You are on page 1of 14

Đề: Bài phân tích về tác phẩm: “Tức nước vỡ

bờ”.

Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc


Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc
Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở
nông thôn, có vốn hiểu biết Hán học khá sâu
rộng, ông nổi tiếng trên lĩnh vực báo chí và
văn chương trong giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp
sáng tác của Ngô Tất Tố và cũng như là trong
trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng
tháng Tám 1945.

Tác giả lấy đề tài từ một vụ thu thuế hàng năm


ở một làng quê Bắc Bộ, qua đó phản ánh số
phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn
bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương
thời. Có thể nói tác phẩm Tắt đèn là bức tranh
thu nhỏ của nông thôn Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc.
Trong tác phẩm Tắt đèn, bằng ngòi bút tả thực
sắc sảo, nhà văn đã vẽ lên chân dung sinh
động của một loạt nhân vật. Từ vợ chồng lão
Nghị Quế keo kiệt bất nhân đến bọn cường
hào tham lam hống hách. Từ một quan “phụ
mẫu” oai vệ mà bỉ ổi đến bọn tay sai đầu trâu
mặt ngựa. Mỗi đứa một vẻ nhưng đều giống
nhau ở bản chất tàn ác và tư cách đê tiện.
Những nhân vật phản diện này tiêu biểu cho
tầng lớp phong kiến thống trị ở nông thôn lúc
bấy giờ.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc
trong việc xây dựng hình tượng điển hình về
người phụ nữ nông dân qua nhân vật chị Dậu.
Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số
phận tủi cực của người nông dân bị áp bức,
bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn
chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của
họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt.
Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất
rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu
mến, trân trọng mà ông dành cho người nông
dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ.
Ông cũng không giấu diếm sự khinh bỉ và
căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông
thôn. Về nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu
thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn
nhất là tác giả đã dựng nên một thế giới nhân
vật sinh động, trong đó có những điển hình
độc đáo.
Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII
của tác phẩm, nội dung xoay quanh những
biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị
Dậu trong mùa sưu thuế.
Vụ thuế đang trong thời điểm gay gắt nhất.
Quan trên sắp về tận làng để đốc thuế. Bọn tay
sai hung hãn xông vào nhà những người chưa
nộp thuế để đánh trói, bắt bớ và giải ra đình
tiếp tục cùm kẹp, tra khảo. Chị Dậu đã phải
bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn để
nộp sưu cho chồng, nhưng bọn hào lí ngang
ngược lại bắt anh Dậu phải nộp cả suất của
người em đã chết từ năm ngoái. Thành thử,
anh Dậu vẫn cứ là người thiếu thuế, bọn
chúng chắc chắn sẽ không buông tha. Đã thế
anh Dậu lại đang ốm rề rề sau trận đòn, tưởng
chết đêm qua. Nếu bị chúng đánh trói lần nữa
thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn
đề quan trọng nhất đối với chị Dậu giờ đây là
làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế
nguy ngập này. Đoạn trích tiếp nối câu chuyện
trên.
Qua đoạn trích, tác giả phơi bày và lên án bản
chất tàn ác bất nhân của chế độ thực dân
phong kiến lúc bấy giờ và phản ánh tình cảnh
đau thương của nông dân cùng quy luật có áp
bức có đấu tranh. Nhà văn giúp chúng ta thấy
được vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng
của người phụ nữ nông dân nghèo khổ. Trong
đoạn trích có hai nhân vật chính là chị Dậu và
tên cai lệ.
Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người
chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng
đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị
Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng
cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự
bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu
chồng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình
dung được sự dũng cảm quên mình của chị.
Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được
nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay
là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ,
sứt mẻ và quạt lia lịa cho cháo mau nguội rồi
ân cần mời mọc: “Thầy em cố dậy húp tí cháo
cho đỡ xót ruột”. Trong ánh mắt và giọng nói
của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình
cảm tha thiết đến nao lòng.
Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình
đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế.
Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị
chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những
gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng
ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt
ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng
tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để
anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng
như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa
lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng
thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập
sấn vào với những roi song, tay thước và dây
thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá
khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói
được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình đối
phó với lũ ác nhân.
Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay
sai để bảo vệ chổng như thế nào?
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh
Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi
bới, mỉa mai, đe doạ thì chị Dậu vẫn nhũn
nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Bọn đầu trâu
mặt ngựa hung hãn nhân danh phép nước,
người nhà nước để ra tay, còn chồng chị là
hạng cùng đinh đang có tội cho nên chị phải
van xin. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành
bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng
là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen
nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi
lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà
cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách
xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện
sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà
sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói
anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt
nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van
nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của
chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ
chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ
thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự
bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của
chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến
trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu
được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng
nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá
trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công.
Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu
tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải
hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình,
nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy
nhiêu.
Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng
tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ
bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao
đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt
trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay
vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là
lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí.
Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên
cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi
anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết
đã thúc đẩy chị phải hành động chống trả
quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát
gia đình chị.
Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành
hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả
bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra
mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới
vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của
chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến
tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng
lên dữ dội.
Khi tên cai lệ dã thú ấy tát vào mặt chị một cái
đánh bốp rồi cứ hung hăng sấn tới chỗ anh
Dậu, thì chị đã nghiến hai hàm răng thách
thức: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày
xem! Không còn ông – cháu, tôi – ông gì nữa,
chị chuyển phắt sang xưng bà và gọi tên cai lệ
là mày. Điều đó thể hiện thái độ căm giận,
khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư
thế của chị là sẵn sàng đè bẹp đối phương. Chị
Dậu là một lò lửa đang bùng cháy dữ dội. Chị
không thèm đấu lí với tên cai lệ bất lương mà
thẳng tay trừng trị hắn.
Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động
phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn,
ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng
nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của
người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo
trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng
hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc;
lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Đoạn văn miêu tả cuộc đối đầu giữa chị Dậu
và lũ người độc ác được tác giả miêu tả thật
sinh động và thú vị. Trong xã hội mà tội ác
hoành hành, còn gì hả hê hơn khi mọi người
được chứng kiến cái ác bị trừng trị đích đáng!
Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một
lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy?
Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc
của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu
thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người
đàn bà nghèo khổ. Khi rón rén bưng cháo cho
chồng và theo dõi xem chồng ăn có ngon
miệng không, khi hạ mình van xin kẻ ác và
khi nghiến răng quật ngã chúng, trước sau, lúc
nào chị Dậu cũng vì người chồng đang đau
ốm. Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh
thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng
ngọn lửa phản kháng trong lòng chị. Nỗi sợ cố
hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ
còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người
chân chính. Hành động chống đối bộc phát đó
chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương
mãnh liệt trong trái tim người phụ nữ dường
như sinh ra để suốt đời nhường nhịn, hi sinh.
Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ
là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân
chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ
áp bức bất công để tự giải phóng của một giai
cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng
minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp
bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.
Chứng kiến cảnh xô xát giữa vợ mình với tên
cai lệ và người nhà lí trưởng, anh Dậu sợ quá
muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại
nằm xuống, vừa run lại vừa kêu: – u nó không
được thế! Người ta đánh mình không sao,
mình đánh người ta là phải tù, phải tội. Anh
Dậu cố nhắc cho vợ nhớ cái sự thật phổ biến
trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng chị Dậu
không chấp nhận điều vô lí đó. Chị phẫn uất
hét lên: Thà ngồi tù, để chúng nó làm tình làm
tội mãi thế tôi chịu không được… Câu nói này
khẳng định chị Dậu không muốn cúi đầu cam
chịu mãi cảnh áp bức, bất công.
Ý nghĩa của câu tục ngữ tức nước vỡ bờ qua
ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được
thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục.
Tuy tác giả khi đó chưa giác ngộ cách mạng
và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của
chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận
xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui
người nông dân đấu tranh cách mạng…”.
Bằng cảm quan hiện thực mạnh mẽ, Ngô Tất
Tố đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ bờ”
và sức mạnh to lớn khôn lường của nó. Có thể
nói đoạn trích này đã dự báo cơn bão táp của
quần chúng nông dân nổi dậy dưới sự tập hợp,
lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ hất phăng
chế độ thực dân phong kiến tham tàn, mục
nát.
Nhân vật cai lệ trong đoạn trích tiêu biểu cho
lũ tay sai chuyên nghiệp, là công cụ đàn áp
đắc lực của giai cấp thống trị. Để khẳng định
vai trò của mình trong vụ thuế, hắn đánh
người, trói người vô tội vạ. Trong bộ máy
thống trị ở nông thôn, tên cai lệ này chỉ là một
gã tay sai mạt hạng. Hắn hung dữ, sẵn sàng
gây tội ác mà không chùn tay vì không hề bị
ai ngăn chặn. Hắn vênh váo tự cho mình là đại
diện cho nhà nước. Hắn nhân danh phép nước
để làm những điều tàn ác đối với người nghèo.
Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ vô danh đó là
hiện thân đầy đủ nhất của cái guồng máy “nhà
nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện
trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai
lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa
nổi bật, có giá trị khái quát cao.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn
hay, tiêu biểu cho bút pháp tả thực tài tình của
Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả và
đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. Đó là lời ăn
tiếng nói bình dị, tự nhiên của đời sống hằng
ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng.
Ngôn từ của tên cai lệ thì thô lỗ, đểu cáng. Lời
lẽ của chị Dậu khi thì thiết tha mềm mỏng, khi
đanh thép quyết liệt. Lời lẽ của bà cụ hàng
xóm thì thật thà, hiền hậu… Lời ăn tiếng nói
của nông dân được tác giả sử dụng nhuần
nhuyễn, rất hợp cảnh, hợp tình.
Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật
chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông
cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động
và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần
hoàn thiện tính cách của người phụ nữ nông
dân đẹp người, đẹp nết.

Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, vị tha, sống


khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng…
nhưng hoàn toàn không yếu đuối, trái lại vẫn
có một sức sống mạnh mẽ, một tỉnh thần phản
kháng tiềm tàng. Khi bị đẩy tới bước đường
cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt. Đó
là thái độ cứng còi, bất khuất, dám đối đầu với
cái ác trong xã hội.

You might also like