You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ


-----------***-----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ CỦA PHÉP BIỆN


CHỨNG DUY VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Sinh viên thực hiện : Đinh Thị Hồng Anh


Mã sinh viên : 2212560004
Lớp : Anh 01, ĐHNNQT Kinh doanh Số
Lớp tín chỉ : TR114
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội, tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................................3
I. Biện chứng và phép biện chứng..........................................................................................3
II. Vận dụng nguyên tắc lịch sử của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối
ngoại........................................................................................................................................7
1. Đổi Mới.................................................................................................................................................7
2. Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới.................................................................................................7
2.1. Kinh tế thị trường...............................................................................................................................7
2.2. Kinh tế thị trường và học thuyết xã hội chủ nghĩa.............................................................................8
3. Đổi mới về kinh tế................................................................................................................................9
3.1. Đặc điểm của Đổi Mới về kinh tế.......................................................................................................9
3.2. Quá trình Đổi Mới về kinh tế............................................................................................................10
4. Đổi Mới về chính trị...........................................................................................................................12
5. Đổi Mới về văn hóa............................................................................................................................12
6. Đổi Mới trên các mặt khác................................................................................................................12
III. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm lịch sử nhằm phát triển kinh tế xã hội trong giai
đoạn hiện nay............................................................................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................16
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 11-03-2007, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Sự kiện này
mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực
điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức, sự kiện tất
yếu. Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, doanh nghiệp, các loại hàng hoá và dịch vụ
Việt Nam phải đương đầu với sức ép cạnh tranh gay gắt, không chỉ có hoạt động
kinh tế-đối ngoại. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại – một lĩnh vực hết sức đa dạng,
thường xuyên biến động, và là động lực hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam
phát triển. Trong thời đại hội nhập và phát triển như hiện nay, công nghệ 4.0 đòi hỏi
kinh tế đối ngoại cần phải có những giải pháp toàn diện kịp thời và hiệu quả theo
phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá để có thể đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Vì vậy, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là vấn đề mang
tính cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Yêu cầu đặt ra là phải phát triển kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, ta phải nhìn
nhận nền kinh tế đối ngoại trên quan điểm lịch. Chính việc vận dụng quan điểm lịch
sử của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại là cẩm nang giúp
chúng ta tránh được những đánh giá phiến diện, sai lệch giản đơn về sự vật, hiện
tượng. Nhằm có được những nhận thức đúng đắn hơn về chủ trương của Đảng và
Nhà nước trong phát triển kinh tế đối ngoại trên việc vận dụng quan điểm lịch sử,
em đã lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy
vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại”.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài


Việc nghiên cứu đề tài nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ sở lí luận và cơ
sở thực tiễn của nguyên tắc lịch sử-cụ thể áp dụng vào hoạt động kinh tế đối ngoại.
Từ đó, đề ra được những phương hướng, giải pháp khuyến nghị mang tính khả thi
để nền kinh tế đối ngoại Việt Nam có được hướng đi đúng đắn và tiến tới trở thành
nước công nghiệp hoá-hiện đại hoá trong tương lai.

1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của phép duy vật biện chứng, cụ thể
hơn là nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong phép duy vật biện chứng, từ đó nhìn ra những
hạn chế, thiếu sót để đề xuất ra một số giải pháp áp dụng vào hoạt động kinh tế đối
ngoại nước ta trong giai đoạn hiện nay.

2
NỘI DUNG
I. Biện chứng và phép biện chứng
1. Biện chứng
1.1. Khái niệm
Biện chứng là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa
và vận động phát triển theo quy luật của các sự vật hiện tượng quá trình trong tự
nhiên xã hội và tư duy.
1.2. Các loại biện chứng
- Biện chứng khách quan: Biện chứng của bản thân thế giới vật chất, tồn tại khách
quan độc lập với ý thức của con người.
- Biện chứng chủ quan: Biện chứng của sự thống nhất giữa logic biện chứng, phép
biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng. Biện chứng của quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người.
2. Phép biện chứng
2.1. Khái niệm
Phép biện chứng là học thuyết lý luận nghiên cứu khái quát biện chứng của
thế giới thành các nguyên lý quy luật khoa học nhằm xây dựng các phương pháp
luận khoa học. Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan.
2.2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng: 3 hình thức
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại: chủ yếu dựa trên quan sát.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức: biện chứng của ý niệm (tinh thần) là bản
gốc sinh ra biện chứng của thế giới vật chất.
- Phép biện chứng duy vật: triết học Mác-Lênin.
3. Phép biện chứng duy vật
3.1. Lịch sử vấn đề
Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một
bộ phận của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Cốt lõi của chủ nghĩa duy
vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng. Marx đã kế thừa
tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và lý luận
về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển nên phương

3
pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin cho rằng phương pháp duy vật biện
chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
3.2. Nội dung và đặc trưng của phép biện chứng duy vật
Nội dung: Biện chứng của thế giới vật chất có trước sinh ra biện chứng của
thế giới tinh thần.
Đặc trưng: Coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển
và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Phép biện
chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học và có sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng
(không chỉ giải thích thế giới mà còn có vai trò cải tạo thế giới).

4. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể là một trong những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của
nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của
nguyên tắc lịch sử cụ thể là sự tồn tại vận động, phát triển của sự vật hiện tượng
trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể khác nhau thì có mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng
khác nhau. Bởi vậy, không chỉ nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian,
điều kiện, hoàn cảnh- cụ thể khác nhau.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mỗi sự vật hiện tượng đều có
quá trình, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ
thể, bao gồm mọi sự vật thay đổi và phát triển diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ
thể đòi hỏi để nhận thức đầy đủ về sự vật hiện tượng, chúng ta cần phải xem xét sự
vật hiện tượng đó trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình
thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên
quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn
liền với điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại.

4
5. Yêu cầu của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật
Quan điểm lịch sử có 6 yêu cầu:
- Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng
trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích
mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố
quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử-cụ thể. Bản chất
của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong
sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển
của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm
vụ của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính
của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự
không gian và thời gian. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản
ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ
thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.

-Thứ hai, nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính
phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận
động, làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật như định
và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó, phải chỉ rõ được những giai
đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân
tích tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiền thì mới có thể
hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng
chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.

-Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi
diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế
nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển
hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông
qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng
5
cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù
hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách
quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển
của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và
chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác
cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác hay thành các mặt
đối lập của nó thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc
thù, nhận thức được bản chất của nó.

-Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng
trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ
thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong
của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó
mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc
nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử-cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến
sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển
của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.

-Thứ năm: Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử – cụ thể và
đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử – cụ thể không kết
hợp các sự kiện đơn lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chi ra mối liên hệ
nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai
trò của chúng tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.

-Thứ sáu: Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử-cụ thể là cần thấy
các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không
gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện
tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng, không cụ thể. Mặt
khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật,
hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và

6
hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự
vật, hiện tượng là điều tất yếu.

5. Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt
động kinh tế đối ngoại
Các hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò then chốt và ý nghĩa cực lớn
cho sự phát triển hợp tác ở nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước
trên thế giới, từ việc tăng cường trao đổi, giao lưu văn hoá giữa các quốc gia. Tuy
nhiên, mỗi nước, mỗi vùng trên toàn cầu đều có các đặc trưng văn hoá lịch sử, địa
lý, xã hội tôn giáo, kinh tế khác nhau. Do đó, mỗi nhà lãnh đạo cần nắm bắt được tri
thức, có những quyết sáchphát triển đúng chỗ, đúng lúc, dùng triết lý lịch sử-cụ
thể chuẩn xác giúp cho nền kinh tế đất nước tăng trưởng mạnh mẽ, là cơ sở và bước
đệm để thúc đẩy kinh tế toàn cầu phục hồi và phát triển hơn nữa. 

II. Vận dụng nguyên tắc lịch sử của phép biện chứng duy vật trong hoạt động
kinh tế đối ngoại

Một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại tiêu biểu nhất cho việc vận
dụng và phát triển sáng tạo, hiệu quả Chủ nghĩa Mác Lê – nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đảng ta chính là chính sách Đổi Mới.
1. Đổi Mới
Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được
chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm
1986.
Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ
21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư
duy, cơ chế, văn hóa… Tuy nhiên, chính trị không có những thay đổi nhiều so với
kinh tế.
Đổi Mới ở Việt Nam tương tự chính sách kinh tế mới của Liên Xô giai đoạn Lenin
lãnh đạo (1921-1924), Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và Đổi Mới ở Lào.

7
2. Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới
2.1. Kinh tế thị trường
Những người theo chủ nghĩa Stalin (không nhầm lẫn với chủ nghĩa
Marx nguyên bản) nhiều lần nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt
động kém, cần phải được thay bằng cơ chế kế hoạch hóa có ý thức. Một trong
những mục đích của việc xóa bỏ hệ thống sở hữu tư nhân chính là để chấm dứt cách
điều phối sản xuất thị trường một cách mù quáng và dọ dẫm, để thay thế nó bằng kế
hoạch có ý thức.
Oscar Lange đã phác họa một nền kinh tế mà các công ty sở hữu công
cộng có thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc hoạt động theo công thức tối ưu hóa
gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và
làm trong sạch thị trường bằng cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu
tăng, nó tăng giá lên và khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ông khẳng định
rằng một hệ thống như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu.
Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange bằng lập
luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu nó có thiết lập
được giá cả cân bằng hay không mà là vấn đề có những động cơ khuyến khích gì để
thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất thiết là tản mạn, lẫn lộn ở
nhiều chỗ khác nhau.
Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã hội" (The Use of Knowledge in
Society) đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945, Hayek cho
thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi
vì kế hoạch hóa không thể giải được bài toán của hệ thống giá cả là một hệ thống tự
phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để
phối hợp với kế hoạch cá nhân riêng rẽ. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần
phải để nền kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường.

2.2. Kinh tế thị trường và học thuyết xã hội chủ nghĩa


Chúng ta không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa
tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế
mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành
công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình.
8
Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế bao cấp,
khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao cấp.
Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh
tế Enrico Barone người Ý nêu ra là một mô hình toán về một nền kinh tế tập thể,
theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có thể tính toán được và
từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức tối ưu.
Năm 1929, Fred Manville Taylor  đã nêu ra những điều kiện để nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối
nguồn lực.
Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế người Ba
Lan Oskar Ryszard Lange đã công bố ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường
(giá cả) và đồng thời ủng hộ việc kế hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế
hoạch có thể tính toán và đặt ra các mức giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để
điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì để cho
thị trường quyết định hoàn toàn.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa
xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt
với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư bản chủ nghĩa) và
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước tư bản phát
triển như Mĩ, Anh, Đức, Pháp và Nhật trong thế kỉ 20 cũng điều chỉnh mô hình kinh
tế theo hướng tăng cường sự can thiệp của bộ máy nhà nước (kinh tế hỗn hợp). Chủ
nghĩa xã hội thị trường là đường lối phát triển kinh tế chủ đạo của một số nước phát
triển nhất thế giới tại Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch...
Các quan điểm về Đổi Mới kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu trên các kinh nghiệm
cải cách của các nước Đông Âu và Trung Quốc.
3. Đổi mới về kinh tế
Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực
hiện. Ngày nay, Đổi Mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định nghĩa là: Quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế

9
hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1. Đặc điểm của Đổi Mới về kinh tế
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần
kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX quy định có
6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều
hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp).
Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, một trường phái kinh tế học mà
đại biểu tiêu biểu của nó là Paul Samuelson. Luận điểm của nó là nền kinh tế thị
trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn
tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối
ưu trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thông qua cạnh tranh,
mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị
trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế...
Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi Mới, Nhà nước
Việt Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản và hoạt
động không tốt. Sau Đổi Mới, quan điểm của Nhà nước Việt Nam là kinh tế thị
trường là thành tựu chung của loài người, không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội
thì mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
Nhà nước đại diện cho nhân dân.
Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở cửa, hội nhập với thế
giới.
3.2. Quá trình Đổi Mới về kinh tế
- Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát tăng
lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền.
- Từ 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, lúc Lê Duẩn đi nghỉ ở Liên Xô cũ; ba vị lãnh đạo
cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công đang

10
nghỉ ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh) đã tổ chức "Hội nghị Đà Lạt". Ông và một số Giám đốc các cơ sở kinh doanh
sản xuất làm ăn có lãi đã trực tiếp gặp gỡ các vị lãnh đạo cấp cao (từ ngày 12 đến
ngày 16 tháng 7) để báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng.
Ngày 17 tháng 7, Nguyễn Văn Linh mời các vị lãnh đạo thăm cơ sở chế biến tơ tằm
và xí nghiệp chè của Thành phố Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 7,
Nguyễn Văn Linh có buổi làm việc riêng với các vị lãnh đạo này, ông đã báo cáo tất
cả tâm tư mà cá nhân mình đang nung nấu. Nội dung tư tưởng của các cuộc gặp
trong sự kiện này đã được Nguyễn Văn Linh vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện
Đại hội Đảng VI của Đảng Cộng sản Việt Nam - Khởi xướng công cuộc Đổi mới
của Việt Nam.[2]
- 1986: Sau khi Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư chính thức
phát động công cuộc Đổi Mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam chính thức thực hiện Đổi Mới, bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa-
hiện đại hóa.
- 1/3/1987: giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các tuyến đường nhằm thúc
đẩy lưu thông hàng hóa.
- 18/5/1987: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ
Mười sang thăm Liên Xô. Gorbachyov giục Việt Nam cải cách kể cả thông thương
với các nước tư bản.
- 5/4/1988: Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ về Đổi Mới quản lý kinh tế nông
nghiệp (hay còn gọi là Khoán 10).
- 24/5/1988: 19 tỉnh miền Bắc đói to. Chính quyền chính thức yêu cầu Liên Hiệp
Quốc viện trợ nhân đạo khẩn cấp.
- 12/6/1988: Nghị quyết bỏ hẳn chính sách hợp tác hóa nông nghiệp để tăng gia sản
xuất.
- 1989 Việt Nam đã xuất khấu gạo đứng thư 3 thế giới(sau Thái Lan và Hoa Kì)
- 1989: Trung Quốc xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ. Tuy
nhiên, đánh giá về các sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định tiếp tục
Đổi mới theo con đường đã chọn và vẫn thực hiện chủ nghĩa xã hội.

11
- 1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế hóa chính
thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân [3]. Bắt đầu có chủ trương
thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
- Tháng 5 năm 1990: pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân
hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
- 1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc tế.
- 2000: Luật Doanh nghiệp ra đời.
- 2001: ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ký kết Hiệp định Thương
mại Việt-Mỹ.
- 2002: tự do hóa lãi suất cho vay VND cho các tổ chức tín dụng.
- 2005: Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
- 2006: Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận
cho đảng viên làm kinh tế tư nhân.
- 7/11/2006: Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới.
4. Đổi Mới về chính trị
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Đổi Mới không phải là từ
bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh
đạo duy nhất. Đổi Mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay, Đổi Mới về chính trị ở Việt Nam là chuyển từ việc lãnh đạo
kinh tế chủ quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với
các nước XHCN sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các
nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu
vực ASEAN, APEC, WTO...
Năm1994: bắt đầu thực hiện chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với các
thành viên Chính phủ.
Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng
lớp nhân dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.

12
5. Đổi Mới về văn hóa
Đổi Mới trên mặt văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi Mở, tương tự
như chính sách Glastnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi Mới
Kinh tế nhưng sau đó dừng lại trong thập niên 1991. Việc đổi mới văn hóa là điều
cần thiết để hòa nhập với xu thế của đất nước, nhưng những tinh hoa văn hóa nên
được bảo toàn và gìn giữ, lưu truyền cho các thế hệ sau.
6. Đổi Mới trên các mặt khác
Đổi Mới trên các mặt khác vẫn đang diễn ra và vẫn chưa có những tổng kết khoa
học về vấn đề này. Ví dụ như Việt Nam đang thực hiện Đổi Mới giáo dục: chuyển
từ lối giáo dục từ chương (vốn là truyền thống trong cách giáo dục Á Đông) sang
phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, tăng tính chủ động cho học
sinh và tấn công vào căn bệnh thành tích.
III. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm lịch sử nhằm phát triển kinh tế xã
hội trong giai đoạn hiện nay
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát
triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây
dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra
đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi
những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ

13
luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp,
các ngành.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện
công cuộc Đổi mới, thay đổi mô hình xây dựng đất nước, đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng kinh tế, xã hội, phá vỡ chiến lược bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam
của chủ nghĩa đế quốc, từng bước phát triển kinh tế và đến nay đã đạt được những
thành tựu to lớn về nhiều mặt: chính trị ổn định, giáo dục được cải thiện và có bước
tiến bộ vượt bậc, văn hóa đa dạng, hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống,
hòa nhập nhưng không hòa tan, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia; có quan
hệ hợp tác chiến lược với 14 nước, trong đó có 4 nước thành viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn độ... Từ một trong
những nước nghèo nhất thế giới (khi bước vào công cuộc đổi mới, 1986), đến nay,
Việt Nam bắt đầu được ghi tên vào danh sách các nước có mức sống trung bình trên
thế giới.

14
KẾT LUẬN
Nhìn chung, Đảng và Nhà nước đã vận dụng tốt quan điểm lịch sử-cụ thể, đặt nền
kinh tế Việt Nam trong tính lịch sử và tính cụ thể để đề ra những kế hoạch phát triển
có lợi nhất cho đất nước. Việt Nam từ một nước có mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung chuyển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng
giao lưu với bạn bè năm châu bốn bể, làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên đa
dạng phong phú và vô cùng khởi sắc. Những thành tựu của 35 năm tiến hành sự
nghiệp đổi mới đã tiếp tục chứng minh đường lối cách mạng của nước Việt Nam là
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế vận động của thời đại; khẳng định sự lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng là yếu tố then chốt quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong đó việc ứng dụng thành tựu của phép biện chứng duy vật, cụ thể là
nguyên tắc lịch sử vào thực tiễn kinh tế Việt Nam có ý nghĩa rất lớn cho thời kì
cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Để thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguyên tắc
này, sẽ là bổ ích hơn nếu ta mở rộng nghiên cứu những lý do nguyên tắc lịch sử-cụ
thể là linh hồn phương pháp luận của chủ nghĩa Mác. Như vậy, triết học Mác-Lênin
nói chung và nguyên tắc lịch sử-cụ thể nói riêng đã chứng minh được tính khoa học
và thực tiễn của mình, đóng vai trò vô cùng thiết yếu trong việc phát triển nền kinh
tế đối ngoại.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
3. www.luathoangphi.vn, 02/11/2022, Biện chứng là gì?,
https://luathoangphi.vn/bien-chung-la-gi/ .
4. www.gso.gov.vn, 02/11/2022, Những dấu ấn quan trọng về kinh tế-xã hội trong
hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê,
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/
5. www.hcma2.hcma.vn, 02/11/2022, Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, https://hcma2.hcma.vn/khoahoc/Pages/hoi-thao-toa-dam.aspx?
CateID=272&ItemID=11234
6. www.tapchicongsan.org.vn, 02/11/2022, Xây dựng nền văn hóa mới, con người
mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/824543/xay-
dung-nen-van-hoa-moi%2C-con-nguoi-moi-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-o-
nuoc-ta-hien-nay.aspx
16
7. www.tapchicongsan.org.vn, 02/11/2022, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-so-van-de-
ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-
nam.aspx
8. www.qdnd.vn, 02/11/2022, Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-
song/nghi-quyet-va-cuoc-song/hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-
xa-hoi-chu-nghia-655728

Tài liệu tiếng Anh


9. Enrico Barone (1908), Il Ministro della Produzione nello Stato Collettivista, tạp
chí Giornale degli Economisti, số 2, tr.267-293.
10. Friedrich Hayek (1945), Sử dụng tri thức trong xã hội (The Use of Knowledge
in Society), chuyên san American Economic Review.
11. Oskar Ryszard Lange (1936), Lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa xã hội.
12. Fred Manville Taylor (1929), The Guidance of Production in a Socialist State,
tạp chí American Economic Review, số 19(1), tr.1-8.

17

You might also like