You are on page 1of 5

Nhận thức về an tử, quyền an tử (quyền được chết)

Về mặt khái niệm, thuật ngữ “an tử” (trong tiếng Trung) hay “euthanasia” (trong
tiếng Anh) hay “euthanasie” (trong tiếng Pháp) được cho là bắt nguồn từ thuật ngữ
“euthanatos” trong tiếng Hy Lạp (trong đó: “eu” là “tốt” và “thanatos” là “chết”),
tuy vậy, hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho thuật ngữ này. Theo Từ
điển Merriam-Webster Online, an tử là “hành động hoặc thực hành giết chết hoặc
cho phép cái chết của những cá nhân (như con người hoặc động vật nuôi) bị ốm
hoặc chấn thương không còn hy vọng [cứu chữa] theo cách ít đau đớn nhất vì lý do
nhân từ/nhân đạo”. Một tài liệu khác định nghĩa: “an tử là sự giết chết có chủ ý
một người lệ thuộc (a dependent human being) bởi hành động hoặc không hành
động vì lợi ích được viện ra của người đó”.
Như vậy, có thể hiểu “an tử” là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một người mà
thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa theo cách ít hoặc không
đau đớn vì những lợi ích của người đó. Theo cách hiểu này, có bốn yếu tố để xác
định “an tử” đó là: (i) tính chủ ý [chấm dứt cuộc sống]; (ii) đối tượng là những
người không còn khả năng cứu chữa; (iii) cách thức thực hiện ít hoặc không gây
đau đớn; và (iv) vì lợi ích của người được an tử. Trong các yếu tố này, “tính chủ ý”
được xem là quan trọng nhất mà thiếu nó [một hành động] sẽ không được coi là an
tử; lợi ích của người được an tử thường là để chấm dứt những nỗi đau không thể
chịu đựng được (mục đích nhân đạo) và để giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và
người thân.
Đi kèm với an tử là vấn đề “quyền an tử” (hay quyền được chết - right to die).
Thực tế đây là vấn đề chỉ đặt ra ở các quốc gia hợp pháp hóa an tử, theo đó “quyền
an tử” là một quyền nhân thân và được pháp luật ghi nhận một cách chính thức.
Đối với những quốc gia chưa hợp pháp hóa an tử, thì quyền an tử được xem là một
quyền thực tế, nghĩa là nó thể hiện mong muốn của một người muốn được phép
quyết định kết thúc cuộc sống của mình (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp); hoặc
cũng có thể nó được các nhà lập pháp và các nhà khoa học “ngầm thừa nhận” là
một quyền nhân thân.
Về phân loại, có hai tiêu chí chủ yếu được sử dụng để phân biệt [các hình thức] an
tử là: (i) theo tính chất ý chí của người được an tử, gồm có: an tử tự nguyện
(voluntary euthanasia), an tử không tự nguyện (non-voluntary euthanasia), và an tử
không chủ ý (involuntary euthanasia); (ii) theo cách thức thực hiện an tử, gồm có:
an tử chủ động (active euthanasia/euthanasia by action), an tử thụ động (passive
euthanasia/euthanasia by omission), và trợ tử (hay trợ giúp tự sát - assisted
suicide).
Về lịch sử hình thành và phát triển, từ thời cổ đại (thế kỷ V đến thế kỷ I TCN),
những người La Mã và Hy Lạp đã có xu hướng ủng hộ an tử và không tuân theo
“lời thề Hippocrates” một cách trung thành. Các bác sĩ có thể thực hiện việc giết
người vì mục đích nhân đạo (mercy killing), cả tự nguyện và không chủ ý. Tuy
nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến gần cuối thế kỷ XIX, an tử bị phản đối bởi
quan điểm của các tôn giáo lớn (Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái, Đạo Phật) và bị
pháp luật ở nhiều quốc gia cấm (đặc biệt là các quốc gia theo thông luật). Sang thế
kỷ XX, với sự phát triển của ngành y khoa, an tử đã có được những bước tiến lớn.
Về mặt pháp lý, năm 1976, California trở thành bang đầu tiên của Mỹ thông qua
luật cho phép người bị bệnh nan y quyền quyết định hủy bỏ các điều trị y tế duy trì
sự sống khi cái chết được tin rằng sắp xảy ra. Tính đến năm 1977, đã có 8 bang của
Mỹ gồm California, New Mexico, Arkansas, Nevada, Idaho, Oregon, North
Carolina, và Texas đã thông qua các điều luật về quyền an tử.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp
pháp hóa an tử; tiếp sau đó là Bỉ (năm 2002), Luxembourg (năm 2008); và ba bang
của Mỹ gồm Washington (năm 2008), Montana (năm 2008), Vermont (năm 2013).
Tháng 3/2014, Bỉ đã hợp pháp hóa an tử đối với trẻ em bị bệnh nan y và không thể
cứu chữa. Tháng 2/2015, Tòa án Tối cao Canada đã bãi bỏ lệnh cấm tự sát có trợ
giúp của bác sĩ. Tháng 4/2015, Tòa án Nam Phi đã cho phép tự sát có trợ giúp đối
với những người bị bệnh nan y.
Thực tế nêu trên cho thấy, an tử đã có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài
và là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, nó cũng đang dần được thừa nhận
(dù còn hạn chế).
Những lập luận ủng hộ quyền được chết
- Công nhận quyền được chết hướng đến mục đích tốt đẹp, nhân đạo bởi nó
giải phóng nỗi đau khổ cùng cực của con người, giúp những bệnh nhân ở
trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữa ở giai đoạn
cuối được “ra đi” thanh thản. Được chết là hành vi từ bi, nhân ái, đáp ứng được
nguyện vọng trốn thoát đau khổ của nhiều người bệnh nặng vô phương cứu
chữa. Hành vi này còn được hiểu là "cái chết nhân đạo". Công nhận quyền được
chết sẽ chấm dứt nỗi đau đớn cho bệnh nhân cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt
gánh nặng vật chất cũng như tinh thần cho gia đình họ, từ đó, tạo sự ổn định
cho xã hội. Việc kết thúc mạng sống như một đặc ân, là sự giải thoát và là lựa chọn
của họ, thì người thân, bác sĩ, chúng ta và pháp luật cần tôn trọng điều
này. Chính vì thế, quy định quyền được chết của một người là cần thiết, vì sống
hay chết phải được thực hiện bằng ý chí của chính người đó, không một ai có
quyền định đoạt thay họ.
- Việc pháp luật công nhận quyền được chết sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của các
bác sỹ trong hoàn cảnh bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài. Không có
nỗi đau đớn nào bằng nỗi đau của người thân khi chứng kiến người thân của
mình phải sống quằn quại mà không thể giúp đỡ. Không có nỗi đau nào bằng
nỗi đau của người bác sỹ khi nhìn thấy bệnh nhân của mình đau đớn mà
không có cách nào cứu giúp.
- Tự do lựa chọn cuộc sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thể hiện quyền
tự quyết cá nhân: mỗi người có quyền định đoạt thân xác và mạng sống của
mình, kể cả việc kết liễu nó. Do đó, mỗi người phải được trao cho sự tự do để
thực hiện quyền tự quyết này. Theo sự tôn trọng quyền tự quyết, con người phải
có quyền định đoạt sự sống và cái chết của mình, họ phải được đủ khả năng để
kết liễu sự sống khi nào họ muốn, chặn đứng sự đau khổ không cần thiết.
- Một điểm nữa có thể quan tâm đó là, nếu không công nhận quyền được chết,
vấn đề này sẽ vẫn mãi bế tắc bởi liên quan đến yếu tố chính trị, tôn giáo…
Những đề nghị, yêu cầu xin được chết dai dẳng kéo theo cả Tòa án và chính
quyền vào cuộc, không ít trường hợp vấn đề này được sử dụng vào mục đích
chính trị. Chẳng hạn như vụ Terri Schiavo ở Mỹ đã kéo cả Tòa án tối cao
bang Florida, Tòa án Liên Bang Mỹ vào cuộc và cả Quốc hội Mỹ vào cuộc.
Diễn biến: Tháng 2/1990: Terri Schiavo bị tổn thương não sau khi
ngất tại nhà; tháng 5/1998: Michael Schiavo gửi đơn xin rút ống
truyền dinh dưỡng cho vợ, gây nên một cuộc chiến pháp lý; tháng
2/2000: Toà án cho phép rút ống; tháng 10/2003: Hạ viện Florida
thông qua “Luật Terri”, cho phép thống đốc ra lệnh ngừng truyền
thức ăn cho Schiavo; tháng 9/2004: Toà án tối cao Florida bác bỏ
luật này; tháng 12/2004: Vụ việc đưa lên Toà án Tối cao Mỹ; tháng
1/2005: Toà án bác đơn; tháng 3/2005: Toà án Florida một lần nữa
cho phép rút ống; Ngày 20/3/2005: Quốc hội thông qua luật khẩn cấp
cho phép cha mẹ Schiavo khiếu nại để nối ống truyền; ngày
22/3/2005: Thẩm phán liên bang bác đơn của cha mẹ Schiavo; ngày
23/3/2005: Toà phúc thẩm ủng hộ phán quyết của toà án liên bang;
ngày 24/3/2005: Toà án Tối cao từ chối xem xét đơn khiếu nại

Như vậy, những lý do phổ biến để muốn hợp pháp hóa được chết có thể được
phân loại là: tìm kiếm sự từ bi của đau đớn và đau khổ, bảo vệ các bác sĩ cư
xử một cách từ bi, tôn trọng nhân quyền và giúp đỡ trong việc ngăn ngừa các
chi phí y tế.
Việc công nhận quyền được chết là một cách thức để: (i) giải phóng nỗi đau khổ
cùng cực của con người; (ii) trợ giúp giải thoát khi chất lượng cuộc sống của con
người quá thấp; (iii) dành nguồn lực của các quỹ y tế để giúp những người khác;
(iv) tự do lựa chọn cuộc sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
Nhìn chung, mỗi luồng quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý,
để đạt được sự đồng thuận với vấn đề được chết gần như là điều không thể ở mọi
xã hội. Quyết định cấm hay hợp pháp hóa được chết là một quá trình cần nhiều
thời
gian và chịu tác động của nhiều yếu tố như trình độ nhận thức, kinh tế, khoa
học kĩ thuật, truyền thống văn hóa,...Tuy nhiên, xu hướng đang diễn ra trên
thế giới là được chết ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn

5 điều kiện để một quốc gia có thể ban hành luật về được chết đó là:
(i) số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa xin được
chết lớn; giới bác sỹ tồn tại nhiều bức xúc về vấn đề này;
(ii) quốc gia có hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh; kỹ thuật lập
pháp của quốc gia đó đủ để có thể xây dựng luật ít bị lạm dụng nhất;
(iii) người dân quốc gia đó có ý thức tuân thủ pháp luật cao;
(iv) tại thời điểm muốn ban hành luật về được chết không có quá nhiều người của
quốc gia đó phản đối (thông qua thăm dò dư luận);
(v) quyền được chết cần được ghi nhận trong các đạo luật gốc với tư cách là quyền
nhân thân, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng luật chuyên ngành (luật về được
chết).

You might also like