You are on page 1of 5

Chủ đề tranh luận: Hợp pháp hóa quyền được chết.

(*) Quan điểm tranh luận: Ủng hộ hợp pháp hóa quyền được chết.

Suốt hàng nghìn năm lịch sử của nhân loại, cái chết đã luôn là một điều hiển
nhiên trong xã hội loài người. Người ta có thể ra đi vì bệnh tật, chiến tranh, đói
nghèo... Còn dưới góc độ của khoa học pháp lý, chúng ta chỉ thường nghe đến
quyền được sống hay các quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc như trong Bản tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại một câu nói trong tuyên ngôn Tuyên ngôn Độc lập
năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nhưng chúng ta
cũng biết rằng, sự sống và cái chết là một chuỗi tuần hoàn, một qui luật của tạo
hóa. Không có gì là tồn tại vĩnh cửu và bất biến. Cái chết tất yếu rồi sẽ đến với bất
kỳ ai – dù muốn hay không. Dù người đó là ai: một người bình thường hoặc một
đấng quân vương. Đặc biệt, trong mỗi chúng ta những con người sống trong nếp
sống của xã hội phương Đông thuần túy đều sẽ cảm thấy rằng quyền được chết vẫn
là một điều gì đó vô cùng lạ lẫm và nhận không ít những phản ứng trái chiều từ
phần đông dân số. Bởi quyền được chết ở các quốc gia phương Đông trong đó có
Việt Nam không chỉ đơn thuần là về mặt y học mà còn có cả tính đạo đức, xã hội,
tín ngưỡng của người Việt trong đó. Như vậy, đối với một con người, được chết có
phải là quyền chính đáng hay không?
Để trả lời cho câu hỏi trên, thông qua bài viết này chúng tôi xin được trình
bày những quan điểm sau để chúng ta cũng hiểu rõ và có những cái nhìn tích cực
hơn về quyền được chết.
1. Định nghĩa về quyền được chết:
Về mặt lịch sử, quyền được chết ban đầu vốn dĩ được xuất hiện một cách chưa
hoàn thiện trong khái niệm “cái chết êm ả” vốn bắt nguồn từ một từ trong Hy Lạp
là “euthanatos” trong đó “eu” là tốt, “Thanatos” là chết hay “an tử” theo tiếng
Trung. Theo thời gian, sau những thay đổi của lịch sử, cùng tiến bộ khoa học kĩ
thuật trong y tế, cũng như tư tưởng lập pháp, khái niệm quyền được chết dần dần
được thay thế cho khái niệm “cái chết êm ả”. Hiện nay, khái niệm quyền được chết
còn gây ra nhiều tranh cãi do tính chất về xã hội, đạo đức, chính trị ở mỗi quốc gia
khác nhau dẫn đến việc các nhà nghiên cứu sẽ đưa ra những quan điểm khác nhau
về quyền được chết. Như ở Việt Nam thì trong Bộ luật dân sự 2015 không hề ghi
nhận hay có bất kì một thuật ngữ nào là quyền được chết. Tuy nhiên, trên nhiều
phương diện lý luận trong nước cũng như quốc tế thì chúng ta có thể hiểu cơ bản:
“ Quyền được chết là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ về việc lựa chọn của
con người cụ thể để tìm đến cái chết một cách tự nguyện nhằm giải thoái khỏi đau
khổ, bệnh tật hoặc các lý do khác. Ở góc độ hẹp hơn, quyền được chết là một hành
vi chọn cái chết của người đã thành niên đang phải chịu sự đau đớn về thể chất
1
hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh
lý không thể cứu chữa, rơi vào tình huống y tế không lối thoát”. 1
Hay một khái niệm mà bản thân tôi đánh giá là khá dễ hiểu với văn phong lí
luận pháp lý của Việt Nam đó là “Quyền được chết là một quyền nhân thân của
người đã thành niên đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài
và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh lý mà y học không thể
cứu chữa”.2
Có thể nói, các định nghĩa trên chỉ mang tính tổng quát. Nhưng với quan điểm
của đề bài đưa ra là ủng hộ quyền được chết thì với những mục đích tốt đẹp mà
quyền được chết mang lại thì nên gọi với khái niệm “cái chết nhân đạo” sẽ phù hợp
hơn với tư tưởng của người Việt Nam để tránh khỏi những suy luận và hiểu nhầm
không đáng có.
2. Các điều kiện để thực hiện quyền được chết và quan điểm ủng hộ:
2.1 Về mặt y học:
Hiện tại, để xác nhận một người đủ điều kiện và cách thức thực hiện “ cái chết
êm ả” như khái niệm đã nêu ở phần 1 vẫn còn là một vướng mắc vô cùng lớn và
nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng về cơ bản thì có 2 dạng bệnh nhân đáp ứng đủ
những tiêu chí như đã nêu:
(*) Những trường hợp chết não.
(*) Bệnh nhân mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi phục.
Về cách thức thực hiện được giới y học công nhận, thì tôi xin tạm dẫn chứng
một quan điểm sau của bác sĩ Lê Quang, nguyên là bác sĩ ở Khoa Ngoại tổng quát,
lầu 4, Bệnh viện Chợ Rẫy. Bác sĩ Lê Quang, cho biết: "Ở Mỹ, có hai dạng chết
nhân đạo. Đó là "chết nhân đạo chủ động" và "chết nhân đạo thụ động".
Tức là:
Một bệnh nhân muốn được "chết nhân đạo chủ động" thì phải hội đủ 4 điều
kiện sau: "Một là người ấy mắc bệnh nan y và không thể chịu đựng nổi nỗi đau thể
xác. Hai là qua kiểm tra, Hội đồng y khoa xác định cái chết của người ấy là điều
không thể tránh khỏi trong một tương lai gần. Ba là người ấy đồng ý chết và bốn là
các bác sĩ trực tiếp điều trị cho người ấy xác định không còn khả năng điều trị
giảm đau". Khi đã hội đủ những điều kiện này, người ấy sẽ được "chết" bằng thuốc
an thần rồi sau đó là thuốc làm ngừng tim, ngừng phổi.
Với trường hợp "chết nhân đạo thụ động" thì người bệnh cũng phải đáp ứng 3
điều kiện. Đó là mắc bệnh nan y giai đoạn cuối, không còn khả năng hồi phục,
bệnh nhân đồng ý ngưng điều trị và sự đồng ý này được lập thành văn bản khi họ
vẫn tỉnh táo. Nếu bệnh nhân ở trong trạng thái hôn mê, thì sự đồng ý chết của họ
có thể xác định bằng một văn bản hoặc di chúc mà họ đã viết trước đó - nếu có,
1
Theo Wikipedia.
2
Theo Trương Hồng Quang - bàn về quyền được chết và vấn đề Luật an tử ở Việt Nam.
2
hoặc dựa vào lời yêu cầu của tất cả mọi thành viên trong gia đình". Việc thực hiện
"cái chết thụ động" lúc này sẽ được áp dụng bằng hình thức ngừng hẳn những điều
trị y khoa, như hóa trị liệu, lọc máu, truyền máu, hỗ trợ hô hấp, chạy thận, tim nhân
tạo…
Một số bác sĩ, dược sĩ mà tôi quen biết cũng đều ủng hộ việc sớm có luật "chết
nhân đạo" vì theo họ, khi sự sống của một con người chỉ còn tính được bằng đơn vị
tháng, thậm chí tuần lễ - trong lúc tất cả mọi hỗ trợ y khoa đều đã vô ích thì việc để
cho người ấy phải chịu đựng nỗi đau thể xác là điều không nên.
Lập luận ủng hộ:
+ Việc kéo dài thời gian điều trị với những trường hợp bệnh nhân trên chỉ còn
mang tính “liều thuốc tinh thần” cho họ và gia đình nhưng việc kéo dài đó lại làm
ảnh hưởng rất lớn đến tài chính, cũng như sức khỏe cho gia đình bệnh nhân vì số
tiền để chi trả cho y tế sẽ tạo nên gánh nặng cho những người còn lại đang phải có
nghĩa vụ chăm sóc bệnh nhân, không chỉ vậy người nhà bệnh nhân còn phải bỏ
thời gian, công sức để chăm sóc cho họ. Từ đó tạo thêm gánh nặng chung cho xã
hội, giảm bớt khả năng phục vụ nhu cầu sử dụng cơ sở, vật chất y tế cho các bệnh
nhân khác. Đặc biệt, đối với một quốc gia đang còn thiếu thốn về cơ sở vật chất và
luôn quá tải về hệ thống y tế như Việt Nam chúng ta thì đây cũng là một việc rất
đáng để xem xét, bàn luận.
+ Việc công nhận quyền được chết sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của các bác sỹ trong
hoàn cảnh bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài. Không có nỗi đau đớn nào
bằng nỗi đau khi chứng kiến người thân của mình phải sống quằn quại mà không
thể giúp đỡ. Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau của người bác sỹ khi nhìn thấy
bệnh nhân của mình đau đớn mà không có cách nào cứu giúp.
2.2. Về mặt pháp lý:
Trước khi khẳng định quyền được chết là một quyền chính đáng của con
người tại Việt Nam thì phải hiểu rằng, khi bác sĩ thực hiện hành vi của quyền được
chết thì bác sĩ hoàn toàn phải dựa trên yêu cầu của bệnh nhân và theo những quy
định nghiêm ngặt do luật định để tránh nhầm lẫn với một số hành vi khác có thể bị
suy diễn là đang thực hiện hành vi của quyền được chết. Dẫn chứng cụ thể đối với
một số quốc gia đã công nhận quyền được chết:
Đạo luật về an tử của Bỉ (The Belgian Act on Euthanasia) được thông qua vào
ngày 28/5/2002, chính thức có hiệu lực ngày 03/09/2002 và được sửa đổi ngày
13/02/2014, trong đó có một số nội dung đáng chú ý sau: bác sĩ thực hiện an tử
không phạm tội hình sự khi họ đảm bảo rằng: (i) bệnh nhân là một người trưởng
thành có năng lực pháp lý, trẻ vị thành niên sống tự lập (emancipated minor) có
năng lực pháp lý, hoặc trẻ vị thành niên có năng lực về nhận thức và ý thức tại thời
điểm đưa ra yêu cầu; (ii) yêu cầu là tự nguyện, được xem xét thận trọng và được
lặp lại và không là kết quả của bất kỳ áp lực bên ngoài nào; (iii) bệnh nhân là
3
người trưởng thành hoặc trẻ vị thành niên sống tự lập ở trong tình trạng y tế vô
vọng không thay đổi, và đau khổ thể xác 34 hoặc tinh thần không chịu đựng nổi
mà không thể giảm bớt, và là kết quả từ một rối loạn nghiêm trọng và không thể
cứu chữa gây ra bởi bệnh tật hoặc tai nạn; (iv) trẻ vị thành niên có năng lực nhận
thức ở trong tình trạng y tế vô vọng không thay đổi và đau khổ thể xác không chịu
đựng nổi mà không thể giảm bớt và sẽ gây ra cái chết trong thời gian ngắn, và là
kết quả từ một rối loạn nghiêm trọng và không thể cứu chữa gây ra bởi bệnh tật
hoặc tai nạn. Đạo luật này cũng yêu cầu quá trình đưa ra yêu cầu của bệnh nhân
cần có sự tham vấn của một bác sĩ khác là bác sĩ tâm thần hoặc một chuyên gia;
với trẻ vị thành niên sống tự lập cần tham vấn một bác sĩ tâm thần trẻ em hoặc một
nhà tâm lý học và thông báo về lý do được tham vấn. Mọi yêu cầu phải được đưa
ra bằng văn bản, và với bệnh nhân là trẻ vị thành niên cần có sự đồng ý của người
đại diện hợp pháp.
Quay lại thực tế tại Việt Nam, thì hiện nay nhiều quan điểm phải đối quyền được
chết sẽ đánh đồng hành vi của quyền được chết với hành vi tự sát hay đối với bác
sĩ là giúp người khác tự sát, thậm chí gay gắt hơn là giết người.
Lập luận ủng hộ:
Lập luận dưới mặt pháp lý chúng ta có thể thấy rõ hành vi của quyền được chết
không hề tương đồng với các hành vi trên. Cụ thể khi so sánh với hành vi giúp
người khác tự sát:
Điều 131 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định Tội xúi giục
hoặc giúp người khác tự sát rõ ràng khác hành vi trong quyền được chết, bởi trong
quyền được chết, bác sĩ chỉ làm theo yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục
bệnh nhân. Do đó, chúng ta chỉ phân biệt hành vi của quyền được chết với hành vi
giúp người khác tự sát. Rõ ràng, về hình thức về hành vi giúp người khác tự sát có
nhiều loại và đa dạng về chủ thể. Ví dụ: Một người sống thực vật duy trì sự sống
bằng các công cụ y tế chuyên dụng yêu cầu được chết, chỉ cần ngừng hoạt động
các máy móc hỗ trợ là sẽ chết khác xa với việc giúp một người cứa đứt động mạch
để chảy máu đến chết. Chủ thể thực hiện trong hành vi quyền được chết phải là bác
sĩ còn hành vi kia thì lại rộng hơn nhiều. Hơn nữa, điều kiện tình trạng của bệnh
nhân trong quyền được chết là mấu chốt để phân biệt với các hành vi khác.
Tuy nhiên, từ khi quyền được chết xuất hiện cho đến nay đã có rất nhiều cuộc
tranh luận pháp lí trên thế giới. Công nhận hay không công nhận quyền được chết
là một vấn đề lớn và đặc biệt là gây ra nhiều tranh cãi vô cùng gay gắt. Vì vậy nếu
như quyền được chết được công nhận tại Việt Nam thì cơ bản sẽ giải quyết được
những xung đột pháp lý cơ bản sau:
+ Chấm dứt những tranh luận pháp lý kéo dài giữa bên ủng hộ và không ủng hộ
quyền được chết. Các vụ việc liên quan đến quyền được chết luôn rơi vào bế tắc,
không lối thoát do tồn tại những quan niệm sai lầm về hành vi của quyền được chết
mà như tôi đã phân tích ở trên. Một thực tế nữa là những vụ việc đó không chỉ đơn

4
thuần là trong lĩnh vực y học mà còn là trong nhiều lĩnh vực khác dẫn đến phức
tạp, rối rắm không đáng có.
+ Chính vì do cuộc sống là quí giá nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị
bệnh muốn chết hẳn hiểu rõ vì sao mình lại muốn chết. Suy cho cùng, quyền được
sống cũng chính là quyền được chết. Vì xét về mặt pháp lý, nếu “sống” được xem
là quyền - chứ không phải là nghĩa vụ. Thì một người cũng có quyền từ chối quyền
đó – của chính mình – mà không làm ảnh hưởng tới ai.
+ Nếu quyền được chết được công nhận và có các văn bản quy phạm pháp luật
quy định cụ thể về quyền được chết thì cũng là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố
tụng khi giải quyết các vụ án có liên quan đến quyền được chết được dễ dàng và
khách quan hơn, tránh oan sai hay bỏ lọt tội phạm (tránh nhầm lẫn hành vi của
quyền được chết với các hành vi phạm tội khác theo quy định của pháp luật).
Trên đây là những lập luận của bản thân tôi về việc ủng hộ sớm xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật về quyền được chết tại Việt Nam. Nó xuất phát từ những
hiểu biết cơ bản của bản thân và tư tưởng của tôi đối với quyền được chết. Còn về
mặt thực tế thì hiện nay Việt Nam phần đông dân số vẫn sẽ phản đối kịch liệt lập
luận của tôi, đối với các nhà lập pháp thì sẽ khó có thể ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về quyền được chết trong tương lai gần. Tôi chỉ mong thông qua những
thông tin, cũng như quan điểm trong bài viết của mình, sẽ giúp cho mọi người hiểu
thêm về quyền được chết, cũng như những người còn đang hoang mang về việc
ban hành quyền được chết tại Việt Nam có một cái nhìn khác theo hướng tích cực
hơn về quyền được chết.

You might also like