You are on page 1of 11

Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ lớn của

dân tộc. Trong di sản văn học của Người,


thơ ca là mảng sáng tác rất có giá trị, trong đó có thể kể đến tập thơ “Nhật kí trong tù”được sáng tác trong những ngày Người bị
giam giữ ở các nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây. Chiều tối (Mộ -1942) là bài thơ được trích từ tập thơ này.
– Tố Hữu là nhà cách mạng, cũng là nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu nhất của nền thơ ca cách mạng. Sự nghiệp cách mạng của
Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp thơ ca của ông. Từ ấy (1938) là bài thơ hay được trích trong tập thơ cùng tên ghi lại thời
khắc đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và nghệ thuật của Tố Hữu khi nhà thơ được giác ngộ lí tưởng cách mạng, tìm thấy con
đường đi cho cuộc đời mình và thơ ca.
– Cả hai bài thơ đều hướng tới khắc họa vẻ đẹp trong tâm hồn và lí tưởng sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng.
2.  Vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh)
– Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: khi Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của phe Đồng minh. Khi đến
Quảng Tây thì Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Vì không có chứng cớ khép tội nên chúng không thể đưa ra xét
xử. Chúng đã hành hạ Người bằng cách giải đi khắp các nhà lao của tỉnh Quảng Tây trong hơn một năm trời nhằm tiêu diệt ý chí
của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ này cũng giống như nhiều các sáng tác khác được viết trên hành trình chuyển lao từ Tĩnh
Tây đi Thiên Bảo, vào khoảng bốn tháng sau khi Người bị bắt. Tác phẩm là bức chân dung tự họa của con người Hồ Chí Minh ở
thời điểm gian nan thử thách nhất trên con đường cách mạng.
– Đó là người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, đón nhận vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên núi rừng. Bức tranh
thiên nhiên cảnh chiều mở ra ở cả chiều cao, chiều rộng của không gian và được vẽ bằng những nét phác họa đơn sơ, với những
hình ảnh đậm đà sắc màu cổ điển như cánh chim và chòm mây, có chút buồn vắng, quạnh hiu những vẫn thanh thoát, ấm áp hơi
thể sự sống. Bức tranh thiên nhiên đã nói lên nhân vật trữ tình là con người tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết vượt lên
trên cảnh ngộ tù đày.
– Đó cũng là người chiến sĩ có tấm lòng nhân đạo, bao la, yêu thương, quan tâm chia sẻ với con người lao động, một tâm hồn
luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Dù vẫn phải tiếp tục chuyển lao trong cảnh trời tối, con người đã quên đi nỗi nhọc nhằn của
riêng mình, hướng về cô gái nhỏ lao động nơi xóm núi xay ngô và lò than rực hồng đã đỏ để cảm thông, chia sẻ, ấm áp, vui lây
niềm vui lao động của con người.
– Bút pháp khắc hoạ chân dung người chiến sĩ cách mạng: là bút pháp gợi tả, những hình ảnh đậm đà màu sắc cổ điển mà vẫn
thấm đẫm tinh thần hiện đại. Vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng hiện qua bức tranh cảnh vật thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt
lao động của con người. Đó là con người ung dung, hoà hợp với thiên nhiên nhưng vẫn luôn trong tư thế làm chủ hoàn cảnh,
hướng về con người, sự sống và ánh sáng, chất thi sĩ và chất chiến sĩ hoà quyện làm một.
3. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Từ ấy (Tố Hữu)
– Bài thơ ra đời với một bước ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Tố Hữu. Ngày nhà thơ được kết nạp vào Đảng
cộng sản, đứng vào hàng ngũ những người cách mạng chiến đấu vì một lí tưởng chung, ông đã viết bài thơ này. Đặt trong hoàn
cảnh sáng tác ấy, bài thơ đã cho thấy tình yêu, niềm say mê với lí tưởng cách mạng và lẽ sống cao đẹp làm nên vẻ đẹp hình tượng
người chiến sĩ trong bài thơ.
– Đó là con người có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực lửa, là mặt trời
chói sáng, soi rọi giúp cho nhà thơ nhận ra con đường đi đến với chân lí, lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng còn hồi
sinh, chỉ đường, đem đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật thơ ca của người chiến sĩ.
– Đó là người chiến sĩ có lẽ sống nhân đạo cao đẹp. Con người ấy từ khi được giác ngộ lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ
thuật thơ ca của mình không thuộc về cá nhân mình nữa mà thuộc về quần chúng cần lao và cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
Con người đã tự nguyện đem cái “tôi” nhỏ bé của mình gắn kết với cuộc đời để tạo nên sức mạnh đoàn kết, tranh đấu. Người
chiến sĩ cũng ý thức rằng mình sẽ là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình cách mạng của những người lao khổ, bị áp bức,
chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
– Bút pháp khắc hoạ: được khắc họa qua cách miêu tả trực tiếp bằng những cảm nhận của nhân vật trữ tình khi bắt gặp ánh sáng
của lí tưởng hoặc những lời ước nguyện, lời thề quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng chung. Bài thơ làm hiện lên chân dung của một
cái “tôi” chiến sĩ không cách biệt, trốn tránh cuộc đời như cái “tôi” thơ mới mà trẻ trung, hăm hở, nhiệt huyết, tràn đầy tình yêu,
niềm say mê với lí tưởng cộng sản, sống có trách nhiệm với cuộc đời, với nhân dân đau khổ bị áp bức, với cuộc đấu chung của
dân tộc.
4. Điểm tương đồng và khác biệt ở hình tượng người chiến sĩ trong hai bài thơ
d1. Điểm tương đồng: cả hai bài thơ đều tập trung khắc họa hình tượng người chiến sĩ cách mạng, những người con ưu tú nhất
của lịch sử dân tộc có tâm hồn cao đẹp, có lí tưởng sống nhân đạo, chất thi sĩ và chiến sĩ hoà quyện trong tâm hồn, lí tưởng của
họ.
d 2. Điểm khác biệt:
– Ở “Chiều tối” là vẻ đẹp của người chiến sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống, một hồn thơ luôn hướng về sự sống và ánh
sáng ở những thời điểm thử thách gay go nhất trên hành trình cách mạng. Vẻ đẹp tâm hồn con người được thể hiện qua bút pháp
gợi tả với những hình ảnh đậm màu sắc cổ điển.
– Còn ở “Từ ấy”, đó là người chiến sĩ có tình yêu mãnh liệt với ý tưởng, có lẽ sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến vì cuộc
đấu tranh của dân tộc, giống nòi. Nhân vật trữ tình được khắc hoạ trực tiếp bằng những hình thơ sôi nổi, trẻ trung, tươi mới.
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”
Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử.
Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình
ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái
hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là
nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính
hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối
khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.
Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến
về đều phải luyến tiếc.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ
hai tác giả khéo léo dùng biện pháp điệp từ “nắng". Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng
cau) thì “nắng" ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp
vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố.
Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào
hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là
nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới.
Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm
với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng
khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.
Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu
thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ
thuật tu từ “vườn ai" gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta
quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó.
Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào
hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên,
tài năng của Hàn Mạc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu vườn.
Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng.
Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò
muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì
tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây.
Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái
Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như
vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên
với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.
Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về
không gian lẫn thời gian.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử
dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không
phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác.
Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh
vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật
mang tâm trạng này là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có
suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm
này.
“Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên
cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để
cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con
người.
“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất
hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh “sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng,
làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng.
Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh
này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu
hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.
Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào
nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy
Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở.
Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong
thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo
dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền.
Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo
trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng
lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ
lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương
và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn
sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ
nét sau “tấm rèm trắng".
Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai
có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa.
Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai.
Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng.
Tất cả đều là một ẩn số!Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp
điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm
mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mạc Tử đã
đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ.
Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với
người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về
“người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác
giả và cho cả người đọc.
Tố Hữu là một trong những ngọn cờ đầu tiên phong và đưa nền thơ ca trữ tình chính trị Việt Nam đạt đến đỉnh cao
nghệ thuật và nội dung bằng những sáng tác ấn tượng trải dài suốt mấy chục năm trường như các tập thơ Từ Ấy,
Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa,… Sở dĩ nói Tố Hữu chính là người đã đưa thơ ca cách mạng Việt Nam đạt đến
đỉnh cao là bởi lẽ, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường lịch sử đầu khó khăn và gian lao của dân
tộc tựa như những trang sử ký được chép lại bằng thơ. Những vẫn thơ vừa hào hùng, vừa chân thực lại chan chứa
nhiều tình cảm, mang đến những giá trị lớn, không chỉ là nghệ thuật mà còn là ở nội dung, khi cổ vũ mạnh mẽ tinh
thần chiến đấu của nhân dân, chiến sĩ, trở thành loại vũ khí vừa sắc bén vừa nhân văn. Cuộc đời thơ và cuộc đời
cách mạng của Tố Hữu là một chặng đường nhiều vẻ vang và lắm những gian lao, ông luôn viết và chiến đấu bằng
một tấm lòng chân thành nhất của “một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”. Trong thời kỳ
đầu, Từ Ấy của ông là một trong những sáng tác nổi bật nhất, không chỉ là tác phẩm đánh dấu sự giác ngộ lý tưởng
cách mạng, niềm hân hoan vui sướng trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ tuổi, mà còn là mốc son đánh dấu những thay
đổi lớn lao trong cả nhận thức và tình cảm của Tố Hữu.
Tố Hữu có lý tưởng chiến đấu bảo vệ dân tộc, bảo vệ quê hương từ rất sớm, ông tham gia Đoàn Thanh niên Cộng
sản và trở thành người lãnh đạo Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế khi vừa 16 tuổi. Tuy nhiên trong giai đoạn này, với
vai trò là một trí thức tiểu tư sản, con đường chiến đấu của Tố Hữu còn nhiều mờ mịt, ông cảm thấy lạc lõng và mơ
hồ giữa các lựa chọn khác nhau“bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước trôi”. Từ ấy ra
đời chính là lúc Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi mới 18 tuổi đời, đánh dấu một bước ngoặt
có tính quan trọng bậc nhất trong cuộc đời của tác giả, không chỉ mở ra một con đường sáng, kéo Tố Hữu bước ra
khỏi cảnh lập lờ, hoang mang và bế tắc, mà còn soi rõ lý tưởng cách mạng, khởi đầu cho sự nghiệp cách mạng chiến
đấu vì nhân dân kéo dài suốt 70 năm trời của tác giả. Trước sự kiện đáng nhớ này Tố Hữu đã viết Từ ấy để thể hiện
niềm hân hoan, hạnh phúc tột cùng khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, chiến đấu vì lý tưởng giải phóng dân tộc,
đồng thời cũng bộc lộ những thay đổi lớn trong nhận thức và tình cảm của tác giả.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Mốc thời gian “từ ấy” là một từ phiếm chỉ hay và sâu sắc, dù không nêu rõ ngày tháng năm nào, thế nhưng mang
đậm dấu ấn về một mốc son đáng nhớ nhất trong cuộc đời của tác giả. Đó là ngày ông được chính thức bước chân
vào hàng ngũ của Đảng, được giác ngộ lý tưởng cách mạng, tìm được cho mình một con đường mới mẻ, tươi sáng,
thoát khỏi những tháng ngày chơi vơi, lạc lõng với những trăn trở về mối thù quê hương. “Từ ấy” chính là mốc thời
gian đánh dấu cuộc đời Tố Hữu chính thức bước sang một trang mới, thể hiện sự phấn chấn, yêu đời, tràn đầy sức
sống, niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt. 
Những xúc cảm ấy được thể hiện đầy đủ trong cả câu thơ “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. “Nắng hạ” là thứ nắng rực
rỡ, chói lòa và mạnh mẽ nhất trong cả năm, Tố Hữu ví việc mình bước vào hàng ngũ của Đảng. Trở thành người
chiến sĩ cách mạng giống như cuộc đời bất ngờ được bừng sáng, những thứ ánh sáng mạnh mẽ “bừng” sáng lan tràn
khắp thân thể, xua tan đi tất thảy những cái tối tăm, bế tắc mà ông từng trải qua. Đó là một hình ảnh đẹp thể hiện
được sức mạnh cũng như sự đúng đắn của lý tưởng cách mạng, tầm ảnh hưởng to lớn của nó đối với cuộc đời người
chiến sĩ trẻ tuổi, đồng thời cũng bộc lộ những nhận thức mới của Tố Hữu về Đảng, về cuộc đời và sứ mệnh của
người lính chiến.
 Đến câu thơ tiếp “Mặt trời chân lý chói qua tim”, “mặt trời chân lý” là hình ảnh ẩn dụ sáng tạo và có ý nghĩa sâu
sắc khi nâng tầm vóc của Đảng lên ngang bằng với vũ trụ rộng lớn, đồng thời trở thành chân lý bất diệt không đổi
dời trong lòng không chỉ Tố Hữu mà chính là chân lý đúng đắn của cả một thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc lắm
gian lao của nhân dân ta. Động từ “chói” thể hiện sức xuyên thấu mạnh mẽ của lý tưởng cách mạng, vượt qua mọi
rào cản thân thể tiến đến tận trái tim, tận tâm hồn, mạnh mẽ chiếu sáng, xua đi tất cả những tối tăm mịt mù trong
từng ngóc ngách. Mang đến sự hồi sinh kỳ diệu, mở ra một cuộc đời mới, một chặng đường mới dù lắm gian lao, thế
nhưng có nhiều hy vọng và tương lai tươi sáng hơn tất thảy. 
Trước sự kiện trọng đại, niềm vui sướng khi nhận ra chân lý mới của cuộc đời ở độ tuổi 18, Tố Hữu đã không kìm
được lòng sung sướng, nỗi hạnh phúc tột độ của mình. Niềm vui ấy được thể hiện rõ ràng trong hai câu thơ “Hồn tôi
là một vườn hoa lá/Rất đậm hương và rộn tiếng chim”, tác giả dùng lối so sánh đặc biệt, lấy cái vô hình so sánh với
cái hữu hình, lấy “hồn tôi” đem so với “một vườn hoa lá”, lối so sánh đặc biệt thể hiện được sự tươi mới tràn đầy
sức sống trong tâm hồn khi đón nhận lý tưởng cách mạng, ánh sáng soi đường. Tâm hồn từ cảnh cằn cỗi, thiếu ánh
sáng, thiếu sự sống bỗng nảy nở sinh sôi tựa như một vườn hoa lá, tràn đầy hương sắc. Không chỉ vậy sự vui tươi,
rực rỡ ấy còn được tô đậm thêm ở câu thơ dưới, với lối thơ tràn dòng, lãng mạn kiểu Pháp, khi Tố Hữu nhấn mạnh
“Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Nỗi mừng vui ấy không chỉ thể hiện ở sự xanh tươi của cây lá, mà còn đạt đến
cực hạn với hương thơm đậm ngọt, cùng tiếng chim rộn rã, sôi động. Là ẩn dụ cho những niềm vui sướng, tinh thần
hăng hái, sẵn sàng tham gia chiến đấu của một người chiến sĩ trẻ vừa được đón nhận những nguồn năng lượng tích
cực nhất, sẵn sàng cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Lý tưởng cách mạng của Đảng đã giải phóng cho tâm hồn người chiến sĩ, đồng thời nó cũng đã mở ra cho tác giả
những nhận thức mới về sứ mệnh, trách nhiệm của một người Đảng viên trước tình hình đất nước, làm sao để xứng
đáng với những gì mà Đảng đã giao phó, điều ấy được thể hiện thực rõ ràng trong khổ thơ tiếp.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Tố Hữu từ chỗ sống với cái tôi cá nhân, tình cảm cá nhân và những lý tưởng riêng, thì đến nay khi đã đứng vào hàng
ngũ của Đảng, ông đã có những nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Khi chuyển hướng sang cái ta chung, sống và chiến
đấu vì nhân dân, vì đất nước, mang tình cảm cá nhân cùng hòa chung với tình cảm lớn của cả dân tộc. Đồng thời
cũng nhẫn thức được rõ ràng những phương hướng đúng đắn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ấy là phải xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, trở thành lũy hào, tường thành kiên cố cùng nhau chống lại kẻ thù. Mà tất cả
những điều ấy đều đến từ sự cảm thông thấu hiểu, bao dung cho từng kiếp người, mà như Tố Hữu đã viết “Tôi buộc
hồn tôi với bao hồn khổ”, mang tình cảm của mình “trang trải khắp muôn nơi”, tuyên truyền, vận động, gieo rắc lý
tưởng cách mạng đến với nhân dân, thấu hiểu tất cả những số phận khổ đau trên cuộc đời. Từ đó trở thành cầu nối
chắc chắn, gắn kết mọi người lại với nhau cùng chung tay chiến đấu “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Như vậy
người chiến sĩ cách mạng đứng giữa đời, chân thành, giản dị với những phẩm chất tốt đẹp, đã bước đầu nhận thức
được tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc giải phóng dân tộc, cũng như đường lối đúng đắn của lý tưởng
cách mạng, sẵn sàng để bước vào một cuộc chiến, một chặng đường lắm chông gai và vất vả với tấm lòng, ý chí kiên
cường nhất.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Bên cạnh những sự thay đổi về nhận thức, ở Tố Hữu ta còn nhận thấy sự thay đổi lớn trong phương diện tình cảm.
Nếu như trong khổ thơ thứ hai việc từ bỏ cái tôi cá nhân để hòa vào cái ta chung của dân tộc được xem là sứ mệnh,
là trách nhiệm, thì đến khổ thơ thứ ba Tố Hữu đã càng làm sáng rõ phẩm chất tốt đẹp này ở phương diện tình cảm
lớn. Khi trở thành một người chiến sĩ cách mạng, Tố Hữu đã không đơn thuần là con, là anh, là em của riêng một gia
đình nào khác, mà bản thân ông đã tự đưa mình vào vị trí là con, anh, em ruột thịt của toàn thể đồng bào, toàn thể
nhân dân. Ông đứng hiên ngang, giản dị giữa đời mở rộng vòng tay yêu thương, rộng lớn, với mong ước có thể san
sẻ tình yêu thương, hơi ấm đến vạn nhà, vạn đầu em nhỏ, vạn kiếp phôi pha. Được sẻ chia những cay đắng ngọt bùi,
cùng chung lưng đấu cật, kề vai chiến đấu, kề vai sản xuất, nối vòng tay lớn, đoàn kết, yêu thương lẫn nhau như một
đại gia đình. Lượng từ “vạn” là một từ hay mang ý nghĩa khái quát chỉ sự bao la, rộng lớn của tấm lòng người chiến
sĩ đối với nhân dân, một con người sau khi giác ngộ lý tưởng cách mạng, tâm hồn đã hoàn toàn được khai sáng, trở
nên rộng mở, bao dung, tràn ngập những tình yêu thương và sức sống đối với giống nòi, sẵn lòng hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc. 
Sự thay đổi lớn trong cả nhận thức và tình cảm ấy của Tố Hữu thể hiện sự giác ngộ hoàn toàn lý tưởng chiến đấu
của Đảng, là một trong những hạt giống tốt, xứng đáng được bồi dưỡng để một mai trở thành những cây đại thụ, góp
phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Đồng thời cũng thể hiện được phẩm chất, tư cách
đạo đức của Tố Hữu, cũng như tấm lòng yêu nước nồng nàn, sức trẻ, sức chiến đấu mãnh liệt đang sục sôi trong tâm
hồn người chiến sĩ, mà khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, Tố Hữu dường như đã được sống thêm một cuộc đời
khác, vẻ vang và cũng lắm chông gai.
Từ ấy là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, đồng thời cũng là
một trong những sáng tác thơ ca cách mạng vẫn còn giữ nguyên những giá trị dù đã trải qua tuổi đời hơn 80 năm.
Tác phẩm không chỉ đơn thuần thể hiện niềm hân hoan vui sướng của một chiến sĩ trẻ tuổi khi vừa bước chân vào
hàng ngũ của Đảng mà hơn hết nó còn nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của Đảng và lý tưởng cách mạng đối với nhận
thức và tình cảm của con người, cổ vũ ý chí chiến đấu, khai sáng những góc tối trong tâm hồn, khiến con người trở
nên bao dung, biết yêu thương, hy sinh vì giống nòi, nhận thức được trách nhiệm và sứ mệnh của bản thân gắn liền
với từng giai đoạn lịch sử của đất nước. 
Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người
thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của
ông. Và "Từ ấy" ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng,
đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.
"Từ ấy" được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui chân thành, háo hức, đầy
nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ "Từ ấy" được
trích trong phần đầu "Máu lửa", cả bài thơ là những dòng cảm xúc của Tố Hữu khi lần đầu tiên cảm nhận được lý tưởng lớn lao,
niềm tự hào đứng trong hàng ngũ Cách mạng, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời của ông.
Về nhan đề "Từ ấy", đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu
sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, cảm xúc, sự rung động, biến đổi khó
quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng "từ ấy". Chính mốc thời điểm ấy
đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.
Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà đến năm mười hai
tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông
mới được tìm hiểu và được tiếp xúc với lý tưởng Cách mạng . Bài thơ được Tố Hữu viết vào thời điểm Tố Hữu được kết nạp vào
Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ Tố Hữu. Như chính nhà thơ
đã từng viết “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh”.
Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì
diệu của lý tưởng cách mạng đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu. Bài thơ còn thể hiện quá trình vận
động của tâm trạng cũng như nhận thức của người thanh niên trí thức tiểu tư sản sang ng trí thức cách mạng giàu lòng yêu nước.
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim".
Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần đầu tiên bắt gặp lý tưởng Cách
mạng, ông ngập ngừng lên tiếng "từ ấy trong tôi bừng nắng hạ". "Từ ấy" là lúc nào? Phải chăng là lúc nhà thơ vừa tròn mười tám
tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu đc cuộc đời, chưa rõ ph bước đi về đâu, như ông đã viết trg "Dậy lên thanh niên" rằng:
"Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi".
Cái "bâng khuâng" mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi "từ ấy", trong
lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tắn, rạng rỡ "nắng hạ". Hình ảnh "nắng hạ" là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng
mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn
còn đang bơ vơ của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một con đường đúng đắn.
Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng Cách mạng như một "mặt trời chân lý". Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả
hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một
chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy biết ơn của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực
rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, biết
ơn.
Ông cũng liên tục sử dụng các động từ mạnh như "bừng, chói" để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng Cách mạng soi sáng đường
đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất ngờ, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất ngờ như thế, đồng thời
nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.
Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm chân thành, đặc biệt là câu thơ "mặt trời chân lí chói qua
tim". Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mạng soi đường và thêm nữa
là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, cảm xúc, tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên
mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim nhà thơ được sưởi ấm, được chiếu sáng
rạng ngời.
Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:
"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"
Nếu như trước đây, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng chỉ là những nỗi lo toan, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ
phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu
vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình
và sáng tạo quá! Một tâm hồn đã giác ngộ Cách mạng giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào
một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn
trề, rộn rã khiến cho nhà thơ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng
tạo biết bao!
Qua khổ thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã đến với lý tưởng Cách mạng bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và
nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả
người đọc chúng ta.
Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của nhà thơ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên
công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.
"Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên
những người lao động nghèo vì thế ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế
nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã nhận ra rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta
chung của xã hội, của mọi người. Chính vì thế, ông tình nguyện "buộc lòng" mình với "mọi nhà" để mà cảm nhận được, để mà
hòa chung với "bao hồn khổ" khác. Động từ "buộc" ở đây không có nghĩa là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự
nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.
Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, "trang trải" để tâm hồn mình được trải rộng ra với cuộc đời mà thấu hiểu, đồng
cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn
lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.
Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn "bâng khuâng" mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần đoàn kết, sự yêu thương
dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của nhà thơ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình
ảnh thơ được nhà thơ sử dụng "khối đời" là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung cảnh ngộ với nhau, cùng đồng sức
đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy
quyền sống, quyền được độc lập tự do.
Nhà thơ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với thế giới xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không
còn thờ ơ trước cuộc đời nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu
thương, hữu ái giai cấp nữa. Để miêu tả điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình
cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào tinh thần đoàn kết của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta
chung của mọi con người.
Khổ 3, nhà thơ khép lại với sự chuyển biến của tình cảm trong nhà thơ Tố Hữu. Từ thay đổi về nhận thức dẫn đến sự thay đổi về
tình cảm.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng
lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà:
“vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là
những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó).
Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp
từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả
đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố
Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để
đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với
những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản
như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. Các nhà thơ lãng mạn quan niệm:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
(Xuân Diệu)
Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng
Hồng đã từng viết:
“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
Hay Hồ Chí Minh đã viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so
sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay
đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong
hàng ngũ lãnh đạo của Đảng.
Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi
người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ
ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ
cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các
thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào
lòng người đọc.
 
 
Phong trào Thơ mới đã đánh dấu một giai đoạn đầy chuyển biến của thi ca. Đó là thời kỳ nở rộ của nhiều tài năng
văn học. Bên cạnh Thế Lữ – người tiên phong, Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, người ta còn
nhớ đến Huy Cận – “một hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Huy Cận đã đóng góp vào thơ ca một mối sầu nhân thế,
một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa cổ điển và hiện đại, ông gửi gắm nỗi niềm ấy trong
nhiều bài thơ, trong số đó phải kể đến “Tràng giang”. Có hai điều đọng lại sau khi đọc xong bài thơ này là không
gian vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ
điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật tươi đẹp, thể hiện rất rõ trong hai khổ thơ đầu của tác
phẩm.
Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của
con người, niềm vui, nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ,
vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà thơ còn thể hiện những băn khoăn suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với
cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng Giang”, đặc biệt
qua hai khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều đó. Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là
phương tiện biểu đạt cho cảm xúc cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân
chính, cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả
của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự đầy sâu sắc Huy Cận đã xây dựng được một phong
cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. 
Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông
Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc
buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh
ra đời bài thơ như thế. 
Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải
nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ
không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng
ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ
thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao
la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở
cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông,
rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.
Khổ đầu của bằng thơ, tác giả đã vẽ ra một không gian rộng lớn mênh mông của sóng nước. Mở rộng cùng không
gian rộng lớn là sự mở rộng về cảm xúc con người.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Mở đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mông của“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng giang dài rộng đang
trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Động từ “gợn”: diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng
nhưng lại lan mãi không thôi. Nỗi buồn trải ra cùng các gợn sóng. Bao nhiêu gợn sóng là có bấy nhiêu nỗi buồn.
Từ “Điệp điệp” giàu giá trị vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. “Điệp điệp” thường được dùng để miêu tả hình ảnh của
núi nhưng ở đây tác giả lại sử dụng để miêu tả nỗi buồn. Tác giả đã biến nỗi buồn từ một khái niệm trừu tượng thành
hữu hình, nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả điệp điệp nỗi sầu.
Khi phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy sóng gợn là sóng nhẹ lăn tăn xao động, gợi cảm giác những
vòm sóng như đang lan ra, xô đuổi nhau kéo đến tận chân trời. Tràng giang gợi liên tưởng đến trường giang. Nhưng
ở từ trường giang mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả độ dài của dòng sông thì tràng giang mức độ rộng mở của không
gian còn được mở rộng theo cả chiều rộng. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy cả không gian rộng lớn
như lan tỏa hòa vào nhau, chiều kích không gian được mở ở biên độ cao nhất của chiều rộng và chiều dài.
Đồng thời hai vần ang nối tiếp nhau tạo được âm hưởng về một dòng sông rộng lớn bao la giữa trời đất khiến ta liên
tưởng đến dòng sông trong thơ ca cổ điển
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu”
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Lý Bạch)
Từ láy điệp điệp thông thường điệp điệp được dùng để chỉ vật chất hoặc hình ảnh cụ thể nhưng ở câu thơ này lại
được dùng chỉ tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn liên tiếp vô cùng vô tận khôn nguôi tạo dư ba cho lời thơ.
Dòng sông lớn mang trg mình nỗi buồn lớn. Âm hg gợi lên cái bát ngát mênh mông có phần cổ kính gần với thơ xưa
“Bất tận trường giang cổn cổn lai”
(Đăng cao – Đỗ Phủ)
“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đây là một bức tranh đẹp nhưng
lại buồn đến tê tái, nói về điều này nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét thiên nhiên trong thơ mới đẹp, nhưng lại
buồn đến da diết bâng khuâng. Nỗi buồn đó được lý giải trong câu nói của Huy Cận lúc đó chúng tôi mang một nỗi
buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm được gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan.
Thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng.
Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi
mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi,
lạc lõng không biết đi đâu. Phải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc đời mình khi.“Bâng
khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi”.
Con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng
giang. Trong thơ của mình Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi sầu buồn thiên thu, đến đây ta lại bắt gặp thêm một
nỗi sầu nữa đó là sầu trăm ngả, chỉ với 3 từ cùng một cành củi khô đã nói lên được hình ảnh của những kiếp người
nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung đại mỗi hình ảnh chất liệu đưa vào thơ đều phải được gọt giũa, chọn lọc
như tùng, cúc, trúc, mai thì trong Tràng Giang Huy Cận đã đưa vào một hình ảnh rất đời thường: củi khô.
Phải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng tác giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy
tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn lớn lao của đất trời từ đó nỗi sầu nhân thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi
buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã được vẽ
thêm đất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự
hiu hắt của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật.
Nghệ thuật đối lập con thuyền – nước song song, thuyền về – nước lại: nhằm nhấn mạnh sự đối lập giữa cái bé nhỏ
và cái rộng lớn, ngược chiều chia cắt. Từ đó gợi dự cảm về một nỗi buồn chia ly.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Để có được dòng thơ này tác giả đã phải trải qua 7 lần sửa chữa. Thông thường để diễn tả số phận con người, thi
nhân sẽ dùng hình ảnh cái bèo. Nhưng hình ảnh cái bèo chỉ dừng lại ở việc gợi lên một cuộc đời trôi nổi bấp bênh vô
định nhưng hình tượng cành củi ngoài những điều đó còn gợi được sự khô héo, thiếu sức sống.
Cách sắp xếp ngược với trật tự ngữ pháp thông thường đã tăng thêm sức biểu đạt, sức gợi của hình ảnh. Số phận con
người nhỏ bé nay lại thiếu sức sống như một cành củi khô trôi nổi giữa dòng đời vô định không bờ bến. Cuộc đời vô
hạn nhưng kiếp người lại ngắn ngủi hữu hạn, chớp mắt đã đến bên kia cái dốc của cuộc đời.
Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp,
dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người. Nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những
đợt sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong người, nhẹ nhàng mà mênh mang
không dứt. Ta nhận ra nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ Mới thường
thể hiện cái tôi của mình. Nhưng các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong có thể hòa nhập, giao cảm, Huy Cận
tìm về với thiên nhiên để thể hiện nỗi suy tư về biết kiếp người.
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”,
Trong Chinh Phụ ngâm ta đã từng bắt gặp:
“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.
Dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ Huy Cận. Từ láy “lơ thơ”, đã
diễn tả được sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ mọc trên dòng “Tràng Giang”. Trên những cồn đất ấy là
hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi khi gió thoáng qua nó trở nên hắt hiu tiêu điều.
Câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông càng trở nên bất lực và muốn tìm đến
hơi ấm của con người. “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu không xác định, âm thanh ấy nghe thật mơ hồ, vậy mà đó lại là
âm thanh của chợ đã vãn nghe càng buồn hơn, cũng viết về chợ nhưng trong thơ của Nguyễn Trãi hình ảnh ấy lại
hiện lên thật náo nhiệt đông đúc.
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”
Vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở câu câu thơ này cái tinh tế của Huy Cận là
ở chỗ ông lấy động để nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn để gợi nên không khí vắng lặng của không gian đồng thời thể hiện
mong muốn được giao hòa, giao cảm của con người dù đó chỉ là thính giác.
Đã có ý kiến cho rằng, dòng Tràng giang là một giải buồn mênh mang. Thật đúng như vậy và hai câu thơ tiếp theo
cái buồn của thiên nhiên của con người đã được tác giả đặt đến cái khôn cùng của nó.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Đến đây nhà thơ đã vẽ nên một không gian ba chiều rộng lớn là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn nhà thơ thì
đứng ở bến cô liêu nơi giao thoa của vũ trụ đối lập giữa không gian lớn lao với cái tôi nhỏ bé của con người, từng
vạt nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên bầu trời không gian như được đẩy lên cao hơn đến sự khốn cùng của
nó “sâu chót vót”, là từ ngữ không chỉ để nói về độ sâu, mà còn dùng để nói về độ cao, tạo cho người đọc cảm giác
về sự rợn ngợp của không gian và đứng trước không gian đó con người càng trở nên nhỏ bé đáng thương hơn.
Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi.
Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường
tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động
tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy
cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn đó thể hiện sự sầu muộn với những nỗi sầu nhân
thế, tâm sự thầm kín, tình yêu quê hương, đất nước của Huy Cận thể hiện rõ qua hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng
Giang:
Khổ thơ thứ ba hiện lên trước mắt người đọc một khung cảnh hắt hiu, dường như thiên nhiên nơi đây không giống
với sự trông ngóng của mọi người:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Từng cụm bèo lững lờ trôi vô định trên sông không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, bỗng tới đây ta lại nhớ đến
câu ca dao:
Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập, gió dồi biết tựa vào đâu?
Thân em như thể trái chanh
Lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước ao.
Hay là hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, lênh đênh trên mặt nước gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” (Nguyễn
Du) khiến ta liên tưởng đến sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:
“Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”
(Nguyễn Du)
Như vậy, ta có thể thấy được bối cảnh không gian mênh mông sông nước giữa trời bể bao la vào độ chiều tà. Ngắm
nhìn những đám bèo trôi lênh đênh vô định, không có phương hướng khiến cho cả thi nhân lẫn người đọc cảm thấy
nôn nao, man mác buồn – một nỗi buồn không biết tỏ bày cùng ai, chỉ khi sống trong thơ, chìm đắm trong thế giới
ngôn từ mới có thể thốt lên được.
Điệp từ "không" nhấn mạnh cho sự vắng vẻ ở nơi đây. Trong câu thơ từ láy “mênh mông” gợi lên sự sầu muộn bao
la rộng lớn trước cảnh sông khi chiều tà nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, không hề xuất hiện cảnh "bến
My Lăng nằm không thuyền đợi khách" hay bóng dáng nghiêng nghiêng cầu tre "cầu bao nhiêu nhịp thương mình
bấy nhiêu", tất cả đều "lặng lẽ", chỉ có thiên nhiên "bờ xanh" nối tiếp thiên nhiên (bãi vàng).
Hai câu cuối của khổ thơ là bức tranh thiên nhiên càng sầu bi hơn được vẽ lên dường như đối lập giữa hai bên bờ
sông. Nó giống như là hai thế giới không có bất kỳ liên hệ nào với nhau. Dẫu ở gần mà cũng thành xa xôi không thể
với tới giống câu nói: “gần ngay trước mắt xa tận chân trời”. Hai bên bờ chạy song song với nhau, cùng“lặng lẽ bờ
xanh tiếp bãi vàng”, không một hề có chút thân mật hay giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên lúc bấy giờ giống
như chính tâm trạng của thi nhân vậy.
Với nghệ thuật đối lập giữa không gian rộng lớn và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông bao nhiêu thì
con người càng cảm thấy cô đơn bé nhỏ, lạc lõng giữa dòng đời bấy nhiêu. Nỗi cô đơn cứ thế xếp chồng lên cao,
làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. Từ đây
ta có thể cảm nhận được cảm giác bất lực của con người không thể tìm được một người bạn tâm giao, một tri âm tri
kỷ của đời mình. Như vậy, "Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.
Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc.
Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan
được...".
Quay trở lại với câu thơ cuối cùng của khổ thơ: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Một gam màu lạnh được vẽ nên
cùng sự yên lặng khiến cho cảnh càng thêm hiu quạnh, u hoài nay càng thêm ảm đạm hơn... Suy cho cùng, đó là
cánh bèo đang lờ lững trôi hay là chính con người đang lạc lõng giữa sự mênh mông của trời đất, của sự ra rời cuộc
đời?
Là 1 nhà thơ mới HC dg như phong cách sáng tác của ông nghiêng khá nhiều về dòng thơ lãng mạn Pháp. Điều này
thể hiện khá rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ. ND của khổ thơ này là miêu tả về tâm trạng của nvật trữ tình vào
khoảnh khắc hoàng hôn. Nhắc đến hoàng hôn trong thơ cổ là nhắc đến sự gắn liền với tình quê, cố hương, là nỗi nhớ
quê hương da diết. Ví dụ như Bà huyện Thanh Quan cũng đã sử dụng h/ả hoàng hôn để bày tỏ nỗi nhớ quê hg của
mình qua bài thơ “Qua đèo ngang”:
"Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta" .(Bà huyện Thanh Quan)
Hay ở một diễn biến khác, khi đứng ở trên lầu Hoàng Hạc nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên dòng sông buổi hoàng
hôn mà lòng Thôi Hiệu - nhà thơ lỗi lạc đời Đường phải thổn thức mà thốt nên rằng:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?". (Lầu Hoàng Hạc – Thôi Hiệu)
Huy Cận đã lựa chọn thi liệu đầy chất thơ để vẽ lên một tình quê vơi đầy đó là cánh chim chiều hay là lớp lớp núi
mây bạc. Dẫu không có khói sóng phủ mờ giống như Thôi Hiệu, không có tiếng chim kêu quốc quốc, “thương nhà
mỏi miệng cái gia gia”(Qua đèo ngang) mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết thông qua những câu thơ cuối:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ đầy hình tg và giàu cảm xúc khiến cho ta cảm thấy dường như một bức tranh đang được vẽ nên trước mắt
ta. Hồn thơ mang t/chất của thơ Đường như thấm vào từng câu từng chữ. Ai đã từng xa quê, trg khoảnh khắc chiều
tà, lúc hoàng hôn buông xuống mới thấy hết cái đẹp ng buồn nằm trg nhg bài thơ nói về tình quê, lòng quê. Đến đây,
ngược dòng lịch sử quay trở lại với Truyện Kiều, Nguyễn Du đưa ta phiêu vào cảm xúc của Thúy Kiều khi:
"Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"
Hay:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn"
(Chiều hôm nhớ nhà – Bà huyện Thanh Quan).
Như vậy, hoàng hôn trong bất cứ bài thơ nào cũng đều man mác đượm buồn và gắn liền với nỗi nhớ quê nhà da diết.
Đến đây, Huy Cận cũng là "một người của đời, một người ở giữa loài người", một thi sĩ trong phong trào thơ mới
như đưa ta bâng khuâng, du nhập hồn mình vào cùng "Tràng giang", cùng ông lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo "vời con
nước" để rồi hiện lên nỗi "nhớ nhà", nhớ quê hương.
Tình yêu quê hương trong người thi nhân cháy bỏng và vô cùng da diết. Huy Cận giống như B. Shelly từng nói: “thi
sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.”
Thơ Huy Cận buồn, nhưng nó như nâng dậy tâm hồn người đọc, nó khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất, những gì tiềm ẩn
nơi đáy sâu tâm hồn cng để vươn lên tới nhg cái cao cả hơn. Đọc "Tràng giang" ta cảm nhận sâu hơn về chân lý ấy.
Khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại: là sự kết hợp những nét cổ
điển trong thơ Đường với cái tôi cá nhân xuất hiện trong phong trào thơ mới. Với việc sử dụng nhuần nhuyễn những
từ láy và những câu đảo ngữ, Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ trụ. Điều này thể hiện qua vẻ
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của người thi sĩ. Đó
chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn đó được khơi nguồn từ con tim ra ngoại
cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà mãnh liệt vô cùng:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
(Ê chề - Huy Cận)
Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Cảm hứng của lời đề từ này dường như dàn trải trong ba khổ thơ
đầu, để rồi cuối cùng lại hội tụ và kết tinh vào trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể được xem là một bài thơ tứ tuyệt
hay, bộc lộ chân thực và sâu đậm nhất về tình yêu quê hương của người thi sĩ. Thể thơ thất ngôn trong Tràng giang
mang vẻ đẹp của sự cổ kính và trang trọng. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng, lúc cao lúc thấp như muôn ngàn sóng điệp
điệp gợn buồn trong lòng bạn đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc và vẻ đẹp của hoàng hôn đưa ta phiêu vào nỗi nhớ quê
hương da diết, mang theo những cung bậc cảm xúc của tâm hồn ta...
"Tràng giang" đc xem là 1 trg nhg bài thơ hay nhất của nhà thơ Huy Cận trong tập "Lửa thiêng". Đọc Tràng Giang,
ta càng hiểu hơn cái tôi “ngẩn ngơ buồn” của tác giả. Thông qua đó ta cũng hiểu được thơ là cây đàn đồng điệu của
tâm hồn, là nhịp thở con tim, là diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của cng, cảnh vật dù chỉ qua vài ý thơ
ngắn ngủi. Nghệ thuật ngôn từ trong thơ Huy Cận được nâng lên một tầng cao mới như Xuân Diệu nhận xét: “Dg
như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hg sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”

You might also like