You are on page 1of 12

NHẬN ĐỊNH

Nhận định 1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi nếu là người thân thích với người bào chữa trong vụ án đó.
=> Nhận định Đúng.
Căn cứ pháp lý: Điều 49 BLTTHS 2015.
Giải thích: Theo quy định tại Điều 49 BLTTHS 2015 quy định về các trường hợp phải từ
chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng
họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
là người thân thích với người bào chữa trong vụ án thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có
thể không vô tư trong khi xét xử, quyết định hình phạt.
Nhận định 2. Một người có thể tham gia tố tụng với hai tư cách trong vụ án hình sự.
=> Nhận định Đúng.
Căn cứ pháp lý: Điều 55 BLTTHS 2015.
Giải thích: Một người có thể tham gia tố tụng với nhiều tư cách miễn là quyền và nghĩa
vụ của các tư cách đó không loại trừ lẫn nhau và quyền và lợi ích của các tư cách đó
không đối chọi nhau. Ví dụ: Bị hại trong vụ án hình sự tham gia vụ án hình sự với tư cách
là bị hại. Tuy nhiên nếu bị hại có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì lúc này Bị hại có thêm
một tư cách tham gia tố tụng là nguyên đơn dân sự.
Nhận định 3. Biện pháp tạm giam không áp dụng với bị can là người dưới 18 tuổi bị
khởi tố về tội ít nghiêm trọng.
=> Nhận định Sai.
Căn cứ pháp lý: khoản 4, Điều 419 BLTTHS 2015.
Giải thích: Căn cứ khoản 4, Điều 419 BLTTHS 2015 thì trong trường hợp bị can, bị cáo
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù đến 02 năm thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã. Do đó, biện pháp tạm giam có thể áp dụng với bị can là
người dưới 18 tuổi bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng nếu bị can tiếp tục phạm tội, bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã.
>>> Xem thêm: So sánh tạm giữ và tạm giam theo BLTTHS 2015
Nhận định 4. Thời hạn điều tra bổ sung được xác định căn cứ theo loại tội phạm.
=> Nhận định Sai.
Căn cứ pháp lý: khoản 2 Điều 174 BLTTHS 2015.
Giải thích: Thời hạn điều tra bổ sung không được xác định căn cứ theo loại tội phạm mà
căn cứ vào loại cơ quan tiến hành tố tụng trả điều tra bổ sung. Trường hợp vụ án do Viện
kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02
tháng, nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá 01 tháng.
Nhận định 1. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có thể xuất hiện trước khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
=> Nhận định Đúng.
Giải thích: Trong một số trường hợp cần phải tiến hành một số hoạt động trước khi có
quyết định khởi tố như Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm phương tiện; Thu thập
thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh
nguồn tin; Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm tử thi; Trưng cầu giám định, yêu cầu
định giá tài sản đều là các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nhằm xác định tình tiết vụ
án, xác định việc có hay không tội phạm đã xảy ra, từ đó làm căn cứ để khởi tố vụ án
hình sự. Do đó, Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có thể xuất hiện trước khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
Nhận định 2. Đương sự trong vụ án hình sự có quyền yêu cầu giám định, định giá
tài sản.
=> Nhận định Đúng.
Giải thích: Đương sự trong vụ án hình sự có thể là Bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Căn cứ quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều
63; điểm đ, khoản 2, Điều 64 và điểm c, khoản 2 Điều 65 BLTTHS 2015 về quyền của
nguyên đơn dân sự thì đương sự có quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy
định của pháp luật.
Căn cứ pháp lý: điểm đ, khoản 2, Điều 63; điểm đ, khoản 2, Điều 64 và điểm c, khoản 2,
Điều 65 BLTTHS 2015
Nhận định 3. Trong mọi trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị bản án hình sự sơ
thẩm thì Viện kiểm sát đang thực hiện chức năng kiểm sát xét xử.
=> Nhận định Sai.
Không phải trong mọi trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm đều
là thực hiện chức năng kiếm sát xét xử vì Viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án hình sự
sơ thể do phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội là đang thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự chứ không phải đang thực hiện chức năng
kiểm sát xét xử.
Căn cứ pháp lý: Điều 18, Điều 19 Luật Tổ chức Viện kiếm sát nhân dân năm 2014.
Nhận định 4. Trường hợp Thư ký Tòa án không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà
không có người thay thế thì phải hoãn phiên tòa.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Trường hợp Thư ký Tòa án (người tiến hành tố tụng) không thể tiếp tục tham
gia phiên tòa mà không có người thay thế nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong
thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa thì phải tạm ngừng xét xử. Tại quy
định khoản 4, Điều 288 BLTTHS 2015 thì trường hợp Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc
không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thư ký
Tòa án dự khuyết; nếu không có người thay thế thì tạm ngừng phiên tòa.
Căn cứ pháp lý: điểm b, khoản 1, Điều 251 và khoản 4, Điều 288 BLTTHS 2015
Nhận định 1. Lời nhận tội của Bị can, bị cáo là chứng cứ của vụ án hình sự.
=> Nhận định Sai.
Căn cứ pháp lý: Điều 86, khoản 2, Điều 87 BLTTHS 2015
Giải thích: Lời nhận tội của Bị can, bị cáo là nguồn của chứng cứ và chỉ được sử dụng
làm chứng cứ khi thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ (tính khách quan, tính liên quan,
tính hợp pháp). Nếu Lời nhận tội của Bị can không thỏa mãn 01 trong các thuộc tính trên
của chứng cứ thì không phải là chứng cứ. Ví dụ: Lời nhận tội của Bị can, bị cáo không
được thu thập theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định thì không đáp ứng tính hợp
pháp của chứng cứ nên không phải là chứng cứ.
Nhận định 2. Tòa án sơ thẩm có thể xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh
mà Viện kiểm sát đã truy tố.
=> Nhận định Đúng.
Căn cứ pháp lý: Điều 298 BLTTHS 2015.
Giải thích: Căn cứ Điều 298 BLTTHS 2015 về Giới hạn của việc xét xử thì trường hợp
xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án
trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa
án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
Nhận định 3. Biện pháp tạm giam có thể áp dụng cho bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi phạm tội ít nghiêm trọng.
=> Nhận định Đúng.
Căn cứ pháp lý: Điều 419 BLTTHS 2015.
Giải thích: Căn cứ khoản 4, Điều 419 BLTTHS 2015 thì trong trường hợp bị can, bị cáo
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù đến 02 năm thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã.
Nhận định 4. Người thân thích của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng là người
làm chứng trong vụ án.
=> Nhận định Đúng.
Căn cứ pháp lý: khoản 2, Điều 66 BLTTHS 2015
Giải thích: Người thân thích của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng là người làm chứng
trong vụ án nếu người thân thích của bị can, bị cáo không là người bào chữa của người bị
buộc tội và không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận
thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả
năng khai báo đúng đắn. Do đó, người thân thích của bị can, bị cáo có thể tham gia tố
tụng là người làm chứng trong vụ án.
Nhận định 1. Bị can có quyền sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Theo quy định tại điểm i, khoản 2, Điều 60 BLTTHS 2015 về quyền của bị
can thì bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội
kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu. Nói cách khác, Bị can không có quyền sao
chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội trong quá trình điều tra vụ án. Do đó, Bị
can chỉ có quyền sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội khi kết thúc điều tra
khi có yêu cầu.
Căn cứ pháp lý: điểm i, khoản 2, Điều 60 BLTTHS 2015.
Nhận định 2. Người định giá tài sản vẫn có thể tham gia tố tụng khi đồng thời là
người thân thích của đương sự.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Căn cứ Điều 21 BLTTHS 2015 thì Người định giá tài sản không không được
tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm
vụ. Trong trường hợp trên người định giá tài sản là người thân thích của đương sự thì
được xem là lý do có thể khiến họ không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ định giá của mình.
Hoặc, Căn cứ điểm a, khoản 5, Điều 69 BLTTHS 2015 quy định về trường Người định
giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi là người thân thích của
đương sự.
Căn cứ pháp lý: Điều 21 và điểm a, khoản 5, Điều 69 BLTTHS 2015.
Nhận định 3. Cục trưởng Cục kiểm lâm có quyền ra lệnh giữ người trong trường
hợp khẩn cấp.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Theo quy định tại khoản 2, Điều 110 BLTTHS 2015 về những người có quyền
ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì không có quy định Cục trưởng Cục kiểm
lâm. Do đó, Cục trưởng Cục kiểm lâm không có quyền ra lệnh giữ người trong trường
hợp khẩn cấp.
Căn cứ pháp lý: khoản 2, Điều 110 BLTTHS 2015.
Nhận định 4. Tòa án có quyền xét xử bị cáo theo tội danh khác tội danh Viện kiểm
sát đã truy tố.
=> Nhận định Đúng.
Giải thích: Theo quy định tại khoản 2, Điều 298 BLTTHS 2015 thì Tòa án có thể xét xử
bị cáo theo một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Hoặc theo quy định tại khoản 3, Điều 298 BLTTHS 2015 thì trường hợp xét thấy cần xét
xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện
kiểm sát truy tố lại. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét
xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
Căn cứ pháp lý: khoản 2 và khoản 3, Điều 298 BLTTHS 2015.
Nhận định 5. Người đang xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật thì có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,
quyết định đó.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Căn cứ theo quy định tại Điều 377 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ người ra
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
thì mới có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó. Do đó, người
đang xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật thì không có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó.
Căn cứ pháp lý: Điều 377 BLTTHS 2015.
Nhận định 1. Bào chữa chỉ định có thể được áp dụng cho người chưa bị khởi tố về
hình sự.
=> Nhận định Đúng.
Theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 4 BLTTHS 2015 quy định về việc Giải thích từ
ngữ thì Người bị buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong đó,
người bị tạm giữ chưa bị khởi tố về hình sự.
Mà căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 76 BLTTHS 2015 quy định về việc Chỉ định người bào
chữa thì Người bị buộc tội (người bị tạm giữ) có nhược điểm về thể chất mà không thể tự
bào chữa nếu bản thân người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ
không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định
người bào chữa cho họ (Bào chữa chỉ định).
Do đó, Bào chữa chỉ định có thể được áp dụng cho người chưa bị khởi tố về hình sự
(người bị tạm giữ).
Căn cứ pháp lý: điểm đ, khoản 1, Điều 4 và điểm b, khoản 1, Điều 76 BLTTHS 2015.
Nhận định 2. Những người quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015 có quyền
áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn.
=> Nhận định Sai.
Các biện pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 bao gồm: giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Những người quy định tại khoản 1, Điều 113 BLTTHS 2015 bao gồm: Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án.
Theo đó, với mỗi cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau có thể có quyền áp dụng các biện
pháp ngăn chặn khác nhau. Tuy nhiên, không phải người quy định tại khoản 1 Điều 113
BLTTHS 2015 đều có quyền áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn. Ví dụ: Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án không có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong
trường hợp khẩn cấp. (khoản 2, Điều 110 BLTTHS 2015).
Căn cứ pháp lý: khoản 2, Điều 110; khoản 1, Điều 113 và Điều 109 BLTTHS 2015.
Nhận định 3. Viện kiểm sát chỉ thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Viện kiểm sát không chỉ thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố mà
còn thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm (giai đoạn giải
quyết nguồn tin về tội phạm), thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự,
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử.
Căn cứ pháp lý: Điều 159; Điều 161; Điều 165; Điều 266 BLTTHS 2015.
Nhận định 4. Trong mọi trường hợp, bị cáo không được trực tiếp đặt câu hỏi với
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
=> Nhận định Sai.
Giải thích: Căn cứ theo quy định tại điểm i, khoản 2, Điều 61 BLTTHS 2015 quy định về
quyền của bị cáo thì Bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi
người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý. Do đó, không phải trong mọi trường
hợp, bị cáo không được trực tiếp đặt câu hỏi với người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa
mà bị cáo có thể được trực tiếp đặt câu hỏi với người tham gia tố tụng khác nếu được chủ
tọa đồng ý.
Căn cứ pháp lý: điểm i, khoản 2, Điều 61 BLTTHS 2015.
BTTH
TH1: A và B thực hiện hành vi giết 04 người tại tỉnh N. Vụ án do cơ quan cảnh sát điều
tra Bộ Công an khởi tố và điều tra. Bản kết luận và đề nghị truy tố được gửi đến Viện
kiểm sát có thẩm quyền.
Câu hỏi 1: Viện kiểm sát nào có thẩm quyền quyết định việc truy tố bị can A, B?
Viện kiểm sát cấp nào có trách nhiệm thực hành quyền công tố tại phiên tòa?
Đáp án:
Áp dụng: khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự về Thẩm quyền theo lãnh thổ: Do
hành vi giết người được thực hiện ở tỉnh N nên Tòa án nhân dân thuộc tỉnh N có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án trên.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N có thẩm quyền quyết định việc truy tố bị can A, B.
Giải thích: Áp dụng khoản 1 Điều 239 BLTTHS 2015 về thẩm quyền truy tố thì Viện
kiểm sát có thẩm quyền truy tố được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
vụ án. Áp dụng điểm a, khoản 2 và điểm c, khoản 1 Điều 268 BLTTHS 2015 thì thẩm
quyền xét xử của vụ án A và B thực hiện hành vi giết 04 người tại tỉnh N thuộc Tòa án
nhân dân tỉnh N.
Do đó, Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định việc truy tố bị can A, B là Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh N.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N có trách nhiệm thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm bị can A và B phạm tội giết người.
Giải thích: Áp dụng khoản 1 Điều 239 BLTTHS 2015 về thẩm quyền truy tố thì Viện
kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó
quyết định việc truy tố. Ở vụ án trên, do Tòa án nhân dân tỉnh N có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N kiểm sát hoạt động điều tra, thực hành
quyền công tố tại phiên tòa.
Căn cứ pháp lý: Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 1,
Điều 239, khoản 1, Điều 268 và khoản 1, điều 269 BLTTHS 2015.
Câu hỏi 2: Giả sử trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát phát hiện Điều tra viên
trong vụ án là anh em kết nghĩa của bị can A. Nêu hướng giải quyết của Viện kiểm
sát trong trường hợp này.
Đáp án:
Áp dụng khoản 3, Điều 49 và điểm a, khoản 1, Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì:
Trong trường hợp Điều tra viên trong vụ án là anh em kết nghĩa của bị can thì đây được
xem là trường hợp có thể cho rằng Điều tra viên có thể không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ điều tra vụ án. Do đó trường hợp này thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi
điều tra viên.
Trong trường hợp trên, áp dụng điểm e, khoản 2, Điều 41 BLTTHS 2015 thì Viện kiểm
sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động điều tra (Cụ thể: Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân) yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cấp trưởng cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên trên.
Căn cứ pháp lý: khoản 3, Điều 49; điểm a, khoản 1, Điều 51 và điểm e, khoản 2, Điều 41
BLTTHS 2015.
TH2: Theo Cáo trạng thì bà A đang đi trên vỉa hè, bất ngờ bị bà B lái xe từ phía sau vượt
lên bên phải bà, dùng tay trái thò vào cổ để giật dây chuyền. Theo phản xạ, bà A nghiêng
người dùng tay phải chụp vào dây chuyền để giữ lại. Dây chuyền không bị đứt, không bị
giãn. B bị kéo ngã xe, định bỏ chạy nhưng bị bắt giữ. Chồng và con của bà A làm chứng
sự việc như bà trình bày.
Chứng cứ buộc tội là lời khai của bị hại, lời khai của các nhân chứng là chồng và con của
bị hại và vết xước trên cổ bị hại. Theo bà A thì vết xước là do B dây nên, nhưng B trình
bày rằng vết xước không liên quan đến B, có thể do bà A theo phản xạ, đưa tay lên chụp
cổ nên tự gây ra cho mình… Vết xước trên cổ bị hại không được giám định để làm cơ sở
xác định do ai gây nên, cơ chế hình thành… B còn khai rằng chiều đó đi chúc Tết nhưng
quẹo nhầm hẻm, khi quẹo ra thì chạy lên lề. Do là ngày Tết nên lề thông thoáng, không bị
lấn chiếm buôn bán, cũng không có băng rôn hay bảng hiệu chắn lối đi. Lòng đường khi
đó đang lổm chổm đá dăm, rất khó đi. Do vừa đi vừa nhìn số nhà, nên lúc vượt qua người
phụ nữ đang đi bộ trên lề có va quẹt. Hỏi:
Câu hỏi 1: Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sẽ giải quyết tình huống
trên như thế nào khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm?
Đáp án:
Do vụ việc trên lời khai của các bên còn nhiều mâu thuẫn, chưa đủ căn cứ để xác định có
hành vi phạm tội của B hay không nên Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sẽ
Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.
Căn cứ pháp lý: điểm b, khoản 1, Điều 277; điểm a, khoản 1, Điều 280 và khoản 1, Điều
85 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tình huống bổ sung:
Giả sử B bị đưa ra xét xử và bị kết án 04 năm 06 tháng tù về tội cướp giật tài sản. Sau đó
B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Cơ quan điều
tra đã không tiến hành thực nghiệm điều tra để xem hành vi mà B bị cáo buộc có phù hợp
với thực tế hay không.
Câu hỏi 2: Nêu cách giải quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong trường hợp
này?
Đáp án:
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 45 BLTTHS 2015, thì Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa có quyền tiến hành thực nghiệm điều tra. Do đó, trong trường hợp Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận thấy cơ quan điều tra đã không tiến hành thực nghiệm điều tra để xem
hành vi mà B bị cáo buộc có phù hợp với thực tế hay không thì Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa có thể tổ chức tiến hành thực nghiệm điều tra theo quy định.
Căn cứ pháp lý: điểm đ khoản 2 Điều 45 BLTTHS 2015.
TH3: A và B bị khởi tố về tội hiếp dâm trẻ em (C là nạn nhân). Trong quá trình điều tra,
phát hiện bị can A có những biểu hiện bất thường về tâm thần, bị can B là người bình
thường và đủ tuổi chịu TNHS.
Câu hỏi: Cơ quan điều tra sẽ giải quyết tình huống này như thế nào?
Đáp án:
Trong quá trình điều tra, phát hiện bị can A có những biểu hiện bất thường về tâm thần thì
Cơ quan điều tra phải ra quyết định Trưng cầu giám định pháp y về tâm thần đối với bị
can A nhằm xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị can A có khả năng
nhận thức, điều khiển hành vi không để xác định hành vi của bị can có phạm tội hay
không.
Căn cứ pháp lý: Khoản 1 Điều 206 BLTTHS 2015.
Tình tiết bổ sung:
Khi Cơ quan điều tra đang làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố B thì B bỏ trốn và
không xác định được đang ở đâu; A chết trong bệnh viện tâm thần.
Câu hỏi: Nêu hướng giải quyết của Cơ quan điều tra trong trường hợp này?
Đáp án:
Đối với vụ án:
Cơ quan điều tra ra quyết định tách vụ án hình sự.
Đối với bị can A:
Căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 230 và khoản 7, Điều 157 BLTTHS 2015
thì do bị can A đã chết trong bệnh viện tâm thần nên Cơ quan điều tra ra Quyết định đình
chỉ điều tra đối với bị can A.
Đối với bị can B:
Căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 1 và khoản 2 Điều 229 BLTTHS 2015: Do bị can
B đã bỏ trốn và không xác định được đang ở đâu và lý do tạm đình chỉ điều tra đối với bị
can B không liên quan đến bị can còn lại trong vụ án nên Cơ quan ra quyết định truy nã
đối với B (theo quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự) và ra quyết định tạm đình
chỉ điều tra đối với B.
Căn cứ pháp lý: điểm a, khoản 1, Điều 229 BLTTHS 2015.
TH4: A và B thực hiện hành vi giết 04 người tại tỉnh N. Vụ án do cơ quan CSĐT Bộ
Công an khởi tố và điều tra. Bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố được gửi đến Viện
kiểm sát có thẩm quyền.
Câu hỏi 1: Viện kiểm sát cấp cao có thẩm quyền quyết định việc truy tố bị can A, B
không? Viện kiểm sát cấp nào có trách nhiệm thực hành quyền công tố tại phiên
tòa?
Đáp án:
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao không có thẩm quyền quyết định việc truy tố đối với bị
can A, B.
Bởi vì:
Căn cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 41 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 thì Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp
cao. Tuy nhiên vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân địa phương
(cấp tỉnh) nên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao không có thẩm quyền quyết định việc truy
tố đối với A và B trong vụ án này.
Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 268, Điều 269 BLTTHS 2015 về Thẩm quyền xét xử của
Tòa án thì hành vi của A và B phạm tội Giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự
năm 2015 nên Thẩm quyền xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh N.
Căn cứ pháp lý: điểm c, khoản 1, Điều 268; Điều 269 và khoản 1, Điều 239 BLTTHS
2015
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (tỉnh N) có trách nhiệm thực hành quyền công tố tại
phiên tòa.
Bởi vì:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 239 BLTTHS 2015 về Thẩm quyền truy tố thì Thẩm
quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối
với vụ án. Do đó, Thẩm quyền truy tố của vụ án trên thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh N.
Căn cứ pháp lý: điểm c, khoản 1, Điều 268; Điều 269 và khoản 1, Điều 239 BLTTHS
2015.
Câu hỏi 2: Viện kiểm sát phát hiện A là người chưa thành niên nhưng Cơ quan điều
tra đã không chỉ định người bào chữa cho A trong giai đoạn điều tra. Viện kiểm sát
giải quyết như thế nào?
Đáp án:
Căn cứ theo quy định tại Điều 76 BLTTHS 2015 quy định về việc chỉ định người bào
chữa thì trường hợp Viện kiếm sát phát hiện A là người chưa thành niên nhưng cơ quan
điều tra đã không chỉ định người bào chữa cho A trong giai đoạn điều tra thì Viện kiểm
sát phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa gồm:
Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa hoặc Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện
được trợ giúp pháp lý hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của
tổ chức mình.
Căn cứ pháp lý: Điều 76 BLTTHS 2015.
Câu hỏi 3: Khi đang xem xét quyết định việc truy tố thì B bỏ trốn. Viện kiểm sát sẽ
giải quyết như thế nào?
Đáp án:
Căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 247 BLTTHS 2015 thì Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ
bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố thì Viện kiểm sát quyết
định tạm đình chỉ vụ án và phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm
đình chỉ vụ án. Căn cứ đoạn 2, khoản 2, Điều 247 BLTTHS 2015 thì Trường hợp vụ án có
nhiều bị can mà căn cứ để tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can thì tạm
đình chỉ vụ án đối với từng bị can. Trong trường hợp này, việc B bỏ trốn không ảnh
hưởng, không liên quan đến A.
Căn cứ khoản 2, Điều 242 BLTTHS 2015 quy định về về việc nhập hoặc tách vụ án trong
giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát quyết định tách vụ án khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây nếu xét thấy việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách
quan, toàn diện và đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can bỏ trốn.
Kết luận:
Khi đang xem xét quyết định việc truy tố thì B bỏ trốn. Viện kiểm sát sẽ yêu cầu Cơ quan
điều tra truy nã đối với B. Sau khi Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với B thì
Viện kiểm sát ra quyết định Tạm đình chỉ vụ án đối với bị can B rồi ra quyết định Tách
vụ án hình sự để tiếp tục giải quyết “phần” vụ án hình sự đối với bị can A.
Căn cứ pháp lý: Căn cứ điểm b, khoản 1, và đoạn 2, khoản 2, Điều 247 và khoản 2, Điều
242 BLTTHS 2015
Mở rộng thêm: Nếu sau này bị can B bị bắt theo lệnh truy nã, thì Cơ quan điều tra sẽ ra
Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự và tiếp tục điều tra, truy tố, xét xử bị can B
theo quy định của pháp luật.

You might also like