Professional Documents
Culture Documents
2.4.1. Giới thiệu về lý thuyết quản trị hành vi
2.4.1. Giới thiệu về lý thuyết quản trị hành vi
Tư tưởng Quản trị hành vi của Abraham Maslow có các ưu nhược điểm như sau:
- Ưu điểm là xác định được cơ bản các nhu cầu của con người theo các mức độ. Đồng thời giúp
các nhà quản lý xác định được cần hiểu rõ nhu cầu của con người để có phương pháp phù hợp nhằm tạo
động lực và phát huy hết khả năng của đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Nhược điểm của hệ thống tháp nhu cầu Maslow là tĩnh nhưng các nhu cầu luôn thay đổi theo
thời gian hoặc trong các tình huống khác nhau; phải thõa mãn nhu cầu theo thứ tự ở từng cấp bậc một.
Nhưng thực tế, con người mang trong mình nhiều nhu cầu cùng lúc và không phải chỉ khi thỏa mãn nhu
cầu thấp nhất mới có thể thỏa mãn nhu cầu tiếp theo.
D.Douglas Mc Gregor (1906-1964) với lý thuyết X và Y
Mc gregor là một nhà tâm lý học xã hội. Năm 1960, ông cho xuất bản cuốn sách “ The Human
Side Of Enterprise" và trở nên nổi tiếng với lý thuyết "cây gậy và củ cà rốt". Đưa ra giả thiết sai lầm về
tác phong và hành vi của con người của tác giả trước đây, đó là giả thiết X. Con người sẽ thích thú với
công việc nếu họ có được những thuận lợi , đó là giả thiết Y. Lý thuyết X và Lý thuyết Y là những lý
thuyết về động lực làm việc và quản lý của con người. Chúng được tạo ra bởi Douglas McGregor khi
ông đang làm việc tại Trường Quản lý MIT Sloan vào những năm 1950 và được phát triển thêm vào
những năm 1960. Công việc của McGregor bắt nguồn từ lý thuyết động lực cùng với các công trình của
Abraham Maslow, người đã tạo ra hệ thống phân cấp nhu cầu. Vậy quy định về Thuyết X và thuyết Y
của Douglas Mc Gregor là gì, sự khác nhau cơ bản được quy định như thế nào.
- Thuyết X
Thuyết X được ra đời từ quan sát những xí nghiệp phương Tây vào thập niên 1960: những người công
nhân không có động lực và không thích làm việc. Chỉ khi áp dụng triết lí “cây gậy và củ cà rốt”, họ mới
làm việc theo sự giám sát độc đoán của lãnh đạo. Học thuyết X đưa ra những nhận định tiêu cực về
người lao động như:
- Con người bản chất lười biếng, không thích làm việc và luôn trốn tránh công việc.
- Quy chế thưởng phạt để bắt buộc họ phải làm việc. Hầu hết người lao động đều an phận, lẩn trốn
trong vùng an toàn, thụ động và cần lãnh đạo chỉ dẫn tỉ mỉ
Đây được coi là học thuyết thiếu tình thương, khi các nhà quản lý sẽ đóng vai trò tác động từ trên xuống
dưới, có cái nhìn tiêu cực máy móc về nhu cầu chính của con người để làm việc là tiền. Do đó, những
nhà quản lý thường thiếu sự tin tưởng với nhân viên, họ chỉ tin vào hệ thống những luật lệ đã được đề ra.
Thuyết Y
Sinh sau đẻ muộn hơn thuyết X, thuyết Y được coi là có nhiều cải tiến “sửa sai” và giảm bớt sự
giám sát đến từ nhà quản lý. Thuyết Y cũng được Douglas McGregor đưa ra vào năm 1960 và có những
nhìn nhận tích cực hơn về bản chất con người. Học thuyết Y nói rằng:
- Người lao động bản chất thích làm việc và luôn có tiềm năng, quan trọng là cách khơi dậy.
- Quy chế thưởng phạt không quan trọng, con người không thích bị kiểm soát để làm việc tốt.
- Người lao động thích sự tự chủ, làm việc tự giác và có trách nhiệm trong công việc.
Ví dụ: Trong nhiều năm liền, Google đứng top 10 nơi làm việc đáng mơ ước nhất thế giới. Những tiện
ích và sự thoải mái mà Google mang lại nhằm kích thích tối đa sáng tạo của nhân viên. Nhờ cách quản
trị nhân lực độc đáo, từ chú bé tí hon Google đã vươn lên thành gã khổng lồ trong làng công nghệ với
hơn 1 tỷ người dùng.
giới thiệu về công ty
Google LLC (n.đ Công ty TNHH Google) là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, chuyên về các
dịch vụ và sản phẩm liên quan đến Internet, bao gồm các công nghệ quảng cáo trực tuyến, công cụ tìm
kiếm, điện toán đám mây, phần mềm và phần cứng. Đây được coi là một trong những công ty công
nghệ Big Four, cùng với Amazon, Apple và Facebook.
Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã
có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California.
Áp dụng thuyết học
- Học thuyết X
Tích cực tưởng thưởng và tôn vinh những thành công, có vẻ như Google luôn nhún vai coi khinh thất
bại. Tinh thần "coi trời bằng vung", không biết sợ là gì này thấm nhuần trong từng con người ở
Googleplex. .Nhân viên Google được khuyến khích đề xuất những ý tưởng tham vọng, thậm chí điên rồ
càng nhiều càng tốt. Các giám sát viên sẽ phân ý tưởng về cho từng nhóm nhỏ, kiểm tra xem ý tưởng đó
có "chạy" được hay không. Gần như người nào ở Google cũng kiêm thêm một chức danh "ảo" là : Giám
đốc sản phẩm.Tất cả các kỹ sư dành 20% thời gian làm việc cho những ý tưởng của chính họ. Nhiều dự
án cá nhân đã được ra mắt công chúng, chẳng hạn như mạng xã hội ảo Orkut và Google News, một dịch
vụ tổng hợp tin tức cạnh tranh với Yahoo News. Nền văn hóa này giúp giải thích vì sao một hãng
chuyên về tìm kiếm lại có thể tung ra quá nhiều sản phẩm đa dạng như thế. Bản thân Google cũng mạnh
miệng tuyên bố sứ mệnh của họ là "sắp xếp và tổ chức lại" thông tin của toàn cầu. Bất chấp sự phản đối
quyết liệt của giới xuất bản và tác giả, Google vẫn nuôi mộng quét toàn bộ sách trên thế giới lên mạng.
Google cho phép nhân viên được sử dụng 20% quỹ thời gian làm việc tùy theo ý mình. Các nhà quản lý
ở đây cho rằng khoảng thời gian đó, các nhân viên sẽ tha hồ nghĩ ra các ý tưởng mới, được gọi là “các
dự án cho tương lai”. Quả thật, Google đã có rất nhiều phát kiến trong khoảng thời gian ấy.Ông chủ của
Google hào phóng với nhân viên như vậy vì ông tâm niệm câu nói: “Cho để giữ mà không bị mất”. Nhân
viên thấy được ưu đãi và quan tâm sẽ gắn bó với hãng và sẽ hăng hái phục vụ hãng hơn.
- Học thuyết Y
Suốt thời kỳ bùng nổ về dịch vụ "dotcom" vào cuối những năm 1990, khi các công ty kỹ thuật hàng đầu
có chỉ số thay thế nhân viên vào khoảng 20-25% thì Google là công ty duy nhất không phải đối mặt với
vấn nạn này. Cho đến nay, chỉ số này của Google vẫn chỉ xấp xỉ ở mức zero, và Google trở thành nơi lý
tưởng, là địa điểm làm việc mơ ước của hàng triệu ứng viên. Những người đứng đầu Google cho rằng
khi đã được chu cấp đầy đủ, nhân viên của họ sẽ không bị vướng bận những chuyện ngoài lề, và có thể
toàn tâm toàn ý cho công việc. Larry và Sergey muốn tạo nên một môi trường vui nhộn và cung cấp rất
nhiều dịch vụ miễn phí cho nhân viên. Theo tinh thần đó, khu làm việc tại Googleplex được trang trí với
những gam màu sắc sặc sỡ của logo "Google". Nhân viên Google được phép mang vật nuôi vào chỗ làm,
được cung cấp đồ ăn nhẹ, ăn trưa, và bữa tối được chuẩn bị bởi bếp trưởng danh tiếng Charlie Ayers.
Googleplex có các phòng ăn điểm tâm với ngũ cốc, kẹo gôm, hạt điều, và các loại đồ ăn nhẹ khác với
nước quả, soda và cappuccino… Công tác quản trị của Google cũng quan tâm cổ vũ, khích lệ sự đổi mới
sáng tạo ở công sở. Nhân viên của công ty được đối xử giống như những thành viên trong một gia đình
hơn là người được tuyển dụng vào để làm việc. Mỗi người được phép dành ra tối đa 20% thời gian làm
việc để theo đuổi và phát triển ý tưởng của riêng mình. Những dịch vụ như Gmail chính là kết quả của
chế độ 20% giờ làm việc này. Với những không gian làm việc thế này, mọi ý tưởng đều có thể nảy
sinh.Dù sao, công ty vẫn phải đối mặt với những vấn để như làm thế nào để biến những ý tưởng khả thi
thành những sản phẩm thành công. Nói như Silverstein, "Thực tế là chúng tôi luôn có những ý tưởng rất
tuyệt nhưng lại không biết cách diễn đạt hay lưu giữ nó. Để giải quyết được khó khăn này, Google đã lập
nên một trang web tầm cỡ quốc tế để tìm tòi và thử nghiệm những ý tưởng mới. Có nhiều ý tưởng đã bị
loại bỏ. Nhưng chỉ cần vài ý tưởng thành công, nó đã có thể đem lại lợi nhuận lớn cho công ty”. Bên
cạnh đó, Google cũng dành cổ phiếu ưu đãi cho 99% nhân viên, áp dụng chế độ lương bổng rất cao để
tạo động lực làm việc và giúp họ có được sự gắn bó lâu dài với công ty.
2. Nội dung về lý thuyết hệ thống
1.2.1. Khái niệm về hệ thống
Hệ thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trong tài liệu chuyên môn phần lớn các tác giả
thường đưa ra các định nghĩa riêng và cụ thể về hệ thống theo đề tài quan tâm. Việc sử dụng định nghĩa
cụ thể nào sẽ tuỳ thuộc vào lượng thông tin về đối tượng thực tế được nghiên cứu như một hệ thống.
Trong bài báo này, tác giả đưa ra định nghĩa tổng quát về hệ thống: Hệ thống là tập hợp các phần tử
tương tác với nhau theo một cấu trúc nhất định và tạo nên một chỉnh thể tương đối độc lập.
Phân tích hệ thống cần chú ý đến mối liên hệ từ đầu vào đến đầu ra. Thực hiện mối liên kết vào/ ra trong
quá trình hoạt động của hệ thống đều thể hiện qua hành vi của hệ thống. Như vậy, hành vi hệ thống là
cách thức mà hệ thống nhận được giá trị đầu ra với giá trị đầu vào cho trước. Mọi hệ thống tồn tại đều có
mục tiêu, ở dạng khái quát, mục tiêu của hệ thống trả lời câu hỏi, hệ thống sinh ra để làm gì ? Ví dụ hệ
thống TTTV đại học có mục tiêu đảm bảo thông tin - tư liệu phục vụ cho quá trình đào tạo. Vậy lý
thuyết hệ thống là cách tiếp cận khoa học góp phần tìm ra lời giải, phải làm gì và làm thế nào để đạt
được mục tiêu đó.
1.2.2. Đặc trưng của hệ thống
Đặc trưng là thuộc tính căn bản, ổn định vốn có bên trong sự vật. Trong hệ thống các phần tử liên kết và
tương tác với nhau theo quan hệ nhân quả, nghĩa là mỗi sự thay đổi của một hay một số phần tử đều kéo
theo sự thay đổi của các phần tử còn lại, tác động này có thể là trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo sự quan
trọng, vai trò và chức năng của phần tử đó. Một hệ thống bất kỳ có những tính chất cơ bản sau đây:
- Tính trồi: Khi sắp xếp các phần tử của hệ thống theo một cách thức nào đó sẽ tạo nên tính trồi. Đó là
khả năng nổi trội, mới mẻ của hệ thống mà khi các phần tử đứng riêng rẽ thì không thể tạo ra được. Tính
“trồi” là đặc tính quan trọng nhất của hệ thống. Tính trồi chỉ có ở một cấp hệ thống mà không có ở các
hệ thống cấp thấp hơn nó hoặc các thành tố tạo ra hệ thống.
- Tính nhất thể: Thể hiện qua hai khía cạnh là sự thống nhất của các yếu tố tạo nên hệ thống; Mối quan
hệ mật thiết của hệ thống với những yếu tố thuộc về môi trường. Tính nhất thể thể hiện như sau:
+ Quan hệ giữa hệ thống và môi trường: Một hệ thống luôn tồn tại trong môi trường, chịu sự tác động
của môi trường.
+ Tính nhất thể và quản lý: Tính nhất thể của hệ thống có được là nhờ quản lý. Nếu biết tổ chức, phối
hợp, liên kết các bộ phận, các phần tử một cách tốt nhất và thiết lập được mối quan hệ hợp lý với môi
trường thì sẽ tạo ra sự phát triển cao.
- Tính cân bằng (năng động): Hệ thống mang tính chất là một cơ thể sống bao gồm các chu kỳ sinh ra
→phát triển → suy thoái. Như vậy, việc chuyển trạng thái là rất quan trọng đối với một hệ thống.
- Tính phức tạp: Hệ thống mang tính phức tạp là do trong hệ thống luôn có các lợi ích, mục tiêu, cách
thức hoạt động riêng của các phần tử, các phân hệ.
- Tính hướng đích: Mọi hệ thống đều có xu hướng tìm đến mục tiêu và một trạng thái cân bằng nào đó.
1.2.3. Cấu trúc của hệ thống
Cấu trúc của hệ thống mang tính phân lớp và có mối quan hệ bao hàm: Phần tử → Module → Phân hệ
→ Hệ thống (hình 3) [2].
Các phân lớp của hệ thống mang ý niệm tương đối và tồn tại trong các phương diện nghiên cứu khác
nhau. Nghĩa là phần tử của một hệ thống này có thể trở thành phần tử của một hệ thống khác.