Professional Documents
Culture Documents
LUẬT QUỐC TẾ
LUẬT QUỐC TẾ
Có giá trị áp dụng thấp hơn điều ước quốc tế. Khi không có điều ước, các bên mới lựa chọn áp dụng
tập quán hay không.
Có giá trị áp dụng ưu thế hơn. Khi các chủ thể đã tham gia ký kết thì bắt buộc phải áp dụng trong hoạt
động hợp tác quốc tế
Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Khối quân Liên đoàn bóng đá thế giới
Ví dụ
sự bắc đại tây dương (NATO) (FIFA), Hội chữ thập đỏ quốc tế
(3) Chủ thể: các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
– Hiện tại (năm 2016) trên thế giới chỉ còn duy nhất 1 chủ thể loại này là Palestin (liên hợp quốc đã
trao cho Palesin quy chế Nhà nước quan sát viên)
– Với chủ thể này, do không phải là quốc gia nên không có chủ quyền quốc gia, mà chỉ có chủ quyền
dân tộc.
Chủ quyền dân tộc hạn chế so với chủ quyền quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết có các quyền năng:
+ được PL quốc tế bảo vệ
+ được nhận trợ giúp từ các quốc gia khác
+ có quyền đưa ra các quan điểm chính trị và tự quyết về vận mệnh dân tộc mình, trong đó có cả quyền
quyết định sử dụng sức mạnh vũ trang để đấu tranh giành độc lập tự do
+ có quyền thiết lập quan hệ với các chủ thể của luật quốc tế khác
(4) Chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
Chú ý: riêng với trường hợp Đài Loan thì trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất, một số quốc gia
đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (như các quốc gia châu Âu), một số quốc gia khác không công
nhận Đài Loan là 1 quốc gia. Thực tế trong nhiều tổ chức quốc tế thì cả Đài Loan và Trung Quốc đều
là thành viên (như WTO)
Trong hệ thống luật Quốc tế, có rất ít quy phạm mệnh lệnh mà chủ yếu là quy phạm tùy nghi (do tính
chất thỏa thuận của luật quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các quốc gia). Ngược lại với luật
quốc gia thì đa phần là quy phạm mệnh mệnh, rất ít quy phạm tùy nghi.
– Quy phạm mệnh lệnh trong hệ thống luật quốc tế chỉ bao gồm 2 nhóm:
+ nhóm 7 nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế,
+ nhóm các quy phạm của luật Quốc tế trong vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của con người
b. Căn cứ vào hình thức tồn tại
– Quy phạm điều ước quốc tế: tồn tại ở dạng văn bản
– Quy phạm tập quán quốc tế: tồn tại ở dạng phi văn bản
Chủ yếu là quy phạm mệnh lệnh, rất Chủ yếu là quy phạm tùy nghi, rất ít quy
Quy phạm
ít quy phạm tùy nghi phạm mệnh lệnh
Câu hỏi: nếu có 1 vấn đề phát sinh mà luật quốc gia mâu thuẫn với luật quốc tế thì sẽ xử lý thế nào ?
Trả lời: sẽ ưu tiên áp dụng PL quốc tế. Vì trong mọi văn bản PL của VN đều quy định “trong trường
hợp các quy định của luật này trái với các điều ước quốc tế mà VN là thành viên thì ưu tiên áp dụng
điều ước quốc tế”. Đây cũng là quy định chung đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Có điều này
là vì xuất phát từ 1 trong các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế: nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện cam kết quốc tế, trong đó quy định “khi 1 quốc gia là thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc
gia đó phải có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện trung thực, đầy đủ, ngay lập tức tất cả các nghĩa
vụ của mình; các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật trong nước và luật quốc tế
để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình”
Chú ý: cần hiểu là luật quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành, chứ không phải luật quốc tế có giá trị pháp lý
cao hơn luật quốc gia.
Câu hỏi: giữa luật quốc tế và luật quốc gia thì luật nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trả lời: đây là 2 hệ thống PL độc lập nên không thể so sánh hệ thống nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trong từng trường hợp cụ thể nếu luật quốc gia và luật quốc tế cùng quy định 1 vấn đề thì sẽ ưu tiên sử
dụng luật quốc tế.
Câu hỏi: nếu luật Quốc tế mâu thuẫn với Hiến pháp thì xử lý thế nào ?
Trả lời: Về mối quan hệ giữa luật Quốc tế với Hiến pháp, hiện nay các quốc gia có quan điểm khác
nhau: một số quốc gia cho rằng xuất phát từ nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế thì
luật Quốc tế sẽ được ưu tiên thi hành ngay cả so với Hiến pháp; một số quốc gia khác lại coi luật Quốc
tế có giá trị ưu tiên thi hành nhưng vẫn phải ở sau Hiến pháp.
Thực tế Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận rõ ràng vị trí của luật Quốc tế so với
Hiến pháp ở ngay trong văn bản Hiến pháp, trừ Việt Nam.
Lý lẽ của VN khi không đưa quy định về vị trí của luật Quốc tế trong Hiến pháp: VN có các văn bản
PL quy định về việc ký kết các điều ước quốc tế (mới nhất là Luật điều ước quốc tế 2016) trong đó nêu
rõ khi đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế thì phải không được trái với Hiến pháp, do đó ở VN sẽ
không có chuyện ký kết điều ước quốc tế trái với Hiến pháp VN
Câu hỏi: Phương tiện bổ trợ nguồn có phải là nguồn của PL không ?
Trả lời: nếu với luật quốc gia thì là KHÔNG; nếu với luật quốc tế thì là CÓ
2. Căn cứ để xác định nguồn
c. Điều kiện để điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực
– Điều ước quốc tế phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau thì mới phát sinh hiệu lực:
(1) Được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
(2) Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế
(3) Phải được ký kết đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền
– Điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tuyệt đối nếu vi phạm điều kiện (2). Tức là nếu điều ước quốc tế vi phạm
các quy phạm jus cogens thì sẽ bị vô hiệu ngay từ khi nó phát sinh hiệu lực. Còn nếu điều ước quốc tế
đã có rồi, sau đó mới có quy phạm jus cogens và chúng mâu thuẫn với nhau thì điều ước quốc tế sẽ vô
hiệu kể từ thời điểm quy phạm jus cogens có hiệu lực.
– Nếu vi phạm điều kiện (1) hoặc (3) thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tương đối. Tức là vẫn được coi là
có hiệu lực nếu các bên vẫn đồng ý thực thi.
Chú ý: trình tự, thủ tục, và thẩm quyền ở đây là những quy định trong luật quốc gia khi quy định về
việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế (mỗi quốc gia có thể có quy định khác nhau).
Cùng là nguồn cơ bản của luật quốc tế, có giá trị pháp lý ngang nhau
Câu hỏi: Khi gặp 1 vấn đề mà cả điều ước và tập quán đều điều chỉnh, mà điều ước lại mâu thuẫn với
tập quán, thì sẽ áp dụng thế nào ?
Trả lời: sẽ theo thỏa thuận của các bên, nếu 2 bên không thỏa thuận được thì sẽ ưu tiên áp dụng điều
ước. Vì điều ước có tính rõ ràng, minh bạch thể hiện được ý chí của các bên.
Chú ý: ở đây hiểu là điều ước quốc tế được “ưu tiên sử dụng” chứ không phải điều ước quốc tế có giá
trị pháp lý cao hơn.
Câu hỏi trắc nghiệm: các câu khẳng định sau là Đúng / Sai:
(1) Chủ quyền quốc gia là yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
(2) Trong 1 số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể trở thành chủ thể của luật Quốc tế
(3) Điều ước quốc tế chỉ có thể phát sinh hiệu lực sau khi các quốc gia tiến hành thủ tục phê chuẩn
(4) Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các quốc gia thành viên mà không có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia thứ 3
(5) Quy phạm tùy nghi không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với chủ thể của luật Quốc tế
Trả lời:
(1) Sai. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Bốn yếu tố cấu thành nên quốc gia gồm:
+ có lãnh thổ xác định
+ có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
==> Do đó chủ quyền quốc gia không phải yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
(2) Sai. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
Mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL quốc tế,
VD trong liên minh châu Âu thì công dân có quyền kiện bất kỳ quốc gia nào bị coi là vi phạm nhân
quyền, tuy nhiên cá nhân, pháp nhân này không được coi là chủ thể của PL quốc tế vì không đảm bảo
khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập.
Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm:
+ các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
(3) Sai. Theo Công ước Viên 1969 về điều ước quốc tế thì hiệu lực của điều ước quốc tế do các bên
thỏa thuận, có thể ngay sau khi ký đầy đủ, hoặc phải yêu cầu được phê chuẩn / phê duyệt
(4) Sai. Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là thành viên
của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt,
điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc
(5) Sai. Vì quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt buộc đối
với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp
dụng khác.
2. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
– Đây là nguyên tắc jus cogens mới được đưa vào luật quốc tế từ năm 1945. Trước đó 1 nguyên tắc jus
cogens từ luật quốc tế cổ đại là quyền được sử dụng chiến tranh: “Bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền
sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”.
– Khoản 4 Điều 2 của Hiến chương LHQ 1970: Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc từ bỏ đe
dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về
lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những
mục đích của Liên hợp quốc.
– Nội dung của nguyên tắc này:
+ cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế
+ cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực
+ không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống lại quốc gia
thứ ba
+ không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia
khác
+ không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ trang phi chính
quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác
– Dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực:
+ theo nghĩa trước đây là dùng sức mạnh vũ trang hoặc đe dọa sử dụng sức mạnh vũ trang để buộc
quốc gia khác phải theo ý mình
+ theo nghĩa hiện đại: là dùng sức mạnh vũ trang và phi vũ trang như sức mạnh kinh tế, chính trị, … để
buộc quốc gia khác phải phục tùng mình
– Ngoại lệ:
+ khi quốc gia thực hiện quyền tự vệ hợp pháp
+ khi quốc gia sử dụng sức mạnh vũ trang để trừng phạt quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL
quốc tế theo Nghị quyết của Hội đồng bảo an LHQ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giành
quyền dân tộc tự quyết của mình
Câu hỏi: Trường hợp 1 quốc gia tập trận sát biên giới một quốc gia khác thì có bị coi là đe dọa dùng vũ
lực ?
Trả lời: Không. Vì quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình (tất nhiên phải đảm
bảo không ảnh hưởng đến láng giềng như không để đạn bay sang lãnh thổ láng giềng). Trừ trường hợp
2 quốc gia đã thỏa thuận với nhau về vùng biên giới phi quân sự (thường sau khi đàm phán phân chia
lãnh thổ), khi đó nếu tập trận trong vùng phi quân sự sẽ bị coi là đe dọa dùng vũ lực.
– Khi nào được tự vệ hợp pháp:
+ phải bị tấn công trước
+ hành vi tự vệ phải tương ứng với hành vi tấn công
+ ngay khi thực hiện hành vi tự vệ, quốc gia phải thông báo cho Hội đồng bảo an LHQ, và hành vi tự
vệ này phải chấm dứt ngay lập tức khi Hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp cần thiết tạm thời
3. Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
– Tranh chấp quốc tế là những hoàn cảnh thực tế mà các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế
có quan điểm mâu thuẫn trái ngược nhau, đồng thời có những yêu cầu đòi hỏi về mặt lợi ích trái ngược
nhau không thể dung hòa cần phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở PL quốc tế
– Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ: Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh
chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hoà bình, sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và
công lý
– Nội dung của nguyên tắc: khi có tranh chấp quốc tế nảy sinh, các quốc gia có nghĩa vụ phải giải
quyết bằng biện pháp hòa bình.
Theo Hiến chương LHQ, các biện pháp hòa bình gồm: đàm phán, trung gian, hòa giải, thông qua ủy
ban điều tra, thông qua ủy ban hòa giải, thông qua cơ quan tài phán quốc tế.
Chú ý: trong thực tế các quốc gia có thể sử dụng các biện khác miễn không phải là sử dụng vũ lực, VD
có thể sử dụng biện pháp môi giới để giải quyết tranh chấp (giống với môi giới trong thương mại)
– Ngoại lệ: không có
4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
– Công việc nội bộ của quốc gia được hiểu là những công việc thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc
gia. Nó không chỉ bao hàm các công việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn bao hàm các công
việc nằm ngoài phạm vi lãnh thổ nhưng thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc gia.
– Khoản 7 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc
được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và
không đòi hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo
quy định của Hiến chương.”
– Nội dung:
+ cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ
quyền, nền tảng chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia
+ cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc
mình
+ cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc
gia khác
+ cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác
+ tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phù
hợp với nguyện vọng của dân tộc.
– Trên cơ sở chủ quyền, quốc gia có toàn quyền quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại của quốc gia
mình, nhưng phải phù hợp với luật quốc tế, nhất là trong các lĩnh vực nhân quyền, nhân đạo, kinh tế
quốc tế, môi trường, …
– Ngoại lệ:
+ khi quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người thì các quốc gia khác
có quyền áp dụng các biện pháp nhằm can thiệp, bảo đảm các quyền, giá trị chung của con người. VD
năm 1979 tại Campuchia xảy ra nạn diệt chủng ==> xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền
được sống) nên quốc gia khác có quyền can thiệp.
+ khi trong nội bộ quốc gia xảy ra các cuộc xung đột vũ trang mà các cuộc xung đột này có nguy cơ
lan rộng gây ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế thì trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng bảo an
LHQ, các quốc gia khác có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia đó
+ 1 quốc gia có quyền can thiệp vào nội bộ 1 quốc gia khác nếu quốc gia đó yêu cầu
Chú ý: để xác định 1 quốc gia “có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người”,
hiện nay luật quốc tế chưa có quy định rõ ràng ==> các quốc gia có thể lợi dụng điểm này để can thiệp
vào nội bộ của nước khác (dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo”).
5. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
– Khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc đều phải làm
tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo hưởng toàn bộ các
quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có”
– Nội dung:
+ Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện 1 cách tận tâm, thiện chí, trung thực, đầy đủ
tất cả các cam kết quốc tế của mình, bao gồm:
● các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia đó
● hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
● các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế mà quốc gia đó là 1 trong các bên tranh chấp
+ Các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia để từ chối
thực hiện cam kết quốc tế của mình
+ Các quốc gia không được phép ký kết tham gia các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn với các
cam kết quốc tế mà quốc gia đã là thành viên
– Ngoại lệ:
+ khi 1 bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ điều ước thì bên còn lại có quyền viện dẫn sự vi phạm đó
để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình
+ khi xuất hiện sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan
+ khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới có nội dung mâu thuẫn với các cam kết quốc tế
IV. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển
1. Vùng tiếp giáp lãnh hải
– Định nghĩa: Là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải và có bề rộng không quá 24
hải lý tính từ đường cơ sở. Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền riêng biệt và hạn
chế đối với tàu thuyền nước ngoài.
– Cách xác định:
+ ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển
+ ranh giới ngoài là đường nối liền các điểm cách điểm gần nhất của đường cơ sở 1 khoảng cách không
quá 24 hải lý
– Quy chế pháp lý (Điều 33 Công ước luật biển 1982): Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển
có quyền áp dụng tất cả các biện pháp nhằm ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm trong 4 lĩnh
vực là hải quan, thuế, y tế, nhập cư.
Ngoài ra, quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy
biển của vùng tiếp giáp lãnh hải, các quốc gia khác không được khai thác những hiện vật này mà
không có sự thỏa thuận với quốc gia ven biển.
2. Vùng đặc quyền kinh tế
– Định nghĩa: Là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải, có bề rộng 200 hải lý tính từ
đường cơ sở
– Cách xác định:
+ ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển
+ ranh giới ngoài là là đường nối liền các điểm cách điểm gần nhất của đường cơ sở 1 khoảng cách
không quá 200 hải lý
Chú ý: Từ cách xác định trên cho thấy vùng tiếp giáp lãnh hải có vị trí nằm trọn trong vùng đặc quyền
kinh tế nên vùng tiếp giáp lãnh hải được hưởng đồng thời quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
và vùng đặc quyền kinh tế, nên người ta còn gọi vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển có quy chế pháp
lý kép (hoặc quy chế hỗn hợp)
– Quy chế pháp lý:
+ Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển:
● Quốc gia ven biển có đặc quyền đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, có quyền áp
dụng tất cả các biện pháp nhằm khai thác và bảo tồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh
tế. Các đặc quyền này được xác định dựa trên tuyên bố của quốc gia ven biển về xác định
vùng đặc quyền kinh tế cũng như tuyên bố xác lập quyền chủ quyền của quốc gia ven biển
● Đối với tài nguyên cá, quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải xác định trữ lượng cá và khả
năng khai thác. Trong trường hợp khai thác không hết, quốc gia ven biển có nghĩa vụ san
sẻ cho các quốc gia khác trên cơ sở thỏa thuận có tính tới ưu tiên các quốc gia đang phát
triển và quốc gia không có biển
● Quốc gia ven biển có đặc quyền lắp đặt, sử dụng các công trình nhân tạo tại vùng đặc
quyền kinh tế
● Việc nghiên cứu khoa học biển tại vùng đặc quyền kinh tế chỉ được tiến hành nếu được sự
đồng ý của quốc gia ven biển
+ Quyền của các quốc gia khác: được hưởng 3 quyền tự do cơ bản
● Tự do hàng hải
● Tự do hàng không
● Tự do lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
Câu hỏi: Các khẳng định sau là Đúng / Sai, tại sao:
(1) Đường biên giới quốc gia trên biển:
1. Luôn có tính chất bất khả xâm phạm giống như biên giới trên bộ
2. Luôn được xác định dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia
3. Là ranh giới phân định giữa các vùng biển thuộc chủ quyền và vùng biển thuộc
quyền chủ quyền của quốc gia
(2) Quyền chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa:
1. Tồn tại có tính chất đương nhiên, không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay
danh nghĩa của quốc gia ven biển
2. Xác lập và duy trì chủ quyền lãnh thổ quốc gia đối với thềm lục địa
3. Về nội dung tương tự với quyền chủ quyền của quốc gia trong vùng đặc quyền
kinh tế
Trả lời:
(1) Câu 1:
1. Sai. Theo điều 17 của Công ước luật biển 1982, tàu thuyền của tất cả các quốc
gia có quyền đi qua không gây hại trong vùng lãnh hải. Tức là ngay trong vùng
biển nằm trong đường biên giới quốc gia trên biển, tàu thuyền các quốc gia khác
có quyền đi qua không gây hại mà không cần phải xin phép, điều này khác với
đường biên giới trên bộ khi mà bất kì sự xâm nhập nào đều phải xin phép.
2. Sai. Vì chỉ cần thỏa thuận khi có sự chồng lấn với quốc gia khác. VD với vùng
biển tại miền trung VN không có bất kỳ sự chồng lấn với quốc gia nào nên vùng
lãnh hải tại miền trung VN tự tuyên bố là 12 hải lý tính từ đường cơ sở mà không
cần thỏa thuận với bất kỳ quốc gia nào khác. Khác với việc xác định lãnh hải tại
vịnh Bắc Bộ, do có sự chồng lấn với vùng biển của Trung Quốc nên 2 nước cần
thỏa thuận với nhau.
3. Đúng. Vì vùng biển phía trong đường biên giới quốc gia trên biển là vùng biển
thuộc chủ quyền của quốc gia, còn vùng biển phía ngoài đường biên giới quốc
gia trên biển là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia.
(2) Câu 2:
1. Đúng. Theo điều 77 Công ước luật Biển 1982, các quốc gia không cần phải tuyên
bố quyền chủ quyền đối với thềm lục địa như đối với lãnh hải và đặc quyền kinh
tế.
2. Sai. Vì chỉ xác lập quyền chủ quyền, không phải chủ quyền.
3. Sai. Vì đối với quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, nếu tại vùng đặc quyền kinh
tế thì không cần xin phép, còn nếu tại thềm lục địa thì cần được sự thỏa thuận của
quốc gia ven biển. (theo Điều 79 Công ước luật biển 1982). Đặc biệt nếu lắp đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm mà phải khoan vào thềm lục địa thì bắt buộc phải xin
phép quốc gia ven biển, vì quyền khoan và cho phép khoan tại thềm lục địa thuộc
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển.
Chú ý: cần phân biệt “chủ quyền” với “quyền chủ quyền” ?
+ Chủ quyền là nói đến quyền của quốc gia đối với lãnh thổ của mình, trong phạm vi lãnh thổ thì quốc
gia có quyền tối cao.
+ Quyền chủ quyền là quyền của quốc gia đối với vùng lãnh thổ nằm bên ngoài lãnh hải. Mục đích của
quyền chủ quyền là lý do kinh tế và lý do quốc phòng (để chống lại các cuộc tấn công từ ngoài biển)
Chú ý: Cần phân biệt “quyền chủ quyền” với “quyền tài phán”
Để có thể xác lập được chủ quyền hay quyền chủ quyền, thì quốc gia cần phải có quyền tài phán, tức là
quyền xử lý các hành vi vi phạm PL. Quyền tài phán trong luật quốc tế được hiểu là quyền lập pháp,
hành pháp, và tư pháp của quốc gia đối với vùng lãnh thổ có chủ quyền hoặc quyền chủ quyền.
Thường hay nói “Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của
quốc gia ven biển” tức là quốc gia đó có quyền ban hành các quy định PL liên quan đến việc khai thác
các lợi ích kinh tế của mình, có quyền triển khai các quy định PL liên quan đến khai thác các lợi ích
kinh tế trên vùng biển đó, đồng thời xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến lợi ích kinh tế trên vùng
đặc quyền kinh tế.
Quyền chủ quyền xuất phát từ yếu tố lãnh thổ, còn quyền tài phán ngoài việc xuất phát từ căn cứ lãnh
thổ còn có thể xuất phát từ nhiều yếu tố khác, như quyền tài phán có thể xuất phát từ căn cứ quốc tịch
(VD con tàu có quốc tịch VN hoạt động trên vùng biển quốc tế thì VN vẫn có quyền tài phán đối với
con tàu đó, mặc dù con tàu đó không ở trên lãnh thổ VN, cũng không nằm trên vùng lãnh thổ mà VN
có quyền chủ quyền).
Câu hỏi: Tại sao các quốc gia phải tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế, mà không cần tuyên bố vùng nội
thủy, vùng lãnh hải, hay thềm lục địa ?
Trả lời: Vì vùng nội thủy và vùng lãnh hải là những vùng biển “truyền thống”, được quốc tế công nhận
từ lâu trước khi có Công ước LHQ về luật biển 1982, nên các quốc gia không cần phải tuyên bố mà
vẫn có chủ quyền với hai vùng biển này. Còn vùng đặc quyền kinh tế mới chỉ có từ Công ước LHQ về
luật biển 1982, nên yêu cầu các quốc gia phải đưa ra tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình (vì
trước 1982 thì vùng đặc quyền kinh tế vẫn là vùng biển quốc tế, tức là không thuộc bất cứ quốc gia
nào).
Còn về thềm lục địa, nếu chiếu theo địa chất thì thềm lục địa chính là đất liền kéo dài, vì có nước biển
nên bị ngập xuống, như vậy vốn dĩ thềm lục địa đã thuộc về quốc gia ven biển ==> không cần đưa ra
yêu sách