You are on page 1of 28

LUẬT QUỐC TẾ

(*) Dặn dò:


Biết, hiểu, thể hiện quan điểm (Cấp cao nhất).
Bài 1: Khái niệm (Học)
Bài 2: Nguồn của luật quốc tế (học hết)
Bài 3: Dân cư trong luật quốc tế (Biết - Không học)
Bài 4: Luật Ngoại giao và lãnh sự (Bỏ)
Bài 5: Lãnh thổ biên giới (Lãnh thổ bỏ, Biên giới học)
Bài 6: Tranh chấp và giải quyết tranh chấp (Không học)
Câu hỏi:
Nhận định đúng/sai có giải thích (Đúng/sai? Giải thích) - Phải nêu đúng hay sai (0,25) Giải thích ngắn
gọn (0,75) (5 điểm/5 câu)
Phân tích một điều luật của pháp luật Việt Nam trong Luật điều ước quốc tế 2016 (3 điểm) - Nhận diện
tổng quan điều luật này nói gì, khoản 1,2,3 nói điều gì, sau đó bạn hiểu điều luật này nói gì về luật đó
Câu hỏi thể hiện quan điểm (2 điểm) - Ủng hộ/Phản đối/Chống/Không chống/Phản đối/Không phản
đối và nêu lý do tại sao?
75 phút/ Biết trả lời trước, khó trả lời sau.
Không nên viết dài, mà chỉ cần đưa ra dẫn chứng đúng điều luật là được.

Tập quán quốc tế:

Có giá trị áp dụng thấp hơn điều ước quốc tế. Khi không có điều ước, các bên mới lựa chọn áp dụng
tập quán hay không.

Điều ước quốc tế:

Có giá trị áp dụng ưu thế hơn. Khi các chủ thể đã tham gia ký kết thì bắt buộc phải áp dụng trong hoạt
động hợp tác quốc tế

Vấn đề 1: Một số vấn đề lý luận chung về luật Quốc tế


I. Khái niệm
1. Định nghĩa
– NN ra đời để thực hiện 02 chức năng:
+ đối nội: thực hiện các chức năng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, điều chỉnh các quan hệ giữa các cá
nhân và pháp nhân, giữa cá nhân với NN trong phạm vi lãnh thổ quốc gia ==> sử dụng hệ thống PL
quốc gia
+ đối ngoại: quan hệ với các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế ==> sử dụng hệ thống PL quốc tế
– ĐN: Công pháp Quốc tế, hay Luật Quốc tế được hiểu là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm PL do
các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh
vực của đời sống quốc tế.

2. Các đặc trưng cơ bản của luật Quốc tế


a. Về đối tượng điều chỉnh
– Luật Quốc tế chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chính phủ, không điều chỉnh các
mối quan hệ giữa các cá nhân và pháp nhân có yếu tố nước ngoài.
VD: người VN kết hôn với người nước ngoài, doanh nghiệp VN ký kết hợp đồng với doanh nghiệp
nước ngoài đều không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật Quốc tế (mà thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật hôn nhân gia đình, luật thương mại, ở mục có yếu tố nước ngoài)
Chú ý: trong một số trường hợp đặc biệt thì cá nhân hay pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL
luật Quốc tế, VD trong liên minh EU cho phép cá nhân có quyền khởi kiện các quốc gia, chẳng hạn khi
quốc gia đó không đảm bảo quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên cá nhân hay pháp nhân đó không
được coi là chủ thể của luật Quốc tế
b. Về chủ thể
– Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
– Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm:
+ các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
(1) Chủ thể: Quốc gia
– Là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế
– Một thực thể được coi là 1 quốc gia khi có đủ 04 yếu tố:
+ có lãnh thổ xác định
+ có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
– Chủ quyền quốc gia: là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Tức là khi đã là quốc gia thì sẽ có chủ quyền, được thể hiện qua 2 khía cạnh:
+ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ: quốc gia có toàn quyền thiết lập thể chế chính trị, chế độ xã
hội, có toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi lãnh thổ của mình mà không bị các
quốc gia khác tác động
+ quyền độc lập trong quan hệ quốc tế: có toàn quyền trong việc quyết định sẽ quan hệ với ai, ký kết
các điều ước quốc tế nào, ở lĩnh vực nào, mức độ đến đâu, … hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào ý chí của
quốc gia đó mà không bị tác động của bên ngoài
Chú ý: chủ quyền dân tộc là khái niệm hẹp hơn so với chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc là việc
dân tộc tự quyết định vận mệnh của mình.
Chú ý: Đài Loan không phải là quốc gia vì Đài Loan không có lãnh thổ xác định (về mặt pháp lý thì
đảo Đài Loan vẫn thuộc về Trung Quốc), mặc dù 3 yếu tố còn lại đều đáp ứng.
Đôi khi vẫn gặp thông tin “Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới”, tuy nhiên thực chất Vatican không
phải là 1 quốc gia, vì không có lãnh thổ xác định (vẫn thuộc Italia). Mặt khác, dân cư Vatican không ổn
định, vì khi 1 người từ 1 quốc gia đến Vatican làm việc (VD mục đích tôn giáo) thì ngay lập tức họ
được cấp quốc tịch Vatican trong khi quốc tịch của họ vẫn còn, và khi kết thúc công việc, họ rời khỏi
Vatican thì ngay lập tức cũng không còn quốc tịch Vatican. Ngoài ra Vatican cũng không có bộ máy
quyền lực NN, mà chỉ có các thiết chế tôn giáo. Tuy nhiên Vatican vẫn có tư cách độc lập khi tham gia
vào các quan hệ PL quốc tế.
Chú ý: vấn đề công nhận quốc gia. Hiện vẫn còn có tranh luận về việc 1 thực thể đáp ứng đầy đủ 4 yếu
tố trên thì có được coi là quốc gia không, việc không được các quốc gia khác công nhận sẽ ra sao (VD
trường hợp VN năm 1945 chưa được quốc gia nào công nhận, đến tận năm 1979 mới được gia nhập
Liên hợp quốc) ? Hiện có 2 học thuyết:
+ thuyết Cấu thành: 1 thực thể khi đã có đủ 4 yếu tố trên sẽ trở thành 1 quốc gia khi được hầu hết các
quốc gia khác công nhận
+ thuyết Tuyên bố: 1 thực thể đáp ứng đủ 4 yếu tố trên thì sẽ thành 1 quốc gia, không cần biết các quốc
gia khác có công nhận hay không (quan điểm của VN theo thuyết Tuyên bố)
– Công nhận: là hành vi chính trị pháp lý của quốc gia nhằm công nhận chủ thể mới ra đời của luật
Quốc tế, thể hiện quan điểm muốn thiết lập quan hệ một cách toàn diện và đầy đủ với chủ thể / quốc
gia đó.
Tính chính trị và tính pháp lý của việc công nhận quốc gia thể hiện ở:
+ Việc công nhận hay không công nhận 1 quốc gia không có ý nghĩa quyết định tới tư cách chủ thể luật
Quốc tế của quốc gia mới ra đời. (==> tính pháp lý)
Tuy nhiên việc không được công nhận sẽ có ảnh hưởng đến việc quan hệ quốc tế của quốc gia đó. VD
trường hợp VN do không được công nhận nên không thể tham gia Liên hợp quốc (cho đến năm 1979,
trước đó VN được xếp vào nhóm “các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết”)
+ Việc 1 quốc gia mới ra đời cũng không đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia đã tồn tại phải tiến hành
công nhận quốc gia đó. (==> tính chính trị)
==> việc 1 quốc gia công nhận 1 quốc gia khác (mới thành lập) phụ thuộc vào lợi ích của việc công
nhận quốc gia đó (nếu tôi công nhận anh thì tôi sẽ được lợi gì và có thể có bất lợi gì)
VD với trường hợp Đài Loan hiện nay, rất nhiều quốc gia đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (các
quốc gia phương Tây), trong khi cũng có nhiều quốc gia khác không coi Đài Loan là 1 quốc gia (các
quốc gia chịu ảnh hưởng của Trung Quốc như VN, Lào, Campuchia, …)
+ Các thể loại công nhận: 2 thể loại
● Công nhận quốc gia: quốc gia được thành lập theo 2 con đường:
● Cách cổ điển: có 1 vùng lãnh thổ, con người đến ở, xã hội hình thành và phát triển đến
mức thành lập quốc gia. (Hiện nay thì không còn quốc gia nào hình thành bằng con đường
này, lý do vì tất cả các vùng lãnh thổ trên thế giới đều thuộc về 1 quốc gia nào đó)
● Thông qua cách mạng xã hội: ví dụ VN năm 1945 được hình thành sau CM tháng 8 (trước
đó được xếp vào nhóm Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) ==> đặt ra vấn đề công
nhận từ các quốc gia khác
● Công nhận chính phủ: chính phủ là đại diện cho quốc gia, việc công nhận 1 chính phủ tức
là thừa nhận sự hơp pháp của chính phủ đó. Vấn đề công nhận chính phủ thường được đặt
ra khi chính phủ được thành lập theo con đường không hợp hiến (de-facto), tức là chính
phủ vi hiến (không được thành lập theo Hiến pháp của quốc gia đó, VD gần đây chính phủ
quân sự ở Thái Lan được thành lập sau cuộc đảo chính). Ngược lại là chính phủ hợp hiến
(được thành lập theo Hiến pháp) thì sẽ không đặt ra vấn đề phải công nhận.
Điều kiện để 1 chính phủ vi hiến được công nhận:
● Chính phủ đó được đa số cư dân quốc gia đó thừa nhận, ủng hộ
● Chính phủ đó phải đã và đang thiết lập quyền kiểm soát một cách thực sự trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ quốc gia đó
● Chính phủ đó phải có khả năng kiểm soát lãnh thổ quốc gia đó 1 cách lâu dài
Cách thức công nhận: thông thường nhất là gửi điện chúc mừng Chính phủ
+ Các hình thức công nhận: 03 hình thức
● Công nhận de-jure: là hình thức công nhận đầy đủ, chính thức và toàn diện nhất, thể hiện
mong muốn thiết lập quan hệ toàn diện, chính thức và đầy đủ giữa 2 quốc gia
● Công nhận de-facto: là hình thức công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, thể hiện thái
độ thận trọng của quốc gia công nhận đối với các diễn biến tiếp theo của chủ thể mới (tức
là công nhận từng phần, có thể dẫn tới công nhận de-jure hoặc không công nhận nữa)
● Công nhận ad-hoc: tức là công nhận theo vụ việc. Chưa công nhận nhưng trong từng vụ
việc cụ thể thì sẽ công nhận. VD chỉ công nhận là quốc gia trong hợp tác thương mại
+ Các phương pháp công nhận: 2 phương pháp
● Công nhận minh thị: là hình thức công nhận công khai, minh bạch, như gửi điện chúc
mừng, tuyên bố, hoặc bằng các văn bản thể hiện rõ ràng việc công nhận quốc gia đó
● Công nhận mặc thị: không công nhận một cách công khai, mà bằng những hành động cụ
thể để có thể duy diễn rằng đã công nhận
– Kế thừa quốc gia: là việc 1 quốc gia thay thế cho 1 quốc gia khác trong vấn đề thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Kế thừa quốc gia được đặt ra khi có sự thay đổi về chủ quyền quốc gia một cách tuyệt đối, gồm:
+ thành lập quốc gia sau cách mạng xã hội, VD Liên Xô
+ thành lập quốc gia sau cách mạng giải phóng dân tộc như VN, Lào, Campuchia
+ thành lập quốc gia sau khi chia tách, sáp nhập
Nội dung kế thừa:
+ kế thừa về lãnh thổ quốc gia: kể cả trường hợp lãnh thổ quốc gia bị chiếm đóng bất hợp pháp thì
quốc gia kế thừa vẫn có chủ quyền với phần lãnh thổ đó
+ kế thừa về tài sản quốc gia
+ kế thừa quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế: các quốc gia mới thành lập có quyền kế thừa
hoặc không kế thừa các điều ước quốc tế mà quốc gia trước đây tham gia, có thể kế thừa toàn bộ hoặc
kế thừa có chọn lọc những điều ước quốc tế phù hợp với quốc gia mới thành lập. Tuy nhiên theo Công
ước Viên 1978 thì với điều ước quốc tế về Biên giới lãnh thổ thì quốc gia mới thành lập bắt buộc phải
kế thừa.
Thực tế: năm 1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó tuyên bố “bãi bỏ tất cả các điều
ước quốc tế mà Pháp đã ký liên quan đến VN”, nhưng đến năm 1999, khi đàm phán với Trung Quốc về
việc phân chia biên giới trên bộ thì VN lại đề nghị 2 bên tuân thủ theo Hiệp ước Pháp – Thanh 1858 về
phân định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc
+ kế thừa về quy chế thành viên trong các điều ước quốc tế: chưa có quy định cụ thể, hiện thay thông
thường các tổ chức quốc tế sẽ kết nạp quốc gia mới thành lập như 1 thành viên mới

(2) Chủ thể: các tổ chức quốc tế liên chính phủ


– Là chủ thể hạn chế và phái sinh.
Câu hỏi: Vì sao nói quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là hạn chế và phái sinh ?
Khác với chủ thể quốc gia là loại chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế, vì tất cả các quan hệ PL
quốc tế ban đầu đều do các quốc gia đặt ra, các quốc gia đóng vai trò trung tâm trong PL quốc tế, quốc
gia là thực thể có quyền năng cơ bản và đầy đủ nhất (xuất phát từ thuộc tính chủ quyền quốc gia), cứ
có đầy đủ 4 yếu tổ là trở thành quốc gia và có đầy đủ quyền năng tham gia vào các quan hệ luật quốc tế
mà chỉ phụ thuộc vào ý chí của chính quốc gia đó.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ không có quyền năng như quốc gia, mà quyền năng chủ thể của tổ chức
liên chính phủ do các quốc gia thành viên tự hạn chế 1 phần quyền năng chủ thể của mình để trao cho
tổ chức quốc tế liên chính phủ để đại diện cho các quốc gia thành viên để tham gia các quan hệ PL
quốc tế. Do đó quyền năng của tổ chức quốc tế không phải do tự thân mà có ==> quyền năng phái sinh.
Khác với quốc gia có thể tham gia bất kỳ quan hệ quốc tế trên bất kỳ lĩnh vực nào (chính trị, quân sự,
kinh tế, tôn giáo, văn hóa, …), thì 1 tổ chức quốc tế chỉ tham gia vào 1 hoặc 1 số lĩnh vực nhất định, ví
dụ WTO chỉ tham gia trên lĩnh vực thương mại, NATO chỉ hoạt động trên lĩnh vực quân sự, Liên hợp
quốc chỉ hoạt động trên lĩnh vực duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, ASEAN chỉ hoạt động trên
lĩnh vực kinh tế và chính trị. Quyền năng của tổ chức quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế hoàn toàn
phụ thuộc vào các quốc gia thành viên ==> quyền năng hạn chế.
– Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trên cơ
sở 1 điều ước quốc tế nhằm hoạt động theo đúng mục đích và tôn chỉ của tổ chức đó.
Chú ý: chỉ có tổ chức quốc tế liên chính phủ mới là chủ thể của luật Quốc tế, còn tổ chức quốc tế phi
chính phủ không phải là chủ thể của luật Quốc tế.
– Phân biệt tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức quốc tế phi chính phủ:
Tổ chức quốc tế liên chính phủ Tổ chức quốc tế phi chính phủ

Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Khối quân Liên đoàn bóng đá thế giới
Ví dụ
sự bắc đại tây dương (NATO) (FIFA), Hội chữ thập đỏ quốc tế

Mục Phi lợi nhuận, thường vì mục


Hoạt động vì mục đích chính trị, kinh tế
đích đích nhân đạo

Là các quốc gia, trong 1 số trường hợp đặc biệt


thì tổ chức liên chính phủ này có thể là thành
Thành
viên của tổ chức liên chính phủ khác, VD liên Thường là cá nhân, pháp nhân
viên
minh châu Âu (EU) là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)

Có bộ máy, cơ quan để duy trì hoạt động


Bộ máy Không có bộ máy, cơ quan như
thường xuyên của tổ chức, thường gồm cơ quan
tổ chức tổ chức liên chính phủ
đoàn thể, cơ quan đại diện, ủy ban thư ký, …

(3) Chủ thể: các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
– Hiện tại (năm 2016) trên thế giới chỉ còn duy nhất 1 chủ thể loại này là Palestin (liên hợp quốc đã
trao cho Palesin quy chế Nhà nước quan sát viên)
– Với chủ thể này, do không phải là quốc gia nên không có chủ quyền quốc gia, mà chỉ có chủ quyền
dân tộc.
Chủ quyền dân tộc hạn chế so với chủ quyền quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết có các quyền năng:
+ được PL quốc tế bảo vệ
+ được nhận trợ giúp từ các quốc gia khác
+ có quyền đưa ra các quan điểm chính trị và tự quyết về vận mệnh dân tộc mình, trong đó có cả quyền
quyết định sử dụng sức mạnh vũ trang để đấu tranh giành độc lập tự do
+ có quyền thiết lập quan hệ với các chủ thể của luật quốc tế khác
(4) Chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
Chú ý: riêng với trường hợp Đài Loan thì trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất, một số quốc gia
đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (như các quốc gia châu Âu), một số quốc gia khác không công
nhận Đài Loan là 1 quốc gia. Thực tế trong nhiều tổ chức quốc tế thì cả Đài Loan và Trung Quốc đều
là thành viên (như WTO)

c. Đặc trưng về sự hình thành luật quốc tế


– Thỏa thuận là con đường duy nhất để hình thành nên các quy phạm PL quốc tế. Khác với luật quốc
gia do cơ quan quyền lực NN ban hành.
Luật quốc tế đa phần gồm các quy phạm tùy nghi, khác với luật quốc gia đa phần là quy phạm mệnh
lệnh. Vì luật quốc gia là ý chí của giai cấp thống trị, còn luật quốc tế được hình thành trên con đường
thỏa thuận, không có quốc gia nào đứng trên quốc gia nào
– Đặc trưng về sự thực thi luật Quốc tế: luật Quốc tế khác với luật quốc gia ở chỗ luật Quốc tế không
có hệ thống các cơ quan để cưỡng chế thi hành PL. Các quy phạm PL quốc tế được đảm bảo thi hành
trên cơ sở cơ chế tự cưỡng chế. Tự cưỡng chế ở đây không phải là “tự tôi cưỡng chế tôi”, mà trong
quan hệ giữa các chủ thể với nhau thì các chủ thể tự cưỡng chế nhau để luật quốc tế được thi hành. Có
2 hình thức tự cưỡng chế:
+ cưỡng chế riêng lẻ: trong quan hệ song phương giữa 2 quốc gia thì các quốc gia tự áp dụng các
phương pháp để buộc bên kia phải thi hành
+ cưỡng chế tập thể: trong khuôn khổ các điều ước quốc tế đa phương, nếu 1 bên không tuân thủ thì
các bên còn lại sẽ áp dụng các biện pháp để buộc bên đó phải tuân thủ
Khác với luật quốc gia có hệ thống các cơ quan cưỡng chế thi hành như tòa án, viện kiểm sát, công án,
cảnh sát, …
Câu hỏi: với cơ chế tự cưỡng chế thì phải chăng luật quốc tế chỉ mang tính hình thức ?
Trả lời (tự trả lời): khi 1 quốc gia vi phạm luật quốc tế thì sẽ bị dư luận quốc tế lên án. Mặc dù dư luận
quốc tế không có tính cưỡng chế nhưng gây ảnh hưởng lớn đối với quốc gia bị lên án (tương tự như dư
luận xã hội trong quốc gia tuy không có tính cưỡng chế bắt buộc nhưng tác động lên đối tượng còn hơn
của sự trừng phạt của PL). Thực tế lịch sử cho thấy trong các tranh chấp quốc tế, nhất là giữa quốc gia
“nhỏ” với cường quốc, thì dù cường quốc có “thua” thì cường quốc cũng không bao giờ thừa nhận
“thua”, tuy nhiên cường quốc sẽ tìm cách cách khác để “bồi thường, bù đắp” cho nước nhỏ. Ví dụ
trường hợp Nicaragua kiện Mỹ năm 1986 ra Tòa án Công lý quốc tế, Mỹ bị xử thua và phải bồi
thường, Mỹ tuyên bố bác bỏ phán quyết của tòa, nhưng sau đó Mỹ dùng biện pháp viện trợ như 1 cách
khác để bồi thường cho Nicaragua. Hoặc với trường hợp Hội bảo vệ nạn nhân chất độc da cam của Việt
Nam kiện các công ty hóa chất, quân sự của Mỹ, dù không được phía Mỹ thừa nhận, nhưng phía Mỹ
thông qua nhiều tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế đã hỗ trợ cho VN rất nhiều (như chương trình học
bổng Fullbright).

II. Quy phạm pháp luật luật Quốc tế


1. Định nghĩa
– Cũng giống như hệ thống PL quốc gia, quy phạm PL luật Quốc tế là thành tố nhỏ nhất tạo nên hệ
thống PL Quốc tế
– Quy phạm PL luật Quốc tế là những quy tắc xử sự do các quốc gia và các chủ thể của luật Quốc tế
thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể đó.
2. Phân loại
a. Căn cứ vào giá trị hiệu lực
– Quy phạm mệnh lệnh (jus cogens): là những quy phạm mang tính chất chủ đạo, bao trùm và có giá trị
bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực. Quy phạm jus cogens được coi là thước đo tính
hợp pháp của tất cả các nguyên tắc và quy phạm PL luật quốc tế
– Quy phạm thông thường (hay quy phạm tùy nghi): là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt buộc
đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp
dụng khác. (khác với quy phạm mệnh lệnh là các bên không được phép thỏa thuận khác với quy định)
Chú ý: quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế khác với quy phạm tùy nghi trong luật quốc gia. Ví dụ:
+ Các quốc gia có quyền tuyên bố lãnh hải quốc gia mình không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở ==>
quy phạm tùy nghi
+ Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế ==> quy phạm mệnh lệnh
+ Tại vùng trời quốc gia, mọi sự ra vào của tàu bay nước ngoài đều phải xin phép ==> quy phạm tùy
nghi (vì các quốc gia có thể thỏa thuận với nhau về việc xin phép như thế nào)
==> phân biệt quy phạm mệnh lệnh và quy phạm tùy nghi bằng cách quy phạm mệnh lệnh không cho
phép các chủ thể có bất kỳ sự thỏa thuận nào khác với quy phạm, còn quy phạm tùy nghi thì các chủ
thể có thể thỏa thuận khác với quy phạm (nhưng phải trong giới hạn cho phép).

Trong hệ thống luật Quốc tế, có rất ít quy phạm mệnh lệnh mà chủ yếu là quy phạm tùy nghi (do tính
chất thỏa thuận của luật quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các quốc gia). Ngược lại với luật
quốc gia thì đa phần là quy phạm mệnh mệnh, rất ít quy phạm tùy nghi.
– Quy phạm mệnh lệnh trong hệ thống luật quốc tế chỉ bao gồm 2 nhóm:
+ nhóm 7 nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế,
+ nhóm các quy phạm của luật Quốc tế trong vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của con người
b. Căn cứ vào hình thức tồn tại
– Quy phạm điều ước quốc tế: tồn tại ở dạng văn bản
– Quy phạm tập quán quốc tế: tồn tại ở dạng phi văn bản

III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia


Trong lịch sử tồn tại 2 học thuyết chính:
– Thuyết nhất nguyên: coi PL là 1 hệ thống duy nhất, gồm 2 bộ phận là PL quốc gia và PL quốc tế.
Chia làm 2 phái:
+ ưu tiên PL quốc tế
+ ưu tiên PL quốc gia
– Thuyết nhị nguyên: coi PL quốc gia và PL quốc tế là 2 hệ thống PL độc lập, trong đó PL quốc gia chỉ
điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ quốc gia, còn PL quốc tế điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau

Cả 2 học thuyết trên đều không tiến bộ:


+ với thuyết nhất nguyên, thì nếu theo trường phái ưu tiên luật Quốc gia thì sẽ coi quyền lợi quốc gia là
tối cao, khi đó luật Quốc tế không còn có giá trị nếu mâu thuẫn với luật Quốc gia. Ở nhánh còn lại, nếu
coi luật Quốc tế là tối cao, thì cũng không hợp lý khi các quốc gia mạnh sẽ dễ dàng lấn át các quốc gia
yếu hơn (sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan hệ quốc tế)
+ với thuyết nhị nguyên: dễ thấy không hợp lý vì dù là luật quốc gia hay luật quốc tế thì cũng đều do 1
chủ thể là quốc gia xây dựng nên để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia, mà 2 chức
năng này không thể tách rời nhau
Hiện nay, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia được quan niệm như sau:
– Luật quốc tế và luật quốc gia là 2 hệ thống độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau:
+ luật quốc tế là cơ sở để hình thành và hoàn thiện hệ thống PL của các quốc gia. VD khi 1 quốc gia
trở thành thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải rà soát và điều chỉnh lại hệ thống PL
của nước mình để phù hợp với luật quốc tế
+ các quy phạm PL quốc gia cũng góp phần hoàn thiện và phát triển hệ thống PL quốc tế. VD hầu hết
các tiêu chuẩn về môi trường của PL quốc tế đều xuất phát từ các tiêu chuẩn về môi trường của 1 quốc
gia đi tiên phong trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sau đó được các nước ủng hộ và nâng lên thành
luật Quốc tế

Câu hỏi: so sánh luật quốc tế và luật quốc gia


Luật quốc gia Luật quốc tế

Phạm vi Mối quan hệ giữa cá nhân và pháp


Mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
điều chỉnh nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia

Hình thành bằng con đường thỏa thuận


Hình
Là ý chí của giai cấp thống trị giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc
thành
bình đẳng, tự nguyện của các quốc gia

Có hệ thống cơ quan cưỡng chế thi


Cơ chế Không có hệ thống cơ quan cưỡng chế
hành PL (tòa án, viện kiểm sát, công
cưỡng chế thi hành PL (tự cưỡng chế)
an, …)

Chủ yếu là quy phạm mệnh lệnh, rất Chủ yếu là quy phạm tùy nghi, rất ít quy
Quy phạm
ít quy phạm tùy nghi phạm mệnh lệnh

Câu hỏi: nếu có 1 vấn đề phát sinh mà luật quốc gia mâu thuẫn với luật quốc tế thì sẽ xử lý thế nào ?
Trả lời: sẽ ưu tiên áp dụng PL quốc tế. Vì trong mọi văn bản PL của VN đều quy định “trong trường
hợp các quy định của luật này trái với các điều ước quốc tế mà VN là thành viên thì ưu tiên áp dụng
điều ước quốc tế”. Đây cũng là quy định chung đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Có điều này
là vì xuất phát từ 1 trong các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế: nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện cam kết quốc tế, trong đó quy định “khi 1 quốc gia là thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc
gia đó phải có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện trung thực, đầy đủ, ngay lập tức tất cả các nghĩa
vụ của mình; các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật trong nước và luật quốc tế
để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình”

Chú ý: cần hiểu là luật quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành, chứ không phải luật quốc tế có giá trị pháp lý
cao hơn luật quốc gia.
Câu hỏi: giữa luật quốc tế và luật quốc gia thì luật nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trả lời: đây là 2 hệ thống PL độc lập nên không thể so sánh hệ thống nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trong từng trường hợp cụ thể nếu luật quốc gia và luật quốc tế cùng quy định 1 vấn đề thì sẽ ưu tiên sử
dụng luật quốc tế.

Câu hỏi: nếu luật Quốc tế mâu thuẫn với Hiến pháp thì xử lý thế nào ?
Trả lời: Về mối quan hệ giữa luật Quốc tế với Hiến pháp, hiện nay các quốc gia có quan điểm khác
nhau: một số quốc gia cho rằng xuất phát từ nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế thì
luật Quốc tế sẽ được ưu tiên thi hành ngay cả so với Hiến pháp; một số quốc gia khác lại coi luật Quốc
tế có giá trị ưu tiên thi hành nhưng vẫn phải ở sau Hiến pháp.
Thực tế Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận rõ ràng vị trí của luật Quốc tế so với
Hiến pháp ở ngay trong văn bản Hiến pháp, trừ Việt Nam.
Lý lẽ của VN khi không đưa quy định về vị trí của luật Quốc tế trong Hiến pháp: VN có các văn bản
PL quy định về việc ký kết các điều ước quốc tế (mới nhất là Luật điều ước quốc tế 2016) trong đó nêu
rõ khi đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế thì phải không được trái với Hiến pháp, do đó ở VN sẽ
không có chuyện ký kết điều ước quốc tế trái với Hiến pháp VN

Vấn đề 2: Nguồn của luật Quốc tế


I. Khái niệm
1. Định nghĩa
– Nguồn của luật Quốc tế được hiểu là những hình thức chứa đựng hay biểu hiện sự tồn tại của các quy
phạm PL quốc tế.
Chú ý: nguồn của luật Quốc tế có nghĩa rộng hơn so với nguồn của PL quốc gia (trong môn học Lý
luận NN và PL): nguồn trong luật quốc gia chỉ là những hình thức chứa đựng các quy phạm PL, còn
nguồn trong luật Quốc tế không chỉ là những hình thức chứa đựng các quy phạm PL luật Quốc tế mà
còn gồm cả những biểu hiện sự tồn tại của các quy phạm PL luật Quốc tế (hay còn gọi là những
phương tiện bổ trợ nguồn).

Câu hỏi: Phương tiện bổ trợ nguồn có phải là nguồn của PL không ?
Trả lời: nếu với luật quốc gia thì là KHÔNG; nếu với luật quốc tế thì là CÓ
2. Căn cứ để xác định nguồn

II. Cấu trúc nguồn của luật Quốc tế


Nguồn của luật Quốc tế:
– Nguồn cơ bản:
+ điều ước quốc tế (nguồn thành văn)
+ tập quán quốc tế (nguồn bất thành văn)
– Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn:
+ nguyên tắc PL chung
+ phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
+ nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
+ các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
1. Điều ước quốc tế
a. Khái niệm
– Là thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh mối quan hệ mối quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ
thể đó. (theo Công ước Viên 1969 về Điều ước quốc tế)
– Là loại nguồn cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế
b. Đặc điểm
– Về hình thức:
+ về nguyên tắc, điều ước quốc tế phải tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng có 1 ngoại lệ duy nhất, đó là
Điều ước quốc tế Quân tử có thể tồn tại dưới dạng bất thành văn. (điều ước Quân tử chỉ tồn tại sau
chiến tranh thế giới, đến nay hầu như không còn, điều ước Quân tử thường là các cam kết của các quốc
gia sau chiến tranh, các quốc gia đó cho rằng khi các quốc gia ký kết điều ước quốc tế thì các quốc gia
đó sẽ bằng danh dự và uy tín của quốc gia mình mà tôn trọng và thực thi các điều ước quốc tế đó, và
việc này không cần phải ký kết bằng văn bản)
+ điều ước quốc tế là 1 khái niệm chung (tương tự Văn bản luật trong hệ thống luật Quốc gia), tùy vào
từng trường hợp cụ thể mà điều ước quốc tế sẽ có tên gọi phù hợp: với điều ước để thành lập các tổ
chức quốc tế hay các cơ quan tài phán quốc tế thì sẽ có tên Hiến chương, Điều lệ, Quy chế; với điều
ước quốc tế về phân định biên giới, lãnh thổ thì sẽ có tên là Hiệp định, Công ước; nghị định thư, …
Tuy nhiên, khác với quy định về tên gọi văn bản luật trong hệ thống luật quốc gia vốn được quy định
rất rõ (hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, quyết định, chỉ thị …), thì với luật quốc tế không có bất kỳ
quy định nào về việc đặt tên cho điều ước, việc đặt tên đó hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
+ tên gọi của điều ước quốc tế không có giá trị phân định giá trị pháp lý cao hay thấp của điều ước
quốc tế (điều này khác với tên văn bản luật trong luật quốc gia)
+ một điều ước quốc tế thông thường được kết cấu 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Phần nội dung
của điều ước quốc tế gồm các điều khoản quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Cũng có trường
hợp nội dung của điều ước quốc tế không bao gồm bất cứ điều khoản nào, ví dụ Tuyên bố thành lập tổ
chức ASEAN
– Về nội dung:
+ nội dung của điều ước quốc tế thông thường bao gồm các điều, khoản ghi nhận quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể
+ nội dung khác: thời điểm bắt đầu phát sinh hiệu lực, thời điểm chấm dứt hiệu lực, có cho bảo lưu
không, có được mời các quốc gia khác gia nhập không, …

c. Điều kiện để điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực
– Điều ước quốc tế phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau thì mới phát sinh hiệu lực:
(1) Được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
(2) Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế
(3) Phải được ký kết đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền
– Điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tuyệt đối nếu vi phạm điều kiện (2). Tức là nếu điều ước quốc tế vi phạm
các quy phạm jus cogens thì sẽ bị vô hiệu ngay từ khi nó phát sinh hiệu lực. Còn nếu điều ước quốc tế
đã có rồi, sau đó mới có quy phạm jus cogens và chúng mâu thuẫn với nhau thì điều ước quốc tế sẽ vô
hiệu kể từ thời điểm quy phạm jus cogens có hiệu lực.
– Nếu vi phạm điều kiện (1) hoặc (3) thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tương đối. Tức là vẫn được coi là
có hiệu lực nếu các bên vẫn đồng ý thực thi.
Chú ý: trình tự, thủ tục, và thẩm quyền ở đây là những quy định trong luật quốc gia khi quy định về
việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế (mỗi quốc gia có thể có quy định khác nhau).

d. Trình tự ký kết điều ước quốc tế


Trải qua 2 giai đoạn:
– Giai đoạn hình thành văn bản điều ước, gồm các bước:
+ B1: đàm phán: các bên thỏa thuận, thương lượng về tất cả các nội dung về diều ước, bao gồm quyền
và nghĩa vụ của các bên, hiệu lực áp dụng, thời hạn, thời hiệu …
+ B2: soạn thảo: có 2 cách: các bên sau khi đàm phán sẽ nhờ bên thứ 3 chuyên soạn thảo điều ước
quốc tế; hoặc các bên sẽ cùng nhau lập ra 1 ban soạn thảo gồm đại diện của mỗi bên; hoặc 1 trong các
bên soạn dự thảo sẵn điều ước và các bên còn lại sẽ đàm phán trên dự thảo đó
+ B3: thông qua: là thủ tục nhằm xác nhận văn bản điều ước đã phản ánh đúng nội dung mà các bên đã
đàm phán. Hành vi thông qua không thể hiện sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối với quốc gia mình,
tuy nhiên không bên nào được tự ý sửa đổi bổ sung vào văn bản đó. Việc thông qua theo tỷ lệ như thế
nào (quá bán, quá 2/3, …) hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
Các bên thể hiện sự thông qua bằng cách ký nháy vào từng tờ của văn bản.
– Giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình: thông qua các hành vi:
+ ký, có 3 hình thức ký:
● Ký tắt: là chữ ký của đại diện các bên khi tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều ước,
nhằm xác nhận dự thảo văn bản điều ước quốc tế đã được thông qua. Ký tắt chưa làm phát
sinh hiệu lực của điều ước quốc tế.
● Ký ad referendum: cũng là chữ ký của người đại diện các quốc gia, nhưng có thể làm phát
sinh hiệu lực của điều ước quốc tế nếu có sự đồng ý tiếp theo của cơ quan NN có thẩm
quyền của quốc gia đó (khi đó chữ ký ad referendum sẽ trở thành ký đầy đủ)
● Ký đầy đủ (hay ký chính thức): là hình thức ký phổ biến nhất. Thông thường điều ước
quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi ký đầy đủ nếu các bên không có thỏa thuận
khác, hoặc nếu điều ước quốc tế không đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn hoặc phê
duyệt
+ phê chuẩn, phê duyệt điều ước: là hành vi của cơ quan NN có thẩm quyền nhằm xác nhận sự ràng
buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình.
Chú ý: phê chuẩn = phê duyệt , khác nhau ở thẩm quyền thực hiện:
Phê chuẩn: do cơ quan quyền lực NN thực hiện (Nghị viện, Quốc hội)
Phê duyệt: do Chính phủ thực hiện
==> tùy từng tính chất của điều ước quốc tế mà sẽ cần được phê chuẩn hoặc phê duyệt
Chú ý: không phải mọi điều ước quốc tế đều phải yêu cầu thủ tục phê chuẩn, phê duyệt, điều này được
quy định ngay trong nội dung điều ước. Có những điều ước quốc tế có hiệu lực ngay sau khi các bên
ký đầy đủ. Nếu trong nội dung điều ước có yêu cầu các bên phải phê chuẩn, phê duyệt thì thông thường
điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực sau khi các bên trao đổi với nhau Thư phê chuẩn / Thư phê duyệt.
+ gia nhập điều ước quốc tế: là 1 hình thức đặc biệt của quá trình ký kết điều ước quốc tế, mà theo hình
thức này thì các quốc gia không tham gia vào quá trình hình thành văn bản điều ước mà chỉ tham gia
vào quá trình xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế đó đối với mình.
Đó là các trường hợp điều ước quốc tế đã hết thời hạn ký mà quốc gia đó vẫn chưa là thành viên, hoặc
điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực mà quốc gia đó vẫn chưa là thành viên
Chú ý: ký >< ký kết
Ký: là 1 hành vi trong giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế với quốc gia
mình, tức là chỉ là 1 giai đoạn của ký kết.
Ký kết: là toàn bộ quá trình trên
e. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế
Gồm 2 nhóm:
– Đại diện đương nhiên:
+ nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, bộ trưởng ngoại giao có quyền là đại diện đương
nhiên cho quốc gia, thực hiện bất kỳ hành vi nào trong toàn bộ quá trình ký kết điều ước quốc tế
+ người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao có quyền đại diện cho quốc gia mình trong việc
thông qua văn bản điều ước quốc tế giữa nước sở tại với nước mình.
+ người đại diện cho quốc gia tại các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế có quyền đại diện cho quốc gia
mình trong việc thông qua văn bản của 1 điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị hoặc tổ chức
đó
Ngoài ra, những người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ký kết những điều ước quốc tế
thuộc lĩnh vực của bộ, ngành mà không cần thư ủy nhiệm.
– Đại diện theo ủy quyền: ngoài các đối tượng trên thì phải trình thư ủy nhiệm khi tham gia vào quá
trình ký kết điều ước quốc tế

f. Hiệu lực của điều ước quốc tế


– Về thời điểm điều ước quốc tế bắt đầu phát sinh hiệu lực: theo thỏa thuận của các bên
– Thời điểm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế:
+ với điều ước quốc tế có thời hạn: chấm dứt hiệu lực theo thời hạn đã thỏa thuận
+ với điều ước quốc tế vô thời hạn: chấm dứt hiệu lực khi xảy ra 1 số yếu tố khách quan, chủ quan ảnh
hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế
● Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế:
● Khi đối tượng của điều ước quốc tế không còn. Ví dụ điều ước về đối xử nhân
đạo với tù binh trong chiến tranh sẽ kết thúc khi chiến tranh kết thúc; điều ước
giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về tìm kiếm người Mỹ mất tích sẽ kết thúc sau khi
tìm thấy hết người Mỹ mất tích
● Khi xuất hiện sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan (rebussic stantibus)
(khoản 2 Điều 62 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế): theo đó khi có
sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan tại thời điểm các bên thực hiện
nghĩa vụ điều ước so với thời điểm các bên tiến hành ký kết mà hoàn cảnh này lại
là cơ sở, điều kiện để các bên có thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Sự thay đổi đó
hoàn toàn do nguyên nhân khách quan, không do bên nào cố tình tạo ra và các
bên cũng không thể dự liệu trước sự thay đổi đó tại thời điểm ký kết. Khi đó 1
trong các bên có quyền viện dẫn sự thay đổi này để chấm dứt hoặc tạm đình chỉ
hiệu lực của điều ước.
Ví dụ: khi quốc gia thay đổi chế độ, VD khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, hay VN
tuyên bố độc lập năm 1945, Liên Xô sụp đổ 1991
Lưu ý: sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan không được áp dụng nếu:
● Sự thay đổi đó do 1 trong các bên cố tình tạo ra
● Không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
● Khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới có nội dung mâu thuẫn với điều ước
quốc tế.
● Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến điều ước quốc tế:
● Các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
● Khi 1 trong các bên có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của điều ước quốc
tế thì bên còn lại có thể viện dẫn sự vi phạm đó để từ chối thực hiện cam kết
quốc tế của mình
● Bảo lưu điều ước quốc tế: là hành vi pháp lý đơn phương của 1 quốc gia dưới
bất kể cách thức hay tên gọi như thế nào nhằm thay đổi hiệu lực của 1 hoặc 1 số
điều khoản của điều ước quốc tế.
Mục đích của bảo lưu: thông thường với 1 điều ước quốc tế (đa phương) thì càng muốn nhiều quốc gia
tham gia càng tốt, tuy nhiên càng nhiều quốc gia tham gia thì việc dung hòa lợi ích quốc gia càng khó
khăn. Do đó vừa để đảm bảo giá trị của điều ước mà vẫn đảm bảo lợi ích quốc gia, chế định bảo lưu
xuất hiện, đảm bảo 1 quốc gia vì lợi ích riêng của mình có thể thay đổi 1 hoặc 1 số điều khoản của điều
ước.
Lưu ý:
● Bảo lưu điều ước quốc tế chỉ áp dụng đối với điều ước quốc tế đa phương, không áp dụng
đối với điều ước quốc tế song phương
● Hành vi bảo lưu của quốc gia chỉ được đưa ra vào giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế mà không được đưa ra vào giai đoạn hình thành văn bản điều ước. (Vì ở
giai đoạn hình thành văn bản điều ước thì các bên vẫn có thể đàm phán nội dung điều ước;
còn ở giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của điều ước tức là đã thông qua văn bản điều ước
và các bên không có quyền thay đổi nội dung điều ước)
● Bảo lưu là quyền của quốc gia khi tham gia các điều ước quốc tế, nhưng quyền này có thể
bị hạn chế trong các trường hợp sau:
● Đối với điều ước quốc tế có quy định cấm bảo lưu
● Điều ước quốc tế cho phép bảo lưu 1 số điều khoản nhưng điều khoản bảo lưu
quốc gia đưa ra không nằm trong những điều khoản đó
● Bảo lưu trái với đối tượng và mục đích của điều ước
● Hệ quả pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế: quan hệ giữa các thành viên của 1 điều ước
sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu.
Ví dụ, trong 1 điều ước quốc tế đa phương về vấn đề an ninh, trong đó có điều khoản “trong trường
hợp trong lãnh thổ các quốc gia thành viên mà phát hiện 1 cá nhân phạm tội ác quốc tế thì các quốc gia
có nghĩa vụ dẫn độ quốc gia đó đến Tòa án hình sự quốc tế để xét xử”. Quốc gia A đưa ra điều kiện
bảo lưu điều ước “Tôi cam kết sẽ dẫn độ cá nhân phạm tội ác quốc tế ra Tòa án hình sự quốc tế để xét
xử, trừ trường hợp cá nhân đó là công dân của nước tôi”, tức là chỉ đồng ý dẫn độ công dân nước khác
đến tòa án quốc tế, còn với công dân của mình thì sẽ xét xử bằng hệ thống tòa án và luật pháp của quốc
gia A. Khi đó các quốc gia khác có thể:
● Quốc gia B: Đồng ý để quốc gia đó bảo lưu: quan hệ điều ước giữa A và B vẫn tồn tại, khi
phát sinh vấn đề quan hệ giữa A và B về dẫn độ tội phạm thì sẽ áp dụng điều khoản do A
đưa ra thay cho điều khoản trong điều ước.
● Quốc gia C: Phản đối bảo lưu, phản đối quan hệ điều ước: giữa C và A sẽ không tồn tại
quan hệ điều ước
● Quốc gia D: Phản đối bảo lưu, nhưng không phản đối quan hệ điều ước: giữa D và A vẫn
tồn tại quan hệ điều ước, nhưng với điều khoản bảo lưu do A đưa ra sẽ không được áp
dụng, khi vấn đề phát sinh thì A và D sẽ cùng đàm phán để giải quyết.
● Quốc gia E: Im lặng: các quốc gia được phép im lặng trong 12 tháng kể từ ngày A đưa ra
tuyên bố bảo lưu, nếu không có ý kiến thì được coi là đồng ý
– Hiệu lực của điều ước quốc tế đối với bên thứ 3: về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp
lý ràng buộc đối với các bên là thành viên của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3.
Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3,
bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan: ví dụ trường hợp Công ước về luật biển quốc tế 1982,
dù không phải tất cả các quốc gia đều là thành viên của Công ước, nhưng trong Công ước đó đưa ra
những quy định về vùng biển quốc tế, và các quốc gia không tham gia Công ước có thể áp dụng. Ví dụ
2 quốc gia có cùng 1 eo biển ký kết với nhau về sử dụng eo biển đó, khi đó tàu thuyền các quốc gia đó
đi qua eo biển đó cũng phải tuân thủ quy định do 2 quốc gia đó đưa ra. Ví dụ các quốc gia ký kết với
nhau về phân chia Nam cực (chỉ có 1 số ít quốc gia được chia Nam cực) và tất cả các quốc gia khác
phải tôn trọng.
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc: là về vấn đề quốc gia đãi ngộ người nước
ngoài, có 2 nhóm chế độ:
● Đãi ngộ quốc gia: tạo sự bình đẳng giữa người nước ngoài với công dân trong nước, người
nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia được đối xử như với công dân của nước mình, trừ 1 số
quyền như ứng cử, bầu cử.
● Đãi ngộ tối huệ quốc: quốc gia A dành cho quốc gia B khác quy chế tối huệ quốc tức là A
cam kết B sẽ được hưởng những quyền lợi và ưu đãi không kém phần thuận lợi hơn bất kỳ
1 quốc gia thứ 3 nào đã, đang, và sẽ được hưởng trong tương lai

g. Thực hiện điều ước quốc tế


Có 2 cách:
– Áp dụng trực tiếp: coi văn bản điều ước như PL quốc gia và được áp dụng luôn (cách này ít khi được
các quốc gia sử dụng). VD Nghị quyết 71 của Quốc hội năm 2006 về phê chuẩn Nghị định thư gia
nhập WTO, trong đó ghi rõ (đây cũng là trường hợp duy nhất đến nay VN áp dụng trực tiếp PL quốc
tế):
“Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và
các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong
Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.
Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định
thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định
của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm.”
– Nội luật hóa: trên cơ sở các nghĩa vụ đã cam kết trong điều ước quốc tế, quốc gia ban hành văn bản
quy phạm PL trong nước để thực hiện các nghĩa vụ của mình (hầu hết các quốc gia chọn cách này).

2. Tập quán quốc tế


– Là những quy tắc xử sự hình thành trong thực tiễn đời sống PL quốc tế, được các quốc gia và các chủ
thể khác của luật Quốc tế áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và được thừa nhận là luật.
– Để được coi là tập quán quốc tế, cần có 2 yếu tố:
+ vật chất: phải có quy tắc xử sự tồn tại trong thực tiễn đời sống PL quốc tế và quy tắc đó được áp
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần
+ tinh thần: được hầu hết các quốc gia và các chủ thể PL quốc tế thừa nhận đó là luật
VD: + sứ thần (đoàn ngoại giao) của nước này đến nước khác sẽ được đón tiếp trọng thị, không được
chém, đánh sứ giả; hành vi chém sứ thần được coi là hành vi tuyên chiến. Cho đến nay quy tắc này vẫn
được tiếp tục ghi nhận và được pháp điển hóa vào Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công
ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
+ Tàu thuyền nước ngoài có thể đi lại không gây hại qua vùng lãnh hải của 1 quốc gia mà không cần
xin phép
Câu hỏi: điều kiện “được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần” là bao nhiêu lần ? và “được hầu hết các quốc
gia công nhận” là bao nhiêu quốc gia thì đủ ?
Trả lời: theo quan điểm trước kia thì để hình thành 1 tập quán quốc tế cần phải trải quan vài chục đến
hàng trăm năm. Còn theo quan điểm của PL quốc tế hiện đại thì con đường hình thành tập quán quốc tế
ngắn hơn rất nhiều, chỉ cần thấy 1 quy định trong 1 điều ước nào đó, hoặc phán quyết của tòa án quốc
tế, hoặc hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia, … mà chủ thể thấy phù hợp thì có thể viện dẫn như
một tập quán.
– Mối quan hệ điều ước quốc tế và tập quán quốc tế: quan hệ biện chứng và tác động qua lại với nhau
+ điều ước quốc tế có thể là cơ sở cho sự hình thành tập quán quốc tế, ngược lại tập quán quốc tế cũng
có thể là cơ sở cho việc hình thành điều ước quốc tế
+ điều ước quốc tế có thể chấm dứt hiệu lực của tập quán quốc tế (VD các bên có thể thỏa thuận xác
lập điều ước không áp dụng tập quán), và ngược lại tập quán có thể chấm dứt hiệu lực của điều ước
quốc tế (rất ít khi xảy ra, thường là trường hợp tập quán hình thành nên quy phạm jus cogens, ngay khi
quy phạm jus cogens có hiệu lực thì tất cả các điều ước quốc tế có nội dung trái với quy phạm jus
cogens sẽ chấm dứt hiệu lực. VD quy phạm “Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế” là quy phạm jus cogens mới hình thành từ năm 1945, trước đó luật quốc tế cổ đại có
quy phạm jus cogens về quyền được sử dụng chiến tranh “Bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền sử dụng
sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”)
– So sánh điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế:
Điều ước quốc tế Tập quán quốc tế

Cùng là nguồn cơ bản của luật quốc tế, có giá trị pháp lý ngang nhau

Thành văn Bất thành văn

Rõ ràng, minh bạch (vì phải trải qua quá


trình đàm phán giữa các bên, thể hiện được ý Không rõ ràng, ít minh bạch
chí của các bên)

Hình thành nhanh chóng Rất lâu

Có thể dễ dàng sửa đổi, bổ sung Rất khó để thay đổi

Đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đã chứng tỏ sự


phù hợp với thực tiễn, khả năng ứng dụng rất cao

Câu hỏi: Khi gặp 1 vấn đề mà cả điều ước và tập quán đều điều chỉnh, mà điều ước lại mâu thuẫn với
tập quán, thì sẽ áp dụng thế nào ?
Trả lời: sẽ theo thỏa thuận của các bên, nếu 2 bên không thỏa thuận được thì sẽ ưu tiên áp dụng điều
ước. Vì điều ước có tính rõ ràng, minh bạch thể hiện được ý chí của các bên.
Chú ý: ở đây hiểu là điều ước quốc tế được “ưu tiên sử dụng” chứ không phải điều ước quốc tế có giá
trị pháp lý cao hơn.

3. Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn của luật Quốc tế


a. Nguyên tắc PL chung
– là những nguyên tắc PL mà cả luật Quốc tế và luật quốc gia đều thừa nhận.
VD: gây thiệt hại thì phải bồi thường, luật không có giá trị hồi tố, không ai phải là thẩm phán trong vụ
việc của chính mình, …
b. Phán quyết của tòa án công lý quốc tế
– Tòa án công lý quốc tế (International Court of Justice – ICJ) có chức năng đưa ra các kết luận tư vấn
để các bên tham vấn, không mang tính chất cưỡng chế như đối với tòa án trong quốc gia.
Phán quyết của tòa án quốc tế là đưa các các giải thích pháp luật để từ đó các bên có thể căn cứ để áp
dụng trong các tranh chấp.
– Các quốc gia và các chủ thể không có quyền yêu cầu Tòa án công lý đưa ra các kết luận tư vấn, thẩm
quyền yêu cầu thuộc về Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
– Ngoài Tòa án công lý thì phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác cũng được coi là nguồn
bổ trợ. VD Tòa án Trọng tài La Hague về tranh chấp giữa CHND Trung Hoa và CH Philippines năm
2016 về tranh chấp tại biển Đông. (tòa án này được thành lập theo Phụ lục 7 của Công ước Liên hợp
quốc về luật Biển, không giải quyết tranh chấp Trung Quốc và Philipin, mà Philipin yêu cầu Tòa trọng
tài giải thích thế nào là đảo, thế nào là đá, việc bồi đắp có làm thay đổi tính chất các thực thể đó không,
giải thích về đường lãnh hải, về chủ quyền về lãnh hải, quyền lịch sử, …)
c. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
Gồm 2 loại Nghị quyết:
– Loại có tính bắt buộc: có giá trị pháp lý ràng buộc với tất cả các quốc gia thành viên của tổ chức đó
– Loại mang tính khuyến nghị: VD nghị quyết về bảo vệ môi trường
d. Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
– Ví dụ: tiêu chuẩn về môi trường quốc tế hầu hết xuất phát từ tiêu chuẩn về môi trường của các quốc
gia phát triển, được các quốc gia khác học theo và được pháp điển hóa, được ghi nhận trong các điều
ước quốc tế
e. Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
– VD: học thuyết về Tự do biển cả
– Các học thuyết được thừa nhận, được áp dụng trong thực tế, và được pháp điển hóa, được ghi nhận
trong các điều ước quốc tế.

3. Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ

Câu hỏi trắc nghiệm: các câu khẳng định sau là Đúng / Sai:
(1) Chủ quyền quốc gia là yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
(2) Trong 1 số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể trở thành chủ thể của luật Quốc tế
(3) Điều ước quốc tế chỉ có thể phát sinh hiệu lực sau khi các quốc gia tiến hành thủ tục phê chuẩn
(4) Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các quốc gia thành viên mà không có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia thứ 3
(5) Quy phạm tùy nghi không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với chủ thể của luật Quốc tế
Trả lời:
(1) Sai. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Bốn yếu tố cấu thành nên quốc gia gồm:
+ có lãnh thổ xác định
+ có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
==> Do đó chủ quyền quốc gia không phải yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
(2) Sai. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
Mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL quốc tế,
VD trong liên minh châu Âu thì công dân có quyền kiện bất kỳ quốc gia nào bị coi là vi phạm nhân
quyền, tuy nhiên cá nhân, pháp nhân này không được coi là chủ thể của PL quốc tế vì không đảm bảo
khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập.
Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm:
+ các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
(3) Sai. Theo Công ước Viên 1969 về điều ước quốc tế thì hiệu lực của điều ước quốc tế do các bên
thỏa thuận, có thể ngay sau khi ký đầy đủ, hoặc phải yêu cầu được phê chuẩn / phê duyệt
(4) Sai. Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là thành viên
của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt,
điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc
(5) Sai. Vì quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt buộc đối
với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp
dụng khác.

Vấn đề 3: Các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế


I. Khái niệm
1. Định nghĩa
– Nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chủ
đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống PL
quốc tế.
– Có 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
+ Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
+ Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
+ Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
+ Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
+ Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
+ Nguyên tắc tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
+ Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
2. Đặc điểm
– Có tính mệnh lệnh bắt buộc chung: 7 nguyên tắc cơ bản này mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể
trong mọi lĩnh vực. Bảy nguyên tắc cơ bản này là thước đo tính hợp pháp của tất cả các quy phạm PL
khác cũng như tất cả các hành vi của các chủ thể PL luật quốc tế. Luật quốc tế đề cao sự thỏa thuận,
nhưng nếu sự thỏa thuận đó vi phạm bất kỳ nguyên tức nào trong 7 nguyên tắc cơ bản này thì đều bị
coi là vi phạm nghiêm trong PL quốc tế.
– Có tính phổ cập: nội dung của các nguyên tắc cơ bản này được ghi nhận trong hầu hết các điều ước
quốc tế. Văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nhất ghi nhận 7 nguyên tắc này chính là Hiến chương
Liên hợp quốc
– Có tính hệ thống: 7 nguyên tắc này có nội dung không độc lập với nhau, phải thực hiện được nguyên
tắc này thì mới thực hiện được nguyên tắc kia, và ngược lại. Ví dụ nguyên tắc cấm dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế và nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế có liên quan chặt chẽ với
nhau: muốn dùng biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế thì phải đảm bảo không dùng
vũ lực trong quan hệ quốc tế, và ngược lại.

II. Nội dung của các nguyên tắc cơ bản


1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
– Đây là 1 trong 2 nguyên tắc truyền thống được hình thành từ luật quốc tế cổ đại (cùng với nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế), 5 nguyên tắc còn lại được hình thành trong giai đoạn
luật quốc tế hiện đại sau này.
– Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế
– Ngay từ thời cổ đại, luật pháp quốc tế đã thừa nhận các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Đến
pháp luật quốc tế hiện đại thì bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng quan trọng nhất
của quan hệ quốc tế hiện đại.
– Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình, được ghi nhận
trong Khoản 1 Điều 2 của Hiến chương: “Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền của tất cả các quốc gia thành viên”.
– Nội dung nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia:
+ các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý
+ mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ
+ mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác
+ sự toàn vẹn về lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch
+ mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, và văn hóa của
mình
+ mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hòa
bình cùng các quốc gia khác
Chú ý: bình đẳng không phải là cào bằng, mà là bình đẳng tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ. Ví dụ 5
quốc gia trong Hội đồng bảo an LHQ có nhiều quyền hơn hẳn các quốc gia khác, tuy nhiên họ cũng
phải gánh vác những trách nhiệm vô cùng to lớn, hơn rất nhiều so với các quốc gia khác, như nghĩa vụ
tài chính, nghĩa vụ đóng góp lực lượng vũ trang để duy trì hòa bình và an ninh trên toàn thế giới,…
Hơn nữa khi tham gia các điều ước quốc tế, các thành viên đều cam kết tự nguyện chấp hành điều ước
==> bình đẳng tự nguyện
– Ngoại lệ:
+ trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền do có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL quốc tế. VD
Irắc bị cấm vận xuất khẩu dầu mỏ, chỉ được đổi dầu lấy lương thực (da xâm lược Coet); Triền Tiên bị
cấm vận do vi phạm điều ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
Chú ý: việc hạn chế chủ quyền ở đây phải do Liên hợp quốc thực hiện (thông qua Nghị quyết của
LHQ), không phải là trường hợp 1 hay một số quốc gia áp dụng lệnh trừng phạt với 1 quốc gia. VD
Nga bị các nước phương Tây trừng phạt do xâm lược Ucraina
+ trường hợp quốc gia tự hạn chế chủ quyền: đây là trường hợp quốc gia tuyên bố trung lập. Có 2 loại
trung lập:
● Trung lập tạm thời: tức là giữ thái độ trong lập trong 1 vụ việc cụ thể
● Trung lập vĩnh viễn: không tham gia vào bất kỳ tổ chức chính trị nào, và trong tất cả các
cuộc tranh chấp quốc tế thì không được bày tỏ chính kiến, không được tham gia vào bất kỳ
phe phái nào. Ví dụ Thụy Sỹ là quốc gia trung lập. (tuy nhiên hiện nay đang có sự tranh cãi
về tính trung lập của Thụy Sỹ do Thụy Sỹ đã làm đơn xin gia nhập EU)

2. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
– Đây là nguyên tắc jus cogens mới được đưa vào luật quốc tế từ năm 1945. Trước đó 1 nguyên tắc jus
cogens từ luật quốc tế cổ đại là quyền được sử dụng chiến tranh: “Bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền
sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”.
– Khoản 4 Điều 2 của Hiến chương LHQ 1970: Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc từ bỏ đe
dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về
lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những
mục đích của Liên hợp quốc.
– Nội dung của nguyên tắc này:
+ cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế
+ cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực
+ không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống lại quốc gia
thứ ba
+ không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia
khác
+ không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ trang phi chính
quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác
– Dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực:
+ theo nghĩa trước đây là dùng sức mạnh vũ trang hoặc đe dọa sử dụng sức mạnh vũ trang để buộc
quốc gia khác phải theo ý mình
+ theo nghĩa hiện đại: là dùng sức mạnh vũ trang và phi vũ trang như sức mạnh kinh tế, chính trị, … để
buộc quốc gia khác phải phục tùng mình
– Ngoại lệ:
+ khi quốc gia thực hiện quyền tự vệ hợp pháp
+ khi quốc gia sử dụng sức mạnh vũ trang để trừng phạt quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL
quốc tế theo Nghị quyết của Hội đồng bảo an LHQ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giành
quyền dân tộc tự quyết của mình
Câu hỏi: Trường hợp 1 quốc gia tập trận sát biên giới một quốc gia khác thì có bị coi là đe dọa dùng vũ
lực ?
Trả lời: Không. Vì quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình (tất nhiên phải đảm
bảo không ảnh hưởng đến láng giềng như không để đạn bay sang lãnh thổ láng giềng). Trừ trường hợp
2 quốc gia đã thỏa thuận với nhau về vùng biên giới phi quân sự (thường sau khi đàm phán phân chia
lãnh thổ), khi đó nếu tập trận trong vùng phi quân sự sẽ bị coi là đe dọa dùng vũ lực.
– Khi nào được tự vệ hợp pháp:
+ phải bị tấn công trước
+ hành vi tự vệ phải tương ứng với hành vi tấn công
+ ngay khi thực hiện hành vi tự vệ, quốc gia phải thông báo cho Hội đồng bảo an LHQ, và hành vi tự
vệ này phải chấm dứt ngay lập tức khi Hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp cần thiết tạm thời

3. Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
– Tranh chấp quốc tế là những hoàn cảnh thực tế mà các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế
có quan điểm mâu thuẫn trái ngược nhau, đồng thời có những yêu cầu đòi hỏi về mặt lợi ích trái ngược
nhau không thể dung hòa cần phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở PL quốc tế
– Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ: Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh
chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hoà bình, sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và
công lý
– Nội dung của nguyên tắc: khi có tranh chấp quốc tế nảy sinh, các quốc gia có nghĩa vụ phải giải
quyết bằng biện pháp hòa bình.
Theo Hiến chương LHQ, các biện pháp hòa bình gồm: đàm phán, trung gian, hòa giải, thông qua ủy
ban điều tra, thông qua ủy ban hòa giải, thông qua cơ quan tài phán quốc tế.
Chú ý: trong thực tế các quốc gia có thể sử dụng các biện khác miễn không phải là sử dụng vũ lực, VD
có thể sử dụng biện pháp môi giới để giải quyết tranh chấp (giống với môi giới trong thương mại)
– Ngoại lệ: không có

4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
– Công việc nội bộ của quốc gia được hiểu là những công việc thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc
gia. Nó không chỉ bao hàm các công việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn bao hàm các công
việc nằm ngoài phạm vi lãnh thổ nhưng thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc gia.
– Khoản 7 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc
được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và
không đòi hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo
quy định của Hiến chương.”
– Nội dung:
+ cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ
quyền, nền tảng chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia
+ cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc
mình
+ cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc
gia khác
+ cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác
+ tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phù
hợp với nguyện vọng của dân tộc.
– Trên cơ sở chủ quyền, quốc gia có toàn quyền quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại của quốc gia
mình, nhưng phải phù hợp với luật quốc tế, nhất là trong các lĩnh vực nhân quyền, nhân đạo, kinh tế
quốc tế, môi trường, …
– Ngoại lệ:
+ khi quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người thì các quốc gia khác
có quyền áp dụng các biện pháp nhằm can thiệp, bảo đảm các quyền, giá trị chung của con người. VD
năm 1979 tại Campuchia xảy ra nạn diệt chủng ==> xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền
được sống) nên quốc gia khác có quyền can thiệp.
+ khi trong nội bộ quốc gia xảy ra các cuộc xung đột vũ trang mà các cuộc xung đột này có nguy cơ
lan rộng gây ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế thì trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng bảo an
LHQ, các quốc gia khác có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia đó
+ 1 quốc gia có quyền can thiệp vào nội bộ 1 quốc gia khác nếu quốc gia đó yêu cầu
Chú ý: để xác định 1 quốc gia “có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người”,
hiện nay luật quốc tế chưa có quy định rõ ràng ==> các quốc gia có thể lợi dụng điểm này để can thiệp
vào nội bộ của nước khác (dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo”).

5. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
– Khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc đều phải làm
tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo hưởng toàn bộ các
quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có”
– Nội dung:
+ Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện 1 cách tận tâm, thiện chí, trung thực, đầy đủ
tất cả các cam kết quốc tế của mình, bao gồm:
● các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia đó
● hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
● các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế mà quốc gia đó là 1 trong các bên tranh chấp
+ Các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia để từ chối
thực hiện cam kết quốc tế của mình
+ Các quốc gia không được phép ký kết tham gia các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn với các
cam kết quốc tế mà quốc gia đã là thành viên
– Ngoại lệ:
+ khi 1 bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ điều ước thì bên còn lại có quyền viện dẫn sự vi phạm đó
để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình
+ khi xuất hiện sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan
+ khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới có nội dung mâu thuẫn với các cam kết quốc tế

6. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết


– Nội dung: quyền dân tộc tự quyết bao gồm:
+ được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang trên cơ
sở tự nguyện
+ tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội
+ tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp của bên ngoài
+ quyền của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành
độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự
+ tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa
lý, …
– Ngoại lệ: không có

7. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác


– Các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa
và nhân đạo trên phạm vi quốc tế, cũng như duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách tiến hành
các biện pháp tập thể có hiệu quả.
– Các quốc gia phải hành động phù hợp với nguyên tắc của LHQ, ngay cả các quốc gia chưa phải
thành viên của LHQ của phải tôn trọng các nguyên tắc này.
– Nội dung:
+ các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ quyền con người và các
quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc
+ các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế xã hội văn hóa, thương mại và kỹ
thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau
+ các quốc gia thành viên LHQ phải thực hiện các hành động chung hay riêng trong việc hợp tác với
LHQ theo quy định của Hiến chương
+ các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ nhằm
khuyến khích sự tiến bộ về văn hóa, giáo dục, phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là tại các
nước đang phát triển
– Ngoại lệ: không có

Vấn đề 5: Biên giới


1. Định nghĩa
– Biên giới quốc gia là đường ranh giới để phân định giữa lãnh thổ quốc gia này với lãnh thổ quốc gia
khác, hoặc phân định giữa lãnh thổ quốc gia và vùng lãnh thổ quốc gia có quyền chủ quyền trên biển.
2. Các bộ phận của biên giới quốc gia
Gồm:
+ biên giới trên bộ: là đường biên giới được xác định trên đất liền, đảo, sông, hồ, kênh, biển nội địa, …
+ biên giới trên biển: là đường phân định vùng lãnh hải của quốc gia với vùng biển tiếp liền mà quốc
gia ven biển có quyền chủ quyền; hoặc là đường phân định giữa lãnh hải quốc gia này với lãnh hải
quốc gia khác trong trường hợp vùng biển của các quốc gia có sự chồng lấn, liền kề.
+ biên giới vùng trời và biên giới vùng lòng đất: được xác định dựa vào biên giới trên bộ và biên giới
trên biển
3. Xác định biên giới quốc gia
a. Biên giới trên bộ
– Biên giới trên bộ bao giờ cũng được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia. Các bước xác
định:
+ B1: hoạch định: là giai đoạn các quốc gia đàm phán, thỏa thuận về nguyên tắc, phương pháp và cách
thức xác định đường biên giới. Các bên có thể lựa chọn 1 trong 2 nguyên tắc:
● Nguyên tắc uti possidetis: thừa nhận những đường ranh giới đã có. Theo nguyên tắc này,
các quốc gia thuộc địa trước đây sau khi gành được độc lập, thỏa thuận, thừa nhận đường
ranh giới mà quốc gia đô hộ trước đây nhằm mục đích quản lý về mặt hành chính, nâng
chúng lên thành đường biên giới quốc gia. VD trường hợp VN và Trung Quốc khi phân
định biên giới trên bộ đã thỏa thuận dùng nguyên tắc uti possidetis khi hai bên thừa nhận
đường biên giới lịch sử do Công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895 để lại
● Nguyên tắc hoạch định đường biên giới mới: có thể áp dụng biên giới tự nhiên (dựa theo
địa hình thực tế như núi, sông, hồ, …) và biên giới nhân tạo (gồm biên giới thiên văn xác
định theo các đường kinh tuyến, vĩ tuyến, và biên giới hình học xác định bằng các đường
nối các điểm do hai bên thỏa thuận)
+ B2: phân giới: là việc các quốc gia thỏa thuận xác lập đường biên giới ở trên bản đồ (tức là vẽ bản đồ
biên giới)
+ B3: cắm mốc thực địa: xây dựng các cột mốc biên giới
b. Biên giới trên biển
– Trong trường hợp bờ biển của quốc gia không có sự chồng lấn liền kề với bờ biến của quốc gia khác
thì đường biên giới quốc gia trên biển được xác định dựa trên tuyên bố đơn phương của quốc gia ven
biển. Trong trường hợp này, đường biên giới quốc gia trên biển chính là đường ranh giới ngoài của
lãnh hải.
– Trong trường hợp bờ biển của quốc gia có sự chồng lấn, liền kề với bờ biển của quốc gia khác thì
đường biên giới quốc gia trên biển được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan trên
cơ sở phương pháp đường trung tuyến cách đều kết hợp với nguyên tắc công bằng.
+ đường trung tuyến cách đều: là đường nằm giữa hai bên
+ công bằng: có tính đến lợi ích của các quốc gia, đảm bảo công bằng trong lợi ích khi phân giới (tức
là công bằng không phải cào bằng, không chỉ đơn giản là chia đôi).
Câu hỏi: Chỉ ra sự khác biệt giữa đường biên giới quốc gia trên bộ và đường biên giới quốc gia trên
biển ?
Câu hỏi: Đường biên giới quốc gia trên bộ và đường biên giới quốc gia trên biển có tính chất bất khả
xâm phạm giống nhau, Đúng hay Sai?
Trả lời: Sai. Vì đường biên giới quốc gia trên bộ có tính chất bất khả xâm phạm một cách tuyệt đối, tức
là mọi sự xâm nhập từ bên ngoài đều phải xin phép. Còn đường biên giới quốc gia trên biển là đường
ranh giới ngoài của vùng lãnh hải, mà trong vùng lãnh hải thì tàu thuyền của các quốc gia khác có
quyền đi qua không gây hại mà không cần phải xin phép, do đó tính chất bất khả xâm phạm ít hơn so
với đường biên giới trên bộ.

4. Quy chế pháp lý của biên giới quốc gia


– Quy chế pháp lý của biên giới quốc gia do PL quốc gia và các điều ước quốc tế về biên giới ký kết
với các quốc gia có chung đường biên giới quy định.
Chú ý: Các điều ước về biên giới bao giờ cũng là những điều ước vô thời hạn.
– Quy chế pháp lý của biên giới quốc gia thường bao gồm những nội dung:
+ những nguyên tắc và quy định chung về biên giới quốc gia
+ các quy chế qua lại, hoạt động ở khu vực biên giới
+ các quy chế sử dụng nguồn nước, sông suối, khai thác tài nguyên tại biên giới
+ quy chế quản lý, bảo vệ biên giới
+ quy chế giải quyết tranh chấp nảy sinh ở khu vực biên giới
– Thẩm quyền giải quyết vấn đề biên giới – lãnh thổ: chính phủ, quốc hội (nghị viện)
– Việc kiểm soát biên phòng, hải quan, kiểm tra vệ sinh dịch tễ, … ở cửa khẩu nước nào sẽ theo quy
định của nước đó (trừ khi 2 bên có thỏa thuận khác)

IV. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển
1. Vùng tiếp giáp lãnh hải
– Định nghĩa: Là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải và có bề rộng không quá 24
hải lý tính từ đường cơ sở. Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền riêng biệt và hạn
chế đối với tàu thuyền nước ngoài.
– Cách xác định:
+ ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển
+ ranh giới ngoài là đường nối liền các điểm cách điểm gần nhất của đường cơ sở 1 khoảng cách không
quá 24 hải lý
– Quy chế pháp lý (Điều 33 Công ước luật biển 1982): Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển
có quyền áp dụng tất cả các biện pháp nhằm ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm trong 4 lĩnh
vực là hải quan, thuế, y tế, nhập cư.
Ngoài ra, quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy
biển của vùng tiếp giáp lãnh hải, các quốc gia khác không được khai thác những hiện vật này mà
không có sự thỏa thuận với quốc gia ven biển.
2. Vùng đặc quyền kinh tế
– Định nghĩa: Là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải, có bề rộng 200 hải lý tính từ
đường cơ sở
– Cách xác định:
+ ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển
+ ranh giới ngoài là là đường nối liền các điểm cách điểm gần nhất của đường cơ sở 1 khoảng cách
không quá 200 hải lý
Chú ý: Từ cách xác định trên cho thấy vùng tiếp giáp lãnh hải có vị trí nằm trọn trong vùng đặc quyền
kinh tế nên vùng tiếp giáp lãnh hải được hưởng đồng thời quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
và vùng đặc quyền kinh tế, nên người ta còn gọi vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển có quy chế pháp
lý kép (hoặc quy chế hỗn hợp)
– Quy chế pháp lý:
+ Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển:
● Quốc gia ven biển có đặc quyền đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, có quyền áp
dụng tất cả các biện pháp nhằm khai thác và bảo tồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh
tế. Các đặc quyền này được xác định dựa trên tuyên bố của quốc gia ven biển về xác định
vùng đặc quyền kinh tế cũng như tuyên bố xác lập quyền chủ quyền của quốc gia ven biển
● Đối với tài nguyên cá, quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải xác định trữ lượng cá và khả
năng khai thác. Trong trường hợp khai thác không hết, quốc gia ven biển có nghĩa vụ san
sẻ cho các quốc gia khác trên cơ sở thỏa thuận có tính tới ưu tiên các quốc gia đang phát
triển và quốc gia không có biển
● Quốc gia ven biển có đặc quyền lắp đặt, sử dụng các công trình nhân tạo tại vùng đặc
quyền kinh tế
● Việc nghiên cứu khoa học biển tại vùng đặc quyền kinh tế chỉ được tiến hành nếu được sự
đồng ý của quốc gia ven biển
+ Quyền của các quốc gia khác: được hưởng 3 quyền tự do cơ bản
● Tự do hàng hải
● Tự do hàng không
● Tự do lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm

3. Thềm lục địa


– Định nghĩa: Bao gồm toàn bộ đáy và lòng đất nằm bên ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải, trải dài
cho tới bờ ngoài của rìa lục địa hoặc cho tới vị trí cách đường cơ sở 1 khoảng cách 200 hải lý nếu bờ
ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn.
– Cách xác định:
+ ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển
+ ranh giới ngoài: có 2 trường hợp:
● TH1: khi bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở nhỏ hơn hoặc bằng 200 hải lý thì ranh
giới ngoài của thềm lục địa là đường cách đường cơ sở 1 khoảng cách bằng 200 hải lý
● TH2: khi bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở lớn hơn 200 hải lý thì ranh giới ngoài
của thềm lục địa được xác định dựa trên 1 trong 2 phương pháp sau:
● Phương pháp chân dốc lục địa: ranh giới ngoài của thềm lục địa là đường cách
chân dốc lục địa 1 khoảng bằng 60 hải lý
● Phương pháp dựa vào độ dày trầm tích: ranh giới ngoài của thềm lục địa là
đường nối liền các điểm mà tại đó bề dày lớp đá trầm tích ít nhất bằng 1/100 so
với khoảng cách từ điểm được xét tới chân dốc lục địa
Chú ý: ranh giới ngoài của thềm lục địa được xác định theo 1 trong 2 phương pháp trên phải thỏa mãn
1 trong 2 điều kiện sau:
● Cách đường cơ sở không quá 350 hải lý
● Cách đường đẳng sâu 2500m không quá 100 hải lý (đường đẳng sâu 2500m là đường nối
liền các điểm ở đáy biển có độ sâu 2500m)
– Quy chế pháp lý:
+ Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển:
● Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa tồn tại một cách đương nhiên,
không phụ thuộc vào bất kỳ tuyên bố thực sự hay danh nghĩa nào của quốc gia ven biển
● Tại thềm lục địa, quốc gia ven biển có đặc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, không
có nghĩa vụ san sẻ khi khai thác không hết, và kể cả khi không khai thác thì quốc gia khác
cũng không được quyền khai thác
● Quốc gia ven biển có đặc quyền khoan và cho phép khoan tại thềm lục địa
● Các quốc gia khác khi đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại thềm lục địa thì phải thỏa thuận với
quốc gia ven biển về tuyến đường đi của tuyến dây cáp và ống dẫn ngầm
● Trong trường hợp các quốc gia có bờ ngoài của rìa lục địa trải dài quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở, khi khai thác tài nguyên tại vùng vượt quá này, quốc gia ven biển có nghĩa vụ
nộp 1 khoản phí cho cơ quan quyền lực biển (quy định cụ thể trong Công ước luật biển
1982)
+ Quyền của các quốc gia khác: được hưởng các quyền:
● Tự do hàng hải
● Tự do hàng không
● Tự do lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm (phải thỏa thuận với quốc gia ven biển tuyến
đường đi của dây cáp và ống dẫn ngầm)
Câu hỏi: So sánh quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.
Trả lời: Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa đều là 2 vùng thuộc quyền chủ quyền của quốc gia
ven biển, nhưng khác nhau về vị trí
Vùng đặc quyền kinh tế Thềm lục địa

Vùng nước phía trên Vùng đáy phía dưới

Quyền chủ quyền của quốc gia ven


biển tại vùng đặc quyền kinh tế chỉ có
Quyền chủ quyền của quốc gia ven
sau khi quốc gia ven biển tuyên bố
biển đối với thềm lục địa tồn tại 1 cách
vùng đặc quyền kinh tế của mình. (nếu
đương nhiên, không cần tuyên bố
không tuyên bố thì vùng biển đó sẽ
được coi là biển quốc tế)
Với tài nguyên cá, nếu khai thác không Quốc gia ven biển có đặc quyền khai
hết, quốc gia ven biển có nghĩa vụ san thác tài nguyên thiên nhiên, không có
sẻ cho các quốc gia khác trên cơ sở nghĩa vụ san sẻ khi khai thác không
thỏa thuận có tính tới ưu tiên các quốc hết, và kể cả khi không khai thác thì
gia đang phát triển và quốc gia không quốc gia khác cũng không được quyền
có biển khai thác
Câu hỏi: Tại sao với thềm lục địa thì quốc gia ven biển không cần tuyên bố quyền chủ quyền, mà với
vùng đặc quyền kinh tế lại phải tuyên bố quyền chủ quyền ?
Trả lời: Vì theo nguyên tắc “Đất thống trị biển”, thềm lục địa về bản chất vẫn là lãnh thổ đất liền trải
dài ra phía biển, nên quốc gia có quyền chủ quyền 1 cách đương nhiên.

Câu hỏi: Các khẳng định sau là Đúng / Sai, tại sao:
(1) Đường biên giới quốc gia trên biển:
1. Luôn có tính chất bất khả xâm phạm giống như biên giới trên bộ
2. Luôn được xác định dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia
3. Là ranh giới phân định giữa các vùng biển thuộc chủ quyền và vùng biển thuộc
quyền chủ quyền của quốc gia
(2) Quyền chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa:
1. Tồn tại có tính chất đương nhiên, không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay
danh nghĩa của quốc gia ven biển
2. Xác lập và duy trì chủ quyền lãnh thổ quốc gia đối với thềm lục địa
3. Về nội dung tương tự với quyền chủ quyền của quốc gia trong vùng đặc quyền
kinh tế
Trả lời:
(1) Câu 1:
1. Sai. Theo điều 17 của Công ước luật biển 1982, tàu thuyền của tất cả các quốc
gia có quyền đi qua không gây hại trong vùng lãnh hải. Tức là ngay trong vùng
biển nằm trong đường biên giới quốc gia trên biển, tàu thuyền các quốc gia khác
có quyền đi qua không gây hại mà không cần phải xin phép, điều này khác với
đường biên giới trên bộ khi mà bất kì sự xâm nhập nào đều phải xin phép.
2. Sai. Vì chỉ cần thỏa thuận khi có sự chồng lấn với quốc gia khác. VD với vùng
biển tại miền trung VN không có bất kỳ sự chồng lấn với quốc gia nào nên vùng
lãnh hải tại miền trung VN tự tuyên bố là 12 hải lý tính từ đường cơ sở mà không
cần thỏa thuận với bất kỳ quốc gia nào khác. Khác với việc xác định lãnh hải tại
vịnh Bắc Bộ, do có sự chồng lấn với vùng biển của Trung Quốc nên 2 nước cần
thỏa thuận với nhau.
3. Đúng. Vì vùng biển phía trong đường biên giới quốc gia trên biển là vùng biển
thuộc chủ quyền của quốc gia, còn vùng biển phía ngoài đường biên giới quốc
gia trên biển là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia.
(2) Câu 2:
1. Đúng. Theo điều 77 Công ước luật Biển 1982, các quốc gia không cần phải tuyên
bố quyền chủ quyền đối với thềm lục địa như đối với lãnh hải và đặc quyền kinh
tế.
2. Sai. Vì chỉ xác lập quyền chủ quyền, không phải chủ quyền.
3. Sai. Vì đối với quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, nếu tại vùng đặc quyền kinh
tế thì không cần xin phép, còn nếu tại thềm lục địa thì cần được sự thỏa thuận của
quốc gia ven biển. (theo Điều 79 Công ước luật biển 1982). Đặc biệt nếu lắp đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm mà phải khoan vào thềm lục địa thì bắt buộc phải xin
phép quốc gia ven biển, vì quyền khoan và cho phép khoan tại thềm lục địa thuộc
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển.

Chú ý: cần phân biệt “chủ quyền” với “quyền chủ quyền” ?
+ Chủ quyền là nói đến quyền của quốc gia đối với lãnh thổ của mình, trong phạm vi lãnh thổ thì quốc
gia có quyền tối cao.
+ Quyền chủ quyền là quyền của quốc gia đối với vùng lãnh thổ nằm bên ngoài lãnh hải. Mục đích của
quyền chủ quyền là lý do kinh tế và lý do quốc phòng (để chống lại các cuộc tấn công từ ngoài biển)
Chú ý: Cần phân biệt “quyền chủ quyền” với “quyền tài phán”
Để có thể xác lập được chủ quyền hay quyền chủ quyền, thì quốc gia cần phải có quyền tài phán, tức là
quyền xử lý các hành vi vi phạm PL. Quyền tài phán trong luật quốc tế được hiểu là quyền lập pháp,
hành pháp, và tư pháp của quốc gia đối với vùng lãnh thổ có chủ quyền hoặc quyền chủ quyền.
Thường hay nói “Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của
quốc gia ven biển” tức là quốc gia đó có quyền ban hành các quy định PL liên quan đến việc khai thác
các lợi ích kinh tế của mình, có quyền triển khai các quy định PL liên quan đến khai thác các lợi ích
kinh tế trên vùng biển đó, đồng thời xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến lợi ích kinh tế trên vùng
đặc quyền kinh tế.
Quyền chủ quyền xuất phát từ yếu tố lãnh thổ, còn quyền tài phán ngoài việc xuất phát từ căn cứ lãnh
thổ còn có thể xuất phát từ nhiều yếu tố khác, như quyền tài phán có thể xuất phát từ căn cứ quốc tịch
(VD con tàu có quốc tịch VN hoạt động trên vùng biển quốc tế thì VN vẫn có quyền tài phán đối với
con tàu đó, mặc dù con tàu đó không ở trên lãnh thổ VN, cũng không nằm trên vùng lãnh thổ mà VN
có quyền chủ quyền).
Câu hỏi: Tại sao các quốc gia phải tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế, mà không cần tuyên bố vùng nội
thủy, vùng lãnh hải, hay thềm lục địa ?
Trả lời: Vì vùng nội thủy và vùng lãnh hải là những vùng biển “truyền thống”, được quốc tế công nhận
từ lâu trước khi có Công ước LHQ về luật biển 1982, nên các quốc gia không cần phải tuyên bố mà
vẫn có chủ quyền với hai vùng biển này. Còn vùng đặc quyền kinh tế mới chỉ có từ Công ước LHQ về
luật biển 1982, nên yêu cầu các quốc gia phải đưa ra tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình (vì
trước 1982 thì vùng đặc quyền kinh tế vẫn là vùng biển quốc tế, tức là không thuộc bất cứ quốc gia
nào).
Còn về thềm lục địa, nếu chiếu theo địa chất thì thềm lục địa chính là đất liền kéo dài, vì có nước biển
nên bị ngập xuống, như vậy vốn dĩ thềm lục địa đã thuộc về quốc gia ven biển ==> không cần đưa ra
yêu sách

Câu hỏi: Các khẳng định sau là Đúng / Sai, vì sao


(1) Chủ quyền quốc gia có tính chất đồng nhất đối với các bộ phận cấu thành lãnh thổ
(2) Trong mọi trường hợp, biên giới quốc gia phải được ghi nhận trong các điều ước quốc tế.
(3) Các phương tiện bay nước ngoài được hưởng quyền bay qua không gây hại trên vùng trời và trên
lãnh hải các quốc gia ven biển.
(4) Trong mọi trường hợp, quyền đi qua không gây hại dành cho tàu thuyền nước ngoài không cho
phép tàu thuyền nước ngoài được dừng lại trong lãnh hải của quốc gia ven biển
Trả lời:
(1) Sai. Ví dụ với vùng nội thủy thì chủ quyền là hoàn toàn và tuyệt đối, còn với lãnh hải thì chủ quyền
là hoàn toàn và đầy đủ; Với vùng lòng đất thì chủ quyền là hoàn toàn và tuyệt đối, còn với vùng trời lại
là hoàn toàn và riêng biệt.
(2) Sai. Vì với trường hợp quốc gia có vùng biển không chồng lấn với quốc gia khác thì quốc gia đó tự
tuyên bố lãnh hải, không cần phải thỏa thuận với bất kỳ ai khác.
(3) Sai. Vì chủ quyền của quốc gia tại vùng trời và trên lãnh hải là hoàn toàn và riêng biệt, các phương
tiện bay nước ngoài phải xin phép quốc gia sở tại.
(4) Sai. Vì theo Điều 18 Công ước luật biển 1982, tàu thuyền nước ngoài có thể dừng lại và thả neo
trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả
kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy
hoặc mắc nạn.

You might also like