You are on page 1of 125

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN MỘT ĐOẠN TRÍCH, MỘT TÁC PHẨM VĂN XUÔI

I/ CÁC DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN TRÍCH, TÁC PHẨM VĂN
XUÔI : gồm 3 dạng sau :
1/ Dạng 1 : Nghị luận về một nhân vật, một hình tượng trong một tác phẩm, đoạn
trích văn xuôi.
a/ PHƯƠNG PHÁP:
Ví dụ:
Đề 1. Phân tích nhân vật Vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
( phần trích trong Ngữ văn 12- Tập 2).
Đề 2. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2).
Cách lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật, hình tượng cần phân tích ( Không thể thiếu
)
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ
tác phẩm, tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích (nếu có).
2. Làm rõ nhân vật, hình tượng theo yêu cầu của đề bài :
a. Nếu phân tích một nhân vật, hình tượng : lần lượt làm rõ các biểu hiện tính
cách, phẩm chất nhân vật (chú ý các sự kiện chính, các biến cố, tâm trạng thái độ nhân
vật...), đặc điểm của hình tượng ( nêu từng đặc điểm, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích
dẫn chứng làm rõ các đặc điểm đã nêu)
b. Nếu phân tích một nhóm nhân vật: lần lượt làm rõ đặc điểm chung và riêng của
nhóm nhân vật hoặc phân tích từng nhân vật( nêu từng đặc điểm, đưa dẫn chứng tiêu
biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ các đặc điểm đã nêu).
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật, hình tượng ;
4. Giải quyết yêu cầu phụ ( nếu có )
III./ Kết bài :
- Dùng từ chuyển đoạn thông báo sự kết thúc của việc trình bày vấn đề ( tóm lại, nhìn
chung…) Chú ý : Đề ra nghị luận vấn đề gì thì phải kết bài vấn đề đó.
- Đánh giá khái quát về những khía cạnh nổi bật nhất của nhân vật, hình tượng.
- Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu ý nghĩa của hình tượng, nhân vật
với đời sống, với văn học hay tác động đến tư tưởng, tình cảm của người đọc). Có
thể nêu cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm.
b/ Đề luyện tập dạng 01 gồm 13 đề sau, có dàn ý chi tiết :
Đề 1 : Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
Đề 2 : Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài .
Đề 3 : Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ trong truyện “Vợ
chồng A Phủ ” của Tô Hoài
1
Đề 4 : Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ ”
của Tô Hoài
Đề 5 : Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong cảnh đêm hội
mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ ở Hồng Ngài trong truyện “Vợ chồng A Phủ ”
của Tô Hoài
Đề 6 : Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 7 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 8 : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Kim Lân.
Đề 9 : Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành.
Đề 10 : Phân tích hình tượng cây Xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn
Trung Thành
Đề 11 : Phân thích nhân vật hai chị em Chiến và Việt trong tác phẩm "Những đứa con
trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Đề 12 : Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài
xa" của Nguyễn Minh Châu.
Đề 13 : Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba qua trích đoạn kịch “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.

2/ Dạng 2 : Nghị luận về nội dung hoặc giá trị nội dung tác phẩm, đoạn trích
văn xuôi.
a/- PHƯƠNG PHÁP :
Ví dụ:
Đề 1. Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ( phần
trích trong Ngữ văn 12- Tập 2).
Đề 2. Phân tích câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2).
Cách lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu luận đề cần giải quyết (cần bám sát đề bài để giới thiệu luận đề cho rõ ràng,
chính xác. Luận đề cần dẫn lại nguyên văn yêu cầu của đề).
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ
tác phẩm. tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích ( nếu có)
2. Làm rõ vấn đề theo yêu cầu của đề bài :
a. Nếu phân tích nội dung tác phẩm: lần lượt làm rõ nội dung cần phân tích ( nêu
từng nội dung, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ ý nghĩa của nội
dung)
b. Nếu phân tích giá trị tác phẩm :
- Nếu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm :
+ Giải thích khái niệm nhân đạo
+ Phân tích các biểu hiện của giá trị nhân đạo:
2
+ Đánh giá về giá trị nhân đạo.
-Nếu phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm :
+ Giải thích khái niệm hiện thực:
+ Phân tích các biểu hiện của giá trị hiện thực:
+ Đánh giá về giá trị hiện thực.
( nêu từng luận điểm, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ luận
điểm đã nêu)
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện về nội dung hay giá trị tác phẩm.
4. Giải quyết yêu cầu phụ ( nếu có )
III./ Kết bài :
-Đánh giá khái quát về những khía cạnh nổi bật nhất nội dung hay giá trị tác phẩm
-Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu ý nghĩa nội dung, giá trị nội
dung với đời sống, với văn học hay tác động đến tư tưởng, tình cảm của người đọc). Có
thể nêu cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm.
b/ Đề luyện tập dạng 02 gồm 04 đề sau, có dàn ý chi tiết :
Đề 1 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
Đề 2 : Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
Đề 3 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Vợ nhặt " của Kim Lân.
Đề 4 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của
Nguyễn Minh Châu.
3/ Dạng 3 : Nghị luận về giá trị nghệ thuật trong tác phẩm, đoạn trích văn xuôi.
a/ PHƯƠNG PHÁP
Ví dụ: Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2).
Cách lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu về tác giả, vị trí văn học của tác giả. (có thể nêu phong cách).
- Giới thiệu về tác phẩm (đánh giá sơ lược về tác phẩm).
- Nêu nhiệm vụ nghị luận
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ
tác phẩm, tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích ( nếu có)
2. Làm rõ vấn đề theo yêu cầu của đề bài :
* Nếu đề nghị luận là tình huống truyện :
a.Tình huống truyện: Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể
loại. Nó là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt, khiến tại đó cuộc
sống hiện lên đậm đặc nhất, ý đồ tư tưởng của tác giả cũng bộc lộ đậm nét nhất.
b. Phân tích các phương diện cụ thể của tình huống và ý nghĩa của tình huống đó.
+ Tình huống 1....ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm.
+ Tình huống 2...ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm.
(lần lượt làm rõ đặc điểm của từng tình huống bằng cách nêu từng tình huống, đưa dẫn
chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ các tình huống đã nêu).
......
- Bình luận về giá trị của tình huống
3
b/ Đề luyện tập dạng 03 gồm 02 đề sau :
Đề 1: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Đề 2: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu

BÀI 01 : VỢ CHỒNG A PHỦ ( TÔ HOÀI)


A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Tác giả:
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm
đạt kỉ lục với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện...Ông cũng là một
nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác
nhau trên đất nước ta. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện
ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.
II. Tác phẩm:
Vợ chồng A Phủ (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc,
in trong tập Truyện Tây Bắc, giải Nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong SGK là phần một.
III. Nội dung, nghệ thuật:
a) Nội dung:
- Nhân vật Mị:
+ Cuộc sống thống khổ: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền
kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về
cuộc sống ( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị,…).
+ Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc: Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng
sáo gọi bạn, bữa rượu,…), Mị đã thức tỉnh (kỉ niệm sồng dậy, sống với tiếng sáo, ý thức
về thời gian, thân phận,…) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc,…). Khi bị A Sử trói vào
cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo.
+ Sức phản kháng mạnh mẽ: Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”.
Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A
Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị.
Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt,… đã thôi thúc Mị
cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình.
- Nhân vật A Phủ:
+ Số phận éo le, là nạn nhân ủa hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền
núi (mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi
không lấy nổi vợ).
+ Phẩm chất tốt đẹp: có sức khỏe phi thường, dũng cảm; yêu tự do, yêu lao động;
có sức sống tiềm tàng mãnh liệt…
- Giá trị của tác phẩm:
+ Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi
bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi.
+ Giá trị nhân đạo: thể hiện tình yêu thương, sự đổng cảm sâu sắc với thân phận
đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng; tố cáo, lên án, phơi bày bản

4
chất xấu xa, tàn bạo của giai thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống
mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc;…
b) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua
hành động, Mị chủ yêu khắc họa tâm tư,…).
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên
mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm
đẫm chất thơ,…
3) Ý nghĩa văn bản:
Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của
người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.
B/ LUYỆN TẬP
CÂU 2 ĐIỂM: ĐỌC HIỂU
ĐỀ 1
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi :
"Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt
lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị
xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được
nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra,
khép cửa buồng lại".
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài sử dụng nhiều câu ngắn kết hợp với các câu dài có nhiều
vế ngắn, nhịp điệu nhanh. Tác dụng của hình thức nghệ thuật này là gì ?
4. Đoạn văn bản trên khiến anh/chị liên tưởng đến hiện tượng nào trong cuộc sống? Nêu
ngắn gọn những hiểu biết của anh/chị về hiện tượng và đưa ra một giải pháp mà anh/chị
cho là hợp lí nhất để giải quyết hiện tượng này.
TRẢ LỜI
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể lại hành động trói Mị của A Sử trong đêm mùa xuân khi Mị muốn đi
chơi.
Câu 3 : Tô Hoài sử dụng nhiều câu ngắn kết hợp với các câu dài có nhiều vế ngắn, nhịp
điệu nhanh. Bằng hình thức này, tác giả cho thấy hành động trói vợ của A Sử diễn ra rất
nhanh, rất thuần thục, tưởng như đó là việc làm thường xuyên, quen thuộc của A Sử. Qua
đây có thể thấy tính cách độc ác, tàn nhẫn của A Sử.
Câu 4 : Đoạn văn bản trên khiến người đọc liên tưởng đến hiện tượng bạo lực gia đình
trong đời sống. HS cần trình bày những hiểu biết, suy nghĩ của mình về hiện tượng này
một cách ngắn gọn, đưa ra một giải pháp có sức thuyết phục.

Đề 2:
5
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa.Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái
cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại
cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng.
Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra
mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.Mỵ về làm
dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người
nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm người nhà quan thống lý.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài sử dụng nghệ thuật đối lập. Tác dụng của hình thức nghệ
thuật này là gì ?
4. Các từ ngữ được gạch chân : tảng đá , tầu ngựa, cúi mặt, mặt buồn rười rượi có ý
nghĩa gì trong việc thể hiện thân phận của nhân vật Mị?
TRẢ LỜI
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể lại sự xuất hiện của nhân vật Mị thuộc phần mở đầu truyện khi Mị
đang ở nhà thống lí Pá Tra.
Câu 3 : Tô Hoài sử dụng nghệ thuật đối lập : một bên là nhà thống lí quyền thế, giàu
sang, một bên là cô gái lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi . Bằng hình thức này,
tác giả báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch
của cõi nhân thế nơi miền núi Tây Bắc.
Câu 4 : Các từ ngữ được gạch chân : tảng đá , tầu ngựa, cúi mặt, mặt buồn rười rượi có ý
nghĩa : Không chỉ tả cảnh nơi ngồi của Mị, nhà văn còn dự báo một thân phận trâu ngựa,
một tâm hồn câm lặng như tảng đá, một ý thức cam chịu, bị tê liệt tinh thần phản kháng ở
nhân vật Mị nếu cứ chôn chặt tuổi thanh xuân nơi nhà thống lí. Qua đó, nhà văn gián tiếp
tố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác của bọn chúa đất miền núi Tây Bắc; thương xót, cảm
thông cho số phận người dân lúc bấy giờ.

Đề 3 :
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ
đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi
làm mà thôi. Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống
nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện;
giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào
cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế.
Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị
nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
6
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài sử dụng nghệ thuật điệp từ và so sánh. Tác dụng của
những hình thức nghệ thuật này là gì ?
4. Câu văn Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra có
ý nghĩa gì?
TRẢ LỜI
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể lại việc nhân vật Mị sống cam chịu, nhẫn nhục và tù túng ở nhà
thống lí Pá Tra.
Câu 3 : Tô Hoài sử dụng nghệ thuật điệp từ Con trâu, con ngựa ; so sánh : như con rùa
nuôi trong xó cửa. Bằng hình thức này, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị.
Mị dường như đã tê liệt cả lòng yêu đời, yêu cuộc sống lẫn tinh thần phản kháng. Mị tồn
tại như một cái xác không hồn.
Câu 4 : Câu văn Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông
ra có ý nói căn buồng của Mị như một buồng giam, cửa sổ như một lỗ thông hơi. Địa
ngục trần gian đã giam cầm hạnh phúc, tuổi thanh xuân của Mị. Tương lai của Mị mù
mịt, tăm tối. Mị đành chấp nhận số phận như vậy cho đến chết. Mị sống mà như đã chết
hay chính xác hơn là cô phải chấp nhận tồn tại với trạng thái gần như đã chết trong lúc
còn sống.

Đề 4 :
Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ.
Nhưng trong các làng Mông đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như
con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở mầu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tím
man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi,
đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.
"Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu".
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định các biện pháp tu từ ngữ âm và tu từ về từ trong câu văn những chiếc váy hoa
đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ . Tác dụng của những hình thức nghệ
thuật này là gì ?
4. Từ trích đoạn văn bản trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về vai trò
của âm nhạc dân tộc trong đời sống con người.
Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức miêu tả là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể lại cảnh đêm tình mùa xuân đã tới trên Hồng Ngài và tâm trạng của
nhân vật Mị khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình vọng lại từ đầu núi.
7
Câu 3 : Biện pháp tu từ ngữ âm và tu từ về từ trong câu văn những chiếc váy hoa đã được
phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ:
-Biện pháp tu từ ngữ âm : điệp âm a trong các từ hoa, ra, đá
- Biện pháp tu từ về từ : so sánh như con bướm sặc sỡ
Bằng hình thức này, nhà văn đã làm cho câu văn có sức ngân nga, vang xa, tạo
chất thơ khi tả trang phục ( váy hoa) đậm chất văn hoá vùng Tây Bắc trong cảnh mùa
xuân. Điều đó thể hiện năng lực quan sát và miêu tả độc đáo của Tô Hoài.
Câu 4 : Đoạn văn đảm bảo các ý:
- Âm nhạc trong đoạn văn chính là tiếng sáo, một nhạc cụ dân tộc quen thuộc, dân
dã mà có sức lay động trái tim con người
- Ý nghĩa của tiếng sáo đối với nhân vật Mị: đó là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu
tượng của tình yêu đôi lứa.
- Trong cuộc sống, tiếng sáo nói riêng, âm nhạc dân tộc nói chung thể hiện được
bản sắc văn hoá dân tộc. Âm nhạc đã làm giàu tâm hồn và trí tuệ của của con người.
-Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, có những loại âm nhạc tác động tiêu cực đến
con người, làm nhận thức lệch lạc giá trị cuộc sống: âm nhạc quá khích dẫn đến bạo lực,
sướt mướt dẫn đến sự ủy mỵ mất sức chiến đấu. Những ảnh hưởng tiêu cực đó có thể kéo
theo các hành động sai trái.
- Vì vậy, việc giáo dục thẩm mỹ âm nhạc, đặc biết là âm nhạc dân tộc và thông qua
âm nhạc để giáo dục tư tưởng, đạo đức cho người nghe là việc làm quan trọng và vô cùng
cần thiết.
Đề 5:
Thế là từ đấy A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. Đốt rừng, cày nương,
cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong
ruổi ngoài gò rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. Đi làm hay đi săn cái gì cũng phăng
phăng. Không còn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn trở về làm
gì bên ấy.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định các biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn Đốt rừng, cày nương, cuốc nương,
săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò
rừng.Tác dụng của những hình thức nghệ thuật này là gì ?
4. Từ trích đoạn văn bản trên, nêu nét riêng của nhà văn Tô Hoài khi xây dựng nhân vật
A Phủ ?
Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể lại nhân vật A Phủ trong thân phận tôi đòi vì phải làm không công
trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra nhưng có sức sống mạnh mẽ.
Câu 3 : Biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn: liệt kê
Bằng hình thức này, nhà văn đã thể hiện số phận cơ cực của A Phủ. Anh làm việc
như một cỗ máy, triền miên, ngày qua ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, mòn mỏi.
Câu 4 : Nét riêng của nhà văn Tô Hoài khi xây dựng nhân vật A Phủ : thông qua hàng
loạt động từ như Đốt, cày, cuốc, săn, bẫy , chăn …, có thể nói tác giả chủ yếu khắc hoạ
8
nhân vật qua hành động, từ đó thể hiện tính cách, số phận của một chàng trai miền núi
Tây Bắc trước sự áp bức, bóc lột của bọn chúa đất phong kiến.

Đề 6 :
Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng
lúc ấy Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm
nay như thế. Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
chết đấy, cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi. Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có
đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng
đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở dậy
thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.
Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt
nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó
bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này.
Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ... Mỵ phảng phất nghĩ như vậy.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định từ loại của từ bò trong câu văn một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Hiệu quả nghệ thuật của từ đó là gì ?
4. Xác định tâm trạng đối lập giữa đêm nay và đêm sau diễn ra đối với nhân vật Mị. Ý
nghĩa của sự đối lập đó là gì?
5. Hai câu văn Chúng nó thật độc ác và Người kia việc gì mà phải chết được sử dụng
bằng nghệ thuật gì? có ý nghĩa gì trong việc thể hiện tính cách nhân vật Mị?

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn thể hiện tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trước lúc cởi trói cho
A Phủ vào đêm đông trên rẻo cao tại nhà thống lí Pá Tra.
Câu 3 : Từ bò trong câu là động từ, diễn tả nước mắt A Phủ hiện ra rất chậm chạp . Sử
dụng động từ này, nhà văn nhấn mạnh giọt nước mắt lặng lẽ của một người đàn ông khỏe
mạnh, nhanh nhẹn, cứng cỏi đang trở nên tiều tụy trong một xã hội mà đàn ông là người
có vai trò tuyệt đối quan trọng. Chính vì vậy, nó đã làm Mị xúc động.
Câu 4 : Tâm trạng đối lập giữa đêm nay và đêm sau diễn ra đối với nhân vật Mị
- Đêm nay, nhìn thấy A Phủ mở mắt trừng trừng nhưng Mị vẫn thản nhiên hơ lửa,
hơ tay.
- Nhưng đêm sau, nhờ có ngọn lửa, Mị chứng kiến nước mắt của A Phủ. Nước mắt
ấy đã làm sống lại trong tâm hồn Mị nhiều cảm xúc và suy nghĩ : nó làm Mị nhớ lại thảm
cảnh của bản thân; thương thân nên Mị thương cho hoàn cảnh của A Phủ; căm giận sự
độc ác của cha con thống lí Pá Tra; thấy việc A Phủ phải chịu, sẽ phải chết là một điều
bất công phi lý.
9
Ý nghĩa của sự đối lập đó là thể hiệc sự thay đổi trong tâm trạng và hành động của
Mị: từ vô cảm đến đồng cảm, từ cam chịu đến thức tỉnh, từ nô lệ đến khát vọng tự do.
5/ Hai câu văn Chúng nó thật độc ác và Người kia việc gì mà phải chết được sử
dụng bằng nghệ thuật độc thoại nội tâm và đối lập. Chúng nó là cha con thống lí Pá Tra.
Người kia là A Phủ. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Mỵ đã nhận thức được bản chất của kẻ
thù giai cấp( độc ác), đồng thời thương cảm đến người thanh niên cùng cảnh ngộ với
mình, thấy sự phi lí trong cái chết sắp đến gần ( việc gì mà phải chết). Từ nhận thức đúng
đắn, tất yếu Mị sẽ hành động đúng: cởi trói cho A Phủ.
Đề 7 :

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời
mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc
đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ
chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ...Trong nhà tối
bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có
người bước lại... Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi,
như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ
thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay..." rồi Mỵ nghẹn lại. A
Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại
quật sức vùng lên, chạy.

Mỵ đứng lặng trong bóng tối.

Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.

(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)


1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Các từ láy được gạch chân: rón rén , hốt hoảng, thì thào đạt hiệu quả nghệ thuật như
thế nào khi diễn tả quá trình Mị cởi trói cho A Phủ ?
4. Xác định ý nghĩa nghệ thuật của hình ảnh cái cọc và dây mây trong văn bản ?
5. Tại sao câu văn Mỵ đứng lặng trong bóng tối. được tách thành một dòng riêng?
6. Từ văn bản, viết một đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình yêu thương con người của tuổi
trẻ hôm nay.

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn thể hiện tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cởi trói
cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa.
Câu 3 : Các từ láy được gạch chân: rón rén , hốt hoảng, thì thào đạt hiệu quả nghệ thuật
diễn tả tâm trạng và hành động của Mị khi cởi trói cho A Phủ. Nó chứng tỏ tâm trạng lo
sợ và hành động nhẹ nhàng từ bước đi đến lời nói của Mị. Điều đó phù hợp với quá trình
phát triển tính cách và tâm lí nhân vật Mị
10
Câu 4 : Hình ảnh cái cọc và dây mây trong văn bản :
-Ý nghĩa tả thực : nơi để trói và dụng cụ để trói A Phủ của thống lí Pá Tra để đổi
mạng nửa con bò bị hổ ăn thịt.
-Ý nghĩa tượng trưng : Biểu tượng cho cái ác, cái chết do bọn chúa đất miền núi
gây ra. Đó cũng là nơi không hẹn mà gặp giữa hai thân phận đau khổ cùng cảnh ngộ. Đó
cũng là nơi để Mị bộc lộ tình thương người và đi đến quyết định táo bạo giải cứu A Phủ
cũng là giải thoát cuộc đời mình. Sự sống, khát vọng tự do toả sáng từ trong cái chết.

5/ Câu văn Mỵ đứng lặng trong bóng tối. được tách thành một dòng riêng. Nó như cái
bản lề khép lại quãng đời tủi nhục của Mị, đồng thời mở ra một tương lai hạnh phúc. Nó
chứng tỏ tâm trạng vẫn còn lo sợ của Mị. Cô cũng không biết phải làm gì tiếp theo nên
chỉ “đứng lặng trong bóng tối”. Như vậy hành động của Mị vừa có tính tự giác (xuất phát
từ động cơ muốn cứu người), vừa có tính tự phát (không có kế hoạch, tính toán cụ thể),
nói cách khác là vì lòng thương người mà cũng là vì “liều”. Nhưng lòng khao khát sống,
khao khát tự do đã trỗi dậy, đã chiến thắng sự sợ hãi, để Mị tiếp tục băng đi, chạy theo A
Phủ. Đây là một câu văn ngắn, thể hiện dụng công nghệ thuật đầy bản lĩnh và tài năng
của Tô Hoài.

6. Đoạn văn đảm bảo các ý:


- Dẫn ý bằng tình thương của Mị dành cho A Phủ thông qua tậm trạng và hành động cởi
trói.
- Hiểu thế nào là tình yêu thương con người nói chung và của tuổi trẻ hôm nay nói riêng?
- Ý nghĩa của thình yêu thương con người của tuổ trẻ?
- Phê phán thái độ thờ ơ, vô cảm, ích kỉ của một bộ phận thanh niên trong xã hội và hậu
quả thái độ đó?
- Bài học nhận thức và hành động?

CÂU 5 ĐIỂM:
Đề 1 : Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.
A/ Lập dàn ý:
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật Mị .
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích nhân vật Mị :
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: Mị là người phụ nữ có cuộc sống nghèo khổ, được gợi ra một cách
ấn tượng ngay ở phần mở đầu truyện.
-Làm rõ đặc điểm: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị
bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống
( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị,…).
11
b./Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: Dù cuộc sống khốn khổ, Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng và khát
vọng tự do, hạnh phúc.
-Làm rõ đặc điểm: Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu,…), Mị
đã thức tỉnh (kỉ niệm sồng dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận,…) và
muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc,…). Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như không biết mình
đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo.
c/Phân tích đặc điểm 3:
- Nêu đặc điểm: Mị còn là người phụ nữ có sức phản kháng mạnh mẽ.
- Làm rõ đặc điểm: Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng
khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị
xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình
thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt,… đã thôi thúc Mị cắt dây
trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị:
- Tác giả giới thiệu nhân vật Mị đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Một bút pháp
mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế.
- Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà
vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, chọn lọc, sáng tạo, tinh tế, mang đậm màu sắc
miền núi.
III . Kết bài :
- Kết luận chung vè hình tượng nhân vật Mị.
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
- Cảm nghĩ về nhân vật.
B/ Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh
đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn.
Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu
biểu)
Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng
tác phẩm đạt kỉ lục với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự
truyện...Ông cũng là một nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về
phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Vợ chồng A
Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây
Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Đặc biệt,
truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm
hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân
Tây Bắc .
Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in
:Khái trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc
quát tác sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá
phẩm Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng,
được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích
12
đánh Pháp bảo vệ làng.
Phân a/. Mị là người phụ nữ có cuộc sống nghèo khổ, được gợi ra một cách
tích ý 1 : ấn tượng ngay ở phần mở đầu truyện.
Số phận -Tác giả mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy
của nhân nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
vật Mỵ thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa,
cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi
hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi”. Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi,
âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là
con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười
rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm
ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
- Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh
phúc cá nhân, sống tủi nhục hơn trâu ngựa.
+Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc và có khả
năng âm nhạc, cô thổi sáo giỏi, “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu
đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao
nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người
con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu
nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong
nhà thống lí.
+Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con
người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận
Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó
còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì
vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
+Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị.
Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với
cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy
mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ
địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm
cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi
ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì
nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong
những con người vô cùng đáng sống.
+Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ
của người cha. Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị
lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng
thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống
không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết
chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay
13
đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị
mà thôi .
+ Nỗi thống khổ của Mị thể hiện rõ nhất khi mùa xuân đến. Ngày Tết ai
cũng được đi chơi "bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết”. Riêng Mị thì
không. Mị muốn đi chơi. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị
suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột,
làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc
mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”. Có lúc Mị
“vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau
không cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa
nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Phân b./Dù cuộc sống khốn khổ, Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng và khát
tích ý 2 : vọng tự do, hạnh phúc.
sức sống -Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con
tiềm tàng rùa lầm lũi kia đang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi
và khát lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ,
vọng tự nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại bừng sáng. Và
do, hạnh khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong
phúc của một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
nhân vật -Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người
Mỵ tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các
loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy
nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm
đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm
người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng
quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không
thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước
(ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình
là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ.
Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống
chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
-Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh
bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo, bởi
tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn
trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu nữ.
-Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho
nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi
phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông
ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ
đầu tiên là được chết ngay đi.
- Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần,
cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi
Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi
chơi”. Phải tới thời điểm đó, Mị mới có hành động : quấn lại tóc, với thêm cái
14
váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một
giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử
hỏi .
-Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, lẳng lặng khoác thêm vòng
bạc đi chơi, bỏ mặc Mị đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân
trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong
thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc
mơ của Mị. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân
bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ
không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn
nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và
tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều
ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với
vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Phân c/. Mị còn là người phụ nữ có sức phản kháng mạnh mẽ.
tích ý 3 : - Có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A
sức phản Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi. Những
kháng va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình
mạnh mẽ mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản
của năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã
nhân vật đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi
Mỵ thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình
thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá
trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô
cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế
thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt
bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt
nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi
nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã
khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói
đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương
cho mình.
-Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ,
mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình,
Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng
cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà …
chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết
”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của
một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo
lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy
sức sống và khát vọng thay đổi số phận .
-Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm,
và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm
15
tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị .
Nhận xét - Tác giả giới thiệu nhân vật Mị đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng.
về nghệ Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn
thuật xây biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh
dựng phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng “hoá thân” kỳ
nhân vật diệu của nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật.
Mị - Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật
của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ
nửa trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, chọn lọc, sáng tạo, tinh tế, mang
đậm màu sắc miền núi.
Kết bài Tóm lại, Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận,
tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực
dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, nó
cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của
những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của
những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững
vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .

Đề 2 : Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài .
A/ Lập dàn ý :
I . Mở bài:
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật A Phủ.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt cốt truyện.
2. Phân tích nhân vật A Phủ
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: A Phủ có số phận đặc biệt, là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và
cường quyền phong kiến miền núi:
-Làm rõ đặc điểm: A Phủ mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà
khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ...
b./ Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: A Phủ có những phẩm chất tốt đẹp.
-Làm rõ đặc điểm: + A Phủ là một chàng trai biết sống và sống mạnh mẽ.
+ A Phủ là người có sức sống mãnh liệt.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật A Phủ:
- Nhân vật A Phủ là con người hành động.
- Miêu tả nhân vật qua hành động với ngôn từ chọn lọc, câu văn biến hoá về nhịp điệu
III . Kết bài:
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật A Phủ.
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
- Cảm nghĩ về nhân vật.
16
B/ Gợi ý làm bài:: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý
dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu).
Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng
tác phẩm đạt kỉ lục.Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba
truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực
và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng
núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc
biệt, truyện đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ, qua đó ca ngợi vẻ
đẹp tâm hồn, sức sống mạnh mẽ và khả năng đến với cách mạng của nhân
dân Tây Bắc .
Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in
:Khái trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc
quát tác sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá
phẩm Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng,
được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích
đánh Pháp bảo vệ làng.
Phân a/. A Phủ có số phận đặc biệt, là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và
tích ý 1 : cường quyền phong kiến miền núi:
Số phận - Chú bé A Phủ từ tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân
của nhân thích trên đời vì cả làng A Phủ không mấy ai qua được trận dịch. A Phủ sống
vật A sót không phải nhờ sự ngẫu nhiên mà vì chú là một mầm sống khoẻ, đã vượt
Phủ qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên. Bởi thế, không ngạc nhiên khi
có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới
mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn
thoát lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành
chàng trai Mông khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc
cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều người mê,
nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong
nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn
rất nghèo. A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc,
suốt đời làm thuê, làm mướn, phép làng và tục lệ cưới xin ngặt đến nỗi A Phủ
không thể nào lấy nổi vợ.
Phân b./A Phủ có những phẩm chất tốt đẹp.
tích ý 2: - A phủ là một chàng trai biết sống và sống mạnh mẽ. Cá tính gan góc
những của A Phủ vốn đã bộc lộ từ năm lên mười, cá tính ấy lại được chính cuộc sống
phẩm hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê nhiều cực nhọc, vất vả
chất tốt hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo.
đẹp của +Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con.
nhân vật Con trai thống lí là con trời, không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ.
A Phủ Với A Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh. Thế thôi.
+A Phủ đã phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy. Nhưng
là người đơn giản, A Phủ không quan tâm. Khi đã phải sống thân phận của kẻ
17
làm công trừ nợ, A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, dù phải quanh năm
một thân một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ,
chăn bò, chăn ngựa..." nhưng cũng là quanh năm A Phủ "bôn ba rong ruổi
ngoài gò ngoài rừng" làm phăng phăng mọi thứ, không khác với những năm
tháng trước kia. Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa
con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi "lấy con hổ về" một cách thản nhiên
và coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm
nhiên: A Phủ không biết sợ các uy của bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra
cũng thế thôi. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để
người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm các
việc ấy một cách thản nhiên, không nói. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ
không sợ cả cái chết...
- A Phủ là người có sức sống mãnh liệt. Từ sau đám xử kiện, A Phủ phải
chấp nhận làm con ở gạt nợ cho nhà thống lí, không còn nhớ đến những ngày
tháng theo bạn đi chơi hội ở các làng. Khi bị nhà thống lí đánh đập dã man, A
Phủ chỉ biết cúi đầu nín nhịn, thậm chí lúc được Mị cởi trói, A Phủ chỉ như
một cái xác chực "ngã khuỵu""không bước nổi". Nhưng khi khát vọng sống
trỗi dậy, A Phủ "quật sức vùng lên chạy" thoát khỏi gông cùm, xiềng xích.
Đáp lại lời kêu thương trong hơi gió thốc lạnh buốt của Mị: A Phủ cho tôi
đi...Ở đây thì chết mất, A Phủ không thể bỏ rơi người đàn bà vừa cứu mình,
anh nói: Đi với tôi như để đền ơn đáp nghĩa người đã cứu mình. Sự vùng lên
tự giải thoát cho chính mình của A Phủ và Mị tiêu biểu cho sự vươn lên của
đồng bào các dân tộc miền núi, cho dù đó chỉ là tự phát nhưng đó là tiền đề
cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.
Nhận xét Nếu nhân vật Mị được nhà văn thể hiện chủ yếu bằng nội tâm sâu sắc thì
về nghệ nhân vật A Phủ là con người hành động. Miêu tả nhân vật qua hành động
thuật với ngôn từ chọn lọc, câu văn biến hoá về nhịp điệu là bút pháp nghệ thuật
của nhà văn Tô Hoài khi khắc hoạ nhân vật A Phủ. Bút pháp ấy hoàn toàn phù
hợp với tính cách nhân vật.
Kết bài Tóm lại, Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận,
tính cách A Phủ đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực
dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó
cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của
những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của
những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững
vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .

Đề 3: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ
” của Tô Hoài.
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Nêu vấn đề sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị .
II. Thân bài:
18
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt cốt truyện.
2. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị :
a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống
lí Pá Tra :
b. Mị toan tự tử:
c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi
sinh một cách chóng vánh khi mùa xuân đến.
d. Sức sống tiềm tàng thêm một lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ:
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện sức sống tiềm tàng của Mị:
- Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế.
- Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần
thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa
trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
III./ Kết bài :
- Kết luận chung về sức sống tiềm tàng của Mị. Nêu ý nghĩa của sức sống đó.
- Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả.

Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong cảnh đêm
hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ ở Hồng Ngài trong truyện “Vợ chồng
A Phủ ” của Tô Hoài.
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét về tác phẩm
- Giới thiệu về nhân vật Mị (đặc biệt là diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ)
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm
đông cởi trói cho A Phủ:
a/ Tâm trạng và hành động của Mị khi mùa xuân về (đặc biệt trong đêm tình
xuân).
- Ý phụ : Nêu khái quát về thân phận Mị ở Hồng Ngài (trong nhà thống lí Pá tra),
chuyển ý và phân tích : tâm trạng Mị đã thay đổi trong “đêm tình mùa xuân”.
- Phân tích tâm trạng của Mị khi nghe tiếng sáo, uống rượu, nhớ về quá khứ...Tâm
trạng thể hiện Mị khao khát tự do, hạnh phúc.
- Phân tích tâm trạng của Mị khi vào trong buồng đến khi bị A Sử trói: tâm trạng thể
hiện Mị khao khát tự do, hạnh phúc, đấu tranh để có tự do.
b/ Diễn biến Tâm trạng và hành động nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A
Phủ :
- Dẫn ý vào phân tích : A Phủ bị trói gần bếp lửa, Mị vẫn hơ tay.
- Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị thản nhiên, vô cảm.
19
- Thấy nước mắt A Phủ, tâm trạng Mị thay đổi, Mị suy nghĩ nhiều.
- Cuối cùng, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ.
- Tâm trạng thể hiện lòng nhân từ của Mị. Đặc biệt thấy rõ sức phản kháng, lòng
khao khát tự do và quyết tâm đi tìm tự do của Mị.
3. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tậm trạng nhân vật Mị: Miêu tả tâm trạng
nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật tâm lí, ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh,
giàu chất thơ.
III . Kết bài:
- Kết luận chung về tâm trạng của Mị. Nêu ý nghĩa của tâm trạng.
- Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả.
B/ Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý
dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu).
Mở bài Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại Việt
Nam, không chỉ ở số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn bởi nghệ thuật viết truyện
tài ba lôi cuốn người đọc nhiều thế hệ. Ông cũng là nhà văn có vốn sống hiểu
biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên
đất nước ta. Thành công xuất sắc của ông là những tác phẩm viết về hiện thực
cuộc sống, con người vùng đất Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn "Vợ chồng A
Phủ".Truyện ngắn đã thể hiện sâu sắc diễn biến tâm trạng và hành động
của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in
:Khái trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần : Phần đầu kể về cuộc
quát tác sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá
phẩm Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng,
được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích
đánh Pháp bảo vệ làng.
Phân Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo, có nhiều người mê
tích ý 1 : và Mị đã có người yêu. Nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, Mị phải làm con dâu
Số phận nhà Pá Tra. Cuộc sống của Mị trong nhà Pá Tra còn khổ hơn trâu ngựa. Không
của nhân chỉ bị đày đoạ về thể xác, Mị còn tê liệt tinh thần. “Mị cúi mặt, không nghĩ
vật Mỵ ngợi nữa”. Mỗi ngày Mị càng không nói, “lùi lũi như con rù nuôi trong xó
cửa”. Có phải Mị đã trở thành người vô cảm? Không phải như vậy, tâm trạng
Mị đã có sự thay đổi trong một “đêm tình mùa xuân”.

Phân Xuân qua rồi xuân lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến.Những
tích ý 2 : nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của
Tâm ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi
trạng và trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc
hành quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,... Tất cả những hình ảnh này
động của đã dội vào tâm hồn Mị - một tâm hồn khô cằn. Nó làm cho sức sống của Mị
Mị khi bắt đầu có sự vận động. Nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản
mùa nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải
20
xuân về chịu quá nhiều đau khổ. Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, chơi
quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy lên sân thì Mị tha thiết bồi hồi khi nghe
tiếng sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi sáo :
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu
Sự sống của tạo vật và con người như được khơi động, bừng tỉnh. Hoàn
cảnh ấy không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Nhất là tiếng sáo, tiếng
sáo rủ bạn đi chơi ngoài đầu núi … Tiếng sáo đã đánh thức kỉ niệm của một
thời con gái của Mị: “ ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống
rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như
thổi sáo …”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân,
của khát vọng hạnh phúc. Ngày tết, Mị cũng uống rượu “ Mị lén lấy hũ
rượu uống ừng ực từng bát …” Men rượu như tăng thêm nồng nàn sức trẻ
đang bừng lên trong Mị, Mị thấy phơi phới trở lại, “ Mị trẻ lắm, Mị còn trẻ,
Mị muốn đi chơi”. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.
Mị từ từ bước vào buồng với tâm trạng phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị đã thức tỉnh và tự ý
thức là mình trẻ lắm, mình vẫn còn trẻ và khao khát đi chơi như bao người
phụ nữ đã có chồng khác. Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu
thì Mị cảm thấy phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số
phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết,
huống chi A Sử và Mị lại không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.
Không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ nên Mị muốn ăn lá
ngón cho chết ngay. Uất ức, nước mắt của Mị ứa ra khi tiếng sáo gọi bạn tình
vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá
trình thức tỉnh. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nơ và
niềm vui phơi phới muốn đi chơi Tết.“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Ngọn đèn làm ấm lên gian buổng tối
tăm, lạnh lẽo. Hơi rượu nồng nàn cùng tiếng sáo rập rờn, thôi thúc Mị đi đến
quyết định: muốn đi chơi. “ Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở giá
trong.” Đây là lúc Mị đã thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ
đẹp.
Đúng lúc ấy, sợi dây trói tàn bạo của A Sử kịp thời quăng lưới vào khát
vọng của Mị, ý muốn đi chơi bị chặn đứng. Chỉ sau một câu hỏi: Mày muốn đi
chơi à? thì A Sử đã trói tay Mị vào cột bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị
trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị bị quấn lên cột, Mị không cúi, không nghiêng
đầu được nữa. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động của Mị, Tô Hoài
dường như đã nhập hồn vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng. Hơi
rượu vẫn còn nồng nàn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên nỗi đau khổ và đau
đớn hiện tại, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và vùng bước đi. Nhưng cuối cùng
cô vẫn phải trở lại với thực tại khắc nghiệt, đau đớn, khổ nhục khi tay chân,
21
đầu không cựa được. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa khi
nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Cô nín khóc, bối hồi
trong trạng thái lúc mê, lúc tỉnh. Dây trói thít lại đau nhức nhưng Mị vẫn nồng
nàn tha thiết nhớ. Bị trói đứng suốt đêm, khi bàng hoàng tỉnh thì trời đã
sáng, chỉ nghe thấy tiếng lửa rép, không một tiếng động. Mị nghĩ đến các vợ
chú, thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan, thương người
đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Nghĩ vậy nên Mị vừa thương
mình vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng
Ngài một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị sợ hãi
cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết thì sợi dây trói lại đau dứt từng
mảng thịt. Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong đêm tình
mùa xuân. Kết cục ấy cũng là lời lên án, tố cáo đối với hành động tàn độc của
cha con thống lí, đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi đã áp bức con
người, chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của họ.
Phân Từ sau cái đêm tình mùa xuân nghiệt ngã ấy, Mị càng trở nên vô hồn, vô
tích ý 3 : cảm và vô vọng. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài
Diễn từ ngày đó chỉ còn thu hẹp qua vuông cửa sổ chỉ bằng bàn tay ở căn buồng u
biến tâm tối. Ý thức làm người của Mị bị cha con thống lí làm tê liệt tới mức Mị chỉ còn
lí nhân là cái bóng lãng quên đi dĩ vãng, không gắn bó với hiện tại, lại càng chẳng
vật Mị thiết đến tương lai. Nhưng tâm trạng của Mị lại một lần nữa có sự thay đổi.
trong Sự thay đổi ấy diễn ra trong một đêm đông-đêm Mị cởi trói cho A Phủ.
đêm cởi Trong đêm Mị bị trói, cũng là đêm A Sử đi chơi và bị A Phủ đánh bị
trói cho thương. A Phủ là chàng tai mồ côi, nghèo, lao động giỏi, có gan bướng từ
A Phủ nhỏ. Đi chơi Tết, đánh A Sử, A phủ bị bắt, bị xử kiện rồi trở thành người ở
cho nhà Pá Tra. Để mất một con bò, A Phủ bị Pá Tra trói đứng vào cột. Nơi A
Phủ bị trói gần bếp lửa hằng đêm Mị vẫn thổi lửa hơ tay. A Phủ bị trói đã mấy
đêm rồi. Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị đã thấy A Phủ bị trói
nhưng cô vẫn thản nhiên, vô cảm. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy
cũng thế thôi”.
Đêm nay, khi ngọn lửa bập bùng sáng lên, khi lé mắt trông sang, nhìn
thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại
”của A Phủ, tâm trạng Mị đã thay đổi. Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói,
khi “sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã gục xuống”. Đêm ấy Mị
đã khóc, còn bây giờ đây Mị dường như không còn biết khóc nữa. Chính dòng
nước mắt nhân tình khổ đau đã thành dòng nham thạch nung chảy tâm hồn đã
đóng băng của Mị. Thì ra đôi mắt “trừng trừng”, những cái đấm đá và bao
nhiêu hành động phi nhân mà Mị phải chịu đã trở thành cuộc đời thường của
cô. Cho nên dòng nước mắt chính là sự kiện bất bình thường gợi khơi cô nhớ
lại quá khứ. Vừa thương mình, vừa căm phẩn lũ người tàn ác vừa bị ám ảnh
bởi cái chết, ám ảnh bởi con ma nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà
cùng thân cùng phận như mình đã chết trong quá khứ vừa nghĩ tới số phận
phải chết vô lí của A Phủ… Tâm hồn Mị nổi sóng bấn loạn. Vậy là dòng nước
mắt của A Phủ đã làm Mị nhớ tới nước mắt của mình, Mị nhớ tới cái chết
nhãn tiền của A Phủ. Từ số kiếp A Phủ, Mị lại nghĩ tới mình đã về “trình ma
22
nhà nó rồi” không phương thoát khỏi nhưng A Phủ không lí gì phải chết…
Không dừng lại ở đó, ý nghĩ của Mị còn đi xa hơn, không phải cảm tình
mà là lí tính. Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, nhận thấy nguy cơ cái chết
sẽ đến với A Phủ chỉ trong đêm mai, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.
Mị lại nghĩ về mình là thân đàn bà, đã bị trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Chuyển ý nghĩ từ mình sang A Phủ, Mị thấy
người kia việc gì mà phải chết…Mị phảng phất nghĩ như vậy. Dù ý nghĩ của
Mị chỉ là phảng phất, hai tiếng A Phủ chỉ là lần đầu tiên rung lên như hơi thở
trong lòng Mị, nhưng nó là tiếng nói của tình thương. Hẳn là trong cái phảng
phất ấy, Mị có nghĩ đến việc cứu A Phủ khỏi chết và Mị đã hình dung: đến
một lúc nào, khi A Phủ trốn đi rồi, bố con Pá Tra bảo là Mị cởi trói cho A Phủ,
Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy.
Nhưng Mị không thấy sợ. Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến
vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người
đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ
nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy
nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị,
Mị nói: "A Phủ! Cho tôi đi!". Đây là câu nói của lòng ham sống trong giờ
phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng
không đủ sức giữ chân Mị lại, Mị cứu A Phủ là tự cứu mình mà cô đã
không biết. Chẳng cưới xin, họ đã trở thành vợ chồng từ cái đêm đầy ý nghĩa
ấy, cái đêm vì nghĩa trước lúc vì tình. Thế là hai người nô lệ giải thoát cho
nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.
Miêu tả tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ, một lần nữa, nhà văn Tô
Hoài làm nổi bật khát vọng tự do trong Mị. Đó cũng chính là tinh thần phản
kháng của Mị.
Nhận xét Nhà văn Tô Hoài có bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế.
về nghệ Những đoạn miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham
thuật thể sống và khát vọng hạnh phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ
hiện diễn khả năng “hoá thân” kỳ diệu của nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Các
biến tâm tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần
trạng và thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn
hành ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và
động của giọng nhân vật,.. những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng Mị khá thành
Mị công, khá sinh động và có sức thuyết phục người đọc khá cao. Ngôn ngữ kể
chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
Kết bài Tóm lại, Tô Hoài rất thành công khi miêu tả diễn biến tâm trạng và
hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Đó là quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ. Tác phẩm không chỉ
phản ánh nỗi thống khổ của người dân miền núi Tây Bắc mà còn thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn và quá trình vùng lên tự giải phóng mình của đồng bào vùng cao.
Chính vì thế, truyện ngắn có giá trị nhân văn sâu sắc.

23
Đề 5 : Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ trong truyện
“Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài.
A/ Lập dàn ý :
I . Mở bài:
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho
A Phủ
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ:
- Dẫn ý vào phân tích : A Phủ bị trói gần bếp lửa, Mị vẫn hơ tay.
- Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị thản nhiên, vô cảm.
- Thấy nước mắt A Phủ, tâm trạng Mị thay đổi, Mị suy nghĩ nhiều.
- Cuối cùng, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ.
- Tâm trạng thể hiện lòng nhân từ của Mị. Đặc biệt thấy rõ sức phản kháng, lòng
khao khát tự do và quyết tâm đi tìm tự do của Mị.
3. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tậm trạng nhân vật Mị: Miêu tả tâm trạng
nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật tâm lí, ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh,
giàu chất thơ.
III . Kết bài:
- Kết luận chung về tâm trạng của Mị. Nêu ý nghĩa của tâm trạng.
- Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả.
Đề 6: Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
( SGK Ngữ văn 12) ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2009).
A. Đáp án của Bộ GD&ĐT :
a. Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi;
phân tích được giá trị tư tưởng của một tác phẩm. Kết cấu chặt chẽ, diễn
đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
(chủ yếu phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai) và giá trị nhân đạo trong văn học, thí sinh
có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rõ được các ý cơ bản sau:
−Nêu được vấn đề cần nghị luận
− Tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi (tiêu biểu là cha con thống
lí Pá Tra).
−Bênh vực và cảm thông sâu sắc với những con người có số phận bất hạnh
như Mị, A Phủ.
−Trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động
nghèo miền núi trong xã hội cũ.
−Đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của những người bị áp bức
và vạch ra con đường giải phóng cho họ.

24
−Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn.
Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu
biểu)
Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng
tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba
truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực
và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng
núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.
Đặc biệt truyện đã thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc.
Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in
:Khái trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần : Phần đầu kể về cuộc
quát tác sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá
phẩm Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng,
được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích
đánh Pháp bảo vệ làng.
Khái Giá trị nhân đạo hiểu một cách giản dị là tình cảm, thái độ của nhà văn
niệm Giá dựa trên các nguyên tắc và đạo lí làm người mang tính chuẩn mực và tiến bộ
trị nhân của thời đại được thể hiện qua cái nhìn về cuộc sống và con người từ bối
đạo cảnh cụ thể trong tác phẩm.

Phân tích Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trước hết
ý : niềm được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất
cảm quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
thông sâu Mị vốn là một cô gái xinh đẹp mang trong mình biết bao phẩm chất cao
sắc đối quý. Thế mà...kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ
với số không công cho nhà thống lý, dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần
phận bất quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống một chuỗi ngày đau
hạnh, bị thương, tủi nhục, tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày
mất đoạ về tinh thần. Mị bị đối xử như con vật, thậm chí không bằng con vật:
quyền “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là
sống của con ngựa phải tới ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa
người lao chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi gì nữa... Con
động trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
miền núi, cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Sự đau
mà tiêu khổ tủi cực đã cướp đi mất tuổi xuân của Mị, biến cô trở thành một kẻ cam
biểu là chịu. Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời thuở nào giờ gần như đã
Mị và A chết, chỉ còn người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng.
Phủ. Mị ngày càng không nói. Mị mất hết cảm giác thời gian: không dĩ vãng,
không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái “lỗ
vuông” của chiếc cửa sổ “bằng bàn tay, trăng trắng, không biết là sương
hay là nắng”. Mị gần như tê liệt sức sống, “lùi lũi như con rùa nuôi trong
25
xó cửa”. Bằng những chi tiết chân thực gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho
bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm càng thêm sinh động,
vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.
Không chỉ với nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài còn thể hiện tình thương
yêu, sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật A Phủ. A Phủ là một chàng trai
khoẻ mạnh, gan góc, yêu chính nghĩa, vốn không nợ nần gì nhà thống lý Pá
Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khoáng tự do như con chim trời giữa núi
rừng Tây Bắc, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn
chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà thống
lý Pá Tra. Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi
ngày tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho
nhà thống lý. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ phải chịu
biết bao sự đoạ đày nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt
hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và
phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy dài trong những đêm bị trói
đứng trong góc nhà, thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên
“hai hõm má xám đen lại” vì tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ.
Phân Đồng cảm với người lao động nghèo, tác giả đã tố cáo gay gắt thế
tích ý 2 : lực thực dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đói lập, chà đạp lên cuộc
tố cáo sống con người là cha con thống lý Pá Tra.
gay gắt Thống lí Pá Tra là kẻ thâm độc, tàn bạo, là nguyên nhân gây ra nỗi khổ
thế lực đau cho cuộc đời của Mị, A Phủ. Với Mị, Pá Tra chính là kẻ tước đoạt tự do,
thực dân hạnh phúc cuộc đời Mị, biến Mị trở thành "trâu ngựa". Bố mẹ nghèo, cưới
phong nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua
kiến. đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm
Điển con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra
hình là xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có
cha con cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Từ đó, cuộc đời tăm
thống lý tối của Mị bắt đầu. Mị bị bóc lột sức lao động với những công việc quanh
Pá Tra. năm suốt tháng, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị trở thành vô cảm, sống “lùi
lũi như con rùa nôi trong xó cửa”. Với A Phủ, Pá Tra lợi dụng thần quyền
và cường quyền để xử kiện một cách dã man, phi lí, vô nhân đạo. Cuộc đời
nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý
do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không
phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật
trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì
còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời
mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe
mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà
quan. Chưa hết, khi A phủ để mất một con bò, anh bị thống lí Pá Tra trói đứng
vào cột bằng dây mây, từ chân tới đầu. A Phủ sẽ chết nếu không được Mị cứu
thoát. Pá Tra đã coi tính mạng của A Phủ không bằng một con bò.
Cùng với tên thống lí Pá Tra, nhà văn còn tố cáo, lên án sự tàn bạo
của tên A Sử. Nếu như Pá Tra là kẻ biến Mị trở thành nô lệ thì A Sử là kẻ
26
tước đi một chút tự do cuối cùng của Mị. A Sử không xem Mị là người,
“chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền
bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay
ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm
cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt
lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như
thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ,
không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A
Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một
người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có
thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính.
Chỉ bằng mấy trang truyện, nhà văn Tô Hoài đã gieo vào lòng người
đọc nỗi căn hận với Pá Tra, với A Sử, với giai cấp thống trị, là nguyên nhân
gây ra mọi nỗi đau khổ cho người lao động nghèo.
Phân Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, “Vợ chồng A
tích ý 3: Phủ” còn là một bài ca ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người
ca ngợi lao động, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp
những của những con người Tây Bắc. Đó chính là một biểu hiện quan trọng về
nét phẩm giá trị nhân đạo của truyện này.
chất tốt Trước hết là đối với nhân vật Mị. Người đọc không chỉ thương một
đẹp của cô Mị khốn khổ, bị đoạ đày, mà còn yêu một cô Mị tài hoa, ham sống, giàu
người lòng hiếu thảo, đức hi sinh và tinh thần đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh. Ách
lao động, thống trị của cường quyền, thần quyền, hủ tục đã không giết hẳn hình ảnh
… người con gái tài hoa, yêu đời trong Mị. Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm
sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác
động ngoại cảnh để bùng dậy, cháy sáng. Đêm tình mùa xuân và cảnh Mị cởi
trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất trong tác phẩm, đánh dấu sự bừng
tỉnh của con người đấu tranh trong Mị. Nhờ tiếng sáo Mị tình cờ nghe được
giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng
“thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Mị là cô
gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu,
“gọi bạn yêu”, nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu
thương và hạnh phúc. Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao
nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ”. “Mị
lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có
ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men
vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô
không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả
hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân
vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô
vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị
lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn
này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những
dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến
27
thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức
phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ:“người kia việc gì
phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A
Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy
chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế
nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con Thống Lí Pá Tra về ở
trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa
chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết
còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai?
Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng,
sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!
Cùng với việc miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt của Mị,
nhà văn Tô Hoài còn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật A
Phủ. Tác giả đã khắc hoạ nên một A Phủ chất phác, lao động giỏi, cường
tráng, có bản lĩnh, yêu tự do. Những phẩm chất tâm hồn và tính cách khoẻ
khoắn, mạnh mẽ ấy đã giúp Mị và A phủ có đủ nghị lực để trỗi dậy, phá bỏ
gông cùm, thoát khỏi nhà Pá Tra, đi tìm tự do. Và họ đã có tự do, cho dù
hành động của Mị và A phủ là tự phát, chỉ là bắt đầu bằng lòng khát khao
sống.
Phân Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” còn mang nét mới, tiến
tích ý 4: bộ hơn chủ nghĩa nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra con
chỉ ra đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác,
con từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ
đường sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử. Con đường đó được nhà văn
giải miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị và A Phủ từ lúc trốn khỏi Hồng
phóng Ngài đến lúc trở thành những người du kích Phiềng Sa. Từ những con người
thực sự nô lệ u mê, câm lặng, họ đã tự phá bỏ sợi dây trói hữu hình thắt chặt cuộc đời
của họ trong nhà thống lý Pá Tra để đi theo tiếng gọi của tự do, để giác ngộ một
người lao chân lý: chỉ có cách cầm súng đánh lại bọn thống trị, họ mới có thể có được
động cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Nhận xét Giá trị nhân đạo của truyện càng trở nên thấm thía, sâu sắc nhờ
về nghệ hình thức nghệ thuật viết truyện điêu luyện của ngòi bút Tô Hoài. Một
thuật thể bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn biến bên
hiện giá trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc, tình
trị nhân yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng “hoá thân” kỳ diệu của
đạo nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Tô Hoài cũng thành công khi miêu
tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhiên sinh
động, giàu chất thơ ; các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo
léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm
của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Ngôn ngữ kể chuyện
của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
Kết bài Tóm lại, niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất
quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ; tố cáo
gay gắt thế lực thực dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đối lập, chà đạp
28
lên cuộc sống con người là cha con thống lý Pá Tra; ca ngợi những nét phẩm
chất tốt đẹp của người lao động, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với
khát vọng tốt đẹp của những con người bị đày đoạ, đau khổ; chỉ ra con đường
giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối
đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của
Đảng như một tất yếu lịch sử là những biểu hiện giá trị nhân đạo đặc sắc của
truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".

Đề 7: Phân tích giá trị hiện thực tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Nêu vấn đề giá trị hiện thực của truyện
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất
xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện,
2. Phân tích giá trị hiện thực của truyện :
a/.Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A
Phủ" là tác giả đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây
Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, được thể hiện qua hai nhân
vật điển hình là Mị và A Phủ.
-Làm rõ đặc điểm: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”,
bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống
( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị,…).
-Làm rõ đặc điểm: A Phủ mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà
khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ...Chỉ vì dám đánh lại con quan thống lý để
bảo vệ bạn bè, bênh vực lẽ phải, A Phủ bị cột chặt vào thân phận một đứa ở gạt nợ trong
nhà Pá Tra.
b/.Giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" còn biểu hiện qua
việc nhà văn phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi, được thể
hiện qua hai nhân vật điển hình là Pá Tra và A Sử.
-Làm rõ đặc điểm: Thống lí Pá Tra xuất hiện trong tác phẩm như một kẻ chủ mưu
cho mọi tội ác. Nó có thể ra lệnh để bắt người vô lí, để đánh trói người một cách tàn nhẫn
mà không một chút đắn đo.
-Làm rõ đặc điểm: A Sử vừa là con người tàn bạo: ngang nhiên bắt Mị về làm vợ,
làm nô lệ, đi phá đám, phá nát niềm vui, vui xuân của bao nhiêu trai gái bản làng khác.
- Phản ánh bọn thống trị đó, nhà văn muốn người đọc liên tưởng đến bọn người tàn
ác, tàn bạo đang làm điêu đứng những cảnh đời trên những nẻo rừng Tây Bắc.
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện giá trị hiện thực của truyện:
- Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế.
- Tô Hoài cũng thành công khi miêu tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh
phong cảnh thiên nhiên sinh động, giàu chất thơ ;

29
- Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần
thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa
trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
III./ Kết bài :
-Tóm lại, truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" có giá trị hiện thực sâu sắc với hai
biểu hiện : miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây Bắc; phơi bày
bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị.
-Ý nghĩa giá trị .
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh
đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo
hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng
tiêu biểu)
Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng
tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba
truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện
thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động
vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền
núi . Truyện thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc.
Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in
:Khái trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc
quát tác sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá
phẩm Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng,
được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích
đánh Pháp bảo vệ làng.
Phân Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng
tích ý 1 : A Phủ" là tác giả đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân
miêu tả miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, được
chân thực thể hiện qua hai nhân vật điển hình là Mị và A Phủ.
số phận Mị là người con gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa. Cuộc sống đối với cô
cực khổ lúc ấy phơi phới như tiếng sáo mùa xuân và đẹp đẽ như tình yêu buổi đầu.
của Nhưng những tháng ngày hạnh phúc trôi qua chóng vánh, bước chân vào nhà
người thống lý với tư cách một cô dâu gạt nợ, Mị chỉ còn là người nô lệ không
dân miền công, là con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng con trâu, con ngựa nhà
núi Tây thống lý. Đè nặng lên cuộc sống của cô là ba tầng áp bức: cường quyền, thần
Bắc quyền và hủ tục phong kiến miền núi. Mị chết dần chết mòn trong chuỗi thời
gian quẩn quanh được đo bằng tăm tối, tủi nhục, đau thương. Bị bóc lột sức
lao động, hành hạ về thể xác, chưa hết, Mị còn bị đày đoạ cả về mặt tinh
thần.
Quãng đời làm dâu nhà thống lý “nhào nặn” Mị trở thành con người
cam chịu. Cô gái Mèo xinh đẹp, duyên dáng với tiếng sáo làm say mê lòng
người ngày nào gần như đã chết, chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô,
tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị cắt đứt mối dây liên hệ giao tiếp với con
30
người xung quanh. Thờ ơ trước sự chảy trôi của thời gian, sự vận động của
không gian, Mị mất luôn cả ý thức về dĩ vãng, hiện tại và tương lai. Cuộc đời
Mị giờ đây được thu nhỏ qua ô cửa bằng lòng bàn tay. Qua ô cửa ấy, sắc màu
sự sống trước mặt Mị bao giờ cũng mờ mờ, trăng trắng, “không biết là
sương hay nắng”... Tâm hồn Mị tê liệt hết sức sống. Sự tồn tại của Mị trong
nhà thống lý chỉ đơn giản là sự tồn tại về mặt thể xác, câm lặng, “lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa”. Chỉ qua những chi tiết miêu tả cuộc đời Mị, Tô
Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng,
vừa có chiều sâu.
Bên cạnh nhân vật Mị, sự xuất hiện của nhân vật A Phủ làm hoàn
chỉnh hơn, tô đậm thêm bức tranh hiện thực và giá trị tố cáo của tác
phẩm. Cũng như Mị, trước khi là người gạt nợ cho Pá Tra, A Phủ là chàng
trai khoẻ mạnh, dũng cảm, gan góc. Anh sống phóng khoáng, tự do như cánh
chim trời giữa núi rừng Tây Bắc. Nhưng một khi đã sống trên vùng đất của
bọn địa chủ phong kiến, cuộc sống tự do là điều khó xảy ra với những người
dân lao động giỏi giang như A Phủ. Chỉ vì dám đánh lại con quan thống lý để
bảo vệ bạn bè, bênh vực lẽ phải, A Phủ bị cột chặt vào thân phận một đứa ở
gạt nợ trong nhà Pá Tra. Anh chịu đựng bao sự đày đoạ nhục hình cả thể xác
lẫn tinh thần. Nếu như Mị trở thành hình bóng lặng lẽ như “con rùa nuôi
trong xó cửa” thì A Phủ cũng câm nín như “bức tượng đá” để hứng chịu
những trận đòn. Người con trai phóng khoáng của núi rừng Tây Bắc ngày
xưa giờ đây cũng tê liệt tinh thần phản kháng. Kết cục của quãng đời làm
người ở gạt nợ là A Phủ phải tự đi lấy cọc chôn xuống đất cho cha con Pá Tra
trói mình. Sự yếu đuối, nước mắt khóc từ xưa vốn được xem là độc quyền
của người phụ nữ, vậy mà dòng nước mắt ấy đã chảy xuống hai hõm má đen
xạm của A Phủ lúc bị trói. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi con người ta ý thức
rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến sự chết lan dần khắp cơ thể mà đành
bất lực, đành tuyệt vọng.
Phân Giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" còn biểu hiện
tích ý 2 : qua việc nhà văn phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền
nhà văn núi, được thể hiện qua hai nhân vật điển hình là Pá Tra và A Sử.
phơi bày Thống lí Pá Tra là kẻ thâm độc, tàn bạo, là nguyên nhân gây ra nỗi
bản chất khổ đau cho cuộc đời của Mị, A Phủ. Với Mị, Pá Tra chính là kẻ tước đoạt
tàn bạo tự do, hạnh phúc cuộc đời Mị, biến Mị trở thành "trâu ngựa". Bố mẹ nghèo ,
của giai cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã
cấp thống qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị
trị ở miền làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá
núi Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không
có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Từ đó, cuộc đời
tăm tối của Mị bắt đầu. Mị bị bóc lột sức lao động với những công việc
quanh năm suốt tháng, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị trở thành vô cảm,
sống “lùi lũi như con rùa nôi trong xó cửa”. Với A Phủ, Pá Tra lợi dụng
thần quyền và cường quyền để xử kiện một cách dã man, phi lí, vô nhân đạo.
Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc
31
đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không,
không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp
luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà
thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên
đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai
khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ
nhà quan. Chưa hết, khi A phủ để mất một con bò, anh bị thống lí Pá Tra trói
đứng vào cột bằng dây mây, từ chân tới đầu. A Phủ sẽ chết nếu không được
Mị cứu thoát. Pá Tra đã coi tính mạng của A Phủ không bằng một con bò.
Cùng với tên thống lí Pá Tra, A Sử cũng là một kẻ tàn bạo. Nếu
như Pá Tra là kẻ biến Mị trở thành nô lệ thì A Sử là kẻ tước đi một chút tự do
cuối cùng của Mị. A Sử không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi
chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt
lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột
nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi,
không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo
rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt
đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn
sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân
vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một người con dâu cho đến
chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ
đã mất hết nhân tính.
Phản ánh bọn thống trị đó, nhà văn muốn người đọc liên tưởng đến
bọn người tàn ác, tàn bạo đang làm điêu đứng những cảnh đời trên những nẻo
rừng Tây Bắc
Nhận xét Hiện thực về cuộc sống khốn khổ của người dân nghèo, về bộ mặt
về nghệ tàn bạo của giai cấp thống trị đã được tái hiện một cách sinh động qua
thuật thể nghệ thuật viết truyện điêu luyện của nhà văn Tô Hoài. Ông có một bút
hiện giá pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn biến bên
trị hiện trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc, tình
thực yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng “hoá thân” kỳ diệu của
nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Tô Hoài cũng thành công khi miêu
tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhiên sinh
động, giàu chất thơ. Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo
léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm
của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Ngôn ngữ kể chuyện
của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
Kết bài Tóm lại, truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" có giá trị hiện thực sâu sắc với
hai biểu hiện: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây
Bắc; phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị.
Hiện thực đó góp phần làm rõ hơn , đầy đủ hơn bức tranh hiện thực của
xã hội nước ta dưới thời chế độ thực dân nửa phong kiến.

32
BÀI 02-Truyện VỢ NHẶT ( KIM LÂN)
A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Tác giả: Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác
phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân
thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm
lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và
của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945.
II. Tác phẩm: Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí, 1962) được viết dựa trên một phần
cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
III. Nội dung, nghệ thuật tác phẩm:
1) Nội dung:
- Nhân vật Tràng:
+ là người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở (giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người
đàn bà xa lạ),,,
+ luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc. Câu “nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình
và Tràng đã “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, thấy nhà
cửa sạch sẽ, gọn gàng, Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia
đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Anh cũng nghĩ tới sự đổi thay
cho dù vẫn chưa ý thức thật đầy dủ (hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp).
- Người “vợ nhặt”:
+ là nạn nhân của nạn đói. Những xô đẩy dữ dội của hoàn cảnh đã khiến “thị” chao
chát, thô tục và chấp nhận làm “vợ nhặt”.
+Tuy nhiên, sâu thẳm trong con người này vẫn khao khát một mái ấm. “Thị” là một
con người hoàn toàn khác khi trở thành người vợ trong gia đình.
- Bà cụ Tứ:
+ Một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con;
+ Một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha;
+ Mmột con người lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng.
Ba nhân vật có niềm khát khao sống và hạnh phúc, niềm tin và hi vọng vào tương lai
tươi sáng và ở cả những thời khắc khó khăn nhất, ranh giới mong manh giữa sự sống và
cái chết. Qua các nhân vật, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng: “dù kề bên cái đói, cái chết,
người ta vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi
vọng vào tương lai”.
2) Nghệ thuật:
- Xây dựng được tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư,
giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình
huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành
động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh
tế.
33
- Ngôn ngữ một mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
3) Ý nghĩa văn bản:
Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945
và khẳng định: ngay trên bờ vực của cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin
tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.

B/ LUYỆN TẬP
CÂU 2 ĐIỂM:ĐỌC HIỂU
Đề 1 :
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Ðịnh,
Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và
nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong
làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không
khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)


1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Các từ láy: lũ lượt, dắt díu, xanh xám,ngổn ngang,rác rưởi đạt hiệu quả nghệ thuật như
thế nào khi diễn tả cái đói ở xóm ngụ cư ?
4. Xác định biện pháp tu từ về từ trong văn bản ? Ý nghĩa nghệ thuật của biện pháp đó là
gì ?

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.
Câu 2 : Đoạn văn kể về cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, gây ra cái chết thê thảm cho
người nông dân Việt Nam.
Câu 3 : Các từ láy được gạch chân: lũ lượt, dắt díu, xanh xám, ngổn ngang,rác rưởi đạt
hiệu quả nghệ thuật diễn tả gợi hình ảnh cái đói thật khủng khiếp. Đó là bức tranh hiện
thực có sức tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít gây ra vào năm Ất Dậu ( 1945)
Câu 4 : Biện pháp tu từ về từ trong văn bản là so sánh tu từ : xanh xám như những bóng
ma;Người chết như ngả rạ..Ý nghĩa nghệ thuật : thể hiện bút pháp tả thực đến trần trụi,
tạo ám ảnh khi tả người sống liền kề người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh
ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương.

Đề 12 :
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ
lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi
phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài.
Người khác khẽ thì thầm hỏi:
- Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
34
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:
- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta
thèn thẹn hay đáo để.
- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua
được cái thì này không?
Họ cùng nín lặng.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Câu văn Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì
lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ được sử dụng biện
pháp tu từ gì? Ý nghĩa nghệ thuật biện pháp tu từ đó?
4. Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình làng nghĩa xóm trong cuộc sống hôm
nay ?

Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt.
Câu 2 : Đoạn văn kể về những lời bàn tán của dân xóm ngụ cư khi nhân vật Tràng dẫn thị
( người vợ nhặt) về.
Câu 3: Câu văn sử dụng biện pháp tu từ đối lập : khuôn mặt hốc hác u tối-rạng rỡ ; đói
khát, tăm tối -lạ lùng và tươi mát . Ý nghĩa nghệ thuật: Nhà văn khẳng định: chính khát
vọng sống còn và khát vọng hạnh phúc trước mọi ý thức tuyệt vọng và tê liệt vì nạn đói,
có tác dụng làm cho tâm hồn của người dân đói khổ, chết chóc đã rạng rỡ hẳn lên.
Câu 4 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:
-Dẫn ý bằng chính nội dung đoạn trích: người dân xóm ngụ cư kẻ mừng người lo
khi thấy nhân vật Tràng dẫn thị về
- Tình làng nghĩa xóm là gì?
- Ý nghĩa của tình làng nghĩa xóm?
- Phê phán lối sống thực dụng đèn nhà ai nhà nấy sáng và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?

Đề 13 :
Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày,
quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong
lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới
mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da
thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định phép điệp trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp đó ?

35
4. Các từ ngữ tình nghĩa, mới mẻ, lạ lắm,ôm ấp, mơn man có hiệu quả diễn đạt như thế
nào?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ lối sống tình nghĩa của con người.

Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự , miêu tả và biểu cảm .
Câu 2 : Đoạn văn diễn tả tâm trạng của nhân vật Tràng trên đường dẫn người đàn bà xa lạ
về nhà.
Câu 3 : Phép điệp trong đoạn văn : điệp từ quên 3 lần : quên hết, quên cả. Hiệu quả nghệ
thuật của phép điệp: nhà văn nhấn mạnh Tràng không nhớ, không còn nghĩ đến cái đói,
cái chết đang rình rập mà chỉ nghĩ đến hạnh phúc, tương lai. Tác giả hiểu được sâu sắc
tâm trạng của một anh nông dân nghèo khi nhặt được vợ.
Câu 4 : Các từ ngữ tình nghĩa, mới mẻ, lạ lắm, ôm ấp, mơn man có hiệu quả diễn đạt
nhấn mạnh suy nghĩ đúng đắn, tình cảm đẹp của Tràng dành cho thị, đồng thời khẳng
định chính niềm hạnh phúc tuy đơn sơ nhưng đã làm cho tâm hồn anh lâng lâng vui
sướng, xúc động đến ngỡ ngàng.
Câu 5 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:
-Dẫn ý bằng chính suy nghĩ sống tình nghĩa của nhân vật Tràng khi đi bên thị.
- Sống tình nghĩa gì? Biểu hiện của lối sống tình nghĩa trong quan hệ vợ chồng?
- Ý nghĩa lối sống tình nghĩa?
- Phê phán lối sống bạc tình bạc nghĩa và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?

Đề 4 :
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai
dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật
của các thành ngữ đó ?
4. Dấu ba chấm (...) trong câu văn Còn mình thì... có ý nghĩa gì?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình mẫu tử.

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức biểu cảm là chính .
Câu 2 : Đoạn văn diễn tả tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ khi biết con trai ( nhân vật
Tràng) dẫn người đàn bà xa lạ về nhà
Câu 3 : Thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn : dựng vợ gả chồng , ăn nên
làm nổi, sinh con đẻ cái . Hiệu quả nghệ thuật của các thành ngữ : chứng tỏ nhà văn thể
36
hiện tài năng vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân gian, dòng tâm tư người kể hoà với dòng
suy nghĩ của nhân vật bà cụ Tứ. Tác giả hiểu được nỗi lòng, tâm trạng của người mẹ
thương con.

Câu 4 : Dấu ba chấm (...) trong câu văn Còn mình thì... có ý nghĩa: gợi lời độc thoại nội
tâm của nhân vật bà cụ Tứ bị đứt đoạn, khi bà so sánh giữa người ta với còn mình. Qua
đó, người đọc thấy được tấm lòng của người mẹ già này. Bà thương con nhưng thấy mình
chưa làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người mẹ, nhất là trong ngày hạnh phúc
của con. Tấm lòng của bà cụ Tứ thật cao cả và thiêng liêng.
Câu 5 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:
-Dẫn ý bằng chính dòng độc thoại nội tâm xúc động của bà cụ Tứ.
- Tình mẫu tử gì? Biểu hiện của tình mẫu tử?
- Ý nghĩa của tình mẫu tử?
- Phê phán những đứa con bất hiếu với mẹ và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?
Đề 5:
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét
lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình
thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương
yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con
đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn
đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn
làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định từ loại của các từ giẫy, quét và nêu hiệu quả nghệ thuật của các từ đó ?
4. Ý nghĩa của từ nên người trong văn bản là gì?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về hạnh phúc.

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính .
Câu 2 : Đoạn văn diễn tả cảnh tại ngôi nhà của nhân vật Tràng vào buổi sáng, sau đêm
tân hôn.
Câu 3 : Từ giẫy, quét là động từ. Hiệu quả nghệ thuật của các từ đó : nhà văn tả những
việc làm vào sáng sớm của bà cụ Tứ và con dâu. Họ đang xây đắp mái ấm gia đình, dọn
dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, ngăn nắp. Chính hạnh phúc gia đình đã làm thay đổi không khí
ngôi nhà, xua đi sự ám ảnh của cái đói, cái chết đang rình rập.
Câu 4 : Ý nghĩa của từ nên người : thể hiện sự trưởng thành của nhân vật Tràng đối với
gia đình . Đó là trách nhiệm làm con, làm chồng và tương lai sẽ làm cha của anh khi đã
có vợ. Nhà văn thể hiện tấm lòng nhân đạo, hiểu được tâm trạng vui sướng khi được đón
nhận hạnh phúc của Tràng.
Câu 5 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:
- Dẫn ý bằng niềm vui của nhân vật Tràng khi có vợ.
37
- Hạnh phúc gì? Biểu hiện của hạnh phúc?
- Ý nghĩa của hạnh phúc nói chung, hạnh phúc gia đình nói riêng?
- Phê phán những bất hạnh diễn ra trong gia đình và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?
Đề 6:
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn
vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện
sung sướng về sau này:
-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem...
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Các từ ngữ mẹt rách, lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo trong đoạn văn
đạt hiệu quả diễn đạt như thế nào?
4. Việc bà cụ Tứ khuyên con mua lấy đôi gà có ý nghĩa gì?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về câu nói : gia đình là mái ấm duy nhất của
mỗi con người ?

Trả lời :
Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính .
Câu 2 : Đoạn văn diễn tả bữa cơm ngày đó khi đón con dâu mới và lời khuyên con nuôi
gà của bà cụ Tứ .
Câu 3 : Các từ ngữ mẹt rách, lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo trong đoạn
văn đạt hiệu quả diễn đạt: Nhà văn kể lại cận cảnh mâm cơm ngày đó thật thảm khốc.
Qua đó, tác giả có cái nhìn cảm thương với người nông dân, đồng thời gián tiếp tố cáo
tội ác của bọn thực dân, phát xít lúc bấy giờ - thủ phạm gây ra nạn đói Ất dậu ( 1945)
Câu 4 : Việc bà cụ Tứ khuyên con mua lấy đôi gà có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nuôi đôi
gà tức là nuôi niềm hy vọng. Đó là lời khuyên chân tình của một người mẹ nhân hậu nhất,
lời khuyên đậm chất nông dân. Bà cụ Tứ là người gần đất xa trời. Nhưng bà không nói về
mình mà chỉ lo cho con. Khuyên con nuôi gà là bà đã thắp lên ngọn lửa niềm tin vào
tương lai, vào sự sống bất diệt.
Câu 5 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:
- Dẫn ý bằng cảnh gia đình bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói. Bữa ăn tuy thảm hại
nhưng ấm áp tình mẹ con
- Gia đình là gì? Tại sao gia đình là mái ấm duy nhất của mỗi con người ?
- Vai trò và ý nghĩa của gia đình trong cuộc sống?
- Phê phán những gia đình tan vỡ, bất hạnh và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?

CÂU 5 ĐIỂM:
Đề 1 : Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim
Lân.
38
A/ Lập dàn ý:
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật người vợ nhặt .
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích nhân vật người vợ nhặt :
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: Người “vợ nhặt ” là nạn nhân của nạn đói năm 1945.
-Làm rõ đặc điểm:
+ Người vợ nhặt là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương,
không quá khứ.
+ Chân dung chị ta hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn. Đó là
hình ảnh một người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, còn
quần áo thì rách như tổ đĩa.
+ Chị ta hiện ra trước mắt mọi người với điệu bộ còn xa mới gọi là dịu dàng. Đàn
bà gì mà “sầm sập chạy tới”, “sừng sỉa nói”, “đứng cong cớn trước mặt hắn”…
+ Đã thế, chị ta thuộc loại ăn nói chỏng lỏn, ghê gớm, mở miệng thì “rích bố cu”,
“bỏ bố”, “sợ gì”.
+ Và trên hết, chị ta là một người đang đói. Đói đến mức quên cả ý tứ, sỉ diện tối
thiểu của một người con gái.
b./Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: Nhưng trong sâu thẳm con người thị vẫn có niềm khát khao được
sống, khát khao một mái ấm hạnh phúc.
-Làm rõ đặc điểm:
+ Con người thật của chị ta, khi đi với Tràng mới hiện lên đầy đủ. Người đàn bà
cong cớn ấy, ngay từ khi đi theo Tràng về nhà đã khác : một cô dâu ngoan ngoãn dễ
thương đang về nhà chồng…
+ Khi bước vào nhà Tràng, người đàn bà ấy “ngồi mớm ở mép giường hai tay khư
khư ôm cái thúng, mặt bần thần”. Đó cũng chính là cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối
của lòng người.
+ Nhưng có lẽ nét đẹp của người đàn bà ấy, thực sự hiện ra rõ nhất là sau buổi gặp
gỡ với bà cụ Tứ và buổi sáng hôm sau của cuộc đời làm vợ. Thị tỏ ra đảm đang, hiền
thục.
+ Bóng dáng của chị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự ấm áp. Chị mang
đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật “vợ nhặt ” :
- Tác giả đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để bộc lộ phẩm chất, tính cách.
- Cách kể chuyện tự nhân , hấp dẫn, dựng cảnh sinh động...
- Đối thoại hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị...
III . Kết bài :
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật “vợ nhặt ” .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
39
- Cảm nghĩ về nhân vật.
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh
đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú
ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu).
Mở bài Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều
tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân
phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết
sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện
ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau
1945. Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất thành công
nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một người nghèo đói, bất hạnh
nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .
Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946),
bài: được Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962).
Khái Truyện kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh
quát niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng
đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái
ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ
về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc
nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào
tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và
đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói.
Phân Người “vợ nhặt ”là nạn nhân của nạn đói năm 1945. Thị là người vô
tích ý 1 gia cư, đến cái tên cũng chẳng có. Có lẽ thị không phải người ở xứ này, mà ở
: một nơi nào đó, do nạn đói đã trôi dạt đến đây, bám víu bụi bờ để sống.Trước
khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo
và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng
và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”,
“sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Nhưng Tràng
không nhận ra thị. Bởi hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị
gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
Nạn đói đã tàn phá ghê gớm, khiến cho thị thay hình đổi dạng. Thị còn chủ
động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong còn lấy đũa
quẹt ngang miệng và khen ngon…
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì
đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của
con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông
cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.
Phân Nhưng trong sâu thẳm con người thị vẫn có niềm khát khao được
tích ý 2 sống, khát khao một mái ấm hạnh phúc. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã
: trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ,
lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp
của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước,
40
cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước
díu cả vào chân kia”...). Thật là tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng
về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những
khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng
quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…Sau một ngày làm vợ, chị dậy
sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của
một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một
người vợ hiền, một cô dâu thảo. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao
khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm hạnh phúc của gia đình,
một mái ấm tình thương, có chồng có con như những người đàn bà may
mắn khác. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am
hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta
đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và
chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Nhân vật Vợ nhặt đã thể hiện sự điêu luyện của ngòi bút Kim Lân trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện
Nghệ độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách. Cách kể chuyện tự
thuật nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại
hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
Kết Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi,
luận không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân
ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy
nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang
đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ
bên bờ của cái chết….
Nhân vật là một bằng chứng sinh động để tác giả tố cáo hiện thực về nạn
đói, góp phần tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Đề 2 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2011-
Phần nâng cao)
A. Đáp án của Bộ GD&ĐT :
a. Yêu cầu về kĩ năng
Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; biết cách phân
tích một hình tượng nhân vật. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt (chủ yếu
phần trích trong Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập hai), thí sinh có thể trình bày theo nhiều
cách, nhưng cần làm rõ được các ý cơ bản sau:
- Nêu được vấn đề cần nghị luận
- Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn
lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp.
41
- Trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái
ấm gia đình.
- Khát vọng sống mãnh liệt; có niềm tin vào tương lai tươi sáng.
- Nghệ thuật: nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí
được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân
vật.
- Đánh giá chung về nhân vật.
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học
sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng
tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn
chứng tiêu biểu).
Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông
tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác
của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà
ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm
tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân đã
miêu tả rất thành công nhân vật Tràng. Đó là hình ảnh của một người nghèo
đói, bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc .
Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946),
bài: được Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962).
Khái Truyện kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh
quát niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng
đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lên dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái
ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ
về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc
nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào
tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và
đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói.
Phân Trước hết, Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền
tích ý 1 lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói
: khủng khiếp.
Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống
ở xóm ngụ cư, có một mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại
có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to
rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào
bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở
hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có
một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.
Thấy người đàn bà đói quá, anh sẵn sàng cho ăn dù cũng chẳng dư dật gì.
Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù bỗng sợ cho tương lai, anh vẫn
không từ chối. Điều chủ yếu là :"Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa
giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng
42
thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy". Chính sự tốt bụng và nhân hậu này đã
đem đến hạnh phúc cho Tràng.
Phân Mặc dù nghèo khổ nhưng trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn
tích ý 2 khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình.
: Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói
đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là
một lạ mà thú vị - đùa mà thật, thật mà cứ như đùa.
Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không
Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng
rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”. Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc
như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ
ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có
một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để
có vợ và để biết đến hạnh phúc.
Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc:“ Trong
một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày,
quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người
đàn ông ấy…” Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn
nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ
ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười
tủm tỉm…
Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”, Tràng thấy mình đổi khác “
trong người êm ái, lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến
hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”. Tràng “ bỗng nhiên thấy
thương yêu và gắn bó với căn nhà”; “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau
này…”
Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ.
“Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu
sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm,
hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước
ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh
phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.
Phân Tràng là người có khát vọng sống mãnh liệt; có niềm tin vào tương
tích ý 3 lai tươi sáng.
: Tràng biết vượt lên trên hoàn cảnh để sống hạnh phúc. Trong phúc
chốc, Tràng nghĩ đến“ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc của
Nhật và lá cờ Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một
tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng.
Hai hình ảnh trên đối lập nhau nhưng có nhiều ý nghĩa. Hình ảnh cách
43
mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể, tạo xúc động mạnh và gợi niềm tin.
Đó là tín hiệu của sự đổi đời, nhất định Tràng và bao người nông dân nghèo
khổ khác sẽ được sống trong hạnh phúc nếu biết đứng dậy để đoàn kết đấu
tranh
Nhân vật Tràng đã thể hiện sự điêu luyện của ngòi bút Kim Lân trong
Nghệ nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện
thuật độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách: cách kể chuyện tự
nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp
dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị,
đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
Kết Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình
luận huống nhặt vợ hết sức đặc biệt. Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai
trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Những người đói, họ
không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống. Cũng qua Tràng và câu
chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo: đó là vẻ đẹp tình người và
niềm tin tưởng vào tương lai.

Đề 3 : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
của Kim Lân. ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2008)
A. Đáp án của Bộ GD&ĐT :
a. Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận phân tích nhân vật; kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu
loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, thí sinh phân tích được
diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ với các ý cơ bản sau:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và nhân vật.
- Bối cảnh nảy sinh tâm trạng: giữa nạn đói thê thảm, mọi người đang đối mặt với
cái chết thì Tràng (con trai bà cụ Tứ) lại lấy vợ.
- Diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ:
+ Ngạc nhiên và lo lắng.
+ Hờn tủi và thương xót.
+ Mừng lòng và mong mỏi.
- Đánh giá: Với tình huống truyện độc đáo, lựa chọn chi tiết đặc sắc, Kim Lân đã
miêu tả diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chân thực, tinh tế, cảm động; từ đó làm toát lên tấm
lòng nhân hậu, bao dung của nhân vật và trái tim nhân đạo của tác giả.
B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý
dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu).
Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông tập
trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác của

44
Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông
hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là
truyện ngắn “Vợ nhặt”. Trên cái nền tăm tối và đau thương của nạn đói Ất
Dậu ( 1945), nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ - một người
mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu.
Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946),
bài: được Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962).
Khái Truyện kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh
quát niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng
đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn
bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về,
cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên.
Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai.
Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi
phá kho thóc của Nhật chia cho người đói.
Phân Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn
tích ý 1 bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm: nhà nghèo,
:Khái goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng. Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong
quát về thiên truyện với vài nét đơn giản : chưa thấy người đã thấy tiếng ho, dáng lọng
cuộc khọng, đôi mắt nhoèn hấp , Nhà văn gọi bà bằng những từ ngữ trân trọng, trìu
đời của mến: bà cụ, bà lão, người mẹ nghèo khổ. Cách gọi như vậy thể hiện sự kính
bà trọng bà mẹ, kính trọng tuổi già và kính trọng nỗi khổ đau suốt một đời đã đè
nặng lên vai con người. Chính thái độ này của Kim Lân đã khiến nhà văn như
nhập thân vào bà cụ Tứ, nhìn sự việc, kể lại theo con mắt và tâm trạng của bà.
Phân Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ có sự thay đổi theo trật tự thời gian.
tích ý 2 Khởi đầu, bà ngỡ ngàng trước việc Tràng có vợ - ngỡ ngàng trước việc có
:tâm một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ
trạng được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn: “Quái sao lại có
ngỡ người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu
ngàng giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”.Sự
việc Tràng lấy vợ được xem là việc ngạc nhiên động trời, tạo ra một tình
huống đầy kịch tính. Bà ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, lại
đang thời buổi đói khát, nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại dám lấy vợ.
Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu
nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm, đó là tâm trạng vừa ai oán, vừa xót
thương cho đứa con mình vì Tràng lấy vợ trong lúc bần hàn, người mẹ nghèo
không biết lấy gì cho con và bà tủi hờn cho mình: Chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ
cái để mở mặt sau này. Còn mình thì...Tâm trạng buồn tủi cho chính mình thì
không đủ sức lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất của mình để đến nỗi
Tràng phải nhặt vợ.Trong nỗi lo âu của bà còn là những day dứt, dằn vặt của
người mẹ vì bà đã không làm tròn bổn phận làm mẹ. Sau đó bà đã lo lắng: Biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Ý nghĩ
45
ấy biểu hiện tấm lòng thương con bao la của bà cụ Tứ. Nỗi lo lắng của bà là
Phân tấm lòng của người mẹ đầy trách nhiệm nhưng đành bất lực trước số phận.
tích ý 3 Tiếp theo là tâm trạng của bà cụ Tứ khi nói chuyện với người vợ
:tâm Tràng. Người đàn bà Tràng đã nhặt về làm vợ đang đứng trước bà cụ Tứ. Thị
trạng như một người có lỗi, cúi mặt xuống,tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà đăm
của bà đăm nhìn thị. Đó là cái nhìn của sự ái ngại, cảm thông,. Ánh mắt của bà là ánh
cụ Tứ mặt của tình thương. Bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
khi nói người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ…”. Bà đã hiểu
chuyện rất rõ nguyên nhân người ta đã lấy con mình. Hay chính bà đã hiểu được hoàn
với cảnh của thị là một người đang gặp khó khăn, đói khổ nên đã theo không về
người làm vợ con bà. Bà còn hiểu cũng nhờ người ta mà con mình mới có được vợ.
vợ Một sự thấu hiểu sâu sắc. Người được bà ban ơn, lại cũng là người mà bà phải
Tràng chịu ơn. Tuy nhiên, không vì lẽ đó mà bà phải hạ thấp mình. Bà là mẹ, bà có
quyền quyết định tất cả. Và người đàn bà kia cùng Tràng đang hồi hộp, chờ
đợi cái giây phút quyết định ấy.
Bà đã gọi thị là con, xưng u một cách tự nhiên, bằng chính tình cảm chân
thành, ấm áp thể hiện sự tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay trong
lần đầu gặp mặt. Câu nói đầu tiên của bà với nàng dâu mới thật chân tình, cảm
động: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng…”. Nhà văn đã tìm được từ ngữ chính xác để miêu tả tâm trạng của bà
cụ: mừng lòng chứ không phải bằng lòng. Nó vừa có vẻ mộc mạc của người
già vừa lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng
ngập, vụng về tìm cách giấu dòng nước mắt xót thương. Rồi bà lại động viên
con trai và con dâu: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng mày liệu mà bảo nhau
làm ăn...ai giàu ba họ, ai khó ba đời...”. Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng
tới niềm tin thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lí phức tạp hơn nhiều. Con người
già cả ấy đã đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, lòng đầy ám
ảnh về một quá khứ nặng trĩu những đắng cay, cơ cực:“Biết rằng chúng nó có
nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”. Rồi tình thương lại
chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ
đến bổn phận chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của
đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu
thương trong một câu nói giản dị: “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá”.
Hiểu biết, cảm thông, cưu mang và thương xót với một cô gái xa lạ, nghèo
khổ, rách rưới, đói khát theo không con bà về làm vợ, tấm lòng ấy chỉ có ở một
con người có lòng nhân hậu, bao dung và vị tha. Bà cụ Tứ là một người như
vậy.
Phân Cuối cùng là tâm trạng của bà cụ Tứ vào sáng hôm sau. Khi Tràng
tích ý 4 thức dây đã thấy mẹ và vợ đang dọn dẹp nhà cửa, sân vườn. Tràng thấy mẹ
:tâm mình hôm nay nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám
trạng của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn dọn dẹp, thu vén căn nhà. Bà cùng những
của bà người con đều nghĩ: thu xếp nhà cửa cho quang quẽ, nề nếp thì cuộc đời họ
cụ Tứ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
46
vào Trong bữa cơm ngày đói thảm hại: giữa cái mẹt rách có độc một chùm
sáng rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
hôm lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể toàn chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen
sau nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà
…”.
Bữa ăn diễn ra thật nhanh bởi niêu cháo chỉ đủ cho mỗi người lưng lưng
hai bát là đã hết nhẵn. Bà cụ Tứ nhình hai con vui vẻ: Chúng mà đợi u nhá.
Tao có cái này hay lắm cơ. Rồi bà bưng ra một cái nồi bốc khói nghi ngút, bà
cười và nói với con:“Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ ‘ngon” này
không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về
tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo
cám thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng
minh cho cái chất người của người dân lao động: trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị tiêu diệt – con
người vẫn muốn sống cho ra sống. Chính chất người đã thể hiện ở cách
sống tình nghĩa và hy vọng. Tuy nhiên, niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn
cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo
cám “đắng chát và nghẹn bứ”. Bà không cầm được nước mắt. Tình thương
của bà đối với các con càng lúc càng như kiệt sức. Nhưng họ không gục ngã
chính vì họ đã tìm được niềm an ủi trong sự cưu mang, nương tựa nhau, quan
tâm chăm sóc nhau. Tình vợ chồng, tình mẹ con-những động lực lớn lao ấy đã
giúp họ tăng sức mạnh vượt qua những thực trạng u uất, bế tắc. Chính bà cụ
Tứ đã thắp sáng ngọn lửa niền tin và hy vọng cho hai con. Bà là người mẹ
nhân hâu nhất.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ khá
sắc sảo. Ông đã thấu hiểu và phân tích được một cách hợp lí những chuyển
Nghệ biến tâm trạng phức tạp mà sâu sắc của nhân vật. Tác giả đã tạo được một
thuật tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách:
cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc
sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc
mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
Kết Có thể nói, thành công của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích được
luận những trạng thái tâm lý khá tinh tế của nhân vật bà cụ Tứ trong một hoàn
cảnh đặc biệt.Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người
nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ là điển hình cho những người mẹ, người phụ nữ
Việt Nam nghèo khổ, nhân hậu, giàu đức hi sinh và khao khát hạnh phúc.

Đề 4 : Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim
Lân.
( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2008 - Lần 2)
A. Đáp án của Bộ GD&ĐT :
a) Yêu cầu về kĩ năng:

47
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc hiểu để phân
tích làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm tự sự. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát;
không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, thí sinh biết
phân tích các chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật nội dung nhân đạo của tác phẩm; có thể
trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần nêu được những ý chính sau:
- Phản ánh hiện thực cuộc sống bi thảm của người dân lao động trong nạn
đói khủng khiếp 1945; lên án tội ác của thực dân, phát xít.
- Cảm thương thân phận rẻ rúng của con người.
- Ngợi ca nét đẹp tâm hồn người lao động nghèo: khát khao hạnh phúc, lòng
nhân hậu, niềm hy vọng vào ngày mai…
B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý
dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu).
Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông tập
trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác của Kim
Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu
biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu
của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là
truyện ngắn “Vợ nhặt”. Truyện thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946),
bài: được Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962).
Khái Truyện kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh
quát niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc
một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn
bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về, cả
xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên.
Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai.
Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi
phá kho thóc của Nhật chia cho người đói.
Khái Trước hết, ta có thể hiểu: Gía trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của
niệm những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc
giá trị của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong
nhân cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện tấm lòng nâng niu, trân trọng của
đạo mình với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn lên của
người lao động để hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai… dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời.
Có thể nói, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã giúp cho chúng ta cảm nhận một
cách sâu sắc về cuộc sống tối tăm của những người lao động nghèo trong nạn
đói năm 1945, cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm của
họ.
Phân Biểu hiện thứ nhất về giá trị nhân đạo của của truyện đó là nhà văn
48
tích ý 1 đã tố cáo bọn thực dân, phát xít, nguyên nhân gây ra nạn đói cho nhân dân
: ta.
Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói.
Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho
người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần
mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy
“tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ.
Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con
người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói
“khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh
người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma” và
“bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so
sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là
cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh
như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm
phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng
quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô
đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt
cuộc sống tới mức khủng khiếp. Câu nói của bà cụ Tứ ở cuối truyện đã trực tiếp
chỉ rõ nguyên nhân gây ra nạn đói: Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt
đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ...Kẻ đã
bắt nhân dân ta nhổ lúa để trồng đay làm nguyên liệu phục vụ cho cuộc chiến
tranh đó là phát xít Nhật khi chúng đến xâm lăng Đông Dương năm 1940. Còn
sưu cao thuế nặng, đó là chính sách bảo hộ thâm độc của thực dân Pháp khi
chúng cai trị nước ta. Đó là nỗi đau, là thảm hoạ với dân tộc Việt Nam. Đó còn
là một tội ác, một mối thù chỉ có thể đưa vào quá khứ chứ không thể lãng quên.
Phân Biểu hiện thứ hai về giá trị nhân đạo của truyện là nhà văn thể hiện thái
tích ý 2 độ cảm thương thân phận rẻ rúng của con người. Thái độ ấy được Kim Lân
: kín đáo bộc lộ qua cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật. Giọng kể chậm rãi,
từ tốn, nhẹ nhàng biểu hiện cái nhìn gần gũi, cảm thông của tác giả. Cách miêu
tả tâm lí sâu sắc, chứng tỏ nhà văn đã thâm nhập vào nhân vật nên mới thấu
hiểu tâm tư thầm kín của họ. Kim Lân xây dựng nhân vật Tràng có vẻ hoang sơ
nhưng chưa phải là hoang dã, thô kệch nhưng không thô lỗ, vô tâm nhưng chưa
phải ngờ nghệch. Người vơ nhặt có chao chát, chỏng lỏn nhưng chưa phải
đanh đá, điêu ngoa, theo không Tràng về làm vợ là do đói, là do khát sống chứ
không phải là lẳng lơ, hư hỏng. Đặc biệt, nhân vật bà cụ Tứ, dưới ngòi bút của
Kim Lân, hiện lên là một người mẹ thương con hết mực, một người phụ nữ
nhân hậu, bao dung...Nhà văn đã xây dựng các nhân vật bằng cả một tấm lòng
nâng niu trân trọng.
Phân Biểu hiện quan trọng nhất về giá trị nhân đạo của truyện là tác giả đã
tích ý 3 đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng
: sống của con người. Trong cảnh bần cùng đói rách, người ta có thể sống ích
kỉ, lạnh lùng, thậm chí là tàn nhẫn. Nhưng người lao động Việt Nam vẫn sống
49
nhân hậu, tràn đầy tình thương, nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc; vẫn
khao khát vương lên, khao khát hạnh phúc và hy vọng vào tương lai. Các nhân
vật anh Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt đã thể hiện rõ điều đó.
Anh Tràng có vẻ ngoài thô kệch nhưng lại rất tốt bụng. Khi thấy người
đàn bà đói gợi ý đòi ăn, Tràng không từ chối, sẵn sàng cho ăn dù mình cũng
chẳng dư dật gì. Người đàn bà nghèo khó hơn mình, quyết định đi theo thì
Tràng cũng không từ chối dù cũng rất lo đến cái thân mình không nuôi nổi lại
còn đèo bòng nhưng anh vẫn chậc, kệ và dẫn vợ về nhà...Sáng hôm sau, Tràng
thấy có cái gì vừa thay đổi...thu dọn phòng sạch sẽ gọn gàng. Thật sự là
Tràng đã tìm thấy hạnh phúc của mình. Hạnh phúc dâng lên trong lòng Tràng.
Từ khi có vợ, Tràng thấy gắn bó với ngôi nhà mình hơn, thấy nên người...
Bà cụ Tứ là người phụ nữ có tấm lòng cao cả. Việc Tràng có vợ khiến cho
bà ngạc nhiên, nhưng khi hiểu ra mọi chuyện, bà xót thương cho đứa con và lo
lắng: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đó khát này
không? Trong bữa cơm, bà động viên con bằng triết lí dân gian : Ai giàu ba
họ, ai khó ba đời và bà nói toàn chuyện vui, chuyện sau này...Người mẹ ấy đã
nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời
bà.
Còn người vợ nhặt bị nạn đói làm cho tơi tả nhưng lòng khát sống khiến
cho thị tìm cách để có miếng ăn. Khi gặp Tràng, thị gợi ý để được ăn và đã ăn
một chặp bốn bát bánh đúc. Tràng nói đùa một câu và thị đã theo người đàn
ông xa lạ để tránh cái đói. Khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng, thị đã thở dài bởi
nỗi lo chưa chắc đã tránh khỏi cái chết. Nhưng được sự cưu mang đùm bọc
nhân hậu của bà cụ Tứ, thị đã sống đúng với mình, là một người con hiền
thảo.Sự thay đổi ấy của thị thể hiện cái nhìn rất nhân đạo của nhà văn.
Phân Cuối cùng, giá trị nhân đạo của truyện chính là nhà văn đã gợi ra cho
tích ý 4 những con người đang sắp chết đói kia một con đường sống. Hình ảnh đoàn
: người đi trên đê Sộp với lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong đầu Tràng với vẻ
“ân hận, tiếc rẻ” là một dự báo: lần sau gặp lại, chắc chắn Tràng sẽ đi cùng với
họ, cùng họ phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Tràng sẽ hoà chung vào
dòng người ấy để mang về ánh sáng của ấm no và cả một tương lai tốt đẹp.
Đoàn người ấy là Việt Minh, lá cờ ấy là cách mạng. Đi theo cách mạng những
kiếp người đau khổ sẽ được đổi đời. Cách kết thúc truyện của tác giả đã đem lại
niềm tin cho mọi người.
Nghệ Có được thành công giá trị nhân đạo như trên của truyện Vợ nhặt là
thuật nhờ sự đóng góp không nhỏ của nghệ thuật truyện. Tác giả đã tạo được một
tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện tự nhiên, dựng cảnh sinh động với
nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh
tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo
của nhà văn.
Kết Tóm lại, điểm đáng quý về giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” là niềm tin
luận tưởng sâu sắc của nhà văn vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của
những người lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nhiều nét
mới so với tình cảm nhân đạo trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước
50
cách mạng tháng Tám…“Vợ nhặt” là bài về tình người của những con
người nghèo khổ .

Đề 5: Phân tích giá trị hiện thực tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Nêu vấn đề giá trị hiện thực của truyện
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm: Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích giá trị hiện thực của truyện :
a/.Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ nhặt" là
truyện đã phản ánh chân thực nạn đói năm 1945 và cuộc sống khốn khổ của nhân
dân ta trong nạn đói ấy.
-Làm rõ đặc điểm: nạn đói năm 1945 tràn đến xóm ngụ cư thông qua thời gian,
không gian, âm thanh tiếng quạ, ...
-Làm rõ đặc điểm: cuộc sống khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói, nhất là
cảnh người đói vật vờ như bóng ma và người chết như ngả rạ...
b/.Hiện thực về nạn đói còn được thể hiện qua một tình huống cụ thể với
những con người cụ thể, đó là anh Tràng có vợ.
-Làm rõ đặc điểm: Hình ảnh người vợ nhặt bị cái đói tàn phá thông qua ngoại hình,
cách ăn bánh đúc…
-Làm rõ đặc điểm: Bà cụ Tứ nghèo khổ. Bữa cơm ngày đói đón dâu mới thật thảm
hại.
-Làm rõ đặc điểm : Số phận của nhân vật Tràng...
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện giá trị hiện thực của truyện: nhân vật được đặt
trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn
ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.
III./ Kết bài :
-Tóm lại, truyện ngắn "Vợ nhặt" có giá trị hiện thực sâu sắc với hai biểu hiện:
phản ánh chân thực nạn đói năm 1945 và cuộc sống khốn khổ của nhân dân ta trong nạn
đói ấy; biểu hiện trong tình huống độc đáo.
-Ý nghĩa giá trị .
Đề 6:

Về nhân vật thị trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, có ý
kiến cho rằng: Đó là người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và
liều lĩnh. Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Thị là người giàu nữ 5.0
tính và khát vọng.
Từ cảm nhận của mình về nhân vật, anh/chị hãy bình luận
những ý kiến trên.
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm)

51
- Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật 0,25
của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân.
- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con
chó xấu xí (1962). Một trong những thành công của tác phẩm này là
Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị - người phụ nữ khốn 0,25
cùng trong nạn đói.
2. Giải thích ý kiến (0,5 điểm)
- Người phụ nữ cùng đường, liều lĩnh: Người phụ nữ bị dồn đẩy vào 0,25
một hoàn cảnh nghiệt ngã, không lối thoát, trở nên táo bạo trong ngôn
ngữ và hành động, dường như không còn ý thức được về nhân cách và
phẩm giá của mình.
- Người phụ nữ giàu nữ tính và khát vọng: Người phụ nữ có nhiều nét 0,25
đẹp dịu dàng, nhân hậu, nhiều mơ ước, khát khao.
3. Cảm nhận về nhân vật thị và bình luận hai ý kiến (4,0 điểm)
a. Cảm nhận về nhân vật thị (3,0 điểm)
- Người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và liều lĩnh (1,0 điểm)
+ Thị là người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường: Thị cùng mấy
người con gái khác đã phải ngồi vêu ở cửa nhà kho để nhặt hạt rơi hạt 0,5
vãi. Ngoại hình của thị tiều tuỵ với áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp,
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Cái đói đã
dồn đẩy thị vào hoàn cảnh nghiệt ngã, phải tìm mọi cách để có thể sống
sót qua ngày.
+ Thị là người phụ nữ liều lĩnh: Thị bám vào mấy câu hò vu vơ của một 0,5
người đàn ông xa lạ, đòi ăn một cách thẳng thừng và ăn một cách thô
tục, không ý tứ. Đỉnh điểm của sự liều lĩnh ấy là việc theo khôngTràng
về làm vợ.
- Người phụ nữ giàu nữ tính và khát vọng (1,5 điểm)
+ Thị giàu nữ tính: Trên con đường từ chợ về nhà, thị rón rén e thẹn đi 1,0
sau Tràng chừng ba bốn bước, xóc xóc lại tà áo; trước những cặp mắt
đổ dồn về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào
chân kia... Nữ tính còn thể hiện rõ hơn vào buổi sáng hôm sau, thị trở
nên hiền hậu và đúng mực không còn vẻ gì chao chát và chỏng lỏn. Thị 0,5
biết vun vén, chăm sóc gia đình.
+ Thị giàu khát vọng: Đó là khát vọng vượt qua nạn đói thê thảm, có
một tổ ấm gia đình đơn sơ, hạnh phúc và một tương lai tốt đẹp. 0,25
- Nghệ thuật thể hiện (0,5 điểm)
+ Nhân vật được đặt vào một tình huống truyện độc đáo, lối trần thuật 0,25
tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách.
+ Nhân vật được khắc hoạ sinh động, thể hiện tâm lý tinh tế, ngôn ngữ
mộc mạc, giản dị nhưng đậm cá tính, thể hiện hơi thở của đời sống lao
động bình dân.
b. Bình luận hai ý kiến (1,0 điểm)
- Hai ý kiến đề cập đến những phương diện khác nhau về tính cách nhân

52
vật. Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh đến hoàn cảnh trớ trêu đối với thân 0,5
phận con người, ý kiến thứ hai khẳng định vẻ đẹp tâm hồn sâu xa của
người nông dân Việt Nam dẫu bị đẩy vào đường cùng vẫn khao khát
hạnh phúc, hướng tới tương lai.
- Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, 0,5
hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất; giúp người đọc có cái
nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp của nhân vật và tư tưởng của
nhà văn.

BÀI 03- Truyện RỪNG XÀ NU ( Nguyễn Trung Thành)


A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Tác giả: Nguyễn Trung Thành là một trong các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tình yêu mảnh đất Tây Nguyên và sự hiểu biết
sâu sắc cuộc sống nơi đây đã giúp nhà văn sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật đặc
sắc, riêng biệt và hấp dẫn. Nguyễn Trung Thành có nhiều tác phẩm giá trị viết về cuộc
sống của đồng bào các dân tộc trên mãnh đất này. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong
giai đoạn kháng chiến chống Mĩ là truyện ngắn "Rừng xà nu".
II. Khái quát tác phẩm:
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965; đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội
giải phóng Trung Trung bộ(Số 2-1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc.
III. Nội dung, nghệ thuật:
1/ Nội dung:
a) Hình tượng cây xà nu:
+ Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần
của người dân làng Xô Man.
+ Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận của nhân dân Tây Nguyên
trong chiến tranh CM. Vẻ đẹp , những thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu, những
đặc tính của xà nu…là hiện thân cho vẻ đẹp, những mất mát, đau thương, sự khát khao tự
do và sức sống bất diệt của dân làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung.
b) Hình tượng nhân vật Tnú:
+ Là người gan góc, dũng cảm, mưu trí;
+ Có tính kỉ luật cao, trung thành với cách mạng;
+ Có một trái tim yêu thương và sôi sục căm thù: Sống rất nghĩa tình và luôn mang
trong tim ba mối thù: thù của bản thân, thù của gia đình, thù của buôn làng.
+ Cuộc đời bi tráng và con đường đến với cách mạng của Tnú điển hình cho con
đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng tỏ chân lí của
thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ
trang là con đường tất yếu để tự giải phóng.
c) Hình tượng rừng xà nu và Tnú có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho
nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những con người biết hi sinh
như T nú; sự hi sinh của những con người như Tnú góp phần là cho những cánh rừng mãi
mãi xanh tươi.
53
2/ Nghệ thuật :
- Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên; ở
ngôn ngữ, tâm lí, hành động của các nhân vật.
- Xây dựng thành công các nhân vật vừa có những nét cá tính sống động vừa mang
những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu(cụ Mết; T nú, Dít...)
- Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu-một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc-tạo
nên màu sắc sử thi và lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
- Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm, khi tha thiết, trang
nghiêm,…
3) Ý nghĩa văn bản:
- Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên nói riêng, đất nước, con người VN nói chung trong cuộc đấu tranh GP dân
tộc;
- Khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân,
không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

CÂU 2 ĐIỂM:ĐỌC HIỂU


Đề 1:
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới
ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng
lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh
để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn
thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra. Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong,
chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây
chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như
những con chim đã đủ lông mao lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng.
Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà
nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...
(Trích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành)

1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trung Thành sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh,
nhân hoá, đối lập. Xác định biểu hiện các phép tu từ đó và nêu tác dụng của hình thức
nghệ thuật này là gì ?
4. Xác định từ loại của các từ được gạch chân : mọc, lao, phóng, ham, tiếp, vượt, ưỡn
trong văn bản ? Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng các từ đó là gì ?
5. Từ văn bản trên, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ bản thân về những cánh rừng
bị tàn phá hiện nay.

Trả lời :

54
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức tự sự là chính.
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là : nói về đặc tính của cây xà nu. Đó là cây ham
ánh sáng mặt trời, sinh sôi nảy nở nhanh và khoẻ. Khi bị đạn đại bác bắn, cây xà nu bị
chặt đứt ngang thân, cây chết. Nhưng một số cây còn sống, vết thương chóng lành, vượt
lên trên cao để đón ánh nắng mặt trời. Cây xà nu bảo vệ dân làng Xô Man.
3. Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trung Thành sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh,
nhân hoá, đối lập.
a/Biểu hiện các phép tu từ đó là :
-So sánh : Trong rừng ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy ; Nhưng cũng có
những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ
lông mao lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng
lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng.
- Nhân hoá: những vết thương của chúng chóng lành ; Chúng vượt lên rất nhanh;
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...
- Đối lập: Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên; Ở
những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét
mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn
đầu người, cành lá sum sê
b/Tác dụng của hình thức nghệ thuật này là :
-Biện pháp so sánh nhằm ca ngợi sức cống hiếm có của cây xà nu.
-Biện pháp nhân hoá khiến xà nu không chỉ hiện lên ở phương diện sinh vật học
với đặc tính dẻo dai, sức chịu đựng tốt mà còn trở thành sinh thể sống, đang chịu những
đau đớn về thể xác nhưng bất khuất, kiên cường, gan dạ, bản lĩnh, ẩn tàng một sức sống
bất diệt, một tâm hồn giàu chất thơ.
-Biện pháp đối lập giữa cây xà nu ngà gục với mọc lên, giữa cái chết với sự sống
nhằm khẳng định sự sống sinh ra từ trong cái chết, mạnh hơn cái chết của cây xà nu cũng
chính là tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương mà anh dũng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
4. Từ loại của các từ được gạch chân : mọc, lao, phóng, ham, tiếp, vượt, ưỡn trong
văn bản là động từ, hàng loạt động từ mạnh. Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng các
động từ đó là : thể hiện tư thế chủ động của cây xà nu, ca ngợi sự khao khát sống, khả
năng sống tiềm tàng, mãnh liệt.
5. Một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ bản thân về những cánh rừng bị tàn phá hiện
nay, đảm bảo các ý chính :
- Tóm tắt vẻ đẹp của rừng xà nu trong chiến tranh khốc liệt
- Nhưng hiện nay, bên cạnh những cánh rừng bạt ngàn, xanh rờn thì không ít
những cánh rừng bị tàn phá, biến thành những đồi trọc.
- Hậu quả những cánh rừng bị tàn phá ?
- Nguyên nhân ( chủ quan và khách quan)
- Đề xuất biện pháp khắc phục
- Bài học cho bản thân ?

Đề 2:

55
Tnú không cứu sống được vợ, được con. Tối đó, Mai chết. Còn đứa con thì đã chết
rồi. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không
kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì bị
chúng nó bắt, mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau
đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu
mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm
bọn thanh niên. Bọn thanh niên thì cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác.
Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống
phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...
1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn văn trên?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, các từ ngữ trong lời của cụ Mết như : Nhớ không ; Nhớ
lấy, ghi nhớ lấy có hiệu quả diễn đạt như thế nào?
4. Câu nói: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!... có ý nghĩa gì?
5. Từ câu nói của cụ Mết ở câu 4, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ bản thân
về trách nhiệm bảo vệ tổ quốc của tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay.

Trả lời :

1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt vì đây là lời kể
chuyện của nhân vật cụ Mết trong đêm Tnú về thăm làng Xô Man sau ba năm đi lực
lượng.
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là :
- Cụ Mết kể lại và giải thích vì sao Tnú không cứu được vợ, con.
- Bản thân Tnú cũng bị giặc bắt và tra tấn
- Cụ Mết dẫn trai làng vào núi Ngọc Linh để lấy vũ khí về giết giặc
- Lời dặn dò của cụ Mết : phải cầm vũ khí để đứng lên chiến đấu.
3.Việc dùng các từ được gạch dưới trong câu văn có hiệu quả nhấn mạnh con cháu
phải ghi nhớ mối thù quân cướp nước và bán nước; phải ghi nhớ bài học chiến đấu trong
chiến tranh cách mạng. Đó cũng là lời suy ngẫm về lịch sử được đúc kết trở thành chân lí.
4/ Câu nói: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!... có ý nghĩa: phải dùng
bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Nhân dân miền Nam không có
con đường nào là cầm vũ khí để đánh giặc cứu nước, đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc
5/ Đoạn văn phải đảm bảo các nội dung:
- Nhận thức của bản thân về tình hình đất nước hiện nay: thời cơ và thách thức
- Bảo vệ Tổ quốc là gì ?
- Tuổi trẻ phải làm gì để góp phần bảo vệ Tổ quốc?
- Liên hệ bản thân.

Đề 3:
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà
nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, nhìn trừng trừng.

56
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa cháy ở mười đầu ngón tay nữa. Anh
nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh
đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người Cộng sản không
thèm kêu van...” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy! Không,
Tnú sẽ không kêu! Không!
( Trích Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành)
Đọc đoạn văn trên và trả lời các câu hỏi sau:
1. Xác định phương thức biểu đạt của đoạn văn trên?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn : Một ngón tay Tnú bốc cháy.
Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón
tay đã thành mười ngọn đuốc. Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.
4. Nêu ý nghĩa biểu tượng ngón tay trong văn bản ?
5. Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ bản thân về trách nhiệm bảo vệ tổ quốc
của tuổi trong cuộc sống hôm nay.

Trả lời :

1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt vì đây là lời kể
chuyện của nhân vật cụ Mết trong đêm Tnú về thăm làng Xô Man sau ba năm đi lực
lượng.
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là :
- Cụ Mết kể lại và giải thích vì sao Tnú không cứu được vợ, con.
- Bản thân Tnú cũng bị giặc bắt và tra tấn
- Cụ Mết dẫn trai làng vào núi Ngọc Linh để lấy vũ khí về giết giặc
- Lời dặn dò của cụ Mết : phải cầm vũ khí để đứng lên chiến đấu.
3. Biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn : Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón,
ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã
thành mười ngọn đuốc.: liệt kê, tăng tiến Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó: tố
cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ca ngợi tinh thần trung thành cách mạng,bản lĩnh kiên
cường, dũng cảm của nhân vật Tnú. Đó còn là biểu tượng bi hùng, giàu chất sử thi và
cảm hứng lãng mạn.
4/ Câu nói: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!... có ý nghĩa: phải dùng
bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Nhân dân miền Nam không có
con đường nào là cầm vũ khí để đánh giặc cứu nước, đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc
5/ Đoạn văn phải đảm bảo các nội dung:
- Nhận thức của bản thân về tình hình đất nước hiện nay: thời cơ và thách thức
- Bảo vệ Tổ quốc là gì ?
- Tuổi trẻ phải làm gì để góp phần bảo vệ Tổ quốc?
- Liên hệ bản thân.

CÂU 5 ĐIỂM:
ĐỀ 1: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn
Trung Thành ( Dạng đề phân tích hình tượng)
57
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu hình tượng cây xà nu trong truyện.
II/ Thân bài :
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác
phẩm, tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích hình tượng cây xà nu :
a/ Cây xà nu gắn bó mật thiết, trở thành một phần máu thịt trong đời sống
vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man.
- Cây xà nu là hình tượng xuyên suốt, được miêu tả công phu, đậm nét trong
toàn bộ tác phẩm : ở phần mở đầu ...trong tác phẩm và kết thúc tác phẩm
- Cây xà nu bảo vệ cho người dân Xô Man trước sự huỷ diệt tàn bạo của kẻ
thù.
- Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân làng Xô Man .
- Đặc biệt, câu xà nu gắn bó mật thiết với cuộc chiến đấu của người dân Xô
Man với kẻ thù tàn bạo.
b/ Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây
Nguyên trong chiến tranh Cách mạng : đau thương mà anh dũng.
- Cây xà nu phải chịu nhiều đau thương như những đau thương của người dân
Xô Man...
- Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời cũng như dân làng Xô Man ham tự do, họ
luôn vương lên đấu tranh để có tự do.
- Cây xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi (cạnh một cây mới
ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên) cũng như các thế hệ làng Xô Man kế tiếp nhau
đứng dậy chiến đấu.
- Vẻ đẹp, những thương tích, đặc tính của xà nu...là hiện thân cho vẻ đẹp,
những đau thương, khát khao tự do, sức sống của dân làng Xô Man, đồng bào Tây
Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
Qua hình tượng cây xà nu, người đọc hiểu biết thêm về cuộc sống của người Tây
Nguyên và nhất là thêm yêu quí, tự hào về những phẩm chất cao đẹp của họ.
3. Những đặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng: Sử dụng nhân hoá, ẩn dụ,
bút pháp tả thực, tượng trưng, lời văn đậm chất sử thi, câu văn giàu tính tạo hình, nhạc
điệu...
III/ Kết bài : Tóm lược về hình tượng, ý nghĩa của hình tượng, mở rộng : liên hệ
thực tế.
- Cảm nghĩ về tác giả.
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn.
Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu
biểu)
Mở bài Nguyễn Trung Thành là một trong các nhà văn trưởng thành qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tình yêu mảnh đất Tây Nguyên
và sự hiểu biết sâu sắc cuộc sống nơi đây đã giúp nhà văn sáng tạo nên những
hình tượng nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt và hấp dẫn. Nguyễn Trung Thành có
58
nhiều tác phẩm giá trị viết về cuộc sống của đồng bào các dân tộc trên mãnh
đất này. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong giai đoạn kháng chiến chống
Mĩ là truyện ngắn "Rừng xà nu". Trong truyện ngắn này, nhà văn đã khắc
hoạ thành công hình tượng cây xà nu - một hình tượng nghệ thuật có ý
nghĩa sâu sắc.
Thân bài Truyện ngắn "Rừng xà nu" được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết
:Khái năm 1965, in trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc". Truyện
quát miêu tả rừng xà nu và kể chuyện Tnú sau ba năm đi "lực lượng" về thăm làng.
Tối hôm đó, tại nhà cụ Mết, dân làng mừng đón Tnú, Cụ Mết kể cho dân làng
nghe câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man chống kẻ
thù tàn bạo. Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn chân Tnú trở về đơn vị.
Phân Cây xà nu gắn bó mật thiết, trở thành một phần máu thịt trong đời
tích ý 1: sống vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. Sự gắn bó của cây xà nu
với người dân Xô man được thể hiện ngay trong kết cấu nội dung truyện.
Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu
biểu của miền đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo
dựng được một bối cảnh hùng vĩ và hoang dã đậm màu sắc Tây Nguyên cho
câu chuyện. Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa
lại hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt. Trong truyện ngắn này, nhà văn không chỉ mở
đầu và kết thúc truyện bằng hình ảnh rừng xà nu bát ngát đến chân trời, mà đã
gần 20 lần nói đến “rừng xà nu”, “cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”…
Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm,
nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi
lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là “các đồi xà nu – 4 lần”; “Rừng xà nu – 5
lần”. Thủ pháp điệp trùng khi mô tả cây xà nu đó, vừa làm nền cho toàn bộ
diễn biến của câu chuyện, vừa gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về cây xà
nu.
Gắn bó với con người, cây xà nu bảo vệ cho người dân Xô Man trước
sự huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù. Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút Nguyễn
Trung Thành đã trở thành một nhân chứng về tội ác của chiến tranh hủy diệt;
là người chứng kiến cho sự giác ngộ, hy sinh thầm lặng và sự quất khởi của
người dân Xôman. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một
bức tranh toàn cảnh về nỗi đau thương đội bom đạn giặc Mỹ gây ra. Tác giả đã
đặt ngay cây Xà nu vào bối cảnh khốc liệt của chiến tranh“ Làng nằm trong
tầm đại bác của giặc…”. Cây Xà nu vừa là người chứng kiến sự tàn khốc của
chiến tranh, vừa là đối tượng hủy diệt của bom đạn kẻ thù “Cả rừng xà nu
hàng vạn cây, không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt
ngang thân mình, đổ ào như một cơn bão”. Ở một chỗ khác, tác giả tả kỹ
hơn “nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh
nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại đen và đặc lại quện thành cục máu
lớn”. Hình ảnh đó gợi lên nỗi đau thương mất mát. Cây xà nu đã dùng sinh
mạng của mình để bảo vệ cho người làng Xô Man.
Dù bị tàn phá nặng nề nhưng cây xà nu vẫn có một sức sống mãnh liệt.
Bên cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn
59
xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Với những cây xà nu đã
trưởng thành vượt lên cao hơn đầu người thì đạn đại bác không giết nổi
chúng. Chúng như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Cứ thế hai ba năm nay,
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho người dân Xô Man.
Sau ba năm đi lực lượng trở về, Tnú vẫn đi trên con đường cũ qua rừng xà nu
nhưng phải có bé Heng dẫn đường. Vì đường cũ này chằng chịt những hầm
chông, hố chông, những dàn thò. Giặc muốn vào làng Xô Man phải đi qua
rừng xà nu. Rừng xà nu thành trận địa phục kích kẻ thù, thành vành đai bảo vệ
dân làng.
Cây Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như đã từ ngàn
đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, đuốc
xà nu soi sáng đường rừng đêm, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà ưng tập
trung cả dân làng. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm
tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú, Mai học chữ cụ Hồ. Lửa xà nu nhiều
lần chứng kiến cụ Mết giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần kiên cường,
bất khuất cho dân làng Xô Man qua câu chuyện về Tnú.
Đặc biệt, cây Xà nu còn gắn bó mật thiết với cuộc chiến đấu của
người dân Xô Man. Cây xà nu chứng kiến tội ác man rợ của kẻ thù và nỗi
đau của người dân Xô Man: chứng kiến cái chết của anh Xút, bà Nhan, chứng
kiến kẻ thù tàn bạo gây ra cái chết của mẹ con Mai. Lửa xà nu chứng kiến giặc
tra tấn dã man với Tnú. Chúng đốt hai bàn tay anh bằng giẻ tẩm dầu xà nu.
Mười ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc. Ngọn đuốc ấy, cùng với tiếng thét
của anh đã thành hiệu lệnh để dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt kẻ thù.
Dưới ánh lửa xà nu sáng rực, những tiếng giết vang lên, tiếng chân người đạp
lên sàn nhà ưng ào ào, tiếng bọn lính kêu thất thanh, tiếng cụ Mết ồ ồ: Chém!
Chém hết . Và, xác mười tên lính giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.
Lửa xà nu chứng kiến dân làng Xô Man quật khởi, chứng kiến kẻ thù đền tội.
Ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng
sâu lấy giáo mác đã giấu kỹ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm đêm cả dân
làng thức mài vũ khi dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ
tẩm nhựa xà nu, lửa xà nu đốt lên lòng căm thù trong lòng người dân Xôman.
Dân làng đã cứu sống Tnú. Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú, nhưng
đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Và ngọn lửa căm hờn trong lòng người
Xô Man mới chỉ bắt đầu. Ngay sau cuộc chiến đấu ấy, cụ Mết đã kêu gọi:Thế
là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên ! ...Người dân Xô Man nghe theo lời kêu gọi của
cụ Mết đã chuẩn bị giáo, mác, rựa và vót chông. Sau đó, suốt đêm nghe cả
rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Lửa xà nu đã chứng
kiến và soi sáng cho dân làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chống lại kẻ thù.
Phân Cây xà nu thực sự đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống
tích ý 2: vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. Nhưng không chỉ vậy, hình
tượng cây xà nu còn mang ý nghĩa ẩn dụ. Cây xà nu là tượng trưng cho số
phận và phẩm chất con người Tây Nguyên trong chiến tranh Cách mạng :
đau đớn mà anh hùng.
60
Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ
đến những mất mát, đau thương vô bờ mà đồng bào ta đã trải qua trong thời kỳ
cách mạng miền Nam bị khủng bố ác liệt. Những cây xà nu lớn, xà nu con bị
huỷ diệt như bà Nhan, anh Xút, Mai và đứa con bị kẻ thù sát hại.
Đặc tính “ham ánh sáng” của cây xà nu tượng trưng cho niềm khao khát
tự do, lòng tin vào lý tưởng Cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng
bào miền Nam. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời: “nó phóng lên rất
nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do,
khát khao ánh sáng. Bất chấp sự hủy diệt tàn khốc của bom đạn kẻ thù, cây xà
nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt không gì tiêu diệt, tàn phá nổi
“Bên cạnh một cây Xà nu mới ngã gục, đã có 4, 5 cây con mọc lên ngọn
xanh rờn hình nhọn như mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế
hệ làng Xô Man, lớp này kế tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu.
Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt, tàn
phá thể hiện sự bất khuất, kiên cường, sự vươn lên mạnh mẽ của con người
Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc chiến đấu một mất một còn
với kẻ thù. Có những cây xà nu “cành lá xum xuê như những con chim đã
đủ lông mao, long vũ, đạn đại bác không gíêt nổi chúng. Những vết thương
của chúng chóng lành như trên một cơ thể của chúng chóng lành như trên
một cơ thể cường tráng”. Tất cả nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng
trùng điệp điệp như rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Thủ pháp
nghệ thuật so sánh, đối chiếu như một ẩn dụ trên đây trong khi mô tả cây xà
nu, đã tạo nên sự chuyển hóa, hòa hợp giữa hình tượng thiên nhiên và con
người, tạo nên một bản hợp xướng đầy chất thơ hào hùng tráng lệ về sức sống
bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất kiên trung của nhân dân Tây Nguyên
giành tự do.
Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu cùng sự rộng lớn, bạt ngàn
của rừng xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây
Nguyên đoàn kết bên nhau kháng chiến. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú, Mai.
Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt
đứt ngay giữa thân mình, thì Dít đã lớn lên, và nhanh chóng đến không ngờ trở
thành Bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội. Rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo
của Dít cũng đang lớn lên tiếp bước đàn anh. Chính cụ Mết cũng đã khẳng
định được cái sức sống bất tử ấy như một chân lí giản dị: “Không có cây gì
mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết
rừng xà nu này”.
Nhận xét Hình tượng cây xà nu được xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo. Nhà
nghệ văn kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng,
thuật khi đặc tả cận cảnh một số cây; phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong
việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa
thơm, ngời xanh dưới ánh nắng... Tác giả miêu tả cây xà nu trong sự so sánh,
đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng
trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của
thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
61
Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng
giống như một đoạn thơ trữ tình. Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ
thuật đặc sắc của tác giả, tạo nên màu sắc sử thi và sự lãng mạn bay bổng cho
thiên truyện.
Kết bài Tóm lại, hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Trung Thành. Nó được dùng như một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ
đến con người Tây Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung,
thủy chung với Cách mạng. Qua hình tượng cây xà nu, tác giả ca ngợi thiên
nhiên và con người Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam
nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Đề 2 : Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành. ( dạng đề phân tích nhân vật )
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu nhân vật Tnú trong truyện.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm,
tóm tắt nội dung truyện.
2. Phân tích nhân vật Tnú:
a/. Phân tích đặc điểm 1: Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng
cảm, mưu trí:
- Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn
cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
- Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
-Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà
“lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy
hiểm giặc “không ngờ” đến.
- Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc
kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở
đây này”.
b./Phân tích đặc điểm 2:Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành
với cách mạng
- Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của
cấp trên mới về thăm.
-Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành
tuyệt đối:Tâm trạng Tnú trong đêm bị bắt, khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa
như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh
Quyết: “người cộng sản không thèm kêu van”.
c./Phân tích đặc điểm 3: Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con.
Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu
thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên
trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
62
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối
thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
- Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn: đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ
anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên
chữ ...
+ Khi bị thương: đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng
căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy
trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi
chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của
quân giải phóng.
d/. Nhận xét chung : Cuộc đời bi tráng và con đường đến với cách mạng của Tnú
điển hình cho con đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, góp phần làm
sáng tỏ chân lí của thời đại : Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách
mạng; đấu tranh là con đường tất yếu để tự giải phóng. Hình tượng rừng xa nu và Tnú có
quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có
những con người biết hi sinh như Tnú; sự hi sinh của những con người như Tnú góp phần
làm cho những cánh rừng xà nu mãi xanh tươi.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật Tnú:
-Tnú vừa có những nét riêng cá tính sống động, vừa mang phẩm chất có tính khái
quát, tiêu biểu.
- Lời văn với những câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm , khi
tha thiết, trang nghiêm. Từ không gian kể chuyện đến nhân vật trong truyện đều mang
chất sử thi đậm nét.
III . Kết bài :
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật Tnú.
- Cảm nghĩ về nhân vật.
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn.
Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu
biểu)
Mở bài Nguyễn Trung Thành là một trong các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tình yêu mảnh đất Tây Nguyên và sự
hiểu biết sâu sắc cuộc sống nơi đây đã giúp nhà văn sáng tạo nên những hình
tượng nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt và hấp dẫn. Nguyễn Trung Thành có nhiều
tác phẩm giá trị viết về cuộc sống của đồng bào các dân tộc trên mãnh đất này.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ là truyện
ngắn "Rừng xà nu". Trong truyện ngắn này, nhà văn đã khắc hoạ thành công
nhân vật Tnú- nhân vật trung tâm kết tinh vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên- một vẻ đẹp bi hùng, được miêu tả với bút pháp sử thi hoành tráng.
Thân Truyện ngắn "Rừng xà nu" được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết năm
bài : 1965, in trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc". Truyện miêu
Khái tả rừng xà nu và kể chuyện Tnú sau ba năm đi "lực lượng" về thăm làng. Tối
63
quát hôm đó, tại nhà cụ Mết, dân làng mừng đón Tnú, Cụ Mết kể cho dân làng nghe
tác câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man chống kẻ thù tàn
phẩm bạo. Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn chân Tnú trở về đơn vị.
Phân Ngày còn nhỏ,Tnú là một thiếu niên có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Tnú có
tích ý hoàn cảnh éo le. Theo lời kể của cụ Mết, Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất
1: sớm, được dân làng Xô Man cưu mang, đùm bọc. Dù không được sống trong
vòng tay yêu thương của cha mẹ, nhưng Tnú lại có một tâm hồn trong sáng,
trung thực. Khi kể chuyện về Tnú, cụ Mết đã khẳng định : Đời nó khổ nhưng
bụng nó sạch như nước suối làng.
Phẩm chất tốt đẹp nhất của Tnú là tinh thần dũng cảm, lòng yêu quê
hương, đất nước. Phẩm chất ấy được thể hiện rõ khi Tnú tham gia vào công
việc nuôi cán bộ. Ngay từ thời còn nhỏ,Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế, nuôi
giấu anh Quyết cán bộ Đảng “nằm vùng”. Dù đã chứng kiến những người đi
nuôi cán bộ như anh Xút, bà Nhan bị giặc sát hại dã man nhưng Tnú vẫn không
sợ. Khi anh Quyết hỏi: Các em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Xút, bà
Nhan đó, Tnú đã trả lời anh Quyết bằng cách nhắc lại lời cụ Mết: Cán bộ là
Đảng. Đảng còn, núi nước này còn. Tnú không sợ bị giặc bắt, không sợ bị giặc
giết, bởi Tnú đã hiểu rằng: bảo vệ cán bộ chính là bảo vệ núi nước của mình.
Tnú còn là một đứa trẻ gan góc, có lòng tự trọng. Học chữ thua
Mai,Tnú nổi nóng, đập bể cái bảng nứa rồi bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày.
Anh Quyết ra dỗ, Tnú không nói. Mai ra dỗ,Tnú đòi đánh Mai. Rồi Tnú lấy đá
đập vào đầu chảy máu ròng ròng. Tnú đã tự trừng phạt cái tập hay quên chữ của
mình. Thấy Tnú như vậy, anh Quyết đã khuyên nhủ:Sau này, nếu Mĩ-Diệm giết
anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi.
Lời khuyên của anh Quyết khiến Tnú hối hận, cảm động, lén chùi nước mắt
giàn giụa, rồi dẹp bỏ tự ái, tích cực học chữ.
Làm liên lạc cho anh Quyết, Tnú thể hiện là một thiếu niên thông
minh, táo bạo. Học hay qiên chữ nhưng đi giao liên thì đầu nó sáng lạ lùng.
Giặc vây các ngả đường, Tnú leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi “xé
rừng mà đi”, lọt qua tất cả các vòng vây. Qua sông, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà
bơi ngang, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Tnú biết là chỗ nước
mạnh giặc “không ngờ”. Thật là mưu trí.
Khi bị giặc bắt, Tnú thể hiện lòng trung thành, không khuất phục
trước kẻ thù tàn bạo. Bị giặc phục kích, họng súng giặc “chĩa vào tai lạnh
ngắt”, Tnú nuốt luôn cái thư bí mật của anh Quyết gửi về huyện. Giặc tra tấn dã
man. Chúng giải anh về làng, bắt Tnú khai người nào là cộng sản. Anh đặt tay
lên bụng mình nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy những vết dao chém của lũ
giặc. Tnú đã bất khuất hiên ngang, trung thành vô hạn với cách mạng. Anh
không bao giờ quên lời cụ Mết dạy: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này
còn!”.
Phân Khi trưởng thành,Tnú có một trái tim sục sôi căm giận và yêu thương;
tích ý sống rất nghĩa tình và luôn mang trong tim ba mối thù: thù của bản thân,
2: thù của gia đình,thù của buôn làng.
Sau 3 năm bị tù ở ngục Kông Tum, Tnú vượt ngục trở về làng. Cả làng vui
64
mừng đón anh ở nhà ưng. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho cả làng
nghe. Lần thứ hai anh lại đi ba ngày lên núi Ngọc Linh, không lấy đá trắng làm
phấn mà mang về một gùi nặng đá mài. Cả làng Xô Man, ngày thì phát rẫy, đêm
đêm mài vũ khí. Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với lũ giặc, với thằng Dục
ác ôn thì Tnú là “con cọp” nếu không giết sớm, nay nó làm loạn rừng này rồi!.
Nguyễn Trung Thành đã đặt nhân vật vào một tình huống khốc liệt nhất
để tô đậm tính cách anh hùng của Tnú. Thằng Dục kéo một tiểu đội về làng Xô
Man. Ngọn roi của giặc không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy làng. Xảo quyệt,
nham hiểm, thằng Dục bắt mẹ con Mai, với âm mưu bắt “cọp cái và cọp con”
để “dụ cọp đực”! Mẹ con Mai bị đánh chết bằng trận mưa cây sắt. Chỉ có hai
bàn tay không, Tnú nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con. “Hai cánh tay rộng lớn
như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Anh nguyền rủa lũ
giặc là “Đồ ăn thịt người!”. Hai mắt Tnú là “hai cục lửa lớn”. Tnú bị giặc bắt,
trói bằng dây rừng. Khi bị giặc trói, Tnú thể hiện bản chất của một người hết
lòng vì sự nghiệp cách mạng. Nằm trong góc nhà, Tnú thấy mình thật bình thản..
Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ. Anh nghĩ "Đứa con chết rồi. Mai
chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi". Nhưng Tnú không sợ, điều làm
Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là khi có lệnh của Đảng, ai sẽ lãnh đạo dân
làng Xô Man đánh giặc ? Lúc đã có câu trả lời: ”còn có bọn thanh niên”, có
“con Dít sẽ lớn lên”, thì anh thấy tiếc vì “không sống được tới ngày cầm vũ khí
đứng dậy với dân làng”. Dường như Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa,
Tnú đã đặt cái chung, đặt nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến
đau thương thành hành động.
Thằng Dục ác ôn đã dùng giẻ tẩm nhựa xà nu tra tấn anh. Mười ngón tay
Tnú đã thành mười ngọn đuốc. Lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng! Máu
anh mặn chát ở đầu lưỡi. Tnú “cắn nát môi” chịu đựng. Tnú lẫm liệt hiên ngang
“không thèm kêu van!”. Khí phách hiên ngang bất khuất của Tnú như một khúc
tráng ca anh hùng mang màu sắc sử thi thần kì.
Cụ Mết và đội du kích tràn lên nhà ưng giết hết sạch bọn ác ôn, cứu sống
được Tnú. Vết thương lành, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng Tnú còn cầm
được giáo, bắn súng được, anh lại đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân,
đi tìm Mỹ - Diệm, để trả thù cho mẹ con Mai, cho bà con làng Xô Man. Anh đã
xông xuống hầm ngầm đồn giặc, không dùng súng, không dùng dao, mà dùng
hai bàn tay, mười ngón tay cụt bóp cổ thằng chỉ huy! Với Tnú, “chúng nó đứa
nào cũng là thằng Dục!”.
Tnú là một nhân vật tư tưởng, có sự lôi cuốn không chỉ bởi tính triết
lý còn bởi tính trữ tình, tính hình tượng. Đặc biệt hình ảnh bàn tay Tnú là
chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: Đó
từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết
dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói
“Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát
ngục trở về ....Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tôi ác
và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười
ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng
65
Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên
đường trả hận....)
Nhận Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lí giản dị mà sâu
xét xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: "sau này, tao chết rồi,
chung bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải
cầm giáo". Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Xô
Man khi chưa giác ngộ chân lí. Tnú có thừa sức mạnh cá nhân, nhưng với bàn
tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không bảo vệ được vợ con và
bản thân. Tnú chỉ được cứu khi dân làng đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời của
Tnú là một minh chứng cho chân lí tất yếu: phải dùng bạo lực cách mạng để
tiêu diệt bạo lực phản cách mạng: đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu
để tự giải phóng Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là
con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô Man nói riêng và người
dân Tây Nguyên nói chung. Hình tượng rừng xà nu và Tnú có quan hệ khăng
khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những
con người biết hi sinh như Tnú; sự hi sinh của những con người như Tnú góp
phần làm cho những cánh rừng xà nu mãi xanh tươi.
Nhận Tác giả xây dựng nhân vật Tnú bằng nghệ thuật độc đáo. Tnú vừa có
xét về những nét riêng cá tính sống động, vừa mang phẩm chất có tính khái quát, tiêu
nghệ biểu. Lời văn với những câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm
thuật trầm , khi tha thiết, trang nghiêm. Từ không gian kể chuyện đến nhân vật trong
truyện đều mang chất sử thi đậm nét.
Kết Tóm lại, nhân vật Tnú có cuộc đời bi tráng: đau thương mà anh hùng. Qua
bài nhân vật Tnú và câu chuyện về làng Xô Man, tác giả ca ngợi tinh thần bất khuất,
sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, con người
Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân
lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước, nhân dân, không có con đường
nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

BÀI 04- NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH ( Nguyễn Thi)

A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:


I. Tác giả: Nguyễn Thi ( 1928-1968) là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu văn
nghệ giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông quê ở miền Bắc nhưng đã
gắn bó sâu nặng với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu Nhà văn
của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Văn ông vừa
giàu chất sống hiện thực, đầy những chi tiết dữ dội, ác liệt của cuộc chiến tranh, vừa đằm
thắm chất trữ tình với một ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam bộ. Một
trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi là truyện ngắn "Những đứa con trong gia
đình".
II. Tác phẩm: Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất
của Nguyễn Thi được sáng tác năm 1966, trong những ngày chiến đấu ác liệt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ-cứu nước.
1) Nội dung:
66
a) Nhân vật chính:
- Việt: Là một thanh niên mới lớn, rất hồn nhiên (không sợ chết nhưng lại rất sợ
ma, hay tranh giành với chị, đi chiến đấu vẫn mang súng cao su trong người,…); có một
tình yêu thương gia đình sâu đậm, một tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu gan dạ,
kiên cường. Trong anh có dòng máu của những con người gan góc, sẵn sàng hi sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc (còn nhỏ mà dám tấn công kẻ giết cha, xin đi tòng quân và
chiến đấu rất dũng cảm…)
- Chiến: Là một cô gái mới lớn, tính khí vẫn còn nét trẻ con nhưng cũng là một
người chị biết nhường em, biết lo toan, tháo vát; vừa có những điểm giống mẹ, vừa có
những nét riêng. Chiến căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm, lập được nhiều chiến
công.
b) Chiến và Việt là hai khúc sông trong dòng sông truyền thống của gia đình. Hai
chị em là sự tiếp nối thế hệ của chú Năm và má, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ
Miền Nam thời kì chống Mỹ-cứu nước.
2) Nghệ thuật:
- Tình huống truyện: Việt-một chiến sĩ Quân giải phóng-bị thương phải nằm lại
chiến trường. Truyện kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch(lúc tỉnh), khi gián
đoạn(lúc ngất) của người trong cuộc làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay
đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn
ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh…
3) Ý nghĩa văn bản:
Qua câu chuyện về những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có
truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung với quê hương, với CM, nhà văn
khẳng định: sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước; giữa truyền thống
gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người
VN, dân tộc VN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ-cứu nước.
B/ LUYỆN TẬP
CÂU 2 ĐIỂM:ĐỌC HIỂU
Đề 1:
Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai...Việt
ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen
thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô
tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đám dậy trời
dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó,
đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp
hùm...chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.
Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra...Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười
và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên...Việt vẫn còn đây,
nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh
chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng.
Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ...
(Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi)
67
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Xác định phép tu từ so sánh trong văn bản. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ
đó ?
4. Tại sao Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ đối với nhân vật Việt ?
5. Từ văn bản, việt đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về ý chí, nghị lực của tuổi trẻ hôm nay.

Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.


Câu 2 : Đoạn văn kể chuyện nhân vật Việt bị thương nặng trên chiến trường. Một lần tỉnh
lại, Việt nghe tiếng súng của ta, nhớ về đồng đội và quyết tâm tìm về đơn vị.
Câu 3 : Phép tu từ so sánh trong văn bản được thể hiện qua câu văn : Súng lớn và súng
nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đám dậy trời dậy đất hồi Đồng
khởi. Hiệu quả nghệ thuật: đem tiếng súng lớn, súng nhỏ của ta so sánh với tiếng mõ,
tiếng trống, nhà văn gợi lại âm thanh quen thuộc đã từng gắn bó với nhân vật Việt khi
anh đang cô độc và bị thương nặng giữa chiến trường, đồng thời là sống dây tinh thần
quật khởi của đồng bào miền Nam trong những ngày đánh Mỹ. Qua đó, ta thấy được tình
yêu quê hương, ý chí, nghị lực phi thường của nhân vật Việt.
Câu 4 : Đối với nhân vật Việt, tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ . Bởi vì, đó là tiếng
súng của đồng đội. Nó gọi Việt tới phía của sự sống. Tiếng súng đồng đội gọi chiến đấu
đã tiếp thêm sức mạnh mới để gọi Việt đến.

Câu 5 : Đoạn văn cần đảm bảo các ý:


- Dẫn ý bằng tình huống nhân vật Việt dù bị thương nặng trên chiến trường, ngất đi
tỉnh lại nhiều lần như vẫn cố gắng hướng về nơi có tiếng súng để sẵn sàng chiến đấu và
tìm về với đồng đội.
-Ý chí, nghị lực của tuổi trẻ là gì? Biểu hiện ?
- Ý nghĩa tác dụng của ý chí, nghị lực?
- Phê phán một bộ phận thanh niên có thái độ nản chí, lùi bước trước thử thách khó
khăn và nêu hậu quả.
- Bài học nhận thức và hành động?

Đề 2:
Trong lúc chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu con cá về làm bữa cúng má
trước khi dời bàn thờ sang nhà chú, còn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hò.
Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dời lại trên cái
ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu
lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết,
cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.
(Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?

68
3. Xác định phép điệp, phép so sánh trong văn bản. Nêu hiệu quả nghệ thuật của các phép
tu từ đó ?
4. Việc phối thanh ở các tiếng cuối mỗi nhịp trong câu văn : Câu hò nổi lên giữa ban
ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng
tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội. thể hiện
như thế nào và đem lại hiệu quả nghệ thuật ra sao?
5. Đặt nhan đề cho văn bản.

Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.


Câu 2 : Đoạn văn kể về giọng hò của chú Năm
Câu 3 : - Phép điệp từ : câu hò
-Phép tu từ so sánh trong văn bản được thể hiện qua câu văn : Câu hò nổi lên giữa
ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh ...một lời thề dữ dội
Hiệu quả nghệ thuật: Câu hò là ngọn nguồn, là hồn thiêng của cha ông đang nhập
vào chú Năm để truyền đến đời con cháu. Những giá trị đạo lí, tình nghĩa, thuỷ chung gửi
gắm qua từng câu hò đã thấm vào tâm hồn hai chị em Chiến và Việt, hun đúc tình yêu gia
đình, yêu quê hương đất nước cho chị em, đồng thời nó cũng là nguồn cổ vũ hai chị em
trong chiến đấu.
Câu 4 : Việc phối thanh ở các tiếng cuối mỗi nhịp trong câu văn : Câu hò nổi lên giữa
ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng
tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội. thể hiện ở
4 nhịp đầu liên tiếp là thanh Bằng ( B): ngày, chang, dài, ra; ở 3 nhịp sau liên tiếp là
thanh trắc ( T): nhủ, thiết, dội. Kết hợp câu dài với câu ngắn, sự phối thanh bằng- trắc
nhịp nhàng, tác giả thể hiện tiếng hò như hút tất cả tâm lực của Chú Năm, vừa nhắc nhớ
về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê hương khó nghèo nhưng giàu có và bất
khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục động viên thanh niên ra trận.
Câu 5: Nhan đề cho văn bản : Câu hò của chú Năm
Đề 3:
Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Chị
Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay
tròn vo sạm đỏ màu nắng cháy, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc
bổng một đầu bàn thờ của má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên
nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con
lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân
chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối
thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.
Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn
thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.
(Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn
Thi)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
69
3. Tìm 5 từ ngữ đậm chất Nam Bộ trong văn bản ? Từ đó, nhân xét nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ của Nguyễn Thi ?
4. Hai chị em Chiến- Việt hứa với ba má điều gì trước khi đi chiến đấu ? Ý nghĩa của lời
hứa đó là gì ?

Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự là chính.


Câu 2 : Đoạn văn kể về cảnh hai chị em Chiến- Việt khiêng bàn thờ má qua gửi nhà chú
Năm trước khi lên đường tòng quân giết giặc.
Câu 3 : 5 từ ngữ đậm chất Nam Bộ trong văn bản : tròn vo, dang, chắc nịch, ghé,rờ...
Hiệu quả nghệ thuật: tạo sự gần gũi, quen thuộc, thể hiện tính cách và phẩm chất
của con người Nam Bộ, chứng tỏ nhà văn am hiểu sâu sắc lời ăn tiếng nói của nhân dân
nam Bộ
Câu 4 : Hai chị em Chiến- Việt hứa với ba má trước khi đi chiến đấu: Nào, đưa má sang
ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà
độc lập con lại đưa má về.
Ý nghĩa của lời hứa đó :
- Lời hứa còn có ý nghiã tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em là có
thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống
gia đình. Hơn thế nữa, thế hệ sau cứng cáp, trưỏng thành hơn và có thể đi xa hơn.
- Lời hứa đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta: có yêu
thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng
có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh...
-Hình ảnh này còn là hình ảnh lãng mạn " má ở tạm bên nhà chú” và đến khi
“nước nhà độc lập con lại đưa má về”. Đây là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ác liệt,
nhưng Nguyễn Thi vẫn mang một niềm tin vào tương lai tất thắng.

CÂU 5 ĐIỂM:
Đề 1 : Phân thích nhân vật Việt trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình"
của Nguyễn Thi.
A/ Lập dàn ý:
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật Việt .
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, tóm tắt nội dung
truyện.
2. Phân tích nhân vật :
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: Việt là một thanh niên mới lớn, rất hồn nhiên.
- Làm rõ đặc điểm:
+ Luôn giữ trong mình cái ná thun, cho tới khi đã vào bộ đội

70
+ Bị thương rất nặng tới lần 2 "trong bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo", Việt không
sợ chết mà lại sợ ma và bóng đêm.
+ Yêu chị nhưng hay tranh giành với chị.
+ Rất yêu quý đồng đội nhưng không nói thật là mình có chị, sợ mất chị, phải giấu
chị.
b./Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: Việt có tình thương yêu gia đình sâu đậm.
- Làm rõ đặc điểm:
+ Tình cảm chị em, đối với linh hồn má, với chú Năm.
+ Hình ảnh cha mẹ thân yêu luôn chập chờn trong hồi ức khi bị thương.
c/.Phân tích đặc điểm 3:
- Nêu đặc điểm: Việt có tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu dũng cảm.
-Làm rõ đặc điểm:
+ Luôn ý thức phải sống và chiến đấu để trả thù nhà, đền nợ nước xứng đáng với
truyền thống gia đình.
+ Can đảm chịu đựng khi bị thương.
+ Tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu dù đang bị kiệt sức.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật Việt:
- Tình huống truyện: Việt-một chiến sĩ Quân giải phóng-bị thương phải nằm lại
chiến trường. Truyện kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch(lúc tỉnh), khi gián
đoạn(lúc ngất) của người trong cuộc làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay
đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn
ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh…
III . Kết bài :
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật . .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
- Cảm nghĩ về nhân vật.

Đề 2 : Phân thích nhân vật Chiến trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình"
của Nguyễn Thi.
A/ Lập dàn ý:
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật Chiến .
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, tóm tắt nội dung
truyện.
2. Phân tích nhân vật:
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: Chiến có lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm chiến đấu trả thù
cho ba má.
- Làm rõ đặc điểm:
71
+ Chiến giành với Việt để được ghi tên tòng quân trước.
+ Chiến ra trận với lời thề quyết chiến: "Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!
+ Khi cùng với Việt khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm, cũng như Việt,
Chiến nói thầm với ba má : “Chúng con đi chiến đấu trả thù cho ba má...”
b./Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: Là cô gái mới lớn, tính khí vẫn còn trẻ con nhưng Chiến là người
chị biết thương em, biết lo toan, tháo vát.
- Làm rõ đặc điểm:
+ Đêm trước khi đi tòng quân, Chiến bàn với Việt sắp xếp công việc gia đình: kêu
Việt viết thư cho chị Hai; gửi thằng Út; việc cái nhà và giường ván; năm công ruộng, hai
công mía... trao lại cho chi bộ và nhờ chú Năm...
+ Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ "nói in như
má" mà còn học được cách nói "trọng trọng" của chú Năm.
+Tuy có lúc giành nhau với em tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, đi tòng quân
nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng nhường em hết trừ việc đi tòng quân.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chiến:
- Nhân vật Chiến được xây dựng qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt làm câu
chuyện trở nên chân thật hơn;
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn
ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh…
III . Kết bài :
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật . .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
- Cảm nghĩ về nhân vật.

Đề 3 : Phân thích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật Chiến và
Việt trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
A/ Lập dàn ý:
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật Chiến .
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, tóm tắt nội dung
truyện.
2. Phân tích điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật:
a/. Điểm giống nhau:
- Cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương (cùng chứng kiến
cái chết đau thương của ba và má).
- Có chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc
hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm
súng đánh giặc.

72
- Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em: giành nhau ghi tên tòng quân
và sáng hôm sau trước khi lên đường nhập ngũ cùng khiêng bàn thờ má sang nhà chú
Năm
- Đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm.
- Đều có những nét rất ngây thơ, có phần trẻ con (giành nhau bắt ếch nhiều hay ít,
giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tòng quân).
b./Điểm khác nhau:
- Việt hiếu động, hiếu thắng, không chịu nhường nhịn; hồn nhiên phó mặc tất cả
cho chị; nhưng đi bộ đội lại có tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu gan dạn, kiên
cường.
- Chiến là chị, cho dù có lúc vẫn tranh giành với em nhưng cuối cùng vẫn nhường
em. Chiến là cô gái đảm đang, biết lo toan, tháo vát...
c./Nhận xét:
- Chiến và Việt là khúc sông sau nên đi xa hơn trong cả dòng sông truyền thống.
- Những nét giống và khác nhau làm nên vẻ đẹp riêng mỗi nhân vật. Họ tiêu biểu
cho thế hệ trẻ miền Nam thời chống Mĩ.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật :
- Tình huống truyện: Việt-một chiến sĩ Quân giải phóng-bị thương phải nằm lại
chiến trường. Truyện kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch(lúc tỉnh), khi gián
đoạn(lúc ngất) của người trong cuộc làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay
đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn
ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh…
III . Kết bài :
- Tóm lược về nhân vật . .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh
đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. )
Mở bài Nguyễn Thi ( 1928-1968) là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu
văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông quê ở miền
Bắc nhưng đã gắn bó sâu nặng với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng
với danh hiệu Nhà văn của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Văn ông vừa giàu chất sống hiện thực, đầy những chi tiết
dữ dội, ác liệt của cuộc chiến tranh, vừa đằm thắm chất trữ tình với một ngôn
ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam bộ. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu của Nguyễn Thi là truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình". Trong
truyện ngắn này, tác giả đã khắc hoạ thành công hai nhân vật Chiến và
Việt cùng là con của một gia đình cách mạng, hai nhân vật có nét giống
nhau nhưng cũng có nét khác nhau.
Thân "Những đứa con trong gia đình" được viết vào tháng 2 năm 1966, khi
bài: Nguyễn Thi đang công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Truyện kể về
Khái Việt- một chiến sĩ Giải phóng quân- chiến đấu dũng cảm, bị thương năng và
quát lạc đơn vị. Một mình năm trên chiến trường, Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần.
73
Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về tuổi thơ của mình, về cảnh ông bà nội, cha
mẹ đều chết vì kẻ thù man rợ; cảnh hai chị em giành nhau đi tòng quân để trả
thù cho cha mẹ...Ba ngày sau, Việt được đồng đội tìm thấy và đưa anh vào
điều trị tại bệnh viện dã chiến. Sức khoẻ dần hồi phục, Việt cảm thấy chiến
công mình chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và ước mong của má.
Phân Là hai chị em ruột trong một gia đình nên Chiến và Việt có những nét
tích ý giống nhau. Điểm giống nhau thứ nhất: họ đều xuất thân trong một gia
1: đình có truyền thống cách mạng. Ông nội và ba của Chiến, Việt tham gia
cách mạng và đều bị giặc giết hại. Má của Chiến, Việt vừa vất vả nuôi con,
vừa phải đương đầu với những đe doạ, hạch sách của kẻ thù, cuối cùng cũng
chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Chiến,Việt, thằng Út em, chú Năm và
một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang và
những đau thương mất mát của gia đình đầu được chú Năm ghi chép vào một
cuốn sổ, cả Chiến và Việt đều được đọc.
Nét chung thứ hai: cả Chiến, Việt đều có tình yêu thương gia đình sâu
đậm, căm thù giặc sâu sắc và quyết tâm chiến đấu trả thù cho ba má.
Ngày má chết rồi, ý nghĩđi bộ đội luôn thôi thúc Việt. Nhưng khi Việt ngỏ lời
ra, Chiến đã giành đi trước. Và sợ Việt đi trước mình, nên Việt đi đâu Chiến
cũng dòm chừng, coi Việt có bọc quần áo theo không? Chiến đưa lí do để
được đi trước: Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú
Năm, qua năm hãy đi. Nghe nói vậy, Việt tỏ thái độ tức giận bằng hành động
đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng và hỏi lại chị Bộ mình
chị biết đi trả thù à?. Câu nói thể hiện Việt cũng biết căm thù giặc, cũng mong
muốn đi chiến đấu để trả thù cho cha mẹ. Trong đêm mít tinh để ghi tên thanh
niên tòng quân, Chiến giành với Việt để được ghi tên đi tòng quân trước, sớm
trả thù cho ba má. Sau đó, nhờ câu nói của chú Năm, cả hai chị em đều được
ghi tên tòng quân.
Được ghi tên rồi, cả hai đều có quyết tâm chiến đấu đến cùng để trả thù
cho cha mẹ. Buổi tối trước khi lên đường tòng quân, Chiến đã mượn lời chú
Năm để căn dặn Việt: xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa
trả mà bỏ về là chú chặt đầu. Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì, trả lời : Chị
có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị?.Nghĩa là, Việt không bao
giờ bỏ về khi thù cha mẹ chưa trả. Nghe Việt nói vậy, Chiến khẳng định: Đã
làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : nếu giặc còn thì tao mất.Câu
nói mộc mạc, giản dị của Chiến như một lời thề thiêng liêng quyết tử với kẻ
thù. Khi khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, hai chị em đều nói thầm
với má : Chúng con đi chiến đấu trả thù cho ba má, tới chừng nước nhà độc
lập, con lại đưa ba má về. Đây là chỗ hay nhất của đoạn văn, gợi không khí
thiêng liêng. Nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người. Không khí thiêng liêng đã
biến Việt thành người lớn. Lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình thương chị lạ,
mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy vì nó đang đè nặng trên vai. Hình ảnh có
ý nghĩa tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em có thể gánh vác
việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia
đình. Hơn thế nữa, thế hệ sau sẽ cứng cáp, trưởng thành và có thể đi xa hơn.
74
Nét chung thứ ba: họ đều có những nét rất ngây thơ, có phần trẻ con.
Trong kí ức của Việt, có lần hai chị em còn giành nhau bắt ếch nhiều hay ít,
giành nhau thành tích bắn tàu chiến Mĩ...và giành nhau ghi tên tòng quân.
Phân Tuy có điểm giống nhau nhưng ở Chiến, Việt lại có những nét khác
tích ý nhau.Việt là một chàng trai có tâm hồn trong sáng và hồn nhiên yêu đời.
2: Hai gò má thì "căng mướt" như da trái vú sữa. Nụ cười thì "lỏn lẻn". Việt là
em ruột của chị Chiến, là con trai thứ hai của má Tư Năng. Chiếc ná thun bằng
nạng ổi "láng o" đã gắn bó với tâm hồn Việt. Thuở nhỏ, Việt để đầu trần, lội
tắt trong vườn, xách ná thun đi bắn chim. Lớn lên đi làm, cái ná thun lại giắt
gọn sau lưng quần. Lúc trở thành một chiến sĩ Giải phóng quân, cầm súng tự
động, đánh Mĩ bằng lê, thì cái ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo của Việt.
Chiếc ná thun là kỉ vật tuổi thơ, là một phần đời thân thiết của chú. Việt đã
dùng nó đi gác, bắn "chóc... bịch !" báo tin cho các cô, các chú cán bộ ở trong
nhà xuống hầm bí mật khi bọn lính giặc kéo tới.Việt là một chú bé "hiếu
thắng" hay tranh giành với chị Chiến. Từ chuyện bắt ếch, chuyện bắn tàu
chiến Mĩ trên sông Định Thủy đến chuyện ghi tên tòng quân, Việt đều tranh
giành với chị. Vốn được má cưng chiều, biết chị hay nhường nhịn, nên chú
mới hay tranh giành như thế. Đó là một nét tâm lí dễ thương của tuổi thơ hồn
nhiên.Việt quý mến tin cậy đồng đội biết bao, nhất là anh Tánh, anh Công...
nhưng Việt không cho ai biết là chú có chị gái tên là Quyết Chiến, tiểu đội
trưởng của bộ đội nữ địa phương quân Bến Tre. Việt giấu chị như giấu của
riêng vậy, vì cậu ta "sợ mất chị mà !". Khi Việt đã có hai tuổi quân, đã từng
trải qua những trận đánh dữ dội, những cuộc đọ lê ác liệt với giặc Mĩ, chú ta
không sợ giặc, không sợ chết mà lại sợ ma. Bị lạc đơn vị, bị thương nằm một
mình giữa chiến trường, chú "nằm thở dốc" khi chợt nhớ tới con ma cụt đầu,
thằng chỏng thụt lưỡi mà các chị vẫn kể hồi ở nhà...Cái đêm trước lúc hai chị
em ra trận, chị Chiến bàn với cậu em trai thu xếp việc gia đình. Việt phó thác
hết mọi chuyện cho chị gái, chỉ ậm ừ cho xong chuyện, "rồi ngủ quên lúc nào
không biết". Thật là vô tư và hồn nhiên.
Việt là một con người có một trái tim giàu tình yêu thương. Bị thương
nặng, nằm giữa chiến trường, Việt ngất đi mê man rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê
đến ba bốn lần. Chú nhớ má, nhớ câu chuyện của má thời con gái, nhớ đôi mắt
"sắc ánh lên" của má khi má đứng trước mũi súng quân giặc, nhớ kỉ niệm
đau thương mấy chị em theo má lên tới quận đòi "trả đầu ba". Việt nhớ "cái
gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng" của má lúc chèo xuồng, nhớ tiếng gọi đầy yêu
thương của má: "Việt à, ra phụ má nghe con !". Có nhiều đêm má đi làm
thuê đến canh hai mới về, Việt tỉnh giấc "ngửi thấy mùi lúa gạo và mùi mồ
hôi của má ngay trên đầu mình". Sau ngày má mất, nhất là đêm cuối cùng
trước lúc đi bộ đội, đom đóm từ ngoài rặng bần kéo vào đầy nhà, Việt cảm
thấy "má cũng đã về đâu đây"... Thương má, thương chị, Việt nhớ và thương
chú Năm vô cùng. Việt nhớ cuốn sổ của chú Năm ghi mọi chuyện "thỏn mỏn"
của gia đình, nhớ chú Năm hay bênh Việt, nhớ giọng hò tức và đục như gà gáy
của chú. Quên sao được câu hò của chú khi chị em Việt khiêng bàn thờ má đi
gửi, tiếng hò "cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi ngắt
75
lại như một lời thề dữ dội".
Tuy còn có nét hồn nhiên, vô tư như vậy nhưng khi đi bộ đội, Việt lại
có tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu gan dạ, kiên cường. Đi bộ đội,
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân rất quả cảm. Chú ra trận mang theo sức
mạnh truyền thống cách mạng của gia đình, sức mạnh của tình thương ba
má..., sức mạnh của lòng căm thù quân xâm lược giày xéo quê hương. Lúc còn
sống, má đã từng nói với Việt: "Để má ráng nuôi bay lớn, coi bây có làm
được gì cho cha mày vui không?". Ý nghĩ "đi trả thù" thôi thúc Việt suốt
đêm ngày. Chưa đủ 18 tuổi vẫn xung phong ghi tên tòng quân. Mới được 2
tuổi quân, Việt đã lập chiến công dùng thủ pháo tiêu diệt một xe bọc thép của
giặc Mĩ. Bị trọng thương, khắp người "đau điếng, rỉ máu", đôi mắt sưng lên
không nhìn thấy gì hết, mười ngón tay chỉ còn một ngón cái cử động được. Bị
lạc đơn vị, đói, khát đã hai ba ngày đêm. Thế nhưng, ba viên đạn còn dưới hộp,
một viên đã lên nòng, Việt vẫn day họng súng về phía giặc khi nghe hơi xe bọc
thép chạy mỗi lúc một gần. Việt quyết đánh đến viên đạn cuối cùng, đánh đến
giọt máu cuối cùng: "Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả
khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày".
Việt không thấy đơn độc, anh tin rằng: "Nghe tiếng súng nổ, các anh tao sẽ
chạy tới đâm mày !".
Gặp lại anh Tánh và đồng đội sau ba ngày đêm bị trọng thương, bị lạc đơn
vị một mình nằm giữa chiến trường, tuy đã bị kiệt sức, nhưng Việt vẫn giữ
vững tư thế sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với quân thù, "ngón tay của
cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu
xe bọc thép còn hằn ngang dọc". Câu hỏi đầu tiên của Việt là câu hỏi về tin
chiến sự. Và Việt đã cười khi nghe anh Tánh báo tin "diệt hết rồi, trận đánh
xong rồi, xong rồi...". Tư thế ấy, nụ cười ấy là những biểu hiện tuyệt đẹp tính
cách anh hùng của đứa con trai má Tư Năng.
Cũng như chị Chiến, Việt là một đứa con đã nêu cao truyền thống gia
đình, đi tiếp con đường cách mạng của ba má, "một lòng theo Đảng", hăm hở
ra trận với quyết tâm "đi trả thù mà không sợ dài lâu" (Nguyễn Khoa Điềm).
Chú Năm đã tự hào nói: "Việt là một thằng nhỏ gan". Việt đã trở thành câu
hò, là hiện thân câu hò của chú Năm: "theo từng câu hò, khi thì Việt biến
thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến
thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi
sao sáng ở Tháp Mười". Việt là niềm tự hào và hi vọng của gia đình, là hình
bóng thân thiết của quê hương. Nhân vật Việt tiêu biểu cho tình yêu gia đình,
quê hương đất nước, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí phách anh hùng của
những chàng trai vùng đồng bằng sông Cửu Long thời đánh Mĩ. Nhân vật Việt
là một thành công của Nguyễn Thi về nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả
tính cách anh hùng.
Phân Ở nhân vật Chiến có những nét riêng khác với Việt. Chiến là chị, cho
tích ý dù có lúc vẫn tranh giành với em nhưng cuối cùng vẫn nhường em.Tuy có
3: lúc giành nhau với em tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, đi tòng quân nhưng
cuối cùng bao giờ cô cũng nhường em hết trừ việc đi tòng quân.
76
Nét khác biệt nhất với Việt là Chiến là người con gái đảm đang, biết lo
toan, tháo vát. Hơn Việt chừng một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn.
Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ "nói in như
má" mà còn học được cách nói "trọng trọng" của chú Năm. Đêm trước khi đi
tòng quân, Chiến bàn với Việt sắp xếp công việc gia đình, Chiến hỏi ý kiến của
Việt là để thể hiện sự tôn trọng em, chứ thực chất, mọi việc Chiến đã sắp xếp
sẵn sàng trong đầu mình rồi. Đầu tiên, chị kêu Việt viết thư cho chị Hai biết,
rồi đến việc gửi thằng Út em sang ở với chú Năm, việc cái nhà và giường ván
cho xã mượn mở trường học, các vật dụng thông thường như nồi, lu, chén,
đĩa, cuốc, vá, đàn soi với nơm thì gửi chú Năm để chị Hai có muốn lấy gì thì
chị chở về dưới; năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má thì trao lại
cho chi bộ đặng chia cho cô bác khác mần’; hai công mía thì tới mùa nhờ chú
Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má.
Những việc trên Chiến tự nói ra rồi hỏi Việt: “có chịu không?”“có ừ
không?”. Chỉ đến việc gửi bàn thờ má thì Chiến mới bàn với Việt một cách
thực sự: Còn bàn thờ má em tính gửi đâu? Chị hỏi ý kiến Việt bởi chị còn
băn khoăn: Gởi sang chú Năm cho thằng Út nó coi chừng hay là để chị Hai
về đem đi? Tuy là hỏi nhưng chị cũng đã có sẵn suy nghĩ của mình: Đem bàn
thờ qua gửi nhà chú Năm, em có ừ không?Những sắp đặt của Chiến như đã
được suy tính kĩ lưỡng từ lâu lắm khiến cho Việt phải hỏi: hồi đó má đâu dặn
chị vậy hả?, và Việt suy nghĩ chị mình nói nghe in như má vậy. Quả thực,
những suy nghĩ của Chiến rất chu toàn, hợp lí và sâu sắc, khó mà thấy được ở
một người con gái mới mười chín tuổi.
Nhận Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong dòng sông truyền thống của
xét gia đình. Hai chị em là sự tiếp nối thế hệ của chú Năm và má. Những nét
chung giống và khác nhau trong tính cách của Việt và Chiến làm nên vẻ đẹp riêng
trong mỗi nhân vật. Họ mang vẻ đẹp tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam thời kì
chống Mĩ.
Nhân vật Chiến và Việt được tác giả Nguyễn Thi khắc hoạ bằng nghệ
thuật độc đáo. Truyện được thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của Việt.
Nghệ Dòng hồi ức của Việt bị đứt nối sau nhiều lần ngất đi, tỉnh lại. Lối kết cấu dựa
thuật theo dòng hồi ức như thế làm cho truyện giàu cảm xúc, chân thực, diễn biến
linh hoạt. Nguyễn Thi đã xây dựng nhân vật hai chị em Viêt và Chiến tuy có
những điểm chung nhưng mỗi người một vẻ, một cá tính, phù hợp với lứa tuổi,
giới tính. Chiến là nhân vật được hồi tưởng qua Việt nhưng đã gây được ấn
tượng sâu sắc. Ngôn ngữ nhân vật bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và
đậm sắc thái Nam Bộ tạo nên ấn tượng riêng, độc đáo của tác phẩm.
Kết Tóm lại, tác giả đã rất thành công hai nhân vật Chiến và Việt có nét
luận giống nhau nhưng cũng có nét khác nhau. Cả hai là những thanh niên có
phẩm chất tốt đẹp. Qua nhân vật, tác giả ca ngợi thế hệ thanh niên miền Nam
trong kháng chiến chống Mĩ. Đồng thời qua truyện ngắn, nhà văn khẳng định:
sự hoà quyện giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia
đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm
77
lược.

Đề 4 :
Từ nhân vật Việt trong đoạn trích từ tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi (theo SGK Ngữ văn 12, tập 2), nêu suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của
bản thân trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc trong thời điểm hiện nay.
Hướng dẫn làm bài:
1. Yêu cầu về kĩ năng
-Thí sinh biết cách làm bài nghị luận văn học kết hợp với nghị luận xã hội;
- Vận dụng tốt các thao tác lập luận;
- Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp;
- Khuyến khích những bài viết sáng tạo.
2. Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Thi, tác phẩm Những đứa con trong gia
đình và đoạn trích trong SGK Ngữ văn 12, thí sinh có thể viết về nhân vật Việt và bày tỏ
suy nghĩ của mình về trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của
dân tộc trong thời điểm hiện nay theo những cách khác nhau, nhưng phải hợp lí, có sức
thuyết phục. Sau đây là một số gợi ý:
2.1. Nhân vật Việt trong đoạn trích từ tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi :
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
* Nhân vật Việt trong đoạn trích:
- Việt có nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn, vô tư, trong sáng, tính tình
còn trẻ con, ngây thơ, hiếu động.
- Việt còn là một chàng trai nhạy cảm và giàu cảm xúc.
- Việt còn là một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường.
Với nghệ thuật trần thuật độc đáo, đặc biệt là để cho nhân vật tự bộc lộ mình bằng
ngôn ngữ nửa trực tiếp, Nguyễn Thi đã xây dựng thành công nhân vật Việt với những nét
tâm lí chân thực, với những hành động, suy nghĩ, lời nói không chỉ mang tính cá biệt,
sinh động mà còn thể hiên những nét chung của “những người con trong gia đình” yêu
nước, căm thù giặc và bất khuất kiên cường trong chiến đấu. Đó là cũng là nhân vật tiêu
biểu cho thế hệ trẻ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
2.2. Thí sinh bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề: trách nhiệm của bản thân trong việc
bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc trong thời điểm hiện nay, trong đó cần nêu được:
Vấn đề độc lập chủ quyền của dân tộc hiện nay có đặc điểm gì? Mỗi người có trách
nhiệm như thế nào trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc trong thời điểm hiện
nay ? Trách nhiệm của bản thân? (Bản thân em có thể làm những gì để góp phần vào việc
bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc?) ...

BÀI 05-CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ( Nguyễn Minh Châu )

A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:


I. Tác giả: Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và
78
thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong
những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường
văn thời kỳ đổi mới.
II. Tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho xu hướng chung của VHVN thời kì
đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong
cuộc sống đời thường.
1) Nội dung:
a) Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
- Một cảnh đắt trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm
mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào…Với người nghệ sĩ,
khung cảnh đó chứa đựng chân lí của sự hoàn thiện , làm dấy lên trong Phùng những
xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
- Một cảnh tượng phi thẩm mĩ (một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; gã đàn
ông to lớn, dữ dằn), phi nhân tính(người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con
thương mẹ đã đánh lại cha,…)giống như trò đùa quái ác, làm phùng ngơ ngác không tin
vào mắt mình.
=>Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều
nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà
phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.
b) Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện:
- Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng
chài nghèo khổ, lam lũ…
- Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chai (một phụ nữ
nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu
đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của chị(bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ
ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống
chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản
trong cách nhìn nhận, suy nghĩ).
=> Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của
các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đứng nhìn cuộc đời, con
người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối
quan hệ đa diện, nhiều chiều.
c) Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”:
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng
hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu
tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc
đời).
-Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật
chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.
2) Nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

79
- Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần
gũi, chân thực và có sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc,
đa nghĩa.
3) Ý nghĩa văn bản:
Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về
nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc
đời; người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện,
sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình
và hậu quả khôn lường của nó.

B/ LUYỆN TẬP
CÂU 2 ĐIỂM:ĐỌC HIỂU
Đề 1:
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời
cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi
thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy
nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một
hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài
hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối
rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra
bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa
khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần
tâm hồn.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Đọc đoạn văn trên và trả lời các câu hỏi sau :
1. Nêu những ý chính của văn bản?
2. Xác định các phương thức biểu đạt trong văn bản ?
3. Câu văn Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có
pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ sử
dụng biệp pháp tu từ gì? Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
4. Các tính từ láy loè nhoè, hồng hồng, phăng phắc, khum khum đạt hiệu quả nghệ thuật
như thế nào trong việc thể hiện bức tranh chiếc thuyền ngoài xa?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ về quan niệm: cái đẹp chính là đạo
đức.

Trả lời :

Câu 1: Những ý chính của văn bản:


Văn bản tả lại một cảnh đắt trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong
biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào…Với
80
người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng chân lí của sự hoàn thiện, làm dấy lên trong
Phùng những xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.

Câu 2 : Các phương thức biểu đạt trong văn bản : tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Câu 3 : Câu văn Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa
có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ
sử dụng biệp pháp tu từ so sánh: trắng như sữa, im phăng phắc như tượng.
Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh đó là: làm đậm thêm chất tạo hình
của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa khi tiến vào bờ.
Câu 4 : Các tính từ láy loè nhoè, hồng hồng, phăng phắc, khum khum đạt hiệu quả nghệ
thuật trong việc thể hiện bức tranh chiếc thuyền ngoài xa: làm tăng cường thêm độ huyền
ảo, như hư như thực của bức tranh vào buổi sớm mai.
5. Đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ về quan niệm: cái đẹp chính là đạo đức đảm bảo các
ý:
- Dẫn ý bằng tâm trạng của nhân vật tôi khi phát hiện vẻ đẹp toàn bích của chiếc
thuyền ngoài xa
- Cái đẹp là gì? Đạo đức là gì ? Tại sao cái đẹp chính là đạo đức?
- Ý nghĩa tác dụng của cái đẹp trong việc thanh lọc tâm hồn, hình thành nhân cách
con người.
- Bài học nhận thức và hành động?

Đề 2:
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng
lòng về tôi. Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi
vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là
ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi
cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển
cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới
ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm
rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Đọc đoạn văn trên và trả lời các câu hỏi sau :
1. Nêu những ý chính của văn bản?
2. Văn bản trên được viết theo phương thức nào là chính?
3. Xác định phép ẩn dụ, phép so sánh trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của
chúng.
4. Câu văn Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa
lẫn trong đám đông có ý nghĩa gì?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc sống?

Trả lời :
81
Câu 1: Những ý chính của văn bản:
-Văn bản tả tấm ảnh làm lịch năm ấy của nhân vật Phùng .
- Cảm xúc của nhiếp ảnh Phùng khi mỗi lần ngắm kỹ và nhìn lâu hơn tấm ảnh , anh
thấy người đàn bà miền biển bước ra từ tấm ảnh với tất cả sự nhọc nhằn, lam lũ, khổ đau.
Câu 2 : Văn bản trên được viết theo phương thức tự sự là chính
Câu 3 : - Phép ẩn dụ : cái màu hồng hồng của ánh sương mai, bãi xe tăng hỏng,một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch …
- Phép đối lập: tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên
cái màu hồng hồng của ánh sương mai
Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ và đối lập : màu hồng hồng gợi chất
thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật. Hình ảnh “người
đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh” gợi là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự
thật cuộc đời. Từ đó, nhà văn muốn gửi gắm quan niệm: Nghệ thuật chân chính không
thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.
Câu 4 : . Câu văn Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn,
hòa lẫn trong đám đông có ý nghĩa: diễn tả cái dáng miền biển ở nhân vật của người đàn
bà hàng chài. Bởi, tả dáng đi của gã chồng vũ phu, Nguyễn Minh Châu cũng dùng chữ
này: “Lão đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn”. Như thế, dáng bước chắc chắn hòa vào
đám đông của mụ không phải là tín hiệu của niềm lạc quan, trái lại, thể hiện niềm lo âu
của tác giả. Bởi nó chính là khái quát cuối cùng: tình trạng khốn khổ này không hề cá
biệt, cả đám đông kia, ai cũng là một người đàn bà như thế. Câu văn canh cánh một niềm
lo âu không chỉ thể hiện tình thương yêu đối với những kiếp lầm than, cay cực mà còn là
tiếng kêu giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu, để có thể xóa bỏ được
cái xấu cái ác, làm cho con người được sống xứng đáng với con người. Muốn vậy, không
còn giải pháp nào khác ngoài con đường cách mạng. Ấy là một cuộc cách mạng diệt trừ
cái xấu cái ác, xóa bỏ các thứ bạo lực để con người ngày càng hoàn thiện, đất nước ngày
càng đẹp tươi. Cuộc cách mạng ấy đã và đang về, chứ không còn là dự cảm, là kì vọng
đau đáu của một nhà văn suốt đời không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách
nhiệm của người cầm bút – Nguyễn Minh Châu.
5. Đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ về về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống
đảm bảo các ý: Nghệ thuật không thể chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài, nhất là cái vẻ đẹp
tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải nhìn thấy bề sâu, bề sau của cuộc đời , mà tâm điểm
chính là con người với số phận đa đoan, với mọi nhọc nhằn và cả khổ đau, không hiếm
những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn
giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập,
những mâu thuẫn : đẹp – xấu, thiện – ác...Nhà văn nhắc nhở người cầm bút phải vất bỏ
thói quen mỹ lệ hóa hiện thực đời sống, tránh dễ dãi về cách nhìn và phô bày đời sống
một cách đơn giản. Nghệ thuật chỉ bằng lòng với việc "chụp ảnh” từ "ngoài xa”, từ bên
ngoài là thứ nghệ thuật hời hợt, giả dối, vô trách nhiệm, phi đạo đức...

CÂU 5 ĐIỂM:
Đề 1: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền
ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu.
A/ Lập dàn ý:
82
I . Mở bài
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu và nhận định chung về người đàn bà hàng chài.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, tóm tắt nội dung
truyện.
2. Phân tích nhân vật:
a/. Phân tích đặc điểm 1:
- Nêu đặc điểm: Là một người phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất
hạnh
- Làm rõ đặc điểm:
+ Theo câu chuyện bà kể, từ nhỏ bà đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt”
+ Từ khi có chồng, cuộc đời bà trở nên vất vả : thuyền chật, con đông, có khi cả
nhà “toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”...
+ Nghệ sĩ Phùng chứng kiến tận mắt bà bị chồng đánh trên bờ biển. Còn chánh án
Đẩu thì nhận xét : “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng...”
b./Phân tích đặc điểm 2:
- Nêu đặc điểm: Mặc dù có một số phận bất hạnh nhưng người phụ nữ ấy lại là
người sống kín đáo, hiểu đời và giàu lòng vị tha.
- Làm rõ đặc điểm:
+ Sắc sảo, hiểu đời ( nhận xét về Đẩu, Phùng)
+ Giàu lòng vị tha ( lí giải, cảm thông về sự tàn bạo của chồng)
c./Phân tích đặc điểm 3:
- Nêu đặc điểm: Phẩm chất tốt đẹp nhất của người đàn bà là lòng thương con vô
hạn, giàu đức hi sinh.
- Làm rõ đặc điểm:
+ Cam chịu, nhẫn nhục khi bị chồng đánh
+ Xin với toà án đừng bắt mình phải bỏ chồng
+ Lí giải : tất cả là vì con
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật :
- Tình huống truyện độc đáo. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách
- Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
III . Kết bài :
- Kết luận chung về hình tượng nhân vật . .
- Nêu ý nghĩa của nhân vật.
- Cảm nghĩ về truyện ngắn và tác giả.
B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. )
Mở bài Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời
kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh
Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành
tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc
của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy
83
sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một
vùng ven biển miền Trung. Trong truyện ngắn này, tác giả đã khắc hoạ
thành công nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ bất hạnh
nhưng có nhiều phẩm chất cao quý.
Thân Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983,
bài: xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng
Khái biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức
quát ảnh "trời cho", đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh
sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng
chài sống trên chiếc thuyền ấy: người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với
thái độ cam chịu. Được toà án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn
bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
Giới Xuất hiện trong tác phẩm, người phụ nữ đi liền với cái tên gọi: “Người
thiệu đàn bà” được gọi một cách phiếm định. Phải chăng, qua cách gọi phiếm định
chung này,nhà văn muốn ám chỉ: Người đàn bà khốn khổ ấy cũng như biết bao
người phụ nữ khác, họ cũng đang rất khốn khổ, tồn tại thật trên cõi đời này.
Phân Ấn tượng đầu tiên về nhân vật người đàn bà hàng chài: đó là một
tích ý người phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh. Không chỉ
1: dừng lại ở cái cách gọi tên theo lối phiếm định, nhà văn còn để cho người đàn
bà ấy xuất hiện trong sự cảm nhận của nhân vật Phùng bằng một dáng vẻ,
ngoại hình cũng rất ấn tượng. Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng
người đàn bà làng chài lại là một người có ngoại hình xấu xí. Những nét thô
kệch ấy, trong lam lũ vất vả bởi những lo toan và mưu sinh thường nhật, khi
ngoài bốn mươi, lại càng trở nên đậm nét “khuôn mặt mệt mỏi". Chỉ qua một
vài nét về tuổi tác, ngoại hình, dáng vẻ của chị, nhà văn như gợi mở cho chúng
ta cảm nhận được phần nào về cảnh ngộ tội nghiệp, bất hạnh của chị.
Người đàn bà xuất hiện lần đầu tiên trong sự chứng kiến của Phùng, một
nhiếp ảnh gia sau khi đã chứng kiến một cảnh đắt trời cho. Nguyễn Minh Châu
miêu tả "Người đàn bà trạc ngoài bốn mơi, một thân hình quen thuộc của
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ". Đây là nhân vật tiêu biểu cho dạng "nhân vật tính cách - số phận"
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Bằng một giọng văn lạnh lùng, tác giả
đã giúp người đọc tiếp cận nhân vật của mình từ phương diện ngoại hình tuổi
tác nhưng chỉ bằng vài thông tin ngắn gọn mù mờ: người đàn bà ấy trạc bốn
mươi, người miền biển, thân hình cao lớn thô kệch. Người đàn bà miền biển ấy
lại được gọi bằng "mụ", "mụ rỗ mặt". Tuy không có tên tuổi cụ thể, một
người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con
người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất
trong truyện ngắn này.
Một trong những điều hạnh phúc nhất của người phụ nữ khi có chồng là
được chồng yêu thương. Người đàn bà trong câu chuyện lại không có được
điều ấy. Mà ngược lại, bà luôn bị chồng đánh đập một cách tàn bạo. Có lẽ đây
84
là nỗi bất hạnh lớn nhất của bà. Nghệ sĩ Phùng đã chứng kiến tận mắt bà bị
chồng đánh trên bờ biển. Lão chồng đã dùng chiếc thắt lưng của lính nguỵ
ngày xưa quất tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến thêm
một lần nữa cảnh lão đàn ông đánh vợ. Còn chánh án Đẩu thì nhận xét: Ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người
chồng nào như hắn. Dường như chánh án Đẩu đã tổng kết thành một quy luật
về chuyện bị chồng đánh của người đàn bà. Song có lẽ đó chỉ là những trận
đòn theo định kì thôi, thực tế thì bà bị đánh không theo lịch nào hết. Theo lời
kể của bà thì bất kể lúc nào thất khổ quá, lão xách tôi ra đánh, cũng như
đàn ông thuyền khác uống rượu, mà đàn ông đi thuyền ngày nào cũng uống
rượu.
Phân Nghèo khổ, lam lũ, có lẽ cả thất học, nhưng bà lại là người sống kín
tích ý đáo, sắc sảo, hiểu đời và giàu lòng vị tha.
2: Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng),
người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ
chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu.
Chị đã kể về cuộc đời mình
và đó cũng là lí do giải thích cho việc từ chối trên. Thái độ cam chịu đầy nhẫn
nhục của người đàn bà:"không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách chạy trốn". Đây là một thái độ lạ lùng. Phải chăng bà ta bị
đòn nhiều đến mức quen rồi, không còn biết đau nữa ? Hay bà ta tăm tối, dốt
nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình? Hay đó là một sự
lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, sáng suốt? Trong hoàn
cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo
cơm áo không lúc nào buông tha, liệu bà ta có cách lựa chọn nào tốt hơn
không ?
Mời người đàn bà ấy lên, Đẩu và Phùng muốn nhân danh công lí, thuyết
phục bà thoát khỏi sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần, nhưng rồi, cả Đẩu và
Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời
thú tội, kể lể của người đàn bà: "Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các
chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho
nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó
nhọc". Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình
có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn
mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà…đẻ nhiều con quá. Điều đó
đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này. Nhưng
thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một
thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của
bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu
thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp
nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.
Với người đàn bà thuần hậu ấy, tuy bị chồng của mình hành hạ nhưng bà
vẫn thông cảm sẻ chia với những uẩn ức trong lòng của chồng bà. Bà cho rằng
85
chồng bà cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả,
quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến "anh con trai cục tính nhưng
hiền lành" xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác.
Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút
cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền.
Trong cuộc gặp gỡ trên tòa án huyện sự "vỡ ra" trong đầu của Đẩu và
Phùng không chỉ có hoàn cảnh sâu kín của người đàn bà mà còn ở chính người
đàn bà ấy, một người phụ nữ săc sảo tinh tế hiểu đời được đậy che bằng vẻ
ngoài cam chịu nhẫn nhục. Hãy quan sát cách nói chuyện ta sẽ hiểu hơn về
người phụ nữ khổ đau ấy. Lúc đầu người đàn bà ban đầu xưng con, tha quý
toà, giọng van xin thảm hại (Con lạy quý toà... ; chú ý không chỉ nói, mà còn
làm : chắp tay lại vái lia lịa). Nhưng sau đó cách nói năng và cử chỉ thay đổi:
không cúi gục xuống nữa, mà ngẩng lên và nhìn thẳng vào quý toà, với cách
của một người tự chủ (lần lượt từng người một); đổi xưng hô thành chị với các
chú. Xưng con là ở một vị thế thấp hơn ; xưng chị, gọi chú, là ở một vị trí cao
hơn, mà cũng thân mật hơn tạo hiệu quả giao tiếp: thuyết phục đối tượng nghe.
Qua đó, ta thấy đây là một con người có khả năng nắm bắt tâm lí của người
khác. Để từ vị trí của một người bị động, một người bị mời lên tòa án huyện để
thuyết phục bỏ chồng thì chính người đã bà ấy lại là người thuyết phục ngược
lại Phùng và Đẩu.
Câu chuyện của người đàn bà trên tòa án huyện là câu chuyện về sự thật
một cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của
những điều tưởng như vô lí. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn
nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu.
Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô
bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt
lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.... Qua câu chuyện của người đàn bà làng
chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn
nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.
Phẩm chất tốt đẹp nhất ở người đàn bà là lòng thương con vô hạn,
giàu đức hi sinh. Nghệ sĩ Phùng từng hơn một lần chứng kiến cảnh bà bị
chồng đánh một cách tàn bạo với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề
kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Sự việc kỳ
lạ khiến nghệ sĩ Phùng ngạc nhiên há mồm ra mà nhìn. Bà được mời đến toà
án về chuyện gia đình, chánh án Đẩu muốn dùng công lí để trả lại sự công
bằng cho bà, để bà thoát khỏi lão chồng tàn bạo, thì bà lại vái lạy, van xin
đừng bắt mình phải bỏ chồng, khiến cho Đẩu và Phùng đều ngạc nhiên. Bà kể
việc bà xin với lão chồng được đưa lên bờ mà đánh làm cho Đẩu và Phùng
đều thốt lên Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được.
Người đàn bà hàng chài thất học, quê mùa nhưng thật sâu sắc khi "nhìn
suốt cả đời mình" đã khiến "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công
của cái phố huyện vùng biển".Có thể anh vừa "ngộ" ra những nghịch lí của
đời sống - những nghịch lí con người buộc phải chấp nhận: "trên thuyền phải
có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo". Bà coi đó là lẽ đương
86
nhiên, chỉ đơn giản bởi trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền
kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề,
chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. Người đàn bà xấu xí
thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu nhưng vẫn không
chịu "chia tay" với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời giãi bày gan ruột
của người mẹ đáng thương, ta mới thấy bà có một tấm lòng hi sinh vô bờ "…
đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để
chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà
nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình…". Một sự cam chịu nhẫn nhục như thế
thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng
dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị
tha, đức hi sinh. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu,
bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả
đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi "Vui nhất
là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no"...
Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con
yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận
đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế
nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho
mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một
sự hy sinh vô bờ bến.
Nhận Bức chân dung của người đàn bà hàng chài được tác giả xây dựng
xét bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được
nghệ tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách
thuật phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả
trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát
hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự
hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn
trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên
khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với
đặc điểm tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
Kết Tóm lại, có thể nói : hình ảnh người đàn bà hàng chài trong “Chiếc
luận thuyền ngoài xa” là hình ảnh điển hình cho số phận đau thương, bất hạnh
của bao người phụ nữ trong xã hội đang bị cái đói, cái nghèo,cái lạc hậu
vây bủa. Nhưng điều quan trọng là từ trong cuộc đời tăm tối đau thương ấy
của họ, Nguyễn Minh Châu vẫn phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn – tính
cách của những người vợ, người mẹ giàu lòng vị tha, giàu tình thương con
và rất thấu hiểu lẽ đời.
Qua số phận, tính cách tâm hồn của người đàn bà hàng chài, nhà văn thể
hiện tấm lòng cảm thông chia sẻ với người con người, những cảnh đời bất
hạnh do tàn dư xã hội cũ để lại. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện quan niệm
nghệ thuật của nhà văn: văn học phải gắn bó với cuộc đời…; nhà văn phải
87
có cái nhìn cuộc đời một cách đa diện, nhiều chiều, tránh đơn giản, chủ
quan.

ĐỀ 2 : Phân tích câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện trong truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
A/ Lập dàn ý :
I/Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu câu chuyện người đàn bà ở toàn án huyện.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm
tắt nội dung truyện.
2. Phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện:
a/. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng
chài nghèo khổ, lam lũ…
+Theo lời mời của Đẩu, chánh án toà án huyện, người đàn bà hàng chài đã có mặt ở
toà án huyện. Trước lời đề nghị và giúp đỡ của Đẩu và Phùng, người đàn bà dứt khoát từ
chối.
+Tại toà án, chị kể về cuộc đời mình và gián tiếp giải thích lí do vì sao chị nhất quyết
không thể bỏ lão chồng vũ phu
+Nếu ban đầu mới đến toà, chị sợ sệt, lúng túng, một lạy quý toà, hai lạy quý toà thì
sau khi nghe lời khuyên của Đẩu, chị trở nên mạnh dạn, chủ động.
b/. Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài (một phụ nữ
nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu
đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của chị (bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ
ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống
chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản
trong cách nhìn nhận, suy nghĩ).
+Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của anh rất cương quyết.
+Nhưng khi nghe xong câu chuyện “một cái gì đó vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái
phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”.
+Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Phùng nhận
thấy mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người; anh chỉ nhìn người một cách
phiến diện, nông nổi ngây thơ .
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện câu chuyện người đàn bà hàng chài:
- Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện
đời sống.
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả.
Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả
năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Lời văn giản dị
mà sâu sắc, đa nghĩa.
III/ Kết bài :

88
- Kết luận ý nghĩa qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng
xử của các nhân vật.
- Từ đó, rút ra quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai
Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. )
Mở bài Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời
kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, “Nguyễn Minh
Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong” và đạt được nhiều
thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn
đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới.
Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền
chài ở một vùng ven biển miền Trung. Điều đó được thể hiện sâu sắc trong câu
chuyện người đàn bà ở toà án huyện.
Thân Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983,
bài: xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng
Khái biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức
quát ảnh "trời cho", đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh
sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng
chài sống trên chiếc thuyền ấy : người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với
thái độ cam chịu . Được toà án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn
bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
Phân Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn
tích ý bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ…
1: Theo lời mời của Đẩu, chánh án toà án huyện, người đàn bà hàng chài đã có
Câu mặt ở toà án huyện. Đây là lần thứ hai, người đàn bà được mời đến về công
chuyện việc gia đình. Lúc đầu, bà có vẻ sợ sêt, lúng túng. Khi chánh án Đẩu hỏi bà
người chị đã nghĩ kĩ chưa?. Bà trả lời:Thưa đã…Chánh án Đẩu nói với bà: Ba ngày
đàn bà một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng…Chị không sống nỗi với cái lão đàn
hàng ông vũ phu ấy đâu!Chị nghĩ thế nào?
chài Chánh án Đẩu tỏ ra rất am hiểu hoàn cảnh và bất bình thay cho người đàn
bà. Hẳn là lần trước, cũng như lần này, Đẩu có nhã ý giúp người đàn bà thoát
khỏi gã đàn ông độc ác. Nghe Đẩu hỏi, người đàn bà hướng về phía Đẩu, chắp
tay vái lia lịa và van xin: Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó...Chắc chắn là chánh án Đẩu phải ngạc nhiên vì bà
đã không đồng tình với nhã ý của Đẩu mà lại vái lạy, van xin đừng bắt mình
phải bỏ chồng. Còn nghệ sĩ Phùng thì vô cùng bất ngời vì câu nói của người
đàn bà. Nên đang ngồi phía sau bức màn, trong phòng ngủ của Đẩu, Phùng
phải xuất hiện. Sự xuất hiện của nghệ sĩ Phùng như một nhân chứng về tội ác
của lão chồng khiến cho người đàn bà có vẻ sợ hãi, khiến chánh án Đẩu hào
hứng vì có thêm người tiếp viện để thực hiện công lí. Tuy vậy, trên cương vị là
chánh án, Đẩu cũng phát biểu quan điểm của mình:Tuỳ bà! Chủ trương
nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận.
89
Đang ngồi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên với một vẻ ban đầu hơi
ngơ ngác. Nhưng rồi với một điệu bộ khác, ngôn từ khác, bà gọi Đẩu và
Phùng là các chú. Bà cảm ơn lòng tốt của hai người. Bà cảm ơn họ vì họ đều
nhiệt tình giúp bà, muốn bà từ bỏ lão chồng vũ phu để thoát khỏi cảnh bị đánh
đập. Bà gọi họ là các chú vì sự thân tình, nhưng có lẽ vì bà cho rằng họ còn
trẻ, họ không hiểu được lẽ đời nên họ mới ngạc nhiên khi thấy bà van xin đừng
bắt mình phải bỏ chồng. Chính vì vậy, bà mới thành thực nói với Đẩu và
Phùng nhưng sự thực đó lại là lời nhận xét: các chú đâu có phải là người làm
ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam
lũ, khó nhọc. Những lời ấy của người đàn bà không phải dễ nghe với Đẩu và
Phùng, dù vậy họ phải công nhận bà là người sắc sảo và kín đáo: người đàn bà
để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của
chúng tôi.
Trước người đàn bà, cả Đẩu và Phùng đã trở thành những đứa trẻ, chưa
hiểu chuyện đời. Bà có vẻ thông cảm với họ và kể về cuộc đời mình. Bà kể để
cho họ hiểu vì sao bà lại cam chịu khi bị chồng đánh, vì sao bị chồng đánh một
cách tàn bạo mà bà vẫn xin đừng bắt mình phải bỏ chồng.
Bà kể về quá khứ của mình. Hồi nhỏ, bà là một đứa con gái xấu, lại rỗ
mặt, nhà khá giả nhưng không ai lấy. Rồi bà có mang với một con trai hàng
chài hay đến nhà bà mua bả về đan lưới. Người con trai ấy chính là chồng bà
bây giờ. Hồi ấy người chồng bà cục tình nhưng hiền lành lắm không bao giờ
đánh đập bà. Bà kể về cuộc sống gia đình sau khi có chồng: thuyền chật, con
đông, nghèo khổ, có khi động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái
toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Bà nói: cái lỗi chính là đám đàn
bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. Khi Phùng hỏi ở thuyền bà có
bị chồng đánh không, bà trả lời: Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi
ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Câu chuyện của bà rõ ràng muốn cho Đẩu và Phùng hiểu vì sao từ một một
người hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ, chồng bà lại trở nên tàn bạo như
vậy. Là vì khổ quá. Vì khổ quá mà lão mà lão chồng đã đánh bà chứ không
phải tàn bạo là bản chất của người chồng ấy. Sự khốn cùng, mong manh của
đời sống chài lưới đã biến lão chồng thành kẻ vũ phu. Nhưng đánh vợ đâu có
làm cho lão bớt khổ. Hành động của lão chồng là sự bế tắc, một sự giải thoát
trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mắt và bế tắc.
Dù bị chồng đánh, nhưng trong câu chuyện, bà không hề tố cáo, không hề
tỏ thái độ căm hận người chồng. Không bênh vực nhưng bà đã tỏ ra hiểu biết
và cảm thông cho người chồng. Bà còn tự nhận: cái lỗi chính là đám đàn bà ở
thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. Lời thú tội chân thật và tê tái của bà
có những điều cần phải nghĩ suy. Nhưng rõ ràng bà là một người hiểu đời, một
người giàu lòng vị tha.
Trở lại câu chuyện của bà kể, bà nói với Đẩu và Phùng: Sau này con cái
lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh…Đến đây thì cả
Phùng và Đẩu đều thốt lên: Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu
được!. Thấy thế bà liền giải thích Là bởi vì các chú không phải là đàn bà,
90
chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên
một chiếc thuyền không có đàn ông...Vậy là bà xin được đánh là vì cần phải
có người đàn ông ở trên thuyền. Và xin được đánh ở trên bờ là vì con đã lớn.
Bà không muốn chúng phải chứng kiến sự đau lòng của cha mẹ. Một lí do thật
đơn giản mà Đẩu và Phùng lại không hiểu. Một lần nữa, Phùng và Đẩu lại trở
thành ngờ nghệch trước người đàn bà.Một lần nữa, ta lại thấy một người đàn
bà sâu sắc, hiểu đời.
Sau lời giải thích của bà, Đẩu trút một thở dài đầy chua chát: trên thuyền
phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?. Người đàn bà đồng
tình về điều đó nhưng bà còn nói tiếp: "…đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa…
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình…". Phùng hỏi bà: Cả đời chị có lúc nào thật vui không?Bà trả lời như
không cần suy nghĩ:"Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được
ăn no"...Và bà đã khóc khi nhắc đến thằng Phác, đứa con trai từng đánh lại bố
để bảo vệ mẹ. Bà còn cho biết vì sợ thằng bé làm điều gì dạu dột với bố nó
mà bà phải gửi để nó sống với ông ngoại. Đó là những suy nghĩ sâu xa, bà thật
là người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời và đạo lí làm người.
Đến đây thì mọi bí ẩn trong câu chuyện gia đình hàng chài đã được giải
mã. Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà khi bị chồng đánh mà
Phùng đã chứng kiến trên bờ biển, việc bà xin với Đẩu đừng bắt mình phải bỏ
chồng, việc bà xin lão chồng đem bà lên bờ mà đánh đã được sáng tỏ. Tất cả là
vì con. Qua những lời giãi bày chân thật, ta mới thấu hiểu được sự nhẫn nhục,
đức hi sinh của người đàn bà thật đáng khâm phục. Tình thương con mênh
mông của người mẹ thật đáng kính trọng.
Phân Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài: một
tích ý phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm
2: hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha; về người chồng của chị: bất kể lúc
Ý nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh; về chánh án Đẩu có lòng tốt, sẵn sàng bảo
nghĩa vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều và về chính mình: sẵn sàng làm
câu tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ.
chuyện Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của Đẩu rất cương
người quyết. Anh tin ở lời khuyên đúng đắn và đầy sức thuyết phục của mình: “chị
đàn bà không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.
hàng Nhưng khi nghe xong câu chuyện, “một cái gì đó vỡ ra trong đầu vị Bao
chài Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và
đầy suy nghĩ”. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng trong trường hợp
của người đàn bà này là không ổn. Trong hoàn cảnh ấy, cách hành xử của chị
ta dường như là không thể nào khác?
Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Có
lẽ, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ những gì vừa xảy
ra. Lúc này, Phùng vỡ ra được nhiều điều, hiểu rõ hơn về người đàn bà, về Đẩu
và về cả chính mình. Người đàn bà thất học, quê mùa không hề cam chịu một
91
cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người
rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trong khổ đau, cơ cực, chị biết chắt chiu từng giọt
của hạnh phúc đời thường. Chị luôn sống với tâm niệm thiêng liêng là: “sống
cho con chứ không thể sống cho mình”. Chánh án Đẩu là người có lòng tốt,
sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng còn xã rời thực tế, chưa thực sự đi vào cuộc
sống nhân dân. Lòng tốt là điều rất quí, luật pháp là điều cần thiết nhưng cả hai
vẫn chưa đủ sức mạnh giúp con người thoát khỏi cuộc sống tăm tối và những
hành động man rợ. Tất cả phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể và cần phải có giải
pháp thiết thực. Phùng nhận thấy mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và
con người. Cũng như người đồng đội Đẩu, anh chỉ nhìn người một cách phiến
diện, nông nổi ngây thơ chẳng khác gì thằng bé Phác: chỉ thấy được một khía
cạnh của người đàn ông hàng chài là độc ác, tàn nhẫn, vì vậy cần phải đấu
tranh, lên án. Trong khi đó, người đàn bà quê mùa, xấu xí, thất học lại có cái
nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Đối với người đàn ông độc ác, dữ dằn, chị đau
đớn nhưng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành
động vũ phu ấy, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn
cảnh sống khắc nghiệt.
Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử
của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc bức thông điệp: đừng nhìn
cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện
tượng một cách toàn diện trong các mối quan hệ đa diện, đa chiều.
Nghệ Nguyễn Minh Châu đã xây dựng câu chuyện người đàn bà hàng chài
thuật với tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử
thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm
và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá,
phát hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện: thể hiện qua nhân vật Phùng,
sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm
nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên
khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với
đặc điểm tính cách của từng người. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
Kết Tóm lại, qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài, nhà văn
luận thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình ở giai đọan sáng tác thứ hai: Văn
học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người...Quan niệm
ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu giàu nhân bản. Đọc tác phẩm
của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và thật sự tin tưởng
vào khát vọng làm người cao đẹp của những người lao động nghèo.

Đề 3: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc
tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. )
Mở bài Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong, là
"người mở đường tinh anh và tài năng" của văn học Việt Nam thời kỳ đổi

92
mới.“Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu thời
kì đổi mới sau 1975. Truyện ngắn này cũng rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận
đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Có thể nói,
đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo và toát
lên tính triết lí sâu sắc về cuộc sống, về con người Việt Nam thời hậu
chiến.
Thân Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983,
bài: xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng
Khái biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức
quát ảnh "trời cho", đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh
sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng
chài sống trên chiếc thuyền ấy : người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với
thái độ cam chịu . Được toà án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn
bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
Khái a/ Giải thích khái niệm “giá trị nhân đạo” : Giá trị nhân đạo hiểu một
niệm cách giản dị là tình cảm, thái độ của nhà văn dựa trên các nguyên tắc và đạo lí
làm người mang tính chuẩn mực và tiến bộ của thời đại được thể hiện qua cái
nhìn về cuộc sống và con người từ bối cảnh cụ thể trong tác phẩm.
Giá trị b. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:
nhân - Trước hết, đó là sự quan tâm tha thiết của nhà văn đối với hạnh
đạo phúc của những người lao động nghèo bằng cách : lên án thói bạo hành
của tác trong cuộc sống gia đình (cách miêu tả khách quan nhưng chứa đựng sự phê
phẩm phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ,
“Chiếc con.);
thuyền - Không những vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về
ngoài tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình
xa” trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành
và sự nhịn nhục chịu đựng);đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng bày tỏ niềm
trắc trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối
với cậu bé Phác).
- Tiếp theo, giá trị nhân đạo của “Chiếc thuyền ngoài xa”còn thể hiện ở
sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người nghèo khổ, bất hạnh và đặt
niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử
(những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực, những niềm vui nhỏ nhoi tội nghiệp
của người mẹ đều xuất phát từ con). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm
tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng ( dẫn
chứng)
- Ngoài ra có thể nói, tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác
phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề: làm thế nào để giải
phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con người
muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực
chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực
tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống (dẫn
93
chứng).
Nghệ (như đề về câu chuyện người đàn bà)
thuật
Kết - Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm
luận lòng yêu thương, thông cảm, băn khoăn ,trăn trở của Nguyễn Minh Châu
trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình diện đạo đức thế sự.
- Qua đó tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai
đọan sáng tác thứ hai : Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải
vì con người...Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai
đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về
thân phận con người và thật sự tin tưởng vào khát vọng làm người cao đẹp của
những người lao động nghèo.

Đề 4: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu
Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham
khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. )
Mở bài Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ
chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, “Nguyễn Minh
Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong” và đạt được nhiều
thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn
đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới.
Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền
chài ở một vùng ven biển miền Trung. Trong truyện ngắn này, có thể nói ý
nghĩa tư tưởng của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện sinh động thông
qua một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời
sống một cách sâu sắc.
Thân Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983,
bài: xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng
Khái biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức
quát ảnh "trời cho", đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh
sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng
chài sống trên chiếc thuyền ấy : người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với
thái độ cam chịu . Được toà án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn
bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
Thế a/ Thế nào là tình huống? vai trò của tình huống trong một tác phẩm
nào là truyện?
tình - Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hoàn cảnh ( không gian,
huống thời gian, địa điểm…tạo nên câu chuyện).
? vai - Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành động;
trò của tình huống tâm trạng; tình huống nhận thức.Nếu tình huống hành động chủ yếu

94
tình nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật; tình huống tâm trạng chủ
huống yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật; thì tình huống nhận
? thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Tình huống
càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với
người đọc.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một “tình
huống nhận thức mà hai nhân vật Phùng và Đẩu đã trải qua”.
Biểu b. Phân tích tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” :
hiện - Những biểu hiện của tình huống truyện:
của Trước hết, đó là hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
tình + Nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp ảnh cho cuốn
huống lịch năm sau.Anh đã phát hiện được cảnh chiếc thuyền ngoài xa , trong sương
truyện sớm, đẹp như tranh vẽ - “một cảnh đắt trời cho mà suốt đời cầm máy chưa
bao giờ nhìn thấy”à Trước vẻ đẹp của nghệ thuật, anh bộc lộ rung sự rung
động “ trong trái tim tôi như có cái gì bóp thắt vào” và đồng thời anh cũng
“phát hiện ra …khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phùng còn nhận ra
trong suy nghĩ của mình “ …bản thân cái đẹp là đạo đức”( như Nguyễn Tuân
đã quan niệm: cái đẹp phải kết hợp với cái tâm, cái tài kết hợp với cái thiện)
+Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng tận mặt chứng kiến tình trạng
bạo lực trong gia đình qua cảnh : hành động đánh vợ của người đàn ông làng
chài; người vợ nhẫn nhục chịu đựng; đứa con vì bảo vệ mẹ đã phản kháng lại
cha …Những ngày sau ,cảnh đó lại tiếp diễn.Phùng đã không ngờ sau cảnh
đẹp như mơ là bao ngang trái , nghịch lý của đời thường.Hiện thực phũ
phàng của cuộc sống làm cho Phùng cảm thấy cay đắng trước sự thật ẩn
chứa đằng sau vẻ mặt trong ngần và tươi đẹp của cảnh vật : “ …khiến tôi kinh
ngạc đến mức …tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn…”
Tiếp theo là Câu chuyện của người đàn bà và cách giải quyết ban đầu
của chánh án Đẩu ở toà án huyện :
+ Đẩu khuyên người đàn bà bỏ chồng vì “ cả nước không có một người
chồng nào như hắn…Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy
đâu”.
+ Nhưng ngược lại, người đàn bà lại “ chắp tay vái lia lịa, xin “Qúi toà
…đừng bắt con bỏ nó”. Thái độ này của chị xuất phát từ việc: toà không hiểu
được cảnh ngộ của người lao động nghèo khổ ; còn vì hạnh phúc đích thực của
một người đàn bà trong vai trò một người vợ và vai trò của người mẹ … Lúc
đầu, khi thấy người đàn bà không chịu bỏ chồng, Phùng rất ngạc nhiên và bất
bình. Nhưng sau đó, anh cảm nhận được nỗi niềm và cảnh ngộ của người đàn
bà hàng chài mà dần thay đổi bằng thái độ cảm thông và thấu hiểu .
Các -Các nhân vật với tình huống:
nhân + Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc
vật với thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài.
tình Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên vai cặp vợ chồng người hàng chài. Người
huống: chồng đã trở thành kẻ vũ phu. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu
đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết mình đã làm tổn thương tâm hồn
95
đứa con. Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ, thành ra căm ghét cha mình.
+ Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ.Anh khuyên
người đàn bà bỏ chồng là xong, mà không biết bà cần chỗ dựa kiếm sống để
nuôi con khôn lớn.
Ý -Ý nghĩa khám phá và phát hiện của tình huống :
nghĩa + Tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống
khám và con người: Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều
phá và nghịch lý. Cuộc sống luôn chứa đựng nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn. Đừng vội
phát đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực
hiện sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.
của +Tình huống nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc
tình đời :
huống Phải có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều. Nghệ thuật đích thực phải vì
cuộc sống, vì con người, gợi mở những vấn đề mới cho sáng tạo nghệ thuật…
Đẩu: vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống ( giữa lí thuyết , sách
vở và cuộc đờ ; vì sao người đàn bà không bỏ chồng… ) Phùng : hiểu ra mối
quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: chiếc thuyền nghệ thuật chỉ mới là “ bức
ảnh chết ” trên khung giấy chứ chưa phải là bức tranh đời sống . Người nghệ sĩ
phải nhìn nhận sự vật, hiện tượng đa dạng, nhiều chiều trong hoàn cảnh của nó
và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác .
Kết - Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”có ý nghĩa khám phá, phát hiện
luận về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
- Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ
thuật và cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi
mở những vấn đề mới cho sáng tạo nghệ thuật.

BÀI 06: HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT -Lưu Quang Vũ

A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:


I. Tác giả: Lưu Quang Vũ (1948- 1988) là một tài năng đa dạng nhưng kịch là đóng góp
xuất sắc nhất. Ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những
nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
II. Tác phẩm:Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của
Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian, nhà văn xây dựng một vở kịch hiện đại chứa
đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí sâu sắc. Vở kịch gồm 7
cảnh.Văn bản trích trong SGK thuộc cảnh VII và là đoạn kết của vở kịch.
a. Nội dung :
- Hoàn cảnh trớ trêu của nhân vận Hồn Trương Ba: trú trong xác anh hàng thịt.
Hồn có nghiều thay đổi và ngày trở nên xa lạ với mọi người. Trước sự giễu cợt, tự đắc
của Xác và thái độ của người thân , Hồn càng thấm thía nỗi đau xót, trớ trêu, tuyệt vọng...
- Trương Ba không chấp nhận cảnh sống "bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo", không sống nhờ vào người khác, muốn "được là tôi trọn vẹn". Điều đó thể hiện
quan điểm : con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà; sống thực cho ra
con người quả không hề đơn giản.
96
- Cái chết của cu Tị có ý nghĩa "mở nút". Hình dung cảnh mình nhập vào xác cu
Tị và tình thương mẹ con cu Tị khiến Hồn có thái độ dứt khoát "Không còn một cách nào
khác": kêu gọi Đế Thích trả linh hồn cho cu Tị, chấp nhận cái chết. Cái chết đó làm sáng
bừng nhân cách Trương Ba, là thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự
sống đích thực.
b) Nghệ thuật :
- Sáng tạo cót truyện dân gian;
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm; ngôn ngữ sinh động...
- Hành động của nhân vật phối hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển
tình huống kịch...
c) Ý nghĩa văn bản :
- Gửi gắm thông điệp : một trong những điều quý giá nhất của mỗi người là được
sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sư sống chỉ thật sự
có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hoà tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn;
con người phải biết đấu tranh để hoàn thiện nhân cách, vươn tới những giá trị cao quý.
- Phê phán những kẻ tự lấy cớ cho tâm hồn cao quý để lạm dụng, hưởng thụ với những
dục vọng tầm thường, giả dối.
B/ LUYỆN TẬP
CÂU 2 ĐIỂM:ĐỌC HIỂU
Đề 1:
HỒN TRƯƠNG BA: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng, ở bên trong ta vẫn là
Trương Ba nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…
XÁC HÀNG THỊT: Nực cười thật! Khi đằng ấy phải sống nhờ tớ, chiều theo những
đòi hỏi của tớ, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
HỒN TRƯƠNG BA: (bịt tai lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
XÁC HÀNG THỊT: (lắc đầu) Cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tớ
được đâu! Đằng ấy có nhớ hôm đằng ấy tát thằng con tóe máu mồm máu mũi không?
Chính nhờ bàn tay giết lợn này, cơn giận của đằng ấy lại có thêm sức mạnh của tớ… Ha
ha!
HỒN TRƯƠNG BA: Ta cần gì cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
XÁC HÀNG THỊT: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Sao
ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ. Nhờ tôi mà ông
có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối nhớ mắt tôi, ông nghe bằng
tai tôi, ngửi bằng mũi tôi. Khi muốn hành hạ ông, người ta đấm vào mặt tôi, đét vào
mông tôi… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý,
khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch
nhác… Mỗi bữa tôi đòi tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là
ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ!
HỒN TRƯƠNG BA: Nhưng… nhưng…
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ)
Đọc văn bản trên và trả lời các câu hỏi sau :
1. Nêu những ý chính của văn bản?
2. Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ gì ?

97
3. Xác định giọng đối thoại của mỗi nhân vật Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt ? Qua
giọng đó, nêu tâm trạng của mỗi nhân vật ?
4. Nhận xét độ dài, ngắn của câu văn trong lời thoại giữa hai nhân vật? Hiệu quả nghệ
thuật của độ dài, ngắn lời thoại đó là gì?
5. Tác giả muốn phê phán điều gì qua câu nói: Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông
là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho
thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác…
6. Từ văn bản, viết đoạn văn về ý nghĩa ẩn dụ giữa Hồn và Xác của con người?

Trả lời :
Câu 1: Những ý chính của văn bản: Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng
thịt:
- Hồn khẳng định vẫn có đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn
nhưng cuối cùng đã đuối lí trước lời lẽ của xác.
- Xác chế giễu, cười nhạo, mỉa mai, khẳng định sự lệ thuộc của hồn vào xác.
Câu 2 : Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ sinh
hoạt.
Câu 3 : Giọng đối thoại của mỗi nhân vật :
-Hồn Trương Ba : ban đầu là giọng phủ định mạnh mẽ ( Không !) nhưng càng về
cuối chuyển sang giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
- Xác hàng thịt : giọng hả hê, khoái chí lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc kèm
theo tiếng cười đắc thắng ( Haha)
Qua giọng đó, tâm trạng của nhân vật Hồn Trương Ba càng lúc càng rơi vào trạng
thái đau khổ, tuyệt vọng; Xác hàng thịt tỏ vẻ thắng thế vĩ đã buộc những điều mà Hồn
không thể không chấp nhận.
4. Độ dài, ngắn của câu văn trong lời thoại giữa hai nhân vật:
- Trong 7 lượt thoại, nhân vật Hồn Trương Ba nói 4 lần nhưng đa số là câu ngắn;
nhân vật Xác hàng thịt nói 3 lần , tuôn ra những lời thoại dài.
Hiệu quả nghệ thuật của độ dài, ngắn lời thoại: Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn
Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Xác hàng thịt muốn khẳng định vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của mình. Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định
sự thanh sạch của tâm hồn, khác xa với những thú tục thấp hèn khác. Xây dựng cuộc đối
thoại này, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ tỏ rõ có một cái nhìn rất biện chứng về một vấn
đề: một mặt hết sức ủng hộ khát vọng sống thanh cao của con người, mặt khác vạch rõ
khía cạnh siêu hình của thái độ coi thường vật chất và những lạc thú trần tục.
5. Qua câu nói, tác giả muốn phê phán sự tha hoá, thoái hoá trong mỗi con người, thái độ
thiếu quan tâm đến cuộc sống vật chất tầm thường, chính đáng của con người cũng là để
nhằm khẳng định một quan niệm về bản lĩnh hài hoà, về nhu cầu chính đáng của con
người trong cuộc sống bình thường.
6. Đoạn văn về ý nghĩa ẩn dụ giữa Hồn và Xác của con người: cần đảm bảo các ý: con
người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh
cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu
bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình
bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.
98
Đề 2:
“Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?
(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện.)
Trương Ba: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy
cỏ…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều
tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…
(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (tay cầm một trái na) Cây na này ông nội tớ trồng đấy! Quả to mà ngon lắm!
Ta ăn chung nhé!
(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na
vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?
Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn
khôn. Mãi mãi…”
(Tuyển tập kịch Lưu Quang Vũ, NXB Sân Khấu, Hà Nội, 1994)
Đọc văn bản trên và trả lời các câu hỏi sau :
1. Nêu những ý chính của văn bản?
2. Sự xuất hiện của nhân vật Trương Ba được thể hiện qua những hình thức nào ?
3. Xác định các dạng phép điệp trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của các dạng
đó ?
4. Việc dùng các từ ngữ: màu xanh, những điều tốt lành của cuộc đời, nâng niu, nối nhau
mà lớn khôn, Mãi mãi có hiệu quả diễn đạt như thế nào ?
5. Từ văn bản, viết đoạn văn trình bày triết lí nhân sinh mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ
đã gửi gắm.

Trả lời :
Câu 1: Những ý chính của văn bản: Trương Ba lựa chọn cái chết thật. Hồn Trương Ba
nhập vào màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành của cuộc đời…
Câu 2 : Sự xuất hiện của nhân vật Trương Ba được thể hiện qua 03 hình thức :
- Qua lời văn: chập chờn xuất hiện . Trương Ba chỉ còn là cái bóng.
- Qua lời Trương Ba: “Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy
cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều
tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu” .
- Qua đối thoại của cái Gái và cu Tị: cây na này ông nội tớ trồng đấy; qua hành
động vùi hạt na xuống đất: “Cho nó mọc thành những cây mới. Ông nội tớ bảo vậy.
Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi”.
3. Các dạng phép điệp trong văn bản : điệp từ ( tôi, bà, đây, trong...), điệp cấu trúc câu
( Ông ở đâu ? trong...bà..., trong vườn...trong những điều...trong mỗi trái cây...).
Hiệu quả nghệ thuật: nhấn mạnh và khẳng định : Cái chết không phải là sự ra đi vĩnh
viễn. Trương Ba đang sống một cuộc sống khác: sự sống bất diệt trong trái tim những

99
người thân. Con người sẽ bất tử với những điều tốt đẹp họ đóng góp cho cuộc đời, sẽ
sống mãi trong tâm hồn những người thân yêu.
4. Việc dùng các từ ngữ: màu xanh, những điều tốt lành của cuộc đời, nâng niu, nối nhau
mà lớn khôn, Mãi mãi có hiệu quả diễn đạt : tạo chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng
thanh thoát cho một bi kịch lạc quan và truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của sự
sống đích thực, của chân , thiện ,mỹ.
5. Đoạn văn trình bày triết lí nhân sinh mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm cần
thể hiện các ý:
- Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, môt cái chết làm sáng bừng lên nhân cách
đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích
thực.
- Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà ở chính sự hiện
diện của ta trong suy nghĩ, nỗi nhớ của những người thương yêu.
- Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao khiết
của Trương Ba vẫn còn có mặt trong mỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời đang sống.
CÂU 5 ĐIỂM:
Đề 1 : Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba qua trích đoạn kịch “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
A. Lập dàn ý :
I/Mở bài :
- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba của vở kịch
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm
tắt nội dung vở kịch.
2. Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba :
a./ Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất
của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.
-Hồn Trương Ba muốn thoát khỏi xác hàng thịt để sống độc lập.
-Xác hàng thịt khẳng định là không được, còn chế giễu, khiến Hồn Trương Ba đau
khổ, tuyệt vọng.
b./ Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa
Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
- Nỗi đau khổ của vơ, của cháu và của con dâu Trương Ba.
-Hồn Trương Ba đau đớn trước những đau khổ của người thân. Ông tìm được giải
pháp là phải gặp Đế Thích.
c./Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế
Thích- Bi kịch "bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo".
-Đề Thích muốn Trương Ba phải sống bằng bất cứ giá nào.
-Trương Ba cương quyết từ chối cuộc sống hồn này- xác nọ.
- Không thuyết phục được Trương Ba, Đế Thích đành thuận theo yêu cầu và ý muốn
của Trương Ba.
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:

100
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của
tình huống kịch;
- Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách
nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.
- Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại
giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.
III . Kết bài :
- Kết luận về bi kịch của nhân vật
- Tư tưởng của Lưu Quang Vũ
- Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :
B. Bài văn tham khảo :
Mở bài Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu
kịch Việt Nam những năm tám mươi của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. tác
phẩm của ông toát lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người.
Ông có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận , trong đó có vở kịch
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở kịch, tác
giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con
người phải sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo".
Thân “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang
bài: Vũ, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt
Khái khán giả.Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một
quát vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con
người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng
vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của
Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên
cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba
được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng
điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú
nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác
hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được
điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách
ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên
một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch,
đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy
tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân
vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia
đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
Bi kịch a./ Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu
tha hoá bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba
và Xác hàng thịt.
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho
Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc
101
thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này
mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba
đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu
cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi
không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi
mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng
lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế
yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn
phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân
run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là
cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm".
Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi,… Xác anh
hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ,
cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông
đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn,…". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả
tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì
lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với
giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
- Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh
giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh
hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng
tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả
năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu
tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát
bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục
vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được
trong sáng. Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh
hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý
nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ
thể, sâu sắc.
Bi kịch b./ Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn
bị từ đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ
chối. chối.
- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết
đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được… còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái
điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là
ông Trương Ba làm vườn ngày xưa".
- Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước
từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu
quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có
"bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi
non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông
102
nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu
Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời
nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự
xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm
thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ
hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp
tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời
cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái
bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy…
mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa
mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…"
- Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch
cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói
riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể
chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn
đứt tung, muốn vọt trào.
- Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi
đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy
chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân
xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục
mày và tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế
hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách
nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".
Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương
gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ
của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường
tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.
Bi kịch c./Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối
"bên thoại với Đế Thích- Bi kịch "bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo".
ngoài -Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác
một giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời
đằng, thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể
bên bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
trong vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên,
một đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
nẻo" giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
- Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và
thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất,
hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân
xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng
của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình
bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người
quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi
103
không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
-Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý
thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau
khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng
tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
- Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho
mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật
Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết
định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử
hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao
nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình
thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát.
Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu,
sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa
của cuộc sống.
Ứng xử d./ Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
của - Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được
Trương xác hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối
Ba quan hệ với cái xác ấy :"chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày...","không cần
đến cái đời sống do mày mang lại".
- Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình: "không thể bên
ngoài một đằng, bên trong một nẻo". Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối
cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề "sống như thế
nào"là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống
hạnh phúc và có ý nghĩa.
- Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở
kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng
khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa
thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với
người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con
dao... của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng
hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã
làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
Ý Ý nghĩa tư tưởng:
nghĩa a./ Tư tưởng của Lưu Quang Vũ :
tư - Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống
tưởng: trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có
ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm
hồn.
- Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những ngịch cảnh, với chính
bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những
giá trị tinh thần cao quý.
b./Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :
- Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật
104
Trương Ba mà còn là vấn đề của con người hiện đại.
- Gợi mở lối sống đúng đắn để đem lại hạnh phúc và sự thanh thản của tâm
hồn.
Kết bài Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách
sâu sắc và sinh động bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một
con người không được sống toàn vẹn mà mình phải sống "bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo".
Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc
giả nhiều thế hệ những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái
chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ,
góp phần đấu tranh chống lại sự tha hoá ở mỗi con người trong đời sống hiện
nay.

BÀI 07: MỘT NGƯỜI HÀ NỘI ( Nguyễn Khải)


Đề 1:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ của tôi
về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách
duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm,
sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên
hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác
thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời.
Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có
thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho
một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp,
thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên,
mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si của nhiều
thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống. Cô nói thêm :
"Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được".
( Trích Một người Hà Nội-Nguyễn Khải)
1. Đoạn văn trên được viết theo giọng kể của ai ??
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Nêu ý nghĩa hình ảnh cây si qua câu văn : Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá
non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi,
mà lại sống. 4. Từ văn bản trên , viết một đoạn văn ngắn thể hiện cảm xúc của em về Hà
Nội.
Trả lời:
1. Đoạn văn trên được viết theo giọng kể của bà Hiền ( nhân vật) và tác giả ( xưng hô tôi)
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là : kể về hình ảnh cây si ở Hà Nội bị bão đánh bật
rễ rồi lại hồi sinh.
3. Hình ảnh cây si qua câu văn : Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là
cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống.
- Cây si: biểu tượng của văn hóa, nét cổ kính, linh thiêng của đất kinh kì ngàn năm văn
hiến.
105
- Cây si hồi sinh: lại sống. lại trổ ra lá non gợi niềm tin, lạc quan vào sự phục hồi những
giá trị tinh thần của Hà Nội.
- Câu chuyện bà Hiền kể về cây si cổ thụ vừa là lời cảnh báo về sự mất mát gia tài văn
hóa, lại vừa như khẳng định niềm tin vào sự sáng suốt của lương tri con người.
4/ Đoạn văn đảm bảo các ý chính:
- Về địa lí: Hà Nội là thủ đô, là trái tim của Tổ quốc.
- Về lịch sử, văn hoá: Hà Nội trải qua hơn nghìn năm văn hoá. Dù chịu biến động
của lịch sử như Hà Nội vẫn giữ được nét văn hoá cổ kính
- Về con người Hà Nội: như hình ảnh bà Hiền, vừa giữ được nếp nhà, vừa giữ
được nếp người.
- Cảm xúc chân thành, thể hiện tình yêu Hà Nội cũng là tình yêu đất nước

Đề 2:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi
xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà
Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”
(Trích Một người Hà Nội- Nguyễn Khải- Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập hai, NXB
Giáo dục, 2008, tr.82)

1. Đoạn văn trên được viết theo thao tác lập luận nào ?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn là gì ?
3. Xác định phép điệp trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp đó.
4. Tại sao nhà văn Nguyễn Khải gọi nhân vật bà Hiền là hạt bụi vàng ?
Trả lời:
1. Đoạn văn trên được viết theo thap tác lập luận bình luận
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn là nhà văn Nguyễn Khải suy ngẫm về nhân vật bà Hiền
để gợi những nét đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội.
3. Phép điệp trong đoạn văn là điệp ngữ hạt bụi vàng. Hiệu quả nghệ thuật của phép điệp
đó : nhấn mạnh phẩm giá người Hà Nội, đồng thời gợi niềm tin, niềm lạc quan, tự hào về
một hà Nội trong tương lai, văn hoá Hà Nội trong xã hội hiện đại.
4. Nhà văn Nguyễn Khải gọi nhân vật bà Hiền là hạt bụi vàng vì Bà Hiền là kết tinh
của vẻ đẹp người Hà Nội truyền thống và Hà Nội hôm nay. Cụ thể:
− Bà Hiền là một người phụ nữ xinh đẹp, có phong cách sang trọng, quí phái.
− Có suy nghĩ sâu xa khi xây dựng gia đình.
− Có quan niệm sống và giáo dục con cái một cách đúng đắn, sâu sắc.
− Có niềm tin vào giá trị, sức mạnh của những truyền thống văn hóa tốt đẹp.
− Giữa thời Hà Nội sống trong kinh tế thị trường, bà vẫn giữ cái phong cách của người
Hà Nội: phong lưu, nề nếp, văn hóa.
- Qua đó, có thể nhận thấy nhà văn thẩm thấu được cuộc hành trình tinh thần của con
người trong cuộc đời. Phẩm chất đẹp đẽ của Bà Hiền là căn cốt giúp bà Hiền có thể sống
tốt trong mọi thời đại, mọi mối quan hệ, dù thời cuộc thăng trầm: thức thời mà chu đáo,
khôn ngoan mà tự trọng, linh hoạt mà trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, đảm bảo giá trị

106
của con người với tư cách con người và tư cách công dân một đất nước. Đó là kiểu thống
nhất giữa thân phận và gía trị, cá nhân và cộng đồng. .

BÀI 8: BẮT SẤU RỪNG U MINH HẠ


Đề 1:
Ông Năm Hên đáp:
Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu
đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt
nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa
chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi
gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép
để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó.
Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò
Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở
Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở
miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu,
Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch
Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như
vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.
(Trích Bắt sấu rừng U Minh Hạ – Sơn Nam)
1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ gì?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Câu nói Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. thể
hiện tính cách như thế nào của nhân vật Năm Hên?
4. Các địa danh Gò Quao, Ngã ba Ðình, Rạch Giá, Cà Mau, Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu
Sấu, Rạch Cà Bơ He …đạt hiệu quả nghệ thuật như thế nào?
Trả lời :

Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Bởi vì đây là lời đáp
của ông Năm Hên, sử dụng ngôn ngữ đậm chất địa phương Nam Bộ như : sấu rượt, ngặt,
sanh , phú quới, nói thiệt...
Câu 2 : Đoạn văn giải thích lí do nhân vật Năm Hên đi bắt cá sấu
Câu 3 : Câu nói Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó.
thể hiện tính cách của nhân vật Năm Hên: trọng nghĩa khinh tài. Ông bắt cá sấu không
phải để làm giàu mà vì có ân tình sâu nặng với bà con, muốn trả thà cho anh mình do bị
cá sấu ăn thịt. Đó cũng là tính cách của người dân Nam Bộ: khẳng khái mà ân nghĩa, cần
cù mà hào phóng, hảo hớn mà trọng nghĩa hiệp.
Câu 4 Các địa danh Gò Quao, Ngã ba Ðình, Rạch Giá, Cà Mau, Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu
Sấu, Rạch Cà Bơ He …đạt hiệu quả nghệ thuật: chứng tỏ sự am hiểu tường tận các địa
danh ở miền Tây Nam Bộ của nhà văn Sơn Nam, đưa bạn đọc đến vùng đất xưa hoang
sơ, bí hiểm. Qua đó, tác giả thể hiện sự gắn bó ân tình, sâu nặng với thiên nhiên và con
người.

Đề 2:
107
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông
đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ
lại trên tay.
- Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ
tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng
xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan
được cái chết của họ không chớ?./.
(Trích Bắt sấu rừng U Minh Hạ – Sơn Nam)
1. Ý nghĩa lời bài hát của nhân vật Năn Hên trong văn bản là gì ?
2. Xác định thể thơ và giọng thơ trong lời bài hát của ông Năm Hên ?
3. Câu văn Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt
đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay. sử dụng biệp pháp tu từ cú pháp như
thế nào? Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
Trả lời :
Câu 1 : Ý nghĩa lời bài hát của nhân vật Năn Hên trong văn bản : Bài hát để tưởng nhớ
hương hồ những người đã bị cá sấu bắt, phải chết oan ức, trong đó có người anh ruột của
ông. Bài hát còn gợi lên cảm nghĩ về cuộc sống khắc nghiệt- vùng đất U Minh, đồng thời
cũng cho thấy tấm lòng nặng sâu tình nghĩa đồng loại, đồng bào của ông Năm Hên
Câu 2 : Thể thơ : vãn bốn ( mỗi câu 4 tiếng). Giọng thơ : buồn, sầu não.
Câu 3 : Câu văn Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối
nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay sử dụng biệp pháp tu từ cú
pháp là liệt kê. Hiệu quả nghệ thuật: hiện ra chân dung cụ thể, đầy bí hiểm của nhân vật
sau khi đã làm tròn lời hứa với bà con , với hương hồn của người dân đã bỏ mạng vì cá
sấu, đồng thời tô đậm thêm tính cách nhân vật- một con người mang tâm sự u hoài, vừa
gợi cảm thương về cuộc sống khốc liệt của những người đi mở đất.

Bài 9 :NHÌN VỀ VỐN VĂN HOÁ DÂN TỘC( Trần Đình Hượu)

Đề 1:
Đọc đoạn văn sau:
108
Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không
say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô
chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí,
áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp
dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
( Trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc – Trần Đình Hượu)
1. Đoạn văn trên có đặc điểm của phong cách ngôn ngữ gì? Về hình thức cấu trúc, nó
thuộc kiểu đoạn văn gì?
2. Đoạn văn thể hiện nội dung gì? Hãy nêu ra 3 từ mà anh/ chị cho là chứa đựng chủ đề
đoạn văn? Hãy đặt nhan đề cho đoạn văn?
3. Viết đoạn văn ngắn chứng minh nhận định: Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí,
áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp
dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
Trả lời:
Câu 1: Đoạn văn trên có đặc điểm của phong cách ngôn ngữ khoa học. Nó thuộc kiểu
đoạn văn diễn dịch.
Câu 2: Đoạn văn trên nêu lên một đặc điểm của văn hóa Việt Nam, đó là quan niệm về
cái đẹp vừa xinh, vừa khéo, duyên dáng, thanh lịch.
Ba từ: cái đẹp, xinh, khéo.
Nhan đề: Quan niệm về cái đẹp của người Việt Nam.
Câu 3: Đoạn văn có thể nêu các dẫn chứng: Việt Nam không có những công trình kiến
trúc đồ sộ như Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Ăng - ko Vát... Chùa Một cột (chùa
Diên Hựu) - một biểu tượng của văn hóa Việt Nam - có quy mô rất bé ; chiếc áo dài rất
được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng có vẻ đẹp nền nã, dịu dàng, thướt tha ; nhiều câu tục
ngữ, ca dao khi nói về kinh nghiệm sống, ứng xử rất đề cao sự hợp lí, hợp tình : Khéo ăn
thì no, khéo co thì ấm ; ở sao cho vừa lòng người/ ở rộng người cười, ở hẹp người chê ;
Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau...

Đề 2:
Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá,
người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung bạo đã bị
xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh
hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hướng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh
nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn để tìm được sự bình ổn.
( Trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc – Trần Đình Hượu)
Đọc văn bản trên và trả lời các câu hỏi sau :
1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ gì?
2. Nội dung chính của văn bản là gì?
3. Viết đoạn văn ngắn làm sáng tỏ nhận định: Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là
thiết thực, linh hoạt, dung hoà.
Trả lời:
Câu 1: Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học, thuộc lĩnh vực khoa học xã
hội

109
Câu 2: Nội dung chính của văn bản là nhận định khái quát tinh thần chung của Văn hoá
Việt Nam, một cái nhìn khoa học, khách quan của nhà nghiên cứu văn hoá Trần Đình
Hượu.
Câu 3: Đoạn văn ngắn làm sáng tỏ nhận định: Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là
thiết thực, linh hoạt, dung hoà cần đảm bảo các ý:
“ Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt , dung hoà” . Đặc
điểm này vừa nêu lên mặt tích cực, vừa tàng ẩn những hạn chế của văn hoá Việt Nam.
- Đây là điểm tích cực vì :
+ Tính thiết thực khiến cho văn hoá Việt gắn bó sâu sắc với đời sống cộng đồng.
Chẳng hạn nhà chùa là nơi thờ Phật tôn nghiêm nhưng đồng thời diễn ra nhiều sinh hoạt
thế tục như ma chay, cưới hỏi, nuôi nấng trẻ em cơ nhỡ…
+ Tính linh hoạt thể hiện rõ ở khả năng tiếp nhận và biến đổi các giá trị văn hoá
thuộc nhiều nguồn khác nhau sao cho phù hợp với đời sống bản địa của người Việt : Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo…đều có chỗ đứng trong văn hoá Việt.
+Tính dung hoà là hệ quả tất yếu của hai thuộc tính trên trong văn hoá của người
Việt. Các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau không loại trừ nhau mà được
người Việt tiếp thu có chọn lọc để tạo nên sự hài hoà bình ổn trong đời sống văn hoá.
Tuy nhiên trong mặt tích cực lại tàng ẩn những hạn chế . Hạn chế ấy là vì luôn
dung hoà nên thiếu những sáng tạo lớn, không đạt đến những giá trị phi phàm, kì vĩ. Chỉ
có những tư tưởng tôn giáo hoặc quan niện xã hội ít nhiều mang tính cực đoan mới tạo ra
những giá trị đặc sắc nổi bật (Vạn lí trường thành-Trung Quốc, Kim Tự tháp-Ai Cập). -
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh địa lí , lịch sử , xã hội cụ thể của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tính thiết thực, linh hoạt, dung hoà bảo đảm cho văn hoá Việt tồn tại qua những
gian nan bất trắc của lịch sử.

Bài 10: MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN ( Ma Văn Kháng)


Đề 1:
Đọc đoạn văn sau:
“Ai có thể đếm được đã bao năm tháng, bao đời người đã đi qua mà cái Tết về đại
thể vẫn là một?
Tết gia đình.
Tết dân tộc.
Tết đậm đà phong vị cộng đồng, quãng giải lao giữa hai chặng đường vất vả, gian
nan.
Vẫn là ngày hăm ba cúng ông Táo, đêm ba mươi cúng tất niên, hái cành lộc. Vẫn
là ngày mồng một he hé cửa đón đợi người xông nhà, dặn dò nhau ý tứ giữ gìn kiêng cữ
cho khỏi dông cả năm dài. Ngày đầu xuân, cơm nguội không rang để cho đời khỏi khô
kháo, nhà không quét cho tài lộc khỏi thất tán. Vẫn là mùi hương hoa ngan ngát nơi bàn
thờ ấy. Vẫn là làn không khí mới mẻ, hơi bỡ ngỡ, trịnh trọng ấy. Vẫn những gương mặt
cởi mở, chan hoà giữa khung cảnh trời đất tươi đẹp vì được niềm phấn chấn của con
người thâm nhập giao hoà.”
( Trích Mùa lá rụng trong vườn-Ma Văn Kháng)
1.Đoạn văn trên khẳng định điều gì?

110
2. Biện pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất trong đoạn văn trên là gì? Nêu tác dụng
của biện pháp nghệ thuật đó?
3. Cụm từ hai chặng đường vất vả, gian nan là để chỉ điều gì?
4, Đặt tiêu đề cho đoạn văn trên.
Trả lời:
1.Đoạn văn trên khẳng định: Tết cổ truyền của dân tộc bao đời nay vẫn giữ được những
nét đẹp truyền thống và giàu bản sắc
2. Biện pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất trong đoạn văn trên là điệp ( lặp) cấu
trúc câu ( Tết…; Vẫn là…)
-Tác dụng: nhấn mạnh những nét đẹp truyền thống, những bản sắc của Tết cổ truyền dân
tộc qua bao đời nay vẫn không thay đổi
3.Cụm từ hai chặng đường vất vả, gian nan là để chỉ một năm cũ vừa qua đi và một năm
mới đang sắp đến với bao gian nan,vất vả mà mỗi người đã và sẽ trải qua.
4. Tiêu đề cho đoạn văn: có thể có cách đặt tiêu đề khác nhau nhưng phải thể hiện được
nội dung chính của đoạn văn ( Ví dụ: Tết cổ truyền của dân tộc; Tết cổ truyền và bản sắc
dân tộc; Tết cổ truyền - hồn Việt xưa và nay…)

Đề 2:
Cho đoạn văn sau:
“Tràn trề trên mặt bàn, chạm cả vào cành quất Lí cố tình để sát vào mâm cỗ cho
bàn ăn thêm đẹp, thêm sang, là la liệt bát đĩa ngồn ngộn các món ăn. Ngoài các món
thường thấy ở cỗ Tết như gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng gà,
xúp lơ xào thịt bò… - món nào cũng mang dấu ấn tài hoa của người chế biến - là các
món khác thường như gà quay ướp húng lìu, vịt tần hạt sen, chả chìa, mọc, vây…”
(Trích Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng)
a. Hãy xác định nội dung chính của đoạn trích trên? Nếu đặt cho đoạn văn một
nhan đề, anh/ chị sẽ đặt là gì?
b. Cụm từ in đậm là thành phần gì trong câu?
c. Đoạn văn sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật
đó trong đoạn văn?
Câu a: Đoạn văn miêu tả mâm cỗ Tết thịnh soạn do bàn tay tài hoa, chu đáo của Lí làm
ra để thết đãi cả gia đình. Nhan đề: mâm cỗ Tết.
Câu b: Cụm từ in đậm là thành phần phụ chú trong câu văn.
Câu c: Trong đoạn văn, tác giả có sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê:
“…gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng gà, xúp lơ xào thịt bò…”
Tác dụng: Biện pháp liệt kê giúp cho nhà văn miêu tả sinh động mâm cỗ Tết vốn tràn trề,
ngồn ngộn những của ngon vật lạ…

ÔN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI


BÀI 1-THUỐC ( Lỗ Tấn)

A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:

111
I. Tác giả:Lỗ Tấn (1881 – 1936), nhà văn cách mạng Trung Quốc, người đã từ bỏnghề
thuốc để làm văn nghệ vì cho rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh
tinh thần..
II. Tác phẩm:Truyện viết năm 1919, nhằm chỉ ra thực trạng: nhân dân đắm chìm trong
mê muội còn người cách mạng thì xa lạ với quần chúng.
1) Nội dung:
- Tình trạng mê muội của người dân Trung Quốc qua hình tượng chiếc bánh
bao tẩm máu người:
+ Phân tích hành động, thái độ, tâm lí của vợ chồng lão Hoa khi đi mua thuốc
(chiếc bánh bao tẩm máu người), khi cho thằng Thuyên uống thuốc( ăn chiếc bánh bao)
với niềm tin con mình sẽ khỏi bệnh.
+ Phân tích thái độ, lời nói của số đông người trong quán trà (người râu hoa râm,
câu Năm Gù, người mặt thịt ngang phè, bác Cả Khang,…) bàn luận về thuốc, cam đoan
về khả năng chữa trị bệnh lao của chiếc bánh bao tẩm máu người; kháo nhau về chuyện
giao nộp người cách mạnh để lĩnh thưởng, về cái chết của người cách mạng…
- Mong mỏi về sự thức tỉnh của quần chúng qua hình tượng vòng hoa trên mô
Hạ Du:
+ Phân tích hình ảnh bà mẹ Hạ Du ra nghĩa địa: “tóc cũng bạc già nửa, áo quần
rách rưới, tay xách chiếc giỏ sơn xanh cũ nát”; suy nghĩ và băn khoăn của bà khi đứng
trước mộ con: “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên ! Ai đã đến đây ? Trẻ
con không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định là không ai đến rồi !... Thế này là thế
nào?”.
+ Chú ý lời bà mẹ khóc con: “Du ơi ! Trời có mắt, thật tội nghiệp, chúng nó giết
con thì rồi chúng nó sẽ bị báo ứng thôi !” và hình ảnh “con quạ xòe đôi cánh nhún mình,
rồi như một mũi tên, vút bay thẳng về phía chân trời xa”.
2) Nghệ thuật:
- Hình ảnh, ngôn từ giàu tính biểu tượng.
- Lối dẫn truyện nhẹ nhàng, tự nhiên mà sâu sắc, lối cuốn.
3) Ý nghĩa văn bản:
- Người Trung Quốc cần có một thứ thuốc để chữa trị tận gốc căn bệnh mê muội về
tinh thần.
- Nhân dân không nên “ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt” và người cách mạng
thì không nên “bôn ba trong chốn quạnh hiu”, mà phải bám sát quần chúng để động
viên, giác ngộ họ.
B/ LUYỆN TẬP
Câu 1: Trình bày ngắn gọn cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Lỗ Tấn?
a. Cuộc đời :
- Lỗ Tấn ( 1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, là nhà văn cách mạng lớn của
Trung Quốc và nhân loại. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết
Giang, Trung Quốc. Lỗ Tấn là một trí thức yêu nước có tư tưởng tiến bộ, từng học nhiều
nghề là khai mỏ , hàng hải , nghề thuốc. Ông đã từ bỏ nghề thuốc để làm văn nghệ vì
cho rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần.

112
- Khi chuyển sang làm văn nghệ, ông chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui và
chữa trị căn bệnh tinh thần cho nhân dân Trung Quốc.Đó là căn bệnh tinh thần đã khiến
cho nhân dân mê muội, tự thỏa mãn “ ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt”.
b/ Sự nghiệp :
- Lỗ Tấn đã để lại các tác phẩm, được in thành 3 tập: Gào thét, Bàng hoàng,
Chuyện cũ viết theo lối mới.
- Ông xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc của Trung Quốc, năm 1981 cả Thế
giới kỉ niệm 100 năm ngày sinh và tôn vinh ông là danh nhân văn hoá thế giới .

Câu 2 : Trước khi chuyển sang sáng tác văn chương, Lỗ Tấn đã học những ngành
gì? Lý do vì sao ông chuyển sang làm văn nghệ? Khi làm văn nghệ, Lỗ Tấn đã thể
hiện chủ trương - quan điểm sáng tác văn chương như thế nào?Tác phẩm tiêu biểu
nào thể hiện chủ trương – quan điểm sáng tác của Lỗ Tấn?
- Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề : học nghề hàng hải với ước
mong mở rộng tầm mắt – học nghề khai mỏ với nguyện vọng làm giàu cho Tổ quốc –
học nghề y để chữa bệnh cho dân nghèo.
- Đang học y khoa ở Nhật ông đột ngột đổi nghề vì : Một lần xem phim ,ông thấy những
người Trung Quốc khỏe mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người Trung Quốc làm
gián điệp cho Nga .Ông giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng
chữa bệnh tinh thần.
- Khi làm văn nghệ, Ông chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui và chữa trị căn bệnh
tinh thần cho nhân dân Trung Quốc. Căn bệnh tinh thần đã khiến cho nhân dân mê muội,
tự thỏa mãn “ ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt”.
- Các phẩm thể hiện rõ chủ trương sáng tác của Lỗ Tấn là: Thuốc, AQ chính truyện...

Câu 3: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn ?


“Thuốc” là một tiêu đề đa nghĩa :
- Thuốc cái bánh bao tẩm máu người mà người dân u mê đã sùng bái nó, cho đó là thứ
thuốc chữa bệnh lao.Thứ thuốc ấy đã không cứu chữa được bệnh nhân mà còn giết chết
bệnh nhân. Như vậy nhan đề mang ý nghĩa chống mê tín, sùng tín.
- Thuốc lại được pha chế bằng máu của người cách mạng, những người đã đổ máu vì
nhân dân. Cho nên, “Thuốc” đề cập đến một vấn đề khác sâu xa và khái quát hơn: đó là
sự u mê, đớn hèn, mông muội về chính trị của quần chúng và bi kịch không được
hiểu, không được ủng hộ của những người cách mạng. Như vậy nhan đề mang ý nghĩa
nhận thức về chính trị. Từ đó, tiêu đề tác phẩm có thêm một tầng nghĩa nữa sâu sắc hơn:
phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách
mạng gắn bó với quần chúng.
Tóm lại, “Thuốc” được xem là một phương thuật để giác ngộ quần chúng Trung
Quốc của Lỗ Tấn.

Câu 4 : Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù cách mạng thể hiện điều
gì?
Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù cách mạng thể hiện:

113
- Tình trạng mê muội về y học của người dân Trung Quốc ( qua thái độ, hành
động, tâm lý của vợ chồng lão Hoa Thuyên mua thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu cho
cậu Thuyên ăn với niềm tin con mình sẽ khỏi bệnh; Thái độ của của số đông người
trong quán trà bàn luận về thuốc, xem đó như là thần dược sẽ chữa khỏi bệnh lao cho
cậu Thuyên.)
-Tình trạng ấu trĩ về cách mạng của người dân Trung Quốc ( qua việc mua và
bán bánh bao tẩm máu của người tử tù cách mạng ; qua những lời kháo nhau việc giao
nộp Hạ Du- người chiến sĩ cách mạng để lĩnh thưởng)...

Câu 5 : Ý nghĩa của hình tượng những bông hoa trên mộ Hạ Du ?


- Những bông hoa trên mộ Hạ Du đã cho thấy: phải chăng đã có người đã hiểu sự
hi sinh cao cả, lí tưởng đẹp đẽ của Hạ Du và bày tỏ niềm cảm phục tiếc thương Hạ Du.
- Điều đó chứng tỏ sự chuyển biến về tình cảm và nhận thức của nhân dân
Trung Quốc trước sự hy sinh của những chiến sĩ Cách mạng : không phải tất cả mọi
người đều vô tình,hờ hững mà vẫn có những người thương tiếc, kính trọng họ.
-Từ đó, Lỗ Tấn bày tỏ niềm hy vọng và mong ước nhân dân Trung Quốc sẽ
tiến bộ hơn, có cái nhìn đúng hơn về cách mạng và những chiến sĩ cách mạng Trung
Quốc trong tương lai.

Câu 6: Qua cuộc bàn luận về Hạ Du trong quán trà, Lỗ Tấn muốn nói lên điều gì?
Qua cuộc bàn luận về Hạ Du trong quán trà, Lỗ Tấn muốn nói :
- Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm nhưng là một mắt xích quan trọng
tạo nên ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
- Hạ Du là hình tượng tiêu biểu cho những người cách mạng sớm giác ngộ lí tưởng,
dũng cảm, hiên ngang, dám tuyên truyền lí tưởng cách mạng với cả cai ngục trong những
ngày chờ ra pháp trường. Nhưng buồn thay, nhân dân u mê không hiểu việc làm của anh:
chú của anh thì cho là anh “làm giặc” nên đã đi tố giác anh, người dân thì chờ anh chết để
lấy máu chữa bệnh, mọi người cho là anh bị “điên”, thậm chí mẹ anh cũng không hiểu
được con mình.
Tóm lại, xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả tuy có bày tỏ thái độ trân trọng và kính
phục lý tưởngcủa người làm cách mạng, song cũng ngầm ý phê phán cách mạng tư sản
Trung Quốc buổi đầu còn rời quần chúng.
Câu 7 : Dụng ý sắp xếp thời gian nghệ thuật của Lỗ Tấn ở hai thời điểm mùa thu và
mùa xuân trong tác phẩm Thuốc?
- Mùa thu, diễn ra hai cái chết của hai người trai trẻ với hai số phận khác nhau. Sự ra đi
của họ như đồng điệu với cái tàn tạ vốn có của mùa thu.
- Mùa xuân, hai người mẹ có chung nỗi đau khổ mất con, dường như đã đồng cảm với
nhau.
Tóm lại, đặt câu chuyện vào vào thời gian của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ
và khép lại, một mùa có tính chất hồi sinh; tác giả dường như muốn gửi gắm vào đó
một niềm hy vọng: Hi vọng về một sự hồi sinh.Từ đó nhà văn gieo vào lòng người đọc
một niềm tin, một niềm hi vọng về một cuộc sống mới mẻ hơn, đỡ u ám hơn cho
những số phận tối tăm đau khổ trong tác phẩm.

114
Câu 8: Ý nghĩa câu hỏi “Thế là thế nào?” của mẹ Hạ Du khi nhìn thấy vòng hoa trên
nấm mộ Hạ Du?
Ý nghĩa câu hỏi “Thế là thế nào?” của mẹ Hạ Du khi nhìn thấy vòng hoa trên nấm mộ
Hạ Du :
- Câu hỏi trước hết chính là thể hiện sự bế tắc, lạ lẫm của bà mẹ khi ngay cả bà cũng
không hiểu ý nghĩa việc làm của con trai.
- Câu hỏi còn thể hiện sự băn khoăn, đau khổ, tự trách của bà mẹ.
-Câu hỏi cũng là sự day dứt của nhà văn về mối quan hệ gắn bó giữa quần chúng và
cách mạng.
Câu 9: Ý nghĩa của hình ảnh khu nghĩa địa và hình ảnh con đường mòn trong tác
phẩm Thuốc của Lỗ Tấn?
Ý nghĩa của hình ảnh khu nghĩa địa và hình ảnh con đường mòn trong tác
phẩm Thuốc của Lỗ Tấn:
- Hình ảnh " nghĩa địa những người chết chém, chết tù ở phía tay trái và nghĩa địa
người nghèo phía tay phải" nói lên: không có sự phận biệt giữa những người làm cách
mạng với những kẻ trộm cướp. Những chiến sĩ cách mạng cũng bị xem là “giặc”.
- Hình ảnh : “...cả hai nơi mộ dày khít , lớp này lớp khác như bánh bao nhà giàu
ngày mừng thọ" nói lên : số người chết chém hoặc chết tù cũng nhiều như số người chết
vì nghèo đói. Một con số gợi nên thực trạng xã hội vừa đen tối vừa tàn bạo của đất nước
Trung Hoa đương thời.
- Hình ảnh “ con đường mòn nhỏ hẹp” nói lên: nó không chỉ là ranh giới tự nhiên
mà nó còn là ranh giới vô hình của lòng người với những định kiến xã hội về người làm
cách mạng. Nó còn nói lên sự cách biệt xa rời quần chúng của người cách mạng.
Từ đó nói lên ước nguyện của tác giả: muốn cứu nước Trung Hoa cần phải xóa
đi con đường mòn ấy. Cho nên, cuối tác phẩm, tác giả đã để hai bà mẹ bước qua con
đường mòn để đến với nhau.

BÀI 2-SỐ PHẬN CON NGƯỜI ( Sô-lô-khốp)


A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1) Tác giả:
Mi-khai-in Sô- lô-khốp (1905 – 1984), nhà văn Nga Xô viết, Giải Nô-ben Văn
học năm 1965; được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỉ XX.
2) Tác phẩm:
Số phận con người được viết năm 1957, mười hai năm sau khi thế giới lần thứ
hai kết thúc.
a) Nội dung:
- Chiến tranh và thân phận con người:
+ Người lính Xô-cô-lốp với những đau đớn về thể xác và tinh thần dường như
không thể nào vượt qua nổi: đi lính, bị thương, bị đọa đày trong trại tập trung; vợ và hai
con gái chết vì bom phát xít, con trai cũng đi lính và hi sinh đúng ngày chiến thắng; sau
chiến tranh, Xô-cô-lốp không biết đi đâu, về đâu.
+ Chú bé Va-ni-a lang thang, rách rưới, hằng ngày nhặt nhạnh kiếm ăn nơi hàng
quán, ban đệm bạ đâu ngủ đó; cha chết trận, mẹ chết bom, không biết quê hương, không
người thân thích.
115
- Nghị lực vượt qua số phận:
+ Xô-cô-lốp chấp nhận cuộc sống sau chiến tranh, tự nhận mình là bố Va-ni-a, sung
sướng trong tình cảm cha con, chăm lo cho Va-ni-a từng cái ăn, cái mặc, giấc ngủ.
+ Va-ni-a vô tư và hồn nhiên đón nhận cuộc sống mới trong sự chăm sóc và tình yêu
thương của người mà chú bé luôn nghĩ là cha đẻ.
Tác phẩm đề cao chủ nghĩa nhân đạo cao cả, nghị lực phi thường của người lính và
nhân dân Xô viết thời hậu chiến: lòng nhân hậu, vị tha, sự gắn kết giữa những cảnh đời
bất hạnh, niềm hi vọng vào tương lai.
b) Nghệ thuật:
- Miêu tả sâu sắc, tinh tế nội tâm và diễn biến tâm trạng nhân vật.
- Lời kể chuyện giản dị, sinh động, giàu sức hấp dẫn và lôi cuốn.
- Nhiều đoạn trữ tình ngoại đề gây xúc động mạnh cho người đọc.
c) Ý nghĩa văn bản:
Con người bằng ý chí và nghị lực, lòng nhân ái và niềm tin vào tương lai, cần và
có thể vượt qua những mất mát do chiến tranh và bi kịch của số phận.
B/ LUYỆN TẬP

Câu 1: Những điểm cơ bản nào trong cuộc đời của M.Sôlôkhôw giúp ta hiểu thêm
về văn nghiệp của ông ?
- Sôlôkhôp sinh ra và lớn lên ở vùng sông Đông của nước Nga. Cuộc sống của ông
gắn bó máu thịt với cảnh vật và con người quê hương trong những bước chuyển
mình đau đớn và phức tạp của lịch sử. Chính vì thế, tác phẩm của ông thấm đẫm hơi
thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông. Tiêu biểu như bộ tiểu thuyết “Sông Đông
êm đềm”.
- Ông trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc nên có điều kiện hiểu biết về
cuộc sống của nhân dân mình trong và sau chiến tranh cùng với những phẩm chất
kiên cường, nhân hậu của họ . Tác phẩm “Số phận con người” là cảm hứng về chiến
tranh. Tác phẩm đã tạo một bước ngoặt mới trong sang tác của ông.
Câu 2: Tính cách Nga thể hiện như thế nào qua nhân vật Xô cô lốp trong đoạn
trích?
Tính cách Nga thể hiện qua nhân vật Xô cô lốp trong đoạn trích :
Nhân vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp có cuộc đời gặp nhiều bất hạnh .Nhưng anh
vẫn thể hiện được nét tính cách Nga kiên cường và nhân hậu.
Tính cách kiên cường : Trong chiến tranh, anh chịu quá nhiều bất hạnh. Sau chiến
tranh, anh lại sống trong cô đơn, đau khổ, phiêu bạt nhiều nơi để kiếm sống. Nhưng anh
vẫn không thốt một lời than vãn, không suy sụp tinh thần,không sa ngã, không rơi vào bế
tắc, tuyệt vọng. Với bản lĩnh cao đẹp, với tấm lòng nhân hậu thắm thiết, anh trở thành
chỗ dựa vững chắc cho bé Vania (bố mẹ đã chết trong chiến tranh).
Tấm lòng nhân hậu : Xôcôlôp nhận nuôi bé Vania từ tính thương “Với niềm vui
không lời tả xiết” không tính toán ,vụ lợi . Anh yêu thương, chăm sóc chu đáo cho Vania
hơn cả người cha đối với con. Những mất mát, đau thương, anh âm thầm chịu đựng
“nhiều đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt”, không cho bé Vania biết, vì sợ em buồn
. Hai số phận bất hạnh đặt cạnh nhau ,đã kết hợp với nhau, biết nương tựa vào nhau để

116
vươn lên và không ngừng hi vọng vào cuộc sống là phẩm chất tuyệt vời của những con
người chân chính.
Câu 3 : Trình bày ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm "Số phận con người" của Sô lô
khốp?
Ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm "Số phận con người" của Sô lô khốp:
- Tác phẩm vừa tố cáo chiến tranh phát xít tàn bạo, vừa thể hiện sự cảm thông, yêu
thương những số phận bất hạnh do chiến tranh gây ra; vừa biểu dương, ca ngợi tính cách
kiên cường và nhân hậu,niềm tin vào cuộc sống của nhân dân Nga.
- Đồng thời thông qua tác phẩm, Sô-lô-khốp muốn nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm
của toàn xã hội đối với cá nhân con người; khẳng định vai trò của nhân dân tạo nên lịch
sử, song cũng nhấn mạnh lịch sử phải có trách nhiệm trước mỗi cá nhân.

Câu 4. Ý nghĩa của lời trữ tình ngoại đề cuối truyện “Số phận con người” ?
Lời trữ tình ngoại đề ở cuối tác phẩm chính là lời giãi bày đầy cảm xúc của người
kể chuyện thứ nhất, cũng chính là lời giãi bày của nhà văn Sô-lô-khốp về số phận con
người :
- Sự đau đớn, xót xa, đồng cảm của nhà văn về số phận của con người trước bão tố phũ
phàng của chiến tranh.
- Dự báo những khó khăn chướng ngại mà con người phải vượt qua trên con đường
hướng tới tuơng lai.
- Bày tỏ lòng khâm phục tin tưởng vào phẩm chất của con người Nga kiên cường và
nhân hậu sẽ giúp họ đứng vững được, đương đầu với mọi thử thách, luôn sẵn sàng khi Tổ
quốc kêu gọi.
- Nhà văn còn đặt ra vấn đề : Xã hội và người lớn cần có trách nhiệm quan tâm đối với
số phận cá nhân, đặc biệt là đối với trẻ em là những nạn nhân của chiến tranh.
Tóm lại, theo Sô- lô-khốp, số phận là cái mà con người không thể tránh khỏi, không
thể lường trước, nhưng tâm hồn và bản lĩnh của con người là điều số phận không thể tước
đoạt.
Câu 5: Cái mới của truyện ngắn “Số phận con người” trong việc miêu tả cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô?
- Truyện ngắn Số phận con người là cột mốc quan trọng mở ra chân trời mới cho văn
học Nga. Tác phẩm thể hiện cái nhìn về cuộc sống và chiến tranh một cách toàn diện.
- Nhà văn đã dũng cảm nói lên sự thật gai góc: bên cạnh những chiến thắng vinh
quang là sự thật về những mất mát vô cùng của con người trong chiến tranh, sự thật về
cuộc sống của con người thời hậu chiến, sự thật rằng con người sẽ còn phải đương đầu
với số phận đầy thử thách phía trước. Từ đó nhà văn ca ngợi tính cách Nga kiên cường
và nhân ái.

BÀI 3-ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ ( Hemingue)

A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1) Tác giả:

117
Hê-minh-uê (1899 – 1961), một trong những nhà văn lớn nhất của nước Mĩ thế kỉ
XX, nổi tiếng với nguyên lí “tảng băng trôi” ; với hoài bão viết cho được “một áng văn
xuôi đơn giản và trung thực về con người”.
2) Tác phẩm:
Đoạn trích nằm ở gần cuối truyện, thuật lại việc ông lão Xan-ti-a-gô rượt đuổi và
khuất phục được con cá kiếm.
a) Nội dung:
- Đề cao sức mạnh của con người – ông lão đánh cá – trong cuộc đấu với con cá
kiếm. Cả hai đều dũng cảm, mưu trí, cao thượng nhưng chiến thắng cuối cùng đã thuộc
về con người.
- Thể hiện niềm tinh vào nghị lực của con người và niềm tự hào về con người.
b) Nghệ thuật:
- Lối kể chuyện độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời kể với văn miêu tả cảnh vật
đối thoại và độc thoại nội tâm.
- Ý nghĩa hàm ẩn của hình tượng và tính đa nghĩa của ngôn ngữ.
c) Ý nghĩa văn bản:
Cuộc hành trình đơn độc, nhọc nhằn của con người vì một khát vọng lớn lao là
chứng minh cho chân lí: “Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại”.

Câu 1: Theo anh/ chị , tiểu sử và sự nghiệp của Hê-minh-uê có những điểm gì đáng
lưu ý?
+ Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn Mĩ.
+ Ông thích thiên nhiên hoang dại, thích phiêu lưu mạo hiểm và đã từng tham gia
hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai.
+ Sự nghiệp văn học của Hê-minh-uê khá đồ sộ, trong đó có những tác phẩm tiêu
biểu như: Giã từ vũ khí, Ông già và biển cả…
+ Hê-minh-uê là người đề xướng và thực thi nguyên lí “tảng băng trôi”, (đại thể:
nhà văn không trực tiếp phát ngôn cho ý tưởng của mình, mà xây dựng hình tượng có
nhiều sức gợi để người đọc có thể rút ra phần ẩn ý).
+ 1954, ông được nhận giải thưởng Nô ben về văn học.
Câu 2 : Anh (chị ) hiểu như thế nào nguyên lí “Tảng băng trôi” do Hêminhuê đề
xướng?
Xuất phát từ hình ảnh của tảng băng bảy phần chìm, chỉ một phần nổi, Hêminguê
yêu cầu nhà văn không trực tiếp công khai làm cái loa phát ngôn cho ý tưởng của mình,
mà nói lên bằng hình tượng có nhiều sức gợi, để người đọc tự rút ra ẩn ý. Nhân vật trong
nguyên lí này là nhân vật hành động, hoặc là đối thoại, hoặc là độc thoại nội tâm, nhà văn
chỉ xuất hiện trong tác phẩm nếu bằng lời dẫn truyện thì nó cũng bí ẩn, mập mờ, thái độ
nhà văn bộc lộ bằng những giọng nói ngược khó xác định, có khi vừa trữ tình vừa mỉa
mai, hoặc vừa tả thực vừa biểu tượng…Cả một thế hệ các nhà văn trẻ, không chỉ ở nước
Mỹ, đã đổi mới lối viết và đi theo phong cách này.

Câu 3 : Nội dung, ý nghĩa của đọan trích “ Ông già và biển cả”?
- Đoạn trích như một bức tranh tuyệt đẹp của con người trước biển cả : Hình
ảnh ông lão đánh cá Xan-ti-a-go đơn độc nhưng dũng cảm săn đuổi và chinh phục được
118
con cá Kiếm - một con cá lớn nhất trong cuộc đời đi biển của ông lão – đó chính là biểu
tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành
hiện thực.
- Từ đó thấy được ý chí, nghị lực của ông lão đánh cá trong cuộc chinh phục
con cá kiếm cũng như chống chọi với sự dữ dội của biển khơi.

Câu 4: Sự thể hiện nguyên lý Tảng băng trôi trong đoạn trích “Ông già và biển cả”?
- Phần nổi: Miêu tả một cuộc săn bắt cá. Ông lão là người săn cá, cá kiếm là con mồi.
- Phần chìm: ( biểu tượng, ẩn dụ)
+ Nhân vật Xantiago như một biểu tượng về Con người lao động có khát vọng
đẹp.Để đạt được ước mơ, lí tưởng, con người phải trải qua cuộc đọ sức quyết liệt
( Ông lão chiến thắng con cá là nhờ thạo nghề giàu kinh nghiệm, nghị lực phi thường,
niềm tin vào khả năng chiến thắng,trí tuệ sáng suốt)
+Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ, lí tưởng mà mỗi con người theo đuổi trong
cuộc đời.
+ Biển cả là khung cảnh kỳ vĩ tương ứng với môi trường lao động đầy thử thách của
con người.
+Cuộc đi câu là hành trình theo đuổi một khát vọng to lớn vượt ra ngoài giới hạn của
con người.
Trong mọi hoàn cảnh và điều kiện ta nhận thấy “con người chỉ có thể bị hủy diệt
chứ không bị đánh bại”.

Câu 5 : Hình ảnh con cá kiếm trước và sau khi ông lão chiếm được nó được thể hiện
như thế nào? Điều này gợi lên suy nghĩ gì? Vì sao có thể coi con cá kiếm như một
biểu tượng?
+ Khi chưa bị chế ngự: nó có vẻ đẹp kì vĩ, kiêu hùng, là biểu tượng cho ước mơ, lí
tưởng mà mỗi người thường đeo đuổi trong cuộc đời.
+ Khi bị chế ngự: nó mất đi vẻ đẹp mơ hồ, lung linh, trở nên cụ thể, hiện thực là biểu
tượng cho ước mơ đã trở thành hiện thực, không còn khó nắm bắt hoặc xa vời, cho thấy
con người luôn theo đuổi những ước mơ chân chính.
Tóm lại, con cá kiếm trở thành biểu tượng vì nó là hiện thân của cái đẹp, cái cao
thượng mà ông lão thật sự yêu quý, ngưỡng vọng. Cho nên ông lão không đơn thuần coi
nó chỉ là một con mồi mà còn có thái độ, quan hệ đặc biệt đối với con cá, nâng nó lên
thành ước mơ, thành người bạn , “ người anh em” .
Câu 6: Trong đoạn trích “Ông già và biển cả”, ông lão Xan-ti-a-gô có những nỗi đau
tinh thần nào?
Trong đoạn trích “Ông già và biển cả”, ông lão Xan-ti-a-gô có những nỗi đau tinh
thần
- Ông chịu sự cô đơn xa cách của dân làng bởi 84 ngày liền chưa câu được con cá
nào. Một ngư dân không đánh được cá trong một khoảng thời gian dài như vậy thì bị coi
là thất bại, coi như đã chết về phương diện tinh thần.
- Đau khổ vì không tìm thấy tri âm trên đất liền, ông chỉ tìm thấy tri âm ở loài cá
chốn biển khơi, cho nên ông coi biển là nhà, cá là bạn, con thuyền là chiếc giường.

119
- Dằn vặt vì con cá kiếm là hiện thân của cái cao thượng, cái đẹp, là mục đích cuối
cùng mà ông phấn đấu theo đuổi. Tuy nhiên, để tồn tại và khẳng định ý nghĩa của sự tồn
tại, ông phải hủy hoại ngay cả cái mình vẫn yêu quý ngưỡng mộ.
-Đau đớn vì bị lệ thuộc, bị tước mất thành quả lao động: Bắt được con cá là một
vận may của ông lão, là sản phẩm để khẳng định tài năng của ông lão nhưng chính ông
lão lại là “miếng mồi” của nó và khốn khổ vì bị nó tha đi khắp nơi. Ngay cả khi con cá
chết đi rồi thì vận may lại biến thành vận rủi. Đàn cá mập đã tấn công con cá kiếm, khi
vào đến bờ, con cá kiếm chỉ còn là bộ xương.

Câu 7: Tư tưởng “con người không thể bị đánh bại” trong đoạn trích “Ông già và
biển cả” thể hiện như thế nào ?
- Tư tưởng “Con người không thể bị đánh bại” quán xuyến toàn bộ tác phẩm.
- Con người đúng là “không thể bị đánh bại”, ngay cả khi nó bị thất thế và đơn độc,
bởi con người có nghị lực, ý chí quyết tâm và sự khéo léo. Quan hệ giữa con cá kiếm với
ông lão đánh cá biểu hiện ý nghĩa biểu tượng này. Một con cá kiếm uy nghi, khổng lồ
tung hoành giữa chốn biển khơi quen thuộc với một ông già bé nhỏ cô đơn đang ngày
càng bị kéo ra xa bờ. Xan-ti-a-gô thì ở tuổi gần đất xa trời, mệt mỏi, kiệt sức, thiếu nước
uống và lương thực. Con cá kiếm thì ở giữa vương quốc của nó, nơi nó tràn trề sức mạnh
nhất. Ngậm lưỡi câu trong miệng, nó rẽ sóng ào ào kéo ông lão ra khơi xa. Ông lão hết
sức chật vật với nó (sợi dây xiết trên vai, tay trái tê bại, tay phải đứt bật máu…). Nhưng
cuối cùng, ông lão đã chinh phục được đối thủ đáng kính nể.
Bằng chiến thắng này, ông lão đã khẳng định ý nghĩa tồn tại của mình với tư cách
một người đánh cá chân chính.

ĐỀ THI THỬ QUỐC GIA THPT NĂM HỌC 2014 – 2015


Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
ĐỀ SỐ I:
Câu I (2,0 điểm)
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!

Con lại lần theo lối sỏi quen


Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
(Trích Bác ơi! – Tố Hữu)
Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau :
1. Nêu phương thức biểu đạt của đoạn thơ?.
2. Nội dung chính của đoạn thơ là gì?
3. Xác định nhịp thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật cách sử dụng nhịp thơ ở 2 câu thơ
cuối ở đoạn thơ thứ 2?

120
Câu II (3,0 điểm):
Tuyên dương 16 thanh niên tham gia cứu nạn tại Lào Cai
Ngày 6/9/2014, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên TP Hà Nội đã gặp mặt, tuyên
dương 16 thanh niên, sinh viên tham gia đã cứu nạn trong vụ tai nạn xe khách xảy ra
ngày 1/9/2014 tại xã Tòng Sành, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
16 thanh niên, sinh viên được tuyên dương là thành viên của nhóm du lịch mạo
hiểm Phong Vân đang trên đường từ Hà Nội lên Sa Pa du lịch.
Trực tiếp chứng kiến vụ tai nạn thảm khốc là chiếc xe khách lao xuống vực khiến
12 người tử nạn và 41 người khác bị thương, cả nhóm đã kịp thời thông báo tới các đơn
vị chức năng tham gia ứng cứu và dùng đèn pin, điện thoại soi đường, mò mẫm xuống
vực sâu gần 200 mét để cấp cứu, hỗ trợ các nạn nhân trên chuyến xe gặp nạn…
(Theo cand.com.vn)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề đặt ra từ thông tin trên (bài viết khoảng
600 từ)

Câu III (5,0 điểm)


Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
( Trích Mặt đường khát vọng- Chương Đất Nước- Nguyễn
Khoa Điềm)
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
( Trích Sóng – Xuân Quỳnh)
-HẾT-
Hướng dẫn làm bài cụ thể
I. Đọc hiểu (2,0 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng
- Thí sinh có kĩ năng đọc hiểu văn bản;
- Diễn đạt rõ ràng, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
2. Yêu cầu về kiến thức
Câu 1 (0,5 điểm)
Phương thức biểu đạt của đoạn thơ là tự sự, miêu tả và biểu cảm.
( Nếu nêu đúng 1 trong ba phương thức trên cho 0,25đ)
Câu 2 (0,5 điểm)

121
Nội dung chính của đoạn thơ: Nhà thơ thể hiện tâm trạng xót xa, đau đớn, thẫn thờ,
bàng hoàng, tê dại trong lòng khi nghe tin Bác Hồ từ trần. (0,5đ)
Câu 3 (1,0 điểm)
- Nhịp thơ 2/2/3 ( 0,5đ)
- Hiệu quả nghệ thuật: nhịp thơ chậm, buồn, sâu lắng diễn tả tâm trạng đau đớn
đến bất ngờ của nhà thơ. Cả không gian cũng đang ngưng lại mọi hoạt động để
nghiêng mình vĩnh biệt vị Cha già kính yêu của dân tộc.( 0,5đ)
( Nếu không có câu dẫn, cả phần đọc hiểu – 0,25đ)

II. Làm văn (3,0 điểm)


1. Yêu cầu về kĩ năng : Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội về một hiện tượng
đời sống qua một bản tin. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.
2. Yêu cầu về kiến thức : Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau
nhưng phải bám sát yêu cầu của đề bài, cần làm rõ được những ý chính sau:
- Nêu được vấn đề cần nghị luận: Giới thiệu tóm tắt nội dung bản tin. Khẳng định
đây là hiện tượng tốt, cần học tập và nêu gương.( 0,5đ)
-Phân tích
+ Tai nạn giao thông là điều không ai mong muốn. 16 thanh niên, sinh viên trên đã
có mặt kịp thời, vượt qua nỗi sợ hãi, tìm mọi cách để cứu người bị nạn. ( 0,5đ)
+ Hành động này thể hiện tinh thần nhân ái cao cả, một lối sống đẹp của tuổi trẻ
hiện nay( 0,5đ)
-Bình luận
+ Việc cứu người bị tai nạn giao thông của nhóm thanh niên, sinh viên là một hành
động có ý nghĩa tích cực, phát huy truyền thống thương người của dân tộc, biết lựa chọn
đúng đắn mối quan hệ giữa quyền lợi cá nhân ( đi du lịch) với việc tham gia cứu hộ, cứu
nạn, không hề tính toán thiệt hơn; bộc lộ trí thông minh, sáng tạo của tuổi trẻ, có kĩ năng
sống khi xử lí hiệu quả tình huống nguy hiểm trong cuộc sống. Đó là kết quá của quá
trình được giáo dục từ gia đình, nhà trường và ý thức tu dưỡng rèn luyện nhân cách của
bản thân.( 0,5đ)
- Phê phán lối sống ích kỉ, vô cảm của một bộ phân thanh niên hiện nay. Hậu quả:
bị xã hội lên án, bạn bè xa lánh, xuống dốc đạo đức, vi phạm pháp luật…( 0,5đ)
Đề xuất phương hướng hành động: học tập và rèn luyện đạo đức, có kĩ năng
sống để xử lí tình huống thực tế… ( 0,5đ)
Lưu ý:
- Nếu thí sinh có những suy nghĩ, kiến giải riêng mà hợp lí thì vẫn được chấp nhận.
- Nếu thí sinh có kĩ năng làm bài tốt nhưng chỉ đi sâu bàn luận vào một vài khía cơ
bản thì vẫn đạt điểm tối đa.
- Không cho điểm những bài làm có suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực.
III. Làm văn (5,0 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng
- Thí sinh biết cách làm bài nghị luận văn học, đặc biệt là so sánh để tìm ra nét
tương đồng và dị biệt độc đáo của hai đoạn thơ.
- Vận dụng tốt các thao tác lập luận;
122
- Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp;
- Khuyến khích những bài viết sáng tạo.
2. Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở hiểu biết về 2 tác giả Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh, chương V
Đất Nước và bài thơ Sóng, thí sinh có thể phân tích và so sánh để phát hiện nét tương
đồng và dị biệt giữa 2 đoạn thơ như đề ra. Sau đây là một số gợi ý:
a/Vài nét về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm)
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Đất Nước thuộc chương V trong chín
chương của trường ca Mặt đường khát vọng, được sáng tác năm 1971 ở chiến khu Bình-
Trị-Thiên, là một trong những tác phẩm xuất sắc của thơ ca chống Mỹ. Đoạn thơ gồm 6
câu thuộc phần một của chương Đất Nước ( trích thơ)
- Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, được xem là một trong số
những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau năm 1975. Tình yêu
trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng; vừa hồn nhiên,
giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm suy tư. Sóng được sáng tác năm
1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào ( 1968), là một bài thơ tiêu biểu cho phong
cách thơ độc đáo của chị. Đoạn thơ gồm 6 câu thuộc phần giữa của bài thơ ( trích thơ)
b/Về đoạn thơ trong Đất Nước (1,5 điểm)
b.1/ Về nội dung (1,0 điểm): Định nghĩa nghệ thuật về Đất Nước
- Ở lần định nghĩa thứ nhất, cả Đất và Nước đều là không gian tồn tại rất thân thuộc,
rất riêng tư gắn bó của “anh” và “em”. Kết hợp chất liệu thực tế, diễn tả giản dị, cách giải
thích tỉ mỉ của nhà thơ khiến ta hình dung ra được một cách cụ thể: Đất Nước là con
đường, mái trường, dòng sông, bến nước…gắn bó thân thuộc với đời sống học tập, sinh
hoạt của con người. Đất nước còn gắn bó với những tình cảm riêng tư, chứng kiến tình
yêu lứa đôi với bao niềm thương, nỗi nhớ.
- Ở lần định nghĩa thứ hai, từ không gian gần gũi, Đất Nước trở nên xa xôi, mênh
mông như huyền ảo. Nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần linh trở thành Đất Nước của
nhân dân.Từ đó có thể hiểu rằng: Đất nước là núi, là rừng, là sông, là biển với tài nguyên
phong phú.
b.2/ Về nghệ thuật (0,5 điểm)
- Đọan thơ sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, với cấu
trúc ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…”, nhà thơ đã định nghĩa bằng cách
tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng.
- Giọng thơ trữ tình-chính luận
c/Về đoạn thơ trong bài Sóng (1,5 điểm)
c.1/ Về nội dung (1,0 điểm)
- Nhà thơ suy tư về nỗi nhớ của con sóng. Nỗi nhớ choáng ngợp cả không gian “
dưới lòng sâu – trên mặt nước”, trải dài theo thời gian “ ngày đêm không ngủ được”. Dù
ở bất kì đâu sóng cũng chỉ có một nơi để nhớ, để thương đó là bờ.
- Mượn hình tượng sóng nhớ bờ để diễn tả nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thoả, Xuân
Quỳnh còn bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ của mình một cách chân thành, bạo dạn “Lòng em
nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ tràn cả vào trong cõi vô thức.
c.2/ Về nghệ thuật (0,5 điểm)
123
- Lối điệp cú pháp kết hợp với hình thức đối lập: trên - dưới; ngày – đêm; thức -
ngủ…đã góp phần thể hiện một nỗi nhớ cháy bỏng, da diết của sóng với bờ hay cũng
chính là nỗi nhớ của người con gái khi yêu.
- Sóng là hình ảnh ẩn dụ. Đến khổ thơ này, em đã tách ra khõi sóng để diễn tả
chân thực nỗi nhớ lạ lùng, biểu hiện của lòng chung thuỷ của người con gái trong tình
yêu.
d/Về sự tương đồng và khác biệt (1,5 điểm)
- Tương đồng: Ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, hai thi phẩm, trong
đó có hai đoạn thơ đề hướng đến vẻ đẹp tình yêu đôi lứa. Nỗi nhớ không chỉ là xúc cảm,
là biểu hiện thường nhật trong tình yêu lứa đôi mà đó còn là vẻ đẹp của nhân tính, là
thước đo của một tình yêu thuỷ chung, son sắc. Mỗi đoạn thơ đều gồm 6 câu, thể
hiện cảm hứng lãng mạn, một trong những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai
đoạn 1945-1975. (0,5 điểm)
- Khác biệt: Ở Đất Nước, sử dụng thể thơ tự do, đậm đặc chất văn hoá dân gian, Đất
Nước được cảm nhận bằng tình lứa đôi, nghiêng về phía không gian riêng tư, khiến cho
việc lí giải Đất Nước trở nên gần gũi, thân thuộc, mới mẻ. Ở Sóng, với thể thơ ngũ ngôn
truyền thống, nhà thơ diễn tả trực tiếp tình cảm lứa đôi, thông qua nỗi nhớ của người con
gái vừa nồng nàn, vừa mãnh liệt . (0,5 điểm)
- Lí giải: (0,5 điểm)
+ Điểm giống nhau: Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Phải chăng vì thế
mà khi viết về tình yêu, cả Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh đều diễn tả nỗi nhớ da
diết, cháy bỏng đang trào dâng trong trái tim người con gái đang yêu.
+ Điểm khác nhau: Nguyễn Khoa Điềm viết về Đất Nước ở tuổi 28- tuổi trẻ
đầy nhiệt huyết và tình yêu nước thiết tha. Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng khi mới 25 tuổi
– cái tuổi đầy căng sự sống, dạt dào tình yêu. Vì vậy khi đối diện với sóng, chị như thấy
rõ tình yêu và nỗi nhớ đang trào dâng trong trái tim mình. Sự khác nhau giữa hai đoạn
thơ còn có thể lí giải bởi sự khác nhau về phong cách thơ của hai tác giả. Thơ Nguyễn
Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn nén xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm
tư của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Hồn thơ Xuân Quỳnh là một hồn
thơ giàu nữ tính, là lời tự hát khi hạnh phúc, lời tự bạch khi muốn bày tỏ.

ĐỀ SỐ II:
Câu 1 (2 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi :
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...
( Trích bài thơ Tâm sự- Tố Hữu)
1. Nêu những ý chính của văn bản.
2. Các từ ngữ: lầm chỗ, vô ý có hiệu quả nghệ thuật như thế nào?
3. Từ văn bản trên, viết đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về bài học rút ra qua nhân
vật Mỵ Châu trong truyện “An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thuỷ”?
124
Câu 2 (3 điểm) :Viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về Bí
quyết sống ở một tấm gương giàu nghị lực từ thông tin sau:
Vị giám đốc nhỏ nhất Việt Nam
Mặc dù sở hữu cái tên đầy tầm vóc nhưng Nguyễn Sơn Lâm chỉ cao chưa đầy 90
cm, nặng chưa được 30kg. Anh sinh năm 1982, tại Uông Bí - Quảng Ninh trong một gia
đình nghèo với bốn người con.
Khi sinh ra anh hoàn toàn khỏe mạnh và lành lặn như bao đứa trẻ khác. Nhưng từ
sau một tuổi, đôi chân của Lâm bắt đầu teo dần. Từ một cậu bé hoàn toàn có thể tự đứng
được, Sơn Lâm bắt đầu phải lê lết do bị ảnh hưởng chất độc da cam từ cha mình – một
người lính từng tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam bộ.
“Đến năm 5 tuổi, tôi bắt đầu gắn bó với đôi nạng, mặc dù để sử dụng thành thạo
'đôi chân' này tôi đã mất không ít máu và nước mắt, không ít lần gẫy chân, mẻ trán…
Nhưng ước mơ có thể tự đi lại đã khiến sau mỗi lần ngã, tôi lại tự mình đứng dạy và tiếp
tục tập luyện”, anh hồi tưởng lại những ngày đã qua.
…Bằng ý chí và nghị lực của bản thân, Nguyễn Sơn Lâm đã làm được những gì
mình đã nói. Từ tháng 6/2011, anh trở thành Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty CP
Đào tạo Tỏa sáng.
Giờ đây ngoài vai trò của một lãnh đạo doanh nghiệp, anh còn được nhiều người
biết đến là một diễn giả, người không ngừng thắp lên ngọn lửa đam mê sống và cống hiến
cho các bạn trẻ. Khi được hỏi về động lực sống khiến anh luôn tự tin và không ngừng
mang đến những điều tốt đẹp cho nhiều người, Sơn Lâm cười hiền đáp: Bí quyết của tôi
chỉ đơn giản là là trân trọng bản thân và yêu thương tất cả những người xung quanh. Tôi
luôn sống hết mình cho giây phút hiện tại.
( Theo Nguyễn Thắng http://dantri.com.vn ngày 11-10-2014)

Câu 3 (5 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ nói: Thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng. Trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật người đàn bà hàng chài nói:
Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được!
Cảm nhận của anh/ chị về hai câu nói của hai nhân vật này.

125

You might also like