính là thị
trường mở, thị trường toàn cầu. Đây là một đặc điểm nổi bật của hoạt động
thương mại điện tử.
Nếu như trước đây hình thức thương mại truyền thống buộc người mua
và người bán phải có một địa điểm tập kết để trao đổi thông tin và sản phẩm. Giờ
1
Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005
2
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP 
5
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

đây, chỉ cần có kết nối mạng và phương tiện điện tử, người tiêu dùng có thể dễ
dàng tiếp cận sản phẩm để lựa chọn sau đó xác nhận và thanh toán đơn hàng là
đã xong quá trình mua bán. Từ đó giúp tiết kiệm thời gian cho các chủ thể giao
dịch thương mại điện tử

1.1.3. Hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử


Hiện nay với sự phát triển mạnh của các trang mạng trên nền tảng
Internet thì các hoạt động thương mại điện tử có thể được thực hiện thông qua
nhiều phương tiện điện tử với nhiều hình thức đa dạng.
Theo Nghị định Số 52/2013/NĐ-CP quy định, hoạt động thương mại điện
tử thiết lập dưới các hình thức sau:
- Website thương mại điện tử bán hàng: Đây là website thương mại
điện tử do các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động
xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình. Đối với hoạt
động thương mại điện tử trên website thương mại điện tử bán hàng, chủ thể thực
hiện hoạt động thương mại cũng là chủ thể thiết lập website thương mại điện tử.
Theo Điều 52 Nghị định 52/2013/NĐ-CP và khoản 1 Điều 10, Điều
11 Nghị định 08/2018/NĐ-CP, các thương nhân, tổ chức, cá nhân được thiết lập
website thương mại điện tử bán hàng nếu đáp ứng các điều kiện sau: Thứ nhất, là
thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân đã được cấp mã số thuế cá nhân. Thứ hai,  đã
thông báo với Bộ Công Thương về việc thiết lập website thương mại điện tử bán
hàng theo quy định.
- Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử: Là website thương
mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các
thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại. Website
cung cấp dịch vụ thương mại điện tử bao gồm các loại sau:
 Sàn giao dịch thương mại điện tử: “Sàn giao dịch thương
mại điện tử là website thương mại điện tử cho phép các thương nhân, tổ chức, cá
nhân không phải chủ sở hữu website có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy
trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó”3. Pháp luật quy định về sàn giao dịch
Thương mại điện tử nêu rõ, nếu website cho phép các thương nhân, tổ chức, cá
nhân khác đăng ký tài khoản, đăng tải thông tin, hình ảnh quảng cáo về doanh
nghiệp, sản phẩm, dịch vụ để kinh doanh thì bắt buộc phải đăng ký dưới dạng sàn
giao dịch thương mại điện tử
 Website đấu giá trực tuyến: “Website đấu giá trực tuyến là
website thương mại điện tử cung cấp giải pháp cho phép thương nhân, tổ chức,
cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tổ chức đấu giá cho hàng hóa của
mình trên đó.”4
 Website khuyến mại trực tuyến: “Website đấu giá trực tuyến
là website thương mại điện tử cung cấp giải pháp cho phép thương nhân, tổ
3
Khoản 9 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP
4
Khoản 11 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP
6
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tổ chức đấu giá cho hàng
hóa của mình trên đó.”5
Mỗi loại hoạt động thương mại điện tử này có những đặc điểm riêng về
chủ thể tham gia hoạt động và loại hoạt động thương mại được thực hiện. Vì vậy,
việc phân loại các hoạt động thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng để xác
định trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia vào từng loại hoạt động thương
mại điện tử.
1.1.4. Chủ thể hoạt động
Theo quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động thương mại điện tử,
các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử bao gồm:
- “Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương
mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung
ứng dịch vụ của mình (người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng).
- Các thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để
cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt
động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (thương nhân, tổ
chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử).
- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website của thương
nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc
tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người bán).
- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ
trên website thương mại điện tử bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương
mại điện tử (khách hàng).
- Các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho người sở
hữu website thương mại điện tử bán hàng và cho thương nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử (thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng).
- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối
mạng khác để tiến hành hoạt động thương mại”.6
Ngoài ra, trong một số trường hợp, các giao dịch thương mại điện tử
thường phải đối mặt với các vấn đề an ninh, bảo mật. Do đó, các chủ thể khác có
thẩm quyền như: Cơ quan, tổ chức hoặc thương nhân có khả năng chứng thực,
trợ giúp và xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện
tử.

1.2. Mục đích của hoạt động thương mại điện tử


Thương mại điện tử là công cụ giao tiếp giúp người mua và người bán
trao đổi một cách dễ dàng. Không những vậy, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ
của thương mại điện tử đã tác động đến toàn bộ các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Với vai trò là cầu nối quan trọng của sự tương tác xã hội, sự phát triển của
5
Khoản 10 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP
6
Điều 24 Nghị định 52/2013/NĐ-CP
7
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

thương mại điện tử phát huy khả năng thông qua việc các trang thương mại điện
tử lần lượt ra đời cùng với các phương tiện truyền thông ngày càng hoàn thiện,
góp phần bảo đảm sự an toàn của môi trường điện tử.
Nhờ có thương mại điện tử, nền kinh tế của thế giới đã bước sang một
trang mới. Các hoạt động kinh doanh mua bán với số lượng từ lớn đến nhỏ ở
khắp mọi nơi trở nên vô cùng tiện lợi và nhanh chóng. Một số những lợi ích mà
thương mại điện tử mang lại ngay sau đây:
- Đối với doanh nghiệp
Thương mại điện tử tác động tới mọi hoạt động của doanh nghiệp từ
hoạt động sản xuất, tài chính kế toán, đào tạo cho tới quản trị nguồn lực của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự tiếp cận khách hàng của các doanh nghiệp nhỏ và
nắm được thông tin từ thị trường đối tác thông qua nền tảng thương mại điện tử
dễ dàng hơn. Ngoài ra, thương mại điện tử làm thay đổi cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp giải quyết được vấn đề chồng chéo chức năng
của các phòng ban, loại bỏ những phòng ban không cần thiết đồng thời động
viên, phát huy hết năng lực của người lao động.
Thương mại điện tử ra đời đã làm thay đổi rất nhiều mô hình kinh doanh
cũng như tạo ra nhiều mô hình kinh doanh mới. Các doanh nghiệp thương mại
bên cạnh các hoạt động truyền thống còn triển khai các hoạt động kinh doanh
trực tuyến.
- Đối với người tiêu dùng
Thương mại điện tử đem lại cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn về
sản phẩm và dịch vụ. Người mua có thể tiếp cận với nhiều nhà cung cấp hơn
thông qua các sàn thương mại điện tử, website thương mại điện tử, các kênh mua
bán trực tuyến.
Không những vậy, người tiêu dùng mua sắm không bị giới hạn về thời
gian và không gian. Vì vậy khách hàng có thể mua sắm mọi nơi, mọi lúc và còn
tiết kiệm cho người tiêu dùng về thời gian cũng như chi phí hàng hóa, dịch vụ.
Trước kia, người tiêu dùng phải mua sản phẩm theo giá niêm yết trên mỗi sản
phẩm thì giờ đây người tiêu dùng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp
thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất cho cùng một đối tượng
sản phẩm.
- Đối với môi trường xã hội
Thương mại điện tử phát triển làm giảm áp lực lạm phát cho nền kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Trong thị trường thương mại đầy sự
cạnh tranh hiện nay, thương mại điện tử ra đời góp phần cắt giảm chi phí cho
doanh nghiệp và việc này sẽ giúp các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về giá để
từ đó giảm lạm phát cho nền kinh tế. Ngoài ra việc chi phí sản xuất giảm nhưng
năng suất lao động tăng thì các doanh nghiệp có xu hướng giảm giá thành sản
phẩm. Do đó, các sản phẩm trên thị trường sẽ được tiếp cận đến người tiêu dùng
dễ dàng hơn

8
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

Như vậy, thương mại điện tử có vai trò quan trọng trong thời đại hiện
nay. Thương mại điện tử không những giúp thu hẹp khoảng cách địa lý và thời
gian giữa những chủ thể trong thương mại mà thông qua đó người tiêu dùng có
thể tiếp cận những sản phẩm dịch vụ dễ dàng từ những nơi khác nhau. Do đó,
thương mại điện tử đóng góp nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và
thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
1.3. Các hành vi bị cấm trong hoạt động thương mại điện tử
Căn cứ theo Điều 4 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định  có 4 nhóm hành
vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thương mại điện tử.
Một là, các vi phạm về hoạt động kinh doanh thương mại điện tử:
 Tổ chức mạng lưới kinh doanh, tiếp thị cho dịch vụ thương
mại điện tử, trong đó mỗi người tham gia phải đóng một khoản tiền ban đầu để
mua dịch vụ và được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ
việc vận động người khác tham gia mạng lưới.
 Lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng giả, hàng
hóa, dịch vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục
hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh.
 Lợi dụng danh nghĩa hoạt động kinh doanh thương mại điện
tử để huy động vốn trái phép từ các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác.
 Cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử hoặc dịch vụ giám
sát, đánh giá và chứng thực trong thương mại điện tử khi chưa đăng ký hoặc chưa
được cấp phép theo các quy định của Nghị định 52/2013/NĐ-CP.
 Cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử hoặc dịch vụ giám
sát, đánh giá và chứng thực trong thương mại điện tử không đúng với thông tin
trong hồ sơ đăng ký hoặc cấp phép.
 Có hành vi gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi
thực hiện các thủ tục thông báo thiết lập website thương mại điện tử, đăng ký
website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, đăng ký hoặc xin cấp phép các
dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng thực trong thương mại điện tử.
Hai là, vi phạm về thông tin trên website thương mại điện tử:
 Giả mạo thông tin đăng ký hoặc không tuân thủ các quy
định về hình thức, quy cách công bố thông tin đăng ký trên website thương mại
điện tử.
 Sử dụng các đường dẫn, biểu trưng hoặc công nghệ khác
trên website thương mại điện tử để gây nhầm lẫn về mối liên hệ với thương nhân,
tổ chức, cá nhân khác.
 Sử dụng đường dẫn để cung cấp những thông tin trái ngược
hoặc sai lệch so với thông tin được công bố tại khu vực website có gắn đường
dẫn này.
Ba là, vi phạm về giao dịch trên website thương mại điện tử:

9
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

 Thực hiện các hành vi lừa đảo khách hàng trên website
thương mại điện tử.
 Giả mạo thông tin của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác
để tham gia hoạt động thương mại điện tử.
 Can thiệp vào hệ điều hành và trình duyệt Internet tại các
thiết bị điện tử truy cập vào website nhằm buộc khách hàng lưu lại website trái
với ý muốn của mình.
Bốn là, các vi phạm khác trong hoạt động thương mại điện tử gồm:
 Đánh cắp, sử dụng, tiết lộ, chuyển nhượng, bán các thông tin
liên quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác hoặc
thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử khi chưa được sự
đồng ý của các bên liên quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 Giả mạo hoặc sao chép giao diện website thương mại điện
tử của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để kiếm lợi hoặc để gây nhầm lẫn, gây
mất lòng tin của khách hàng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân đó.7

7
Điều 4 Nghị đinh 52/2013/NĐ-CP
10
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP


TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRÊN CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
2.1.1. Quyền cơ bản của người tiêu dùng
Theo quy định của pháp luật tại Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 giải
thích người tiêu dùng như sau: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Căn cứ theo Điều 8 Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 quy định về quyền
của người tiêu dùng thì người tiêu dùng có các quyền lợi sau đây:
- “Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp (bên bán).
- Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về bên bán; nội dung
giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; hóa đơn, chứng từ,
tài liệu liên quan và thông tin cần thiết khác.
- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, bên bán theo nhu cầu, điều kiện thực
tế của mình. Quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội
dung thỏa thuận.
- Góp ý kiến với bên bán về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao
dịch.
- Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả.
Hoặc nội dung khác mà bên bán đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện
để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định.
- Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ”. 8

2.1.2. Các nội dung cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại
điện tử
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã ghi nhận những
nguyên tắc cơ bản về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trên nền tảng của pháp
luật dân sự, pháp luật thương mại xét thấy tính chất mối quan hệ của người tiêu
dùng trong giao dịch với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, nghị định

8
Điều 8 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
11
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

52/2013/NĐ-CP đã có những nội dung cơ bản về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trên thương mại điện tử .
Một là, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải được thực hiện kịp
thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật. Theo điều 6 Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 2010 quy định người tiêu dùng khi tham gia giao dịch cũng như
sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì được bảo đảm an toàn về thông tin, bí mật cá nhân
trừ những trường hợp mà có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên
cạnh đó, Nghị định 52/2013/NĐ-CP cũng nêu ra các chính sách bảo vệ thông tin
cá nhân của người tiêu dùng, theo đó thương nhân, tổ chức, cá nhân thu thập và
sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng phải xây dựng và công bố chính
sách bảo vệ thông tin cá nhân với các nội dung quy định và những nội dung trên
phải được hiển thị rõ ràng cho người tiêu dùng trước hoặc tại thời điểm thu thập
thông tin.
Hai là, về trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ của người
bán. Theo quy định mới, thông tin về hàng hoá, dịch vụ đối với website thương
mại điện tử bán hàng phải được người bán cung cấp chi tiết, cụ thể:
- “Đối với hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên website, người bán
phải cung cấp những thông tin để khách hàng có thể xác định chính xác các đặc
tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự hiểu nhầm khi quyết định việc đề nghị
giao kết hợp đồng.
- Thông tin về hàng hóa công bố trên website phải bao gồm các nội
dung bắt buộc thể hiện trên nhãn hàng hóa theo quy định pháp luật về nhãn
hàng hóa, trừ các thông tin có tính chất riêng biệt theo sản phẩm như: năm,
tháng, ngày sản xuất; hạn sử dụng; số lô sản xuất; số khung, số máy.
- Người bán hàng hóa, dịch vụ phải đáp ứng điều kiện đầu tư, kinh
doanh thuộc danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải công bố
số, ngày cấp và nơi cấp Giấy phép, Giấy chứng nhận đủ điều kiện, văn bản xác
nhận, hoặc các hình thức văn bản khác theo quy định pháp luật về điều kiện kinh
doanh của ngành, nghề đó”. 9
Bên cạnh đó, theo Điều 8 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
quy định về quyền của người tiêu dùng “Được cung cấp thông tin chính xác, đầy
đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng
hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ,
tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ
mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng”.10 Như vậy, khi tiến hành các giao dịch
mua sắm hàng hóa, dịch vụ trên các trang website thương mại điện tử thì người
tiêu dùng sẽ được cung cấp các thông tin chi tiết liên quan đến sản phẩm dịch vụ
đó. Tuy nhiên các doanh nghiệp phải thực hiện truyền thông theo cách thức rõ

9
Điều 30 NĐ 85/2021/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 52/2013/NĐ-CP
10
Điều 8 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
12
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

ràng và chính xác cho người tiêu dùng, góp phần hạn chế tình trạng mua bán
hàng nhái, hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc.
Ba là, về việc xác định trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp
thông tin tới người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. Theo Điểm c
Khoản 3 Điều 26 Nghị Định 85/2021/NĐ-CP được bổ sung quy định: “Trường
hợp thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thực hiện dịch vụ
cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ của người bán tới người tiêu dùng trên
website thương mại điện tử thì thương nhân, tổ chức đó là bên thứ ba trong việc
cung cấp thông tin theo pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.11
Vì vậy, đối chiếu với các quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng 2010 thì quy định trên về trách nhiệm của bên thứ ba dựa trên cơ sở pháp lý
tại Nghị định 85/2021/NĐ-CP nêu trên là hoàn toàn phù hợp trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó, trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung
cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ sẽ thuộc về tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ
thương mại điện tử cho người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
Bốn là, Nghị định 52/2013/NĐ-CP đã đưa ra những quy định buộc
thương nhân, cá nhân, tổ chức phải công bố những thông tin về điều kiện giao
dịch chung liên quan đến hàng hóa, dịch vụ giới thiệu trên website. Cụ thể theo
Khoản 1 Điều 32 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định rõ những thông tin cần
đưa ra gồm:
- “Các điều kiện hoặc hạn chế trong việc cung cấp hàng hóa hoặc
dịch vụ, như giới hạn về thời gian hay phạm vi địa lý, nếu có.
- Chính sách hoàn trả, bao gồm thời hạn hoàn trả, phương thức trả
hoặc đổi hàng đã mua, cách thức lấy lại tiền, chi phí cho việc hoàn trả này.
- Chính sách bảo hành sản phẩm, nếu có.
- Các tiêu chuẩn dịch vụ, quy trình cung cấp dịch vụ, biểu phí và các
điều khoản khác liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, bao gồm cả những điều
kiện và hạn chế nếu có.
- Nghĩa vụ của người bán và nghĩa vụ của khách hàng trong mỗi
giao dịch”.12
Ngoài ra, với các website có chức năng đặt hàng trực tuyến, Luật này
cũng quy định rằng người bán phải có cơ chế để khách hàng đọc và từ đó có thể
bày tỏ sự đồng ý riêng với các điều kiện giao dịch chung trước khi gửi đề nghị
giao kết hợp đồng. Điều này nhằm đảm bảo người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp
cận để đưa ra những quan điểm cá nhân trước khi tiến hành các bước tiếp theo
trong giao dịch mua sắm trực tuyến.
Bên cạnh đó, Nghị định 85/2021/NĐ-CP sửa đổi bổ sung điểm b Khoản 1
Điều 32 Nghị định 52/2013/NĐ-CP như sau: “Chính sách kiểm hàng; chính sách
hoàn trả, bao gồm thời hạn hoàn trả, phương thức trả hoặc đổi hàng đã mua,

11
Điểm c khoản 3 Điều 26 NĐ 85/2021/NĐ-CP
12
Khoản 1 Điều 32 Nghị định 52/2013/NĐ-CP
13
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

cách thức lấy lại tiền, chi phí cho việc hoàn trả này” 13. Như vậy, từ thời điểm
nghị định có hiệu lực, chính sách kiểm hàng khi người dùng mua sản phẩm bắt
buộc phải được thể hiện rõ ràng trên website thương mại điện tử đó. Điều này có
thể góp phần giúp người tiêu dùng hiểu rõ để đưa ra quyết định lựa chọn tiến
hành giao dịch cặn kẽ hơn.
Năm là, về trách nhiệm giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng. Nghị
định 85/2013/NĐ-CP đã bổ sung Khoản 11 Điều 36 thêm quy định sau:
- “Chỉ định đầu mối tiếp nhận yêu cầu và cung cấp thông tin trực
tuyến cho cơ quan quản lý nhà nước về các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp
luật; đầu mối này sẽ cung cấp thông tin trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm tiếp
nhận yêu cầu để kịp thời phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Đại diện cho người bán nước ngoài trên sàn giao dịch thương mại
điện tử giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ do thương nhân nước ngoài cung cấp và có trách nhiệm thông báo nghĩa
vụ thuế của người bán nước ngoài khi tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Là đầu mối tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của người tiêu
dùng trong trường hợp một giao dịch thực hiện trên sàn giao dịch thương mại
điện tử có nhiều hơn 02 bên tham gia.”14
Như vậy, với quy định mới trên, người tiêu dùng sẽ yên tâm hơn khi tiến
hành các hoạt động giao dịch trên các trang thương mại điện tử có nhiều hơn 02
bên tham gia hay khi các giao dịch đó là với người bán nước ngoài. Trong công
tác giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng thì quy định này sẽ ràng buộc trách
nhiệm một cách chặt chẽ hơn đối với các sàn thương mại điện tử có chức năng
đặt hàng trực tuyến.
2.1.3. Các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng trên các hoạt
động thương mại điện tử
Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, nền tảng thương mại điện tử có
xu hướng phát triển một cách nhanh chóng mang lại những lợi ích cho người tiêu
dùng nhưng đồng thời lại gây ra ảnh hưởng xấu khi các hành vi xâm phạm quyền
lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ngày một gia tăng. Đặc biệt, với các
hình thức mua bán trực tuyến trên các website thương mại điện tử xuất hiện tràn
lan nhiều vi phạm trong hoạt động này. Người tiêu dùng đối mặt nhiều hơn với
những vi phạm quyền lợi khi mua hàng qua mạng như: Hàng hóa không giống
như quảng cáo, hàng không áp dụng đồng kiểm, hàng giao chậm, đã thanh toán
nhưng không giao hàng, bảo mật thông tin cá nhân. Vì vậy bên cạnh những thế
mạnh của thương mại điện tử, song mặt hạn chế cũng không ít.

13
Điểm b Khoản 1 Điều 32 Nghị định 85/2021/NĐ-CP
14
Khoản 11 Điều 36 Nghị định 85/2021/NĐ-CP
14
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

Một là, vi phạm về lĩnh vực chất lượng như hàng hóa kém chất lượng.
Căn cứ theo Điểm c Khoản 1 Luật thương mại 2005 quy định về hàng hóa không
phù hợp với hợp đồng như sau: “Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của
mẫu hàng hoá mà bên bán đã giao cho bên mua.”15
“Theo số liệu thống kê của Tổng cục Quản lý thị trường tính đến tháng
10/2021, lực lượng Quản lý thị trường cả nước đã thực hiện kiểm tra gần 2.500
vụ việc, phát hiện, xử lý trên 2.300 vụ vi phạm (bao gồm hành vi vi phạm về
thương mại điện tử và các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh
hàng hoá nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ, hàng giả), xử phạt trên 18 tỷ đồng”. 16
Thời gian gần đây, khi mà thương mại điện tử bùng nổ thì người tiêu
dùng có lựa chọn mới trong phương thức mua sắm. Tuy nhiên hình thức mua
sắm này cũng tiềm ẩn những rủi ro cho người tiêu dùng bởi vì thông qua phương
thức này, người tiêu dùng không thể xác định được nguồn gốc, xuất xứ của hàng
hóa. Khi gặp người bán không có uy tín thì người tiêu dùng sẽ có nguy cơ mua
phải hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Thực tế có thể thấy, nhiều mặt
hàng giả, hàng kém chất lượng được bày bán trên thị trường thương mại điện tử
một cách công khai thông qua các sàn thương mại điện tử hay Website cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử, từ mặt hàng có giá trị thấp đến mặt hàng có giá trị
cao, từ mặt hàng đơn giản đến mặt hàng có công nghệ cao, từ hàng hóa phục vụ
sản xuất đến hàng tiêu dùng, giải trí. Về bản chất đây không phải là hình thức
mua sắm trực tiếp, do đó người tiêu dùng chỉ có thể đánh giá chất lượng sản
phẩm qua các đánh giá trên các sàn giao dịch thương mại hay hình ảnh của sản
phẩm, dịch vụ đó mà không thể nhìn trực tiếp và cầm sản phẩm trên tay để đánh
giá về hình dáng, chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, việc này có thể gây hệ lụy
tiêu cực ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng và tính minh bạch của hàng
hóa và người tiêu dùng là đối tượng trực tiếp bị thiệt hại nhiều mặt. Hành vi vi
phạm này không những gây thiệt hại về kinh tế mà nguy hiểm hơn là ảnh hưởng
đến sức khỏe, tính mạng của con người khi mua phải những hàng hóa không đảm
bảo chất lượng. Chính vì vậy, rủi ro về hàng hóa kém chất lượng là thường gặp
đối với người tiêu dùng khi mua sắm trên các trang thương mại điện tử.
Hai là, hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động
thương mại điện tử. Thời gian qua, “rò rỉ dữ liệu cá nhân" là vấn đề nóng trong
lĩnh vực an ninh mạng. “Mới đây, 1.300GB dữ liệu cá nhân tại Việt Nam bị rao
bán, và 10.000 dữ liệu người dùng được rao trên diễn đàn hacker 17” .Tuy vậy,
các vụ rò rỉ dữ liệu không chỉ xảy ra tại Việt Nam mà trên toàn cầu.Trong nền
kinh tế cạnh trạnh toàn cầu hiện nay, các doanh nghiệp đẩy mạnh thu thập thông
15
Điểm c khoản 1 Luật thương mại 2005
16
Diễn đàn doanh nghiệp, Nan giải chống hàng giả hàng nhái trên sàn thương mại
điện tử, Nan giải chống hàng giả hàng nhái trên sàn thương mại điện tử, Ngày truy cập: 20/04/2022
17
Hải Đăng, Làm gì khi phát hiện dữ liệu cá nhân bị rao bán,
https://vietnamnet.vn/lam-gi-khi-phat-hien-du-lieu-ca-nhan-bi-rao-ban-738302.html, Ngày
truy cập: 20/04/2022
15
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

tin của khách hàng thông qua các công nghệ như kho dữ liệu để từ đó nắm bắt
được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Việc này giúp các doanh nghiệp dễ dàng
tìm ra những khách hàng tiềm năng trong thị trường thương mại điện tử hiện nay.
Tuy nhiên, vấn đề bảo mật thông tin khách hàng là vấn đề đáng lo ngại khi thông
tin của khách hàng bị khai thác triệt để bởi các nguồn thông tin trên các website
thương mại điện tử. Những cách thức xâm phạm thông tin cá nhân đã diễn ra trên
thực tế như sau:
Thông tin cá nhân của người tiêu dùng liên tục trở thành tài sản mua bán
tràn lan trên nền tảng trực tuyến. Cụ thể trong những giao dịch thương mại điện
tử, thông tin khách hàng được mã hõa và lưu trữ vào cơ sở dữ liệu của các trang
thương mại điện tử đó nhưng hệ thống dữ liệu không được bảo đảm chặt chẽ sẽ
dẫn đến việc thông tin của người tiêu dùng bị tấn công bởi các “tin tặc”. Những
nguy cơ tiềm ẩn về quyền riêng tư của người tiêu dùng bị xâm phạm không chỉ
hiện tại mà còn ảnh hưởng về sau bởi những dữ liệu đó đã được rao bán nhiều
nơi trên mạng. Chính những hành vi vi phạm này nên các cá nhân có thể thường
xuyên bị quấy rầy bởi các cuộc gọi, tin nhắn “rác” mà từ đó các hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bằng hình thức này ngày một gia tăng.
“Theo thống kê của Bộ Công an, đã có rất nhiều vụ để lọt lộ thông tin cá
nhân thời gian qua. Điển hình như các vụ: Công ty VNG để lộ hơn 163 triệu tài
khoản khách hàng; Tin tặc đã tấn công vào hệ thống máy chủ của một hãng
hàng không, đăng tải lên Internet 411.000 tài khoản khách hàng thành viên; Vụ
gần 10.000 chứng minh nhân dân, căn cước công dân bị rao bán trên một diễn
đàn tin tặc; Dữ liệu khách hàng của Công ty FPT Shop bị đăng tải công khai
trên mạng”18
Ba là, các hành vi xúc tiến thương mại như quảng cáo, khuyến mại trên
các trang thương mại điện tử không trung thực gây ảnh hưởng đến người tiêu
dùng. Các thủ đoạn gian lận mới đang xuất hiện trên nền tảng Thương mại điện
tử được các đối tượng sử dụng là lập nhiều tài khoản Facebook và chạy quảng
cáo, ảnh chụp sản phẩm tương đối chuyên nghiệp và không có địa chỉ, số điện
thoại hoặc địa chỉ chung chung, khi khách hàng hỏi thì chỉ nhận nhắn tin . Thậm
chí, một số đối tượng còn phát trực tiếp có thể chốt hàng trăm đơn mỗi ngày.
Hiện nay các khiếu nại, phản ánh chủ yếu tập trung vào các nhóm như:
Hành vi cung cấp thông tin trong giao dịch. Hàng nhận được không giống với
quảng cáo. Có thể thấy, những rủi ro từ các tổ chức, cá nhân lừa đảo trong hoạt
động thương mại điện tử, người tiêu dụng bị xâm phạm quyền lợi rõ ràng nhất là
khi giao dịch với các tổ chức cá nhân có chủ đích lừa đảo, đặc biệt là qua mạng
xã hội. Khi trả tiền xong, người tiêu dùng không nhận được hàng hoặc nhận hàng
hoàn toàn khác so với quảng cáo. Ví dụ người tiêu dùng mua điện thoại nhưng
nhận được hộp đựng một viên gạch

Ban thời sự, https://vtv.vn/xa-hoi/nhan-dien-thu-doan-danh-cap-thong-tin-ca-


18

nhan-20220402165440152.htm, Ngày truy cập: 15/04/2022


16
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân còn có những hành vi vi phạm khác về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng như:Giao thiếu hàng khuyến mãi, trong một số
trường hợp hàng hóa đã hết chương trình khuyến mại nhưng tổ chức, cá nhân
kinh doanh không điều chỉnh thông tin, với mục đích tiếp tục thu hút người tiêu
dùng, sau đó giao thiếu hàng khuyến mại. Nhiều đơn vị còn giao hàng chậm so
với thời gian đã cam kết. Thậm chí, còn có trường hợp cố tính hủy đơn hàng đã
được xác nhận trước đó, để buộc người tiêu dùng phải đặt lại với giá cao hơn. Có
thể thấy, những rủi ro từ các tổ chức, cá nhân lừa đảo trong hoạt động thương
mại điện tử, người tiêu dùng bị xâm phạm quyền lợi rõ ràng nhất là khi giao dịch
với các tổ chức cá nhân có chủ đích lừa đảo.
2.1.4. Chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử
Sự phát triển của các hoạt động có yếu tố thương mạng điện tử đã cung
cấp một kênh phân phối hàng hoá, dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam hiện nay. Việc mua bán này đôi khi khiến cho người tiêu dùng bị xâm phạm
lợi ích chính đáng trước những hành vi vi phạm như tình trạng bán hàng giả,
hàng nhái hay khi người tiêu dùng có nhu cầu đổi, trả hàng, nhiều người tiêu
dùng bị từ chối hoặc kéo dài thời gian giải quyết khiếu nại. Vì vậy, pháp luật đã
quy định các chế tài xử lý về những vi phạm này để bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng trong các hoạt động thương mại điện tử hiện nay.
Một là, các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương
mại điện tử đã được quy định. Chế tài hành chính là biện pháp do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm quyền lợi
người tiêu dùng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong đó, Nghị định đã nêu một số quy
định mới về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Cụ thể một số
hành vi vi phạm có những mức xử phạt riêng về lĩnh vực thương mại điện tử như
sau:
- Hành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng
dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động có thể bị phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
“Không công bố đầy đủ hoặc công bố không chính xác trên website thương mại
điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng thông tin về chủ sở hữu website hoặc
ứng dụng bán hàng, thông tin hàng hóa, dịch vụ, thông tin về giá cả, thông tin
vận chuyển và giao nhận, thông tin về điều kiện giao dịch chung, thông tin về
các phương thức thanh toán theo quy định”19
Hành vi vi phạm về thông tin và giao dịch trên website thương mại điện
tử hoặc ứng dụng di động sau được quy Điều 63 Nghị định này cũng quy định về

19
Điểm d Khoản 1 Điều 62 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
17
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

việc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi vi phạm“Không cung cấp đầy đủ cho khách hàng thông tin về thương nhân, tổ
chức, cá nhân sở hữu website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động, thông
tin về hàng hóa, dịch vụ, giá cả, vận chuyển, giao nhận, phương thức thanh toán,
các điều khoản hợp đồng và điều kiện giao dịch chung trước khi khách hàng tiến
hành giao kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website
thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động”
 Không cho phép khách hàng rà soát, bổ sung, sửa đổi hoặc
xác nhận nội dung giao dịch trước khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến
trên website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động để gửi đề nghị giao kết
hợp đồng.
 Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc
ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử hoặc website cung cấp các dịch vụ trực
tuyến khác mà không công bố thông tin minh bạch, đầy đủ về quy trình, thủ tục
chấm dứt hợp đồng theo quy định;”
- Hành vi vi phạm về thông tin và giao dịch trên website thương mại
điện tử hoặc ứng dụng di động có thể bị phạt tiền đến 10.000.000 đồng, cụ
thể: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi vi phạm sau đây
 “Sử dụng đường dẫn để cung cấp thông tin trái ngược hoặc
sai lệch so với thông tin được công bố tại khu vực website thương mại điện tử
hoặc ứng dụng di động có gắn đường dẫn này.
 Can thiệp vào hệ điều hành và trình duyệt internet tại các
thiết bị điện tử truy cập vào website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động
nhằm buộc khách hàng lưu lại website hoặc cài đặt ứng dụng di động trái với ý
muốn của mình.”20
Ngoài ra, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi vi phạm sau đây:
 “ Cung cấp thông tin, kinh doanh hoặc buôn bán hàng giả,
hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc hàng hóa, dịch vụ cấm
kinh doanh trên môi trường internet.
 Không cho phép khách hàng lưu trữ thông tin xác nhận nội
dung giao dịch sau khi tiến hành giao kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng
trực tuyến trên website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động,
 Triển khai chức năng thanh toán trực tuyến trên website
thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động nhưng không có cơ chế để khách
hàng rà soát và xác nhận thông tin chi tiết về từng giao dịch thanh toán trước
khi sử dụng chức năng này để thực hiện việc thanh toán.”21
Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong
các hành vi vi phạm sau đây: “Lừa đảo khách hàng trên website thương mại điện
20
Điểm a Khoản 6 Điều 63 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
21
Điểm b,c,d Khoản 3 Điều 63 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
18
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

tử hoặc ứng dụng di động”22. Hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm và đình chỉ hoạt động
thương mại điện tử từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại
khoản 6 Điều 63 Nghị định 98/2020/NĐ-CP.
- Hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động
thương mại điện tử có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
đối với một trong các hành vi vi phạm:
 “Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không
được sự đồng ý trước của chủ thể thông tin.
 Thiết lập cơ chế mặc định buộc người tiêu dùng phải đồng ý
với việc thông tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ hoặc sử dụng cho mục đích
quảng cáo và các mục đích thương mại khác.
 Sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng không đúng
với mục đích và phạm vi đã thông báo.”23
Ngoài bị áp dụng hình thức phạt tiền, tùy vào hành vi vi phạm mà tổ
chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định như tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm; đình chỉ hoạt động thương mại điện
tử từ 06 tháng đến 12 tháng; buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm
lẫn; buộc thu hồi tên miền “.vn” của website thương mại điện tử hoặc buộc gỡ bỏ
ứng dụng di động trên các kho ứng dụng hoặc trên các địa chỉ đã cung cấp; buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm. Với những quy
định trên, biện pháp hành chính đã tạo cơ chế bảo vệ người tiêu dùng và ngăn
chặn các hành vi vi phạm.
Hai là, pháp luật đưa ra chế tài hình sự với các hành vi xâm phạm quyền
lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. Theo quy định tại Điều
290 Bộ luật hình sự 2015 quy định “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Theo đó, đưa
ra khung hình phạt có tính răn đe khá cao đối với nhiều hành vi gian lận, lừa đảo
trong lĩnh vực này như: “Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ
quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc
thanh toán hàng hóa, dịch vụ”;24 “Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán
điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch
chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản” 25. Mức phạt cao nhất cho hành
vi này phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm kết hợp với phạt tiền một trăm triệu đồng và các hình thức xử lý bổ sung
khác. Bộ luật hình sự đưa ra các quy định này là một bước tiến trong việc hình
thành khung chế tài cụ thể và có tác dụng răn đe đối với những hành vi gian lận,

22
Điểm a Khoản 6 Điều 63 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
23
Khoản 4 Điều 65 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
24
Điểm a Khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự 2015
25
Điểm d Khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự 2015
19
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

lừa đảo góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong thương mại điện tử của nước ta.

2.2. Các hạn chế đối với chế tài pháp lý bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
trong thương mại điện tử
Bảo vệ người tiêu dùng là được coi là một trong những vấn đề quan trọng
trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế. Việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp, cá
nhân, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển ổn định. Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản liên quan đã có những quy định cụ thể
tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
tại Việt Nam, song vẫn còn một số vấn đề bất cập, không mang tính bao quát,
toàn diện theo sự phát triển trong lĩnh vực thương mại này nên từ đó tạo điều
kiện cho một số đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
Một là, chế tài xử phạt vi phạm hành chính chưa có tính răn đe cao. Nghị
định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và quyền lợi người tiêu dùng quy định cụ thể từ Điều 63 đến Điều 66 về chế
tài xử lý đối với các hành vi vi phạm về thương mại điện tử. Trong đó, chế tài xử
lý vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử cũng mới chỉ dừng lại ở mức xử
phạt vi phạm hành chính, một số chủ thể vẫn cố tình vi phạm vì lợi nhuận thu
được cao hơn rất nhiều so với mức xử phạt nên nhiều đối tượng chấp nhận bị
phạt vi phạm để chạy theo lợi nhuận. Vì vậy, điều này không đảm bảo tính răn đe
đối với những đối tượng coi thường luật pháp với những hành vi bất chính gây
ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại nói riêng.
Với hành vi “Lừa đảo khách hàng trên website thương mại điện tử hoặc
ứng dụng di động.”26 với mức phạt tiền cao nhất là 50.000.000 đồng là chưa
tương xứng, người tiêu dùng vẫn phải chịu thiệt bởi vì pháp luật không quy định
rõ về mức bồi thường gây ra bởi hành vi xâm phạm này. Thực tiễn công tác bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng cho thấy các chế tài hiện hành không đủ sức răn đe,
giáo dục đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Như vậy, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại
điện tử hiện hành của nước ta chưa đưa ra được những biện pháp chế tài đặc thù,
phù hợp. Đây là một rào cản làm cho việc “điện tử hóa” các giao dịch ở nước ta
chậm phát triển. Vấn đề này cần phải được khắc phục để phát huy lợi thế của
thương mại điện tử.
Hai là, một số quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
chưa rõ ràng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh thương mại điện tử và mô
hình kinh doanh trên mạng. Thực tế thương mại điện tử không chỉ tác động đối
với hoạt động thương mại mà còn tác động lên các hoạt động khác của nền kinh
26
Điểm a Khoản 6 Điều 63 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
20
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

tế, chính trị, văn hóa. Nhiều người bị xâm phạm quyền lợi nhưng không biết
phản ánh với cơ quan, tổ chức nào, không biết địa chỉ để khiếu nại. Vì vậy, các
cơ quan xây dựng pháp luật sớm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tăng
cường hiệu quả thực thi của các cơ quan chức năng, đẩy mạnh xã hội hóa, tạo
điều kiện để các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giúp
cho các hoạt động vì quyền lợi của người tiêu dùng thực sự phát huy hiệu quả.
Từ thực tế trên, các Bộ, Ban, Nghành, cần nghiên cứu đưa ra biện pháp và cách
thức xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng phù hợp hơn. Trong một số
trường hợp pháp luật về thương mại điện tử của nước ta cũng chưa dự liệu tới
một số trường hợp nên gây không ít khó khăn cho quá trình áp dụng chế tài và
giải quyết tranh chấp khi có vụ việc xảy ra.
Ba là, các hình thức mua bán trực tuyến, qua các mạng xã hội đôi khi
vượt qua sự giám sát quản lý của cơ quan chức năng, việc quản lý lỏng lẻo các
website và các trang mạng xã hội. Theo Khoản 3, 4 Điều 36 Nghị định số
52/2013/NĐ-CP về “Trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ
sàn giao dịch thương mại điện tử” . Đồng thời, Khoản 2 Điều 37 Nghị định này
quy định về “Trách nhiệm của người bản trên sàn giao dịch thương mại điện tử”.
Theo đó, người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử có trách nhiệm cung
cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ để khách hàng có thể xác định các đặc tính
của hàng hóa, dịch vụ nhàm tránh sự hiểu nhầm khi quyết định giao kết hợp
đồng, đồng thời cung cấp thông tin về giá cả, về điều kiện giao dịch chung, về
vận chuyển và giao nhận. Ngược lại, chủ sàn thương mại điện tử có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát việc cung cấp những thông tin đó.
Tuy nhiên Nghị định chưa làm rõ các đặc tính nói trên bao gồm những
thông tin gì; quy định trách nhiệm của chủ sàn vẫn mang tính chất chung chung,
chưa phân cấp cụ thể. Lợi dụng sơ hở, tình trạng hàng giả, hàng nhái được rao
bán trên các sàn thương mại điện tử đang diễn ra một cách công khai và phức tạp
người tiêu dùng bị thua thiệt trước những hành vi xâm phạm đó, thậm chí khách
hàng trả tiền trước mà không được giao hàng. Tuy nhiên, các sàn thương mại
điện tử này lại đang cho thấy sự thiếu kiểm duyệt, giám sát đối với hàng hóa
được rao bán. Nguyên nhân đầu tiên là do tâm lý thích mua hàng tốt giá rẻ, hoặc
chưa đủ kỹ năng và thông tin để nhận biết. Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan là do
năng lực của cán bộ thực thi công vụ còn yếu và công tác phối hợp giữa các đơn
vị liên quan đến xử lý các hành vi vi phạm về hàng giả, hàng nhái trong thương
mại điện tử như các ngành vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc xuất hiện ngày
càng nhiều dịch vụ mới sử dụng thông tin cá nhân trên không gian mạng như:
Thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử, cũng đang đặt ra nhiều thách thức
trong công tác bảo vệ an ninh mạng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
“Năm 2019, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã thực hiện kiểm tra
2.403 vụ việc, xử lý 2.213 vụ việc vi phạm hành chính, xử phạt 16 tỷ đồng, trị giá
hàng vi phạm gàn 41 tỷ đồng liên quan đến hành vi vi phạm về thương mại điện
tử và các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng hóa nhập lậu,

21
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng
giả”27

2.3. Những giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trên môi trường thương mại điện tử
Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng trong
thương mại điện tử, sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm minh bạch thông tin
hàng hóa, dịch vụ trong thương mại điện tử và bổ sung các quy định về hoạt
động thương mại điện tử trên mạng xã hội, ứng dụng di động.
Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng thường xuyên nhận được
nhiều phản ánh về các trường hợp nhờ bảo vệ của người tiêu dùng. Trong số này
phổ biến là hành vi đặt mua hàng trên sàn thương mại điện tử nhưng đơn hàng bị
hủy không rõ lý do, sau đó, có bên thứ ba liên hệ để giao món hàng đã đặt nhưng
có vấn đề về chất lượng, giấy tờ giao dịch. “Cùng với đó là tình trạng người tiêu
dùng bị hủy đơn hàng tự động với lý do người giao hàng không liên hệ được
người mua nhưng thực tế, người tiêu dùng không hề nhận được bất kỳ liên hệ nào
của bên giao hàng. Hơn nữa, tình trạng bán hàng giả, hàng nhái, hàng đã qua sử
dụng cũng thường xuyên xuất hiện, chưa kể khi người tiêu dùng có nhu cầu đổi,
trả hàng, nhiều người tiêu dùng bị từ chối hoặc kéo dài thời gian giải quyết khiếu
nại.”28
Để ngăn chặn tình trạng một số đối tượng lợi dụng thương mại điện tử để
bán hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng giả, hàng nhái, hàng xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. gây thiệt hại cho người tiêu dùng, việc bô sung, cụ thê hóa
các thông tin hàng hóa, dịch vụ cần được đăng tải trên website thương mại điện
tử nói chung và sàn giao dịch thương mại điện tử nói riêng được quy định tại
Điều 30, 36, 37 Nghị định số 52 là cần thiết. Theo đó, các thông tin về hàng hóa,
dịch vụ cần cung cấp cần bao gồm: Tên hàng hóa, dịch vụ; kèm theo mô tả đầy
đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ để khách hàng có thể xác định chính xác các
đặc tính của hàng hóa, dịch vụ, tránh hiểu nhầm khi quyết định việc đề nghị giao
kết hợp đồng.
Ngoài ra, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một bộ công cụ đa
dạng để thực thi công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để phù hợp với nhu
cầu thực tiễn của xã hội và sự phát triển, bộ luật này bắt buộc phải sửa đổi, bổ
sung những quy định về sản xuất kinh doanh tiêu dùng bền vững, những điều
kiện liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương như người

Uyên Hương, “Thành lập tổ công tác quán lý thị trường trong thương mại điện
27

từ", https://bnews.vn/thanh-lap-to-cong-tac-quan-ly-thi-truong-trong-thuong-mai-dien-tu/
149277.html, Ngày truy cập: 13/04/2022
28
Nguyễn Vân, Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong môi trường bùng nổ Thương
mại điện tử, Thời báo tài chính Việt Nam, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/bao-ve-quyen-loi-cua-
nguoi-tieu-dung-trong-moi-truong-bung-no-thuong-mai-dien-tu-102042.html, Ngày truy cập:
20/04/2022

22
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

già, trẻ em, những người dân vùng cao là những đối tượng rất cần phải có những
quy định để bảo vệ quyền lợi của họ. Bổ sung các quy định riêng về các hình
thức thương mại điện tử mới như thương mại điện từ qua mạng xã hội, thiết bị di
động để đảm bảo tính rõ ràng, thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về thương mại điện tử. Đồng thời, bổ sung các quy định đặc thù
riêng, khi giao dịch giữa các bên có thể được tiến hành ngoài tầm kiểm soát của
đơn vị quản lý mạng xã hội.
Hai là, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử. Các cơ quan chức năng cần tăng
cường nghĩa vụ của chủ sở hữu các sàn giao dịch thương mại điện tử trong việc
kiểm soát, sàng lọc thông tin, cũng như trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà
nước xử lý các hành vi kinh doanh vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp, bổ
sung các quy định về vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan trong
việc quản lý hoạt động thương mại điện tử.
Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng khi tham gia thương mại
điện tử các cơ quan, đơn vị liên quan cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ
biến về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng; hướng dẫn người tiêu dùng
nhận biết hàng thật và phân biệt hàng giả, hàng nhái; thông báo về thủ đoạn vi
phạm pháp luật, các hành vi lừa dối, xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Đặc
biệt cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các vi phạm về thương
mại điện tử; đồng thời công khai các trang thương mại điện tử vi phạm để cảnh
báo người tiêu dùng. Thông qua đó, cộng đồng doanh nghiệp ý thức rõ hơn về lợi
ích của doanh nghiệp khi thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Đồng thời, người tiêu dùng được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần
thiết khi giao dịch qua mạng. Luật cần sửa đổi cân nhắc bổ sung điều khoản quy
định việc hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng; bổ sung quy định để phân định rõ thẩm quyền tiếp nhận việc đăng ký
hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung giữa cơ quan bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng và các quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong các giao kết
hợp đồng đặc thù với người tiêu dùng.
Ba là, sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý hoạt động đầu tư nước
ngoài, bán hàng thương mại điện tử xuyên biên giới. Trước hết, các cơ quan chức
năng cần nghiên cứu xây dựng các quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về
thương nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương mại điện tử. Đặc biệt cần đưa
ra khái niệm hoạt động của thương nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương
mại điện tử tại Việt Nam. Bên cạnh đó, bổ sung các quy định về điều kiện tiếp
cận thị trường thương mại điện tử đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
như: Phải nằm trong danh sách các công ty công nghệ có uy tín do Bộ Công
thương công bố; quá trình đầu tư cần có ý kiến thẩm định của Bộ quốc phòng, Bộ
Công an. Ngoài ra, bổ sung quy định đối với thương nhân, tổ chức nước ngoài
bán hàng trên sàn giao dịch thương mại điện từ Việt Nam, đồng thời quy định cụ
thể trách nhiệm của chủ sàn khi có người bán hàng nước ngoài, trong đó chú ý

23
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

quy định trách nhiệm của chủ sàn trong việc xác thực danh tính của thương nhân,
tổ chức nước ngoài bán hàng trên sàn thương mại điện tử
KẾT LUẬN
Hoạt động thương mại điện tử là xu hướng kinh doanh tất yếu trong
thời đại công nghệ số và hội nhập kinh tế toàn cầu.  Tuy nhiên, nếu không được
quản lý chặt chẽ sẽ tiềm ẩn nhiều hệ lụy tiêu cực, gây thiệt hại cho người tiêu
dùng. Đề án nhằm khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật, các hạn chế trong việc
thực thi các chính sách quy định nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trên các hoạt động thương mại điện tử hiện nay. Đặc
biệt, Nhà nước cần đưa ra các chủ trương sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi
phạm và hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng pháp luật có tính khả thi, phù
hợp hơn với bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước để kịp thời ngăn chặn những hành vi xâm phạm. Từ đó, xây dựng một hành
lang pháp lý chặt chẽ góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại điện tử.

24
Nguyễn Ái Hồng Ân- 45K13.1 GVHD: Ths. Dương Việt Anh

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật


[1] Luật thương mại (số: 59/2010/QH12) ngày 14 tháng 6 năm 2005.
[2] Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (số: 59/2010/QH12) ngày 17 tháng
11 năm 2010.
[3] Bộ luật hình sự (số: 100/2015/QH13) ngày 27 tháng 11 năm 2015.
[4] Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2020.
[5] Nghị định số: 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 về Thương mại
điện tử.

Tài liệu điện tử


[6] Diễn đàn doanh nghiệp, Nan giải chống hàng giả hàng nhái trên sàn
thương mại điện tử, https://diendandoanhnghiep.vn/nan-giai-chong-hang-
gia-hang-nhai-tren-san-thuong-mai-dien-tu-217848.html, Ngày truy cập:
20/04/2022
[7] Ban thời sự, https://vtv.vn/xa-hoi/nhan-dien-thu-doan-danh-cap-thong-tin-
ca-nhan-20220402165440152.htm, Ngày truy cập: 15/04/2022
[8] Uyên Hương, Thành lập tổ công tác quán lý thị trường trong thương mại
điện từ, https://bnews.vn/thanh-lap-to-cong-tac-quan-ly-thi-truong-trong-
thuong-mai-dien-tu/149277.html, Ngày truy cập: 13/04/2022
[9] Nguyễn Vân, Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong môi trường
bùng nổ Thương mại điện tử, Thời báo tài chính Việt Nam,
https://thoibaotaichinhvietnam.vn/bao-ve-quyen-loi-cua-nguoi-tieu-dung-
trong-moi-truong-bung-no-thuong-mai-dien-tu-102042.html, Ngày truy
cập: 20/04/2022
[10] Hải Đăng, Làm gì khi phát hiện dữ liệu cá nhân bị rao bán,
https://vietnamnet.vn/lam-gi-khi-phat-hien-du-lieu-ca-nhan-bi-rao-ban-
738302.html, Ngày truy cập: 20/04/2022

25

You might also like