Professional Documents
Culture Documents
A2. CTTP các tội xâm hạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự Đ.123-Đ.156
A2. CTTP các tội xâm hạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự Đ.123-Đ.156
Nắm vững các dấu hiệu CTTP của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người:
Đ123-Đ156
Điều 123. Tội giết người
Về mặt khách quan của tội phạm:
– Về hành vi: Người phạm tội dùng mọi thủ đoạn nhằm tước đoạt mạng sống của người khác.
Hành vi này có thể được thể hiện dưới hai dạng hành vi khác nhau là hành vi hành động và
hành vi không hành động, cụ thể như sau:
+ Đối với hành vi hành động: Người phạm tội cố tình thực hiện các hành vi trái pháp luật
nhằm tước đoạt mạng sống người khác.
+ Đối với hành vi không hành động: Người phạm tội không thực hiện nghĩa vụ phải làm để
cứu giúp người khác nhằm tước đoạt mạng sống người khác.
– Về mặt hậu quả: Tước đoạt hoặc đe dọa tước đoạt mạng sống của người khác (Mục đích của
người phạm tội là tước đoạt mạng sống của người khác, nhưng việc người đó không chết là
nằm ngoài mục đích của người phạm tội).
Về mặt chủ quan của tội phạm:
– Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi cố ý, bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
Theo đó, theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 thì cố ý phạm tội trực tiếp là hành vi của
người phạm tội, mà khi đó người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể tước đoạt
mạng sống của người khác, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy
ra.
Còn cố ý phạm tội gián tiếp là hành vi của người phạm tội, mà khi đó người phạm tội nhận
thức rõ hành vi của mình có thể tước đoạt mạng sống của người khác, thấy trước hậu quả của
hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó
xảy ra.
– Mục đích: Nhằm tước đoạt mạng sống của người khác.
Mặt khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của con người được pháp luật
hình sự bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể của tội phạm:
Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Về mặt khách quan của tội phạm:
a. Đối với trường hợp giết con mới đẻ
- Về hành vi: Người mẹ chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh
khách quan đặc biệt có hành vi cố tình giết con mới đẻ.
Hành vi giết con mới đẻ có thể được thực hiện thông qua các hình thức bóp mũi, bóp cổ cho
ngạt thở,...; hoặc không cho con bú dẫn đến đứa trẻ chết,...
- Về mặt hậu quả: Tước đoạt mạng sống của con mới đẻ.
b. Đối với trường hợp vứt bỏ con mới đẻ:
- Về hành vi: Người mẹ chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh
khách quan đặc biệt có hành vi cố tình vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến
hậu quả đứa trẻ chết.
Hành vi vứt bỏ con mới đẻ có thể được thể hiện thông qua việc vứt con ngoài cổng chùa, vứt
con vào thùng rác, ngoài đường phố,...
- Về mặt hậu quả: Làm chết con mới đẻ là hậu quả bắt buộc.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp hoặc do lỗi cố ý gián tiếp.
Theo đó, theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 thì cố ý phạm tội trực tiếp là hành vi của
người phạm tội, mà khi đó người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là rất nguy hiểm sẽ
tước đoạt đi mang sống của đứa trẻ, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả đó xảy ra.
Còn cố ý gián tiếp là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể dẫn đến cái chết
cho con mới đẻ, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy người phạm tội không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
- Mục đích: Nhằm tước đoạt mạng sống của con mới đẻ hoặc bỏ mặt cho hậu quả đó xảy ra
đối với con mới dẻ (đối với trường hợp vứt con mới đẻ)
Mặt khách thể của tội phạm:
- Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của người khác được pháp
luật hình sự bảo vệ; xâm phạm đến quyền được sống của cá nhân được pháp luật bảo vệ.
- Đối tượng tác động ở đây là con được sinh ra trong 07 ngày tuổi.
Về mặt chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chủ thể đặt biệt. Ở đây chính là người mẹ
có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ (nếu người cha có hành vi trên thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm về tội giết người) chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt.
Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi:
+ Là hành vi của một người giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở đây có thể được hiểu là trạng thái tâm lý của người
đó đã không hoàn toàn làm tự chủ, tự kiềm chế, kiểm soát được hành vi của bản thân xuất
phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người bị hại (dấu hiệu bắt buộc).
+ Hành vi giết người phải xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của chính người bị
hại đối với chính người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng ở đây có thể được hiểu là các hành vi xâm phạm nghiêm
trọng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người phạm tội hoặc của người thân thích của họ
được pháp luật bảo vệ.
- Về mặt hậu quả: Tước đoạt mạng sống của người khác.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp hoặc do lỗi cố ý gián tiếp.
Theo đó, theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 thì cố ý phạm tội trực tiếp là hành vi của
người phạm tội, mà khi đó người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là rất nguy hiểm sẽ
tước đoạt đi mang sống của người bị hại, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả đó xảy ra.
Còn cố ý gián tiếp là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể tước đoạt mạng
sống của người bị hại, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy người phạm tội
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
- Mục đích: Nhằm tước đoạt mạng sống của người khác.
Mặt khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của người khác được pháp luật
hình sự bảo vệ; xâm phạm đến quyền được sống của cá nhân được pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể của tội phạm:
Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm đến quyền được sống của con người.
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi (cố ý) gây ra cái chết cho người đang có
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người
phạm tội hoặc của người khác. Hậu quả của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là thiệt hại về thể chất – hậu quả chết người đang có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác.
Tội phạm này chỉ cấu thành khi thỏa mãn những điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi tấn công đang diễn ra và chưa kểt thúc. Tức là tại thời điểm diễn ra sự kiện
người phạm tội có hành vi xâm hại đến tính mạng của người khác, thì người khác đó đang
có hành vi tấn công người phạm tội.
Ví dụ: A cầm dao đuổi chém B, B dừng lại và nói “ nếu tiếp tục đuổi theo chém tôi, tôi sẽ giết
anh Nhưng bất chấp lời cảnh báo đó A vẫn cầm dao đuổi chém B, không còn cách nào khác B
liền dùng dao mang theo người xia một nhát sượt bả vai A, A chùn lại không đuổi theo B nữa.
Thấy vậy, B ‘ liền xỉa tiếp nhát nữa về phía A khiến A gục ngay tại chỗ và chết trên đường đi
cấp cứu. Hành vi phạm tội của B được xác định là phạm tội do vượt quả giới hạn phòng vệ
chính đáng.
Thứ hai, không gian, thời gian, công cụ phương tiện sử dụng cũng như tương quan lực lượng
giữa hai bên. Tức là sự kiện phạm tội đó diễn ra ở đâu; nơi đó có nhiều người qua lại không
hay đó là nơi hoang vắng; tương quan lực lượng giữa hai bên như thế nào; công cụ và phương
tiện mà các bên sử dụng trong quá trình phạm tội là gì… để xác định đối tượng phạm tội có ở
trong tình trạng vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hay không.
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoàn thành khi hậu quả chết người
xảy ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội giết người do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi (cố ý) gây ra cái chết
cho người đang có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của
tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác với hậu quả chết người.
Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể là lỗi cố
ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Động cơ phạm tội của người phòng vệ là nhằm bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác.
Chủ thể của tội phạm
Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
Chủ thể: Chủ thể của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi theo luật định. Bên cạnh đó, họ còn phải là những người đang thi
hành công vụ nói chung: người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, đó cũng
có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế
hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội.
Khách thể: Khách thể bị xâm phạm ở đây là quan hệ nhân thân cụ thể là quyền sống của con
người.
Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là
dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ và hành
vi này phải liên quan trực tiếp đến công vụ mà người đó đang thực hiện. Hành vi dùng vũ lực
có thể là dùng sức mạnh vật chất tác động vào thân thể người khác làm cho họ chết hoặc bị
thương. Các hình thức dùng vũ lực như dùng vũ khí hoặc tay chân đấm, đá… Các loại vũ khí
bao gồm: súng, đạn, lựu đạn, bom, mìn, thuốc nổ, lê, dao găm, mã tấu và các vũ khí thô sơ
khác được giao cho người có quyền sử dụng để thực hiện công vụ.
Hành vi dùng vũ lực của chủ thể trong trường hợp này chứa đựng nguy cơ gây thiệt hại cho
các lợi ích hợp pháp, và không được pháp luật cho phép.
Trong trường hợp đang thi hành công vụ coi thường tính mạng của người khác, sử dụng vũ
khí vô nguyên tắc làm chết người thì dù là người đang thi hành công vụ vẫn phạm tội giết
người.
Người đang thực hiện công vụ có hành vi làm chết người nhưng nạn nhân không liên quan
trực tiếp đến công vụ của họ thì không phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ mà
có thể bị kết án về tội giết người.
Hậu quả: Hậu quả của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là thiệt hại về vật chất –
hậu quả chết người, dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc với loại tội này.
Mối quan hệ nhân quả: hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép chính
là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người.
Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội trong khi thi hành công vụ là lỗi cố ý gián tiếp, có
nghĩa là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm đến tính
mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng để mặc cho hậu quả
xảy ra.
Động cơ phạm tội của người đang thi hành công vụ là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của
tổ chức hoặc của công dân. Nếu không xuất phát từ động cơ này thì người phạm tội phải bị xử
phạt về tội khác.
Điều 128. Tội vô ý làm chết người
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi: Người phạm tội có hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp, các quy tắc an toàn
trong quá trình làm việc.
Trong đó:
- Quy tắc nghề nghiệp ở đây có thể được hiểu là các quy định, các quy tắc nhất định đối với
công việc cụ thể mà trong quá trình hành nghề người đó phải tuân theo để bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe cho mình và cho người khác.
- Quy tắc an toàn ở đây có thể được hiểu là các quy tắc bắt buộc người thực hiện công việc
nhất định phải tuân theo nhằm bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho mình và cho
người khác.
- Về mặt hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm: Gây chết người.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
Người thực hiện hành vi do lỗi vô ý, bao gồm lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do quá cẩu thả.
Có thể hiểu như sau:
+ Vô ý vì quá tự tin: Người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm có thể gây ra hậu
quả chết người, nhưng tin rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
+ Vô ý vì quá cẩu thả: Người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả chết người, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra và có thể ngăn ngừa được nhưng
cuối cùng hậu quả đó vẫn xảy ra.
Mặt khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của công dân được pháp luật
bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể của tội phạm: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Điều 129. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kì ai đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực chịu trách nhiệm
hình sự
Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội phải là lỗi vô ý, theo quy định của pháp luật thì được hiểu dưới 2
dạng lỗi là lỗi vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý do quá tự tin thể hiện ở việc người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm
nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả vẫn
xảy ra.
Lỗi vô ý do cẩu thả là việc người phạm tội vì cẩu thả mà không thấy trước được khả năng gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước.
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là tính mạng của công dân, đây là quyền cơ bản của mỗi công dân.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là bản thân mỗi công dân, quyền được sống của
mỗi công dân.
Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi:
– Hành vi khách quan được thực hiện bằng một trong hai loại hành vi sau:
Hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp. Đó là hành vi do không quy định các quy tắc nhất định
mà nghề nghiệp buộc phải yêu cầu gây ra hậu quả chết người.
Ví dụ: A là thợ điện mắc dây điện trần không đúng độ cao quy định, B đụng phải, B chết.
Hoặc A là y tá của bệnh viện Trung ương Huế, khi phát thuốc cho bệnh nhân do cẩu thả
không kiểm tra thuốc nên đã đưa nhầm thuốc cho bệnh nhân uống và bệnh nhân chết.
– Hành vi phạm quy tắc hành chính.
Ví dụ: chặt cây công cộng trái với quy định của cơ quan có thẩm quyền, làm gẫy cành cây,
đứt dây dẫn điện, gây chết người qua đường…
+ Hậu quả:
Hậu quả là yếu tố bắt buộc của tội phạm này, hậu quả chết người phải xảy ra, giữa hành vi và
hậu quả có mối quan hệ mật thiết với nhau, hậu quả chết người phải do nguyên nhân vi phạm
các quy tắc trên của người thực hiện tội phạm.
Điều 130. Tội bức tử
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi: Người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc
làm nhục người lệ thuộc mình.
Trong đó:
+ Đối xử tàn ác với người lệ thuộc ở đây được hiểu là hành vi của người phạm tội đối xử một
cách tàn nhẫn với người lệ thuộc, gây đau khổ về thể xác, tinh thần của người lệ thuộc...
+ Thường xuyên ức hiếp người lệ thuộc ở đây được hiểu là là hành vi của người phạm tội lợi
dụng sự lệ thuộc của người bị hại vào mình mà đối xử bất công, xâm phạm đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của người đó một cách trái pháp luật,...
+ Ngược đãi người lệ thuộc ở đây được hiểu là hành vi của người phạm tội đối xử tàn nhẫn,
tàn tệ với người lệ thuộc mình,...
+ Làm nhục người lệ thuộc ở đây được hiểu là hành vi của người phạm tội xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc mình một cách trái pháp luật,...
+ Người lệ thuộc ở đây có thể được hiểu là người lệ thuộc về tài chính, công việc, tôn giáo,...
- Về mặt hậu quả: Làm cho người bị hại tự sát.
Việc người bị hại tự sát mà chết hoặc không chết không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội
phạm này.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể khiến cho người bị
hại tự sát, thấy trước hậu quả là người bị hại sẽ tự sát của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý:
++ Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể khiến cho
người bị hại tự sát nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
++ Lỗi vô ý do quá cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể khiến
cho người bị hại tự sát, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Mặt khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến sức khỏe, tính mạng của con người được
pháp luật hình sự bảo vệ, quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể của tội phạm:
Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
Chủ thể phạm tội
Người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát.
Khách thể của tội phạm: Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là một trong các tội phạm
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người.
Mặt khách quan của tội phạm: thể hiện ở hành vi xúi giục, kích động người khác tự sát, dụ dỗ,
lừa dối để người khác tự sát hoặc giúp người khác tự sát. Cụ thể:
Xúi giục người khác là hành vi của một người đã có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác tự định đoạt tính mạng của họ.
- Kích động người tự sát: là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm lý làm cho
người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có lời lẽ kích động đó thì
nạn nhân dù có tâm lý thế nào vẫn chưa tới mức tự sát.
Dụ dỗ người khác tự sát: là có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người
khác tự sát theo ý muốn của mình. Những lời lẽ kích động, dụ dỗ của người phạm tội là nhằm
thúc đẩy nạn nhân đến chỗ tự sát. Ý thức của người phạm tội là mong muốn làm sao cho nạn
nhân tự sát. Nếu chỉ có một vài lời nói có tính chất kích động mà nạn nhân sẵn có ý định tự
sát thì cũng không phạm tội này.
Giúp người khác tự sát là hành vi của một người tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho
người khác tự tước đoạt tính mạng của họ như tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự
sát hoặc hứa hẹn sẽ giữ kín việc nạn nhân tự sát. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức rõ về
việc thực hiện hành vi của mình là tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát. Nếu họ không biết và
không thể biết điều đó thì không phạm tội này.
Trong tất cả các trường hợp, người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng.
Có thể bằng nhiều cách khác nhau, nạn nhân tự tước đoạt tính mạng của mình, như: uống
thuốc độc, cắt gân tay, nhảy sông tự tử … Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người bị xúi giục
có hành vi tự sát.
Mặt chủ quan
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực
hiện hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát hoàn toàn có đủ nhận thức để nhìn thấy
trước hậu quả nạn nhân sẽ tự tử, nhưng người phạm tội hoàn toàn mong muốn hậu quả nạn
nhân tử vong hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Hành vi xúi giục phải dẫn đến việc nạn nhân tự nguyện tự sát (mối quan hệ nhân quả). Nếu
hành vi xúi giục kèm theo hành vi dồn ép người khác buộc họ không còn con đường nào khác
phải tự sát thì không phạm tội này mà phạm tội bức tử theo Điều 130 Bộ luật hình sự.
Điều 132. Tội không cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau đây:
+ Về hành vi: Có hành vi (không hành động) không cứu giúp người bị nạn trong trường hợp
nhìn thấy người đó đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (như bị rơi xuống sông,
bị tai nạn giao thông…) Nghĩa là mặc dù người phạm tội đã nhìn thấy có người bị tai nạn
hoặc trong trường hợp khác đang bị nguy hiểm có thể dẫn đến bị chết nhưng đã không thực
hiện (không có hành động gì) việc cứu giúp nạn nhân.
Tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là tình trạng của người mà mạng sống của họ đang bị đe
dọa, cần phải có sự cứu giúp (cấp cứu hoặc giúp đỡ) của người khác ngay lập tức mà nếu
không có sự cứu giúp kịp thời thì có thể dẫn đến hậu quả người đó bị chết.
+Các dấu hiệu khác. Người phạm tội phải là người có điều kiện để cứu giúp nạn nhân: Nghĩa
là họ có đủ khả năng về chuyên môn cũng như về vật chất hoặc những điều kiện cần thiết
khác để thực hiện việc ngăn chặn hậu quả chết người xảy ra, nhưng họ đã không hành động,
tức không cứu giúp người bị nạn như nêu trên. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
- Về hậu quả phải xảy ra hậu quả là trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng bị chết thì hành
vi của người không cứu giúp mới bị coi là tội phạm. Nếu hậu quả người trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng không chết do sau đó có một lực lượng khác tới cứu kịp thời, hoặc họ chỉ
bị thương nặng… thì hành vi của người không cứu giúp chưa phải là hành vi phạm tội này.
Khách thể:
Hành vi phạm tội nêu trên đã xâm phạm đến nghĩa vụ bảo vệ tính mạng của người khác mà
quy tắc đạo đức trong cuộc sống và pháp luật đòi hỏi mọi người phải tuân theo.
Chủ thể:
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người có
đủ điều kiện để cứu giúp người bị nạn. Đây cũng có thể xem là dạng chủ thể đặc biệt.
Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Điều 133. Tội đe dọa giết người
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi: Người phạm tội đã thực hiện hành vi đe dọa giết người bị hại trái pháp luật.
Hành vi đe dọa này có thể thực hiện bằng lời nói, hành động, cử chỉ... không nhằm mục đích
giết người bị hại mà chỉ nhằm làm người bị hại phải lo lắng, sợ hải, hình thành trong tư tưởng
rằng người phạm tội sẽ thực hiện hành vi giết người bị hại như đã đe dọa.
- Về mặt hậu quả: Gây nên tâm lý lo lắng, sợ hãi cho người bị hại; người bị hại thật sự tin
rằng hành vi đe dọa sẽ được người phạm tội thực hiện.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi vô ý trực tiếp.
Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là đe dọa người bị
hại, làm cho người bị hại lo sợ có thể dẫn đến hậu quả như lời đe dọa, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra;
- Mục đích của hành vi phạm tội: Nhằm đe dọa người bị hại để người bị hại làm hoặc không
làm một việc gì đó.
Mặt khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến quyền được sống của con người được
pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể của tội phạm:
Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Đối tượng tác động: là những người đang sống, đang tồn tại với tư cách là thực thể tự
nhiên và xã hội nên có quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe.
+ Mặt khách quan:
- Về hành vi:
Người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình.
Trong đó:
+ Đối xử tàn án với người lệ thuộc mình ở đây có thể được hiểu là hành vi của người
phạm tội lặp đi lặp lại trong một thời gian dài, dẫn đến việc gây ra sự đau đớn cả về
thể sát lẫn tinh thần đối với người lệ thuộc mình thông qua các hành vi như đánh đập,
không cho người đó hại ăn uống, chửi mắng thậm tệ,... nhưng chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
+ Làm nhục người lệ thuộc mình ở đây có thể được hiểu là hành vi của người phạm tội
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc mình một cách trái pháp luật.
+ Người lệ thuộc ở đây có thể được hiểu là người lệ thuộc về tài chính, công việc, tôn
giáo,... và không thuộc các trường hợp là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu của
người phạm tội hoặc người có công nuôi dưỡng người phạm tội.
+ Chủ thể:
bất kì người nào giữ vai trò là người được lệ thuộc, từ đủ 16 tuổi và có năng lực trách
nhiệm hình sự.
+ Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể gây nguy hại đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra;
+ Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể gây nguy hại đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của người khác, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho
hậu quả đó xảy ra.
- Mục đích của hành vi phạm tội: Không phải là dấu hiệu bắt buộc.
+ Khách thể:
Khách thể: Xâm phạm quan hệ nhân thân bao gồm: Sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của nạn nhân được pháp luật bảo vệ.
Đối tượng tác động: có thể là con người, các đối tượng vật chất hay hoạt động bình
thường của chủ thể.
“Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
trái với ý muốn của nạn nhân”.
Dùng vũ lực: Là dùng sức mạnh về thể chất như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng,
bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo,… của nạn nhân nhằm làm mất hoặc hạn chế
khả năng phòng vệ, tự vệ, chống trả của nạn nhân;
Đe dọa dùng vũ lực: Là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động vào người
nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu kẻ tấn công không giao cấu được thì
sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc. Ví dụ như dọa giết, đe dọa gây thương tích,…
Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: Là những trường hợp như nạn
nhân đi một mình trong đêm vắng, đi một mình trong rừng,..
Dùng thủ đoạn khác: Là những trường hợp người phạm tội đe dọa, khủng bố tinh thần,
làm cho nạn nhân khiếp sợ, dùng thuốc mê, thuốc kích dục, say rượu hay các chất kích
thích khác làm cho nạn nhân hạn chế hoặc mất khả năng chống cự;
Giao cấu trái ý muốn của nạn nhân: Là việc thực hiện hành vi giao cấu nhưng không
được sự đồng ý của nạn nhân hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của nạn
nhân vì họ đang trong trạng không thể hiện và biểu lộ được ý chí của họ.
Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm có các hành động nhằm giao cấu mà
không cần phải có căn cứ là đã giao cấu được hay chưa.
Nếu người phạm tội mới thực hiện hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng bạo lực hoặc sử
dụng các thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn của nạn nhân, nhưng chưa kịp giao
cấu vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như đã bị ngăn chặn thì
phạm tội chưa đạt và họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Nếu người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm thì họ không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, nhưng có thể bị truy cứu về các tội khác (nếu có đủ các
yếu tố cấu thành) như: Làm nhục người khác, cố ý gây thương tích,…
Lưu ý: – Người bị hại phải là người từ đủ mười sáu tuổi trở lên. Trường hợp người bị
hại dưới 16 tuổi thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội hiếp dâm trẻ em.
+ Chủ thể:
Người trực tiếp thực hiện tội phạm có thể là nam giới hoặc nữ giới. Có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ. Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
+ Khách thể:
Khách thể: Tội phạm này xâm phạm quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục
của người dưới 16 tuổi, xâm phạm đến quá trình phát triển và sức khỏe của trẻ em.
Đối tượng tác động: người dưới 16 tuổi.
Loại thứ nhất: Đối với đối tượng từ 13 đến chưa đủ 16 tuổi. Trường hợp này người
phạm tội thực hiện hành vi giống như đối với người đã trên 16 tuổi quy định tại Điều
141 Bộ luật hình sự. “Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ”
hoặc “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”.
Loại thứ hai: Đối với người chưa đủ 13 tuổi thì hành vi hiếp dâm có hai trường hợp:
trường hợp 1 người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực thủ đoạn
khác nhằm giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác trái ý muốn với người chưa đủ 13 tuổi
(giống như với người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi nêu trên). Trường hợp thứ hai
đối với người chưa đủ 13 tuổi thì chỉ cần có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục
khác (không cần hành vi dùng vũ lực, đe dọa dù vũ lực hoặc thủ đoạn khác). Bởi lẽ đối
tượng người chưa đủ 13 tuổi là đối tượng yếu thế, không có khả năng bảo vệ mình nên
chỉ cần hành vi giao cấu với những người này cũng cấu thành tội hiếp trẻ em.
+ Chủ thể:
Người đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên.
(có thể là nam nhưng cũng có thể là nữ). Thông thường, người phạm tội là nam, tuy
nhiên phụ nữ cũng có thể là đồng phạm hiếp dâm với vai trò tổ chức, giúp sức hoặc
xúi giục.
+ Khách thể:
Khách thể: Là hành vi cưỡng dâm người khác khiến họ bị xâm phạm đến sức khỏe,
tính mạng.
Đối tượng tác động: con người bao gồm cả nam và nữ và người không rõ ràng về
giới tính.
Đối với tấn công tình dục, quan hệ tình dục với nạn nhân không chỉ là một dấu hiệu
khách quan của thành phần mà còn là dấu hiệu bắt buộc (một dấu hiệu cần và đủ). Nếu
các dấu hiệu khác là thỏa đáng nhưng không có quan hệ tình dục đã xảy ra, nó không
cấu thành tội phạm.
Về hậu quả:
Hậu quả của hiếp dâm không được xác định trong thực tế, bởi vì các nhà lập pháp xem
xét hành vi để xác định tội phạm và không dựa vào hậu quả thực tế của hiếp dâm để
xác định liệu một người có hành vi tình dục hay không.
Đây là một tội phạm hình thành, nghĩa là người phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của
tội phạm trong tội phạm cấu thành được xác định là đã phạm tội này, mà không phải
dựa vào hậu quả của sự ép buộc của mình để ép buộc người khác. giao hợp hoặc miễn
cưỡng thực hiện các hành vi tình dục khác như thế nào.
+ Chủ thể:
Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Ở
đây không phân biệt người phạm tội là trai hay gái. Tuy nhiên các vụ việc phạm tội
trên thực tế thì người phạm tội chủ yếu là nam giới.
Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
+ Khách thể:
Khách thể: Khách thể của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm cưỡng dâm xâm hại- đó là quyền
nhân thân của con người, cụ thể là quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Đối tượng tác động:
+ Mặt khách quan:
- Hành vi: Có hành vi giao cấu trẻ em là người bị lệ thuộc hoặc cần sự giúp đỡ bằng
việc sử dụng thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, đe doạ…
Trẻ em bị hại phải có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội. Được hiểu là mối quan
hệ lệ thuộc về nhiều mặt như: về vật chất (được nuôi dưỡng, được trợ giúp các điều
kiện sinh sống, được chăm sóc…), về xã hội (giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ
với bệnh nhân), về tín ngưỡng (giữa tín đồ với nhiều có chức sắc tôn giáo); về gia đình
(giữa anh chị em cùng cha khác mẹ…).
Tất cả mối quan hệ nêu trên phải là mối quan hệ lệ thuộc thực sự, tức là người phạm
tội phải có uy thế nhất định đối với người bị hại là trẻ em.
Nhìn chung các dấu hiệu của mặt khách quan của tội này giống với tội cưỡng dâm
nhưng chỉ khác đối tượng nạn nhân là trẻ em.
Trẻ em đang ở trong tình trạng quẫn bách. Được hiểu là trường hợp trẻ em đó đang
gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế hoặc những khó khăn đặc biệt khác… khó có
thể khắc phục được hoặc đang gặp hiểm hoạ (như cha, mẹ đang mắc bệnh hiểm nghèo
không có tiền đưa đi chữa trị, hoặc gia đình bị thiên tai nên bị túng thiếu nghiêm trọng
cần có ngay sự giúp đỡ).
Trẻ em phải miễn cưỡng giao cấu với người phạm tội. Được hiểu trẻ em bị lệ thuộc
vào người phạm tội hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách bị người phạm tội dùng
các thủ đoạn khống chế tư tưởng (như doạ dẫm, hứa hẹn…) để buộc trẻ em phải miễn
cưỡng giao cấu.
+ Tội phạm hoàn thành từ lúc trẻ em giao cấu với người phạm tội.
+ Trẻ em bị hại là người chưa thành niên từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi.
- Hậu quả: Gây ảnh hưởng tâm lí nặng nề và đe dọa, xâm phạm đến quyền được bảo
vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của trẻ em.
+ Chủ thể:
Chủ thể của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là bất kỳ người nào
có năng lực trách nhiệm hình sự.
Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi
+ Khách thể:
Khách thể: Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm,
danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của trẻ em.
Đối tượng tác động:
Có hành vi giao cấu theo sự thỏa thuận đồng ý giữa người đã thành niên (từ đủ mười
tám tuổi trở lên) với trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi. Sự thỏa thuận
đó được hiểu là cả hai bên đều có ý chí mong muốn được giao cấu với nhau nhưng
không vì bất kỳ mục đích có tính chất nào khác (nghĩa là cho giao cấu nhưng không có
sự thỏa thuận điều kiện như cho giao cấu rồi nhận tiền bạc…). Nếu mà sự thỏa thuận
có kèm theo điều kiện trao đổi là tiền bạc, vật chất thì sẽ cấu thành Tội mua dâm
người chưa thành niên.
Lưu ý, tội này chỉ hoàn thành khi có hành vi giao cấu. Nếu người đã thành niên và
người từ 13 đến dưới 16 tuổi thỏa thuận việc giao cấu thuận tình mà chưa giao cấu
được thì tùy từng trường hợp sẽ xử lý về Tội dâm ô với người chưa đủ 16 tuổi nếu
thỏa mãn dấu hiệu Tội dâm ô với người chưa đủ 16 tuổi. Tội này không có giai đoạn
chưa đạt.
+ Chủ thể:
Là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Khách thể:
Khách thể: Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến danh dự, nhân phẩm,
sức khỏe và sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi được pháp luật bảo vệ.
Đối tượng tác động: Người dưới 16 tuổi, không phân biệt nam hay nữ.
- Về mặt hậu quả: Gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe
và sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi.
+ Chủ thể:
Chủ thể tội phạm là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi và năng
lực trách nhiệm hình sự
Lỗi của người phạm tội dâm ô đối với trẻ em là lỗi cố ý. Trong trường hợp phạm tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đòi hỏi người phạm tội phải nhận thức được hành vi
của mình là hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, tức là nhận thức được hành vi
của mình thực hiện các hành vi tình dục với người dưới 16 tuổi nhưng không phải là
hành vi giao cấu. Người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc kích thích, khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới
16 tuổi. Do vậy để đạt được mục đích này họ mong muốn thực hiện hành vi dâm ô đối
với trẻ em hoặc chấp nhận hành vi của mình có thể là dâm ô đối với người dưới 16
tuổi.
Mục đích của người thực hiện hành vi dâm ô đối với trẻ em là nhằm thỏa mãn nhu
cầu tình dục của mình hoặc kích thích, khêu gợi nhu cầu tình dục của chính mình hoặc
của trẻ em. Trong trường hợp, người thực hiện hành vi dâm ô đối với người dưới 16
tuổi mà có mục đích khác thì họ có thể không bị truy cứu TNHS về tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi mà có thể bị truy cứu TNHS về một tội khác. Ví dụ: Người phạm
tội thực hiện các hành vi dâm ô đối với trẻ em mục đích bôi nhọ hoặc trả thù thì có thể
bị xử lý về tội làm nhục người khác (Điều 155 BLHS năm 2015).
Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
+ Khách thể:
Khách thể: Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến danh dự, nhân phẩm,
sức khỏe và sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi được pháp luật bảo vệ.
Đối tượng tác động: người dưới 16 tuổi và không phân biệt là nam hay nữ.
Mục đích: của người phạm tội có thể là 1 trong 2 mục đích là để cho người dưới 16
tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc chứng kiến trình diễn khiêu dâm nhằm để kích dục,
khiêu gợi ham muốn tình dục đối với người quan sát hành vi chứ không nhằm mục
đích giao cấu hoặc thỏa mãn tình dục trực tiếp.
Hậu quả: Điều luật này không quy định về hậu quả. Hành vi sử dụng người dưới 16
tuổi vào mục đích khiêu dâm không bắt buộc phải gây ra hậu quả tác động vào sức
khỏe, danh dự nhân phẩm của người dưới 16 tuổi hoặc người quan sát hành động
khiêu dâm đó. Hậu quả ở đây là hậu quả tác động vào sự phát triển bình thường của
nạn nhân thông qua việc thực hiện các hành động nhằm mục đích khiêu dâm do sự yêu
cầu, sử dụng của người thực hiện tội phạm. Tức là tội danh này cấu thành hình thức,
chỉ cần người trên 18 tuổi, đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự sử dụng người
dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
danh này, hậu quả rất khó để xác định và không cần xác định đối với tội danh cấu
thành hình thức.
+ Chủ thể:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Khách thể:
Khách thể: Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến danh dự, nhân phẩm,
sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ.
Đối tượng tác động: Sức khỏe, tính mạng của người khác
Hậu quả: làm ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người
khác
Mối quan hệ nhân quả: hậu quả mà nạn nhân bị xâm hại do chính hành vi lây truyền
HIV của người biết mình bị nhiễm HIV dẫn đến nạn nhân bị xâm hại