Professional Documents
Culture Documents
Bản sao Bản sao Tiểu luận cuối kỳ NTLĐ 4A
Bản sao Bản sao Tiểu luận cuối kỳ NTLĐ 4A
Tên học phần: Nghệ thuật lãnh đạo (2+0) Mã học phần: LING400
Lớp/Nhóm môn học: KITE.CQ.04/ Nhóm 4A Học kỳ: 1 Năm học: 2023 – 2024
Họ tên sinh viên: Hồ Thanh Hương
Nguyễn Lê Trang Tuyền
Đỗ Văn Hùng
Đề tài:
Phân tích phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của vua Quang Trung. Từ đó đưa ra các hướng phấn
đấu cho bản thân và các nhà quản trị.
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ
(Cho điểm vào ô trống, thang điểm 10/10)
KHOA KINH TẾ
CTĐT QUẢN TRỊ KINH DOANH
1
2.1. Mục tiêu nghiên cứu chung
Phân tích phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của vua Quang Trung. Từ đó đưa ra các hướng
phấn đấu cho bản thân và các nhà quản trị.
6. Ý nghĩa đề tài
Bài tiểu luận đi vào phân tích phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của vua Quang Trung.
Dựa trên những phân tích mà nhóm em tìm hiểu và đề ra trong phong cách và nghệ thuật lãnh đạo
của vua Quang Trung đã thấy được những điểm mạnh, điểm yếu trong cách lãnh đạo của ông. Từ
đó đưa ra các phương hướng phấn đấu cho bản thân chúng em và các nhà quản trị để đạt hiệu quả
tốt nhất trong công việc.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Nghệ thuật lãnh đạo
1.1.1. Khái niệm
Lãnh đạo là một nghệ thuật kích thích con tim và khối óc của những con người bình thường
để đạt được những kết quả phi thường. Nói như vậy để thấy rằng trở thành một nhà lãnh đạo không
hề dễ dàng. Bên cạnh một phần rất nhỏ của yếu tố bẩm sinh, nghệ thuật lãnh đạo hoàn toàn có thể
học được. (Bạch Sơn, 2017)
Nghệ thuật lãnh đạo là cách thức mà người quản lý dùng những kỹ năng bản thân mà bản
thân đã trang bị để tạo ra tầm ảnh hướng đến đội nhóm trong một tổ chức, nghệ thuật ở chỗ không
phải dùng chức vụ để khiến cấp dưới cảm thấy lo sợ, nhưng là nể phục và tôn trọng những đóng
góp của mình vào lợi ích chung. (Theo Ms. Minh Nguyễn)
Có tầm nhìn xa và khả năng xây dựng chiến lược hiệu quả
Người lãnh đạo xây dựng tầm nhìn xa trông rộng hơn người thường về chiến lược, kế hoạch
phải thực hiện. Tầm nhìn và chiến lược đó thể hiện rõ mong muốn, khát vọng mà doanh nghiệp
muốn đạt được. Từ đó tìm ra được mục tiêu và cách thức thực hiện để có được kết quả tốt nhất.
Việc này sẽ mang đến những lợi ích sau:
Tạo ra động lực, truyền cảm hứng cho đội ngũ nhân viên
Xác định đúng mục tiêu lâu dài (là mục tiêu không thể đạt được với các tài nguyên cũng
như khả năng hiện tại).
Cung cấp một mục đích để làm việc hiệu quả nhất.
Hướng dẫn các nhà quản lý phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả.
3
Tạo môi trường làm việc cho nhân viên
Tạo niềm tự hào cho nhân viên trong công ty
Tạo vị trí phù hợp với năng lực của từng người
Tạo động lực phát triển cho nhân viên
Uỷ thác công việc đúng người
Tạo mục tiêu cho nhân viên
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nghệ thuật lãnh đạo
Tầm nhìn của tổ chức và nhà lãnh đạo
Tầm nhìn nghĩa là biết cách đặt ra những mục tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn dựa trên nguồn
lực hiện có của công ty. Đồng thời cũng phải nhìn ra những cơ hội và thách thức của thị trường
trong tương lai.
Dễ thấy, ngay từ trong tầm nhìn của tổ chức và nhà lãnh đạo cũng đã thể hiện nghệ thuật
lãnh đạo của họ. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo hay chính là mục tiêu, định hướng hoạt động cho tổ
chức trong ngắn hạn và dài hạn dựa trên nguồn lực hiện có của công ty.
Điểm khác biệt trong tầm nhìn của người có nghệ thuật lãnh đạo với người lãnh đạo thông
thường chính là phạm vi của tầm nhìn. Họ có khả năng nhìn nhận ra những cơ hội và thách thức
của thị trường trong tương lai. Mọi hoạt động, quyết định của nhà lãnh đạo đều đưa ra một cách
toàn diện dựa trên những yếu tố cốt lõi của doanh nghiệp như:
4
Cấu trúc hợp tác.
Hệ thống sản phẩm và marketing.
Đội ngũ nhân sự xuất sắc.
Hệ thống quản trị nội bộ: OKR, BSC, KPI,…
Hệ thống thực thi và kiểm soát.
6
Các thành viên trong tổ chức phải thường xuyên cập nhật và trau dồi kiến thức chuyên
ngành, kỉ năng mềm để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nhược điểm:
Các nhà lãnh đạo mang phong cách lãnh đạo đốc đoán thường sẽ bị đánh giá là độc tài, bảo
thủ. Hoặc dẫn đến xung đột giữa lãnh đạo và nhân viên trong tổ chức.
Các nhà lãnh đạo thường không quan tâm đến ý kiến của người khác sẽ dễ khiến các nhân
viên của mình bị nản chí và cảm thấy bị coi thường.
Các nhà lãnh đạo thường bác bỏ ý kiến của người khác, đôi khi sẽ dẫn đến bỏ qua các ý kiến
sáng tạo để giải quyết vấn đề, khiến cho tổ chức bị ảnh hưởng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới phong cách lãnh đạo
Phong cách lãnh đạo thường bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố như hoàn cảnh lịch sử của
môi trường làm việc, môi trường đào tạo, tâm lý của nhà lãnh đạo, trình độ của nhà lãnh đạo, ...
Đầu tiên là hoàn cảnh lịch sử của môi trường làm việc. Khi một nhà lãnh đạo thay đổi môi
trường làm việc của họ, bởi vì đã quen với môi trường làm việc trước đó, nên họ sẽ áp dụng phong
8
cách làm việc cũ vào môi trường làm việc mới, điều này rất khó thay đổi. Nên đôi khi dẫn đến
phong cách làm việc cù sẽ không phù hợp với môi trường hiện tại.
Thứ hai là môi trường đào tạo. Nếu như nhà lãnh đạo được làm việc trong một môi trường
tốt và có tính kỷ luật cao nhưng mọi việc lại mang tính chất dân chủ, tự do thì nhà lãnh đạo cũng sẽ
có xu hướng quản lý theo phong cách lãnh đạo dân chủ. Ngược lại, nếu ở trong một môi trường
đào tạo hiện rõ sự độc đoán, sự ra lệnh thì nhà lãnh đạo sẽ có xu hướng mang phong cách lãnh đạo
như thế. Đó là bởi vì khi người quản lý đã có một khoảng thời gian dài tiếp xúc trong môi trường
đào tạo như vậy thì nó sẽ góp phần vào việc tạo nên phong cách của các nhà lãnh đạo.
Thứ ba, là tâm lý của nhà lãnh đạo. Hầu hết mọi người khi bắt đầu với một công việc mới
thường có xu hướng e ngại, không dám bộc lộ hết phong cách lãnh đạo của mình. Tuy nhiên sau
một thời gian làm việc Họ đã quen với công việc, thì họ sẽ thể hiện hết phong cách lãnh đạo của
mình. Dó đó, tâm lý của nhà lãnh đạo cũng ảnh hưởng đến phong cách làm việc của nhà lãnh đạo.
Cuối cùng là trình độ của nhà lãnh đạo. Ví dụ những nhà lãnh đạo có trình độ chuyên môn
cao thì họ thường có xu hướng mang cho minh phong cách lãnh đạo độc đoán để mang đến một
hiệu quả làm việc nhanh chóng. Ngược lại, đổi với những nhà lãnh đạo có trình độ có chuyên môn
thấp, họ sẽ không tự tin trong quá trình đưa ra quyết định, họ phải tham khảo ý kiến của cấp dưới.
Vì thế, các nhà lãnh đạo này thường mang phong cách lãnh đạo tự do hoặc dân chủ. (Tétcenter,
2021)
9
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH PHONG CÁCH VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA VUA
QUANG TRUNG
Quang Trung Hoàng đế (1753 – 16/09/1792), miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ (西山太祖; được
dùng để phân biệt với Nguyễn Thái Tổ nhà Nguyễn), danh xưng khác là Bắc Bình Vương, tên khai
sinh là Hồ Thơm, quê gốc Nghệ An sau đổi tên thành Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Bình là
một nhà chính trị, nhà quân sự người Việt Nam, vị hoàng đế thứ 2 của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái
Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho ông. Ông đóng góp công lao vô cùng to
lớn, giúp lật đổ chúa Trịnh, xóa bỏ ranh giới Đàng trong - Đàng ngoài, tạo điều kiện thống nhất đất
nước. Bên cạnh đó, ông còn lãnh đạo nhân dân chống lại cuộc xâm lược của quân Thanh ở phía
Bắc, quân Xiêm ở phía Nam. Trong suốt 20 năm cầm quân, vua Quang Trung chưa từng thất bại
một lần nào, là nỗi khiếp sợ của bất kỳ ai khi nghe đến tiếng tăm của ông.
Theo như một số tài liệu lịch sử, tổ tiên của nhà Tây Sơn vốn mang họ Hồ, sinh sống ở làng
Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, cùng dòng dõi với Hồ Quý Ly. Chính vì lẽ đó
mà thuở thiếu thời Nguyễn Huệ có tên gọi là Hồ Thơm. Cụ cố nội của Nguyễn Huệ thế danh là
Hồ Phi Long, vốn là giúp việc cho gia tộc họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn. Sau này
cụ đã lấy một người vợ họ Đinh trong thôn, sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn
khi lớn lên bỏ thôn quê để đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, sau này ông cưới vợ và định cư tại đó. Vợ
của Hồ Phi Tiễn tên là Nguyễn Thị Đồng, là con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc.
10
Do đó mà hai vợ chồng thống nhất đổi họ của con cái mình sau này từ họ Hồ của bố sang họ
Nguyễn của mẹ. Hồ Phi Tiễn có một người con trai tên là Nguyễn Phi Phúc, chuyên nghề buôn
trầu cau làm ăn rất phát đạt. Ông có tất cả 8 người con, 3 trong số đó chính là anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ được miêu tả “tóc xoăn, da sần, mắt như chớp sáng, tiếng nói sang sảng như
tiếng chuông, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và can đảm” (theo Quang Trung anh hùng dân tộc). Mà đặc
điểm nổi bật hơn cả đó chính là đôi mắt ông, “đôi mắt mà khi không có đèn thì ánh sáng từ đôi mắt
soi sáng cả chiếu”. Quang Trung cùng với các anh em của mình là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được
cha gửi gắm nhà thầy Trương Văn Hiến đọc sách, luyện võ tiếp thu tri thức quý giá để rèn luyện
bản thân. Cả ba anh em đều thông minh, sáng dạ nên được gọi là Tây Sơn tam kiệt. Đặc biệt họ
cũng là những người đã phát triển môn võ Tây Sơn Bình Định. Nhận thấy được tài năng của anh
em nhà Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Huệ nên Trương Văn Hiến đã khuyên anh em họ đứng dậy
khởi nghĩa, xây dựng đại nghiệp. Câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” tương truyền chính là
của Trương Văn Hiến nói ra khi nhận thấy được tiềm năng của chàng trai trẻ Quang Trung thuở
đó.
- Từ năm 1773 đến năm 1777: Cùng nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở
Đàng Trong.
- Tháng 01/1783: Tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định, đánh tan 5 vạn quân Xiêm xâm
lược bằng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút.
- Mùa hè năm 1786: Được sự giúp sức của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ tiến quân vào
thành Phú Xuân (Huế), tiêu diệt quân Trịnh tại đây, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong.
- Ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ đánh vào Thăng Long, chính quyền chúa Trịnh sụp đổ.
- Từ cuối năm 1786 đến giữa năm 1788, Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà, chính quyền vua Lê
cùng các thế lực phản loạn lần lượt bị dẹp bỏ.
- Tháng 12- 1788: Lên ngôi Hoàng đế tại Núi Bân (Phú Xuân - Huế), lấy niên hiệu là Quang
Trung.
- Năm 1789: Nguyễn Huệ, quét sạch 29 vạn quân Thanh và bè lũ tay sai phản quốc Lê
Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi.
11
- Từ năm 1789 đến năm 1792: xây dựng chính quyền mới, đề ra những biện pháp thiết thực
để khôi phục kinh tế và ổn định xã hội.
- Ngày 16/09/1792: Quang Trung đột ngột qua đời.
2.1.3.2. Lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh:
Cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm năm 1784 và quân Thanh năm 1788 tạo thành
mối đe dọa từ hai phía Bắc, Nam của đất nước. Nước ngoài tiến hành xâm lược trong bối cảnh các
thế lực chính trị trong nước đang tranh giành quyết liệt, hết Trịnh - Nguyễn phân tranh đến cuộc
đấu tranh Tây Sơn - Nguyễn rồi Tây Sơn - Lê. Một bộ phận lực lượng chính trị suy bại trong nước
đi cầu cứu ngoại viện, tạo chỗ dựa và tăng thêm lực lượng cho quân xâm lược nước ngoài. Đặt
12
trong bối cảnh và thách thức nguy hiểm như thế mới thấy hết cống hiến lịch sử vô cùng lớn lao của
Tây Sơn. Phong trào Tây Sơn đã thực hiện thành công sứ mạng bảo vệ độc lập dân tộc, đánh bại
quân xâm lược từ hai phía Nam và Bắc của đất nước mà người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo kháng
chiến thắng lợi là Nguyễn Huệ.
Trong kháng chiến chống Xiêm (1784 -1785), số quân Xiêm tiến vào Gia Định là 5 vạn
quân, ngoài 2 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền tiến theo đường biển như Đại Nam thực lục tiền
biên đã chép, còn 3 vạn quân bộ từ Chân Lạp tiến xuống. Bị quân Tây Sơn chặn đánh quyết liệt
nên từ khoảng tháng 7 đến cuối năm 1784, quân Xiêm chỉ chiếm được nửa đất phía tây Gia Định.
Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đem đại quân vượt biển vào Gia Định tổ chức phản công đuổi quân
giặc ra khỏi đất nước. Nguyễn Huệ đã bày ra một thế trận hết sức bất ngờ, lợi hại, nhử quân địch
vào một trận địa mai phục bố trí sẵn trên sông Mỹ Tho khoảng giữa Rạch Gầm - Xoài Mút. Tại
đây, đêm ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 12 năm Giáp Thìn (tức đêm 18 rạng ngày 19/1/1785),
quân Tây Sơn đã đánh tan quân Xiêm, tiêu diệt đại bộ phận, số tàn quân địch thoát chết tháo chạy
về nước chỉ còn khoảng hơn 1 vạn quân. Dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, trận quyết chiến
Rạch Gầm - Xoài Mút chỉ diễn ra trong khoảng một ngày. Đó là chiến thắng chống ngoại xâm quy
mô lớn đầu tiên diễn ra trên vùng đất cực nam của đất nước. Với thắng lợi này, khởi nghĩa Tây Sơn
đã vươn lên làm nhiệm vụ dân tộc và phong trào Tây Sơn đã phát triển thành phong trào dân tộc.
Chuyển biến quan trọng đó có tác động tăng cường và mở rộng ảnh hưởng của phong trào Tây
Sơn, nâng cao uy danh của Nguyễn Huệ.
Kháng chiến chống Thanh (1788 - 1789) diễn ra trong bối cảnh phức tạp và so sánh lực
lượng ác liệt hơn nhiều. Nhân sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, nhà Thanh điều động đại quân sang
xâm chiếm nước ta dưới danh nghĩa giúp vua Lê. Nhà Thanh dưới triều Thanh Cao Tông với niên
hiệu Càn Long (1736 - 1796) và một vương triều thịnh đạt của một đế chế lớn mạnh. Số quân
Thanh xâm lược lên đến 29 vạn, trong lúc đó số quân Tây Sơn đồn trú ở Thăng Long và Bắc Hà
ước tính chỉ 1 vạn quân và các thế lực theo nhà Lê lại nổi dậy nhiều nơi. Lực lượng Tây Sơn từ
giữa năm 1786 đã bị phân liệt làm ba vùng: Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế đóng ở
thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản vùng Gia Định và Nguyễn
Huệ là Bắc Bình Vương đóng ở Phú Xuân. Năm 1787, Nguyễn Ánh đã chiếm lại thành Gia Định.
Trong bài Chiếu tức vị, Nguyễn Huệ đã nói rõ tình hình đất nước lúc đó: "Trẫm dựng lại họ Lê
nhưng vua Lê nối ngôi không giữ được xã tắc, bỏ nước bôn vong. Sĩ dân Bắc Hà không theo về họ
Lê lại dựa vào Trẫm. Đại huynh thì mỏi mệt, chỉ muốn giữ một phủ Quy Nhơn, nhún mình xưng
làm chúa miền Tây".
Trong bối cảnh đó, "ứng mệnh trời, thuận lòng người", ngày 22/12/1788 (ngày 25 tháng 11
năm Mậu Thân), tại núi Bân lịch sử, danh tướng thiên tài Nguyễn Huệ đã cho xây đàn tế cáo trời
13
đất và làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung năm thứ nhất, rồi hạ
lệnh xuất quân ra Bắc - một cuộc hành quân thần tốc, mãi mãi được lịch sử ca ngợi như một sáng
tạo đặc sắc của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Với lối đánh chủ động, liên tục tấn công, thần tốc, bất ngờ, táo bạo và mãnh liệt, đêm 30 Tết
Xuân Kỷ Dậu, Hoàng đế Quang Trung và đoàn quân Tây Sơn bắt đầu mở cuộc tiến công như vũ
bão vào các vị trí cố thủ của địch. Đến mờ sáng mồng 5 tết Kỷ Dậu (30/01/1789), đại quân Tây
Sơn đã mở cuộc tổng công kích vào đồn Ngọc Hồi - Đống Đa và giải phóng kinh thành Thăng
Long; đánh tan cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thanh, giữ vững nền độc lập và chủ quyền quốc
gia; tạo nên chiến thắng hiển hách, vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Chiến thắng oai hùng trước 5 vạn quân Xiêm và 29 vạn quân Thanh, tướng quân Nguyễn
Huệ rồi Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đã trở thành anh hùng dân tộc, đưa đất nước thoát
khỏi họa xâm lăng của nước ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, ghi vào lịch sử dân tộc
những trang sử vàng chói lọi.
2.1.3.3. Chấm dứt tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng ngoài, đặt cơ sở khôi phục thống
nhất quốc gia:
Sau khi lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong và đánh bại quân Xiêm, ngày 28
tháng 4 năm Bính Ngọ (25/5/1786), Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, đánh Phú
Xuân, chiếm Thuận Hóa, đánh lui quân Trịnh, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong. Ngày 4 tháng 5
năm Bính Ngọ (ngày 10/6/1786), Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân rồi nhanh chóng tiến ra vùng
ranh giới bờ nam sông Gianh. Mục tiêu của Nguyễn Nhạc là củng cố phòng tuyến ở bờ nam sông
Gianh, có nghĩa là chỉ giới hạn hoạt động của phong trào Tây Sơn trong phạm vi Đàng Trong và
chấp nhận tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng ngoài đã kéo dài trên hai thế kỷ. Tuy nhiên, sau
khi nắm chắc tình hình Bắc Hà và cân nhắc mọi nhẽ, Nguyễn Huệ đã tự quyết định đưa quân ra
Đàng Ngoài dưới danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh". Đó là một quyết đoán táo bạo chứng tỏ tầm nhìn
và ý chí của Nguyễn Huệ.
Thủy quân Tây Sơn vượt biển đánh chiếm Vị Hoàng (Nam Định) rồi tiến lên Thăng Long.
Chỉ trong vòng 10 ngày quân Tây Sơn đã đánh tan quân Trịnh, đến ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ
(21/7/1786) chiếm thành Thăng Long. Ngày 7 tháng 7 năm Bính Ngọ (ngày 31/7/1786), Nguyễn
Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông tại điện Kính Thiên, trình bày lẽ diệt Trịnh. Vua Lê phong Nguyễn
Huệ làm Nguyên súy dực chính phù vận Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân. Trong thời gian
ở Thăng Long, Nguyễn Huệ đã dự đám tang vua Lê Hiển Tông, lễ đăng quang vua Lê Chiêu
Thống, đồng thời lo ổn định tình hình chính trị Bắc Hà.
14
Có thể khẳng định, phong trào Tây Sơn đã có một số cống hiến đáng kể trên con đường lập
lại nền thống nhất quốc gia: Thứ nhất là xóa bỏ tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng ngoài kéo
dài trên hai thế kỷ, thứ hai là lật đổ chính quyền chúa Nguyễn và chúa Trịnh. Trong hai cống hiến
đó, lực lượng quyết định là phong trào Tây Sơn và người tổ chức, lãnh đạo thành công là Nguyễn
Huệ.
2.1.3.4. Sáng lập một vương triều Tây Sơn tiến bộ:
Tiếp quản Phú Xuân năm 1786 rồi lên ngôi hoàng đế năm 1788, Nguyễn Huệ bắt tay vào
công cuộc xây dựng và cải cách của mình. Từ đây, Phú Xuân trở thành kinh đô của cả nước.
Tại kinh đô Phú Xuân, Quang Trung lo củng cố nội trị, xây dựng một vương triều mạnh,
một bộ máy chính quyền chặt chẽ và có năng lực. Ông thiết lập đơn vị hành chính có trấn rồi đến
phủ, huyện, dưới là tổng và xã. Trước tình hình chính trị còn phức tạp ở Bắc Hà, Quang Trung đổi
Thăng Long làm Bắc Thành là trị sở của một đơn vị hành chính đặc biệt gồm cả 11 trấn với quyền
hạn khá lớn. Ngoài các tướng lĩnh của quân đội Tây Sơn, Quang Trung đã sử dụng nhiều quan lại
của chính quyền cũ và ra sức thu nạp nhân tài, trọng dụng các sĩ phu, ban Chiếu hiệu dụ các quan
văn võ triều cũ, chiếu cầu hiền. Nhiều trí thức tài năng đã trở thành những quan lại trung thành của
vương triều mới như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, ...
Quân đội và quốc phòng được Quang Trung đặc biệt quan tâm. Đó là lực lượng quân sự
hùng hậu gồm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, pháo binh và thủy binh được tổ chức quy củ, trang bị
tốt, có sức chiến đấu cao. Nhờ vậy, Quang Trung đã trấn áp thành công các thế lực chống đối của
một số cựu thần nhà Lê ở Bắc Hà.
Với bộ máy chính quyền hùng mạnh, Quang Trung đã thực thi nhiều chính sách cải cách về
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục theo hướng khắc phục hậu quả chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn
định trật tự xã hội...Việc ban hành các chiếu cầu hiền, chiếu lập học, chiếu khuyến nông, chiếu mở
khoa thi, chiếu dụ các quan văn võ của triều cũ, thành lập Quốc sử quán năm 1790 nhằm cung cấp
kiến thức lịch sử - văn hóa cho toàn dân và thành lập Viện Sùng Chính năm 1791 phụ trách giáo
dục, biên soạn dịch chú các bộ Tiểu học, tứ thư, ngũ kinh ra chữ Nôm... đã mở ra một thời kỳ mới
của lịch sử Việt Nam nói chung và Phú Xuân nói riêng.
Trong thời gian ngắn ngủi 4 năm kể từ khi lên ngôi hoàng đế sáng lập vương triều cho đến
khi từ trần, công cuộc canh tân dựng nước cùng với những hoài bão lớn lao của Quang Trung chưa
được thực hiện đầy đủ và chưa phát huy hết tác dụng nhưng đã cho thấy tầm vóc, tài năng, ý chí
của hoàng đế Quang Trung. Tài năng của Quang Trung bao quát trên nhiều mặt nhưng lĩnh vực tỏa
sáng nhất là quân sự. Ông đã đưa tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên một đỉnh
cao mới. Tinh thần tiến công mãnh liệt, lối đánh thần tốc, bất ngờ là nét nổi bật nhất trong tư tưởng
15
và nghệ thuật quân sự của Quang Trung - Nguyễn Huệ. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, từ
tuổi 18 tham gia khởi nghĩa cho đến lúc từ trần ở tuổi 39, Nguyễn Huệ chỉ có thắng, chưa hề bại và
ghi vào sử sách nhiều chiến công chói lọi. Từ năm 1789 đến năm 1801, Phú Xuân là kinh đô đầu
tiên của nước Đại Việt thời Tây Sơn và là trung tâm chính trị, là nơi hội tụ nhân tài, vật lực và tinh
hoa của cả đất nước. Những dấu ấn lịch sử về một vương triều đã có công phục hưng tư thế hiên
ngang của quốc gia Đại Việt, với niềm kiêu hãnh “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” vẫn còn âm
vang và tồn tại mãi trên đất Phú Xuân - Thuận Hóa xưa, Thừa Thiên Huế ngày nay; trong đó có di
tích lịch sử núi Bân, phường An Tây, thành phố Huế đã được Chính phủ công nhận di tích cấp
quốc gia vào năm 1988. Nơi đây mãi mãi là địa chỉ lịch sử linh thiêng, là di tích lịch sử đầy tự hào
của dân tộc Việt Nam, của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế.
2.2. Phân tích phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của vua Quang Trung
2.2.1. Phong cách lãnh đạo dân chủ
Nếu Lê Chiêu Thống là một ông vua hèn hạ, sẵn sàng bán nước để cứu vãn cái ngai vàng
sắp sụp đỗ của mình thì Quang Trung lại là một vị vua đầy khí phách, là người có ý chí, hành
động mạnh mẽ và quyết đoán. Ngay khi nghe được tin quân Thanh kéo sang xâm lược và chiếm
đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “tế cáo trời đất” và lên ngôi hoàng đế. Lập tức kêu gọi
binh lính, đốc thúc đại quân tất cả cùng kéo ra bắc đánh dẹp quân Thanh.
Qua đó có thể thấy Nguyễn Huệ là một người quyết đoán, đối với những vấn đề liên quan
đến vận mệnh đất nước ông không hề chần chừ, do dự mà cầm quân đánh giặc. Trước khi đem
quân ra Bắc đánh giặc, Nguyễn Huệ không quên gọi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vào để bàn
mưu lược. Điều đó cho thấy ông tuy có sự quyết đoán, dũng mãnh và trí tuệ hơn người nhưng vẫn
rất coi trọng ý kiến của bậc hiền tài, chiêu mộ ý kiến của hiền thần, thể hiện rõ ông là một bậc
minh quân sáng suốt. Nắm được số lượng binh lính của quân địch là rất lớn, gần 30 vạn quân.
Nhận thấy tương quan lực lượng giữa ta và địch có phân chênh lệch nên ông đã ra sức chiêu mộ
binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Lên kế hoạch tiến công
đánh giặc với bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu.
Có thể thấy với những mưu lược ấy, chủ tướng Nguyễn Huệ không chỉ cốt nâng cao sức
mạnh cho quân mình mà còn bố trí, chuẩn bị những kế hoạch chu toàn, làm tiền đề cho thắng lợi
vang dội sau này. Với những lập luận sắc bén, thấu tình đạt lí đã khơi dậy nhuệ khí chiến đấu và
lòng tự tôn của toàn quân ta, phát huy được sức mạnh tinh thần to lớn của đại dân tộc.
16
2.2.2. Phong cách lãnh đạo độc đoán
Mặc dù là một vị vua mạnh mẽ, đầy khí chất và luôn lắng nghe ý kiến từ cấp dưới nhưng
đôi khi vua Quang Trung cũng có cách lãnh đạo đầy độc đoán. Cụ thể là về sự kiện mâu thuẫn
giữa anh em Tây Sơn. Có tài liệu nói rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng bạc lấy từ
kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về Nam nhưng vua em không chịu, hơn thế vua em lại xin vua
anh cho cai quản thêm Quảng Nam và vua anh không chấp thuận, do đó Nguyễn Huệ tự mình chủ
động mang quân vào Nam đánh Nguyễn Nhạc. Có ý kiến bàn thêm rằng, chủ trương của Nguyễn
Nhạc là tập trung tiêu diệt chúa Nguyễn, chỉ đánh chiếm phần đất của chúa Nguyễn để thay thế cai
trị tại miền Nam và giữ hòa bình với Bắc Hà, cho nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân Bắc tiến là
trái ý vua anh. Ngay khi biết tin Nguyễn Huệ đánh Thăng Long, vua Tây Sơn vội mang quân ra
Bắc, thực chất là để gọi em về. Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực
riêng của Nguyễn Huệ. Trong khi đó, là người có hùng tâm, Nguyễn Huệ có chủ trương tự lực phát
triển ra ngoài tầm kiềm chế của vua anh và việc Bắc tiến của ông không hẳn chỉ vì lời khuyên
của Nguyễn Hữu Chỉnh. Đây mới chính là nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn của anh em Tây Sơn.
Khoảng đầu năm 1787, Nguyễn Huệ mang 60.000 quân Nam tiến vây thành Quy Nhơn.
Theo thư của một số linh mục Pháp, để có đủ 6 vạn quân vây bọc thành Quy Nhơn, Nguyễn
Huệ bắt thêm toàn bộ đàn ông ở Thuận-Quảng làm lính, khiến nhiều vùng không còn đàn ông
nữa. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng
lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp
vào thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em đừng đánh thành
nữa, Nguyễn Huệ mới bằng lòng giảng hòa với anh.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang
Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng. Để có thêm
quân đánh Thanh, vua Quang Trung thi hành chính sách cưỡng bách tòng quân. Theo tác giả Hoa
Bằng, tất cả nam giới từ 12, 13 đến 60 tuổi đều phải đăng ký vào sổ đinh nam. Theo thư của giáo sĩ
La Barette, tất cả nam từ 15 tuổi trở lên đều phải đi lính, người già và phụ nữ phải đi sửa cầu
đường. Theo Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, cứ 3 suất đinh thì chọn lấy 1 người đi
lính. Trong 10 ngày tuyển quân, Quang Trung đã có thêm khoảng mấy vạn quân, nâng tổng quân
số lên tới 10 vạn. Qua đó, ta có thể thấy vua Quang Trung ngoài là người mạnh mẽ, quyết đoán thì
còn là một người có phong cách lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán.
17
Vua Quang Trung là một người hành động mạnh mẽ và quyết đoán
Khi kẻ thù đang lăm le bờ cõi nước ta, việc cần làm lúc bấy giờ là phải có mưu cao để đánh
giặc. Nhưng quan trọng hơn cả là cần sự quyết đoán của vị vua đương quyền. Một lời Vua ra lệnh,
chiến sĩ ba quân chắc chắn sẽ đồng lòng. Vua Quang Trung đã có được phẩm chất tuyệt vời này,
nhờ vậy mà quân và dân ta mới có thể đánh đuổi giặc thành công và đất nước yên bình.
Khi hay tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng rộng lớn, ông không
hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay. Sự quyết đoán khi Quang Trung giận giữ vì giặc,
liền họp các tướng sĩ và tự mình cầm quân đuổi giặc, ông còn nghe lời tướng sĩ đứng ra làm vua và
tiến ra quân Bắc, tổ chức hành quân hỏa tốc, duyệt binh, tuyển binh, lập kế hoạch hành quân đánh
giặc… Ở Quang Trung cũng không thể thiếu cái chí của một người anh hùng. Chí khí thể hiện ở
quyết tâm cao độ, hành động quyết đoán và nhanh chóng của ông. Khi hay tin đánh giặc chỉ trong
vòng một tháng ông đã hoàn thành đủ mọi nghi lễ tế cáo,quy tụ đủ số quân binh cần thiết và hành
quân thần tốc làm nên chiến thắng chớp nhoáng đối với nhà Thanh. Rồi trong vòng chỉ một tháng,
Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc
gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ
An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau
chiến thắng. Hàng loạt hành động của ông cho thấy sự quyết đoán mạnh mẽ trước vận mệnh của
đất nước. Đây là phẩm chất vô cùng quý mà một vị vua anh minh cần phải có được.
Là người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay.
Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời
đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ
lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng
nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Một trong những điều cốt yếu để làm nên một người anh hùng là lấy “ nhân nghĩa” làm đầu
(Nguyễn Trãi đã đề cập trong “ Bình Ngô đại cáo”). Và ở Quang Trung, mọi hành động, suy nghĩ
của một người anh hùng đều xuất phát từ cái tâm đẹp, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân ,luôn lo
lắng cho nước. Khác với những tên vua hèn hạ bán nước như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh
liệt trong lòng vị tướng tài đã thổi bùng lên ngọn lửa căm giận trong ngài khi hay tin lũ bán nước,
biết quân Thanh sắp tràn vào lãnh thổ nước nhà: Ngài “giận lắm, định cầm quân thân chinh đi
ngay”. Tình yêu nước thổi vào những lời hiệu triệu đến với các binh sĩ một giọng hùng hồn , hào
sảng, dứt khoát, thể hiện quyết tâm cao đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Ngài tin tưởng
18
vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ thời Bà Trưng bà Triệu, rằng tội ác của quân
giặc, quân ta nhất định không thể dung tha. Đến đây ta nghe như vang vang bên tai lời hiệu triệu
của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngày nào gửi đến binh sĩ, thúc
giục tinh thần đấu tranh. Tinh yêu nước đã mang trong đó cả linh hồn dân tộc tự ngàn đời.
Vua Quang trung cũng rất giỏi đánh giá người, dùng đúng người đúng việc và không
bỏ lỡ tài năng của ai
19
Trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Người đã từng nói “… Vậy mà giặc đến không
đánh nổi một trận… Quân thua chém tướng. Tội của ác người đều đáng chết một vạn lần. Song ta
nghĩ các người đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì
không tài. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các người, chính là lo về việc đó .”
Đó là khi người vừa trách các tướng chưa tròn nhiệm vụ nhưng vẫn taọ cơ hội cho họ lập công và
phân cho đúng tướng ở bên để chi huy. Đây là cách dùng người rất hay, nhờ vậy Người sẽ có được
những người tài và đức ở bên mình, hỗ trợ cho việc cai trị đất nước.
Một trong những phẩm chất góp phần nên sự thành công của vua Quang Trung đó là vị
tướng mưu lược tài ba, có sự tính toán trong việc hành quân và đánh giặc. Ông đã đưa những mưu
lược tính toán rất chính xác. Khi khao quân trước khi ra trận, ông cũng đã nói nhỏ với các tướng:
“Hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy,
đừng cho là ta khoác” . Đây không chỉ là lời nói để động viên binh sĩ mà là lời tiên đoán thần kì
dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung. Chớp thời cơ giặc ngủ
quên trên chiến thắng, ông nhằm vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh. Ông đã
tạo ra một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử, từ Phú Xuân ra Thăng Long chỉ
mất hơn một tuần: 25 tháng chạp ở Phú Xuân, 30 đến Tam Điệp, đêm 30 bắt đầu tiến đánh thành
Thăng Long; vừa đi ông vừa tuyển thêm binh sĩ. Tiến đánh mà vẫn đảm bảo yếu tố bí mật. Ông tổ
chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn
giữ thế chủ động, đảm bảo yếu tố bất ngờ khiến kẻ địch không kịp trở tay. Trong từng trận đánh
Quang Trung ông vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau: trận Hà Hồi, trống rong cờ
mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, làm chúng hoảng sợ; trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa,
dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn siêu phách lạc. Bởi
vậy, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên bờ cõi nước ta, sớm hơn cả
những gì ông đã dự tính từ trước.
Đặc biệt trong việc tính toán hành quân đánh giặc, ông luôn có những chiến lược khiến giặc
khiếp sợ, không ngờ tới, điển hình như ông đã cho bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên
nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người, quân giặc nghe thấy thì vô cùng khiếp
vía, chưa đánh đỡ sợ và liền xin ra hàng.
Một chiến lược khác như Vua cho lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm lấy rơm dấp nước
phủ kín, tât cả là hai mươi bức, sau đó, cho lính khỏe khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi
người khác cầm binh khí theo sau. Mục đích là làm lá chắn cho quân ta, giúp quân ta áp sát địch an
toàn và không bị thương về người. : “Vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng… Quân
20
Than nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. ..” Chiến lược của Vua vô cùng hữu dụng. Sự tài
giỏi như thần của vua Quang Trung khiến cho giặc phải thốt lên rằng: “Tướng ở trên trời xuống,
quân chui dưới đất lên”.
2.3. Đánh giá phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của vua Quang Trung
2.3.1. Ưu điểm
o Xây dựng tinh thần đoàn kết, sức mạnh tập thể nội bộ;
o Ông luôn lắng nghe, tôn trọng ý kiến của cấp dưới, đánh giá cao năng lực của họ;
o Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những
ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị
chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám
của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh
Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói
tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung, có
sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..) Trong 17 năm liên tục chiến đấu,
phong trào Tây Sơn đã lật đổ được các chính quyên phong kiến thối nát nhà Nguyễn, Trịnh,
Lê, xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia. Ðồng thời, phong
trào Tây Sơn đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ nền độc lâp và lãnh thổ
của Tổ quốc. Có được thắng lợi trên, trước hết là nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột
và tinh thần yêu nước cao cả của nhân dân ta. Tiếp đó là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của
Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân đã góp phần quan trọng vào tháng lợi.
o Sau khi lên ngôi hoàng đế (năm 1788), vua Quang Trung đã bắt tay vào việc xây dựng và
cải cách đất nước. Ông đã cho triển khai nhiều chính sách tiến bộ trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục… theo hướng: khắc phục hậu quả chiến tranh, phục hồi
kinh tế, ổn định trật tự xã hội, đề cao và phát triển nền văn hóa dân tộc... Trong thời gian
ngắn ngủi (4 năm) kể từ khi lên ngôi hoàng đế sáng lập vương triều cho đến khi từ trần,
công cuộc canh tân dựng nước cùng với những hoài bão lớn lao của vua Quang Trung tuy
chưa được thực hiện đầy đủ và chưa phát huy hết tác dụng nhưng đã cho thấy tầm vóc, tài
năng và ý chí của ông.
22
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHONG CÁCH VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
CỦA VUA QUANG TRUNG
Sử dụng phong cách lãnh đạo dân chủ giúp cho những người cấp dưới của mình được thể
hiện bản thân, được phép nói lên suy nghĩ cũng như ý tưởng của họ. bản thân người cấp dưới cũng
có thể nói ra những khúc mắc hay khó khăn của bản thân cho mình cùng hiểu. Việc của nhà lãnh
đạo giờ đây chỉ cần là lắng nghe, tiếp nhận ý kiến, và khuyến khích từng thành viên trong nhóm
cùng tham gia vào mục tiêu chung của cả nhóm. Đi theo phong cách này, nhà lãnh đạo sẽ xây dựng
được cho mình nhiều chiến lược tốt với nhiều ý kiến đóng góp khác từ thành viên trong nhóm, và
kết quả mang lại sẽ tốt hơn.
Được lắng nghe và được tôn trọng ý kiến của bản thân chính là điều không thể thiếu đối với
mọi người trong cuộc sống. Đúng là vậy, trong một doanh nghiệp khi ta được phép nêu lên quan
điểm cá nhân và được nhà lãnh đạo gật đầu đồng ý, chúng ta ngay sau đó sẽ cảm thấy rất vui lẫn
hứng thú trong công việc, tạo sự thích thú khi đi làm. Sử dụng tốt phong cách lãnh đạo dân chủ
này, một nhà lãnh đạo đã có thể giúp cho các thành viên trong nhóm tự tin hơn và đoàn kết hơn
trong chuyện công sở, lẫn đạt hiệu quả tốt trong công việc.
Thông qua những ưu điểm của vua Quang Trung khi sử dụng phong cách lãnh đạo độc
đoán, nhiều thế hệ sau có thể rút ra những ưu điểm để cũng cố khả năng lãnh đạo của mình, những
nhà lãnh đạo đời sau cũng có thể rút ra nhiều bài học xương máu từ các đời đi trước để lại. Phong
cách lãnh đạo độc đoán rất phù hợp khi có một lệnh từ cấp trên đưa xuống với mô tả công việc rõ
ràng, khi đó người nhận lệnh chỉ cần làm đúng nhiệm vụ được giao, khi làm xong là sẽ được coi là
hoàn thành tốt công việc.
Tuy vậy phong cách lãnh đạo độc đoán chỉ thật sự phù hợp với những người có sự tự tin, có
đường lối tư duy riêng, có sức ảnh hưởng tới toàn thể, có quyền kiểm soát cao,… Khi cùng thuyền
với họ, ta thấy được nhà lãnh đạo là người duy nhất có quyền đưa ra quyết định mà không cần xem
xét ý kiến của ai. Ở họ toát lên vẻ ngoài uy nghiêm của người đứng đầu, người có thể vì cả đội mà
một mình đánh trận; bên trong họ là một người có tinh thần thép, luôn biết tự phân tích và xử lý
trong mọi tình huống, làm việc với sự tập trung cao độ cùng với mục tiêu rõ ràng. Tất cả mọi hoạt
động, phương pháp, quy trình đều là do nhà lãnh đạo độc đoán chỉ đạo.
23
3.1.2. Khắc phục Khuyết điểm của vua Quang Trung
Phong cách lãnh đạo dân chủ
Quang Trung đã thể hiện bản lĩnh của mình qua phong cách lãnh đạo dân chủ, tuy vậy ông
cũng không nên lạm dụng, không phải việc nào cũng cần hỏi ý kiến của mọi người và Quang
Trung cần phải đưa ra chính kiến riêng của mình, với bộ não lớn của vua chúa nước mình ông cũng
đã khôn khéo để dung hòa mọi ý kiến rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng.
“Biết người biết ta trăm trận trăm thắng” là câu nói nổi tiếng của Tư Mã Ý, ý chỉ rằng một
người lãnh đạo cần phải trang bị cho mình nhiều kiến thức cần thiết để lọc qua những thông tin
đúng hoặc không đúng và từ đó đưa ra những lựa chọn hợp lý nhất. Biết là khi sử dụng phong cách
lãnh đạo dân chủ này, cá nhân nhà lãnh đạo hay các thành viên đều có quyền được nói lên suy nghĩ
và ý tưởng của mình, nhưng không phải ý kiến nào cũng được chấp thuận; đây cũng chính là lúc
nhà lãnh đạo cần phải chắt lọc, cần phải tranh luận tại sao, sau cùng là thuyết phục chứ không nên
bác bỏ ý kiến của mọi người.
Qua từng trang sử sách của nước Việt Nam, tượng đài vua Quang Trung cho chúng ta thấy
rõ sự tài giỏi của ông qua nhiều chiến tích trong thời xưa. Với bao nhiêu chiến tích lừng danh, đánh
đuổi quân xâm lược, xây dựng đất nước, qua từng ấy năm tháng dài cả 5 thế kỷ ông vẫn duy trì
phong độ ấy cho đời sau học tập theo. Quang Trung là một vị vua uy nghiêm, bên cạnh rèn luyện
võ thuật ngày đêm thì ông cũng cần tiếp nạp thêm nhiều kiến thức mới. Ở trên đời, con người
muốn sống là cần phải có kiến thức, có học hỏi nhiều thì chúng ta mới hiểu rõ cách thế giới vận
hành, có học hỏi kinh nghiệm ta mới trưởng thành hơn, để bản thân ít bị vấp ngã trên con đường đi
đến thành công của chính mình. Kiến thức là vô tận nên mỗi con người chúng ta cần phải học hỏi
không ngừng.
Là một nhà lãnh đạo lâu năm sẽ không tránh khỏi những lần có suy nghĩ độc đoán hay “đơn
thương độc mã” tự thân quyết định một vấn đề quan trọng mà chưa có sự tham gia đóng góp ý kiến
của các thành viên trong nhóm. Để cho bản thân mình không bị tình trạng như thế, chúng ta phải
học cách chia sẻ công việc, lắng nghe, tiếp nhận ý kiến của mọi thành viên trong nhóm, chúng ta
phải cùng đồng tâm hiệp lực để cho ra thành quả mong muốn.
26
Biết truyền động lực và cảm hứng làm việc cho nhân viên
Hiểu đội ngũ nhân viên của mình. Một nhà quản trị giỏi luôn có cho mình sự quan sát
nhạy bén, qua việc thấu hiểu tài năng cũng như nắm rõ được điểm mạnh của từng người nhân viên
trong đội ngũ. Nhờ có đôi mắt quan sát nhạy bén, họ có thể suy đoán và phát hiện rõ điểm mạnh,
điểm yếu, phong cách làm việc, tính cách,… của mỗi nhân viên. Phát triển điểm mạnh kiêm khắc
phục điểm yếu cho nhân viên, đây mới chính là công việc quan trọng của một nhà quản trị, bởi vì
mỗi thấu hiểu thôi là chưa đủ, vừa cần phải khai thác điểm sáng và vừa phối hợp cân bằng nó, điều
này sẽ giúp cho nhà quản trị tối ưu hóa cơ hội và hạn chế rủi ro trong hoạt động làm việc.
Luôn ưu tiên việc trao đổi thông tin hiệu quả, yếu tố thứ hai cũng quan trọng không kém.
Trong một đội nhóm, khi muốn chỉ đạo một ai đó làm việc, chúng ta sẽ phải cho đối phương hiểu
được tầm quan trọng của công việc, mục tiêu, khát vọng, hoài bão, và không thể thiếu là món quà
thưởng đến cho đối phương khi cùng mình thực hiện công việc đó. Đây cũng chính là công việc
của nhà quản trị, chia sẻ thông tin đến cho nhân viên của mình, luôn biết cập nhật thông tin mới,
trao đổi và hỗ trợ nhân viên để cùng đạt được mục tiêu. Một buổi chia sẻ thông tin thường được tổ
chức bằng một buổi họp mặt, có bài diễn thuyết bằng Powerpoint chứa nội dung cần chia sẻ,
khuyến khích mọi nhân viên nói lên ý tưởng của họ, sau cùng thì nhà quản trị sẽ xây dựng mục tiêu
và cũng hỗ trợ cho nhân viên để hoàn thành công việc được giao.
Tập trung vào sự phát triển của từng cá nhân, yếu tố này cần phải có để nhà quản trị biết
cách giữ chân nhân viên của mình. Theo báo cáo của Modern Workplace, 89% những nhân viên có
hiệu suất công việc cao đều cảm thấy hài lòng với lộ trình thăng tiến của mình. Khi một nhân viên
đảm nhận duy nhất một công việc từ năm này qua tháng nọ dù cho là đã cống hiến hết mình nhưng
không có thay đổi gì trong thăng tiến, thì điều đầu tiên họ sẽ cảm thấy chán nản cũng như suy nghĩ
rằng công ty đó không còn phù hợp với mình, lỗi là ở nhà quản trị không biết cách truyền cảm
hứng cho nhân viên của mình, bỏ bê nhân viên là việc làm sai lầm của họ. Vậy nếu cũng trường
hợp đó mà nhân viên được tăng thêm tiền lương, được thưởng thêm mỗi khi làm thêm giờ, kích
thích được nhu cầu của nhân viên nhà quản trị hoàn toàn dễ dàng tán thưởng; với một số nhân viên
đang trong giai đoạn khó khăn thì nhà quản trị sẽ là người giúp đỡ, trở thành người bạn tâm giao
giúp cho tinh thần của mọi người được phấn chấn trở lại.
Biết chú trọng việc xây dựng môi trường an toàn, là một nhà quản trị giỏi cũng cần phải
biết cách để tạo ra môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh dành cho mọi người; nhà quản trị
thông thái sẽ biết cách làm thế nào để biến nơi làm việc thành ngôi nhà mà ở đó mọi người từ xa lạ
trở thành bằng hữu luôn giúp đỡ nhau vì mục tiêu chung. Để làm được điều phi thường đó, cá nhân
27
nhà quản trị cũng phải là mẫu người được mọi nhân viên yêu quý, là người giữ vững an toàn trong
“ngôi nhà thứ 2” của mình, tôn trọng từng thành viên, và phải biết trọng dụng người tài trong đội.
Về phía nhân viên, khi nói đến hai chữ an toàn là họ sẽ nghĩ ngay đến giấc ngủ yên ấm, được làm
điều mình thích và mong muốn cống hiến hết mình khi được mọi người quan tâm lẫn hỗ trợ. Vì thế
nhà quản trị giỏi là cần phải biết xây dựng môi trường làm việc an toàn và lành mạnh cho mọi
người.
Biết truyền động lực và cảm hứng làm việc cho nhân viên, yếu tố quan trọng nhất chính
là một nhà quản trị giỏi sẽ luôn biết cách để truyền động lực, truyền cảm hứng cho nhân viên. Luôn
biết cách đổi mới trong môi trường làm việc mà không khiến nhân viên bị ngợp hay khó chịu về
những điều mới đó và ngược lại còn tích cực hưởng ứng theo, đó chính là một nhà quản trị thông
thái. Nhân viên cũng cảm thấy an tâm khi làm việc dưới chướng của mình, bởi bản thân mỗi người
là luôn muốn được công nhận thành tích, nhà quản trị càng quan tâm đến nhân viên thì nhân viên
càng có tinh thần hợp tác lâu dài với doanh nghiệp.
Kết luận lại quản trị một tập thể là điều không dễ dàng gì, không ai trong chúng ta từ khi
sinh ra đã có khả năng trở thành nhà quản trị giỏi cả, tất cả đều phải qua học tập, rèn luyện và thực
hành thường xuyên thì mới mong có kết quả trở thành nhà quản trị tốt. Nắm giữ 5 yếu tố trên cùng
với một phong cách lãnh đạo của riêng mình thì việc trở thành người lãnh đạo được mọi người yêu
quý là điều tuyệt vời nhất của nhà quản trị.
28
C/ PHẦN KẾT LUẬN
Ngày nay, phong cách và nghệ thuật lãnh đạo của các nhà quản trị là yếu tố quan
trọng hàng đầu để phát triển doanh nghiệp. Phong cách lãnh đạo giúp xác định cách tiếp cận
của các nhà lãnh đạo trong việc thực hiện kế hoạch và chiến lược để hoàn thành mục tiêu,
nhằm đáp ứng kỳ vọng kinh doanh cũng như sự thịnh vượng và phát triển của một tổ chức.
Về cách tiếp cận lãnh đạo, doanh nghiệp cần lựa chọn cách tiếp cận phù hợp. Phong cách
lãnh đạo hay kỹ năng, nghệ thuật lãnh đạo cần phải phù hợp với các tình huống khác nhau,
thực tế thị trường mà đưa ra cách lãnh đạo, cách dẫn dắt cho phù hợp. Những nhà lãnh đạo
tương lai phải biết trông vào một viễn cảnh thực tế, xác định được những giá trị mà tổ chức
họ muốn dẫn dắt. Họ phải có khả năng tạo động lực, điều kiện cho nhân viên phát huy tối
đa năng lực và nhạy bén trước những thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp Việt sẽ cần có
những lãnh đạo có được sự linh hoạt đó, có tầm nhìn xa và tư duy mang tính chiến lược để
có thể “chèo lái” cho doanh nghiệp Việt Nam vươn tầm quốc tế.
Cụ thể trong bài tiểu luận này là vua Quang Trung, ông thành công nhờ vào phong
cách dân chủ trong lãnh đạo của mình, cho thấy ông tuy có sự quyết đoán, dũng mãnh và trí
tuệ hơn người nhưng vẫn rất coi trọng ý kiến của bậc hiền tài, chiêu mộ ý kiến của hiền
thần, thể hiện rõ ông là một bậc minh quân sáng suốt. Hoàng đế Quang Trung là nhân vật vĩ
đại trong lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng ông không thể biến những ước vọng cá
nhân thành hiện thực, bởi lịch sử chỉ sản sinh một "Quang Trung đại đế", mà không thể tạo
nên "thời đại Quang Trung" đúng nghĩa. Ông thất bại cũng chính là vì sự quyết đoán và có
phần độc đoán của mình, để rồi tư tưởng tiến bộ của ông đã một phần bị méo mó dưới
quyền lực của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Quang Toản và nhiều tướng lĩnh thân thuộc dẫn
đến hệ quả đánh mất niềm tin của quần chúng. Qua đó, nhóm chúng em đã đưa ra các
phương hướng phấn đấu cho các nhà quản trị và cho chính bản thân chúng em để trở thành
một nhà lãnh đạo tài tình, dẫn dắt đội nhóm thành công để đạt được hiệu quả công việc cao
nhất. Từ đây, chúng ta có thể thấy bất kỳ phong cách lãnh đạo nào cũng sẽ có hai mặt. Một
người lãnh đạo giỏi là người hiểu rõ và biết vận dụng linh hoạt trong các tình huống thì mới
có thể đạt được hiệu quả tối ưu.
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khái niệm Nghệ thuật lãnh đạo, < https://1office.vn/nghe-thuat-lanh-dao>, [Ngày truy cập:
22/09/2023].
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách lãnh đạo,<https://pms.edu.vn/nghe-thuat-lanh-dao-
yeu-to-then-chot-tao-nen-nha-lanh-dao-gioi>, [Ngày truy cập: 21/09/2023].
3. Phân loại các phong cách lãnh đạo nổi bật hiện nay, < https://luatduonggia.vn/phong-cach-
lanh-dao-la-gi-cac-phong-cach-lanh-dao-noi-bat>, [Ngày truy cập: 21/09/2023].
4. Vai trò của Nghệ thuật lãnh đạo, < https://muaban.net/blog/lanh-dao-la-gi>, [Ngày truy cập:
22/09/2023].
5. Nguyễn Chi. (2021) Phân tích nhân vật Quang Trung trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí,
<https://vanhocviet.com/phan-tich-nhan-vat-quang-trung.html>, [Ngày truy cập:
23/09/2023].
30