You are on page 1of 30

I.

CÁC SƠ ĐỒ
1. TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI”

Chức năng thẩm mỹ


Vai trò của
triết học Chức năng giáo dục
trong đời
sống xã hội Chức năng nhận thức
Khả tri luận
Bất khả tri
Các trường phái triết luận
học Nhị nguyên
Triết học Vấn đề cơ luận
và vai trò bản triết Nhất nguyên
của triết học và các luận Giá trị của nhận
học trong trường phái thức
đời sống triết học
xã hội Mặt nhận thức Khả năng nhận
luận thức
Vấn đề cơ bản của Nguồn gốc của
triết học nhận thức
Khuynh hướng
Phương pháp nghiên của thế giới
Mặt bản thể
cứu Bản chất của thế
luận
Triết học giới
Đối tượng nghiên cứu
Nguồn gốc của
Khái niệm "Triết thế giới
học"
2. TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN”

Quy luật phủ định

Những
quy Quy luật mâu thuẫn
luật cơ
bản
Quy luật lượng chất

Khả năng - hiện thực

Bản chất – hiện tượng

Triết Những Nội dung - hình thức Phép


học về cặp biện
tự chứng
phạm
nhiên Nguyên nhân – kết quả duy vật
trù cơ
bản
Tất nhiên – Ngẫu nhiên

Cái riêng – Cái chung

Vật chất – Ý thức

Những Nguyên lý về sự phát triển


nguyên
lý xuất
phát Nguyên lý về mối liên hệ
3. SƠ đồ : Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Suy luận

Tri thức lý tính Phán đoán


Phản ánh
Trình độ III của bộ óc
người Khái niệm

Biểu tượng
Tri thức cảm tính
Tri giác

Tâm lý sơ cấp của Cảm giác


động vật bậc cao

Nguồn Phản xạ có điều kiện


Phản ánh Tính cảm ứng của
gốc tự sinh học
nhiên của động vật
(trong tự Phản xạ không điều kiện
ý thức nhiên hữu cơ

Tính kích thích của vi Tính di động của các vi sinh vật
sinh vật và thực vật
Tính có hướng của thực vật
Trình độ II
Phản ánh hóa hoc Quá trình và kết quả của phản ứng
phân giải và hóa hợp

Phản ánh cơ - Quá trình và kết quả của tác dụng


Trình độ I lý - hóa (trong Phản ánh vật lý nhiệt, điện, từ
tự nhiên vô
cơ)

Quá trình và kết quả của chuyển vị,


Phản ánh cơ học
nén, biến dạng
4. Sơ đồ : Nguồn gốc xã hội của ý thức

Chủ thể thực tiễn

Con người hiện đại

Chủ thể nhận thức

Vai trò của ngôn


ngữ

Ngôn ngữ và tính


chất chủ yếu của
Quá trình tiến hóa ngôn ngữ
từ loài vượn thành
Nguồn gốc xã hội loài người
của ý thức Vai trò, tác dụng
của lao động

Lao động và tính


tất yếu của lao
động

Cromagnon

Nguồn gốc của Nealdental


loài người

Pithecanthrope
5. Sơ đồ về quan hệ biện chứng giữa vật chất và và ý thức

Quyết định

Vận động khách Khuynh hướng


quan Vận động
Vật chất Ý thức
(Thực tại (Thực tại
khách chủ
quan) Liên hệ khách Nội dung phản quan)
quan ánh

Tồn tại khách Hình thành,


quan xuất hiện

Tác động, chi phối,


ảnh hưởng

Biểu đồ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập.

Hệ thống mới

Sự chuyển hóa

Sự đối lập

Sự khác nhau căn bản

Sự khác nhau

Hệ thống sự vật, hiện tượng, quá trình


6. TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC”

Nhận thức lý
tính (tư duy
Tiêu chuẩn của chân lý trừu tượng)

Các tính chất của chân lý


Chân lý
VKn

Khái niệm “chân lý”


Thực
tiễn

VK4
Triết Giai đoạn xác minh, kiểm
học về Con đường biện nghiệm tri thức
nhận chứng của nhận VK3
thức thức Thực
tiễn
Giai đoạn hình thành tri
thức VK2

Nguyên lý về chân lý
VK1
Những
nguyên lý
Nguyên lý về thực tiễn
xuất phát
về nhận Thực
thức tiễn
Nguyên lý về khả năng nhận Nhận thức cảm tính
thức (Trực quan sinh động

Nguyên lý về nguồn gốc của


nhận thức
7. TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ XÃ HỘI”

Các kiểu tiến bộ xã hội

Tiến bộ
xã hội Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã
hội

Quy luật về sự biến đổi, thay


thế lẫn nhau của các hình
thái KT-XH

Quy luật về mối liên hệ và sự


tác động qua lại giữa LLSX
và QHSX
Các quy
luật phổ
Triết học về xã hội
biến của xã Quy luật về mối liên hệ và
hội sự tác động qua lại giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội

Nguyên lý về vai trò của con


người

Nguyên lý về sự vận động


của xã hội
Những
nguyên lý
xuất phát Nguyên lý về cơ sở tồn tại
của xã hội

Nguyên lý về sự tồn tại của


xã hội
8. Quy luật về mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội.
Sơ đồ của quy luật

Quyết định

Sự tác động trở lại


của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội
Hệ tư
Phương tưởng xã
thức sản hội
Tính độc lập tương
xuất
đối của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội
Tâm lý xã
Tồn Ý
Dân cư dân hội
tại xã thức
hội số xã
hội

Khuynh hướng vận


động của ý thức XH Ý thức khoa
học
Hòan cảnh Nội dung phản ánh
địa lý của ý thức xã hội

Nguồn gốc hình


thành của ý thức xã Ý thức
thông
hội
thường

Tác động, chi phối, ảnh hưởng


9. Quy luật về mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất
- Sơ đồ của quy luật

Quyết định

Kinh nghiệm
Quan hệ
lao động Sự thay đổi phân phối
Con của phương sản phẩm lao
ngườ Tri thức lao thức sản xuất động
i sản động
xuất
Lực
(ngư Nhu cầu lao
lượng Quan
ời động Quan hệ về
sản Sự đấu tranh hệ
lao tổ chức,
xuất giữa LLSX và sản
Khả năng lao quản lý sản
động QHSX xuất
xuất

Đối tượng
Tư Quan hệ về
lao động Sự thống nhất
liệu sở hữu đối
sản giữa LLSX và với TLSX
xuất Tư liệu lao QHSX
động

Tác động, chi phối, ảnh hưởng


II. CÁC KHÁI NIỆM
Nguyên lý và sự phân loại của nguyên lý

- Khái niệm “Nguyên lý”


Nguyên lý là hệ thống lý luận căn bản của một học thuyết khoa học làm nền
tảng cho học thuyết khoa học đó. Đó là hệ thống lý luận phản ánh nhận thức tổng
quát của một khoa học về phạm vi, lĩnh vực mà nó nghiên cứu, được quan niệm
như những chân lý chắc chắn, thực hiện chức năng nhận thức, giải thích thể giới và
định hướng hoạt động của con người.
- Sự phân loại của nguyên lý
- Nguyên lý đặc thù (Nguyên lý của các khoa học): Là nguyên lý khái quát
những thuộc tính, đặc điểm cơ bản, trật tự và cơ chế điều hành, chi phối sự tồn tại
và biến đổi của một phạm vi, lĩnh vực nhất định của thế giới. Tri thức chứa đựng
trong các nguyên lý này là tri thức chuyên biệt, chuyên nghành, có giới hạn, chỉ
giải thích được cho các đối tượng trong một phạm vi, lĩnh vực xác định.
- Nguyên lý phổ biến (Nguyên lý triết học): Là nguyên lý khái quát những
thuộc tính, đặc điểm cơ bản, tổng quát của toàn bộ thế giới. Tri thức chứa đựng
trong các nguyên lý này là tri thức tổng quát, phổ quát, giải thích được toàn bộ thế
giới một cách cơ bản nhất, bản chất nhất.

- Khái niệm “Quy luật”


Quy luật là khái niệm triết học dùng để chỉ những mối liên hệ bản chất tất yếu, phổ
biến, ổn định, lặp đi lặp lại giữa các sự vật hiện tượng hoặc giữa các mặt, các thuộc
tính, các yếu tố, các bộ phận, các quá trình cấu thành của sự vật hiện tượng.
- Tính quy luật
Quy luật được làm thành, được xác định bởi các mối liên hệ bản chất, tất yếu,
phổ biến, ổn định, lặp đi lặp lại. Tính quy luật biểu thị mức độ nào đó có tính xác
suất của các đặc tính bản chất, tất yếu, phổ biến, ổn định và lặp đi lặp lại
Số đặc tính
Tính quy luật =
∑ số đặc tính
- Đặc điểm của quy luật
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính phong phú, đa dạng
- Nhận thức và các yếu tố cấu thành của nó
1.1. Khái niệm“Nhận thức”: Nhận thức là khái niệm triết học dùng để chỉ hành
động trí não của con người nhằm vào thế giới; hành động tìm hiểu, khám phá, nắm
bắt và khái quát thế giới của con người nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa
con người với thế giới vật chất bên ngoài.
1.2. Các yếu tố cấu thành của “nhận thức”
- Chủ thể nhận thức: Là những cá nhân, nhóm người, cộng đồng người tiến
hành nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá, nắm bắt, khái quát thế giới bao gồm khả
năng nhận thức, nhu cầu nhận thức và ý tưởng nhận thức...
- Khách thể nhận thức: Là miền sự vật, hiện tượng trong thế giới tổng thể được
chủ thể nhận thức xác định để vươn tới tìm hiểu, khám phá và nắm bắt; bao gồm:
phạm vi, lĩnh vực, thuộc tính, đặc điểm, mối liên hệ, bản chất, quy luật.
- Lực lượng sản xuất và kết cấu của nó.
- Khái niệm: Lực lượng sản xuất là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ
các nhân tố vật chất kỹ thuật và các sức mạnh hiện thực của con người trong quá
trình tác động vào tư nhiên sản xuất ra của cải vật chất.
- Kết cấu của “Lực lượng sản xuất”
+ Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ các vật thể vật chất được con người sử
dụng trong quá trình sản xuất vật chất, bao gồm:
+ Tư liệu lao động: Những công cụ để dẫn truyền sự hoạt động của
con người. Nhưng phương tiện để chứa đựng hay bảo quản sản phẩm lao động.
+ Đối tượng lao động: Là bộ phận của giới tự nhiên nằm trong miền
con người sử dụng tư liệu lao động tác động vào, gồm loại sẵn có trong tự nhiên và
loại đã qua chế biến
+ Người lao động: Là chủ thể tiến hành quá trình sản xuất bao gồm:
* Khả năng lao động: Là khả năng hoạt động của chân tay, cơ bắp, trí óc.
* Nhu cầu lao động: Là nhu cầu tham gia vào hoạt động sản xuất với
tinh thần, trách nhiệm, lương tâm.
* Tri thức lao động: Là sự hiểu biết về chuyên môn và sự hướng dẫn
của sự hiểu biết đó trong quá trình thao tác các hoạt động.
* Kinh nghiệm lao động: Là thói quen, kỹ năng, kỹ xảo, thao tác hoạt
động.
- Vai trò của các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.

+ Vai trò của tư liệu sản xuất


* Tư liệu sản xuất là yếu tố cần thiết, tất yếu, không thể thiếu của sản
xuất. Không có tư liệu sản xuất thì con người không thể tiến hành sản xuất.
* Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động là hệ thống xương cốt, bắp thịt của sản xuất, là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa
các thời đại kinh tế.
+ Vai trò của người lao động

* Con người là chủ thể của quá trình sản xuất, vừa chế tạo, vừa sử
dụng công cụ lao động, vừa điều hành quá trình sản xuất.
* Con người làm cho tư liệu sản xuất trở thành có giá trị, có ý nghĩa.
* Sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất là nguồn gốc tạo
nên của cải vật chất của xã hội.
Lưu ý: Ngày nay sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở rộng thêm
thành phần cấu tạo của lực lượng sản xuất và càng làm cho khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cuộc cách mạng 4.0 đang
diễn ra hiện nay đã thực sự làm cho lực lượng sản xuất mở rộng thêm thành phần
cấu thành của nó.
- Quan hệ sản xuất và kết cấu của nó:
- Khái niệm: “Quan hệ sản xuất” là khái niệm triết học dùng để chỉ quan hệ
giữa người và người trong quá trình sản xuất.
- Kết cấu của Quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Là quan hệ giữa người và
người trong việc nắm giữ, chiếm giữ, định đoạt, quyết định sử dụng và tiêu dùng tư
liệu sản xuất.
+ Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất: Là quan hệ giữa người và người
trong việc bố trí, sắp xếp, vận hành và phân công sản xuất.
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động: Là quan hệ giữa người và
người trong việc phân chia sản phẩm lao động.
- Vai trò của các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất.
+ Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định
quan hệ về sở hữu quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về
phân phối sản phẩm lao động
Lưu ý: Trong lịch sử sở hữu về tư liệu sản xuất có 2 hình thức sở hữu là sở
hữu tư nhân và sở hữu xã hội (hay sở hữu công cộng)
+ Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm
lao động phụ thuộc vào quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
III. Nội dung lớn:
- Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa của nó
 Phân tích nội dung định nghĩa:
Thứ nhất, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với “vật
chất là toàn bộ thực tại khách quan”. Nó khái quát những thuộc tính cơ bản nhất, phổ
biến nhất của mọi dạng tồn tại của vật chất so với khái niệm vật chất được sử dụng
trong các khoa học chuyên ngành, hay nói cách khác là khác dùng để chỉ những dạng
vật chất cụ thể như: nước, lửa, không khí, nguyên tử, thịt bò…
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính là thuộc
tính tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại vận động và phát triển của nó không lệ
thuộc vào tâm tư, nguyện vọng, ý chí và nhận thức của con người cho dù con người
nhận thức được nó. Thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của
con người là điều kiện cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc về vật chất và cái gì không
thuộc về vật chất.
Thứ ba, vật chất ( dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó) là nguồn gốc khách
quan của cảm giác, ý thức; những cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến các giác quan của con người.
Thứ tư, trong định nghĩa này, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học .
Cụ thể là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau thể hiện ở câu“ được đem lại
cho con người trong cảm giác”; con người có khả năng nhận thức được thế giới thông
qua câu “ được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lê-nin khẳng
định bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều trình độ khác nhau con người tiến
hành nhận thức thế giới
Như vậy, vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được ý thức của con người phản ánh.
 Ý nghĩa định vật chất của V.I Lenin
Định nghĩa vật chất của Lenin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây:
Thứ nhất, bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với tư cách là phạm trù triết học và khái niệm vật chất với tư cách của khoa học
chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết
học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc
về vật chất.
Thứ hai, khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-nin đã giải
quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế giới khách
quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách
quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan
niệm duy vật về xã hội,về lịch sử
Ngoài ra, định nghĩa vật chất của Lenin còn chống lại tất cả các loại quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm về phạm trù vật chất. Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực
quan, siêu hình, máy móc và những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất
của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa này cũng đã giải quyết được
sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học và khoa học theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình Khẳng định thế giới vật chất khách quan là
vô cùng, vô tận, luôn vận động và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ,
động viên các nhà khoa học đi sau nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu
mới, những thuộc tính. mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong
phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
- Phân tích quan điểm về vận động của CNDVBC và ý nghĩa của

Theo quan điểm biện chứng, vận động là thuộc tính của vật chất; mọi sự vật trong thế
giới vật chất đều luôn luôn vận động; thay đổi về vị trí trong không gian là hình thức
cơ bản nhất của vận động; để xác định một sự vật có thay đổi về vị trí hay không thì
phải xem xét nó trong quan hệ với một sự vật khác; phương thức của vận động là
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại; khuynh hướng của vận động là phủ định của phủ định; nguyên nhân của vận động
là thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Quan điểm biện chứng về vận động là
cơ sở lý luận đúng đắn cho việc nhận thức các vấn đề khoa học cụ thể.

Vận động là một khái niệm cơ bản của triết học, liên quan mật thiết với các khái niệm
triết học khác. Quan điểm về vận động có thể là duy vật hay duy tâm, biện chứng hay
siêu hình. Quan điểm duy vật biện chứng về vận động là đúng đắn và có nội dung sâu
sắc. Quan điểm đó đã được trình bày trong các sách giáo khoa về triết học Mác - Lênin.
Tuy nhiên, cách hiểu quan điểm biện chứng về vận động (nhất là quan điểm về phương
thức, khuynh hướng và nguyên nhân của vận động) còn chưa có sự thống nhất; cách trình
bày quan điểm biện chứng về vận động còn thiếu tính khái quát, thiếu rõ ràng. Bài viết
này góp thêm ý kiến về cách hiểu và cách trình bày đối với quan điểm biện chứng về vận
động.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia
vận động thành 5 hình thức cơ bản. Các hình thức của vận động là:
+ Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt điện, v.v..
+ Vận động hóa học là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân
giải các chất.
+ Vận động sinh học là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
+ Vận động xã hội là sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái
kinh tế – xã hội.
Ý nghĩa vận động:……………………..
- Phân tích mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của
mối quan hệ này?

*mối quan hệ
Thứ nhất:Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức. Trong lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội
có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:

– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã
hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.

– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay
đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.

Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức
xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc
biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống ,tập quán ,thói quen.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:-

– Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thườngxuyên và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà
ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội
là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của
tồn tại xã hội.

– Do sức mạnh của thói quen truyền thống ,tập quán cũng như dotính lạc hậu ,bảo
thủ của một số hình thái xã hội.
– Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tập đoàn
người ,những giaii cấp nhất định trong xã hội..

Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư
tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo
được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con
người ,hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa
vai trò của ý thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ
nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống
xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những
điều kiện lịch sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư
tưởng nảy sinh.
*ý nghĩa
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vây, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi mới phải được
tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý
thức xã hội. Quán triêt nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát
huy vai trò tác động tích cực của đời sống xã hội tinh thần xã hội đối với quá trình
phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước
- Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và
trình độ của LLSX và ý nghĩa của quy luật này
*Các khái niệm:
-Lực lượng sản xuất: là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất vật chất,
là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến
giới tự nhiên
theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người.
-Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm:
+Trong các nguyên tố thuộc về người lao động (năng lực, kỹ năng, tri thức,…)
+Các tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, công cụ lao động, tư liệu phụ trợ,…)
-Quan hệ sản xuất: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
vật chất.
-Kết cấu của quan hệ sản xuất:
+Quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất.
+Quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất.
+Quan hệ trong phân phối, kết quả của quá trình sản xuất.
-Trình độ của llsx thể hiện khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
*Nội dung quy luật:
-LLSX quy định QHSX: llsx và qhsx là hai mặt của phương thức sx nhưng trong
đó llsx là mặt
động, thường xuyên biến dổi, còn qhsx mang tính bảo thủ, trì trệ hơn, thể hiện con
người luôn cảitiến công cụ để giảm lao động, thời gian, tăng năng suất, cclđ là yếu
tố động nhất trong llsx=> cclđ
thay đổi-> qhsx thay đổi và thể hiện sx ngày càng mang tích chất xã hội hóa cao.
-QHSX tác động trở lại LLSX: qhsx giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của llsx, qhsx là
sự phản ánh llsx nhưng chính nó lại quy định mục đích, hệ thống sx và quản lý xã
hội. Bởi vậy,
nếu qhsx phù hợp với tính chất và trình độ của llsx thì nó sẽ thức đẩy, tạo điều kiện
cho llsx phát
triển, còn nếu ko phù hợp thì cản trở llsx phát triển
- Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan
và rút ra ý nghĩa
Khái niệm: Nhận thức được định nghĩa cơ bản chính là một quá trình phản ánh
tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên
cơ sở của thực tiễn, nhằm mục đích để có thể thông qua đó sáng tạo ra những tri
thức về thế giới khách quan đó.
Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức:

Triết học Mác – Lênin, nhận thức thực chất không phải là sự phản ánh thụ động,
giản đơn, mà nhận thức là một quá trình biện chứng.

Theo Lênin có đưa ra quan điểm cụ thể như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.

Như vậy, ta nhận thấy, con đường biện chứng của quá trình nhận thức thực chất sẽ
bao gồm hai khâu sau:

– Nhận thức cảm tính bao gồm: Cảm giác; Tri giác; Biểu tượng. Cụ thể như sau:
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) được hiểu cơ bản chính là những tri thức
do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn nhận thức cảm tính
(trực quan sinh động) là nhận thức sẽ được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với
thực tiễn thông qua các nấc thang cụ thể như là cảm giác, tri giác, biểu tượng. Các
thành phần của nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) cụ thể như sau:

+ Cảm giác được hiểu cơ bản chính là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp
của các sự vật, hiện tượng lên các giác quan cụ thể của con người. Cảm giác phản
ánh đến từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện
tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác đó chính là thế giới khách quan, còn
bản chất của cảm giác thì đó lại là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.

+ Tri giác được hiểu cơ bản chính là sự tổng hợp của nhiều cảm giác riêng biệt vào
một mối liên hệ có tính thống nhất và cũng từ đó mà đã tạo nên một hình ảnh
tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.

+ Biểu tượng thì sẽ được hình thành dựa vào sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn
nhau của các giác quan và quá trình này cũng đã có sự tham gia của các yếu tố cụ
thể như: phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Thực
chất thì ta nhận thấy rằng, đây cũng chính là nấc thang cao và có tính chất phức tạp
nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính. Đây cũng chính là hình ảnh cảm tính tương
đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng và nó được lưu lại trong não người và bởi vì
có các tác động nào đó được tái hiện lại khi các sự vật, hiện tượng không còn nằm
trong tầm cảm tính.

Trong biểu tượng thì cũng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và
với biểu tượng, con người cũng đã có thể hình dung được cơ bản về sự khác nhau
và mâu thuẫn nhưng con người về căn bản vẫn chưa nắm được sự chuyển hóa từ sự
vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.

– Nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận.

Ta nhận thấy rằng, nhận thức lý tính sẽ bắt nguồn từ trực quan sinh động và nhận
thức lý tính cũng sẽ bắt nguồn từ những lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính cũng
đã góp phần có thể phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận
thức. Cụ thể về các thành phần của nhận thức lý tính bao gồm:

+ Khái niệm được hiểu cơ bản chính là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng.
Khái niệm thực chất sẽ vừa có tính khách quan, bên cạnh đó thì nó lại vừa có tính
chủ quan khi thực hiện phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính
bản chất và chung nhất của các sự vật, hiện tượng dựa vào sự tổng hợp, khái quát
biện chứng những thông tin mà nó đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông
qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.

+ Phán đoán được hiểu cơ bản chính là hình thức tư duy thực hiện việc liên kết các
khái niệm lại với nhau để nhằm mục đích có thể khẳng định hoặc phủ định một đặc
điểm, một thuộc tính cụ thể nào đó của sự vật, hiện tượng; phán đoán cũng chính là
hình thức được sử dụng để có thể phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là
hình thức biểu hiện và giúp có thể diễn đạt các quy luật khách quan.

+ Suy luận (suy lý) được hiểu cơ bản chính là hình thức của tư duy thực hiện việc
liên kết các phán đoán lại với nhau để nhằm mục đích có thể thông qua đó rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán
tiên đề. Suy luận trong thực tế hiện nay có vai trò quan trọng trong tư duy trừu
tượng, bởi thực chất thì suy luận đã giúp thể hiện quá trình vận động của tư duy đi
từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết.
Ý nghĩa:

- Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập, trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các
mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng
buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu
tranh lẫn nhau.

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ những xung khắc, đối
chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều
nhau đến một mức nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu
hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.

Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:

Kể từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dụng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực
hiện nề kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này
được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ
nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng
nhanh chóng bãi bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về
kinh tế, xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn còn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn
tồn tại.

Thứ ba: tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt dối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):

Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả sự vật, hiện tượng đó lại luôn tồn tại
mối liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có
tính khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.

Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến
nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh
vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật hiện tượng không chỉ có một mức độ nào
đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đạt đến một mức độ nào đó thì
mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn
mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động
và phát triển.

Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:

Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường vận động
theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế
nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể
giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình khó khăn, phức
tạp, nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của
nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế,
xã hội.

Hiện nay, cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn mới hình
thành nên còn đang thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh
doanh thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả
phương diện kinh tế - xã hội dường như đang rất phổ biên, rất đặc trưng cho các
quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá
nhiều mâu thuẫn nội tại.
- Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng và ý nghĩa của

*nội dung
Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình
qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.

Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của
bản chất đối tượng.

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái này
khổng thể tồn tại thiếu cái kia. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù
hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng
và sự thống nhất đó được thê hiện ở chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện tượng còn
hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất; bản chất “được ánh lên” nhờ hiện
tượng (Hêghen).

Tuy vậy, “nếu hình thái biểu hiện và bản chất sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau,
thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa” [C.Mác, Tư bản, Tập 3: Toàn bộ quá trình sản
xuất tư bàn nghĩa, Phần thứ 2, C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t. 25, phần
II, tr.540.]; trong những điều kiện nhất định, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị
cải biến, xuyên tạc những yếu tố thực sự của bản chất bằng cách bổ sung vào hay
bớt đi từ bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể và các mối liên hệ
ngẫu nhiên quy định, làm hiện tượng phong phú hay nghèo nàn hơn bản chất.
Nhưng bản chất luôn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện tượng
“động” hơn, thường xuyên biến đổi. V.I. Lênin viết, “không phải chỉ riêng hiện
tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có
tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế”

Bản chất gắn bó chặt chẽ với cái phổ biến (là một trong số những mối liên hệ cơ
bản nhất tạo thành cơ sở cho sự thống nhất về một hệ thống chỉnh thể tất cả các cái
riêng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu chuỗi tất cả chúng về một mối), phản ánh cái
chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng;
còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, cái đơn nhất. Bản chất cũng là tính quy luật,
bởi nói đến bản chất là nói đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Từ đây, có thể hiểu không phải ngẫu nhiên mà V.I.
Lênin nhấn mạnh về tính cùng cấp độ, có thể dùng lẫn cho nhau của cảc phạm trù
“Quy luật”, “Bản chất” và “Cái phổ biến”.
*ý nghĩa
Thứ nhất, bản chất chỉ thể hiện mình thông qua hiện tượng và hiện tượng lại
thường biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến nên trong mọi hoạt động,
không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần đi sâu vào bên
trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình sau hiện tượng; dựa
vào các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.

Thứ hai, bản chất là sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất nhiên vốn có
của sự vật, hiện tượng, bản chất là địa bàn thống lĩnh của các mâu thuẫn biện
chứng và chúng được giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự biến đổi của
bản chất, tạo ra sự chuyển hóa của đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các
phương pháp đã được áp dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bang
các phương pháp khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng.
- Phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả và ý nghĩa của

*Khái niệm:
-Nguyên nhân: phạm trù chỉ là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong 1 sự vật
hoặc giữa các sự
vật với nhau gây ra 1 biến đổi nhất định nào đó.
-Kết quả: là những biến đổi do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong 1 sự vật hoặc
giữa các sự vật
với nhau gây ra.
Ví dụ: sự tác động của dòng điện lên dây dẫn (nguyên nhân) khiến cho dây dẫn
nóng lên (kết quả)*Tính chất của mối quan hệ nhân quả:
-Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không
tồn tại ý thức con
người.
-Tính phổ biến: với mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên
nhân nhất định
gây ra, dù nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa.
-Tính tất yếu: với 1 nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện nhất định sẽ gây
ra kết quả
tương ứng với nó.
*Mối quan hệ biện chứng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối
quan hệ qua
lại như sau:
-Nguyên nhân sản sinh ra kết quả: Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên
nhân luôn có
trước kết quả. Tuy nhiên, không phải mọi sự nối tiếp nhau nào về mặt thời gian
cũng là mối liên
hệ nhân quả. Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả diễn ra rất phức tạp:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Nếu những nguyên nhân tác
động cùng chiều
có thể dẫn đến hình thành kết quả nhanh chóng. Nếu những nguyên nhân tác động
ngược chiều thì
có thể hạn chế hoặc triệt tiêu việc hình thành kết quả.
-Kết quả tác động trở lại nguyên nhân theo hai hướng: thúc đẩy sự vận động của
nguyên nhân
(hướng tích cưc) hoặc cản trở sự vận động của nguyên nhân (hướng tiêu cực)
-Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Một sự vật hiện tượng nào
đó trong mối
liên hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác lại là kết quả và ngược
lại. Chuỗi nhân
quả là vô cùng, không có bắt đầu và kết thúc. Một hiện tượng được xem là nguyên
nhân hay kết
quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể,
Vd: hoạt động của con người là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới
sự biến đổi của
môi trường sống trên trái đất, song chính những biến đổi theo chiều hướng không
tốt hiện của môi
trường lại trở thành nguyên nhân tác động trở lại theo chiều hướng bất thuận lợi
cho hoạt động
sống của con người.
*Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải bắt đầu từ việc đi tìm những nguyên
nhân xuất hiện
sự vật hiện tượng.
-Cần phải phân loại các nguyên nhân để có biện pháp giải quyết đúng đắn.-Phải tận
dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác
dụng,
nhằm mục tính đã đề ra.
- Phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận
của nó
*nội dung
a) Định nghĩa về mối liên hệ
Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt
nhau hay có liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau? Nếu có thì cơ sở nào đảm bảo cho
sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó?

+ Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong
thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau, cái này nằm cạnh cái kia, không có sự liên hệ
lẫn nhau; còn nếu giả sử có sự liên hệ thì đó chỉ là sự liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt,
bề ngoài; và nếu có nhiều mối liên hệ thì bản thân từng mối liên hệ lại cô lập lẫn
nhau.

+ Quan điểm biện chứng cho rằng mối liên hệ là sự tác động qua lại, ràng buộc lẫn
nhau mà sự thay đổi cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia. Đối lập với sự
liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại nhưng sự thay đổi
cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia. Các sự vật, hiện tượng, quá
trình khác nhau trong thế giới vừa tách biệt nhau vừa liên hệ ràng buộc, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau; thế giới là một hệ thống chỉnh thể thống nhất mà mọi yếu tố,
bộ phận của nó luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Tuy nhiên, có hai loại
quan điểm biện chứng.

– Quan điểm biện chứng duy tâm cố tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn
nhau đó ở trong các lực lượng siêu tự nhiên hay cảm giác, ý thức con người.

– Quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng
buộc lẫn nhau đó ở trong vật chất, và mối liên hệ mang tính khách quan – tức tồn
tại không phụ thuộc vào ý thức và nhận thức của con người, và mang tính phổ biến
– tức tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực.

b) Phân loại mối liên hệ

Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới rất đa
dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất quy định tính đa dạng của mối liên
hệ; và các hình thức, kiểu liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tùy theo cơ sở phân chia
mà mối liên hệ được chia thành:

– Liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp.


– Liên hệ bản chất và liên hệ không bản chất.
– Liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên.
– Liên hệ đồng đại (không gian) và liên hệ lịch đại (thời gian) v.v..
Dù mọi cách phân chia đều tương đối, nhưng phép biện chứng duy vật rất quan
tâm đến việc chia mối liên hệ dựa trên vai trò và phạm vi tác động của bản thân
chúng.

+ Nếu dựa trên vai trò tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật thì mối
liên hệ được chia thành mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Mối liên hệ
bên trong là sự tác động qua lại làm thay đổi các yếu tố, bộ phận, thuộc tính, các
mặt khác nhau tạo thành bản thân sự vật, và quyết định sự vận động, phát triển của
bản thân sự vật đó. Mối liên hệ bên ngoài là sự tác động qua lại làm thay đổi các sự
vật hiện tượng khác nhau, nhưng nói chung, nó không giữ vai trò quyết định. Mối
liên hệ bên ngoài chỉ phát huy tác dụng của mình đối với sự vận động và phát triển
của bản thân sự vật khi nó tác động thông qua các mối liên hệ bên trong, và trong
một số trường hợp đặc biệt nó có thể giữ vai trò quyết định.

+ Nếu dựa trên phạm vi tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật thì
mối liên hệ được chia thành mối liên hệ riêng, mối liên hệ chung và mối liên hệ
phổ biến. Mối liên hệ riêng là mối liên hệ giữa hai sự vật, hiện tượng hay là mối
liên hệ tồn tại trong một lĩnh vực hiện thực xác định; nó là đối tượng nghiên cứu
của các khoa học chuyên ngành nhằm phát hiện ra các quy luật riêng chi phối sự
tồn tại, vận động và phát triển của các hiện tượng trong lĩnh vực hiện thực đó. Mối
liên hệ chung là mối liên hệ giữa nhiều sự vật hiện tượng hay là mối liên hệ tồn tại
trong nhiều lĩnh vực hiện thực; nó là đối tượng nghiên cứu của các khoa học liên
ngành nhằm phát hiện ra các quy luật chung chi phối sự tồn tại, vận động và phát
triển của các hiện tượng trong các lĩnh vực hiện thực đó. Mối liên hệ phổ biến là
mối liên hệ giữa các mặt, các thuộc tính đối lập tồn tại trong mọi sự vật, hiện
tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực; nó được nhận thức trong các (cặp) phạm trù
biện chứng và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật nhằm phát
hiện ra các quy luật phổ biến chi phối một cách tổng quát sự tồn tại, vận động và
phát triển của các sự vật, hiện tượng, quá trình xảy ra trong thế giới – cả hiện thực
khách quan lẫn hiện thực chủ quan.

c) Tóm tắt nội dung nguyên lý

Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của mối liên hệ xảy ra trong các lĩnh vực
khác nhau của thế giới, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được phát biểu như sau:
Một là, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn
mối liên hệ ràng buộc qua lại lẫn nhau.

Hai là, trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của sự vật, hiện tượng, quá
trình trong thế giới có mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách
quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự vận động và phát triển của mọi
sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên tắc này yêu cầu:

+ Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan:
Một là, tìm hiểu để phát hiện càng nhiều càng tốt những mối liên hệ chi phối đối
tượng nhận thức.

Hai là, phân loại để xác định trong các mối liên hệ đã được phát hiện ra thì mối
liên hệ nào là liên hệ bên trong, liên hệ cơ bản, liên hệ tất nhiên, liên hệ ổn định…
Dựa trên những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định… đó để lý giải
được những mối liên hệ còn lại.

Ba là, xây dựng được hình ảnh chỉnh thể trong tư duy về đối tượng nhận thức như
sự thống nhất các mối liên hệ trên. Từ đó phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật,
nghĩa là bản chất của đối tượng nhận thức.

+ Trong hoạt động thực tiễn, khi biến đổi đối tượng chủ thể phải:

Một là, chú trọng đến mọi mối liên hệ, và đánh giá đúng vai trò vị trí của từng mối
liên hệ đang chi phối đối tượng.

Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích
hợp để biến đổi những mối liên hệ đó, đặc biệt là những mối liên hệ bên trong, cơ
bản, tất nhiên, quan trọng…

Ba là, nắm vững sự chuyển hóa của các mối liên hệ để kịp thời đưa ra các biện
pháp bổ sung nhằm phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, và lèo lái sự vận
động, phát triển của đối tượng đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.

Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện nhưng nó cũng xa
lạ với cách xem xét dàn trải, liệt kê chung chung. Nó đòi hỏi phải biết kết hợp
nhuần nhuyễn “chính sách dàn đều” với “chính sách có trọng điểm”. Quan điểm
toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và chủ nghĩa nguỵ biện.
- Phân tích bản chất của ý thức và ý nghĩa của nó
Ý thức, nói một cách đơn giản nhất, là sự gửi gắm hay nhận thức về sự tồn tại bên
trong và bên ngoài. Bất chấp hàng thiên niên kỷ phân tích, định nghĩa, giải thích và
tranh luận của các triết gia và nhà khoa học, ý thức vẫn còn là điều khó hiểu và gây
tranh cãi, là “khía cạnh quen thuộc nhất và [cũng] bí ẩn nhất trong cuộc sống của
chúng ta”. Có lẽ khái niệm duy nhất được đồng ý rộng rãi về chủ đề này là trực
giác rằng ý thức tồn tại.

Các ý kiến khác nhau về những gì chính xác cần được nghiên cứu và giải thích là ý
thức. Đôi khi, nó đồng nghĩa với tâm trí, và những lúc khác, một khía cạnh của tâm
trí. Trong quá khứ, đó là “cuộc sống bên trong” của một người, thế giới của nội
tâm, của suy nghĩ, trí tưởng tượng và hành động riêng tư. Ngày nay, nó thường bao
gồm bất kỳ loại nhận thức, kinh nghiệm, cảm giác hoặc nhận thức nào.

Nó có thể là nhận thức, nhận thức về nhận thức, hoặc nhận thức về bản thân liên
tục thay đổi hoặc không. Có thể có các cấp độ hoặc trật tự ý thức khác nhau, hoặc
các loại ý thức khác nhau, hoặc chỉ một loại với các tính năng khác nhau. Các câu
hỏi khác bao gồm liệu chỉ con người có ý thức, tất cả các loài động vật, hay thậm
chí toàn bộ vũ trụ. Phạm vi nghiên cứu, quan niệm và suy đoán khác nhau làm dấy
lên nghi ngờ về việc liệu có đúng câu hỏi được đặt ra hay không

Đối với bản chất của ý thức đã được nhận định bằng nhiều ý kiến và quan điểm
khác nhau, và chưa có nhận định chung về bản chất của ý thức.

Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật
chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.

Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức
là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản
ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”.
Do đó, để hiểu về bản chất của ý thức cần dựa trên các yếu tố sau:

– Thứ nhất, vât chất và ý thức được chúng ta thừa nhận nhưng giữa chúng có sự
khác nhau mang tính đối lập. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức là
sự phản ánh, là cái phản ánh. Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Trong khi đó, vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc
lập với ý thức.

+Thứ hai, những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đó chính là ý thứ.

+ Thứ ba ý thức là một hiện tượng xã hội

You might also like