Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 2 So sánh quy trình tố tụng hình sự và tố tụng dân sự
Nhóm 2 So sánh quy trình tố tụng hình sự và tố tụng dân sự
TIỂU LUẬN
MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Tỉ lệ
Stt MSSV Họ và tên đóng Kí tên Ghi chú
góp
(%)
BUỔI 1:
- Thời gian: 12h00, ngày 12/01/2024.
- Địa điểm: phòng học B3.03 trường Đại học Công Nghiệp TPHCM.
- Nội dung:
+ Thành lập nhóm, tạo nhóm Zalo.
1
+ Bầu ra nhóm trưởng.
+ Xây dựng nội quy và quy chế của nhóm.
+ Bàn và chọn ra đề tài có tính khả thi cho bài làm của nhóm.
- Thành viên tham gia: 6 Tỷ lệ tham gia: 100%
- Thành viên vắng mặt: 0 Tỷ lệ vắng mặt: 0%
- Kết quả: Sau quá trình bàn bạc, nhóm thống nhất quyết định:
+ Trưởng nhóm: Lê Hạnh Nguyên.
+ Đề tài: so sánh quy trình Tố tụng hình sự và quy trình Tố
tụng dân sự.
+ Nội quy:
Các thành viên phải hoàn thành 100% và
đúng hạn các nhiệm vụ được giao.
3
Thời hạn Tỷ lệ
Stt MSSV Họ và tên Nội dung hoàn hoàn
thành thành
(%)
- Soạn nội dung phần kết
thúc.
1 23718881 Lê Hạnh Nguyên - Làm tiểu luận.
- Làm powerpoint. 100%
- Thuyết trình.
-Soạn nội dung phần
2 23716201 Nguyễn Thị Âu 1.1+1.2. 100%
- Thuyết trình.
- Soạn nội dung phần mở
3 23718171 Thái Thị Minh Anh đầu. 100%
- Thuyết trình.
- Soạn nội dung phần 3.2.
- Làm tiểu luận.
4 23720351 Nguyễn Vĩnh Bảo Trân - Làm powperpoint. 100%
- Thuyết trình.
4
- Cuộc họp kết thúc lúc: 15h00, cùng ngày.
BUỔI 3:
- Thời gian: 20h00, ngày 26/02/2024.
- Địa điểm: GoogleMeet
- Nội dung: Các thành viên cùng nhau góp ý, sửa đổi bài tiểu luận.
- Thành viên tham gia: 6 Tỷ lệ tham gia: 100%
- Thành viên vắng mặt: 0 Tỷ lệ vắng mặt: 0%
- Kết quả: Sau quá trình bàn bạc, nhóm nhận xét: Mỗi thành viên đều hoàn
thành xuất sắc phần công việc của mình, tuy nhiên vẫn có vài lỗi nhỏ và sai
phần kiến thức và đã được sữa chữa khắc phục.
- Cuộc họp kết thúc lúc: 22h00, cùng ngày.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 1 năm 2024.
NHÓM TRƯỞNG
LÊ HẠNH NGUYÊN
5
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật khác nhau, trong đó
Luật tố tụng là một ngành luật quan trọng, đảm bảo cho việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ tố tụng của các bên tham gia tố tụng, góp phần bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Hai lĩnh
vực quan trọng trong luật tố tụng là tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Việc so
sánh quy trình tố tụng hình sự và quy trình tố tụng dân sự giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về đặc điểm, tính chất của từng loại tố tụng, từ đó áp dụng đúng đắn
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án phù hợp, hiệu quả. Phân tích so
sánh hai quy trình tố tụng có thể giúp phát hiện những bất cập, thiếu sót trong
hệ thống pháp luật hiện hành, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan nhà nước.Nhận thức đúng đắn và đầy đủ những vấn đề nêu trên là việc
làm có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện Tố tụng hình sự và Tố tụng
dân sự ở nước ta. Đó là lý do của việc lựa chọn đề tài “So sánh quy trình Tố
tụng hình sự và quy trình Tố tụng dân sự”.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Phân tích quy trình Tố tụng hình sự và Tố tụng dân sự. So sánh quy trình Tố
tụng hình sự và quy trình Tố tụng dân sự giúp người đọc hiểu rõ hơn về bản
chất, đặc điểm, nguyên tắc và các bước tiến hành của từng loại tố tụng. Việc
so sánh giúp làm rõ những điểm chung và khác biệt giữa hai quy trình, từ đó
góp phần hoàn thiện hơn về Tố tụng hình sự và Tố tụng dân sự.
b. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các quy trình TTHS và quy trình TTDS trên cơ
sở lý luận và thực trạng của pháp luật hiện hành dựa theo Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2021) và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2019, 2020, 2022).
c. Phạm vi nghiên cứu
Quy trình TTHS được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi,
bổ sung 2021) và quy trình TTDS được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019, 2020, 2022). Tập trung vào các điểm
khác biệt cơ bản giữa hai nhánh tố tụng trong lĩnh vực TTHS và TTDS.
d. Danh mục các ký hiệu viết tắt
Ký hiệu Chữ viết đầy đủ
TTHS Tố tụng Hình sự
TTDS Tố tụng Dân sự
6
II. NỘI DUNG
7
bảo, bao gồm quyền được sự hỗ trợ từ luật sư hoặc đại diện pháp lý để bảo vệ
quyền lợi của mình trong quá trình tố tụng.
8
- Người giám định là người có kiến thức khoa học cần thiết về lĩnh vực cần
giám định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp
luật (Theo điều 60 BỘ LUẬT TTHS).
- Người phiên dịch là người được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia
tố tụng nhằm bảo đảm nguyên tắc tiếng nói, chữ viết theo quy định của luật tố
tụng hình sự (Theo điều 61 BỘ LUẬT TTHS).
c.Người tham gia tố tụng để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố
tụng khác
- Người bào chữa là người tham gia tố tụng để làm sáng tỏ những tình tiết của
vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp họ những hoạt động pháp lý cần thiết
(Theo điều 56 BỘ LUẬT TTHS).
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tố tụng (có thể là
luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác) có kiến thức pháp lý cần
thiết để bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Theo điều 59 BỘ LUẬT
TTHS).
1.3.2. Quy trình tố tụng
Bước 1: Khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
tiến hành xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về
việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định rõ việc xác định dấu hiệu
tội phạm dựa trên 6 căn cứ: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ
chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi
tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp
phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú.
Căn cứ vào điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2021), chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các
điều sau đây: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác (Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết khi
bắt giữ người phạm tội (Điều 136); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe của người khác (Điều 138); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn
9
hại sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính; Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội cưỡng dâm (Điều 143); Tội làm
nhục người khác (Điều 155); Tội vu khống (Điều 156) của Bộ luật Hình sự
khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Với tính chất là một giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các
tiền đề pháp luật về nội dung và về pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ
án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những
thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết
định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành
vi đó.
Khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với
mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có
căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội, đồng thời
không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự, mà còn là
phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm
trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra
vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các
biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và
người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Thời điểm của giai đoạn này được bắt
đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết
10
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết
định của cơ quan điều tra về việc đề nghị Viện Kiểm sát truy tố bị can trước
Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự theo quy định tại Điều 163 BỘ LUẬT
TTHS bao gồm:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ
những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân
đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp,
tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương
XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội
là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan
thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
- Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm
xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều
nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc
điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị
can cư trú hoặc bị bắt.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là: xác định tội phạm và người thực hiện tội
phạm; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra; xác định nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa.
Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình
sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội
nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là
một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh
khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ
lọt tội phạm.
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện Kiểm sát nhận được các tài liệu của
vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do cơ quan
điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện Kiểm sát ra một trong ba loại
quyết định sau:
1) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng),
2) Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung
3) Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Nếu xét thấy đủ điều kiện để tiến hành truy tố bị can, Viện kiểm sát sẽ quyết
định truy tố bị can trước Tòa bằng bản cáo trạng theo Điều 243 Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015:
Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định
hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất,
mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm
giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến
hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
12
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ
luật Hình sự được áp dụng.
Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng, họ tên, chức vụ và
chữ ký của người ra bản cáo trạng.
Truy tố là chức năng quan trọng của Viện Kiểm sát nhằm áp dụng các biện
pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn
bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng; để loại
trừ những hậu quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt
trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước đó.
Quyết định truy tố của Viện Kiểm sát thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt
động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận
điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện
tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử
của Tòa án, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy
ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh
bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội.
Bước 4: Xét xử
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động
tố tụng hình sự; trong đó, cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị
cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem
xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và
dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội
phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ
án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên
và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra
tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị
kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực
pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và
đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Căn cứ vào Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chế
độ xét xử sơ thẩm: Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.Bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
13
của luật tố tụng. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn do luật định thì có hiệu lực pháp luật.
Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp
luật. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có
vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì
được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Giai đoạn xét xử có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định để:
1) áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án
tại phiên tòa, 2) Xét xử theo thủ tục sơ thẩm (hoặc xét xử theo thủ tục phúc
thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị, hoặc kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản
án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật – nếu bị kháng nghị) và cuối cùng,
3) tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
1. Xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm được hiểu là việc giải quyết một vụ án lần đầu theo thẩm
quyền xét xử tuỳ từng tính chất, mức độ, lĩnh vực vi phạm khác nhau mà
thẩm quyền giải quyết của tòa án cũng khác nhau.
Là giai đoạn Tòa án thực hiện xét xử trên cơ sở kết quả của quá trình điều tra,
bản cáo trạng của Viện kiểm sát, tranh tụng tại tòa. Quá trình xét xử đều sẽ
thực hiện theo nguyên tắc xét xử trực tiếp bằng lời nói, liên tục. Chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh do Viện kiểm sát truy tố và Tòa
án quyết định đưa ra xét xử. Khi kết thúc, hội đồng xét xử cũng sẽ đưa ra bản
án hoặc các quyết định theo đúng quy định của pháp luật.
hẩm quyền xét xử của tòa án các cấp
a. Thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện
TADN cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,
283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình
sự;
- Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
(khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)
14
b. Thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh
TADN cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án:
- Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của TADN cấp
huyện và Tòa án quân sự khu vực;
- Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên
quan đến vụ án ở nước ngoài;
- Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của TADN cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực nhưng thuộc trường hợp:
+ Có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc
liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành;
+ Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy
tín cao trong dân tộc ít người.
(khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)
+ Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì
tùy trường hợp, Chánh án TADN tối cao ra quyết định giao cho TADN thành
phố Hà Nội hoặc TADN thành phố Hồ Chí Minh hoặc TADN thành phố Đà
Nẵng xét xử.
+ Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự thì Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án
Tòa án quân sự trung ương.
Bên cạnh đó, căn cứ theo Điều 270 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì: Tội
phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải của Việt
Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến
cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
15
d. Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
Căn cứ Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự như sau:
- Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử:
+ Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên
chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc
kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập
trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu,
phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào
phục vụ trong Quân đội nhân dân;
+ Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng trên (điểm a khoản 1 Điều
272 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015) liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ,
công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây
thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội
trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản
lý, bảo vệ.
- Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn
thiết quân luật.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án
do Viện kiểm sát chuyển sang (Điều 276 Bộ luật Tố tụng Hình sự).
Trình tự xét xử tại phiên tòa bao gồm:
- Khai mạc
- Xét hỏi
- Tranh luận trước tòa
- Nghị án và tuyên án.
Quá trình xét xử được thực hiện theo nguyên tắc xét xử trực tiếp bằng lời nói
và liên tục, chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà viện
kiểm sát truy tố và Tòa án đã có quyết định đưa ra xét xử.
Khi kết thúc hội đồng xét xử ra bản án hoặc các quyết định
16
phúc thẩm trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng
cáo, kháng nghị.
Theo điều 330 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về tính chất của xét xử phúc
thẩm
1. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét
lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
2. Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị
cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của
Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Theo điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Người có quyền kháng cáo bao
gồm
1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết
định sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng
cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có
quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới
18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng
cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
người mà mình bảo vệ.
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ
mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.”
Quyền kháng nghị thuộc về Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên của
Tòa án sơ thẩm. (điều 336 Bô luật Tố tụng Hình sự 2015)
Khi xét xử Hội đồng xét xử chỉ xử lại những phần bị kháng cáo, kháng nghị
trong bản án của tòa sơ thẩm, nhưng trên cơ sở xem xét toàn bộ vụ án.
Tòa phúc thẩm có thể ra một trong các quyết định sau: bác kháng cáo, kháng
nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa án sơ thẩm; hủy án sơ thẩm để điều tra
hoặc xét xử lại; hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
17
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm được giao cho cấp cao hơn xét xử lại bản án bị
kháng cáo, kháng nghị của cấp dưới và được quy định rõ ràng tại Điều 344
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ
bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án,
quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.
4. Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết
định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.
Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá
trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật
định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà
cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình
sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai
lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó
(khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.
Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thông qua quá trình điều tra trực tiếp
tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của các bên,
Tòa án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách
toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự
để giải quyết về bản chất nó – phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay
không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra
tính hợp pháp và của bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu
bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị), nhằm đạt mục
đích trong toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự là tuyên một bản án (quyết
định) có hiệu lực pháp luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ
và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.
18
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra
quyết định. Việc thực hiện sẽ giao cho cơ quan thi hành án hình sự thực hiện.
Căn cứ Điều 364 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành
án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành
án.
2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết
định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết
định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải
ra quyết định thi hành án.
3. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành
án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết
định, người đó phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện để thi hành án.
Bước 7: Xét lại các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
Giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự là xét lại các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm.
Để bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong
trường hợp các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà
phát hiện ra sai lầm về pháp luật thì được xử lại theo trình tự giám đốc thẩm
(điều 370 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)
Phát hiện ra các tình tiết mới làm thay đổi tính chất của vụ án thì được xét xử
lại theo trình tự tái thẩm.(điều 397 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)
- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Người yêu cầu giải quyết việc dân sự
là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp
lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
20
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Là người tuy không yêu cầu giải
quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc
dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Người làm chứng: Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ việc
được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người
làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm
chứng.
- Người giám định: Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần
thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà
Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định theo quy
định tại Điều 102 của Bộ luật này.
- Người phiên dịch: Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn
ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố
tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được một bên đương
sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn và được Tòa án chấp
nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên dịch.
- Người đại diện: Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện
theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá
nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:
a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc
nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú
của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân
đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;
21
b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp
pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án.
Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên,
địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối
đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;
c) Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này là
người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm
đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ
người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân
sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.
3. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện
vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ
quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ
chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải
ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là
doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp.
4. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;
c) Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của
người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử
(nếu có).
Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;
d) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá
nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ
chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
đ) Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của
người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử
(nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị
kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của
người bị kiện;
e) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá
nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ
chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở
cuối cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
g) Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề
cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan;
22
h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
i) Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
5. Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách
quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện
bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa
án trong quá trình giải quyết vụ án.
Tại khoản 1 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định người khởi
kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
23
Bước 3: Thụ lý vụ án
24
- Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
+ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không
phù hợp với ý chí của mình;
+ Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết
theo thủ tục rút gọn;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng
trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
25
c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
4. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa
án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02
tháng.
Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án, trường hợp các bên đương sự không đồng ý
với bản án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên thì có quyền nộp đơn kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại nội dung bản án.
Thời hạn các bên kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, trường hợp
đương sự vắng mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời gian 15 ngày
được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được tuyên án.
Nếu quá thời hạn 15 ngày các đương sự không kháng cáo thì bản án sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật, Tòa án không giải quyết kháng cáo mà các đương sự
phải nộp đơn kháng nghị đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải
quyết theo thủ tục Giám đốc thẩm.
3.1. Điểm chung giữa quy trình Tố tụng hình sự và Tố tụng dân sự
Tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, mặc dù đặc trưng cho hai lĩnh vực pháp lý
khác nhau, nhưng vẫn có một số điểm chung. Đầu tiên, cả hai loại tố tụng đều
dựa trên nguyên tắc cơ bản của công lý, nơi mọi bên liên quan đều có quyền
được nghe và bảo vệ quyền lợi của mình trước tòa án. Quy trình này là cơ sở
để tìm hiểu sự thật và đưa ra quyết định công bằng.Thứ hai, cả tố tụng hình sự
và tố tụng dân sự đều có quy trình pháp lý nhất định. Bằng cách này, cả hai
hình thức tố tụng đều đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình
giải quyết tranh chấp.Mặc dù tố tụng hình sự tập trung vào truy cứu trách
nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội, trong khi tố tụng dân sự thường liên
quan đến các vấn đề dân sự như hợp đồng và tổn thất, nhưng cả hai vẫn có
mục tiêu chung là tìm ra sự công bằng và đưa ra quyết định hợp lý dựa trên
26
pháp luật và chứng cứ. Mọi hoạt động TTHS và TTDS đều được thực hiện
theo quy định của bộ luật về hai lĩnh vực trên do Nhà nước ta ban hành.
Tóm lại, trong khi TTHS và TTDS có sự đặc thù riêng biệt, sự tương đồng
trong quy trình và nguyên tắc cơ bản giúp duy trì công lý và tính chính xác
trong hệ thống pháp luật.
3.2. Điểm khác nhau giữa quy trình Tố tụng hình sự và Tố tụng dân sự
So sánh giữa tố tụng hình sự và tố tụng dân sự là một khía cạnh quan trọng
của hệ thống pháp luật, nơi mà hai lĩnh vực này đóng vai trò quan trọng trong
việc giải quyết tranh chấp và thực hiện công lý. Mỗi hình thức tố tụng mang
theo đặc điểm và quy định riêng, điều này tạo ra những sự khác biệt quan
trọng trong quá trình xử lý vụ án và quyết định trách nhiệm pháp lý.
Thứ nhất
- Những nguyên tắc cơ bản và đặc thù về tố tụng dân sự theo Bộ luật TTDS
năm 2015: Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5). Cung
cấp chứng cứ và chứng minh là quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 6).
Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp luật
quy định. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8). Bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9). Toà án có trách nhiệm tiến hành
hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều
10).
- Những nguyên tắc cơ bản và đặc thù về tố tụng hình sự theo Bộ luật TTHS
năm 2015 : Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo có thể tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (Điều 11). Trong một số trường hợp
Toà án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho bị cáo hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình
(Khoản 2 Điều 57). Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9). Xác định sự thật của vụ án (Điều
10). Khi xét xử Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng
cứ đã xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng
và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân. Bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh là mình vô tội.
Thứ hai
27
a. Xét về chủ thể tham gia TTHS gồm:
- Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.
- Thành phần những người tiến hành tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên.
- Đối tượng chính của luật tố tụng hình sự là các quan hệ xã hội phát sinh từ
việc khởi tố truy tố, xét sử và thi hành án hình sự.
b. Xét về chủ thể tham gia tố TTDS:
-Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Toà án và Viện kiểm sát.
- Thành phần những người tiến hành tố tụng gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát
viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án và chấp hành viên.
- Những người tham gia tố tụng gồm: Đương sự, ngưởi đại diện của đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch và người định giá tài sản.
Thứ 3
- Trình tự, thủ tục tố tụng dân sự: Người khởi kiện tiến hành nộp đơn khởi
kiện sau đó Chánh án Toà án phân công Thẩm phán xét đơn khởi kiện sau đó
thực hiện một trong các thủ tục có thụ lý vụ án hay không. Nếu thụ lý vụ án
thì gửi thông báo cho các bên và phân công Thẩm phán giải quyết vụ án tiếp
đến tiến hành hòa giải. Trường hợp 1: thỏa thuận giải quyết thì công nhận sự
thỏa thuận của các bên. Trường hợp 2: không thoả thuận thì quyết định đưa vụ
án ra xét xử
-Trình tự, thủ tục tố tụng hình sự: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án.
Thứ 4
- Chứng cứ về tố tụng dân sự: Nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, người làm chứng; kết
luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định
giá tài sản, thẩm định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
- Chứng cứ về tố tụng hình sự:.Nguồn chứng cứ bao gồm: Vật chứng; lời khai
của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
28
can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các
tài liệu, đồ vật khác.
Thứ 5
- Thỏa thuận Luật Tố tụng dân sự: tôn trọng sự thỏa thuận tự nguyện, phù hợp
với pháp luật của các bên là nguyên tắc tối quan trọng của pháp luật dân sự.
Ví dụ: M nợ G 200 triệu đồng nhưng không trả, G làm đơn khởi kiện tại lên
Tòa án yêu cầu M trả. Nhưng ngay sau đó sau đó, M và G đã thỏa thuận một
cách tự nguyện với nhau rằng M sẽ trả cho G 150 triệu và G sẽ xóa nợ hoàn
toàn cho M. Lúc này, Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận của các bên đưa ra chứ
không thể ra 1 phán quyết bắt M phải trả toàn bộ số tiền này.
-Thỏa thuận Pháp luật hình sự: là pháp luật công, việc bạn vi phạm pháp luật
hình sự nghĩa là bạn đã vi phạm trật tự xã hội do Nhà nước thiết lập. Do vậy,
bạn không có quyền thỏa thuận mình có phạm tội hay không.
Ví dụ: Ông L cướp tài sản của bà H, sau khi bị truy tố bởi Viện kiểm sát thì
ông L đến gặp bà H và đưa ra đề nghị bồi thường gấp đôi giá trị tài sản mà bà
H bị cướp để bà H rút đơn khởi kiện đối với ông L. Thỏa thuận này sẽ là vô
hiệu bởi lẽ hành vi của ông L được đánh giá là hành vi nguy hiểm cho xã hội
do xâm phạm trật tự công. Dù bà H có rút đơn khởi kiện thì ông L vẫn bị xét
xử theo pháp luật hình sự.
Tóm lại, sự so sánh giữa tố tụng hình sự và tố tụng dân sự làm nổi bật những
đặc thù riêng biệt của mỗi quy trình. Trong khi tố tụng dân sự tập trung vào
quyền và nghĩa vụ của các đương sự, sự minh bạch và hoà giải, tố tụng hình
sự đặc trưng bởi quyền bảo vệ và nguyên tắc "vô tội cho đến khi chứng minh
có tội". Mặc dù khác biệt, cả hai đều nhấn mạnh vào việc đảm bảo công bằng
và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong hệ thống pháp luật nước ta.
30