You are on page 1of 90

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, nó đưa nhân loại bước
vào thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức và tạo ra làn sóng toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế mạnh mẽ trên toàn thế giới. Sự xuất hiện và phổ biến thương mại điện
tử trên thế giới góp phần làm nên thành tựu về phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia đã
làm cho nhiều nhà lãnh đạo ở các quốc gia khác thực sự thức tỉnh về vai trò của
thương mại điện tử trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, việc đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử nhằm mục đích
phát triển lĩnh vực này đang là một chính sách ưu tiên hàng đầu của hầu hết mọi
quốc gia trên thế giới và là một chủ đề được các tổ chức quan tâm. Ở Việt Nam,
thương mại điện tử đạt được một số thành tựu quan trọng, tuy nhiên, việc phát triển
thương mại điện tử còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém chưa xứng đáng với tiềm
năng của đất nước có thị trường rộng lớn gần 90 triệu dân cùng hệ thống hạ tầng
viễn thông, công nghệ thông tin và internet tương đối rộng khắp. Đơn cử như thị
trường cho thương mại điện tử còn thấp chưa theo kịp với đòi hỏi sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Cơ chế quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia thương mại điện tử còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo ra động lực đủ mạnh để phát
huy năng lực sáng tạo và sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Có nhiều nguyên
nhân, trong đó có thể kể đến do sự phát triển nhanh, tính phổ cập, tính thanh toán
quốc tế nên thương mại điện tử đem lại những lợi ích to lớn như sự tiếp cận, tìm
kiếm dịch vụ nhanh chóng cho khách hàng. Nhưng cũng tạo ra một mặt trái, đó là
hiện tượng tội phạm sử dụng công nghệ cao ở tại bất cứ khu vực nào trên thế giới có
kết nối Internet đều có thể tạo ra những thông tin thương mại sai lệch hoặc lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bằng nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi. Nghiêm trọng hơn, do
cạnh tranh không lành mạnh, tội phạm công nghệ cao có thể làm hỏng các trang
web hay các sàn giao dịch thương mại điện tử.

`
2

Bên cạnh đó, một số loại hình tội phạm mới về thương mại điện tử như việc
rao bán thông tin cá nhân của một số trang web có dấu hiệu vi phạm điều 226 Bộ
Luật hình sự. Hay như vụ việc trang web muaban24 tổ chức lừa đảo bằng hình thức
bán các gian hàng ảo theo kiểu kinh doanh đa cấp. Trước những loại hình tội phạm
rất mới này, Cục phòng chống tội phạm công nghệ cao C50- Tổng cục An ninh II,
Bộ Công an kiến nghị xử lý và đẩy mạnh việc kiểm soát các băng nhóm phạm pháp
hình sự tiến hành mua bán thông tin cá nhân trên mạng Internet để sử dụng trong
mục đích phạm tội như: tống tiền, đe dọa, ăn cắp, lừa đảo,… Trước những nguy cơ,
rủi ro về sự mất an toàn đối với các chủ thể tham gia thương mại điện tử, Nhà nước
cũng đề ra các giải pháp về quản lý để đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia
thương mại điện tử nhưng tính hiệu lực còn thấp. Mặc dù về pháp lý có luật điều
chỉnh hoạt động thương mại điện tử, Chính phủ cũng ban hành các Nghị định để
quản lý, các Bộ liên quan ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định,
các Ngành, các địa phương cũng trên cơ sở đó cũng ban hành các quy định, quy chế
để đảm bảo cho hoạt động thương mại điện tử được an toàn.
Thực tế cho thấy, các quy định của pháp luật về thương mại điện tử chưa
thực sự đi vào cuộc sống, chưa được tất cả các chủ thể tham gia thương mại điện tử
tuân thủ một cách nghiêm túc. Các chuyên gia thương mại điện tử cũng bình luận
về hiện tượng “nhờn luật” hay nói một cách khác là luật và các chế tài không có
hiệu lực. Đồng thời, về mặt tổ chức thực hiện còn chồng chéo về chức năng nhiệm
vụ giữa các Bộ, Ngành và sự phối hợp, phân cấp quản lý cho các địa phương còn
chưa rõ ràng. Chính vì thế, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong thương mại
điện tử cần phải đảm bảo sự hiệu quả của ba nội dung: một là sự hoàn thiện về thể
chế chính trị và pháp luật, hai là sự hoàn thiện về tổ chức và vận hành bộ máy, về
nguồn lực thực hiện, ba là cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật và tuyên truyền nâng cao nhận thức chấp hành pháp
luật. Bởi vậy, cần thiết phải nghiên cứu, làm rõ về cơ sở khoa học về hiệu lực quản
lý nhà nước đảm bảo an toàn trong các hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam.

`
3

2. Tình hình nghiên cứu


Thương mại điện tử đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức
quốc tế trên thế giới và đông đảo các nhà nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các
trường đại học rất chú ý quan tâm tới thương mại điện tử.
Liên hiệp quốc cũng đã nghiên cứu và phổ biến về “Chính phủ điện tử và
Thương mại điện tử” thông qua tài liệu giảng dạy tới các quốc gia do Trung tâm đào
tạo phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Châu Á- Thái Bình Dương
(APCICT) nghiên cứu với mục tiêu truyền đạt các kiến thức cho các nhà lãnh đạo
Chính phủ tại các Quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương nhằm hoạch định chính sách
quản lý và các sáng kiến về chính phủ điện tử và thương mại điện tử một cách hiệu
quả hơn. Ủy ban Châu Âu- Viện bảo vệ và an ninh công dân thuộc Trung tâm
nghiên cứu hỗn hợp ISPRA- Italia cũng đã nghiên cứu về: “Chiến lược tin cậy và an
toàn B2C trong thương mại điện tử”. Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích một cách
có hệ thống về mối quan hệ giữa công nghệ, xã hội, kinh tế và chính sách nhằm
đem lại sự an toàn và tin tưởng trong thương mại điện tử. Tác giả Stayling Wen là
một doanh nhân Đài Loan cũng nghiên cứu và cho ra đời cuốn sách “Tương lai của
thương mại điện tử”. Nhiều tác giả khác trên thế giới cũng đã nghiên cứu về mạng
xã hội, kinh doanh, công cụ trực tuyến, công cụ tìm kiếm, an ninh mạng, bảo mật,
khung pháp lý, công nghệ và cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử của các quốc gia
trên thế giới.
Việt Nam đã thống nhất về mặt quản lý nhà nước về thương mại điện tử bằng
việc thành lập Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin thuộc Bộ Công
thương. Nhiều công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động thương mại điện tử được
Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin cùng các tổ chức, hiệp hội thực
hiện. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử thì chưa có nhiều. Một số công trình nghiên cứu thương mại
điện tử về bảo mật, an toàn và pháp lý đã được biết tới như: Đề tài KC01-05 của
Ban cơ yếu Chính phủ năm 2004: “Nghiên cứu, xây dựng giải pháp bảo mật thông
tin trong thương mại điện tử”. Đề tài: “Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt

`
4

Nam: thực trạng và một số khuyến nghị” của Tiến sĩ Nguyễn Anh Sơn. Công trình:
“Luật thương mại quốc tế, các văn bản nền tảng của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật
thương mại quốc tế của UNCITRAL. Các công trình nghiên cứu thương mại điện tử
hiện nay có nhiều nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật giao dịch điện tử, Luật Công nghệ
thông tin, Quốc hội khóa XII thông qua Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Trên cơ sở
đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định thương mại điện tử và nhiều Nghị định
khác, cùng các quyết định phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện
tử 2006-2010 (Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg), giai đoạn 2011-2015 (Quyết định
số 1073/ QĐ-TTg) để xác định rõ kế hoạch thực hiện triển khai thương mại điện tử
ở Việt Nam. Tổng quan tình hình nghiên cứu như trên có thể đánh giá rằng cần thiết
phải có những nghiên cứu cụ thể đánh giá về tính hiệu lực công tác quản lý nhà
nước để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Với mong muốn đi sâu nghiên
cứu vấn đề đó đồng thời dự báo sự phát triển thương mại điện tử, quản lý nhà nước
một cách hiệu lực nhằm đảm bảo an toàn, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Giải pháp
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở
Việt Nam” để nghiên cứu luận án tiến sĩ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những
vấn đề về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về thương mại điện tử, luận án đề
xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn đối với phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về nhiệm vụ nghiên cứu:
- Một là, nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
- Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới

`
5

góc độ quản lý vĩ mô và được kiểm chứng thực tế tại doanh nghiệp để đánh giá hiệu
lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
- Ba là, trên cơ sở phân tích, đánh giá những vấn đề về lý luận, thực trạng
hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, luận án đề
xuất các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử để tạo môi trường, điều kiện phát triển cho thương mại
điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Là hiệu lực quản lý nhà nước trong thương mại điện
tử ở Việt Nam. Chính vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học về hiệu
lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, đánh giá thực
trạng, từ đó đề xuất các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại
điện tử và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Nghiên
cứu được đánh giá và nhìn nhận dưới góc độ quản lý vĩ mô và được kiểm chứng
thực tế từ điển hình một số doanh nghiệp.
Hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử được
nghiên cứu trong phạm vi các nội dung:
+ Nghiên cứu về thể chế để đảm bảo an toàn thương mại điện tử ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu về tổ chức bộ máy, năng lực thực thi quản lý nhà nước, quy
hoạch về phát triển và đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử ở Việt Nam. Công tác thi hành pháp luật, xử lý vi phạm về việc
gây mất an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
Luận án nghiên cứu hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử kể từ năm 2005 cho đến nay và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn đến
năm 2020.

`
6

5. Phương pháp nghiên cứu


Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Để thực hiện luận án, tác giả đã
vận dụng đồng thời và hài hòa những phương pháp nghiên cứu chủ đạo trong kinh
tế chính trị như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để
làm rõ bản chất của hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử, các mối quan hệ biện chứng giữa nội dung của hiệu lực quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để để thu thập số liệu, các
thông tin về cơ sở lý thuyết, các công trình nghiên cứu trước đây, chủ trương chính
sách của Nhà nước về đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, kinh nghiệm của
các nước, các số liệu thống kê…
+ Phương pháp so sánh, đối chứng và dự báo để tiến hành đánh giá hiện
trạng, dự báo nguy cơ mất an toàn trong thương mại điện tử và các nhân tố ảnh
hưởng tới hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
+ Phương pháp áp dụng kỹ thuật tin học để quản lý dữ liệu, phương tiện tính
toán. Đồng thời, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa; phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp khảo sát thực tế, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả
còn nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm về quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử của một số nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam
như: Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore để giải quyết các vấn đề về lý luận và
thực tiễn mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận án
Ý nghĩa khoa học: Luận án là một công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu
tiên đề cập một cách toàn diện và có hệ thống về hiệu lực quản lý nhà nước đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.

`
7

Về mặt khoa học, luận án có những đóng góp sau:


- Hệ thống hóa và góp phần phát triển cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà
nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
- Phân tích và làm rõ thực trạng về an toàn trong thương mại điện tử ở Việt
Nam và hiệu lực quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
ở Việt Nam. Đề xuất các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an
toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và khuyến nghị về việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Trong đó, kiến cụ thể
với các cơ quan quản lý nhà nước, với các hiệp hội như: thương mại điện tử, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đồng thời khuyến nghị với tất cả các chủ thể tham gia.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể sử dụng để tham khảo, nghiên cứu, học
tập, phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương mại điện tử và nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Đồng thời,
những kiến giải, đề xuất và kết luận trong luận án có thể được sử dụng để tiếp tục
hoàn thiện Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, cùng các Nghị định của Chính Phủ về thương mại điện tử, về công
nghệ thông tin, về an toàn thông tin số…. trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
Kết luận

`
8

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO
AN TOÀN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. An toàn trong thương mại điện tử và nội dung quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử
1.1.1. An toàn trong thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối với nhà
nước và doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.1.1.1. Thương mại điện tử và các hình thức giao dịch trong thương mại điện tử
* Tổng quan và khái niệm về thương mại điện tử
Thương mại điện tử, hiểu theo nghĩa thông thường là hoạt động kinh doanh
thương mại thông qua các phương tiện điện tử. Xét về mặt kỹ thuật hoạt động
thương mại điện tử dựa trên công nghệ số hóa là nhờ thành quả của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông,
đặc biệt là mạng Internet, sự ra đời của các sản phẩm kỹ thuật số cầm tay hay các
thiết bị di động. Xét về mặt phát triển kinh tế thì thương mại điện tử là một phương
thức phát triển thương mại hiện đại, vừa là sản phẩm, vừa là công cụ tất yếu cho sự
phát triển kinh tế thế giới trong quá trình toàn cầu hóa dần hướng tới một nền kinh
tế tri thức trong đó thông tin là yếu tố chủ đạo.
Khái niệm thương mại điện tử không đồng nhất với khái niệm giao dịch
thương mại điện tử là khái niệm được nhiều người sử dụng. Các hình thức giao dịch
cụ thể như: Các giao dịch B2B chỉ các giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, B2C chỉ giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, G2C chỉ giao dịch
giữa các cơ quan chính phủ với người tiêu dùng. Bán lẻ điện tử là một khái niệm
trong thương mại điện tử chỉ doanh nghiệp áp dụng hình thức bán trưng bày, quảng
bá, giới thiệu sản phẩm qua mạng đến người có nhu cầu và giao hàng hóa cụ thể tận
tay người tiêu dùng.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về “thương mại điện tử” với nghĩa
rộng hẹp khác nhau, tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu. Chẳng hạn,
theo Ủy ban Liên Hợp quốc về luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong “Luật

`
9

mẫu về thương mại điện tử” thì khái niệm thương mại điện tử được hiểu theo nghĩa
rất rộng, bao gồm tất cả các phương tiện điện tử được dùng trong truyền thông như
là dữ liệu điện tử, thư điện tử, Internet, máy telecopy và máy fax... được dùng để
truyền tải thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu để tiến hành các hoạt động
thương mại. Hiện nay, luật mẫu này đang tiếp tục được bổ sung các công cụ cụ thể
hơn để xử lý các vấn đề về giao kết hợp đồng thương mại điện tử và xác minh tính
chân thực của các giao dịch thương mại điện tử (Theo UNCITRAL), thuật ngữ
thương mại được diễn giải theo nghĩa rộng, bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi
quan hệ trong bản chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau: “Thương
mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện
điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và
hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng
hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên
mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá
thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực
tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng”. Thương mại điện tử được
thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ; các hoạt động
như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các hoạt động mới như siêu thị ảo. Tóm lại,
theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và
thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện
tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được
thực hiện thông qua mạng Internet. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra các
khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. Thương mại điện tử được nói đến
ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang web trên Internet với
phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng Thương mại điện tử
đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con
người. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: “Thương mại điện tử bao gồm việc sản

`
10

xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên
mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao
nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
Khái niệm về thương mại điện tử do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của
Liên hợp quốc (UNCTAD) đưa ra là: “Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là
các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như
Internet”.
Theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 của Chính phủ về
thương mại điện tử, hoạt động thương mại điện tử được định nghĩa là việc tiến hành
một phần hoặc toàn bộ qui trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện
tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc mạng mở khác. Qua
tổng quan các quan niệm rộng, hẹp khác nhau về thương mại điện tử, có thể tổng
hợp đưa ra khái niệm làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài luận án này như sau:
Thương mại điện tử là một lĩnh vực hoạt động thương mại của tất cả các
thương nhân, tổ chức, cá nhân bằng cách sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối
với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở dưới các hình thức
tổ chức hoạt động và loại hình giao dịch thương mại điện tử đa dạng.
* Các chủ thể của hoạt động thương mại điện tử
Chủ thể của hoạt động thương mại điện tử là các chủ thể tham gia vào các
loại hình tổ chức hoạt động thương mại điện tử, thực hiện các giao dịch trong
thương mại điện tử với những hình thức đa dạng. Có nhiều tiêu chí phân loại các
nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử, tùy theo các tiếp cận và mục đích
phân loại như: phân loại các nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử theo
các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, theo các hình thức giao dịch
thương mại điện tử, theo mục đích tham gia hoạt động thương mại điện tử, theo
lãnh thổ cư trú của chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử, theo hành vi
thương mại của chủ thể tham gia thương mại điện tử. Chẳng hạn, Nghị định số
52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử đã phân loại
các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam theo mục

`
11

đích tham gia hoạt động của các chủ thể gồm 6 nhóm chủ thể: (i) các thương nhân,
tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc
tiến thương mại bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (gọi chung là người
sở hữu website thương mại điện tử bán hàng); (ii) các thương nhân, tổ chức thiết lập
website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá
nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại bán hàng hóa hoặc cung ứng
dịch vụ (gọi chung là thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử);
(iii) các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website của thương nhân, tổ chức
cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại,
bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (gọi chung là người bán); (iv) các thương
nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên website thương mại điện tử
bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (gọi chung là khách
hàng); (v) các thương nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho người
sở hữu website thương mại điện tử bán hàng và cho thương nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử (gọi chung là thương nhân, tổ chức, cung cấp hạ tầng);
(vi) các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối mạng khác để
tiến hành hoạt động thương mại.
* Các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử
Hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử là sự biểu hiện cụ thể và là
nơi diễn ra các hoạt động thương mại điện tử mà các chủ thể tham gia thương mại
điện tử hoặc cơ quan quản lý nhà nước có thể nhận biết, nhận diện được chủ yếu
dưới dạng các website thương mại điện tử. Để quản lý hoạt động thương mại điện
tử và các qui định quản lý, chính sách và chế tài cụ thể đối với từng hình thức cụ
thể. Chẳng hạn, Nghị định 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thương mại điện tử đã
phân loại hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử cụ thể và có các chế tài
quản lý đối với từng loại hình thức cụ thể, như: (i) website thương mại điện tử bán
hàng; (ii) website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử gồm sàn giao dịch thương
mại điện tử, website đấu giá trực tuyến, các website khác do Bộ Công thương qui

`
12

định; (iii) các hình thức hoạt động thương mại điện tử tiến hành trên mạng viễn
thông di động (được Bộ Công thương qui định cụ thể).
* Các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử
Hình thức giao dịch trong thương mại điện tử là các mối quan hệ tương tác
trao đổi thông tin và giao kết hợp đồng thương mại điện tử, giao dịch mua bán hàng
hóa và dịch vụ giữa các nhóm chủ thể khi tham gia các giao dịch vì mục đích
thương mại bằng phương tiện điện tử.
Các hình thức giao dịch trong thương mại điện tử có thể được phân loại theo
những tiêu chí khác nhau như căn cứ vào tính chất của các giao dịch thương mại
điện tử, căn cứ vào mục đích kinh tế của các chủ thể thực hiện giao dịch thương mại
điện tử, căn cứ các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, căn cứ các hình
thức giao dịch điện tử… Có thể phân định các hình thức giao dịch thương mại điện
tử cụ thể theo các tiêu chí này như sau:
- Căn cứ tính chất của các giao dịch thương mại điện tử có các loại hình: các
giao dịch trao đổi thông tin thương mại, các giao dịch ký kết hợp đồng thương mại
điện tử, các giao dịch thanh toán trong thương mại điện tử, các giao dịch quản trị
hoạt động thương mại điện tử.
- Căn cứu mục đích kinh tế của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại
điện tử có các loại hình: Giao dịch bán hàng hóa và dịch vụ; Giao dịch mua hàng
hóa và dịch vụ.
- Căn cứ địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện
tử, có các loại hình: Giao dịch giữa thương nhân với thương nhân; Giao dịch giữa
thương nhân với người tiêu dùng; Giao dịch giữa thương nhân với các tổ chức, cá
nhân (không phải là thương nhân).
- Căn cứ vào các nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử có các
loại hình: Giao dịch của những người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng
hóa và dịch vụ với những người mua hàng hóa và dịch vụ; Giao dịch của những
thương nhân hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thương mại điện tử với những người sử
dụng thương mại điện tử; Giao dịch giữa các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng

`
13

kỹ thuật thương mại điện tử với các thương nhân, tổ chức sở hữu website thương
mại điện tử và các thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử.
- Căn cứ các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, có các loại
hình: Giao dịch trên website thương mại điện tử bán hàng; Giao dịch trên các
website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (các sàn giao dịch thương mại điện tử,
các giao dịch trên website đấu giá trực tuyến, các giao dịch trên các website khuyến
mại trực tuyến…).
- Căn cứ các hình thức giao dịch điện tử phổ biến thường được qui định
trong các đạo luật về giao dịch điện tử, tác động qua lại giữa các chủ thể với nhau
trong môi trường mạng máy tính có một số hình thức giao dịch điện tử dưới đây bao
hàm trong đó có các giao dịch thương mại điện tử, gồm:
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp (B2B): Đây là giao dịch
mua bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh kèm theo các dịch vụ tư vấn, bảo trì, nâng cấp sau bán hàng.
Doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn hàng, đặt hàng từ các nhà cung cấp, nhận hóa
đơn và thanh toán. Các quá trình trên trước đây mất rất nhiều thời gian, nhân công
do phải làm việc, đàm phán và gặp mặt trực tiếp, nay toàn bộ quá trình trên đều có
thể thực hiện tại bất cứ đâu và vào bất cứ thời gian nào được cho là phù hợp với hai
bên thông qua mạng Internet. Điều này giúp giảm thiểu chi phí, tận dụng thời gian,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực tế, loại giao dịch này đã được
sử dụng từ nhiều năm ở các mức độ khác nhau, trước khi ra đời mạng Internet, ví dụ
như giao dịch thanh toán điện tử đã được sử dụng trên các mạng riêng từ năm 1970
tại Mỹ. Giao dịch thương mại điện tử giữa hai chủ thể là doanh nghiệp dưới hình
thức B2B giúp cả hai chủ thể là doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí, lựa chọn
đầu vào tốt hơn, quản lý tốt việc cung tiêu hàng hóa, thay đổi nhanh sản phẩm mẫu
mã, đưa hàng ra thị trường. Sau này, xuất hiện website trung gian để các doanh
nghiệp giới thiệu, báo giá sản phẩm, tạo sân chơi mua bán hàng hóa, trang web này
được gọi là sàn giao dịch điện tử. Bên cạnh việc tạo ra một sân chơi cho các doanh
nghiệp thực hiện việc mua bán, sàn giao dịch có thể thực hiện các giá trị gia tăng

`
14

như cung cấp thông tin cần thiết do các doanh nghiệp tự quảng bá, tổ chức hội thảo,
cung cấp các nghiên cứu điều tra thị trường cho doanh nghiệp.
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C): Đây là giao dịch
mà ở đó người tiêu dùng mua hàng trực tiếp và các doanh nghiệp thực hiện việc bán
lẻ qua mạng thông qua website của doanh nghiệp hoặc sàn giao dịch. Các giao dịch
B2C không chỉ dừng ở mục tiêu cung cấp sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng mà
mở rộng thêm các hoạt động dịch vụ như thông tin chất lượng sản phẩm, độ tin cậy
thông qua các diễn đàn thuộc sàn giao dịch, ngân hàng, đấu giá, bất động sản, du
lịch. Hình thức bán lẻ điện tử ngày càng được các doanh nghiệp chú ý và đầu tư
triển khai áp dụng vì tiếp cận khách hàng nhanh chóng và thuận lợi. Bán hàng trong
B2C khác với B2B bởi giá cả thường cố định, doanh nghiệp chỉ cần xây dựng
catalog, hệ thống duyệt dễ dàng cho khách hàng thăm quan, tìm kiếm sản phẩm, tìm
ra giải pháp thu tiền bằng nhiều hình thức thanh toán để giao hàng nhanh, hiệu quả
đến tận khách hàng.
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và cơ quan chính phủ (B2G): Đây là các giao
dịch giữa các doanh nghiệp và chính phủ với tư cách là một tổ chức tham gia hoạt
động thương mại như mua sắm công, cung ứng dịch vụ thương mại điện tử hoặc
cung cấp hạ tầng kỹ thuật thương mại điện tử. Các cơ quan chính phủ có thể thực
hiện mua sắm trang thiết bị, hàng hóa dạng kỹ thuật số như phần mềm, ứng dụng
cho chính phủ thông qua mạng như người tiêu dùng.
+ Giao dịch thương mại giữa cá nhân với cá nhân (C2C): Đây là các giao
dịch thương mại giữa các cá nhân không phải là thương nhân hay tổ chức có nhu
cầu mua hoặc bán các hàng hóa dịch vụ mà mình sở hữu bằng phương tiện điện tử
hay còn được gọi một cách khác là giao dịch thương mại giữa khách hàng với khách
hàng. Hình thức giao dịch thương mại điện tử này cho phép thông qua website của
cá nhân tổ chức các sàn đấu giá; Các giao dịch dân sự như tìm việc, cho thuê nhà,
cần thuê nhà, mua bán ô tô, xe máy, sửa chữa đồ điện tử… cũng được đưa lên mạng
Internet thông qua website cá nhân hoặc trung gian. Giao dịch C2C có nhiều ưu
điểm nên số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều.

`
15

1.1.1.2. An toàn và rủi ro trong thương mại điện tử


* Khái niệm an toàn trong thương mại điện tử
An toàn trong thương mại điện tử là khái niệm chỉ trạng thái về lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia các giao dịch trong thương mại điện tử và tính chân
thực, chính xác của các dữ liệu thương mại được giao dịch, truyền dẫn trong môi
trường điện tử. Theo đó, những khía cạnh và yếu tố quan trọng nhất liên quan đến
sự an toàn hoặc rủi ro mất an toàn trong giao dịch thương mại điện tử, gồm:
(i) Giá trị pháp lý của các giao kết hợp đồng thương mại điện tử, tính chân
thực của các giao dịch thương mại điện tử và các chữ ký của các bên liên quan tham
gia hợp đồng được thể hiện thông qua các chữ ký số (chữ ký điện tử).
(ii) Sự riêng tư thông tin và mức độ bảo mật thông tin cá nhân, thông tin
thương mại của các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, tính chân thực của
các nhận dạng dữ liệu và độ an toàn của các vụ giao dịch, trách nhiệm pháp lý và
quyền hạn (của người mua và người bán đối với vụ giao dịch đó).
(iii) Sự an toàn của các hoạt động thanh toán điện tử trong thương mại điện
tử bao gồm cả lĩnh vực tạo tiền điện tử, các giao dịch thanh toán hợp đồng thương
mại bằng phương tiện điện tử.
(iv) Sự lừa đảo trong thương mại điện tử; Sự không chân thật một cách cố ý
mục đích phá hoại hoặc bóp méo nội dung dữ liệu gây thất thoát về tài sản, uy tín,
thương hiệu cho các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử.
(v) Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với bản quyền và nhãn hiệu thương
mại được áp dụng trong truyền dẫn điện tử (như tải xuống và phân phối những
thông tin, chương trình, số liệu … không được phép của chủ sở hữu hay bảo vệ bí
mật công nghệ mới trong môi trường số hóa).
Như vậy, khái niệm “An toàn trong thương mại điện tử” gồm các nội hàm
chủ yếu: An toàn pháp lý, an toàn thông tin, an toàn kỹ thuật, an toàn tài chính, an
toàn tài sản hữu hình và tài sản vô hình… cho các bên chủ thể tham gia các giao
dịch thương mại điện tử dưới mọi hình thức. Từ sự phân định như trên, có thể đưa
ra khái niệm chung nhất về an toàn trong thương mại điện tử như sau:

`
16

An toàn trong thương mại điện tử là sự không bị xâm hại về lợi ích hợp
pháp của các bên, các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử, gồm các lợi
ích pháp lý, lợi ích thông tin, lợi ích kỹ thuật công nghệ, lợi ích tài chính, lợi ích tài
sản hữu hình và mô hình khác. Đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là sự bảo
vệ các lợi ích hợp pháp về pháp lý của các giao kết hợp đồng trong thương mại điện
tử, về thông tin, về kỹ thuật công nghệ, về tài chính và tài sản của các bên, các chủ
thể (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, chính phủ…) tham gia hoạt động thương mại
điện tử, tham gia các giao dịch thương mại điện tử dưới mọi hình thức.
* Những nội dung cơ bản của an toàn trong thương mại điện tử
- An toàn pháp lý đối với các giao dịch trong thương mại điện tử: Việc đảm
bảo giá trị pháp lý của các giao kết hợp đồng thương mại điện tử, các giao dịch
trong thương mại điện tử là một nội dung quan trọng nhất tạo lập sự an toàn trong
thương mại điện tử. Thương mại điện tử giúp thực hiện các giao dịch, thanh toán,
marketing và gia tăng giá trị của sản phẩm hàng hóa hữu hình hoặc truyền những cơ
sở dữ liệu liên quan tới thẻ tín dụng, các phương tiện thanh toán khác của khách
hàng. Việc đảm bảo an toàn cho các thông tin trên là rất quan trọng, song đang phải
đối diện với một vấn đề: làm thế nào để tìm ra được một trạng thái cân bằng hợp lý
giữa một bên là an toàn và một bên là tiện dụng (gồm các chức năng, các đặc tính
dễ thao tác của hệ thống này). Một hệ thống càng an toàn thì khả năng xử lý, thực
thi thao tác càng phức tạp. Còn ngược lại, có thể sẽ không đảm bảo an toàn.
Trong phương thức hoạt động thương mại truyền thống (còn gọi là thương
mại trên giấy tờ), người mua có thể gặp những rủi ro khi đi mua hàng như không
nhận được những hàng hóa mà mình đã mua và thanh toán. Nguy hiểm hơn, khách
hàng có thể bị kẻ xấu lấy cắp trong khi mua sắm. Nếu là người bán hàng, thì rủi ro
là có thể không nhận được tiền thanh toán của người mua. Thậm chí, kẻ xấu có thể
trộm hàng hóa, hoặc có những hành vi lừa đảo như thanh toán bằng thẻ tín dụng ăn
cắp được hoặc bằng tiền giả… Nhìn chung, tất cả các loại tội phạm diễn ra trong
phương thức hoạt động thương mại truyền thống đều xuất hiện trong thương mại
điện tử dưới nhiều hình thức tinh vi và phức tạp hơn. Trong khi đó, việc giảm các

`
17

rủi ro trong thương mại điện tử là một quá trình phức tạp liên quan đến nhiều công
nghệ mới, nhiều thủ tục và các chính sách tổ chức, liên quan đến những đạo luật
mới và những tiêu chuẩn công nghệ mới.
Để đạt được mức độ an toàn cao trong thương mại điện tử, chúng ta phải sử
dụng nhiều công nghệ mới. Song bản thân các công nghệ mới này không thể giải
quyết được tất cả mọi vấn đề. Cần có các qui định pháp lý cụ thể, chặt chẽ về các
thủ tục, chính sách, biện pháp tổ chức,v.v… để đảm bảo cho các công nghệ trên
không bị phá hỏng. Các tiêu chuẩn công nghệ và các bộ luật mới được Quốc hội
thông qua, các nghị định mới phù hợp của Chính Phủ cũng cần được áp dụng để
tăng hiệu quả hoạt động của các kỹ thuật thanh toán và để theo dõi, đưa ra xét xử
những vi phạm luật pháp trong thương mại điện tử.
- An toàn hạ tầng kỹ thuật và công nghệ trong thương mại điện tử: An toàn
hạ tầng kỹ thuật và công nghệ trong thương mại điện tử luôn mang tính tương đối.
Lịch sử an toàn trong giao dịch thương mại điện tử đã chứng minh rằng, bất cứ hệ
thống kỹ thuật công nghệ bảo vệ an toàn nào cũng có thể bị phá vỡ nếu không đủ
sức để chống lại các cuộc tấn công từ phía bên ngoài hoặc bên trong. Hơn nữa, một
sự bảo vệ an toàn tuyệt đối về kỹ thuật công nghệ không hẳn là giải pháp tối ưu về
kinh tế trong thời đại thông tin. Thông tin chỉ có thể có giá trị trong vài giờ, vài
ngày hoặc vài năm và chỉ cần bảo vệ chúng trong khoảng thời gian đó đảm bảo an
toàn là đủ. An toàn trong thương mại điện tử luôn đi kèm theo chi phí, mức độ an
toàn càng cao thì chi phí càng lớn, vì vậy cần cân nhắc các khoản chi phí bảo đảm
an toàn cho những đối tượng cần bảo vệ. Đồng thời, để về kỹ thuật đảm bảo an toàn
trong trong thương mại điện tử là cả một chuỗi liên kết và nó thường đứt ở những
điểm yếu nhất. Cũng giống như việc chúng ta sử dụng khóa, ổ khóa bao giờ cũng
chắc chắn và có độ an toàn cao hơn việc quản lý các chìa khóa.
- An toàn thông tin: Việc bảo vệ thông tin số và các hệ thống thông tin chống
lại các nguy cơ tự nhiên, các hành động truy cập, sử dụng, phát tán, sửa đổi, phá
hoại, và phá hủy bất hợp pháp nhằm bảo đảm cho các hệ thống thông tin thực hiện
đúng chức năng, phục vụ đúng đối tượng một cách sẵn sàng, chính xác và tin cậy là

`
18

một trong những nội dung và yêu cầu cơ bản đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử. Hiện nay các thủ đoạn của tội phạm công nghệ cao khi tấn công lĩnh vực
hoạt động thương mại điện tử càng ngày càng tinh vi, sự biện pháp tấn công càng
ngày càng tinh vi, sự đe doạ tới độ an toàn thông tin có thể đến từ nhiều nơi theo
nhiều cách chúng ta nên đưa ra các chính sách và phương pháp đề phòng cần thiết.
Mục đích cuối cùng của an toàn thông tin, bảo mật là bảo vệ các thông tin và tài
nguyên theo các yêu cầu: Đảm bảo tính tin cậy; Đảm bảo tính nguyên vẹn; Đảm bảo
tính sẵn sàng; Đảm bảo tính không thể từ chối.
Khi nhu cầu trao đổi thông tin dữ liệu ngày càng lớn và đa dạng, các tiến bộ
về điện tử - viễn thông và công nghệ thông tin không ngừng được phát triển ứng
dụng để nâng cao chất lượng và lưu lượng truyền tin thì các quan niệm ý tưởng và
biện pháp bảo vệ thông tin dữ liệu cũng được đổi mới. Bảo vệ an toàn thông tin dữ
liệu là một chủ đề rộng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong thực tế có rất
nhiều phương pháp đang được thực hiện để bảo vệ an toàn thông tin dữ liệu. Các
phương pháp bảo vệ an toàn thông tin dữ liệu có thể được quy tụ vào ba nhóm sau:
Bảo vệ an toàn thông tin bằng biện pháp hành chính; Bảo vệ thông tin bằng biện
pháp kỹ thuật; Bảo vệ an toàn thông tin bằng các biện pháp thuật toán. Để đảm bảo
an toàn thông tin dữ liệu trên đường truyền tin và trên mạng máy tính có hiệu quả
thì điều trước tiên là phải lường trước hoặc dự đoán trước các khả năng không an
toàn, khả năng xâm phạm, các sự cố rủi ro có thể xảy ra đối với thông tin dữ liệu
được lưu trữ và trao đổi trên đường truyền tin cũng như trên mạng. Xác định càng
chính xác các nguy cơ thì càng quyết định được tốt giải pháp để giảm thiệt hại.
Có hai loại hành vi xâm phạm thông tin dữ liệu đó là: Vi phạm chủ động và
vi phạm thụ động. Vi phạm thụ động chỉ nhằm mục đích cuối cùng là nắm bắt được
thông tin. Việc làm đó có khi không biết được nội dung cụ thể nhưng có thể dò ra
được người gửi, người nhận nhờ thông tin được điều khiển giao thức chứa trong
phần đầu các gói tin. Kẻ xâm nhập có thể kiểm tra được số lượng, độ dài và tần số
trao đổi. Vì vậy, vi phạm thụ động không làm sai lệch hoặc hủy hoại nội dung thông
tin dữ liệu được trao đổi. Vi phạm thụ động thường khó phát hiện nhưng có thể có

`
19

những biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Vi phạm chủ động là dạng vi phạm có thể làm
thay đổi nội dung, xóa bỏ, làm trễ, xắp xếp lại thứ tự, hoặc làm lặp lại gói tin tại
thời điểm đó hoặc sau đó một thời gian. Vi phạm chủ động có thể thêm vào một số
thông tin ngoại lai để làm sai lệch nội dung thông tin cần trao đổi, thường dễ bị phát
hiện nhưng để ngăn chặn hiệu quả thì khó khăn hơn nhiều.
- An toàn trong thanh toán trực tuyến: Sự mất an toàn thường xảy ra ở khâu
thanh toán trực tuyến, với các tình huống chủ yếu sau:
+ Giả mạo các thông tin nhận dạng của khách hàng: Thông tin thẻ tín dụng
có thể bị lấy trộm bằng nhiều cách khác nhau, có thể qua trực tuyến hoặc qua những
giấy biên nhận thẻ tín dụng được bỏ đi. Bằng phần mềm, tội phạm có thể có được
thông tin thẻ tín dụng ảo bằng cách xâm nhập vào trong cơ sở dữ liệu của khách
hàng thông qua các lỗ hỏng của hệ thống.Với thông tin thẻ tín dụng đánh cắp được,
tội phạm có thể dùng nó để mua hàng hóa, dịch vụ.
+ Giả mạo thông tin nhận dạng người bán: Cũng giống như tội phạm tìm
cách xâm nhập vào một két tiền, tội phạm trực tuyến cũng xâm nhập vào két tiền ảo
của chủ thể bằng cách ăn trộm thông tin truy cập để mạo danh. Hành vi đó gọi là ăn
trộm thông tin nhận dạng người bán. Thông tin này được sử dụng trái phép để truy
cập vào tài khoản của các chủ thể tham gia giao dịch. Bằng cách này, tội phạm lấy
trộm tiền trực tuyến từ các chủ thể tham gia bằng cách phát hành các thẻ tín dụng
hay các giấy tờ thanh toán khác.
+ Truy cập vào các hệ thống thanh toán: Tội phạm cần phải truy cập vào
được các hệ thống thanh toán để thực hiện gian lận thông qua hai kênh chính: Một
là, trang thanh toán trên trang web của chủ thể tham gia. Hai là, tài khoản cửa ngõ
thanh toán của chủ thể tham gia. Bằng các hành vi khác nhau, tội phạm sử dụng
thông tin nhận dạng người bán để giả mạo chủ thể tham gia giao dịch giành quyền
kiểm soát và ăn trộm tiền hay thực hiện các hành vi phạm tội khác.
Đối với các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử đặc biệt khi chủ
thể là doanh nghiệp không có các chương trình bảo vệ an toàn thì bọn tội phạm
thường sử dụng các kỹ thuật giăng bẫy tinh vi bằng cách sử dụng các phần mềm

`
20

thông minh cho phép chúng tìm kiếm trên Internet các doanh nghiệp có các lỗ hỏng
trong hệ thống. Sau đó, sẽ sử dụng thông tin này phá vỡ hệ thống để lấy trộm thông
tin truy cập vào tài khoản của doanh nghiệp và thực hiện các hành vi ăn trộm hay
tiếp quản. Xu hướng tội phạm ngày càng trở nên tinh vi hơn khi thực hiện việc mô
hình hóa hoạt động của chúng dưới dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến để lừa
người sử dụng nhằm đánh cắp và gian lận các thông tin quan trọng. Sự lừa đảo đến
từ các email hoặc các phần mềm độc hại đội lốt là một ứng dụng bảo mật hợp pháp
nhằm đánh lừa người sử dụng luôn là vấn đề mà người tiêu dùng lo lắng. Không chỉ
nguy hiểm với người dùng máy tính cá nhân, cùng với sự phổ biến của các dòng
điện thoại thông minh, tội phạm ảo chuyển hướng tấn công sang điện thoại di động
truy cập Internet. Một trong những lý do cho xu hướng này là người sử dụng không
chú ý dùng bảo mật điện thoại như máy tính mà thực chất một chiếc điện thoại có
khả năng như một máy vi tính dùng để truy nhập tài khoản, dữ liệu hệ thống. Khi tải
về ứng dụng từ điện thoại thông minh người dùng có thể bị thu thập các số liệu và
để lộ vị trí. Ngoài ra, các đối tượng có nguy cơ bị gian lận trực tuyến luôn phải đối
mặt với các loại hình như: hàng ảo, tiền thật, tội phạm có tổ chức và thậm chí là cả
nguy cơ chiến tranh trên mạng hay còn gọi một cách khác là chiến tranh ảo.
- An toàn tài sản, nhất là tài sản trí tuệ trong thương mại điện tử: Các chủ thể
tham gia giao dịch thương mại điện tử có thể trở thành nạn nhân của các hành vi
gian lận, lừa đảo trực tuyến (chẳng hạn như vụ việc trang web mua bán 24h tổ chức
lừa đảo bằng hình thức bán các gian hàng ảo theo kiểu kinh doanh đa cấp), dẫn đến
các tổn thất lớn về tài sản. Internet và các mạng mở khác là môi trường thuận lợi
cho việc trao đổi, chia sẻ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Phần lớn các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ như tác phẩm văn học- nghệ thuật, tài liệu khoa học
kỹ thuật, chương trình phần mềm máy tính, cơ sở dữ liệu có sáng tạo, nhãn hiệu
thương mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu dáng công nghiệp … đều có thể được
truyền tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác và chúng có thể bị phát tán,
chia sẻ và bị chiếm dụng bất hợp pháp dẫn đến những tổn thất lớn về tài sản trí tuệ
hợp pháp của các chủ thể tham gia các giao dịch trong thương mại điện tử. Vì thế,

`
21

an toàn tài sản, nhất là tài sản trí tuệ của các chủ thể tham gia các giao dịch trong
thương mại điện tử là một nội dung quan trọng của đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử.
* Những rủi ro chủ yếu trong thương mại điện tử
Thương mại điện tử là một hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao,
song một khi gặp rủi ro thì những thiệt hại đối với các doanh nghiệp kinh doanh
trên mạng cũng không nhỏ. Những sơ suất trong kỹ thuật của nhân viên như sự
nhầm lẫn khi truyền dữ liệu, hay một động tác nhấp “chuột” vô tình,… đều có thể
làm cho toàn bộ dữ liệu của một thương vụ đang giao dịch bị xóa bỏ, hoặc những
chương trình và những tệp dữ liệu đang lưu trữ mà doanh nghiệp dày công thiết kế
và xây dựng bị mất, gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp về mặt tài chính.
Những yếu tố khách quan như máy hỏng hay thời tiết xấu, nghẽn máy,… có thể làm
tê liệt hoạt động của doanh nghiệp, hoặc tệ hại hơn là virus xâm nhập phá hủy, đảo
lộn toàn bộ cơ sở dữ liệu về khách hàng, đối tác, thị trường,… được lưu giữ hay ăn
cắp những thông tin tuyệt mật có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh hoặc làm suy
giảm nghiêm trọng uy tín của doanh nghiệp.
Rủi ro trong thương mại điện tử là những tai nạn, sự cố, tai họa xảy ra một
cách ngẫu nhiên, khách quan ngoài ý muốn của con người mà gây ra tổn thất cho
các bên tham gia trong quá trình tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử. Rủi
ro trong thương mại điện tử với những hình thái muôn màu muôn vẻ tuy nhiên tựu
chung lại có thể chia thành bốn nhóm cơ bản sau:
- Nhóm rủi ro dữ liệu
- Nhóm rủi ro về công nghệ
- Nhóm rủi ro về thủ tục quy trình giao dịch của tổ chức
- Nhóm rủi ro về luật pháp và các tiêu chuẩn công nghệ.
Rủi ro về dữ liệu đối với người bán: Thay đổi địa chỉ nhận đối với chuyển
khoản ngân hàng và do vậy chuyển khoản này sẽ được chuyển tới một tài khoản
khác của người xâm nhập bất chính. Nhận được những đơn đặt hàng giả mạo của
một khách hàng quốc tế đặt hàng và sau đó từ chối hành động này, người bán hàng

`
22

trực tuyến thường không có cách nào để xác định rằng thực chất hàng hóa đã được
giao đến tay khách hàng hay chưa và chủ thẻ tín dụng có thực sự là người đã thực
hiện đơn đặt hàng hay không.
Rủi ro về dữ liệu đối với người mua: Thông tin bí mật về tài khoản bị đánh
cắp khi tham gia giao dịch thương mại điện tử. Thông tin cá nhân của họ có thể bị
chặn và đánh cắp khi họ gửi đi một đơn đặt hàng hay chấp nhận chào hàng. Hiện
tượng các trang web giả mạo, giả mạo địa chỉ Internet, phong tỏa dịch vụ, và thư
điện tử giả mạo của các tổ chức tài chính ngân hàng. Tin tặc tấn công và các
website thương mại điện tử, truy cập các thông tin về thẻ tín dụng đã không chỉ xâm
phạm đến tính tin cậy của dữ liệu mà còn vi phạm quyền riêng tư đối với các thông
tin cá nhân của khách hàng.
Rủi ro về dữ liệu đối với chính phủ: Các tin tặc có nhiều kỹ thuật tấn công
các trang web này nhằm làm lệch lạc thông tin, đánh mất dữ liệu thậm chí là đánh
“sập” khiến các trang web này ngừng hoạt động. Đặc biệt một số tổ chức tội phạm
đã sử dụng các tin tặc để phát động các cuộc tấn công mang tính chất chính trị hoặc
tương tự như vậy.
Những rủi ro liên quan đến công nghệ: Xét trên góc độ công nghệ thì có ba
bộ phận dễ bị tấn công và tổn thương nhất khi thực hiện giao dịch thương mại điện
tử là hệ thống của khách hàng, máy chủ của doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ,
người bán, ngân hàng và đường dẫn thông tin. Những rủi ro thường gặp nhất về
công nghệ đối với các website thương mại điện tử, đó là: Các chương trình máy tính
nguy hiểm, Tin tặc và các chương trình phá hoại, Rủi ro về gian lận thẻ tín dụng,
Sự khước từ phục vụ của một website, Kẻ trộm trên mạng

`
23

Nhóm rủi ro về pháp luật và tiêu chuẩn công nghiệp: Đó là hiệu lực pháp lý
của giao dịch thương mại điện tử. Nước ta mặc dù đã có luật về giao dịch điện tử,
trong đó thừa nhận giá trị pháp lý của các tài liệu điện tử. Cả người gửi và người
nhận các tài liệu này không thể từ chối hiệu lực pháp lý của nó và cũng không thể từ
chối rằng mình đã gửi hay đã nhận tài liệu đó nếu có sử dụng chữ ký điện tử an
toàn. Tuy nhiên làm thế nào để đảm bảo rằng một thoả thuận đạt được qua hệ thống
điện tử sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý khi có sự khác nhau giữa các hệ thống
pháp luật khác nhau, ví dụ Việt Nam và Nhật Bản? Chưa có một công ước chung
nào về giao dịch thương mại điện tử có hiệu lực sẽ gây trở ngại trong việc giải quyết
tranh chấp khi hợp đồng bị vi phạm. Việc lựa chọn toà án, trọng tài, luật điều chỉnh
khi xẩy ra tranh chấp từ giao dịch điện tử là một vấn đề cần thiết để tránh các rủi ro
có thể phát sinh. Các quy định cản trở sự phát triển của thương mại điện tử hoặc
chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử như đăng ký website,
mua bán tên miền; sự chậm trễ về dịch vụ chứng thực điện tử, thanh toán điện tử
một phần là do thiếu các văn bản pháp lý điều chỉnh Rủi ro về tiêu chuẩn công
nghiệp. Thiếu một hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ và chưa có một hệ thống
các tiêu chuẩn công nghiệp phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Sự thiếu
đồng bộ về tiêu chuẩn công nghiệp sẽ gây nhiều khó khăn trong việc trao đổi thông
tin và đặc biệt là hoạt động chào hàng, đặt hàng cũng như vận chuyển hàng hoá, thủ
tục hải quan, thuế… Mặt khác sự khác biệt giữa tiêu chuẩn công nghiệp trong
thương mại truyền thống và thương mại điện tử cũng có thể gây ra những rủi ro
không mong đợi. Đặc biệt là đối với những hàng hoá vô hình như các loại dịch vụ
trên Internet thì hiện nay vẫn chưa có một hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp nào để
đánh giá chính xác.
Một số rủi ro điển hình khác:
+ Rủi ro vì mất cơ hội kinh doanh: Không được giao dịch trên mạng Internet
bởi vì đã có người đăng ký bản quyền.
+ Rủi ro liên quan tới việc thay đổi công nghệ.

`
24

+ Rủi ro liên quan đến thông tin cá nhân: Một số tin tặc còn có thể thay đổi
thông tin cá nhân khiến cho người sử dụng gặp nhiều rắc rối không chỉ trong giao
dịch trên mạng mà còn trong cuộc sống bên ngoài.
+ Rủi ro bị mất tài sản thông tin bao gồm những rủi ro gây ra những tổn thất
về dữ liệu, các nguồn hệ thống máy tính và tài sản thông tin như số thẻ tín dụng, các
thông tin về khách hàng, kể cả băng thông của đường truyền do những cuộc tấn
công trên mạng.
1.1.1.3. Những vấn đề chủ yếu đặt ra đối với nhà nước nhằm đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử
- Sự thừa nhận pháp lý đối với thông điệp dữ liệu: Thông điệp dữ liệu là hình
thức thông tin được trao đổi qua phương tiện điện tử trong các giao dịch thương mại
điện tử. Thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu là cơ sở cho việc thừa
nhận các giao dịch thương mại điện tử, thể hiện dưới các khía cạnh: có thể thay thế
văn bản giấy, có giá trị như bản gốc, có giá trị lưu trữ và chứng cứ, xác định trách
nhiệm các bên và thời gian, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu. Tài liệu giấy
thông thường luôn được coi là cơ sở pháp lý đáng tin cậy, sao chụp được và không
thể biến đổi trong các giao dịch sử dụng nó. Những cơ sở nêu trên cũng được thừa
nhận đối với một tài liệu điện tử khi thoả mãn những quy định pháp luật yêu cầu
thông tin phải dưới dạng chữ viết và có thể truy cập được. Để bảo đảm khả năng
truy cập được, phần mềm sử dụng cho việc truy cập phải có khả năng bảo đảm việc
lưu giữ tài liệu đó. Nhằm chứng minh ý định giao kết hợp đồng dưới dạng văn bản
thông thường, toà án có thể căn cứ vào các bằng chứng ngoài hợp đồng như biên
bản ghi những cuộc đàm phán giữa các bên. Theo cách này, pháp luật cần thừa nhận
giá trị bằng chứng của thư điện tử hoặc bản ghi được lưu trữ trên phương tiện điện
tử thể hiện ý định giao kết hợp đồng giữa các bên.
Để xác định thời điểm và địa điểm gửi, nhận thông tin bằng phương tiện điện
tử, pháp luật đưa ra phương pháp giả định. Theo đó, thời gian gửi tài liệu điện tử
phụ thuộc việc người nhận có thông báo với người gửi về hệ thống thông tin được
chỉ định trước hay không. Nếu có chỉ định trước, tài liệu điện tử sẽ được truyền theo

`
25

thoả thuận đó, tài liệu coi là được nhận khi nó vào hệ thống thông tin được chỉ định.
Trong các trường hợp khác, tài liệu sẽ được nhận khi nó lọt vào phạm vi kiểm soát
của người nhận. Vị trí gửi, nhận được xác định là tại trụ sở kinh doanh. Việc gửi tài
liệu điện tử sẽ được coi là diễn ra tại trụ sở kinh doanh của người gửi. Tương tự,
việc nhận tài liệu được coi là diễn ra tại trụ sở kinh doanh của người nhận. Nếu một
bên có nhiều trụ sở kinh doanh, vị trí gửi hoặc nhận sẽ là trụ sở kinh doanh có quan
hệ gần gũi nhất với giao dịch được thực hiện.
- Quy định về chữ ký điện tử: Chữ ký điện tử là một công nghệ cho phép xác
nhận người gửi và bảo đảm tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu. Về bản chất, chữ
ký điện tử tương đương chữ ký tay, có các thuộc tính như: khả năng nhận dạng một
người, tạo tính chắc chắn về mối quan hệ của người đó với hành vi ký và cho thấy
việc người đó chấp nhận nội dung tài liệu ký. Có nhiều loại chữ ký điện tử khác
nhau như chữ ký số, chữ ký sinh trắc học, chữ ký dựa trên số nhận dạng cá nhân (số
PIN), chữ ký tạo bằng thẻ thông minh … Pháp luật thương mại điện tử cần có các
quy định thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, cụ thể hoá các tiêu chí kỹ
thuật và xác định trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Có hai
phương pháp xây dựng pháp luật về chữ ký điện tử: quy định chung dựa trên
nguyên tắc trung lập về mặt công nghệ và quy định cụ thể về chữ ký số.
UNCITRAL khuyến nghị sử dụng phương pháp thứ nhất để dự trù khả năng hình
thành các công nghệ chữ ký điện tử mới. Hầu hết các nước theo khuyến nghị này.
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử: Với sự xuất hiện của
nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng công nghệ thông tin, việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng. Phần lớn các đối tượng thuộc quyền sở
hữu trí tuệ như tác phẩm văn học - nghệ thuật, tài liệu khoa học - kỹ thuật, chương
trình máy tính, cơ sở dữ liệu có tính sáng tạo, nhãn hiệu thương mại, bí mật thương
mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu dáng công nghiệp,… đều có thể xuất hiện dưới
hình thức cho phép truyền tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn
đề mới liên quan tới tên miền; tính năng liên kết, dẫn chiếu giữa các tài liệu trên

`
26

môi trường nối mạng, trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng… khiến các
quy định về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trước đây không còn phù hợp.
Để có thể bảo hộ tốt trong thương mại điện tử, pháp luật về sở hữu trí tuệ cần
được điều chỉnh. Thứ nhất, việc hình thành những đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
mới như phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu nguồn đòi hỏi phải có những quy định
mới thừa nhận và bảo hộ chúng, cách thức bảo hộ có thể như với đối tượng của
quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp. Pháp luật cần chỉ rõ các thuộc tính cơ
bản phân biệt với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác, xác lập các quyền nhân
thân, quyền sở hữu và các nghĩa vụ liên quan, đưa ra các giới hạn, ngoại lệ đối với
các quyền và nghĩa vụ, hình thành cơ chế xử lý vi phạm. Thứ hai, nhiều đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ có thể được biểu hiện dưới dạng các ứng dụng công nghệ thông
tin như tên miền, giao diện website, từ khoá sử dụng để tìm kiếm thông tin và các
ứng dụng công nghệ thông tin khác. Do pháp luật chưa quy định cụ thể (chưa xác
định chúng thuộc đối tượng quyền sở hữu trí tuệ nào) nên không biết cơ chế bảo hộ.
Ví dụ: website có nên coi là hình thức biểu hiện của một tác phẩm nghệ thuật
không? Tên miền của một công ty có được hưởng các cơ chế bảo hộ như nhãn hiệu
thương mại không?.
Ngoài ra, Internet và các mạng mở khác là môi trường lý tưởng cho việc trao
đổi, chia sẻ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm văn học có thể
nhanh chóng bị phát tán trên Internet; các bí mật kinh doanh được lưu trên máy tính
một công ty có thể bị tiết lộ ra bên ngoài qua kết nối Internet; một bản nhạc mới
được phát hành, nếu đưa lên mạng thì ai cũng có thể tải về sử dụng,… Môi trường
mới tác động đến các quyền và nghĩa vụ liên quan tới mọi đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ. Vì vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ phải hình thành các quy định thêm về giới
hạn, ngoại lệ thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho phù hợp.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã có những nghiên cứu sâu về tác
động của môi trường số hoá đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Năm
1996, WIPO đã thông qua hai hiệp định là Hiệp định về Quyền tác giả và Hiệp định
về Tín hiệu ghi âm và biểu diễn, cùng có đủ thành viên tham gia và bắt đầu có hiệu

`
27

lực trong năm 2002. Các hiệp định này có điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh
trong môi trường Internet. Nhiều quốc gia đã chuyển tải các quy định của WIPO
vào pháp luậtquốc gia như Mỹ, châu Âu, Canađa.
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử: Các đối tác
tham gia vào một giao dịch thương mại điện tử trên Internet hoặc các mạng mở
khác không nhất thiết hoặc không thể gặp mặt nhau, họ tiến hành các giao dịch chủ
yếu thông qua những công nghệ mới và trong một môi trường khác biệt so với
truyền thống. Thông thường, người tiêu dùng không biết rõ các thông tin về hàng
hoá, dịch vụ được cung cấp như người bán, khả năng bị thiệt hại cao hơn, vì vậy
cần có những quy định pháp luật bảo vệ họ. Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) đã ban hành Hướng dẫn về Bảo vệ người tiêu dùng trong bối
cảnh thương mại điện tử với những nguyên tắc cơ bản sau: (i) Bảo vệ minh bạch và
hiệu quả; (ii) Phù hợp với thông lệ thị trường, quảng cáo và kinh doanh trung thực;
(iii) Cung cấp các thông tin rõ ràng về doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ, chi tiết giao
dịch, quy trình xác nhận; (iv) Cơ chế thanh toán an toàn, dễ sử dụng và phải thông
tin cho khách hàng về mức độ an toàn của cơ chế đó; (v) Có các quy định về giải
quyết tranh chấp và được bảo vệ bí mật cá nhân.
- Xử lý, trấn áp tội phạm về những vi phạm trong thương mại điện tử: Mạng
Internet là một trong những thành tựu lớn nhất của loài người. Viễn thông, hệ thống
ngân hàng, tiện ích công cộng và hệ thống xử lý khẩn cấp đều hoạt động trên mạng.
Nhưng có những người sử dụng Internet vào mục đích xấu. Lịch sử tồn tại chưa lâu
của Internet đã chứng kiến nhiều hành vi vi phạm. Mặc dù thường rất khó để xác
định những động cơ của những hành vi vi phạm này, nhưng hậu quả của chúng làm
giảm niềm tin vào hệ thống Internet. Tội phạm trên mạng là những hành vi xâm
phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thông qua việc sử dụng máy
tính. Tội phạm trên mạng có thể được phân thành: tội phạm trên mạng chống lại con
người, tài sản và chính phủ. Tội phạm trên mạng chống lại con người bao gồm việc
truyền gửi những văn hoá phẩm đồi truỵ hoặc quấy rối tình dục có sử dụng một máy
tính. Tội phạm trên mạng chống lại tài sản bao gồm việc xâm phạm máy tính bất

`
28

hợp pháp qua không gian trên mạng, phá hoại hệ thống máy tính, truyền gửi những
chương trình gây hại, sở hữu những thông tin máy tính bất hợp pháp.
Hiện đang nổi lên những loại hình tội phạm chống lại chính phủ như nạn
khủng bố trên mạng, những tổ chức, cá nhân xâm nhập vào website của cơ quan
công quyền để đe doạ chính phủ và khủng bố người dân của một nước. Hành vi
xâm phạm có mức độ nhẹ hơn gọi là các vi phạm trên mạng và bị xử lý hành chính.
Bên cạnh các loại tội phạm như trên, hình thức lừa đảo trên mạng Internet cũng có
thể coi là một loại hình tội phạm mới. Đối với một số quốc gia thì hình thức kinh
doanh đa cấp có thể là một hình thức được pháp luật cho phép. Nhưng một số quốc
gia khác, kinh doanh đa cấp là một loại hình kinh doanh không được pháp luật cho
phép hoặc bị quản lý, giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng. Kinh doanh đa
cấp trên Internet với sản phẩm là các gian hàng ảo được coi là một hình thức lừa
đảo trên Internet. Bên cạnh đó, việc rao bán các thông tin cá nhân trên mạng
Internet cũng được coi là một loại tội phạm mới. Các thông tin được rao bán có thể
là những thông tin về đời tư, những thông tin liên quan đến thẻ tín dụng …
Để xử lý tội phạm và những vi phạm trong thương mại điện tử, nhà nước cần
có các chế định pháp lý cụ thể (như qui định trong luật hình sự), luật thương mại
điện tử, các văn bản pháp luật về thương mại điện tử … Trong đó, cần qui định rõ
các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thương mại điện tử cùng các chế tài xử
lý các vi phạm. Chẳng hạn, theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 của
Chính phủ Việt Nam qui định về thương mại điện tử (có hiệu lực từ ngày
01/7/2012), trong đó có 4 nhóm hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thương mại
điện tử (trực tiếp gây mất an toàn hay xâm hại quốc gia và các chủ thể khác tham
gia giao dịch thương mại điện tử), gồm: (i) Nhóm các vi phạm về hoạt động kinh
doanh thương mại điện tử như tổ chức mạng lưới kinh doanh, tiếp thị cho dịch vụ
thương mại điện tử, trong đó mỗi người tham gia phải đóng góp một khoản tiền ban
đầu để mua dịch vụ và được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế từ
việc vận động người khác tham gia; lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh
hàng giả, hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; hàng hóa, dịch vụ thuộc

`
29

danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh…; (ii) Nhóm vi phạm về thông tin trên
website thương mại điện tử; (iii) Nhóm vi phạm về giao dịch trên website thương
mại điện tử gồm thực hiện các hành vi lừa đảo trên website thương mại điện tử, giả
mạo thông tin của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để tham gia hoạt động
thương mại điện tử; (iv) Nhóm vi phạm khác như đánh cắp, sử dụng, tiết lộ, chuyển
nhượng, bán các thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân, tổ
chức, cá nhân khác hoặc thông tin cá nhân của người tiêu dùng.
1.1.2. Vai trò và nội dung quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử
1.1.2.1. Quan niệm và vai trò quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử
Quản lý nhà nước về thương mại điện tử là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động thương mại điện tử do các cơ
quan quản lý nhà nước tiến hành để thực hiện chức năng nhiệm vụ do nhà nước ủy
quyền nhằm phát triển thương mại điện tử và đảm bảo cho các hoạt động này được
an toàn, duy trì trật tự, kỷ cương, thực hiện mục tiêu đổi mới cơ bản và toàn diện về
hoạt động quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
Việc nhà nước xây dựng khung pháp lý có vai trò hàng đầu vì nếu như thiếu
một cơ sở pháp lý vững chắc cho thương mại điện tử hoạt động thì các chủ thể tham
gia như doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các
vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để
kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
Quản lý nhà nước về thương mại điện tử nhằm đảm bảo an toàn cho tất cả
các chủ thể tham gia là cần thiết khách quan. Do thương mại điện tử xóa bỏ các rào
cản về không gian và thời gian trong thương mại, tạo nên một thị trường toàn cầu,
rộng lớn nên đồng nghĩa với việc phải đối mặt với nhiều hơn nữa những tồn tại
những hạn chế trong điều tiết, cũng như khắc phục những mặt trái những khuyết tật
của thị trường. Thực tế chỉ ra rằng, bản thân thị trường không thể tự điều chỉnh
trong mọi trường hợp vì thế dẫn tới việc cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát

`
30

triển đề ra. Và ngay bản thân doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử cũng chưa
thể tự giải quyết được nhiều vấn đề nảy sinh như về hợp đồng, môi trường kinh
doanh,… mặt khác nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, trong việc định
hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung, cũng như thương mại điện tử nói riêng
trong từng thời kỳ. Chính vì vậy, nhà nước cần điều tiết, can thiệp vào kinh tế và thị
trường, vào các quan hệ thương mại điện tử nhằm đảm bảo sự ổn định, phát triển và
sự an toàn cho tất cả các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
Để giải quyết các mẫu thuẫn và đảm bảo sự an toàn cho các chủ thể tham gia
vào thương mại điện tử, duy trì sự ổn định thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
thương mại điện tử, cần thiết có vai trò quản lý của nhà nước về thương mại điện tử.
Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình, nhà nước định ra những
quy định riêng cho các chủ thể tham gia được an toàn, đồng thời giải quyết những
mâu thuẫn lợi ích kinh tế phổ biến, thường xuyên và cơ bản, những tiêu cực trong
thương mại điện tử. Quản lý nhà nước về thương mại điện tử tạo lập một môi
trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo sự an toàn về lợi ích của các chủ thể tham
gia. Việc nhà nước tạo ra các chính sách về thương mại điện tử sẽ tạo sự thống nhất
trong tổ chức và phối hợp hoạt động của các cơ quan, doanh nghiệp nhằm đạt được
mục tiêu đã đề ra, phát triển bền vững.
Quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn cho các chủ thể tham gia khi
phải giải quyết các tranh chấp được dựa trên nền tảng là khung pháp lý thương mại
điện tử với các văn bản quy phạm pháp luật từ luật, nghị định cho đến thông tư điều
chỉnh những khía cạnh khác nhau của hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin,
thương mại điện tử và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh hệ thống luật
chuyên ngành, các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động thương
mại điện tử cũng cần tuân thủ những quy định liên quan trong các văn bản quy
phạm pháp luật về kinh doanh, thương mại được thể hiện như sau:
- Nhà nước phải can thiệp, giải quyết một số mâu thuẫn trên thị trường để
cho thương mại điện tử ngày càng phát triển mạnh hơn mà vẫn phải đảm bảo sự an

`
31

toàn cho các chủ thể tham gia. Chính sách can thiệp của nhà nước sẽ là công cụ
quan trọng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bán những sản phẩm dịch vụ.
- Nhà nước phải dựa vào những chuẩn mực của luật pháp để thực hiện cưỡng
chế, thi hành pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại điện tử,
trong việc xử lý tội phạm và các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thương mại
điện tử.

1.1.2.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử
* Xây dựng khuôn khổ pháp lý
Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy để thúc đẩy thương mại
điện tử phát triển và đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thì vai trò của nhà
nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây
dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ
thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho
thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng
túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan nhà nước
cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương mại
điện tử.
Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực có sự kết hợp giữa kinh
doanh thương mại với các phương tiện điện tử, công nghệ thông tin, Internet, viễn
thông cho nên tạo được niềm tin về sự an toàn cho các chủ thể tham gia vào các
quan hệ thương mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những
hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất
một cách chặt chẽ. Những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên
mạng là hiện thực và đòi hỏi nhà nước phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ
thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ dựa trên nền tảng
của hệ thống pháp lý quốc tế về thương mại điện tử trên thế giới. Chẳng hạn:

`
32

- Nhà nước công nhận giá trị pháp lý và các hình thức thông tin điện tử: Đơn
cử như hiện nay theo các quy định của pháp luật Việt nam hình thức văn bản được
sử dụng như là một trong những hình thức chủ yếu trong các giao dịch dân sự,
thương mại và đặc biệt là trong các hợp đồng kinh tế nó là một yếu tố bắt buộc. Tuy
nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và rõ ràng rằng thế nào
là "văn bản". Theo quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ
vẫn hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với
giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử không
được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức của văn bản, thì các hợp
đồng được giao kết trên mạng máy tính giữa các chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu theo
pháp luật của Việt Nam, do không đáp ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý của hợp
đồng. Nếu đòi hỏi các hợp đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình
thức viết và chữ ký tay thì những ưu thế của các giao dịch thương mại điện tử sẽ
không được tận dụng và phát huy. Chính vì vậy việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh
hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử là về phía nhà nước cần phải có sự
ghi nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện
điện tử.
Việc nhà nước ghi nhận giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử có
thể được thực hiện bằng hai cách chính như sau:
+ Thứ nhất, đưa ra khái niệm văn bản điện tử và có những quy định riêng đối
với loại văn bản này.
+ Thứ hai, phải coi các hình thức thông tin điện tử như là các văn bản có giá
trị tương đương với văn bản viết nếu như chúng đảm bảo được các yếu tố: Khả năng
chứa thông tin, các thông tin có thể được lưu giữ và tham chiếu lại khi cần thiết;
Ðảm bảo được tính xác thực của thông tin; Ðảm bảo được tính toàn vẹn thông tin.
- Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử trong các hoạt động
thương mại điện tử: Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận
tính xác thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản.
Có một số đặc trưng cơ bản của chữ ký là:

`
33

+ Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản


+ Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa đựng
trong văn bản.
Trong giao dịch thương mại điện tử, các yêu cầu về đặc trưng của chữ ký tay
có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở thành một thành tố
quan trọng trong văn bản điện tử. Một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt
công nghệ và pháp lý thì chữ ký điện tử phải đáp ứng được sự an toàn và thể hiện ý
chí rõ ràng của các bên về thông tin chứa đựng trong văn bản điện tử. Hiện nay trên
thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng dụng rộng rãi nhằm
nhận dạng và chứng thực cá nhân. Những công nghệ này bao gồm công nghệ số và
mật lệnh nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ thông minh, sinh trắc học, dữ liệu điện tử đơn
giản, chữ ký kỹ thuật số và các kết hợp của những công nghệ này. Luật pháp điều
chỉnh lĩnh vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện
tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định
được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp này để xác
định được độ tin cậy của chữ ký điện tử nhà nước phải thành lập một cơ quan trung
gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ
quan này hình thành nhằm cung cấp một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý
hơn là về mặt công nghệ.
- Nhà nước công nhận vấn đề bản gốc trong thương mại điện tử: Vấn đề "bản
gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản" trong môi truờng kinh
doanh điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của thông tin chứa đựng trong văn bản.
Trong môi trường giao dịch qua mạng thì vấn đề bản gốc được đặt gắn liền với việc
sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện tử không những chỉ xác định người ký
mà còn nhằm xác minh cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong văn bản.
Việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết. Về
mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang nhau về
mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị chứng cứ
của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử đóng một

`
34

vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử và đảm bảo an toàn cho
các chủ thể tham gia thương mại điện tử. Chỉ khi nhà nước xây dựng khuôn khổ
pháp lý và công nhận giá trị của văn bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản
viết truyền thống thì các chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng
một cách thường xuyên văn bản điện tử thay cho văn bản viết truyền thống.
Tóm lại, sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử ngày càng đòi hỏi
công tác quản lý nhà nước cần phải theo kịp với sự phát triển của công nghệ và xu
thế của thời đại. Đơn cử, trong các quan hệ giao dịch thương mại điện tử giữa các
chủ thể ngày càng tăng thì càng phát sinh những vấn đề đặt ra trong công tác quản
lý, đồng thời ngày càng gia tăng số lượng các vụ tranh chấp phát sinh từ các giao
dịch điện tử. Sự gia tăng này đòi hỏi phải có các chế tài thích hợp để có thể giải
quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả về mặt thời gian, chi phí, đồng thời
phải phù hợp với các đặc trưng của thương mại điện tử. Tranh chấp phát sinh trong
thương mại điện tử nhiều khi diễn ra giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau và
trong nhiều trường hợp hàng hoá trong tranh chấp lại được cung cấp ở một nước thứ
ba. Việc lựa chọn luật áp dụng, cũng như địa điểm và cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp là vô cùng khó khăn vì điều này động chạm đến các vấn đề phức
tạp nhất của luật tư pháp quốc tế như nơi diễn ra giao dịch hay nơi có hàng hoá mà
các yếu tố này nhiều khi lại gần như không tồn tại trong thương mại điện tử. Như
vậy, sự phát triển của thương mại điện tử và đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia thương mại điện tử đòi hỏi nhà nước phải tạo lập một môi trường pháp lý hoàn
thiện nhưng lại phải linh hoạt tương ứng với những nguyên tắc, chuẩn mực khác với
thương mại truyền thống.
* Xây dựng, thực thi chiến lược quốc gia đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Vì là giao dịch thương mại trong môi trường điện tử nên các yếu tố về công
nghệ thông tin, Internet đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trở thành một công cụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững của đất nước. Tuy nhiên, song song với
những lợi ích mà thương mại điện tử đem lại, các chủ thể tham gia phải đối mặt với

`
35

nhiều nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn khi điểm yếu của các hệ thống thông tin bị khai thác,
lợi dụng. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an toàn thông tin ngày càng trở nên cấp thiết đối
với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì thế, quản lý nhà nước bằng quy hoạch
mang tính quốc gia là một nhiệm vụ lớn của Nhà nước. Mục tiêu chính của quản lý
nhà nước bằng Quy hoạch là mạng lưới, cơ sở hạ tầng thông tin và các hệ thống
thông tin trọng yếu quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia được đảm bảo an toàn;
các giao dịch chính phủ điện tử, thương mại điện tử đều được thực thi trong môi
trường có độ tin cậy ở mức cao nhất; thông tin, dữ liệu được trao đổi tuân theo các
chuẩn an toàn thông tin. Bên cạnh đó, Quy hoạch cũng đặt ra mục tiêu đảm bảo an
toàn thông tin đáp ứng được nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin nói
riêng, nhu cầu phát triển thương mại điện tử và đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử nói chung. Để thực hiện được các mục tiêu trên, nhà nước quản lý bằng Quy
hoạch trong đó cần thiết phải thực hiện các nhóm giải pháp lớn như sau:
- Nâng cao nhận thức của các cá nhân, tổ chức trong xã hội về vai trò và tầm
quan trọng của việc đảm bảo an toàn thông tin.
- Phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, trong đó chú trọng đào tạo
đội ngũ chuyên gia theo các tiêu chuẩn quốc tế.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách, kiện toàn bộ máy quản
lý nhà nước, hình thành mạng lưới điều phối ứng cứu sự cố về an toàn thông tin trên
phạm vi toàn quốc.
- Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế, tăng cường trao đổi thông tin
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Việc triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch là nhiệm vụ quan trọng của các
cơ quan nhà nước và của cả cộng đồng thương mại điện tử, chẳng hạn như ở Việt
Nam, Bộ Thông tin truyền thông- cơ quan quản lý nhà nước về công nghệ thông tin
và truyền thông, Bộ Công thương- cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử
và Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam, Hiệp hội thương mại điện tử- tổ chức xã
hội nghề nghiệp với vai trò là cầu nối giữa nhà nước và xã hội. Quy hoạch sẽ được

`
36

triển khai thực hiện một cách đồng bộ, kết hợp hài hòa nguồn lực trong nước và
quốc tế, nguồn lực của nhà nước và của xã hội.
Quản lý nhà nước bằng quy hoạch quốc gia về an toàn thông tin cần phải
đảm bảo các mục tiêu như sau:
- Đảm bảo an toàn thông tin cho cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia đạt trình độ
quốc tế, trong đó: (i) Các mạng nội bộ và thiết bị đầu cuối trong cơ quan nhà nước
đều được trang bị các giải pháp kỹ thuật cần thiết và vận hành theo các quy chế, quy
trình tiêu chuẩn hóa để đảm bảo an toàn thông tin; (ii) Các cơ sở dữ liệu quốc gia
đều được trang bị các giải pháp kỹ thuật cần thiết và có các quy chế, quy trình đảm
bảo an toàn thông tin theo tiêu chuẩn quốc tế; (iii) Xây dựng và đưa vào hoạt động
các hệ thống theo dõi, giám sát, cảnh báo những rủi ro về an toàn thông tin trong
toàn quốc; (iv) Hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia bắt buộc phải tuân thủ các
quy định chung về đảm bảo an toàn thông tin cho Chính phủ ban hành. Chính phủ
có cơ chế giám sát và đưa ra đánh giá thường niên về mức độ đảm bảo an toàn
thông tin của hệ thống này; (v) Các mạng nội bộ của doanh nghiệp và tổ chức đều
được thiết kế giải pháp đồng bộ, thích hợp đảm bảo an toàn thông tin cho hệ thống
của mình.
- Đảm bảo an toàn dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin cho các cơ quan
nhà nước ở trung ương, địa phương và toàn xã hội, trong đó: (i) Các hệ thống thông
tin điện tử của các cơ quan nhà nước được kiểm tra định kỳ, đánh giá, kiểm định
hàng năm về mức độ đảm bảo an toàn thông tin theo các tiêu chuẩn do nhà nước
quy định; (ii) 100% trang thông tin điện tử của Chính phủ, các Bộ, ngành và các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có giải pháp hiệu quả chống lại các tấn công
gây mất an toàn thông tin và có phương án dự phòng khắc phục sự cố đảm bảo hoạt
động liên tục ở mức tối đa; (iii) Các dự án ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng
ngân sách phải lập luận chứng về an toàn và bảo mật thông tin ngay từ khi lập kế
hoạch, thiết kế hệ thống thông tin. Các hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước
phải trang bị các giải pháp kỹ thuật an toàn và bảo mật thông tin cùng với quy chế
quản lý kèm theo đối với các cơ quan và người sử dụng. (iv) Các nhà cung cấp dịch

`
37

vụ truyền số liệu và viễn thông có cam kết đảm bảo an toàn dữ liệu trên đường
truyền với chuẩn chất lượng công bố công khai cho các đối tượng sử dụng dịch vụ
của mình; (v) Các nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet và các đại lý phải quản lý
được việc truy cập sử dụng Internet theo quy định của pháp luật; (vi) 100% các giao
dịch điện tử có biện pháp bảo đảm an toàn thông tin. Các dịch vụ thương mại điện
tử mới phải công bố công khai và cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng về an
toàn thông tin trước khi vận hành chính thức.
- Đảm bảo phát triển nhân lực và nâng cao nhận thức xã hội về an toàn thông
tin, trong đó: (i) Xây dựng tiêu chuẩn, kỹ thuật cần thiết cho các chuyên gia trong
lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin. Tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ cấp quốc gia
trên 80% cán bộ quản trị hệ thống của các hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia;
(ii) Người sử dụng các phương tiện và dịch vụ thông tin thường xuyên được thông
báo, cập nhật về những rủi ro mất an toàn thông tin mới phát sinh và có thể báo cáo
các rủi ro này cho các cơ quan có trách nhiệm.
- Đảm bảo môi trường pháp lý về an toàn thông tin, trong đó: (i) Hoàn thiện
môi trường pháp lý về tội phạm trên mạng máy tính, các quy định về điều tra, đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong môi trường mạng máy tính; (ii) Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống môi trường pháp lý trong hoạt động cơ yếu, tạo điều kiện cho
việc phát triển hạ tầng mã khóa công khai và sử dụng mã hóa trong các hoạt động
kinh tế - xã hội; (iii) Xây dựng các tiêu chuẩn về hệ thống mã hóa quốc gia cho
phép quản lý các hệ thống hạ tầng mã khóa công khai, xây dựng hệ thống các tiêu
chuẩn và tiêu chí đánh giá an toàn thông tin cho các hệ thống thông tin.
- Đảm bảo khuyến khích và hỗ trợ việc xây dựng các sản phẩm nội địa về an
toàn thông tin, trong đó: (i) Chú trọng đầu tư và hỗ trợ cho việc nghiên cứu phát
triển các sản phẩm, giải pháp và mô hình dịch vụ nội địa về an toàn thông tin trong
Chương trình Kỹ thuật – Kinh tế về Công nghệ thông tin để bổ sung cho các sản
phẩm nhập khẩu; (ii) Khuyến khích và hỗ trợ để các doanh nghiệp nội địa sớm có
các sản phẩm chống vi rút, ngăn chặn thư rác và các cuộc tấn công trên mạng, phát
hiện các hiểm họa tấn công và có chất lượng ngày càng cao đáp ứng được nhu cầu

`
38

thực tế; (iii) Khuyến khích nghiên cứu phát triển, khai thác mã nguồn mở để tiến tới
làm chủ công nghệ đồng thời thí nghiệm đánh giá kiểm định chất lượng sản phẩm
và giải pháp an toàn thông tin để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng.
* Xây dựng thiết chế và hạ tầng kỹ thuật đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Mục đích nhằm đảm bảo sự tham gia và trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử trong việc
thực hiện các mục tiêu đảm bảo an toàn thông tin trong các hoạt động thương mại
điện tử. Trong đó, Nhà nước đảm bảo xây dựng các thiết chế và hạ tầng kỹ thuật
đảm bảo an toàn thông tin trong thương mại điện tử như sau:
- Hoàn thiện việc xây dựng và ban hành chính sách và hệ thống tiêu chuẩn,
quy trình an toàn trong thương mại điện tử làm căn cứ cho các cơ quan nhà nước và
các doanh nghiệp có mạng nội bộ xây dựng quy chế an toàn thông tin khi giao dịch
thương mại điện tử.
- Thành lập cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thông tin thương mại điện
tử quốc gia có trách nhiệm quản lý, điều phối và hướng dẫn cho các hoạt động đảm
bảo an toàn thông tin trên phạm vi cả nước. Thành lập các đơn vị ứng cứu sự cố
máy tính tại các cơ quan đơn vị và liên kết các nhóm này thành một mạng lưới trên
toàn quốc nhằm ứng phó kịp thời khi xảy ra các sự cố mất an toàn thông tin thương
mại điện tử.
- Xây dựng hạ tầng kỹ thuật bao gồm các hệ thống kiểm soát an toàn thông
tin mạng, chống gửi và phát tán vi rút, thư rác và các phần mềm tạo lỗ hổng và gây
hiểm họa an ninh máy tính, rà soát và khắc phục điểm yếu, phát hiện tấn công và
cảnh báo sớm và các phương án phản ứng ngăn chặn kịp thời khi có các hiểm họa
gây mất an toàn thông tin trong thương mại điện tử;
- Triển khai các hệ thống bảo vệ mạng Internet nhằm đảm bảo phục vụ nhu
cầu học tập, cung cấp thông tin lành mạnh cho người dân; ngăn chặn các thông tin
độc hại.
Ngoài ra, nhà nước cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức
và phát triển năng lực công nghệ về an toàn thông tin bằng các biện pháp:

`
39

- Tổ chức các chương trình đào tạo phổ cập kiến thức và kỹ năng đảm bảo an
toàn thông tin về thương mại điện tử cho toàn xã hội. Sử dụng các phương tiện
thông tin đại chúng, tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo để tuyên truyền nâng
cao nhận thức của người dân về an toàn thông tin trong thương mại điện tử;
- Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng và chương trình đào tạo cần thiết
đối với các chuyên gia an toàn thông tin trong thương mại điện tử, có khả năng theo
dõi, giám sát, phát hiện, cảnh báo sớm và phản ứng kịp thời với những hiểm họa
đồng thời có các kỹ năng cần thiết để đánh giá và kiểm định chất lượng an toàn
thông tin trong thương mại điện tử. Tổ chức đào tạo, cấp chứng chỉ và phát triển đội
ngũ các chuyên gia an toàn thông tin trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và
đội ngũ kiểm định viên;
- Điều tra và bổ sung các dữ liệu về nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực an
toàn thông tin trong thương mại điện tử và tổ chức dự báo về thị trường lao động về
an toàn thông tin trong thương mại điện tử;
- Xây dựng đội ngũ nghiên cứu và phát triển các công nghệ và các giải pháp
đảm bảo an toàn thông tin trong thương mại điện tử và có chính sách nâng cao đội
ngũ này cả về chất lượng và số lượng;
- Đánh giá mức độ an toàn của các sản phẩm an toàn thông tin sử dụng; mức
độ sẵn sàng của các hệ thống đảm bảo an toàn thông tin trong thương mại điện tử
các tổ chức công và doanh nghiệp;
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút các dự án đầu tư nước ngoài trên cơ
sở chuyển giao công nghệ, từng bước thử nghiệm, nghiên cứu và triển khai, tiến tới
làm chủ công nghệ và phát triển các sản phẩm an toàn thông tin.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần triển khai thực hiện các dự án và chương trình về
an toàn thông tin nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, chẳng hạn:
- Xây dựng và triển khai các dự án ưu tiên sử dụng nguồn ngân sách đầu tư
của nhà nước nhằm xây dựng các thiết chế và cơ sở hạ tầng kỹ thuật đảm bảo an
toàn thông tin quốc gia;

`
40

- Các cơ quan nhà nước xây dựng các dự án đầu tư về hạ tầng kỹ thuật đảm
bảo an toàn thông tin theo yêu cầu thực tế và dành một phần kinh phí đầu tư trong
các dự án ứng dụng công nghệ thông tin để trang bị các giải pháp bảo đảm an toàn
trong giao dịch thương mại điện tử;
- Xây dựng chương trình tuyên truyền nâng cao nhận thức về an toàn thông
tin, an toàn trong các giao dịch thương mại điện tử;
- Chú trọng đến các đề án nghiên cứu phát triển sản phẩm, công nghệ, giải
pháp kỹ thuật và đảm bảo an toàn cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong thương mại
điện tử.

* Quản lý, giám sát và chế tài đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Xu thế phát triển thương mại điện tử trên thế giới xuất hiện nhiều những bất
cập trong quản lý khiến kẻ xấu lợi dụng lừa đảo nhiều người. Vì thế, hoạt động
thương mại điện tử cần được quản lý, chế tài chặt chẽ hơn. Nhiều vụ lừa đảo, thiếu
minh bạch trong hoạt động thương mại điện tử đã làm cho nhiều chủ thể tham gia bị
thiệt hại nghiêm trọng. Chẳng hạn, việc lợi dụng kẽ hở có thể thấy vấn đề nổi cộm
trong thời gian qua là việc lợi dụng thương mại điện tử để bán hàng đa cấp, thu lợi
nhuận trái phép mà điển hình là vụ việc liên quan đến trang mạng Muaban24. Sở dĩ
các hoạt động bán hàng đa cấp, giả danh thương mại điện tử như Muaban24 có thể
tồn tại, lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều người là do các đối tượng xấu đã lợi dụng
nhiều kẽ hở về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy chưa được cơ quan chức
năng cấp phép giao dịch thương mại điện tử nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn treo
băng rôn, quảng cáo là sàn giao dịch thương mại điện tử mà không hề bị cơ quan
chức năng kiểm tra, xử lý. Về mua hàng khuyến mãi qua hình thức mua chung giảm
giá, với trách nhiệm quản lý nhà nước, Chính phủ phải ban hành Nghị định về
thương mại điện tử mới, trong đó quy định rõ về chế tài chặt chẽ hơn đối với hoạt
động này. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển nhanh, trong khi đó, liên
quan đến việc quản lý, điều chỉnh, xử lý các hoạt động này cần phải theo kịp với sự
phát triển. Nhà nước cần sớm có quy định mới bám sát thực tế hơn, có chế tài mạnh

`
41

hơn để thương mại điện tử phát triển lành mạnh và quan trọng hơn hết là đảm bảo
an toàn tránh gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia. Theo đó, để quản lý, giám sát
và có chế tài chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 về thương mại điện
tử trong đó, qui định một số hành vi bị cấm trong thương mại điện tử như:
- Vi phạm về hoạt động kinh doanh thương mại điện tử: (i) Tổ chức mạng
lưới kinh doanh, tiếp thị cho dịch vụ thương mại điện tử, trong đó mỗi người tham
gia phải đóng một khoản tiền ban đầu để mua dịch vụ và được nhận tiền hoa hồng,
tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ việc vận động người khác tham gia mạng
lưới; (ii) Lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng giả, hàng hóa, dịch vụ vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ; hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh; (iii) Lợi dụng danh nghĩa hoạt động kinh doanh thương mại điện
tử để huy động vốn trái phép từ các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác; (iv) Cung
cấp các dịch vụ thương mại điện tử hoặc dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng thực
trong thương mại điện tử khi chưa đăng ký hoặc chưa được cấp phép theo các quy
định; (v) Cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử hoặc dịch vụ giám sát, đánh giá
và chứng thực trong thương mại điện tử không đúng với thông tin trong hồ sơ đăng
ký hoặc cấp phép;
- Vi phạm về thông tin trên website thương mại điện tử như: (i) Giả mạo
thông tin đăng ký hoặc không tuân thủ các quy định về hình thức, quy cách công bố
thông tin đăng ký trên website thương mại điện tử; (ii) Sử dụng biểu trưng của các
chương trình đánh giá tín nhiệm website thương mại điện tử khi chưa được những
chương trình này công nhận; (iii) Sử dụng các đường dẫn, biểu trưng hoặc công
nghệ khác trên website thương mại điện tử để gây nhầm lẫn về mối liên hệ với
thương nhân, tổ chức, cá nhân khác; (iv) Sử dụng đường dẫn để cung cấp những
thông tin trái ngược hoặc sai lệch so với thông tin được công bố tại khu vực website
có gắn đường dẫn này.
- Vi phạm về giao dịch trên website thương mại điện tử như: (i) Thực hiện
các hành vi lừa đảo khách hàng trên website thương mại điện tử; (ii) Giả mạo thông

`
42

tin của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để tham gia hoạt động thương mại điện
tử; (iii) Can thiệp vào hệ điều hành và trình duyệt Internet tại các thiết bị điện tử
truy cập vào website nhằm buộc khách hàng lưu lại website trái với ý muốn.
- Các vi phạm khác như: (i) Đánh cắp, sử dụng, tiết lộ, chuyển nhượng, bán
các thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân, tổ chức, cá nhân
khác hoặc thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử khi chưa
được sự đồng ý của các bên liên quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
(ii) Giả mạo hoặc sao chép giao diện website thương mại điện tử của thương nhân,
tổ chức, cá nhân khác để kiếm lợi hoặc để gây nhầm lẫn, gây mất lòng tin của khách
hàng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân đó.
1.2. Hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.2.1. Quan niệm hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử
1.2.1.1. Quan niệm về hiệu lực quản lý nhà nước
Đó là mức độ thực hiện đúng chức năng, quyền lực của cơ quan quản lý nhà
nước để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử khi ban hành các quyết định
đúng thẩm quyền, phù hợp với quy luật khách quan, tác động tích cực đến hoạt
động thương mại điện tử, được cấp dưới, các cơ quan quản lý nhà nước cấp địa
phương và nhân dân thực hiện nghiêm túc nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Hiệu lực của quản lý nhà nước đảm bảo sự an toàn trong thương mại điện tử
được quan niệm là sự tác động có hiệu lực của các cơ quan trong bộ máy quản lý
nhà nước đảm bảo việc thực hiện đúng, kịp thời, có kết quả chức năng, nhiệm vụ
được giao và tuân thủ pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra trong việc đảm bảo an toàn của thương mại điện tử. Ở khía cạnh thực
tiễn, hiệu lực của quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử còn
biểu hiện ở sự nghiêm túc, khẩn trương, triệt để của tổ chức và công dân trong việc
thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với lĩnh vực thương mại điện tử.
Hay nói một cách khác, hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử biểu hiện ở thể chế, tổ chức quản lý, thực thi, triển khai các kế hoạch,

`
43

chương trình, đề án, công tác kiểm tra xử lý đối với lĩnh vực thương mại điện tử có
đạt được hiệu quả hay không.
Quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là khả năng
thực hiện chức năng quản lý xã hội và phục vụ người dân tức là các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử. Các yếu tố cấu thành năng lực để quyết định hiệu
lực quản lý nhà nước bao gồm:
- Hệ thống thể chế, thủ tục hành chính được ban hành có căn cứ khoa học,
hợp lý, tạo nên khuôn khổ pháp lý và cơ chế vận hành đồng bộ, nhịp nhàng, nhanh
nhạy, thông suốt của bộ máy quản lý nhà nước;
- Đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình
độ và kỹ năng hành chính với cơ cấu, chức danh, tiêu chuẩn đáp ứng các yêu cầu cụ
thể của việc thực thi công vụ;
- Tổng thể các điều kiện vật chất, kỹ thuật, tài chính cần và đủ để đảm bảo
cho hoạt động quản lý nhà nước đạt được hiệu quả.
Hiệu lực của quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện
tử phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Đặc điểm tổ chức, vận hành của hệ thống chính trị. Hiệu lực quản lý của bộ
máy hành chính phụ thuộc vào nội dung và phương thức lãnh đạo của Nhà nước, sự
phân công rành mạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Hiệu quả của quản lý nhà nước đạt được sau quá trình tổ chức thực hiện,
kết hợp với kiểm tra, xử lý các hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước trong sự
tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh
tế với hiệu quả xã hội.
1.2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu lực quản lý nhà nước
Các quyết định quản lý nhà nước về việc đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử thể hiện tính hiệu lực lý thuyết ở thời gian có hiệu lực thi hành của chính
sách, pháp luật mà nhà nước đã ban hành như Luật Giao dịch điện tử, Luật Công
nghệ thông tin, Nghị định thương mại điện tử,...Tính hiệu lực của quản lý nhà nước
nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử cũng phải được thể hiện trên thực

`
44

tế ở việc ra quyết định quản lý về thương mại điện tử của nhà nước có được thực thi
ở các cơ quan chức năng có thẩm quyền, trách nhiệm và sự chấp nhận của đối tượng
quản lý hay không? Điều quan trọng là hiệu lực thực tế khi văn bản quản lý đó đi
vào thực tiễn kinh tế và kinh doanh như thế nào? Nếu quyết định quản lý nhằm đảm
bảo an toàn về thương mại điện tử không được chuyển tới đối tượng quản lý kịp
thời hoặc đối tượng quản lý không chấp nhận, không thực thi hoặc thực thi rất
chậm, điều đó có nghĩa là quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện
tử không có hiệu lực hoặc kém hiệu lực.
Tính hiệu lực của quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện
tử còn được thể hiện ở tính hiệu quả của quản lý nhà nước, có nghĩa là mức độ
thành công hay kết quả mang lại so với chi phí nguồn lực đã bỏ ra nhờ có các chính
sách, biện pháp hoặc công cụ quản lý của nhà nước tác động tới việc đảm bảo an
toàn trong thương mại điện tử. Tuy nhiên, rất khó có thể đo lường các đại lượng
trên, nhất là chi phí các nguồn lực. Trên thực tế, hiệu quả của quản lý nhà nước
nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử được nhận biết trực tiếp qua hiệu
lực thực hiện các công cụ và chính sách quản lý của nhà nước. Nó có đáp ứng mục
tiêu hay không và đạt được mục tiêu quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể
tham gia giao dịch thương mại điện tử như thế nào. Mặt khác hiệu quả quản lý nhà
nước còn được đánh giá gián tiếp thông qua tăng trưởng kết và hiệu quả kinh
doanh, hiệu quả hoạt động thương mại điện tử nói chung của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, hiệu quả của quản lý
nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử phụ thuộc vào mức độ chuẩn
xác của việc ra quyết định và hiệu suất triển khai thực hiện quyết định đó của nhà
nước. Nếu quyết định đúng, hiệu suất triển khai cao thì hiệu quả cao và ngược lại ra
quyết định sai, triển khai mạnh mẽ, tích cực sẽ gây tổn thất lớn hoặc nghiêm trọng
cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Trường hợp quyết định đúng, hiệu suất triển
khai thực hiện thấp thì hiệu quả thấp, trường hợp quyết định sai nhưng triển khai có
giới hạn thì mức độ tổn thất nhỏ hoặc không đáng kể.
Bảng 1.1: Bảng nghiên cứu hiệu lực (hiệu quả) quản lý nhà nước

`
45

Ra Quyết định
Đúng Sai
HS triển khai
Cao Hiệu quả cao Hiệu quả thấp

Thấp Tổn thất lớn (nghiêm Thiệt hại mức độ


trọng) (thấp)

Để quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử có hiệu lực,
hiệu quả cao cần chú trọng đến chất lượng của các quyết định và tính hợp lý của bộ
máy tổ chức cũng như năng lực, độ tin cậy của đội ngũ cán bộ công chức trong việc
triển khai đưa các quyết định quản lý đó vào đời sống của cộng đồng kinh doanh và
người tiêu dùng, dân cư. Các quyết định quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn
cho các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử phải đảm bảo kết hợp các
mục tiêu, hài hòa các lợi ích, có tính ưu tiên, ưu đãi trong những trường hợp đối
tượng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi thị trường cụ thể, phải cân đối giữa mục
đích và phương tiện, các nguồn lực sử dụng, thời gian, chương trình, kế hoạch để
triển khai thực hiện mục tiêu. Phải làm tốt công tác truyền thông, giáo dục để các
chủ thể tham gia thương mại điện tử là các đối tượng của quản lý thông hiểu,
chuyển biến nhận thức chấp nhận tác động từ các chính sách hoặc biện pháp quản lý
nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
1.2.2. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu lực và nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.2.2.1. Yếu tố ảnh hưởng tới thể chế về an toàn trong thương mại điện tử
Thể chế quản lý nhà nước đối với thương mại điện tử bao gồm một hệ thống
pháp luật (bao gồm Luật, các văn bản pháp quy phạm pháp luật về thương mại điện
tử) do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Đó chính là cơ sở pháp lý
cho các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp thực hiện quản lý, bảo đảm thống nhất
quản lý nhà nước trên phạm vi quốc gia. Chẳng hạn như ở Việt Nam, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử đang được bổ sung, hoàn chỉnh,

`
46

hoàn thiện. Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin là 2 trụ cột cùng với
các nghị định và thông tư hướng dẫn đã tạo nên một thể chế quản lý nhà nước về
thương mại điện tử. Bổ sung vào đó là các Luật Viễn thông, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng cùng với các nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn thực
hiện cũng tạo nên một sự hoàn thiện hơn về công tác quản lý nhà nước ở dưới góc
độ thể chế. Có thể nhận thấy rằng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực
của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương mại
điện tử là một yếu tố đảm bảo cho hệ thống quản lý nhà nước có thể quản lý tốt đất
nước theo hướng Nhà nước quản lý bằng pháp luật và mọi công dân, mọi thành
phần kinh tế, mọi tổ chức xã hội bình đẳng trước pháp luật.
Việc hoàn thiện thể chế nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là
cơ sở cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhằm đảm bảo an toàn
trong lĩnh vực thương mại điện tử. Một trong những vấn đề quan trọng của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử,
chẳng hạn như ở Việt Nam đó là vấn đề quyền lực và sự phân chia, phân công thực
thi quyền lực đó giữa các cơ quan nhà nước cũng như giữa các cấp chính quyền nhà
nước. Về mặt tổ chức, thể chế xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
thẩm quyền, trách nhiệm cũng như các phương tiện kỹ thuật vật chất, nhân sự cho
các cấp đó hoạt động. Thể chế càng rành mạch thì cơ cấu tổ chức của bộ máy các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp càng rõ ràng và gọn nhẹ. Thiếu các quy định cụ thể,
khoa học trong việc phân chia quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ trong hoạt động
quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ làm cho bộ máy quản lý nhà
nước cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo và sẽ dẫn đến một bộ máy hoạt
động kém năng lực, kém hiệu lực và hiệu quả.
Nghiên cứu phân chia một cách khoa học chức năng, quyền hạn của bộ máy
quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử để huy động cao
nhất mọi khả năng của các chủ thể trong hoạt động quản lý là một trong những vấn
đề và là nội dung quan trọng của thể chế. Hoàn thiện về thể chế chính là cơ sở xác
lập nhân sự trong các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong

`
47

thương mại điện tử. Nếu như chức năng, nhiệm vụ không được xác định một cách
rõ ràng, khoa học thì khó có thể bố trí hợp lý được từng người vào các chức vụ cụ
thể. Thể chế không cụ thể, khoa học sẽ không thể bố trí được cán bộ, công chức
hành chính vào đúng vị trí, những người có năng lực, có trình độ không được bố trí
đúng vị trí trong khi đó có thể bày ra quá nhiều đơn vị với chức năng, nhiệm vụ
chồng chéo hoặc quá vụn vặt để có đủ chỗ bố trí cán bộ một cách lãng phí. Thể chế
được hiểu rõ, quy định cụ thể chức năng quản lý hành chính và quyền ban hành và
giải quyết các đề nghị yêu cầu, khiếu nại tố cáo của công dân từ đó có thể xác định
rõ hệ thống các hoạt động cụ thể: Ai phải làm cái gì, được trao quyền gì và phải làm
như thế nào, do đó có thể bố trí được đội ngũ nhân sự hợp lý.
Nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch trong thương mại
điện tử, thể chế là cơ sở để xác định mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, thương
nhân và các tổ chức trong xã hội. Nhà nước hiểu theo nghĩa hiện đại không có nghĩa
chỉ thực hiện chức năng cai trị mà ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò dịch vụ, chẳng
hạn như cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, các dịch vụ viễn thông, internet để
phát triển thương mại điện tử. Công chức trong bộ máy hành chính nhà nước không
chỉ là người có quyền mệnh lệnh mà còn là “công bộc” của dân, người đầy tớ của
dân, mang tính phục vụ rõ rệt. Các cá nhân, thương nhân, tổ chức đòi hỏi Nhà nước
ban hành các quyết định, tổ chức thực hiện các quyết định về an toàn trong thương
mại điện tử để đáp ứng các loại yêu cầu của các chủ thể tham gia. Sự quyết định
mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, thương nhân và các tổ chức xã hội thể hiện:
- Nhà nước với tư cách quyền lực công, có chức năng tạo ra một khung pháp
lý cần thiết để quản lý hoạt động thương mại điện tử nhằm đảm bảo an toàn. Như
vậy xét trên phương diện này, mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và các tổ
chức xã hội mang ý nghĩa không bình đẳng, có tính bắt buộc, cưỡng bức.
- Nhà nước thể hiện quyền lực nhân dân và thực hiện dịch vụ công, có trách
nhiệm đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu chính đáng của công dân và tổ chức xã hội đã
được pháp luật ghi nhận. Mối quan hệ này, theo quan niệm nhà nước hiện đại để
hiện công dân, tổ chức xã hội là “khách hàng” của nhà nước. Yêu cầu đòi hỏi của

`
48

công dân trong khuôn khổ pháp luật nhà nước quy định bắt buộc Nhà nước phải đáp
ứng. Điều này phản ánh thực sự bản chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân.
Thể chế xác định mối quan hệ giữa nhà nước và công dân cũng phản ánh tính
chất tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Xét về bản chất, người
dân có quyền và nghĩa vụ tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước trong khuôn
khổ pháp luật. Sức mạnh và hiệu lực của thể chế về việc đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử phụ thuộc vào việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với cá
nhân, thương nhân và các tổ chức xã hội.
Ngoài ra, việc hoàn thiện thể chế là căn cứ để xác lập mức độ và phạm vi can
thiệp của nhà nước nhằm đảm bảo an toàn đối với hoạt động của các chủ thể trong
thương mại điện tử để quản lý, điều chỉnh việc sử dụng các nguồn lực của xã hội
một cách có hiệu lực và hiệu quả.
1.2.2.2. Yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi quản lý nhà nước về an toàn trong
thương mại điện tử
Đối với vấn đề quản lý nhà nước trong các hoạt động chính trị, kinh tế, chính
trị nói chung, trong việc đảm bảo an toàn thương mại điện tử nói riêng, Chính phủ
là cơ quan thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho sự phát triển của thương mại điện
tử và sự an toàn của tất cả các chủ thể tham gia. Chẳng hạn như ở Việt Nam, Bộ
Công Thương là cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại điện
tử ở cấp Trung ương. Tại các tỉnh, thành phố thì Sở Công Thương được có chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước ở quy mô địa phương. Quan hệ phối hợp ở cấp
Trung ương là Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Văn hóa thông tin và Bộ Công an. Ở
cấp địa phương là sự phối hợp của các Sở. Hệ thống quản lý nhà nước này có quyền
can thiệp một cách có hiệu quả vào các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử
nhằm đảm bảo sự tham gia một cách hợp pháp, đảm bảo an ninh, an toàn cho các
chủ thể tham gia.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xã hội càng trở nên hiện
đại, tổ chức quyền lực nhà nước để quản lý nhà nước về thương mại điện tử càng

`
49

phải có sự phân công, phối hợp và kiểm soát. Đây là một yêu cầu khách quan do sự
phân công lao động xã hội, do tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động quyền lực và
do sự phát triển của khoa học công nghệ. Chẳng hạn, trong việc sử dụng quyền lực
để ban hành chính sách bảo mật hệ thống mang tính áp đặt đối với các cơ quan cung
cấp dịch vụ công, Nhà nước sử dụng quyền của mình để áp đặt một số tiêu chí, mục
tiêu, phương pháp về chính sách bảo mật hệ thống để đảm bảo an toàn trong các
giao dịch điện tử. Một chính sách về bảo mật luôn có những biến động về cấu hình,
các dịch vụ sử dụng, và ngay cả hệ điều hành mà hệ thống sử dụng hoặc các thiết bị
phần cứng cũng có thể biến động. Bởi vậy, Nhà nước cần phải luôn luôn rà soát,
kiểm tra lại chính sách bảo mật trên hệ thống để phù hợp với thực tế hiện hành. Việc
kiểm tra và đánh giá chính sách bảo mật điều chỉnh và bổ sung giúp công tác quản
lý nhà nước được hiệu quả hơn từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm nhằm cải
thiện hoặc hoàn thiện chính sách bảo mật đã tạo ra.
Việc triển khai thực thi các quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho
các chủ thể giao dịch thương mại điện tử gồm có 2 nội dung chính sau:
- Tổ chức các hoạt động rà soát, kiểm tra nhằm nắm vững tình hình phát triển
thương mại điện tử và đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia làm cơ sở cho việc
triển khai chính sách và thực thi pháp luật về thương mại điện tử.
- Tổ chức những hoạt động kiểm tra về lĩnh vực thương mại điện tử đảm bảo
an toàn, an ninh cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
Bằng cách tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tổ chức các khóa tập huấn về an toàn trong thương mại điện tử cho cán bộ
quản lý nhà nước, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng an toàn thương mại điện tử cho
doanh nghiệp, Nhà nước triển khai phổ biến, tuyên truyền pháp luật để cán bộ quản
lý nhà nước, doanh nghiệp và công dân nắm vững các quy định của pháp luật về
việc đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Trong quá trình triển khai các chính
sách pháp luật về việc đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương
mại điện tử, việc tuyên truyền cũng như thăm dò dư luận cũng giúp các chủ thể kịp

`
50

thời phản ánh những vướng mắc, khó khăn cũng như các quy định chưa hợp lý lên
các cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Nhà nước có thể ban hành các chính sách nhằm phát triển công nghệ thông
tin hỗ trợ thương mại điện tử tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
triển. Đồng thời, triển khai xây dựng kế hoạch ứng dụng và phát triển hệ thống
thanh toán trực tuyến, chứng nhận chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử nhằm
đem lại sự an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử. Căn cứ kế hoạch
cải cách hành chính, chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin của
các tỉnh, thành phố, nghiên cứu, xây dựng các hệ thống phần mềm, phần cứng để
chuyển các thủ tục hành chính lĩnh vực công thương lên môi trường trực tuyến, xác
định độ ưu tiên để triển khai dịch vụ công. Hướng tới cung cấp dịch vụ công trực
tuyến tích hợp các công cụ chữ ký số, xác thực chữ ký số nhằm đảm bảo an toàn,
bảo mật. Song song với việc triển khai các hoạt động trên, Nhà nước củng cố tổ
chức, nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý nhà nước bằng cách triển khai việc
kiện toàn bộ phận chuyên trách về việc đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
Chẳng hạn, một số các hoạt động nhằm hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng thương
mại điện tử, đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp như:
- Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thiết lập và sử dụng hệ thống thư điện
tử với tên miền dùng riêng của doanh nghiệp.
- Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng website thương mại điện tử:
Website thương mại điện tử đóng vai trò là công cụ xây dựng thương hiệu, quảng
bá, kênh truyền thông và công cụ kinh doanh hiệu quả với chi phí thấp.
- Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử nhằm
quảng bá thương hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và
quốc tế.
- Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử thông qua các công cụ
kinh doanh điện tử: Để ứng dụng thương mại điện tử một cách bài bản, an toàn,
hiệu quả, các doanh nghiệp cần tối ưu hóa hoạt động quản lý nội bộ thông qua các
công cụ kinh doanh điện tử như quản lý quan hệ khách hàng, hoạch định nguồn lực

`
51

doanh nghiệp, doanh nghiệp sử dụng, tích hợp các hệ thống này một cách có hiệu
quả nhằm nâng cao năng lực quản lý nội bộ doanh nghiệp, qua đó giúp doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử theo mô hình doanh
nghiệp với khách hàng B2C, đồng thời xây dựng quy trình thu thập thông tin khách
hàng thông qua chứng nhận website thương mại điện tử uy tín. Trong hoạt động
kinh doanh trực tuyến, website sẽ thu thập và sử dụng nhiều thông tin mà đôi khi
khách hàng không muốn công khai vì thế bảo vệ những thông tin cá nhân sẽ giúp
khách hàng yên tâm và an toàn hơn khi giao dịch với website.
- Hỗ trợ doanh nghiệp về đào tạo nhằm hiểu biết pháp luật, quy định quốc tế,
quy định trong nước, các phương pháp đảm bảo an ninh, an toàn khi tham gia vào
các hoạt động giao dịch thương mại điện tử.
1.2.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm tra, giám sát đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử
Thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra nhiều vụ lừa đảo, thiếu minh bạch
trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử làm cho nhiều người bị thiệt hại được
làm rõ và xử lý. Chẳng hạn như ở Việt Nam, qua công tác kiểm tra, xử lý cho thấy,
về mặt thể chế vẫn còn nhiều kẽ hở kẽ hở, chưa thật sự hoàn chỉnh. Có thể thấy vấn
đề nổi cộm trong thời gian qua là việc lợi dụng thương mại điện tử để bán hàng đa
cấp, thu lợi nhuận trái phép mà điển hình là vụ việc liên quan đến trang mạng
Muaban24. Sở dĩ các hoạt động bán hàng đa cấp, giả danh thương mại điện tử như
Muaban24 có thể tồn tại, lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều người là do các đối
tượng xấu đã lợi dụng nhiều kẽ hở về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy
chưa được cơ quan chức năng cấp phép giao dịch thương mại điện tử nhưng nhiều
doanh nghiệp vẫn treo băng rôn, quảng cáo là sàn giao dịch thương mại điện tử mà
không hề bị cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý. Có thể nhận thấy rằng trong Nghị
định 57⁄2006/NĐ- CP, ngày 09/06/2006 của Chính phủ về thương mại điện tử (Nghị
định 57/CP) cũng không có quy định về việc bán hàng đa cấp trong thương mại
điện tử. Vì thế, Muaban24 đã lợi dụng kẽ hở này để lừa đảo, chiếm đoạt hàng trăm

`
52

tỉ đồng của nhiều người. Về việc mua hàng khuyến mãi qua hình thức mua chung
giảm giá, Nghị định 57/CP cũng không đề cập việc quản lý, chế tài đối với hoạt
động này. Kết quả là hàng loạt người tiêu dùng phải gánh chịu hậu quả khi sử dụng
dịch vụ này như mua phải hàng kém chất lượng. Trong khi đó, doanh nghiệp mở
website thương mại điện tử, doanh nghiệp cung cấp hàng hóa trên thương mại điện
tử qua hình thức mua chung thì chối bỏ hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, người
tiêu dùng có khiếu nại thì cũng khó được giải quyết một cách thấu đáo.
Công tác kiểm tra, kiểm soát cho thấy cần có chế tài chặt chẽ hơn, cụ thể
hơn. Chẳng hạn như, hiện nay thương mại điện tử tại Việt Nam đang phát triển
nhanh, nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề đảm bảo an toàn trong giao dịch đang là vấn
đề nổi cộm trong khi đó, liên quan đến việc quản lý, điều chỉnh, xử lý các hoạt động
này có nhiều điểm không còn phù hợp, cần phải điều chỉnh, bổ sung ban hành quy
định mới bám sát thực tế hơn, có chế tài mạnh hơn để tránh gây thiệt hại và đảm
bảo an toàn cho các chủ thể tham gia. Ví dụ như, bổ sung một số hành vi bị cấm
gồm có cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thông qua một mạng lưới kinh doanh,
tiếp thị, trong đó mỗi người tham gia phải đóng một khoản tiền ban đầu để mua
dịch vụ và được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ việc
vận động người khác tham gia mạng lưới. Đồng thời, yêu cầu các website thương
mại điện tử cung cấp dịch vụ khuyến mãi trực tuyến phải xây dựng và công bố trên
website cơ chế tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại của khách hàng về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ được khuyến mãi hoặc hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mãi.
Thương nhân có hàng hóa, dịch vụ khuyến mãi đăng bán cho người dùng trên các
website thương mại điện tử phải cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa,
dịch vụ được khuyến mãi, thực hiện đúng các cam kết về chất lượng hàng hóa, dịch
vụ theo như thông tin đã cung cấp.
Trong thương mại điện tử phổ biến nhiều hành vi vi phạm, một trong những
vi phạm phổ biến là vi phạm trong hoạt động thanh toán. Bởi vậy, để hoàn thiện thể
chế cần bổ sung vào nghị định các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động phát
hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng trong

`
53

thương mại điện tử theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Chẳng hạn, bất cập là
cả Luật Giao dịch điện tử và Nghị định 57 đều đã bỏ qua việc giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại điện tử với các đối tác nước ngoài. Đây là một khiếm khuyết
lớn về mặt nội dung. Bản chất của hợp đồng thương mại điện tử là phi biên giới.
Việc giao dịch giữa hai chủ thể thuộc hai quốc gia khác nhau là hoàn toàn có thể
xảy ra. Khi đó, vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết là tranh chấp từ hợp đồng thương
mại điện tử đó sẽ thuộc sự điều chỉnh của pháp luật nước nào?.
1.2.3. Phương pháp luận đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử
1.2.3.1. Lựa chọn các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước
Vấn đề quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử không
thể tách rời vai trò, chức năng của nhà nước trong quá trình hình thành và vận hành
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế giúp đất nước phát triển bền vững lâu dài.
Một nhà nước làm tốt vai trò, chức năng quản lý phải thực hiện tốt các quyền tự do,
dân chủ của người dân, tôn trọng các quyền con người, thực hiện nhà nước pháp
quyền, phát triển xã hội công dân, thực hiện sự tham gia tích cực của quần chúng
vào quá trình quản lý của nhà nước được phân cấp mạnh mẽ. Để nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước trong phát triển thương mại điện tử nói chung và trong việc đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử nói riêng cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng
phương pháp lựa chọn các tiêu chí đánh giá hiệu lực công tác quản lý nhà nước. Có
thể xem xét và đánh giá dựa theo những nguyên tắc sau:
Sự cởi mở: Các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương tới Địa phương cần
chia sẻ thông tin với công dân và công bố công khai tối đa các hoạt động, chi tiêu
của mình cũng như các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Sự tham gia: Chất lượng và hiệu quả của các chính sách đối với việc đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử phụ thuộc nhiều vào sự tham gia rộng rãi của
các cơ quan quản lý và các chủ thể tham gia.

`
54

Trách nhiệm giải trình: Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động thương
mại điện tử phải giải thích và chịu trách nhiệm về các việc họ làm hay không làm
liên quan tới công tác đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
Hiệu quả: Các chính sách phải được ban hành kịp thời, có kết quả và nhằm
thực hiện những mục tiêu rõ ràng về công tác đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử.
Gắn kết: Các chính sách và hành động phải gắn kết, tương thích với nhau,
phải mạch lạc, dễ hiểu.
Việc xem xét đánh giá về luật pháp có hiệu lực hay không dựa trên bốn
nguyên tắc cơ bản sau đây:
Tính tin cậy và khả năng dự báo: Bảo đảm các quyết định hành chính về an
toàn trong thương mại điện tử đều phải có căn cứ luật pháp vững chắc nhằm triệt
tiêu tính độc đoán, chuyên quyền trong các quyết định hành chính.
Cởi mở và minh bạch: Bảo đảm nền hành chính phải giám sát được từ bên
ngoài nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng cũng như quyền của các chủ thể tham gia.
Trách nhiệm giải trình: Các cơ quan quản lý nhà nước về công tác đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử phải có trách nhiệm trả lời về hành động của mình
trước các cơ quan hành chính, tư pháp, lập pháp và nhân dân.
Hiệu quả và hiệu năng: Các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử
phải đạt được tỷ lệ lành mạnh giữa nguồn lực được sử dụng và kết quả đạt được
cũng như đạt được các mục tiêu đã được xác định.
Hiệu lực của pháp luật trong công tác đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử phụ thuộc vào sự tôn trọng cân bằng lợi ích của
chủ thể thực thi pháp luật và có tính đến ở mức độ nhất định sức mạnh của thói
quen. Các chủ thể trong xã hội thường hành động theo lợi ích của mình, hoặc theo
thói quen, hay theo truyền thống, tập tục dân tộc…. Qua nghiên cứu thực tế triển
khai các quy định của pháp luật cho thấy văn bản pháp luật không xem xét đầy đủ
các yếu tố thực tế trên sẽ có hiệu lực thi hành rất thấp, cho dù cơ quan nhà nước có
nỗ lực nghiêm túc và dành chi phí lớn về nhân tài vật lực cho việc thi hành luật đó.

`
55

Chẳng hạn như ở Việt Nam, quy định về việc bán thịt trong vòng 8h bảo quản ở
nhiệt độ thường sau khi giết mổ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất
hoàn toàn không có hiệu lực và cũng do chính Bộ này phải ban hành quyết định
ngưng hiệu lực thi hành đối với thông tư số 33/2012/TT- BNNPTNT liên quan đến
quy định thịt và phụ phẩm bảo quản ở nhiệt độ thường chỉ được bày bán trong vòng
8h. Như vậy, hiệu lực của pháp luật phụ thuộc vào sự tôn trọng cân bằng lợi ích của
chủ thể thực thi pháp luật, và có tính đến ở mức độ nhất định sức mạnh của thói
quen (như uống rượu không thể cấm tuyệt đối hay khả năng hạn chế hút thuốc lá ở
những nơi công cộng hoặc là thuế suất cho thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp
phải thấp ở mức hợp lý để tạo sự đồng thuận nhất định của các chủ thể là doanh
nghiệp, cá nhân).
Các chế tài nghiêm minh và những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực
thi cũng là điều kiện quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của pháp luật. Ví dụ, để
ngăn chặn các hành vi trốn thuế thì điều kiện tiền đề là kiểm soát được thu nhập,
giảm đến mức thấp nhất giao dịch tiền mặt, không qua sự kiểm soát của các cơ quan
nhà nước. Việc thực hiện luật pháp cũng phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ
quan nhà nước liên quan. Ví dụ việc thực hiện Luật về Sở hữu trí tuệ, Luật về Bảo
vệ môi trường đòi hỏi sự hợp tác của các chủ thể có liên quan trong xã hội trong khi
cơ quan Nhà nước phải có những điều kiện tối thiểu để thực hiện (như phương tiện
phân tích mức độ ô nhiễm, năng lực thanh tra v.v.)
Để đánh giá hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho
các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử, người ta thường xét một số các
điều kiện, tiền đề cần thiết để thực thi pháp luật và để đo lường người ta có thể sử
dụng các tiêu chí định tính và định lượng. Các điều kiện cần thiết đó là:
- Sự hợp lý và đầy đủ của các quy định pháp luật. Chẳng hạn như luật giao
dịch điện tử đòi hỏi các quy định cần thiết, giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu,
chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện
tử, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giám sát, giải quyết
tranh chấp, xử lý vi phạm và các chế tài đủ mạnh để răn đe…

`
56

- Các điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực thi pháp luật. Chẳng
hạn như, trong tình trạng bần cùng và đói khổ quá mức, pháp luật sẽ khó được thực
thi (lũ lụt, thiên tai, thiếu đói….). Còn ngược lại, trong điều kiện cơ sở vật chất tốt,
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì pháp luật thực thi sẽ có hiệu lực, hiệu quả hơn.
- Ý thức của người dân về thực thi pháp luật, sự am hiểu cần thiết để thi hành
pháp luật, đồng thời chế tài phải đủ mạnh để răn đe họ không vi phạm pháp luật.
Nếu sự răn đe quá yếu hay chế tài không đủ mạnh, thậm chí có thể mua bán, thỏa
hiệp được thì hiệu lực thi hành pháp luật sẽ rất thấp.
1.2.3.2. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an
toàn trong thương mại điện tử
Để nâng cao hiệu lực nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử cần
xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử một cách đồng bộ, thống nhất, làm cơ sở
đánh giá đúng thực trạng về sự phát triển của thương mại điện tử nói chung và an
toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử riêng.
Theo từ điển Tiếng Việt, tiêu chí là "tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận
biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm"; hiệu quả là “kết quả đích thực”; còn hiệu
lực là sự đem lại “công dụng, tác dụng tốt và kết quả mĩ mãn trong thực tiễn”. Trên
thực tế, việc phân định một cách rõ ràng giữa hiệu lực và hiệu quả là không đơn
giản, hay nói cách khác, ranh giới giữa hiệu lực và hiệu quả mang tính tương đối.
Hiệu quả và hiệu lực là hai cách diễn đạt ngôn ngữ, ám chỉ những kết quả, tác dụng,
tác động tích cực đạt được từ một hoạt động nào đó. Như vậy, việc phân định đâu là
tiêu chí đánh giá hiệu lực và đâu là tiêu chí đánh giá hiệu quả mang tính tương đối.
Chúng ta có thể hiểu chung rằng, tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước là tập hợp những tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhìn nhận, đánh giá kết
quả, tác dụng (tác động) của công tác quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn
cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước, người ta cũng đánh giá cả vấn đề hiệu
quả đó là xem xét, đánh giá các nguồn lực dành cho hoạt động quản lý nhà nước có

`
57

phù hợp với tầm quan trọng, những kết quả đích thực đạt được và mức độ phức tạp
của công tác quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử hay
không; …Việc đánh giá hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử một cách chính xác, toàn diện là rất khó khăn vì không thể dựa
vào sự so sánh thuần tuý về số học giữa kết quả của các chính sách về quản lý nhà
nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử với những chi phí đầu vào sử dụng
trong quá trình thực thi quản lý nhà nước để đánh giá hiệu quả của hoạt động quản
lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Hơn nữa, công tác quản lý
nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử thường phát huy tác dụng
trong một thời gian dài, kéo theo nhiều những hiệu quả lan tỏa về mặt chính trị,
kinh tế, xã hội, cộng đồng nên khó có thể đánh giá định lượng một cách đầy đủ tính
hiệu lực công tác quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
* Tiêu chí đánh giá hiệu lực theo định tính
Hệ thống tiêu chí sử dụng để đánh giá hiệu lực công tác quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử bao gồm tiêu chí định tính và tiêu chí
định lượng. Trong đó tiêu chí định tính là chủ yếu. Tiêu chí định lượng là những chỉ
số đầu vào và đầu ra của hoạt động có thể tính toán được bằng số lượng cụ thể để so
sánh về mặt số học. Tiêu chí định tính là những dấu hiệu, mức độ, biểu hiện,...
không thể đo đếm được bằng số lượng, không thể so sánh được về mặt số học giữa
trước và sau khi tiến hành thực thi các hoạt động quản lý nhà nước bảo đảm an toàn
trong thương mại điện tử bao gồm thực thi pháp luật và việc triển khai các chính
sách, chương trình, đề án. Hoạt động quản lý nhà nước bảo đảm an toàn trong
thương mại điện tử là phương thức quản lý nhà nước với mục tiêu chủ yếu là định
hướng, xử lý vi phạm, triển khai thực thi chính sách, chương trình, đề án, cung cấp
dịch vụ và tham mưu cho các cơ quan hoạch định chính sách quản lý nhà nước hoàn
thiện cơ chế, chính sách quản lý về an toàn trong thương mại điện tử. Vì vậy, không
thể không sử dụng những tiêu chí định tính nếu muốn đánh giá hiệu lực một cách
đầy đủ, toàn diện công tác quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử.

`
58

* Tiêu chí tổng kết kinh nghiệm thực tiễn


Đánh giá hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an
toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử cần phải dựa vào cơ sở
tổng kết thực tiễn, dựa vào những kết quả đích thực trong công tác thực thi quản lý
nhà nước về an toàn thương mại điện tử trong từng giai đoạn về thời gian nhất định.
Chẳng hạn, tiêu chí cụ thể để đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước từ góc độ
thực thi pháp luật đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử như sau: (i) Sự phù
hợp, đúng đắn khi triển khai xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về an
toàn thương mại điện tử; (ii) Sự am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng và sự
nhiệt tình của đội ngũ cán bộ công chức thực thi công vụ; (iii) Sự bảo đảm tính khả
thi của công tác kiểm tra, xử lý vi phạm về an toàn trong thương mại điện tử.
Từ góc độ đánh giá việc thực thi chính sách, quy hoạch, đề án về an toàn
trong thương mại điện tử có một số tiêu chí như sau: (i) Mức độ tôn trọng và bảo
đảm trên thực tế các quyền lợi về an toàn của các chủ thể tham gia giao dịch thương
mại điện tử; (ii) Mức độ công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của các chương trình, đề
án của nhà nước; (iii) Mức độ về khả năng phát hiện, phản hồi những bất cập từ
việc triển khai các chính sách của cơ quan quản lý nhà nước.
* Tiêu chí đánh giá thi hành pháp luật
Phân tích đánh giá hiệu quả, hiệu lực thi hành pháp luật của cơ quan quản lý
nhà nước có 4 yếu tố: (i) Phương hướng, nội dung và kết quả đạt được về tổ chức và
hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức có
thẩm quyền; (ii) Chi phí về thời gian để tiến hành tổ chức các hoạt động thi hành
pháp luật; (iii) Cách thức hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước và
cán bộ nhân viên nhà nước có thẩm quyền; (iv) Các chi phí về cán bộ, kỹ thuật, xã
hội và tài chính để thi hành và đảm bảo thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước.
Điều quan trọng là phải xem xét kết quả đạt được trên thực tế trong mối quan hệ với
hiệu quả về tổ chức và hiệu lực thi hành pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước.
Tóm lại, cho dù là tiêu chí định tính, định lượng hay tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn thì tiêu chí sử dụng để đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an

`
59

toàn trong thương mại điện tử chỉ mang tính chủ quan và tương đối. Mỗi tiêu chí sử
dụng để đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước có giá trị khác nhau và tuỳ thuộc vào
góc độ đánh giá khác nhau. Những tiêu chí về khắc phục những lỗ hổng, hoàn thiện
cơ chế chính sách nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương
mại điện tử thường có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các cơ quan quản lý nhà
nước, góp phần nhiều hơn trong việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử.
1.2.3.3. Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử trên các phương diện hiệu quả
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả kinh tế
Trên giác độ kinh tế hiệu lực quản lý đảm bảo an toàn trong thương mại điện
tử gắn liền với hiệu quả kinh tế mà sự phát triển thương mại điện tử đem lại. Mặc
dù hiệu lực quản lý nhà nước không đồng nhất với hiệu quả. Hiệu quả được xác
định bằng kết quả trừ đi chi phí. Nhưng hiệu lực quản lý không chỉ dừng lại ở mức
độ đảm bảo quyết định quản lý được thi hành đúng kế hoạch mà còn xác định trên
kết quả đạt được. Một kết quả như mong muốn hoặc vượt kế hoạch cho thấy hiệu
quả kinh tế cao và đảm bảo hiệu lực của quyết định quản lý là thành công. Đồng
thời trong quá trình triển khai kế hoạch nếu có sai lệch nhưng được phát hiện kịp
thời và điều chỉnh hợp lý đem lại kết quả tốt thể hiện quản lý nhà nước đã đi sâu, đi
sát và linh hoạt nhạy bén.
Thương mại điện tử là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và
công nghệ thông tin. Vì vậy, hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với hiệu quả do đầu tư vào
hạ tầng công nghệ của thương mại điện tử. Đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia thương mại điện tử đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế, hạ tầng công nghệ phải
bảo đảm tính hiện hữu, nghĩa là phải có một hệ thống các chuẩn của doanh nghiệp,
của quốc gia và các chuẩn này phải phù hợp với quốc tế. Các chuẩn này gắn với hệ
thống các cơ sở kỹ thuật và thiết bị ứng dụng của quốc gia như một phân hệ của hệ
thống mạng toàn cầu. Cùng với tính hiện hữu, hạ tầng công nghệ của thương mại
điện tử còn phải bảo đảm tính kinh tế, nghĩa là chi phí của hệ thống thiết bị kỹ thuật

`
60

và chi phí dịch vụ truyền thông phải ở mức hợp lý để bảo đảm cho các tổ chức và cá
nhân đều có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả của các hàng hoá và dịch vụ thực
hiện qua thương mại điện tử không cao hơn so với thương mại truyền thống. Đối
với Việt Nam, nền kinh tế đã có những bước phát triển đáng kể, kết cấu hạ tầng đã
từng bước được đầu tư, phát triển. Trong lĩnh vực viễn thông, Nhà nước đã có nhiều
biện pháp, chính sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện cho
thương mại điện tử phát triển và đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia. Mặc dù
nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ
tầng mà đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin, nhưng nhìn chung, nền kinh tế của
nước ta vẫn là một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất công nghiệp quy
mô lớn mới bắt đầu hình thành, năng suất lao động còn thấp, hạ tầng kỹ thuật công
nghệ vừa thiếu lại vừa chưa đồng bộ nên chưa tạo ra được hạ tầng công nghệ tốt
nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử phát triển và đảm bảo an toàn cho các
chủ thể tham gia. Do đó, để xây dựng được hạ tầng công nghệ tiên tiến, đồng bộ
nhằm đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử thì nhà
nước cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hạ tầng công
nghệ. Bên cạnh việc đề ra các mục tiêu mang tính chiến lược cần quan tâm đến các
mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn và các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu đó
cho từng cơ quan, cá nhân có trách nhiệm, tránh tình trạng mục tiêu chung chung,
biện pháp chung chung và người thực hiện không rõ ràng.
Qua phân tích như trên, có thể thấy rằng một quyết định quản lý được đảm
bảo thực hiện về mặt quy trình nhưng đem lại hiệu quả kinh tế thấp thì cũng không
đạt hiệu lực quản lý. Có những kế hoạch được xây dựng chi li và cẩn thận nhưng
khi đi vào triển khai thực tế những yếu tố không kiểm soát được của môi trường bên
ngoài biến động mạnh mẽ vượt dự tính của kế hoạch và cho dù kế hoạch đó có được
thực hiện đúng trình tự thì cũng không thích ứng kịp, ở đó đòi hỏi sự điều chỉnh kịp
thời của nhà quản lý vào các khâu xung yếu đảm bảo mục tiêu được thực hiện. Như
vậy đôi khi làm tăng chi phí quản lý và giảm hiệu quả kinh tế.

`
61

Từ những phân tích trên ta thấy rằng giữa hiệu lực quản lý và hiệu quả kinh
tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đảm bảo cho nhau được thực hiện nhất là trong
việc đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả về mặt pháp lý
Về mặt pháp lý của hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử là nói đến tính đảm bảo thực hiện. Như vậy nó gắn liền với quyền lực
thực tế của nhà quản lý. Với mỗi quyết định hành chính ban hành ra để quản lý
thương mại điện tử họ có quyền chỉ định, cưỡng chế thi hành và được đảm bảo thực
hiện thông qua hệ thống pháp luật, nội quy, điều lệ của tổ chức. Gắn liền với quyết
định quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là những
văn bản hướng dẫn thi hành, mà ở đó quy định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của
từng đối tượng thi hành và những chế tài kèm theo trong trường hợp có sự vi phạm.
Một quyết định được coi là có hiệu lực khi nó được xây dựng đúng quy trình, trình
tự luật định và thống nhất với các văn bản pháp quy của cấp trên và nó được dùng
làm cơ sở để xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy của cấp dưới và được các
đối tượng quản lý phục tùng thực hiện.
Trên thực tế thời gian qua sự bùng nổ của công nghệ thông tin và thương mại
điện tử đặt chúng ta trước những vận hội và thách thức mới. Những lợi thế không
thể phủ nhận của thương mại điện tử đòi hỏi nền kinh tế các nước trên thế giới trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế phải có sự thích ứng nhanh chóng. Tuy nhiên, do
những đặc trưng của thương mại điện tử nên những rủi ro có thể gặp phải trong quá
trình giao dịch của thương mại điện tử không thể chỉ được khắc phục bằng các giải
pháp mang tính công nghệ, kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được khung pháp
lý đầy đủ. Để thúc đẩy thương mại điện tử, Nhà nước phải giữ vai trò tiên phong
trên cả hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng hệ thống văn bản đầy đủ,
thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử. Nếu thiếu các
quy phạm pháp luật thì các doanh nghiệp, người tiêu dùng buộc phải gánh chịu
nhiều rủi ro, thiếu sự an toàn trong giao dịch làm cho lợi thế về tính tiện lợi, về chi
phí của thương mại điện tử sẽ không được phát huy một cách đầy đủ.

`
62

Tuy nhiên, một khối lượng lớn đối tượng của thương mại điện tử là các sản
phẩm trí tuệ mà đặt biệt là các sản phẩm có thể số hoá (phần mềm máy tính, nhạc
phẩm, phim ảnh...). Về mặt kỹ thuật, các chủ thể tham gia có thể nhân bản không
hạn chế số lượng của các sản phẩm đó với chất lượng tương đương bản gốc. Đồng
thời, nó cũng cho phép các chủ thể tham gia có thể chuyển/gửi không hạn chế số
lượng các bản đó đến một số lượng không hạn chế các chủ thể khác trên phạm vi
toàn thế giới chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Thực tế này đặt ra một thách thức lớn
đối với các nhà làm luật, một mặt vừa phải bảo vệ được quyền lợi và khuyến khích
đối với chủ sở hữu, người tạo ra sản phẩm trí tuệ; mặt khác phải bảo đảm việc bảo
vệ đó không làm ngăn cản sự phát triển của thương mại điện tử. Ngoài ra, thương
mại điện tử còn đặt ra nhiều vấn đề pháp lý đối với việc bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu
thương mại, cạnh tranh...
Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử đã làm gia tăng số lượng
các vụ tranh chấp phát sinh từ các giao dịch điện tử. Sự gia tăng này đòi hỏi phải có
các cơ chế thích hợp để có thể giải quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả
về mặt thời gian, chi phí, đồng thời phải phù hợp với các đặc trưng của thương mại
điện tử. Tranh chấp phát sinh trong thương mại điện tử nhiều khi diễn ra giữa các
chủ thể ở các quốc gia khác nhau và trong nhiều trường hợp hàng hoá trong tranh
chấp lại được cung cấp ở một nước thứ ba. Việc lựa chọn luật áp dụng, cũng như
địa điểm và cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là vô cùng khó khăn vì
điều này động chạm đến các vấn đề phức tạp nhất của luật tư pháp quốc tế như nơi
diễn ra giao dịch hay nơi có hàng hoá mà các yếu tố này nhiều khi lại gần như
không tồn tại trong thương mại điện tử. Như vậy, sự phát triển của thương mại điện
tử đòi hỏi một môi trường pháp lý linh hoạt tương ứng với những nguyên tắc, chuẩn
mực khác với thương mại truyền thống.
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả về mặt xã hội
Một quyết định hành chính về quản lý nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo an
toàn cho tất cả các chủ thể tham gia vào thương mại điện tử sẽ không thể đảm bảo
tính hợp lý, không thể đạt hiệu quả kinh tế và không thể có hiệu lực pháp lý cao nếu

`
63

quyết định hành chính đó không được đông đảo mọi người ủng hộ. Vì thế quyết
định hành chính đưa ra phải nhằm giải quyết vấn đề hợp lý, vì mục tiêu chung của
tổ chức và phải gắn lợi ích mọi người với lợi ích của tập thể của tổ chức, có như vậy
quyết định hành chính đó đảm bảo tính được mọi người ủng hộ. Đó là hiệu lực quản
lý nhà nước về mặt xã hội trong thương mại điện tử. Do đó chủ thể quản lý là các
cơ quan quản lý nhà nước khi ban hành quyết định hành chính nhằm quản lý thương
mại điện tử nói chung và đảm bảo an toàn nói riêng cần tính đến lợi ích của các chủ
thể tham gia, của doanh nghiệp và của cộng đồng. Đồng thời, cần phải đưa ra thăm
dò ý kiến của cộng đồng trước khi đưa vào triển khai.
Chẳng hạn như, để thương mại điện tử phát triển và quản lý nhà nước về
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử phát huy tính hiệu lực, hiệu quả cao cần
phải có nhận thức sâu sắc của nhà nước, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến
lược và toàn xã hội về cơ hội phát triển, những lợi ích mà nó mang lại. Nhà nước
nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử, những rủi ro, nguy hại nếu
để mất an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch để nhằm thiết lập môi trường
kinh tế, xã hội và pháp lý đảm bảo an toàn cho thương mại điện tử. Các nhà quản lý,
các nhà hoạch định chiến lược nhận thức được cơ hội, lợi ích cũng như thách thức
về sự an toàn đối với các chủ thể tham gia thương mại điện tử để hoạch định chiến
lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ chiến lược và giải pháp đó để xây
dựng kế hoạch phát triển hạ tầng công nghệ, có chính sách phát triển. Toàn xã hội
nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để tham gia với tư cách là
những chủ thể.
Tóm lại, thương mại điện tử đang trở thành phương thức kinh doanh phổ
biến trên toàn cầu và mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia tham gia. Sự phát triển
của công nghệ thông tin, internet đã tạo điều kiện cho việc ứng dụng thương mại
điện tử vào trong cuộc sống hiện đại. Có thể nói, thương mại điện tử đã trở thành
phương thức kinh doanh phổ biến đại diện cho nền kinh tế tri thức. Xu thế toàn cầu
hoá đã tạo điện kiện thuận lợi để thương mại điện tử có thể phát huy được những
thế mạnh của mình như: đẩy nhanh tốc độ của hoạt động kinh doanh, giảm thiểu các

`
64

chi phí, vượt qua các trở ngại về không gian và thời gian... Tuy nhiên, để có thể
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của thương mại điện tử đảm bảo an toàn cho các
chủ thể tham gia thì nhà nước cần thực thi các giải pháp một cách hiệu quả hơn
trong việc tạo lập các điều kiện về cơ chế, chính sách, về cơ sở hạ tầng pháp lý, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ, về thực thi pháp luật.... cho sự phát triển và đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý quá trình phát triển và đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về quản lý quá trình phát triển và đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Singapore về xây dựng hệ thống chứng thực nhằm đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử
Singapore là một quốc gia có tầm nhìn về định hướng phát triển thương mại
điện tử từ rất sớm. Chính phủ đã đề xuất ra những chính sách và tạo lập khung pháp
lý thông thoáng, tạo một môi trường ổn định, đảm bảo an toàn, có thể dự đoán và
tin cậy cho các hoạt động giao dịch điện tử. Đây là nền tảng vững chắc để tạo ra
một thị trường thương mại điện tử nở rộ, đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia,
mang lại thành công to lớn cho nền kinh tế của quốc gia này. Có thể nhận thấy một
điển hình về hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử đó là chủ trương hoàn thiện về thể chế tạo điều kiện cho thương mại
điện tử phát triển và đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia. Đó là chính sách
triển khai chương trình cấp chứng chỉ số CA (CA- Nhà cung cấp chứng thực số).
Mục tiêu của chương trình cấp phép CA nhằm giúp nâng cao uy tín và độ tin cậy
của các nhà cung cấp, đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện
tử. Để thực hiện mục tiêu này, Singapore phải hoàn thiện đồng bộ Luật Giao dịch
điện tử nhằm tạo ra một khung pháp lý cho các hoạt động giao dịch thương mại
điện tử trong nước và hàng loạt các bộ luật khác để có thể ban hành ra quy định về
cấp phép và quản lý đối với các nhà cung cấp chứng thực số.

`
65

Chương trình cấp phép này mục đích là nâng cao uy tín và sự tin cậy của các
nhà cung cấp CA đã được cấp phép. Một nhà cung cấp CA muốn được cấp phép sẽ
phải đáp ứng các tiêu chuẩn quản lý nghiêm ngặt theo nhiều quan điểm khác nhau,
bao gồm cả độ vững chắc về tài chính, mức độ uy tín, các khả năng kiểm soát và thủ
tục bảo mật chặt chẽ. Chỉ có những nhà cung cấp CA đáp ứng được về các tiêu
chuẩn bảo mật và độ tin cậy cao của nhà quản lý mới được cấp phép. Tiếp sau việc
đưa ra luật Giao dịch điện tử, Uỷ ban Máy tính Quốc gia Singapore đã ban hành các
quy định về quản lý chứng thực số trong các giao dịch điện tử để cấp phép cho các
nhà cung cấp CA tại Singapore. Bộ quy định này đã lập ra một tiêu chuẩn mới về độ
tin cậy và bảo mật trong các dịch vụ của các nhà cung cấp chứng thực số, qua đó
nâng cao khả năng bảo mật trong các hoạt động thương mại điện tử.
Trong thế giới ảo trên Internet, các bên giao dịch nhiều khi không đủ căn cứ
để có thể xác minh đối tác của mình, vì thế các chủ thể tham gia giao dịch rất dễ bị
lừa đảo và không an toàn. Bởi vậy, một nhà cung cấp CA sẽ đóng vai trò quan trọng
của bên thứ ba, đứng ra xác nhận và đảm bảo danh tính cho những cá nhân tổ chức
sử dụng các chứng chỉ số mà mình cung cấp. Khi các bên tham gia vào giao dịch
trực tuyến, nhờ các chữ ký số và những thông tin mà những chứng chỉ số tạo ra, họ
có thể xác minh một cách chắc chắn về danh tính của đối tác mà mình đang giao
dịch. Do vai trò bảo đảm về độ tin cậy rất cao, nên các nhà cung cấp CA sẽ là
những đối tượng được quản lý theo những tiêu chuẩn rất chặt chẽ. Các tiêu chuẩn
nghiêm ngặt về cấp phép chứng thực số sẽ nâng cao độ tin cậy của các chủ thể tham
gia thương mại điện tử đối với dịch vụ CA. Một hệ thống cấp phép sẽ đảm bảo sự
tuân thủ đầy đủ của các nhà cung cấp CA đối với các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về
chứng thực số, đồng thời nâng cao độ tin cậy của các chủ thể tham gia đối với dịch
vụ CA của nhà cung cấp. Đổi lại, các chữ ký điện tử từ nhà cung cấp CA đã được
cấp phép sẽ được công nhận về mặt pháp lý theo Luật Giao dịch điện tử. Một nhà
cung cấp CA được cấp phép cũng sẽ được hưởng những quy định về trách nhiệm
theo Luật Giao dịch điện tử. Nhà cung cấp CA sẽ không phải chịu trách nhiệm về
bất kỳ tổn thất nào do sự tin tưởng vào một chữ ký số giả mạo gây ra, nếu họ vẫn

`
66

đáp ứng đủ các yêu cầu theo Luật Giao dịch điện tử và Quy định quản lý chứng
thực số. Trong trường hợp một nhà cung cấp CA không thực hiện được theo một số
trách nhiệm pháp lý nào đó, họ sẽ chỉ phải có trách nhiệm đối với những gì được
xác định cụ thể trong chứng chỉ CA của mình. Cấp phép cho nhà cung cấp CA chỉ
là bước đầu tiên trong việc thúc đẩy sử dụng các biện pháp chứng thực số. Các nỗ
lực khác nhằm mở rộng và tạo thuận lợi cho việc công nhận các chứng thực số giữa
các quốc gia cũng đã được Singapore thực hiện.
Những chính sách về việc đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử đã đưa
Singapore tiến một bước gần hơn để hoà nhập các chính sách và Luật Thương mại
điện tử xuyên biên giới, cho phép các doanh nghiệp có thể tin tưởng nhiều hơn khi
thực hiện các giao dịch điện tử với những đối tác nước ngoài. Thị trường thương
mại điện tử phát triển càng đẩy mạnh tốc độ phát triển của nền kinh tế Singapore.
Ba lĩnh vực phát triển mạnh nhất của thương mại điện tử theo hình thức B2B của
Singapore là tài chính ngân hàng, bán buôn-bán lẻ và sản xuất. Ba lĩnh vực phát
triển mạnh nhất trong thương mại điện tử theo hình thức B2C của Singapore là tài
chính ngân hàng, kinh doanh và bất động sản, khách sạn và nhà hàng.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạch định chiến lược và thực thi chính
sách nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Hàn Quốc là một quốc gia rất quan tâm tới sự phát triển của thương mại điện
tử và các vấn đề liên quan đến an toàn, bảo mật trong thương mại điện tử. Chính vì
thế, khi thương mại điện tử bắt đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt tay vào xây dựng
ngay "Đạo luật cơ bản về thương mại điện tử". Chính sách đi kèm với đạo luật này
được ban hành đó là “Chính sách toàn diện cho thương mại điện tử” với mục tiêu
Chính phủ đóng vai trò tích cực trong toàn cầu hóa của kinh doanh điện tử, thúc đẩy
thương mại điện tử như một phương tiện để thực hiện đổi mới cơ cấu của ngành
công nghiệp của nó và tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty Hàn Quốc.
Như vậy, chiến lược thương mại điện tử của Hàn Quốc được xây dựng trong tầm
nhìn rộng lớn phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Mặc dù sự phổ biến đầu tiên là
hình thức B2C, nhưng Hàn Quốc cũng tập trung phát triển hình thức thương mại

`
67

điện tử B2B. Chiến lược với các mục đích là sự thống trị toàn cầu bằng cách sử
dụng thị trường nội địa như một đòn bẩy và mô hình mẫu. Sau chính sách toàn diện
cho phát triển thương mại điện tử, một số chính sách quan trọng khác đã được ban
hành như: Chuẩn bị khuôn khổ pháp lý, ví dụ như chuẩn bị và sắp xếp hợp lý các
khung pháp lý cho thương mại điện tử, tài chính điện tử, công chứng điện tử, bảo vệ
người tiêu dùng và giải quyết các tranh chấp quốc tế,….

* Chính sách phát triển hạ tầng công nghệ


Chính phủ có nhiều chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
thương mại điện tử, đặc biệt là tạo nền tảng hạ tầng môi trường công nghệ thông tin
đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ như, nâng cao khuôn khổ pháp lý để tiến tới nền kinh
tế số, phát triển các yếu tố cơ sở cho thương mại điện tử, phát triển các ngành nghề
mới liên quan đến thương mại điện tử, số hóa các ngành kinh tế, củng cố các dịch
vụ sử dụng công nghệ thông tin và toàn cầu hóa thương mại điện tử. Trong môi
trường kinh tế toàn cầu chuyển đổi nhanh, Hàn Quốc định hướng dùng thương mại
điện tử để tăng tính cạnh tranh của các ngành kinh tế trên thị trường thế giới. Chính
phủ Hàn Quốc đã thiết kế "Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử" vào
năm 2000 và "Sáng kiến thương mại điện tử Hàn Quốc" năm 2001, tạo nền tảng để
Chính phủ triển khai đồng bộ và nhất quán các chính sách và chương trình thúc đẩy
thương mại điện tử. Để phát triển thương mại điện tử liên tục, cơ sở hạ tầng phải
sẵn sàng với 3 yếu tố cơ bản: công nghệ, nguồn nhân lực và các tiêu chuẩn thương
mại điện tử. Chính phủ Hàn Quốc đã thiết kế nhiều chương trình khác nhau để hỗ
trợ phát triển các yếu tố này. Chính phủ cũng đưa ra "Bản đồ công nghệ thương mại
điện tử" phản ánh những xu hướng công nghệ thương mại điện tử trên thế giới và
tại Hàn Quốc, từ đó làm định hướng phát triển chung về công nghệ thương mại điện
tử cho doanh nghiệp trong nước.
* Chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp lý về thương mại điện tử
Chính phủ Hàn Quốc đã chuẩn bị một loạt các đạo luật thương mại điện tử
và liên tục nâng cao khuôn khổ pháp lý thương mại điện tử bằng cách chỉnh sửa luật

`
68

hiện hành, ban hành luật mới. Các đạo luật chính liên quan đến thương mại điện tử
đã được ban hành tại Hàn Quốc:
- Luật khung về thương mại điện tử được ban hành năm 1999, sửa đổi năm
2002, 2005 đã tạo khung pháp lý trụ cột vững chắc cho các bộ luật khác về thương
mại điện tử ở Hàn Quốc. Có thể thấy rằng, ngay từ đầu khi xác định kế hoạch và lộ
trình phát triển thương mại điện tử, đứng trên góc độ quản lý nhà nước, Hàn Quốc
đã rất coi trọng tới việc xây dựng và hoàn chính hệ thống hạ tầng cơ sở pháp lý làm
tiền đề cho tất cả các hoạt động về thương mại điện tử.
- Luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử: Ban hành năm 2002
và sửa đổi năm 2005.
- Luật chữ ký điện tử: Ban hành năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005; Luật
phát triển ngành đào tạo điện tử: Ban hành năm 2004; Luật phát triển ứng dụng
mạng công nghệ thông tin và truyền thông và bảo vệ thông tin: Ban hành năm 1999,
sửa đổi năm 2002, 2004 và 2005; Luật khuyến khích ngành nội dung số trực tuyến;
Luật sản phẩm trò chơi, hình ảnh và âm thanh; Luật về các nguồn địa chỉ Internet;
Luật bản quyền; Luật Chính phủ điện tử; Luật bảo vệ chương trình máy tính…
* Chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực thương mại điện tử
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra "Kế hoạch phát triển nhân lực thương mại
điện tử" và tiếp đó là một loạt chương trình hỗ trợ chia thành 2 loại: 1. Nâng cao hệ
thống và mở rộng cơ sở hạ tầng phát triển nhân lực thương mại điện tử; 2. Hỗ trợ
các môn học thương mại điện tử. Các chương trình này có thể kể đến: hỗ trợ đại học
xây dựng giáo trình thương mại điện tử, đào tạo nhân lực thương mại điện tử cho
địa phương, xây học viện ảo cho phụ nữ tham gia thương mại điện tử, hỗ trợ học
thạc sỹ thương mại điện tử. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó
khăn trong ứng dụng thương mại điện tử do thiếu tài chính, nhân sự và chiến lược
dài hạn. Vì vậy Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai chương trình thông tin hóa cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ từ những năm 2001 và chương trình này đã tư vấn và hỗ
trợ tin học hóa sản xuất, kinh doanh cho hơn 30.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc còn củng cố các dịch vụ công sử dụng công nghệ

`
69

thông tin như xây dựng hệ thống G4B - cổng dịch vụ một cửa của Chính phủ dành
cho doanh nghiệp, hệ thống giao tiếp G4F - cổng dịch vụ một cửa với người nước
ngoài, thành lập hệ thống thương mại phi giấy tờ... Những kế hoạch của Hàn Quốc
được triển khai rất đồng bộ và nhất quán. Bên cạnh đó các chính sách, chương trình
hỗ trợ cũng được kịp thời ban hành và thực hiện không chỉ ở các thành phố lớn, mà
còn ở rất nhiều địa phương khác. Hàn Quốc đã đặc biệt chú trọng và không ngừng
tin học hóa cải cách hành chính nhà nước. Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ
luôn là đầu tầu gương mẫu về ứng dụng công nghệ thông tin đặc biệt là trong việc
cung cấp các dịch vụ công. Trong lộ trình thúc đẩy sự phát triển của thương mại
điện tử, Hàn Quốc triển khai quyết liệt việc thành lập các cơ quan đặc biệt để quản
lý, hỗ trợ các phương thức giao dịch điện tử, hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp
với những khả năng sử dụng công nghệ mạng tốc độ cao. Ngoài ra, ban hành các
chính sách để hỗ trợ tích cực cho ngành công nghiệp công nghệ thông tin để phát
triển các dịch vụ cơ sở hạ tầng như hệ thống an ninh, ủy thác, dịch vụ hướng dẫn, hệ
thống thanh toán trực tuyến và các dịch vụ thương mại điện tử trung gian khác.
* Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công
Chính phủ điện tử là sự thể hiện cho thương mại điện tử trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ công theo hình thức G2G, G2B, G2C. Vì thế, để phát triển thương mại
điện tử và thực hiện tốt quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho lĩnh vực này, Chính
phủ Hàn Quốc đặc biệt quan tâm với việc phát triển Chính phủ điện tử, coi việc
cung cấp các dịch vụ công của Chính phủ như một hoạt động thương mại điện tử.
Hệ thống này có những điểm khác biệt, đặc biệt chính sách phát triển hạ tầng công
nghệ, hạ tầng pháp lý đảm bảo an toàn cho thương mại điện tử. Chính phủ điện tử
được định nghĩa là một hình thức sử dụng hệ thống mạng để xử lý tất cả các công
việc thường ngày của chính phủ và các cơ quan nhà nước. Nó ra đời đã giúp đơn
giản hóa nhiều hoạt động của các cơ quan nhà nước, giúp người dân tiếp cận với
chính quyền một cách tiện lợi mà không hề có giới hạn về thời gian và không gian.
Ví dụ như hệ thống hành chính dân sự điện tử của Bộ Hành chính và an ninh, hệ
thống tổng hợp điện tử của Tổng cục thuế, hệ thống đăng ký và cấp bằng sáng chế

`
70

điện tử của Cục Sở hữu trí tuệ, và hệ thống tìm việc điện tử của Bộ Lao động. Như
vậy, chính phủ điện tử là một hệ thống giúp giải quyết các công việc hành chính
nhanh hơn, chính xác hơn qua internet. Việc xử lý qua internet như thế còn đảm bảo
sự công bằng, nâng cao tính minh bạch trong bộ máy công quyền là cơ sở gắn kết
hoạt động của các cơ quan, ban ngành liên quan.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển các hình thức tổ chức hoạt động
thương mại điện tử nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Khi nhắc đến sự phát triển thương mại điện tử, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến Mỹ
với các trang mua bán trực tuyến nổi tiếng như Amazon, Ebay, Paypal. Thế nhưng
trong 5 năm trở lại đây, lĩnh vực thương mại điện tử ở Trung Quốc phát triển ngày
càng mạnh với sự nổi lên của trang web bán hàng trực tuyến Alibaba. Trang web
này là sự điển hình về việc xây dựng niềm tin cho khách hàng về thương mại điện
tử đồng thời đem lại sự tin tưởng của khách hàng về sự an toàn khi tiến hành các
giao dịch thương mại điện tử ở Trung Quốc. Thực tế, các mô hình thương mại điện
tử Trung Quốc đang sử dụng đa số bắt nguồn từ Mỹ, ví dụ như trang web dang-
dang.com được xem như phiên bản Trung Quốc từ trang web thương mại điện tử
amazone của Mỹ, trrang web Taobao học tập theo mô hình của trang web Ebay
cũng của Mỹ, ngay cả trang web thanh toán trung gian Alipay do Alibaba phát triển
cũng mang phong cách, hình ảnh của Paypal…. Thương mại điện tử Mỹ cung cấp
cho chúng ta mô hình phát triển hoàn thiện nhưng thương mại điện tử Trung Quốc
giúp chúng ta hiểu hơn làm sao để quốc nội hóa mô hình phương Tây để phù hợp
hơn với tâm lý người tiêu dùng bản địa.
Xây dựng niềm tin nơi khách hàng: Khi mua hàng trực tuyến, khách hàng rất
quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng có xu hướng tin vào những gì
người khác nói, đặc biệt là những người đã từng mua sản phẩm, hơn là lời khẳng
định hàng chính hãng từ phía doanh nghiệp. Chính vì thế các trang web kinh doanh
trực tuyến ở nước ngoài đều chú trọng nâng cao tương tác trong giao dịch. Hiện tại,
loại hình này đã bắt đầu manh nha ở Việt Nam nhưng mới chỉ dừng lại ở tự phát
chứ chưa đi vào hệ thống. Kích thích người dùng bình luận sản phẩm không chỉ

`
71

giúp minh bạch hóa các mối quan hệ giữa khách hàng và doanh nghiệp mà còn thúc
đẩy mạnh việc trao đổi kinh nghiệm mua sắm giữa khách hàng và khách hàng. Đó
là dẫn chứng về việc xây dựng niềm tin nơi khách hàng khi tiến hành các giao dịch
thương mại điện tử, để có được niềm tin đó, đương nhiên khách hàng tham gia giao
dịch thương mại điện tử phải thực sự cảm thấy an toàn.
Thực hóa người dùng ảo: Khi vào trang eBay, chỉ đơn giản cung cấp địa chỉ
email là người dùng đã có tài khoản. Thế nhưng trên Taobao, người dùng buộc phải
sử dụng tên thật để đăng ký, các thông tin về số điện thoại, địa chỉ được đưa vào cơ
sở dữ liệu khách hàng. Khác với người Mỹ, người tiêu dùng Trung Quốc không
nhạy cảm lắm với các vấn đề thông tin cá nhân. Doanh nghiệp thương mại điện tử
Trung Quốc nhanh chóng tận dụng tâm lý này để tiến hành cá nhân hóa trực tuyến.
Tài khoản Taobao với tên thật sẽ đồng bộ hóa với tài khoản thanh toán trực tuyến
Alipay. Đối tượng mua hàng trực tuyến ở Trung Quốc rất đa dạng. Người nghèo thì
muốn kiếm sản phẩm rẻ, tầng lớp trung lưu thì muốn săn hàng hiệu giảm giá, người
giàu thì muốn thông qua các trang mua bán quốc tế nhanh chóng sở hữu những sản
phẩm tiên tiến nhất. Vì thế thông qua thống kê của Alipay, căn cứ vào từ khóa,
lượng tiền tiêu, Taobao dễ dàng phân tích hành vi tiêu dùng từ đó hoàn thiện dữ liệu
khách hàng để giới thiệu những sản phẩm hợp với sở thích và giá cả tương ứng với
hoàn cảnh kinh tế của người dùng.
Kích thích khát khao mua hàng của người tiêu dùng: Các hoạt động kích
thích mong muốn mua hàng thường được tiến hành trước khi các đợt giảm giá diễn
ra. Chẳng hạn, 11/11 là ngày đại khuyến mãi ở Trung Quốc. Trong năm 2012, từ
ngày 5/11 đến 10/11, Alipay tung ra chiến lược tặng tiền may mắn nếu khách hàng
nạp tiền vào các giờ tròn trong ngày. Chỉ riêng doanh thu trực tuyến của trang web
Taobao đã cán mức 3 tỷ đô la. Taobao sở dĩ thành công là vì Alipay là loại hình chi
trả chủ yếu ở Trung Quốc. Nhưng tại Việt Nam, người tiêu dùng vẫn thường chọn
hình thức nhận hàng rồi mới thanh toán, các dạng ví điện tử chưa được phát triển
tương xứng với tiềm năng. Vì thế sự phát triển đồng bộ giữa doanh nghiệp và nhà
cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến là cực kỳ cần thiết để chuyên nghiệp hóa

`
72

thương mại điện tử. Các phương thức kích thích mong muốn mua hàng được vận
dụng rất đa dạng. Cảm giác cạnh tranh với khách hàng giống như bàn tay vô hình
đẩy người tiêu dùng đến gần hơn với quyết định mua hàng, nhưng quan trọng hơn
nó còn giúp tăng tính trải nghiệm cho người mua trực tuyến để việc mua online
không đơn thuần chỉ là bấm “chuột” và hàng tới nhà.
1.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm nước ngoài về việc
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.3.2.1. Bài học về xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông,
internet, nhân lực và cơ sở hạ tầng pháp lý phát triển cùng với sự phát triển của
thương mại điện tử
Qua kinh nghiệm về hoạch định chiến lược và thực thi chính sách của Hàn
Quốc, có thể thấy rằng, khi thương mại điện tử bắt đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt
tay vào xây dựng ngay nền tảng khung pháp lý bằng "Đạo luật cơ bản về thương
mại điện tử" và đồng thời ban hành hàng loạt các chính sách, ví dụ như “Chính sách
toàn diện cho thương mại điện tử” với mục tiêu Chính phủ đóng vai trò tích cực
trong toàn cầu hóa của kinh doanh điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử như một
phương tiện để thực hiện đổi mới cơ cấu của ngành công nghiệp của nó và tăng
cường khả năng cạnh tranh của các công ty Hàn Quốc. Như vậy, Hàn Quốc đã rất
thành công trong việc tận dụng cơ hội để phát triển thương mại điện tử. Bài học cho
Việt Nam, đó là khi hoàn thiện về thể chế, rõ ràng sẽ kéo theo các cơ hội khác về
việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, internet, nhân lực để
phục vụ phát triển thương mại điện tử và đảm bảo sự an toàn cho các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử.
1.3.2.2. Bài học về xây dựng và triển khai chính sách
Khi quản lý nhà nước ngày càng hoàn thiện và phát huy được tính hiệu lực
nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử, rõ
ràng đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất đó là các doanh nghiệp, người tiêu dùng
và toàn thể xã hội. Chẳng hạn, qua nghiên cứu mô hình quản lý phát triển các hình
thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử của Trung Quốc, có thể thấy rằng, Chính

`
73

phủ Trung Quốc đã rất nỗ lực trong việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp thương mại
điện tử phát triển, tạo ra các cơ chế, chính sách để doanh nghiệp thương mại điện tử
xây dựng uy tín, đẩy mạnh kinh doanh, đem lại niềm tin tiêu dùng trong thương mại
điện tử của khách hàng… Thông qua các chính sách quản lý phát huy được tính
hiệu lực, hiệu quả, các doanh nghiệp thương mại điện tử của Trung Quốc phát triển
mạnh và trở thành những doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt sự phát triển đi lên
của thương mại điện tử nói chung và tạo ra nhiều những sản phẩm phục vụ cho lợi
ích chung của cộng đồng nói riêng. Đối với Việt Nam, Nhà nước cũng cần phải
nghiên cứu, ban hành những chính sách tương tự, đặc biệt là xây dựng những doanh
nghiệp thương mại điện tử lớn có vai trò định hướng, dẫn dắt sự phát triển nói
chung của thương mại điện tử. Khi đạt được mục tiêu như trên sẽ tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn thể xã hội được hưởng những lợi ích từ
thương mại điện tử đem lại.
1.3.2.3. Bài học về tìm kiếm cơ hội trong thương mại điện tử góp phần đẩy mạnh
phát triển kinh tế đất nước.
Khi thương mại điện tử phát triển, có nghĩa là hoạt động quản lý nhà nước về
lĩnh vực này phát huy tính hiệu lực, hiệu quả trong việc đảm bảo cho các chủ thể
tham gia thương mại điện tử được an toàn. Thương mại điện tử phát triển sẽ kéo
theo sự phát triển của cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin, internet, nhân
lực đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng. Bên cạnh đó là sự phát triển lan tỏa trong
các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế của từng khu vực, địa phương và của cả đất
nước. Có thể thấy rõ qua nghiên cứu kinh nghiệm từ mô hình của Hàn Quốc, sự
phát triển của thương mại điện tử nói riêng đã kéo theo sự phát triển chung của cả
nền kinh tế Hàn Quốc. Hàn Quốc còn chủ trương phát triển một hệ thống mua sắm
điện tử gọi là “Chợ quốc gia”. Trước đây, các doanh nghiệp thường mất nhiều thời
gian đến từng cơ quan nhà nước để tìm hiểu thông tin về quy trình thủ tục dự thầu
hoặc tiến hành dự án nào đó. Nhưng giờ đây, tất cả các bước này đã được “điện tử
hóa” với cổng thương mại điện tử cấp Chính Phủ. Chính phủ điện tử của Hàn Quốc
đã phát triển đến mức có thể thực hiện quy trình phức tạp này một cách chính xác,

`
74

đơn giản, trong khi nhiều nước khác mới chỉ dừng ở mức nộp các hồ sơ dự thầu trên
chính phủ điện tử mà thôi. Hệ thống “Chợ quốc gia” nói trên đã giúp đơn giản hóa
quy trình giải quyết các thủ tục, nhờ đó, hiện nay chỉ với 1 tờ đơn đăng kí, ta có thể
giải quyết khoảng 42 loại công việc hành chính khác nhau. Các thủ tục xuất nhập
khẩu hàng hóa trước kia bị chi phối bởi các cơ quan ban ngành khác nhau thì nay
cũng được giải quyết nhất quán qua hệ thống dịch vụ một cửa. Đó chính là những
yếu tố đem lại sự thành công về mặt thúc đẩy các ứng dụng của công nghệ thông tin
và thương mại điện tử trong việc quản lý nhà nước của Hàn Quốc đồng thời thúc
đẩy phát triển thương mại điện tử nói chung và đảm bảo sự an toàn cho các thủ thể
tham gia giao dịch thương mại điện tử nói riêng.
Ở Việt Nam, có thể nghiên cứu về mô hình này để áp dụng trong việc tạo ra
các chính sách thúc đẩy phát triển thương mại điện tử và đảm bảo an toàn cho các
chủ thể tham gia. Với một thị trường có 35 triệu người dùng Internet, rõ ràng đây là
một thị trường tốt và có nhiều cơ hội cho sự phát triển của thương mại điện tử. Các
doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước cơ hội tăng doanh thu nhờ biết tận dụng
lợi thế của thương mại điện tử. Học tập theo mô hình của Hàn Quốc, Việt Nam
cũng phát triển các sàn giao dịch thương mại điện tử quốc gia, cũng có thể gọi là
“Chợ quốc gia” về giao dịch thương mại điện tử. Các sàn giao dịch nhỏ khác cũng
xuất hiện và phát triển theo xu hướng tăng nhanh. Thông qua ví dụ từ mô hình của
Singapore, Việt Nam cũng rút ra bài học trong việc xây dựng môi trường thương
mại điện tử rộng mở, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia, cũng như
sự đảm bảo về độ tin cậy trong các giao dịch và đảm bảo về sự an toàn cho các chủ
thể tham gia thương mại điện tử. Rõ ràng, không thể phủ nhận vai trò và tầm quan
trọng của quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn thương mại điện tử. Quản lý
nhà nước có hiệu lực, hiệu quả sẽ giúp thương mại điện tử phát triển, giúp doanh
nghiệp và người tiêu dùng phòng tránh được những nguy cơ tiềm ẩn của tội phạm
công nghệ cao. Tất nhiên, để các chủ thể tham gia thương mại điện tử được an toàn,
thương mại điện tử phát triển vững chắc thì vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm như:
hoàn thiện về thể chế, phát triển nền tảng hạ tầng công nghệ, đẩy mạnh đầu tư, đẩy

`
75

mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về an toàn trong thương mại điện tử…Với
những quốc gia đang đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử như Việt Nam, xây
dựng niềm tin, sự an toàn cho các chủ thể tham gia như Hàn Quốc, Singapore hay
Trung Quốc sẽ là những bài học kinh nghiệm quý báu cần được quan tâm và đánh
giá nghiêm túc.
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO AN TOÀN
TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát thực trạng về an toàn và quản lý nhà nước đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng về an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.1.1. Cơ sở hạ tầng cho an toàn thông tin
Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông đã và đang phát triển mạnh mẽ
tại Việt Nam. Theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam- VNNIC, tính đến
tháng 12/2010 số người sử dụng Internet tại Việt Nam đã lên tới con số 26,7 triệu
người, chiếm khoảng 31,1% dân số cả nước. Tổng dung lượng kênh kết nối quốc tế
của Việt Nam là 129.877 Mbps, tổng dung lượng kết nối trong nước là 245.857
Mbps. Một số lượng lớn các doanh nghiệp, cơ quan và tổ chức đã có hệ thống mạng
và website riêng. Ước tính đến hết tháng 12/2010, có 180.870 tên miền đuôi .vn,
5566 tên miền tiếng Việt và 12.645.440 địa chỉ Ipv4 đã được cấp. Tuy nhiên, tại
Việt Nam sự phát triển nhanh chóng của Internet chưa kết hợp với các giải pháp an
toàn thông tin tương ứng. Các sự cố lớn gần đây với mạng Internet như sự cố phân
giải tên miền, lan truyền mã độc, xâm nhập hệ thống, từ chối dịch vụ, tấn công
website đều là minh chứng cho điều này và đang trở thành vấn đề lớn cho an toàn
thông tin tại Việt Nam.
Theo thống kê của trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam, trong
năm 2010 trung tâm đã xử lý tổng cộng 243 sự cố tấn công mạng trên cả nước,
trong đó có 173 vụ website lừa đảo, 8 vụ mã độc, 47 vụ tấn công xâm nhập hệ thống
và thay đổi nội dung, 3 vụ tấn công từ chối dịch vụ, 5 vụ tấn công thăm dò và 7 vụ

`
76

khắc phục sự cố khác. Năm 2010, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam đã tiến hành
khảo sát 500 tổ chức, doanh nghiệp nhằm đánh giá mức độ nhận thức và bảo vệ an
toàn thông tin trong các tổ chức này. Các câu hỏi tập trung tìm hiểu khả năng nhận
biết và các biện pháp phòng chống đối với những mối đe dọa tấn công qua môi
trường mạng vào hệ thống thông tin của tổ chức, doanh nghiệp. Kết quả khảo sát
cho thấy nhận thức chung về an toàn thông tin của doanh nghiệp chưa cao, thể hiện
qua các thông số: Khả năng nhận biết tấn công còn thấp, không rõ động cơ tấn
công; Không định lượng được thiệt hại khi bị tấn công; Đa số không có quy trình
thao tác chuẩn để phản hồi lại những cuộc tấn công máy tính và chỉ thông báo nội
bộ khi xảy ra sự cố.
Hình 2.1: Thống kê của VNISA về các hình thức tấn công Internet

Nguồn: Kết quả khảo sát của Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam, công bố tại Hội
thảo “Ngày an toàn thông tin Việt Nam” năm 2010.

`
77

2.1.1.2. Đảm bảo an toàn thông tin cho các hoạt động ứng dụng
Song song với sự phát triển của Internet, hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp
đã áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, sản xuất
kinh doanh. Các chương trình quản lý công văn, hồ sơ giấy tờ cho đến các hệ thống
lớn hơn như áp dụng các phần mềm kế toán, cổng thông tin, hệ thống quản trị chuỗi
cung ứng, quản lý quan hệ khách hàng, quản trị nguồn lực doanh nghiệp. Tuy nhiên,
các tổ chức, doanh nghiệp còn chưa hiểu biết thật sự về an toàn nội bộ cũng như an
toàn thông tin cho các ứng dụng khi triển khai. Hầu hết chưa có chính sách cụ thể
cho việc đảm bảo an toàn thông tin, đầu tư chi phí cho an toàn thông tin còn thấp, tỷ
lệ cán bộ chuyên trách hay có chứng chỉ liên quan đến an toàn thông tin còn chưa
cao. Đa số còn chưa tuân theo hoặc chưa có ý định tuân theo những chỉ dẫn của các
chuẩn an toàn thông tin. Việc xây dựng các quy chế về an toàn thông tin, triển khai
thực hiện tại các doanh nghiệp, tổ chức chưa được quan tâm thích đáng.

`
78

Hình 2.2: Thống kê của VNISA về công nghệ đảm bảo an toàn

Nguồn: Kết quả khảo sát của Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam 2010.
2.1.1.3. Đảm bảo an toàn dữ liệu trong các giao dịch điện tử
Cùng với sự phát triển của Internet và các phương tiện điện tử, giao dịch điện
tử ngày càng phát triển và trở nên phổ biến đồng thời vấn đề an toàn an ninh mạng
đang trở nên ngày càng cấp bách. Theo kết quả điều tra của Bộ Công Thương năm
2010 về tình hình ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp trên toàn

`
79

quốc, vấn đề an toàn, an ninh trong giao dịch đang được các doanh nghiệp xếp thứ
hai trong số những trở ngại hàng đầu cho sự phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam. Kết quả này cũng phản ánh đúng thực tế, trong những năm vừa qua, khi các
hành vi gian lận lừa đảo trên môi trường mạng ngày càng tăng, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của phương thức giao dịch còn khá mới mẻ này.
Hình 2.3: Các tấn công mà tổ chức gặp phải kể từ tháng 1/2008

Nguồn: Kết quả khảo sát của Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam 2009

2.1.2. Những yếu tố đe dọa mất an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.2.1. Tội phạm sử dụng công nghệ cao
Thực tế đã xảy ra nhiều vụ tấn công vào máy chủ của các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp làm gián đoạn thông tin và gây thiệt hại lớn đối với hoạt động của các
tổ chức này. Thủ đoạn phá hoại chủ yếu thông qua việc phát tán virus, phần mềm
gián điệp vào các máy tính trong một hệ thống để lấy thông tin, mật khẩu,…Các tin

`
80

tặc cũng lợi dụng các trang mạng xã hội để mở rộng phạm vi phá hoại. Một hình
thức tấn công khác là truy cập, sử dụng trái phép dữ liệu và đưa thông tin trái phép
lên mạng. Do hệ thống mạng của một số cơ quan, tổ chức chưa đạt yêu cầu về an
toàn thông tin, website do các tổ chức này quản lý đã bị tin tặc tấn công gây ảnh
hưởng khá nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động. Ngoài ra, các website diễn đàn do
các nhóm cá nhân quản lý cũng thường xuyên bị tấn công và đăng tải những nội
dung mang tính đồi trụy hăm dọa người khác, vi phạm pháp luật hoặc dẫn tới hành
vi phạm pháp. Theo thống kê sơ bộ, năm 2010 có tới khoảng 15.000 trang web có
đuôi .vn bị tội phạm công nghệ cao khống chế và khai thác. Người dùng khi truy
cập những trang bị tội phạm công nghệ cao khống chế và khai thác có nguy cơ bị
chuyển hướng đến các website chứa mã độc nhằm ăn cắp thông tin cá nhân, mật
khẩu hoặc máy tính của họ có thể trở thành máy tính ma để tội phạm kiểm soát với
mục đích phán tán thư rác, lừa đảo trực tuyến.
2.1.2.2. Lừa đảo trong thương mại điện tử
Một trong những rào cản khiến người dùng e ngại khi tiến hành giao dịch
thương mại điện tử, đó là nguy cơ bị tổn hại lợi ích do các hành vi lừa đảo trên môi
trường mạng. Cụ thể như lừa đảo qua quảng cáo, bán hàng trực tuyến trên mạng
Internet, mua bán ngoại tệ, vàng, huy động vốn tín dụng; gửi email thông báo trúng
thưởng, đề nghị tham gia rửa tiền, v.v…Với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại và các
thủ tục đăng ký tên miền khá đơn giản, việc giao dịch mua bán qua website đã trở
nên thuận tiện hơn trước. Tuy nhiên, đây cũng là kẽ hở để kẻ gian lợi dụng, tiến
hành các hoạt động lừa đảo, xâm hại tới quyền lợi của các chủ thể tham gia. Thủ
đoạn của tội phạm thường là tạo trang web bán hàng giả bằng cách đăng ký tên
miền và mua tên miền, tạo trang web giống trang web bán hàng thật, trong đó mọi
mặt hàng đều có giá bán rẻ hơn trang web bán hàng thật. Trên trang thanh toán,
khách hàng điền thông tin cá nhân, thông tin thẻ tín dụng và được chuyển trực tiếp
về email của bọn tội phạm. Một thủ đoạn khác thường được sử dụng là thành lập
công ty ảo để trộm cắp dữ liệu thông tin cá nhân của khách hàng sau đó được khai
thác sử dụng một cách phi pháp.

`
81

2.1.2.3. Các hành vi gây rối và cạnh tranh không lành mạnh
Bên cạnh những hành vi chiếm đoạt tài sản thông qua sử dụng công nghệ
cao hoặc lừa đảo trong giao dịch, còn tồn tại những hành vi gây rối gây ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp tới môi trường kinh doanh trực tuyến. Một số hành vi mà tội
phạm thường sử dụng là thâm nhập trái phép hệ thống thông tin của doanh nghiệp,
tấn công từ chối dịch vụ, phát tán virus và các mã độc hại, v.v…Những hành vi này
đã gây trở ngại cho việc tiếp nhận thông tin của người dùng, việc phổ biến thông tin
của quản trị website, và có thể làm tê liệt hoạt động trao đổi thông tin hay tác
nghiệp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân do bị virus phá hủy tài liệu lưu trữ. Một
trong những hành vi gây rối làm mất an toàn thông tin phổ biến tại Việt Nam là việc
phán tán thư rác trái với các quy định của pháp luật. Theo báo cáo mới đây của
Sophos, hiện Việt Nam đang là quốc gia đứng thứ 8 trong danh sách 12 quốc gia có
tỉ lệ phát tán thư rác cao nhất trên thế giới, chiếm 3% tỉ lệ thư rác toàn cầu. Ngoài
các hành vi ăn cắp thông tin qua mạng, phát tán virus phá hủy hệ thống thông tin
của các cá nhân và tổ chức, phát tán thư rác,… xuất hiện các vụ tấn công vào các
website, gây gián đoạn hoạt động hoặc phá hủy hoàn toàn cấu trúc dữ liệu của
website, dẫn tới thiệt hại vật chất, uy tín doanh nghiệp.
2.1.3. Thực trạng về bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong thương mại
điện tử ở Việt Nam
2.1.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng tham gia thương mại điện tử
Do đặc thù của giao dịch thương mại điện tử là được thực hiện hoàn toàn
trên môi trường mạng, các đối tác thực hiện giao dịch mua bán, thanh toán, nhận
hàng mà không cần phải gặp mặt trực tiếp, nên nhu cầu về thông tin cá nhân là rất
lớn, bao gồm cả những thông tin riêng tư, nhạy cảm nhất. Bên cạnh đó, nhiều công
nghệ hiện đại như cookie, phần mềm gián điệp, định vị toàn cầu và các cơ sở dữ
liệu số hóa cũng cho phép các doanh nghiệp chuyên kinh doanh trên Internet có thể
dễ dàng thu thập và xử lý thông tin cá nhân phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau.
Các tổ chức quảng cáo trực tuyến cũng luôn đẩy mạnh hoạt động thu thập, thiết lập,
thậm chí kinh doanh các hồ sơ thông tin về người tiêu dùng. Thông tin cá nhân đã

`
82

và đang trở thành thứ hàng hóa có giá trị đối với doanh nghiệp. Cá nhân, người tiêu
dùng khó có thể hình dung hết được những nguy cơ thông tin cá nhân của mình bị
khai thác bất hợp pháp khi tham gia giao dịch, mua bán trên môi trường mạng.
Cho đến thời gian gần đây, khái niệm bảo vệ thông tin cá nhân và quyền
riêng tư về thông tin cá nhân trên môi trường điện tử vẫn còn là một vấn đề mới mẻ
tại Việt Nam. Hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn thiếu những quy định, chế tài cụ
thể về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng. Bên cạnh đó, người dân,
doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bỡ ngỡ với khái
niệm này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và
thương mại điện tử, đặc biệt là sự xâm nhập sâu rộng của Internet vào mọi mặt đời
sống xã hội, những tác động tiêu cực của việc sử dụng thông tin cá nhân bất hợp
pháp đã ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Thực tế này đã khiến cho vấn đề bảo vệ
thông tin cá nhân trở thành một chủ đề lớn, thu hút sự quan tâm rộng rãi của các cơ
quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cả xã hội.
Theo điều tra hàng năm của Bộ Công Thương từ năm 2003 đến nay, vấn đề
an ninh an toàn thông tin cá nhân trong giao dịch thương mại điện tử ngày càng
được doanh nghiệp và cộng đồng quan tâm. Trong bối cảnh tình trạng thu thập, ăn
cắp, sử dụng bất hợp pháp dữ liệu cá nhân như thông tin về địa chỉ email cá nhân,
thông tin tài khoản... đang diễn ra ngày càng nhiều thì ý thức của doanh nghiệp và
cộng đồng về bảo vệ thông tin cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
* Hiện trạng an toàn, an ninh thông tin và vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của
người tiêu dùng
- Thu thập, sử dụng bất hợp pháp địa chỉ thư điện tử: Một trong những hình
thức vi phạm bảo vệ dữ liệu cá nhân rất phổ biến trong thời gian qua là việc thu
thập địa chỉ thư điện tử cá nhân trái phép để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau,
từ quảng cáo trực tuyến đến bán danh sách các địa chỉ này cho cá nhân, tổ chức có
nhu cầu. Với các công nghệ hiện đại, hiện nay việc thu thập địa chỉ thư điện tử
tương đối dễ dàng. Việc nhiều cá nhân, doanh nghiệp công khai rao bán danh sách
hàng triệu địa chỉ thư điện tử đang gây tác động tiêu cực tới hoạt động quảng cáo

`
83

điện tử, gây bất lợi cho người tiêu dùng, làm giảm sút niềm tin của cộng đồng khi
tham gia giao dịch thương mại điện tử.
- Ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản cá nhân: Thanh toán điện tử là một
lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với cả người tiêu dùng và các cơ quan chức năng của
Việt Nam nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Lợi
dụng điều đó, nhiều đối tượng tội phạm, trong đó có cả người nước ngoài đã thực
hiện các vụ việc ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản cá nhân hoặc của doanh
nghiệp để rút tiền hoặc mua bán hàng hóa kiếm lợi bất hợp pháp. Đến cuối năm
2012, tại Việt Nam đã có trên 9.500 máy ATM và 33.000 thiết bị chấp nhận thẻ
(POS). Cùng sự với phát triển của hệ thống ATM, một số hiện tượng vi phạm pháp
luật mới đã xuất hiện liên quan tới hình thức thanh toán này. Các đối tượng đã đánh
cắp hoặc mua thông tin cá nhân (như chứng minh nhân dân), sau đó lập tài khoản
ATM rồi tiến hành lừa đảo.
Theo điều tra của Bộ Công Thương, vấn đề an ninh, an toàn trong giao dịch
điện tử bao gồm bảo vệ dữ liệu cá nhân được các doanh nghiệp đánh giá là trở ngại
thứ 3 trong số 7 trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của thương mại điện tử Việt
Nam. Kết quả khảo sát này cho thấy, doanh nghiệp và người tiêu dùng nghiệp Việt
Nam đã ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia
thương mại điện tử. Điều này cũng phù hợp với xu hướng phát triển ứng dụng
thương mại điện tử trên thế giới. Trong giai đoạn đầu tiên của chu kỳ phát triển, trở
ngại lớn nhất sẽ là cơ sở hạ tầng kỹ thuật và luật pháp, tiếp đó là các trở ngại về tập
quán mua bán. Ở giai đoạn phát triển cao khi việc mua bán có thể được thực hiện
hoàn toàn qua môi trường điện tử, tâm lý lo ngại đối với việc bảo đảm an ninh an
toàn thông tin sẽ trở thành vấn đề lớn nhất cản trở thương mại điện tử phát triển.
* Vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử tại doanh nghiệp
Để có được đánh giá sơ bộ về thực trạng bảo vệ thông tin cá nhân trong các
doanh nghiệp Việt Nam, cuối năm 2008 Cục Thương mại điện tử và Công nghệ
thông tin - Bộ Công Thương đã tiến hành khảo sát hơn 130 tổ chức có ứng dụng

`
84

thương mại điện tử trong cả nước (bao gồm các doanh nghiệp và hiệp hội ngành
hàng) về tình hình bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử.
Trong số 132 đối tượng khảo sát, 122 tổ chức có thu thập thông tin cá nhân,
gồm 18 ngân hàng, 14 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, 34 doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa, 33 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm, đào tạo công nghệ
thông tin và thương mại điện tử, 13 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động
sản và xây dựng và 10 hiệp hội. Trong đó, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du
lịch và hiệp hội có tỷ lệ thu thập thông tin cá nhân qua mạng cao nhất là 100%, tiếp
đến là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm và đào tạo 97%, các doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa 94%, doanh nghiệp kinh doanh về bất động sản và xây
dựng là 93%. Theo kết quả điều tra thì các ngân hàng có tỷ lệ thu thập thông tin cá
nhân thấp nhất với 75%.
Kết quả khảo sát cho thấy việc thu thập thông tin cá nhân đã trở thành một
trong những hoạt động thường xuyên của tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là tại các
doanh nghiệp có ứng dụng thương mại điện tử thường xuyên trong hoạt động như
các doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ du lịch, ngân hàng hay cung cấp dịch vụ
phần mềm và đào tạo. Ngay cả các tổ chức khác như hiệp hội ngành hàng cũng tổ
chức thu thập thông tin cá nhân.
- Loại hình thông tin cá nhân được thu thập: Kết quả thống kê cho thấy có
114 tổ chức tham gia điều tra trả lời có thu thập địa chỉ email của khách hàng,
chiếm tỷ lệ trên 86%. Trong đó, các ngân hàng có tỷ lệ thu thập địa chỉ email của
khách hàng thấp nhất là 50%, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch 93%,
doanh nghiệp kinh doanh về bất động sản và xây dựng 93%, doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa 94%, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm, đào tạo 94%, và các hiệp
hội là 100%. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã tiến hành thu thập thông tin
về số tài khoản của khách hàng. 77% doanh nghiệp du lịch trả lời có thu thập số tài
khoản của khách hàng, tỷ lệ tương ứng của nhóm ngân hàng là 54%, doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa 47%, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm, đào tạo 47%,
doanh nghiệp kinh doanh về bất động sản và xây dựng 50% và các hiệp hội là 50%.

`
85

- Thông báo trước về mục đích sử dụng thông tin cá nhân khi thu thập thông
tin của khách hàng và tiết lộ thông tin cho bên thứ ba: Theo kết quả điều tra, 111
trên tổng số 132 tổ chức tham gia khảo sát trả lời (chiếm tỷ lệ 84%) có thông báo
trước về mục đích sử dụng thông tin cá nhân của khách hàng trên website của mình,
gồm 18 ngân hàng, 14 doanh nghiệp du lịch, 29 doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, 28
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm, đào tạo, 12 doanh nghiệp kinh doanh về
bất động sản và xây dựng và 10 hiệp hội. Trong đó, 100% các doanh nghiệp du lịch
cho biết có thông báo trước việc sử dụng thông tin cá nhân của khách hàng.
Với câu hỏi về tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng cho bên thứ ba, hầu
hết các tổ chức trả lời không tiết lộ. Trong đó, tỷ lệ của các ngân hàng là 92%,
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch 100%, doanh nghiệp chuyên về bất động
sản và xây dựng 93%, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần mềm và đào tạo 88%,
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa 89% và và hiệp hội là 50%.
- Bảo vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng: Trong tổng số 132 tổ chức tham
gia khảo sát, chỉ có 24 tổ chức (18%) trả lời có xây dựng quy chế về thu thập và bảo
vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử, bao gồm 10 doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ phần mềm và đào tạo, 4 ngân hàng, 3 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du
lịch, 3 doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, 2 doanh nghiệp chuyên về bất động sản và
xây dựng và 2 hiệp hội.
Mặc dù chưa có các quy chế cụ thể đối với việc thu thập và sử dụng thông tin
cá nhân của khách hàng nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bước đầu kết
hợp các biện pháp về quản lý và công nghệ để bảo vệ thông tin của khách hàng. 89
trên 132 doanh nghiệp trả lời có triển khai cả hai nhóm giải pháp công nghệ và quản
lý để bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng, trong đó nhóm ngân hàng chiếm tỷ
lệ cao nhất với 71%.
Đối với việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại của khách
hàng liên quan tới việc sử dụng thông tin cá nhân của họ, các doanh nghiệp thuộc
hai lĩnh vực kinh doanh có tỷ lệ cao nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phần
mềm, đào tạo với 26% , ngân hàng 21%. Tỷ lệ có cơ chế giải quyết tranh chấp của

`
86

các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác còn rất thấp: doanh nghiệp du
lịch 7%, doanh nghiệp sản xuất hàng hóa 8%, doanh nghiệp kinh doanh về bất động
sản và xây dựng thực sự chưa quan tâm tới cơ chế này.
Kết quả phân tích cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đều có thu thập thông
tin cá nhân của khách hàng, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhận
thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề nên chưa quan tâm thực sự tới việc
bảo vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng. Để có thể xây dựng được một cơ chế bảo vệ
quyền lợi khách hàng hiệu quả, các doanh nghiệp cần tập trung nghiên cứu các quy
định hiện hành của Nhà nước để xây dựng các cơ chế quản lý thông tin nội bộ phù
hợp. Bên cạnh đó, cần áp dụng các công nghệ bảo mật hiện đại để phòng chống các
hành vi trộm cắp xâm nhập bất hợp pháp vào hệ thống thông tin của doanh nghiệp.
- TrustVn - cơ chế hiệu quả nhằm thúc đẩy bảo vệ thông tin cá nhân trong
thương mại điện tử tại Việt Nam: Để góp phần hỗ trợ người tiêu dùng trong việc lựa
chọn các website thương mại điện tử uy tín khi tiến hành giao dịch qua Internet,
Trung tâm Phát triển thương mại điện tử (EcomViet) thuộc Bộ Công Thương đã
phối hợp cùng với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) xây dựng và
triển khai Chương trình Cấp chứng nhận webiste thương mại điện tử uy tín Việt
Nam gọi tắt là TrustVn. TrustVn có nhiệm vụ thẩm định độ tin cậy của các website
thương mại điện tử, đặc biệt là các website có thu thập thông tin cá nhân và tiến
hành kinh doanh trực tuyến. TrustVn giúp các chủ website xây dựng sự tin tưởng
với khách hàng. Với những website được TrustVn cấp chứng nhận website thương
mại điện tử uy tín và có biểu tượng TrustVn, người tiêu dùng có thể yên tâm cung
cấp thông tin cá nhân của cho website đó khi giao dịch. TrustVn cũng định hướng
cho chủ website những tiêu chuẩn cần thiết phải có liên quan tới chính sách bảo vệ
dữ liệu cá nhân và bảo vệ người dùng.
2.1.3.2. Quảng cáo qua thư điện tử, tin nhắn và chống tin nhắn rác
Ngày 13/08/2008, Nghị định số 90/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chống thư
rác được ban hành để cụ thể hóa các quy định chống thư rác trong Luật Công nghệ
thông tin. Ngày 30/12/2008, Bộ Thông tin và Truyền thông có Thông tư số

`
87

12/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung của Nghị định 90/2008/NĐ-CP.
Tiếp đó, Thông tư số 03/2009/TT-BTTTT ra đời ngày 03/02/2009 quy định chi tiết
về mã số quản lý và mẫu giấy chứng nhận mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch
vụ quảng cáo bằng thư điện tử và tin nhắn.
* Khung quy định chung về chống thư rác
Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác được xây dựng trên hai tinh
thần cơ bản: bảo vệ người dùng trước thư điện tử, tin nhắn rác (gọi chung là thư rác)
và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động gửi thư điện tử, tin nhắn quảng cáo.
Thư rác theo định nghĩa của Nghị định chống thư rác là thư điện tử, tin nhắn
được gửi đến người nhận mà người nhận đó không mong muốn hoặc không có trách
nhiệm phải tiếp nhận theo quy định của pháp luật. Nghị định số 90/2008/NĐ-CP
đưa ra các quy định chặt chẽ đối với hành vi liên quan tới việc phát tán thư rác và
trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ truy nhập Internet (trước đây gọi là ISP), nhà
cung cấp dịch vụ thư điện tử, nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn (các doanh nghiệp viễn
thông)… đối với hoạt động phòng chống, ngăn chặn thư rác.
Nghị định phân biệt hai loại thư rác: 1) Thư điện tử và tin nhắn với mục đích
lừa đảo, quấy rối hoặc phát tán virus máy tính, phần mềm gây hại; 2) Thư điện tử
quảng cáo, tin nhắn quảng cáo vi phạm các nguyên tắc gửi thư điện tử quảng cáo,
tin nhắn quảng cáo. Như vậy, để không bị xếp vào thư rác, thư điện tử và tin nhắn
quảng cáo phải đáp ứng những yêu cầu rất chặt chẽ về hình thức, nội dung và thể
thức gửi.
* Quản lý thư điện tử và tin nhắn quảng cáo
Đối với hoạt động gửi thư điện tử, tin nhắn quảng cáo (gọi chung là thư
quảng cáo), Nghị định số 90/2008/NĐ-CP chia ra hai đối tượng: nhà cung cấp dịch
vụ quảng cáo và người quảng cáo. Điểm khác nhau cơ bản của hai đối tượng này là
người quảng cáo chỉ được quyền gửi thư quảng cáo khi có sự đồng ý trước của
người nhận, trong khi nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo được quyền gửi thư quảng
cáo trước khi người nhận đồng ý. Mô hình này đã khuyến khích việc hình thành một
lớp đối tượng quảng cáo chuyên nghiệp là nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo. Tuy

`
88

nhiên nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo phải được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp
mã số quản lý trước khi cung cấp dịch vụ và chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ
Tải bản FULL (175 trang): https://bit.ly/3f46mvY
quan quản lý nhà nước. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

Việc cấp mã số quản lý cho doanh nghiệp được căn cứ vào hoạt động thực tế
của doanh nghiệp và các hệ thống cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp đó. Doanh
nghiệp chỉ được cấp mã số quản lý khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí được quy định
trong Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác. Với việc triển khai các biện
pháp toàn diện nhằm thực hiện những quy định về chống thư rác, tuy nhiên với xu
thế của thời đại lượng tin nhắn rác không giảm nhiều và các vi phạm có chiều
hướng tăng lên, tinh vi hơn. Để giải quyết hiệu quả hơn, các hoạt động giám sát,
thanh kiểm tra, phối hợp xử lý vi phạm, hoạt động tăng cường nâng cao nhận thức
cho người dùng, cho doanh nghiệp... cần phải tiếp tục được đẩy mạnh.
2.1.3.3. Bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website
* Thông tư số 09/2008/TT-BCT hướng dẫn thi hành Nghị định thương mại điện tử
Ngày 21/7/2008, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 09/2008/TT-
BCT hướng dẫn Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết
hợp đồng trên website thương mại điện tử. Đây là văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt
động kinh doanh của các website thương mại điện tử tại Việt Nam, liên quan tới lợi
ích của nhiều doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng tham gia giao dịch thương
mại điện tử. Dựa trên những yếu tố đặc thù của môi trường mạng, Thông tư quy
định về một quy trình giao kết hợp đồng tiêu biểu qua website thương mại điện tử,
qua đó giúp phân định phạm vi trách nhiệm của mỗi bên trong các giao dịch này,
đồng thời giảm bớt sự bất bình đẳng giữa khách hàng và thương nhân trong giao kết
hợp đồng. Bên cạnh những điều khoản về quy trình giao kết hợp đồng, Thông tư
còn quy định cụ thể việc cung cấp thông tin trên các website thương mại điện tử
nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong quá trình giao dịch. Theo đó, thương
nhân phải công bố những thông tin tối thiểu sau trên website: tên, địa chỉ giao dịch,
địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số giấy phép đăng ký kinh doanh, đồng thời tuân
thủ một số nguyên tắc cơ bản về bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng trên

`
89

website. Ngoài ra, thương nhân phải cung cấp đầy đủ và rõ ràng những thông tin
liên quan đến các điều khoản giao dịch trên website: mô tả hàng hóa, dịch vụ, thông
tin về giá cả, thông tin về vận chuyển và giao nhận, thông tin về các phương thức
thanh toán, cũng như các điều khoản giao dịch khác.
Sau khi Thông tư số 09/2008/TT-BCT được ban hành, Cục Thương mại điện
tử và Công nghệ thông tin kết hợp với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam
(Vecom) đã tiến hành khảo sát mẫu 50 website thương mại điện tử về mức độ tuân
thủ các quy định của Thông tư. Sau đây là kết quả khảo sát đối với một số tiêu chí
cơ bản:
- Hầu hết website (96%) đều mô tả khá rõ ràng về hàng hóa, dịch vụ mà
mình cung cấp. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng dễ dàng đưa ra các
quyết định mua hàng cũng như xây dựng lòng tin của khách hàng tốt hơn khi thăm
các website. Giá cả của các hàng hóa dịch vụ là tiêu chí duy nhất mà tất cả các
website đều đăng tải. Tuy nhiên, khi đi vào chi tiết thì chỉ có 38% các website công
bố rõ ràng cơ cấu giá (giá trước thuế, giá sau thuế, chi phí vận chuyển, các chi phí
Tải bản FULL (175 trang): https://bit.ly/3f46mvY
có liên quan, v.v…). Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

- Đa số các website đều có cơ chế trả lời đề nghị giao kết hợp đồng của
khách hàng (80%), nhưng còn 20% website không có bất kỳ hình thức trả lời đề
nghị giao kết hợp đồng nào trong một khoảng thời gian cụ thể.
- Hầu như tất cả (98%) các website chưa cung cấp đầy đủ các thông tin cơ
bản về thương nhân như tên, địa chỉ, số điện thoại, email, giấy phép đăng ký kinh
doanh. 46% các website không công bố bất cứ thông tin gì về các điều khoản giao
dịch, chỉ có 8% công bố đầy đủ các điều khoản giao dịch.
- Đa phần website vẫn chưa chú ý thích đáng tới việc xây dựng cơ chế giải
quyết tranh chấp. Chỉ có 4% trong số những website được khảo sát công bố thông
tin về quy trình giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Một tiêu chí rất quan trọng nữa để đánh giá về một website thương mại điện
tử là chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng. Thông tin cá nhân gần
đây đã trở thành vấn đề nổi cộm trên thế giới và được rất nhiều quốc gia và tổ chức

`
90

quan tâm. Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả website thuộc mẫu điều tra đều có thu
thập thông tin cá nhân của khách hàng, kể cả những thông tin cực kỳ nhạy cảm như
thẻ tín dụng. Nhưng chỉ có 12% các website công bố chính sách bảo vệ thông tin cá
nhân, 6% có cơ chế cho phép khách hàng lựa chọn đồng ý hoặc từ chối cung cấp
thông tin cá nhân khi tham gia giao dịch.
* Giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định về Thương mại điện tử năm
2006 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về thông điệp dữ liệu nói chung và chứng
từ thương mại nói riêng, đặt nền tảng cho việc tiến hành giao dịch thương mại qua
phương tiện điện tử. Tiếp theo đó, Thông tư hướng dẫn về cung cấp thông tin và
giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử (Thông tư 09/2008/TT-BCT)
ban hành ngày 21 tháng 7 năm 2008 đã quy định khá chi tiết về một chu trình giao
kết hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng thông qua website. Tuy nhiên,
khâu thực hiện hợp đồng giữa các bên trong một giao dịch B2C, cũng như giao dịch
B2B hay C2C tiềm ẩn những khả năng xảy ra tranh chấp mà hệ thống pháp luật
hiện nay chưa có quy định cụ thể để làm căn cứ giải quyết cho các bên liên quan.
Về mặt nguyên tắc, hệ thống pháp luật thương mại điện tử chỉ điều chỉnh
những khía cạnh liên quan đến hình thức điện tử của giao dịch. Cụ thể hơn, Thông
tư 09/2008/TT-BCT tập trung điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù khi giao
kết hợp đồng trên website thương mại điện tử, còn việc thực hiện hợp đồng sẽ được
điều chỉnh bởi pháp luật chung về hợp đồng (cũng như hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật chung về thương mại). Do đó, đa phần các
tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng điện tử sẽ được giải quyết
trong khuôn khổ Luật Dân sự, Luật Thương mại và các văn bản liên quan. Chỉ
những tranh chấp liên quan đến giá trị pháp lý của chứng từ điện tử khởi tạo và lưu
trữ trong quá trình giao kết cũng như thực hiện hợp đồng mới thuộc phạm vi điều
chỉnh của hệ thống pháp luật thương mại điện tử. Và phần lớn những vấn đề này có
thể được giải quyết nếu các bên sử dụng chữ ký điện tử khi tiến hành giao dịch.

4125276

You might also like