You are on page 1of 41

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

“ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CÔNG


CUỘC QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1975 – nay)”

GVHD: CÔ TRỊNH THỊ MAI LINH


Lớp học phần: LLCT220514_17
SVTH: Nhóm 4 – chiều thứ 5 tiết 7 – 8
1/ Phan Hồng Hậu.................19124240 6/ Huỳnh Thị Kim Ngân.....19124279
2/ Lê Đặng Thanh Bình........19124226 7/ Lê Hồng Nhung..............19124037
3/ Phan Thành Phú................19124301 8/ Dương Tấn Quốc............19161277
4/ Nguyễn Thị Kim Thoa......19124035 9/ Nguyễn Thị Mỹ Hằng.....19124238
5/ Cao Thị Như Quỳnh........19124301 (Chuyển từ lớp thứ 5 tiết 3 – 4)

Tp. Thủ Đức, tháng 05 năm 2021

1
ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN
1. Nhận xét và đánh giá của giảng viên:
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
2. Điểm bài tiểu luận:
STT Phần Điểm
1
2
3

Giảng viên
(ký tên)
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ST
Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Chữ ký
T
Phần A (2.2, 2.4, 3.1) +
1 Phan Hồng Hậu (NT) 19124240
Chương 3 + làm tiểu luận
Phần A (2.1) + phần C (kết
2 Huỳnh Thị Kim Ngân (TK) 19124279
luận)
Phần A (2.8, 3.3) + Lý do
3 Lê Hồng Nhung 19124037 chọn đề tài + đóng góp của
đề tài
Phần A (2.6, 3.1) + phần B
4 Phan Thành Phú 19124301
(1.2, 2.2)
Phần A (2.9, 3.2) + phần B
5 Cao Thị Như Quỳnh 19124307
(1.1)
Phần A (2.7, 3.4) + phần B
6 Nguyễn Thị Kim Thoa 19124035
(2.2) + làm ppt
Phần A (2.5, 3.5) + phần B
7 Dương Tấn Quốc 19161277
(1.3, 2.3)

8 Lê Đặng Thanh Bình 19124226 Phần A (3.3) + phần B (1.4)

Phần A (2.10, 3.2) + phần B


9 Nguyễn Thị Mỹ Hằng 19124238
(2.4)
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài:......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:......................................................................................1
2.1.Chính sách đối ngoại giai đoạn 1976 – 1986 và những bài học kinh nghiệm:........1
2.2.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển 2011) – Những vấn đề lý luận – thực tiễn qua gần 10 năm thực hiện (Bài 2):2
2.3.Những thành tựu cơ bản về kinh tế - xã hội Việt Nam từ khi Đổi Mới đến nay
(1986 – nay):...........................................................................................................2
2.4.Đường lối đối ngoại của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII – Một tầm
cao mới:..................................................................................................................3
2.5.Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công
cuộc Đổi Mới đến hiện nay:....................................................................................3
2.6.Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:.................................................................3
2.7.Khái quát những thành tựu lý luận của Đảng về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua gần 35 năm đổi mới:.........4
2.8.Giá trị của Cương lĩnh 2011:..................................................................................4
2.9.Đường lối kinh tế của Đảng từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng đến nay:..........5
2.10. Xây dựng lại nền công nghiệp và thương nghiệp từ 1976 đến 1985:....................5
3. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................................6
3.1. Phương pháp logic – lịch sử:................................................................................6
3.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp:......................................................................7
3.3. Phương pháp diễn dịch – qui nạp:........................................................................7
3.4. Phương pháp so sánh đối chiếu:...........................................................................8
3.5. Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn:................................................................8
4. Bố cục:....................................................................................................................... 8
5. Đóng góp của đề tài:.................................................................................................9
B. NỘI DUNG.............................................................................................................10
Chương 1: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
giai đoạn trước Đổi mới (1975 – 1985):.......................................................................10
1.1. Đường lối kinh tế tập trung bao cấp:.................................................................10
1.1.1. Hạn chế, sai lầm:............................................................................................10
1.1.2. Nguyên nhân:..................................................................................................11
1.2. Mục tiêu, kết quả đường lối công nghiệp hóa trước đổi mới:...........................11
1.3. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị - hệ thống chuyên chính vô sản theo tư
tưởng làm chủ tập thể (1975 - 1985):.........................................................................12
1.4. Đường lối đối ngoại:..........................................................................................14
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
giai đoạn sau Đổi mới (1986 – nay):.............................................................................16
2.1. Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:.....................16
2.1.1. Chính sách:.....................................................................................................16
2.1.2. Thành tựu:......................................................................................................17
2.2. Đường lối Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước:.....................................18
2.2.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa:........................................................18
2.2.2. Thành tựu:......................................................................................................19
2.3. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kì Đổi mới:.................................20
2.3.1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị.......................................20
2.3.2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị:........................................................21
2.4. Đường lối ngoại giao:........................................................................................24
Chương 3: Vận dụng:...................................................................................................28
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................31
E. HÌNH ẢNH MINH HỌA.......................................................................................33
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai
miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thế
nhưng, lịch sử thế giới thời bấy giờ đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm về sự sụp
đổ CNXH ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ
1945. Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật,về kinh
tế xã hội.Trong khi, xã hội Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở
Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến trong hơn 1000 năm,và chịu ách thống trị
của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam mang tính chất thụôc
địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ, bộ máy
nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc
hậu, đời sống người dân nghèo nàn...Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất
nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác? Và qua hơn 35 năm
đổi mới, những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một
cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng
định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một quyết định đúng
đắn. Trong bối cảnh thời đại thay đổi khó lường lúc bấy giờ, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên trì tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, lấy tư tưởng độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là một đường lối vô cùng mới và toàn diện, lấy xây dựng
kinh tế làm trung tâm, xây dựng Đảng làm then chốt, lúc bấy giờ, con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với tình hình đất nước và xu thế thời đại.Để làm rõ
những điều nói trên, nhóm chúng em xin chọn Đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam với
công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1975 – nay)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
2.1. Chính sách đối ngoại giai đoạn 1976 – 1986 và những bài học kinh
nghiệm:
Quá trình thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay đã để lại một số
kinh nghiệm quý báu, mang giá trị thời đại và thực tiễn: Thứ nhất, cần phải đánh giá

1
đúng sự biến đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực; bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời
điều chỉnh chủ trương, chính sách đối ngoại. Thứ hai, cần thường xuyên phòng tránh
nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối ngoại, coi trọng công tác
nghiên cứu chiến lược, tổng kết thực tiễn và dự báo quốc tế. Thứ ba, chủ động khắc
phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác lập các mối quan hệ quốc tế đa
dạng, đa phương. Thứ tư, cần xác định đúng đắn, kịp thời tầm quan trọng của quan hệ
với các nước lớn và các nước láng giềng cùng khu vực.
2.2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển 2011) – Những vấn đề lý luận – thực tiễn qua gần 10
năm thực hiện (Bài 2):
Các đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng ngày càng
được hiện thực hóa. Việc nhận thức và giải quyết 9 mối quan hệ cơ bản và từng bước
hoàn thành 8 đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng như 8 phương
hướng lớn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giải quyết đúng đắn 9 mối quan hệ
đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chúng ta đã giữ
vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vài sự lãnh
đạo của Đảng, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Tuy nhiên vẫn còn những khuyết
điểm cần khắc phục trong thời gian tới.
2.3. Những thành tựu cơ bản về kinh tế - xã hội Việt Nam từ khi Đổi Mới
đến nay (1986 – nay):
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được
trạng thái trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng tương ứng với cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chủ đề chỉ hoạt động đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ
tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với
giai đoạn 1986-1990.Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được
duy trì, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát
huy được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế
kinh tế, từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý chính sách và điều hành hệ thống; cải

2
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn
và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;… Thành tựu đó ngày càng khẳng định
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, góp
phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
2.4. Đường lối đối ngoại của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
– Một tầm cao mới:
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của
hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác đáng tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Cùng với đó là bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Chú trọng
hoạt động đối ngoại với các Đảng anh em, góp phần giải quyết các vấn đề nảy sinh
giữa Việt Nam với một số nước, nhất là các nước láng giềng, các nước ASEAN. Tăng
cường đoàn kết, hợp tác với các Đảng Cộng sản để thực hiện chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân trong thời kỳ mới, có ý nghĩa rất quan trọng về mặt chính trị và an
ninh cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta
2.5. Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi
bước vào công cuộc Đổi Mới đến hiện nay:
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã diễn ra trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội
một cách toàn diện khi có chủ trương đổi mới từ Đại hội VI của Đảng. Thực hiện công
cuộc đổi mới, thay đổi phương thức, chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội bằng phương
thức, chiến lược mới. Tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không
chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền
tảng tư tưởng, là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội. Giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội. Hội nhập quốc tế, nhưng độc lập
về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia. Qua đó cho thấy sự đúng đắn của quan
điểm, đường lối chiến lược của Đảng. Song, công cuộc đổi mới cũng cần có những
bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định trong tương lai.
2.6. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

3
Trước những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, Đảng ta đã
đưa ra những quyết sách nhằm thúc đẩy kinh tế, xóa bỏ tư duy cũ, đổi mới tư duy kinh
tế. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã "thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân". Và kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến
nay Đảng ta vẫn luôn kiên định, từng bước đổi mới hoan thiện tư duy kinh tế về xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 30 năm đổi mới nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu về tốc độ tăng trưởng kinh tế , kết quả huy động vốn đầu
tư , tốc độ tăng kim nghạch xuất nhập khẩu và các vấn đề về an sinh xã hội. Tuy nhiên
bên cạnh những thành tựu vẫn còn những vấn đề được đặt ra. Điều đó đòi hỏi Đảng và
nhà nước ta cần đưa ra những giải pháp để tháo gỡ những vấn đề đó.
2.7. Khái quát những thành tựu lý luận của Đảng về mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua
gần 35 năm đổi mới:
Qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã từng
bước hình thành, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới
toàn diện đất nước theo định hướng XHCN trên mọi phương diện: Khẳng định và phát
triển nền tảng tư tưởng của Đảng ta; Xác định định hướng XHCN, xây dựng mô hình
CNXH ở Việt Nam; Phát kiến lý luận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Kiến
tạo lý luận Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; Nhận diện và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng; xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước; Xây dựng lý luận mở cửa, hội nhập quốc tế; Phát triển lý luận
về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền; Xác định và phát huy động lực to lớn của
cách mạng Việt Nam.
2.8. Giá trị của Cương lĩnh 2011:
Cương lĩnh là văn bản kết tinh trí tuệ, phản ánh năng lực của một chính đảng,
thường thể hiện trên 3 bình diện cơ bản. Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị của giai
cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao
động, Đảng Cộng sản đặc biệt coi trọng việc xây dựng, thực hiện cương lĩnh chính trị.
Vào giữa thế kỷ XIX, C. Mác và người bạn thân thiết của ông - F. Ăngghen viết bản
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848. Đây là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của

4
Liên đoàn những người cộng sản do C. Mác sáng lập và cũng là cương lĩnh chính trị
đầu tiên của những người cộng sản trên toàn thế giới. Là người kế thừa, phát triển xuất
sắc học thuyết của C. Mác, Lênin đặc biệt chú trọng công tác hoạch định đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản, nhất là xây dựng cương lĩnh. Lê nin đã dành công sức
xây dựng nhiều văn bản có tính chất cương lĩnh, nổi bật là Luận cương tháng Tư (ngày
16/4/1917) và Cương lĩnh về dân tộc, có giá trị và tầm ảnh hưởng to lớn. Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong 89 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành 5 bản
cương lĩnh. Giá trị tư tưởng, chính trị của cương lĩnh: Ngọn cờ tập hợp, cổ vũ toàn
Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; Nền tảng tiếp tục phát
triển, hoàn thiện lý luận.
2.9. Đường lối kinh tế của Đảng từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng
đến nay:
Nguyễn Đức Luận (2009), đường lối kinh tế của Đảng ta từ khi đất nước hoàn
toàn giải phóng được chia thành 2 thời kỳ chính là thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi
mới. Ở thời kỳ trước đổi mới, cả nước thống nhất đi lên CNXH, đường lối kinh tế của
Đảng ta có nhiều điểm không hợp lý, không phù hợp với điều kiện, tình hình của nước
ta. Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đưa ra được một đường lối
kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó vừa gắn liền với những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, vừa có sự phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện , hoàn cảnh nước ta.
Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng: đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế
luôn ở mức cao (năm 2004 là 7,7 %), tình hình chính trị ổn định, quốc phòng an ninh
vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện (tính đến 31/12/2002 là
khoảng 500 USD/ người, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế…Những thành tựu đó chính là cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của
Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
2.10. Xây dựng lại nền công nghiệp và thương nghiệp từ 1976 đến 1985:
Về công nghiệp: Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV của Đảng xác định đường
lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối phát triển công nghiệp nước ta
trong giai đoạn mới, đồng thời thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ 2. Tuy nhiên nền

5
kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm và thậm chí tới vào trì trệ, suy thoái vào cuối kế
hoạch 5 năm (1979 – 1980). Trước tình hình đó hội nghị trung ương 6 khóa IV đã chỉ
ra những khiếm khuyết và có những đường lối, chính sách cải tiến thay đổi, có tác
động mạnh đến công nghiệp thời kì này, song về cơ bản mô hình kinh tế vẫn không
đổi.
Về thương mại: Những năm 1976 – 1978, tình hình đối ngoại nói chung và
ngoại thương nói riêng tương đối thuận lợi cho đến năm 1978 về sau trước sự cấm vận
của Mỹ và các nước khác cùng cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc làm
cho đất nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh gây khó khăn về kinh tế trong khi
quản lý kinh tế và thương mại vẫn theo lối nặng chất quan liêu bao cấp, kém hiệu quả.
Với những chủ trương đúng đắn như trong hội nghị trung ương 6 khóa IV cùng với kế
hoạch 5 năm đã làm cho nền kinh tế Việt Nam những năm 1981 – 1985 có bước phát
triển khá hơn so với trước.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp logic – lịch sử:
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu tổng quát các sự kiện, hiện
tượng lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để làm bộc lộ bản chất, tính
tất yếu và quy luật vận động và phát triển khách quan của sự kiện, hiện tượng lịch sử
đang ẩn mình trong các yếu tố tất nhiên lẫn ngẫu nhiên phức tạp ấy. Nhiệm vụ của
phương pháp này là giúp nhà nghiên cứu thấy được những bài học và xu hướng phát
triển của sự vật hiện tượng. Khi thực hiện phương pháp logic cần tránh áp đặt những
định kiến, những quy luật chung sẵn có để làm khuôn mẫu, đồng thời không tách rời
lịch sử, việc nghiên cứu phải được tiến hành trên cơ sở khái quát hóa và rút ra từ hiện
thực.
Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của
sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra
(quá trình ra đời, phát triển, tiêu vong). Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là thông
qua các nguồn tư liệu để nghiên cứu và phục dựng đầy đủ các điều kiện hình thành,
quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của các sự kiện,
hiện tượng, đồng thời đặt quá trình phát triển đó trong mối quan hệ tác động qua lại
với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận động của chúng, từ đó có thể

6
dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như đã xảy ra. Một số nguyên tắc
của phương pháp lịch sử là: tính biên niên, tính toàn diện, tính chi tiết, tính cụ thể.

7
3.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích
chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng. Khi đứng trước một đối
tượng nghiên cứu để việc phân tích trở nên dễ dàng và đơn giãn hơn chúng ta cần xác
định: lựa chọn tiêu chí, cách thức phân chia, xác định điểm xuất phát ban đầu để
nghiên cứu, tùy theo mục đích nghiên cứu, phân loại để chọn ra những thuộc tính riêng
và chung
Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho quá
trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát.Từ những kết quả nghiên cứu từng
mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản
chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò
quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự
phân tích, khả năng trừu tượng, khái quát nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía
cạnh định lượng khác nhau. Với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật do tính chính
xác quy định, mặt phân tích định lượng có vai trò khá quyết định kết quả nghiên cứu.
Quá trình tổng hợp, định tính ở đây hoặc giả là những phán đoán, dự báo thiên tai, chỉ
đạo cả quá trình nghiên cứu, hoặc giả là những kết luận rút ra từ phân tích định lượng.
3.3. Phương pháp diễn dịch – qui nạp:
Diễn dịch là phương pháp nghiên cứu đi từ cái phổ biến đến cái cá biệt, từ cái
riêng đến cái chung, căn cứ vào thuộc tính và mối quan hệ của một sự vật, hiện tượng,
vấn đề nào đó mà rút ra kết luận một sự vật, hiện tượng, vấn đề cá biệt trong loại đó
cũng có thuộc tính và quan hệ như vậy. Phương pháp diễn dịch gồm ba bộ phận là:
Tiền đề, quy tắc suy luận logic và kết luận.
Phương pháp quy nạp là từ nhiều sự kiện, hiện tượng lịch sử có tính riêng lẻ,
sau khi đã phân tích dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau để nêu lên luận điểm,
luận đề, nhận định có tính tổng hợp, tính khái quát cao. Đây là phương pháp lập luận
đi từ cái riêng đến cái chung, từ cái chi tiết đến cái tổng thể, là phương pháp đi từ
những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các sự kiện, hiện
tượng ấy lại với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó. Từ những sự kiện,
hiểu biết riêng lẻ, người ta tổng kết, quy nạp lại thành nguyên lý chung. Phương pháp

8
này đòi hỏi phải biết lựa chọn sự kiện lịch sử tiêu biểu để phân tích, thống nhất quan
điểm đánh giá, nhận định.
3.4. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Các phương pháp so sánh: so sánh đối lập, so sánh đối chiếu theo mốc thời
gian, so sánh theo nội dung lịch sử. Phương pháp So sánh đối chiếu theo mốc thời gian
là phương pháp so sánh đối chiếu giữa hai vấn đề lịch sử cùng diễn ra trong một thời
gian nhưng có địa điểm, không gian tiến hành khác nhau, phương pháp này mang tính
đối chiếu là chủ yếu, các vấn đề được đưa ra đối chiếu thường có mối liên hệ ảnh
hưởng tác động lẫn nhau, giáo viên nên sử dụng phương pháp này để minh họa cho
một thời kỳ, một giao đoạn lịch sử thấy được tính hệ thống hóa, khái quát hóa cho vấn
đề. Trong lịch sử Đảng, chú trọng phương pháp so sánh, so sánh giữa các giai đoạn,
thời kỳ lịch sử, so sánh các sự kiện hiện tượng lịch sử, làm rõ các mối quan hệ, so sánh
trong nước và thế giới.
3.5. Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn:
Lý luận và thực tiễn là hai trong số những phạm trù quan trọng của triết học
Mác – Lênin. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp
phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ
nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin khẳng định: “Không
có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”. Lý luận có thể dự
kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho
sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên
chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, Bác Hồ đã từng ví
“không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
4. Bố cục:
- Chương 1: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội giai đoạn trước Đổi mới (1975 – 1985)
- Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội giai đoạn sau Đổi mới (1986 – nay)
- Chương 3: Vận dụng.

9
5. Đóng góp của đề tài:
Về kiến thức – Cung cấp kiến thức về đường lối công nghiệp hóa, đường lối về
kinh tế, đường lối xây dựng hệ thống chính trị và cả đường lối đối ngoại của Đảng ta
về Đại hội VI; các thành tựu sau hơn 35 năm đổi mới trong giai đoạn quá độ lên
CNXH của Đảng ta.
Về kỹ năng – Từ những bài học lịch sử trong quá trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng giai đoạn 1975-nay góp phần nâng cao nhận thức, năng lực tư duy, năng lực chỉ
đạo thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu cách mạng hiện
nay, hướng đến những đường lối, chính sách đổi mới, nâng cao đời sống của nhân dân.
Về tư tưởng – Cung cấp những nội dung chân thực về sự kiên trì, dìu dắt nhân
dân tiến lên theo con đường quá độ CNXH đầy gian nan của Đảng. Từ đó góp phần
củng cố niềm tin đối với sự lựa chọn đúng đắn con của Đảng cộng sản Việt Nam và
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Về thái độ – Hướng đến thái độ học tập đúng đắn, nghiêm túc trong lĩnh hội tri
thức lịch sử Đảng. Xác định động cơ học tập phù hợp, thiết thực để vận dụng những
kiến thức lý luận vào thực tiễn công tác, thực tiễn địa phương.
Đối với môn đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam:
• Xây dựng giáo án vững chắc của bộ môn.
• Tạo hứng khởi khi tìm hiểu bộ môn.

10
B. NỘI DUNG
Chương 1: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
giai đoạn trước Đổi mới (1975 – 1985):
1.1. Đường lối kinh tế tập trung bao cấp:
Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước
và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn XHCN. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp
cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa
phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Từ thực tiễn chỉ đạo công
nghiệp hóa 5 năm (1976 – 1981), Đảng rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên,
điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với
mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần
thứ V của Đảng (tháng 3/1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong
giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp
hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn mục tiêu và bước đi
của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta
không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này, gây hậu quả nghiêm trọng.
1.1.1. Hạn chế, sai lầm:
Nhìn chung, trong thời kỳ 1975 – 1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành
công nghiệp hóa theo kiểu cũ dẫn tới hạn chế, sai lầm sau đây:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát
triển công nghiệp nặng.

11
- Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và
nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện công nghiệp
hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để
công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn không quan
tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
- Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, tiếp theo lại bị bao vây, cô lập, những sai
lầm trên đây đã trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cuộc khủng hoảng
kinh tế-xã hội kéo dài nhiều năm.
1.1.2. Nguyên nhân:
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
- Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa
không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
- Về chủ quan, chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu
tƣ, v.v… Đó là những sai lầm xuất phát từ tư tưởng tả khuynh, chủ quan duy ý
chí trong nhận thức và chủ quan trong công nghiệp hóa.
1.2. Mục tiêu, kết quả đường lối công nghiệp hóa trước đổi mới:
Mục tiêu của công nghiệp hóa XHCN được Đại hội III xác định là xây dựng
một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bướcc đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ
thuật của CNXH. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu
phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
 Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.

 Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.

 Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng.

 Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh

12
phát triển công nghiệp địa phương.
+ Đánh giá sự thực hiện đường lối công nghiệp hóa: Nhìn chung, trong thời
kỳ 1960-1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo
kiểu cũ dẫn tới hạn chế, sai lầm sau đây:

 Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và
thiên về phát triển công nghiệp nặng.

 Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất
đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực
hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc
phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ
chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các
quy luật của thị trường.

 Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn
không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

 Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, tiếp theo lại bị bao vây, cô lập,
những sai lầm trên đây đã trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn tới
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm.
1.3. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị - hệ thống chuyên chính vô sản
theo tư tưởng làm chủ tập thể (1975 - 1985):
Từ tháng 4/1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Do đó, hệ thống chính trị của nước ta cũng
chuyển sang giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ
lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm vi nửa nước (1954 - 1975) sang hệ thống
chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước.
Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV của Đảng nhận định rằng, muốn đưa sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, “điều kiện quyết định trước tiên là
phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”(1).

13
Trong giai đoạn này, việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản được quan
niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tức là xây dựng một hệ
thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân
dân lao động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ xã hội, làm
chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính
vô sản gồm những nội dung sau đây:
 Một là, xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa bằng pháp luật
và tổ chức.
 Hai là, xác định Nhà nước trong thời kì quá độ là “Nhà nước chuyên chính vô
sản, thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”, là một tổ chức thực hiện quyền
làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức
thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển
của xã hội. Muốn thế, Nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân, vì dân,
đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế
mới, nền văn hóa mới và con người mới.
 Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều
kiện
chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
 Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là bảo đảm cho
quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường
họcvề chủ nghĩa xã hội. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả
năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng.
Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ chức, nội dung và phương
thức hoạt động cho phù hợp với điều kiện mới. Hoạt động của các đoàn thể phải
năng động, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc
phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt.
Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và nhu
cầu sinh hoạt văn hóa để thu hút đông đảo quần chúng vào hoạt động xã hội,
chính trị.

14
 Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lí là cơ chế chung trong quản lí toàn bộ xã hội.
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1975 - 1985 được chỉ
đạo bởi đường lối của các Đại hội IV và V của Đảng đã góp phần mang lại những
thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm (1975 - 1985) đầy khó khăn, thử
thách. Điểm tiến bộ, sáng tạo trong giai đoạn này của Đảng là đã coi làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa là bản chất của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta.
Tuy nhiên, việc sử dụng chuyên chính vô sản để tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp
dưới hình thức mới đã dẫn tới nhiều chủ trương tả khuynh, duy ý chí trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
 Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lí tập trung quan
liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp. Các cơ quan dân cử các cấp được lựa
chọn,
bầu cử và hoạt động một cách hình thức chủ nghĩa. Không ít cơ quan chính
quyền
không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không làm công tác vận động quần chúng,
chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính.
 Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa
đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản và cấp
bách.
Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo
dục, động viên quần chúng tham gia quản lí kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa
tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ chức
 Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hiện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với
những đột phá mới trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các cơ
sở
trong toàn quốc. Do đó, trên thực tế hệ thống chuyên chính vô sản đã cản trở
quá
trình đổi mới kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.

15
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới, đã
thúc đẩy chúng ta phải chấm dứt hệ thống chuyên chính vô sản để chuyển sang hệ
thống chính trị trong thời kì mới.
1.4. Đường lối đối ngoại:
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ ngoại giao là
“Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế lợi nhuận để nhanh chóng hàn gắn những
thương hiệu chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”. Chủ trương củng cố và tăng cường sức mạnh của đoàn kết chiến đấu và quan hệ
hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào - Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển chủ sở hữu và hợp tác với
các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng hệ thống bình thường giữa Việt Nam với
tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc quyền chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Từ
giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh chú trọng cố định, tăng cường tác động về mọi
mặt với Liên Xô, chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự
do, trung lập và ổn định.
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với
23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF); ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế
giới (WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-
1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động
trong phong trào Không liên kết... Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ
hợp tác kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối
năm 1976, Philíppin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam.Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương
trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-
1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô. Sự tăng
cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rông quan hệ hợp tác
kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ được nguồn viện
trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh; đồng thời phát huy được vai
trò của nước ta trên trường quốc tế.

16
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986,
quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây,
cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia”
các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam. Do
trong quan hệ đối ngoại ta chưa nắm bắt xu thế chuyển đổi từ đối đầu sang hòa hoãn
và chạy đua kinh tế với thế giới, đã không tranh thủ được những thuận lợi trong quan
hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
giai đoạn sau Đổi mới (1986 – nay):
2.1. Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
2.1.1. Chính sách:
Trước Đại hội VI, chính những người cộng sản Việt Nam trước nhiều bế tắc
của đất nước do đói nghèo, khủng hoảng đã nỗ lực tìm ra lối đi, thừa nhận sự tồn tại
những hạt nhân hợp lý của kinh tế hàng hóa ngay trong lòng cơ chế kinh tế tập trung
bao cấp. Từ những khoán hộ, “khoán chui”, đổi mới cơ chế quản lý tại các xí nghiệp
và con đường tìm tòi đầy gian nan để đi đến bước ngoặt Đổi mới từ Đại hội VI, chính
thức đề cập sản xuất hàng hóa và xác định “cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa” (Đại hội VI, năm 1986). Đó thực chất cũng là
bước ngoặt Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường để xây dựng
CNXH trong thời kỳ quá độ.
Đến Đại hội VII (năm 1991) xác định xây dựng “nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội
VIII (năm 1996) chủ trương xây dựng “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội IX (năm 2001), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Như vậy, phải sau 15 năm thực hiện Đổi mới, khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng XHCN” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX (2011) của Đảng. Từ đó

17
đến nay, nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng
được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đại hội XII xác định:
“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành 3 Nghị quyết: “Hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”, “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đây là sự kiện quan trọng,
bởi tại các Nghị quyết này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung, phát triển nhiều nội
dung mới, quan trọng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Theo đó, định nghĩa về “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở nước ta
được thống nhất “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
2.1.2. Thành tựu:
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi,
đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-
2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của
dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước
tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên,
nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ
USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm
1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt

18
khoảng 2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ-tiêu dùng, tiết
kiệm-đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động-việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp
phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm
qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng
nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho
các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất
khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản,
như: cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức
cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị
ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới
suy giảm, các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ
trong nước gia tăng, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm
2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao
nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn
tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất
khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. Đây chính là bước tạo đà, tạo lực
bứt phá cho hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn tới.
2.2. Đường lối Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước:
2.2.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.
Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát

19
triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng
để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hướng hiện
đại. Đại hội XII đã nhận định: nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không
đạt được. Trong 5 năm tới (2016-2020), tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát
triển nhanh, bền vững; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
2.2.2. Thành tựu:
Trong 30 năm đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc đã tích cực thể
chế hóa chủ trương, đương lối, quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các
nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm.Trình độ công
nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp
khai thác giảm dần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ.
Cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa đƣợc chú trọng gắn với phát triển
kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới.
Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục trong
nhiều năm; tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải
thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, quy trình quản lý công
nghiệp hiện đại đƣợc áp dụng.
Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, thị trường được mở rông. Một
số ngành dịch vụ mới, chủ lục có giá trị gia tăng cao nhờ khoa học – công nghệ, thiết
kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông… đã hình
thành và từng bước phát triển.
Kinh tế vùng, liên vùng có bước phát triển. Đã hình thành các vùng kinh tế
trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu kinh tế, khai thác các lợi thế, bước đầu

20
tạo nên thế mạnh của các vùng kinh tế, góp phần tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế theo hướng tích cực. Kinh tế biển đã chuyển biến đáng kể, quy mô mở
rộng, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước.
Cơ cấu lao động xã hội đã chuyển dịch theo hướng tích cực, chất lượng nguồn
nhân lực được cải thiện, phục vụ tốt hơn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ đã tăng liên tục trong những năm
qua. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng tương đối nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu
cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đã được chú trọng đầu tới phát triển, đặc biệt là hạ tầng giao
thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Quá trình đô
thị hóa diễn ra nhanh. Diện mạo đất nƣớc thay đổi căn bản so với thời kỳ trước đổi
mới.
Việc phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao có
tiến bộ, tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
2.3. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kì Đổi mới:
2.3.1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã chỉ rõ cần đổi mới chính trị, trong đó có đổi
mới hệ thống chính trị.
+ Mục tiêu: Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện
tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân.
+ Quan điểm:
 Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
 Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không
phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lí của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của

21
nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả
hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, với yêu
cầu hội nhập kinh tế kinh tế quốc tế.
 Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
 Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều của cả hệ thống để thúc
đẩy xã hội phát triển.
2.3.2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị:
+ Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đại hội X và XI đã bổ sung một số nội dung quan trọng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của dân tộc”.
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
“Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra, giám sát và hành động gương mẫu của Đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lí đội ngũ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh
đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng
thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị”. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị.

22
Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của
hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuân khổ Hiến pháp và pháp luật”(4). Trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ
thống. Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt
nhất và cũng là khó khăn nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục
cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay,
hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn coi
trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị
quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lí của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng
cường kỉ luật, kỉ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh
và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ
đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao,
đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh
nghiệm; vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm,
yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

23
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định
và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm
riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài
người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần tiếp thu. Chúng ta hiểu chế định
Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước. Trong
lịch sử loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ
chức phân công quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được xây dựng theo năm đặc điểm sau đây:
 Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân.
 Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
 Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
 Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao
trách nhiệm pháp lí giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời
tăng cường, kỉ cương, kỉ luật.
 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh
đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
 Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đạt kết quả cao cần thực hiện tốt một
số biện pháp lớn sau đây:
 Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong
văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp
hiến,
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
 Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử
nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật,
giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.

24
o Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
 Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lí, quyền con người. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo
đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
 Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các
cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ
chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
+ Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất của chủ trương, chính
sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Nhà nước ban hành cơ chế Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
tốt
vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công
đoàn…, quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và
các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục
tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức; nâng cao chất
lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin.
2.4. Đường lối ngoại giao:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội đã đề ra
những chủ trương đổi mới toàn diện. Riêng về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối
ngoại được Đại hội xác định là phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam
Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô và các nước xã

25
hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại,
hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội”
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”.
Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng
và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát
triển kinh tế” – đây là một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình
thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của
ta.
Tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã
ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của
chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Theo đó, việc mở rộng quan hệ
đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm
vụ cấp bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất
lúc này vào các mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm
cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về
quốc phòng và an ninh.
Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi.
Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định trọng tâm của công tác đối
ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90
của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế
trên phạm vi rộng lớn. Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các
nước lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng
là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập ASEAN, một tổ chức khu vực mà trong đó các
thành viên đều không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị, xã hội với Việt Nam.

26
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày
28/6 - 1/7/1996, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển. Đại hội nêu rõ chủ trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và
chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ đối ngoại của Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, tháng 4/2001, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp, nhận định tổng quát sau 10 năm thực hiện Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội (1991 - 2000), “đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, xã hội; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ
“lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội đã phát triển phương châm
“Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”
.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/1/2001,
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07/NQ-TW Về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
nhanh chóng đưa Việt Nam vào các thể chế kinh tế, trước hết là AFTA và sau đó là
WTO trên tinh thần “phát huy tối đa nội lực”. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng
đặc biệt, là “kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta trên con đường hội nhập, một con đường
không ít chông gai mà chúng ta phải vượt qua và nhất định vượt qua để giành lấy cơ
hội cho phát triển” [8].
Tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được triệu tập tại
Hà Nội. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đã nêu chủ trương lớn về mở rộng quan
hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp theo đường lối đối ngoại của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hội
nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X (15/1/2007) đã ban hành Nghị

27
quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”.
Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam
diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm 2011 - 2015 là
“mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế”
Năm năm nhiệm kỳ Đại hội XII (2016-2021) là giai đoạn thế giới và khu vực có
nhiều chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, đối với những thay đổi ở tầm
hệ thống chưa từng có kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Đặc biệt, đại dịch COVID – 19 đã
đẩy nhanh các xu thế đã diễn ra trong những năm qua. Trong đó, toàn cầu hóa và liên
kết kinh tế đứng trước yêu cầu cần được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn, nhất là
trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc, dân túy nổi lên ở một số nơi trên thế giới. Việt Nam
đã nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp xây dựng,
định hình các thể chế đa phương, từng bước phát huy vai trò hòa giải, góp phần vào
hòa bình, ổn định khu vực và trên thế giới. Ta đã khẳng định vai trò của Việt Nam ở
các diễn đàn thế giới và khu vực như: ASEAN, ASEM, APEC (2017), Liên Hợp Quốc,
G20, WEF (2018),... và để lại nhiều dấu ấn thành công. Ngay cả trong đại dịch
COVID – 19, ta đã chủ động, linh hoạt phát huy tốt vai trò Chủ tịch ASENAN 2020,
Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viên ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 2020 – 2021. Ngoài ra còn tổ chức thành công
nhiều hoạt động quan trọng, vừa đề xuất nhiều sáng kiến ý nghĩa, kịp thời được bạn bè
quốc tế đánh giá cao. Với việc tổ chức cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2
(2/2019) tại Hà Nội, ta đã quảng bá đất nước mạnh mẽ với một Việt Nam khát vọng
hòa bình, đổi mới, phát truền, chứng minh năng lực của Việt Nam trong việc đóng góp
vào an ninh và hòa bình thế giới, nâng cao vị thế của đất nước.
Tháng 2/2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII với văn kiện Đại
hội Đảng là kim chỉ nam cho việc triển khai công tác đối ngoạim thể hiện mạnh mẽ
tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp với thực tiễn cũng như với thế và lực
của đất nước. Cùng với sự lãnh đạo, chỉ đọa thống nhất của đảng, sự quản lý tập trung
của nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, đồng lòng nhất trí của toàn dân à hệ thống chính

28
trị, chúng ta sẽ phấn đấu thực hiện thắng lợi trong đường lối đối ngoại và hội nhập
quốc tế, thực hiện các mục tiêu phát triển trong những năm tới.

29
Chương 3: Vận dụng:
Trong giai đoạn 1975 – nay, nước ta đã trải qua không ít thăng trầm, trắc trở.
Từ những sai lầm trong đường lối chủ quan duy ý chí trong giai đoạn 1975 – 1985,
may mắn thay Đảng ta đã kịp thời nhìn nhận và ĐỔI MỚI giúp tránh được những hậu
quả khó lường. Từ sau Đổi mới đến nay nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã và đang phát triển không ngừng. Mặc dù vẫn còn nhiều thiếu sót, sai
phạm, tham nhũng nhưng cũng không thể phủ nhận những thành quả to lớn mà chúng
ta đạt được. Nguyên nhân quan trọng nhất chính là do những chính sách, đường lối của
Đảng qua các kỳ Đại hội. Nổi bật là chính sách “Đổi mới” mở cửa trong Đại hội VI
của Đảng. Cùng với đó không thể không kể đến chính là các Cương lĩnh của Đảng,
thứ quyết định tư tưởng và mục tiêu lớn nhất của Đảng. Trong đó có thể kể đến là
Cương lĩnh 1991 và 2011. Các Cương lĩnh phía sau đã kế thừa những giá trị của
Cương lĩnh đi trước cũng như có những thay đổi kịp thời, phù hợp với tình hình mới,
phù hợp với thời đại. Con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là con đường đầy chông
gai, nhất là trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Chính vì thể
Đảng và nhân dân ta cần vận dụng những kinh nghiệm, sai sót trong quá khứ cũng như
kinh nghiệm của các nước Xã hội chủ nghĩa anh em để ngày càng hoàn thiện mình
hơn. Xây dựng đất nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường tuy nhiên thành
phần kinh tế nhà nước vẫn là trọng tâm. Giải quyết các vấn đề nội bộ, chính trị xã hội
trong nước. Chẳng hạn như tiếp tục giữ vững thành tựu chống đại dịch COVID-19 như
vừa qua. Đây là một thành quả đáng tự hào của toàn Đảng và toàn dân ta. Tuy đại dịch
đang có dấu hiệu quay lại nhưng tin rằng với những kinh nghiệm và những chinh sách
kịp thời, chính xác của Đảng mà chúng ta sẽ một lần nữa vượt qua đại dịch. Bên cạnh
đó cần vận dụng và giữ vững lập trường ngoại giao khôn khéo. Giữ vững lập trường
chính trị, kiên định với mục tiêu, con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cần
tiếp tục kế thừa các Cương lĩnh trước như Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 và phát
triển, bổ sung để phù hợp với những biến chuyển không ngừng của thời đại. Điều cốt
lõi là vận dụng những kinh nghiệm trong đó và những kinh nghiệm thực tế để chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Đảng ta ngày một trong sạch vững mạnh. Vững mạnh trước

30
những thử thách sắp tới, trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch
nhầm cản trở con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta.

31
C. KẾT LUẬN
Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm
tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là một
giai đoạn phát triển mang tính độc lập và nằm trong giai đoạn chuyên đổi từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta
khái quát đã phản ánh thực trạng xã hội ta hiện nay với góc nhìn là những bước đi ban
đầu của thời kỳ quá độ. Những đặc trưng đó vừa mang tính chất định hướng lâu dài
vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai
đoạn của cả thời kỳ quá độ. Quan điểm của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng mấy chục năm lãnh đạo
nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng đã nhận thức rõ những sai lầm
khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan, vi phạm
những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua
kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.

32
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Xuân Lý và cộng sự (2016). Giáo trình đường lối Cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2. Trường đại học lâm nghiệp (2009). Đường lối kinh tế của Đảng từ khi đất nước
hoàn toàn giải phóng đến nay. Truy cập tại: https://vnuf.edu.vn/duong-loi-kinh-
te-cua-dang-tu-khi-dat-nuoc-hoan-toan-giai-phong-den-nay.html
3. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2013). Những thành tựu cơ bản về
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Truy cập tại:
https://hcma.vn/tintuc/Pages/dien-dan-chinh-tri-tu-tuong.aspx?
CateID=201&ItemID=21992
4. Lý luận chính trị (2018). Chính sách đối ngoại giai đoạn 1976 – 1986 và những
bài học kinh nghiệm. Truy cập tại:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/2661-chinh-sach-doi-
ngoai-giai-doan-1976-%E2%80%93-1986-va-nhung-bai-hoc-kinh-nghiem.html
5. Phùng Hữu Phú (2019). Giá trị của Cương lĩnh 2011 (Phần 1). Tạp chí Tuyên
giáo.
6. Trần Thị Tuyết Lan (2019). Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của
Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí
Công thương.
7. Vũ Văn Phúc (2020). Sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tạp chí Tổ chức nhà nước.
8. Nhân dân (2018). Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Truy cập tại:
https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/dang-cong-san-viet-nam-khoi-xuong-
va-lanh-dao-cong-cuoc-doi-moi-phat-trien-dat-nuoc-vung-buoc-di-len-chu-
nghia-xa-hoi-329034
9. Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014). Quan điểm,
đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi
mới và hiện nay. Truy cập tại: https://www.vksndtc.gov.vn/tin-vks/cac-bai-
bao/quan-diem-duong-loi-chien-luoc-cua-dang-cong-san-v-d11-t3533.html
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Đường lối đối ngoại của Đảng theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XII – Một tầm cao mới. Truy cập tại:
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/duong-loi-
doi-ngoai-cua-dang-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-xii-mot-tam-cao-moi-
544967.html
11. Lý luận chính trị (2020). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là lựa
chọn đúng đắn của Việt Nam. Truy cập tại:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/3358-kinh-te-thi-truong-
dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-la-su-lua-chon-dung-dan-cua-viet-nam.html

33
12. Hội đồng lý luận trung ương (2021). Những thành tựu nổi bật của đất nước sau
35 năm đổi mới. Truy cập tại: http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/nhung-thanh-
tuu-noi-bat-cua-dat-nuoc-sau-35-nam-doi-moi.html

34
E. HÌNH ẢNH MINH HỌA

Hoạt động kinh tế hằng ngày ở vùng nông thôn

Cuộc họp của Quốc hội

35
Nhà máy sản xuất hiện đại

Chuẩn bị cho bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu HĐND các cấp 23/05/2021

36

You might also like