You are on page 1of 243

ĐỀ CƯƠNG LỚP 12

ÔN THI
THPT QUỐC GIA, ĐẠI
HỌC
Môn Ngữ Văn
Năm 2022
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN VĂN 2022

MỤC LỤC TẬP 1 :


1. Các dạng đề ôn thi THPT quốc gia
2. Phân tích chuyên sâu các tác phẩm văn 12
MỤC LỤC TẬP 2 :
1. Bộ đề ôn thi theo tác phẩm
2. Một số bài văn hay của HS
TÀI LIỆU TẶNG KÈM :
1. Lý thuyết phần đọc hiếu văn bản
2. Lý thuyết NLXH 200 chữ
3. Tuyển tập nhũng đoạn văn MLXH 200 chữ đặc sắc ( sưu tầm )
CÁC DẠNG ĐỀ ÔN THI THPT QUỐC GIA
1. Phân tích, cảm nhận về một đoạn thơ/bài thơ:
BỔ CỤC NỘI DUNG CẨN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu bài thơ, đoạn thơ
- Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có ).

Thân bài 1. 1. Giới thiệu:


Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị đoạn thơ.
2. Phân tích, 2. Phân tích, cảm nhận:
cảm nhận: - Làm rõ nội dung và nghệ thuật. Chủ yếu sử dụng thao tác phân
tích, chứng minh.
(- Đặc biệt, dành sự quan tâm cho: hình ảnh thơ, chi tiết, hình
tượng, thể thơ, nhịp thơ, giọng điệu của đoạn thơ, ngôn ngữ,
thanh điệu, biện pháp tu từ...)
Lưu ý: Nếu đoạn thơ nằm ở vị trí giữa hoặc cuối bài thơ thì phải
tóm gọn nội dung các đoạn đứng trước. Dùng lời dẫn chuyển vào
đoạn cần nghị luận.
3. Bình luận, 3. Bình luận, đánh giá chung:
đánh giá chung: - Nhận xét, đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của
Kết bài: đoạn thơ. nhấn kết thúc:
Tạo điểm
- Đánh giá chung: Đoạn thơ góp phần làm nên thành công cho bài
thơ, cho sự nghiệp sáng tác của tác giả và cho nền văn học Việt
Nam.
2. Phân tích, cảm nhận về một trích văn xuôi:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tác phẩm, đoạn trích cần phân tích
- Dan dắt vào vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có ).
Thân bài 1. 1. Giới thiệu:
Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị đoạn trích.
2. Phân tích,
2. Phân tích, cảm nhận:
cảm nhận:
- Làm rõ nội dung vạ nghệ thuật. Chủ yếu sử dụng thao tác phân tích,
chứng minh.
(- Đặc biệt, dành sự quan tâm cho: sự kiện, sự việc, hình tượng nhân vật,
ngôn ngữ...)
Lưu ý: Nếu đoạn văn nằm ở vị trí giữa hoặc cuối bài thì phải tóm gọn
nội dung đoạn trước. Dùng lời dẫn chuyển vào đoạn cần nghị luận.
3. Bình luận, 3. Bình luận, đánh giá chung:
đánh giá - Nhận xét, đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn
chung: trích.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Đánh giá chung: Đoạn hích góp phần làm nên thành công cho tác
phẩm, cho sự nghiệp sáng tác của tác giả và cho nền văn học Việt Nam.
- Cảm nhận riêng của bản thân.
3. Nghị luận về tình huống truyện:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tên tác giả, tên tác phẩm
- Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu tình huống của truyện.
1. Giới thiệu: 1. Giới thiệu:
Thân bài - Tác giả:
+ Vị trí.
+ Phong cách sáng tác
-Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.

2. Ý khái quát: 2. Lý luận về tình huống truyện:


- Tình huống truyện là gì?
+ Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của
cấu trúc thể loại.
+ Tình huống truyện chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên
bởi một sự kiện đặc biệt, khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên
đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ
3. Phân tích, sắc nét nhất.
3. Phân tích tình huống:
chứng minh: Làm rõ mọi khía cạnh nội dung và nghệ thuật của tình huống
truyện.
+ Tình huống l....ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm.
4. Bình luận: - Ý nghĩa của tính huống truyện:
+ Góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng tác giả.
+ Khắc họa tính cách nhân vật.
+ Hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
“Giá trị: nó góp phần phản ánh giá trị hiện thực và thể hiện giá
trị nhân đạo của tác phẩm.
- Có thể liên hệ, so sánh với các tình huống truyện khác.
Kết bài: Tạo đi điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định tình huống truyện góp phần làm nên thành công của
tác phẩm.
- Cảm nhận riêng của bản thân.
4. Nghị luận về nhân vật văn học:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tên tác giả, tác phấrn
- Giới thiệu nhân vật.
- Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận

Thân bài 1. Giới 1. Giới thiệu:


thiệu: Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.

2. Phân tích,
2. Phân tích, chứng minh:
chứng minh:
Tùy vào nhân vật mà phân tích theo những nội dung sau:
- Lai lịch - xuất thân.
- Ngoại hình.
- Tài năng.
- Tâm lý - tính cách - Phẩm chất
3. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung :
- Vai trò của nhân vật: góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng
tác giả.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về nhân vật.
- Cảm nhận riêng của bản thân.
5. Nghị luận về giá trị hiện thực của tác phẩm văn học :
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I. Mở bài: - Giới thiệu tên tác giả, tác phẩm
- Dẩn dắt vào vấn đề.
- Nêu vấn đề: nêu giá trị hiện thực của tác phẩm.
II. Thân bài 1. 1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
Giới thiệu: - Tác giã:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích: 2. Giải thích:
- Giải thích khái niệm hiện thực:
+ Khả năng phản ánh trung thành đòi sống xã hội một cách khách
quan trung thực.
+ Xem trọng yếu tố hiện thực và lí giải nó bằng cơ sở xã hội lịch sử.
Biểu hiện của giá trị hiện thực trong tác phẩm?
+ Phản ánh đời sống xã hội lịch sử trung thực.
+ Khắc họa đời sống, nội tâm trung thực của con người.
+ Giá trị hiện thực có sức mạnh tố cáo (hay ca ngợi) xã hội, chế độ.
3. Phân tích, 3. Phân tích, chứng minh:
chứng minh: Các biểu hiện của giá trị hiện thực trong tác phẩm:

- Nhà văn lên án, tố cáo những gì, những thế lực nào gây đau khổ,
bất hạnh cho con người?
- Nhà văn phát hiện, phản ánh trung thực những phẩm chất, nét tốt
đẹp nào nơi nhân vật?
- Đồng tình với ước mơ, khát vọng giải phóng số phận nơi nhân
vật.
4. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung về giá trị hiện thực:
- Phản ánh trang thực.
- Góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng tác giả.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Cảm nhận riêng của bản thân.
6. Nghị luận về giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học :
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I. Mở bài: - Giới thiệu tên tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu giá trị nhân đạo của tác phẩm.
II. Thân bài: 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩrn:
1. Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích: 2. Giải thích:
- Giá trị nhân đạo là gì?
+ Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân
chính.
+ Nó được tạo nên bởi:
. Niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của con người,
. Lên án, tố cáo những thế lực gây đau khổ cho con người.
. Sự nâng niu, trân trọng của nhà văn về những nét đẹp trong tâm
hồn con người
3. Phân tích, 3. Phân tích, chứng minh:
chứng minh: Phân tích các biểu hiện của giá trị nhân đạo:
- Bênh vực và cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh con
người Tố cáo những thế lực gây đau khổ đối với con người.
- Trân trọng khát vọng tư do, hanh phúc và nhân phim tốt đẹp của
con người.
- Đồng tình với khát vọng và ước mơ con người.
4. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung về giá nhân đạo:
- Cái nhìn cảm thương và trân trọng của tác giả.
- Góp phần thể hiện tấm lòng nhân đạo tác giả.
II. Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
- Cảm nhận riêng của bản thân.
7. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I. Mở bài: - Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu ý nghĩa chung và dẫn ý kiến.
II. Thân bài 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
1. Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.

2. Giải thích: Giải thích ý kiến:


- Giải thích khái niệm (từng vế).
- Giải thích (nêu ý nghĩa) của cả ý kiến.
3. Phân tích, 3. Phân tích tác phẩm, đoạn văn, đoạn thơ để
chứng minh: chứng minh nhận định
- Phân tích làm rõ các khía cạnh của ý kiến.
- Chứng minh các khía cạnh của ý kiến.
Phần này HS lưu ý : không phân tích toàn bộ tác phẩm, mà chỉ tập
trung làm rõ vấn đề được nêu trong ý kiến, nhận định.
C ầ n l à m r õ : ý kiến trên đúng hay sai ? nếu đúng thì lấy dẫn
chứng trong tác phẩm để chứng minh, nếu sai thì cần chỉ rõ cái sai
4. Bình luận: của
Đánhý kiến, khẳng
giá, nhận xétđịnh quan
chung về điểm của cá nhân.
ý kiến:
- Ý kiến đã đầy đủ, thuyết phục chưa?
- Nếu chưa thì cần bổ sung những gì?
III. Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về giá trị của ý kiến.
- Bày tỏ quan điểm về ý kiến.
8. Nghị luận về một hình tượng, chi tiết nghệ thuật:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I. Mở bài - Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu hình tượng / chi tiết nghệ thuật.

Thân bài 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm.


1. Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ VỊ trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích:
- Hình tượng nghệ thuật là gì?
+ Hình tượng trong tác phẩm văn học được hiểu là các khách
thể đời sống được các nghệ sĩ tái hiện/sử dụng trong các tác
phấm nghệ thuật một cách sáng tạo.
- Chi tiết nghệ thuật là gì?
+ Là nhũng yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa
lớn về cảm xúc và tư tưởng.
+ Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm
thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc là nhờ chi tiết.
3. Phân tích, 3. Phân tích, chứng minh:
chứng minh: - Hình tượng/chi tiết nghệ thuật biểu hiện cụ thế như thế nào qua
đoạn trích/tác phẩm?
+ Hoàn cảnh dẫn tới chi tiết.
+ Mô tả lại chi tiết.
4. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung về hình tượng/chi tiết nghệ thuật.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định hình tượng/chi tiết nghệ thuật góp phần làm nên
thành công tác phẩm.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.

9. Nghị luận về một khía cạnh đoạn trích/tác phẩm văn học:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I. Mở bài - Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu khía cạnh (phương diện, yếu tốt về nội dung hoặc nghệ
thuật) của tác phẩm cần nghị luận
Thân bài 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
1. Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích: (nếu có)
3. Phân tích,
3. Phân tích, chứng minh:
chứng minh:
Làm rõ khía cạnh đó: thể hiện ở những phương diện nào trong
đoạn trích/tác phẩm?
4. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung về khía cạnh
III.Kết bài: - Khẳng định về khía cạnh
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.

10. Nghị luận so sánh văn học:


Dưới đây là cách triển khai vấn đề/dàn ý cho tất cả các dạng đề so sánh văn học, như: so sánh
đoạn thơ/bài thơ; so sánh đoạn trích/tác phẩm văn xuôi; so sánh hình tượng, chi tiết văn học;
so sánh nhân vật văn học; so sánh ý kiến bàn về văn học,....
BÔ CỤC NỘI DUNG CÀN ĐẠT
Mở bài - Dan dắt vào vấn đề (tìm điểm chung của hai đối tượng).
- Nêu các đối tượng cần so sánh.
Thân bài 1. Giới thiệu hai tác giả và hai tác phẩm
1. Giới thiệu:
2. Giải thích: Giải thích ý kiến, nhận định (nếu có), giải thích các khái niệm liên
quan đến vấn đề nghị luận
3. Phân tích, 3. Phân tích, chứng minh:
chứng minh: - Làm rõ nội dung và nghệ thuật đối tượng so sánh 1.
- Làm rõ nội dung và nghệ thuật đối tượng so sánh 2.
4. So sánh: 4. So sánh:
- Chỉ ra nét tương đồng giữa hai đối tượng.
- Chỉ ra nét khác biệt giữa hai đối tượng.
5. Bình luận: Lý giải sự tương đồng, khác biệt giữa hai đối tượng
(dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà tùng đối tượng
tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kỳ văn
học...)
III. Kết bài: - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.

11. Nghị luận hai ý kiến bàn về văn học


BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Dẫn dắt vào vấn đề .
- Nêu ý nghĩa chung của hai ý kiến và dẫn hai ý kiến (và
đoạn thơ hoặc đoạn văn).
II. Thân bài: 1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
1. Giới thiệu: - Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích: 2. Giải thích:
Giải thích hai ý kiến:
- Giải thích (nêu ý nghĩa) của ý kiến thứ nhất.
- Giải thích (nêu ý nghĩa) của ý kiến thứ hai.
3. Phân tích, chứng minh: 3. Phân tích, chứng minh:
Phân tích, chứng minh làm rõ các kliía cạnh của từng ý
kiến.
- Phân tích, chửng minh ý kiến thứ nhất.
4. Bình luận: 4. Bình luận:
Đánh giá, nhận xét chung về hai ý kiến:
- Mỗi ý kiến đã đầy đủ, thuyết phục chưa?
- Nếu chưa thì cần bố sung những gì?

Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thức:


- Khẳng định về giá trị của hai ý kiến.
- Bày tỏ quan điểm về ý kiến
12. Dạng đề liên hệ giữa hai tác phẩm
Về cơ bản, dạng đề liên hệ cũng nằm trong 11 dạng đề truyền thống, chỉ khác 1 điểm là sau
khi phân tích tác phẩm chính, học sinh liên hệ tới 1 tác phẩm khác có liên quan. Tác phẩm
chính phân tích sâu, tác phẩm phụ phân tích khái quát. Phần liên hệ nâng cao dành cho học
sinh khá giỏi với mục tiêu xét tuyển đại học. Những học sinh trung bình và yếu thì chỉ cần
phân tích ngắn gọn cho đủ cấu trúc bài làm. Dưới đây là cách làm dạng đề liên hệ. Phần in
đậm là điếm khác biệt so với dạng đề thông thường
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I.Mở bài - Giới thiệu hai tác phẩm, hai đoạn trích, hai nhân
vật…..cần phân tích.
- Trích dẫn ý kiến/nhận định
II. Thân bài: - Nêu vấn đề theo yêu cầu của đề bài Giới thiệu tác giả và
1. Giới thiệu: tác phẩm thứ nhất:
- Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
2. Giải thích: 2. Giải thích:
Giải thích các khái niệm Lý luận văn học (nếu có ) Giải
thích ý kiến/ nhận định (nếu có )
3. Phân tích, chứng minh: 3. Phân tích, chứng minh:
Phần này HS làm như các dạng đề thông thường
4. Liên hệ Giới thiệu tác giả và tác phẩm thứ
hai:
- Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
-Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.
Phân tích, so sánh, bình luận,....
những nội dung của tác phẩm thứ hai
theo yêu cầu của đề bài
5. Nhận xét: Nhận xét:
Đ á n h g i á , n h ậ n x é t c h u n g về v ấ n đ ề
liên hệ
-Điểm giống và khác ?
- Có thế lí giải nguyên nhân nếu đề
III. Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về giá trị của h a i t á c p h ẩ m
-Bày tỏ quan điểm về vấn đề liên hệ

Phần 2: NỘI DUNG


PHÂN TÍCH CẲC TÁC PHẨM TRỌNG TÂM KÌ THI THPT QG 2020
BÀI 1 : TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Hồ Chí Minh)
Phần 1 : Tác giả
1. Quan điểm sáng tác của Hồ CM Minh (HCM)
+ Về nhà văn: Trong thời đại bão táp cách mạng, HCM đã quan niệm nhà văn không
thể đứng ngoài công cuộc giải phóng dân tộc của đất nước mà “phải biết xung phong, phải trở
thành “một người chiến sĩ’. Trong bức thư gửi cho một triển lãm hội họa, HCM đã khẳng
định: “Văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ phải là chiến sĩ
trên mặt trận ấy”.
+ Về tác phẩm: Trong những tác dụng của văn chương, HCM đặc biệt đề cao
vai trò của văn chương trong việc tuyên truyền, cổ động, ca ngợi những tấm gương
anh hùng hay nói cách khác đó chính là vai trò để trở thành một thứ vũ khí sắc bén
phục vụ cho cách mạng. Trong cảm tượng đọc Thiên gia thì Người đã khẳng định:
‘Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong ”.
Trước khi viết bất cứ một tác phẩm nào, Người luôn đặt ra bốn câu hỏi: viết
cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Và viết như thế nào? Nghĩa là tùy vào đối tượng và
mục đích mà tác phẩm hướng đến sẽ lựa chọn nội dung và hình thức sao cho phù hợp.
Về nội dung của một tác phẩm văn học Người đặc biệt đề cao tính chân thực, hiện thực
đồng thời phê phán thứ văn học giả dối, bịa đặt. về hình thức nghệ thuật, Người đề cao
tính trong sáng, dễ hiểu để phù hợp với đông đảo quần chúng nhân dân.
+ Về bạn đọc: đối tượng bạn đọc mà Người hướng đến là tất cả các tầng lớp
trong xã hội, đặc biệt là công - nông - binh.
—» Quan điểm sáng tác của HCM rất tiến bộ và phù hợp với thời đại cách
mạng.
2) Các sáng tác văn học của HCM
Khái quát: HCM đã để lại một sự nghiệp văn học vô cùng đồ sộ, rực rỡ và giàu
giá trị. Sự nghiệp văn học của Người chia thành ba bộ phận lớn:
- Văn chính luận:
+ Tác phẩm chính: Bản án chế độ Thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
+ Giá trị: văn chính luận của HCM rất ngắn gọn, súc tích với hệ thống luận
điểm chặt chẽ, logic, lý lẽ sắc sảo, đanh thép, dẫn chứng xác thực, điển hình, giọng
điệu hào hùng...Bằng những tác phẩm chính luận mẫu mực của mình, HCM đã tố cáo
đanh thép tội ác của thực dân Pháp, đã tuyên ngôn dõng dạc về nền độc lập của Việt
Nam, đã khơi dậy tinh thần đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam...Văn chính luận
của Người giữ một vai trò đặc biệt quan trọng vì nó luôn gắn liền với nhũng bước
ngoặt của lịch sử.
- Truyện kí
+ Truyện ngắn: tiêu biểu có Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu,
Lời than vãn của bà Trưng Trắc….Đây là những truyện ngắn được viết bằng tiếng Pháp.
Trong những truyện ngắn này, HCM đã xây dựng được những tình huống truyện độc đáo,
những nhân vật sống động, điển hình. Người sử dụng bút pháp hiện, đại với văn phòng vừa
nhẹ nhàng vừa hóm hỉnh.
+ Ký: Tiêu biểu có tập ký Vừa đi đường vừa kể chuyện. Trong tác phẩm này, HCM đã
làm nổi bật hình tượng cái tôi của chính mình nưng không phải là cái tôi vĩ đại mà là cái tôi
rất đỗi đời thường, giản dị, cái tôi trẻ trung, hồn nhiên, luôn say mê hoạt động, hết lòng yêu
quý những con người vô danh, giản dị.
Thơ ca:
+ Thơ tuyên truyền: C A S Ợ I C H Ỉ , C A M A Y Á O , C O N C Á O V À T Ổ
O N G . . . Đ Â Y là những bài thơ HCM sáng tác để truyền tải một nội dung, tư tưởng hay một
yêu cầu của cách mạng. Những bài thơ này có hình thức nghệ thuật đơn giản, nội dung dễ
hiểu, có khả năng, tác động mạnh đến tư tưởng quần chúng nhân dân.
+ Thơ nghệ thuật: Nhật ký trong tù và một số bài thơ sáng tác trong giai đoạn Người
ở Việt Bắc như C Ả N H K H U Y A , R Ằ M T H Á N G G I Ê N G , T I N T H Ắ N G T R Ậ N . . . Trong
những sáng tác này, HCM chủ yếu sử dụng thể thơ tứ tuyệt cổ điển, kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cổ điển và hiện đại, hiện thực và lãng mạn, thép và tình, đằng sau những bài thơ có giá
trị nghệ thuật rất cao là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ rất tinh tế và nhạy cảm.
3) Phong cách nghệ thuật của HCM
Phong cách nghệ thuật của HCM: có thể gói gọn trong ba từ phong phú, đa dạng và
thống nhất.
+ Phong phú, đa dạng: sự nghiệp sáng tác của HCM bao gồm nhiều thể loại khác
nhau từ truyện kí, thơ ca, văn chính luận đến những bài ca, bài vè, thơ chúc tết.. .khi thì Người
viết bằng chữ Hán, khi thì Người viết bằng chữ quốc ngữ, khi thì sử dụng tiếng Pháp. Trong
mỗi một thể loại, Người lại hình thành cho mình một phong cách riêng, một lối viết riêng.
. Văn chính luận: Người đặt tính chính xác và tính thuyết phục lên hàng đầu để chọn
lối viết ngắn gọn, xúc tích...
. Truyện kí: Người sử dụng lối viết hiện đại khi viết cho người khác đọc, lối viết
truyền thống khi viết cho đồng bào mình. Các truyện của Người đều tạo được tình huống
truyện độc đáo, xây dựng được nhân vật sắc sảo, sống động, giọng điệu hóm hỉnh...
. Thơ ca: .. .phần 2
+ Tính thống nhất: mặc dù ở mỗi một thể loại Người đều tạo cho mình một phong
cách riêng nhưng tựa chung lại sác tác của Người vẫn có nhũng điểm thống nhất ở các đặc
điểm văn bản sau: tác phẩm nào của Người cũng được xây dựng nên từ bốn câu hỏi, các tác
phẩm của Người đều hướng đến tính trong sáng, dễ hiểu, ngắn gọn gắn với sự linh hoạt trong
bút pháp; các hình tượng trong sáng tác của Người luôn có sự vận động để đi từ bóng tối đến
ánh sáng, từ hiện tại đến tương lai.
PHẦN 2 : TÁC PHẨM
I. Khái quát
1. Hoàn cảnh ra đời:
Hoàn cảnh rộng: Đến Tháng 8/1945 chiến tranh thế giới thứ hai đã đi đến hồi kết
thúc, trong đó thắng lợi đã thuộc về phe Đồng minh. Đây chính là cơ hội ngàn năm có một để
mặt trận Việt Minh lãnh đạo nhân dân ta giành độc lập sau đó tuyên ngôn độc lập vì lúc này
phát xít Nhật ở Việt Nam đã rất suy yếu. Tuy nhiên, ngay trong cơ hội ngàn năm có một này
cụng đã tiềm ẩn nguy cơ vì sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc các nước lớn thuộc
phe đồng minh trong đó có Anh, Pháp, Mỹ đang muốn phân chia lại thị trường thế giới, nếu
chúng ta không nhanh chóng vận dụng cơ hội để tuyên ngôn độc lập thì chắc chắn Anh
và Mĩ sẽ tạo điều kiện cho Pháp quay trở lại Việt Nam.
Hoàn cảnh hẹp: Đến cuối tháng 8/1945, cuộc cách mạng tháng Tám của nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt minh đã giành được thắng lợi vang
dội ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam với rất ít tổn thất. Điều kiện này khiến cho nhân
dân cả nước vô cùng mong mỏi một văn kiện - tuyên ngôn quyền độc lập của dân tộc
và quyền tự do cho nhân dân, chấm dứt thân phận nô lệ của họ trong hơn một nghìn
năm.
—>Như vậy, cả hoàn cảnh quốc tế và hoàn cảnh trong nước đều đặt ra một đòi
hỏi cấp thiết là phải nhanh chóng có một văn kiện lịch sử trọng đại để tuyên ngôn về
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Không ai khác chính HCM là người đã gánh lấy
sứ mệnh vừa thiêng liêng, trọng đại vừa nặng nề này. Tại căn nhà số 48, hàng Ngang,
HCM đã soạn thảo tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình,
trước toàn thế quốc dân đồng bào Người đã dõng dạc đọc bản tuyên ngôn độc lập để
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
2. Vị trí, ý nghĩa:
Ý nghĩa lịch sử: tuyên ngôn dộc lập là một văn kiện chính trị trọng đại tuyên
bố chấm dứt một nghìn năm của chế độ phong kiến, hơn tám mươi năm của chế độ
thực dân nửa phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do, hạn
phúc cho dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập của HCM là bản Tuyên ngôn độc lập lần
thứ ba.
Ý nghĩa văn học:
+ Với HCM, Tuyên ngôn độc lập là một trong những tác phẩm tiêu biểu và
quan trọng nhất trong sư nghiệp sáng tác của Người. Tác phẩm này đã khẳng định một
trí tuệ lớn, một tầm vóc lớn, một nhân cách lớn của HCM.
+ Với ván học dân tộc, Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là áng văn chính luận mẫu
mực của mọi thời đại.
II. Đọc - hiểu
1.Đối tượng, mục đích cảu bản tuyên ngôn
Đối tượng
+ Toàn thể quốc dân, đồng bào.
+ Nhân dân thế giới và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
+ Bọn thực dân đế quốc đang lăm le quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Mục đích:
+ Trịnh trọng tuyên bố với thế giới nền độc lập của Việt Nam đồng thời khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
+ Đập tan tất cả các luận điệu xảo trá, bịp bợm của bọn thực dân đế quốc.
2. Bố cục và hệ thống luận điểm:
Bản tuyên ngôn độc lập chia thành ba phần:
+ Phần 1: Từ đầu —> Không ai chối cãi được: xác lập cơ sở pháp lý cho nền độc
lập của Việt Nam.
+ Phần 2: Từ Thế mà —> chế độ dân chủ cộng hòa: đưa ra cơ sở thực tế cho
nền độc lập Việt Nam.
+ Phần 3: Còn lại: lời tuyên ngôn.
—> HCM đã tạo cho bản tuyên ngôn một bố cục cân đối, mạch lạc, rõ ràng.
Cùng với bố cục, Người đã tạo ra một hệ thống luận điểm logic, chặt chẽ, thuyết
phục, trong đó phần 1 và phần 2 vừa có quan hệ đồng đẳng vừa có quan hệ bổ sung và giữa
phần 1 và phần 2 với phần 3 có quan hệ nhân quả.
3. Phân tích tuyên ngôn:
Khái niệm văn chính luận: là thể văn bàn về các vấn đề chính trị - xã hội nhằm thuyết
phục người đọc, người nghe có cùng quan điểm với người viết để tạo nên tính thuyết phục
văn chính luận thường sử dụng:
+ Bố cục: cân đối, mạch lạc.
+ Luận điểm: logic, chặt chẽ.
+ Lý lẽ: đanh thép, sắc sảo.
+ Dẫn chứng: xác thực, điển hình.
+ Ngôn từ: Trong sáng, dễ hiểu.
+ Giọng điệu: linh hoạt trong đó rất hay được sử dụng là hào hùng, hào sảng.
+ Hình ảnh: không cần quá nhiều hình ảnh như văn nghệ thuật nhưng nếu dùng đúng
lúc, đúng chỗ sẽ đem lại hiệu quả cao.
—> Tất cả những đặc điểm này của văn chính luận đều được thể hiện một cách mẫu
mực trong Tuyên ngôn độc lập của HCM.
a) Phần một:
Khái quát: Để có thể khẳng định quyền độc lập của Việt Nam trước hết HCM đã xác
lập một cơ sở pháp lý chắc chắn để làm nền tảng.
Người đã trích dẫn những nội dung quan trọng nhất trong hai bản tuyên ngôn: “Tuyên
ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776” và “Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Pháp năm
1791”. Nhìn trên bề mặt thao tác trích dẫn này của Người tưởng như rất đơn giản nhưng trên
thực tế đó là sản phẩm của một trí tuệ lớn bởi việc trích dẫn này đã đem đến rất nhiều ý nghĩa
quan trọng:
+ Hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và của Mỹ từ lâu đã được cả nhân loại thừa
nhận như những bản tuyên ngôn độc lập vĩ đại nhất, đúng đắn nhất, hơp lý nhất. Có thể xem
hai bản tuyên ngôn này là tinh hoa của tri thức, của văn học nhân loại. Bởi vậy, khi trích dẫn
hai bản tuyên ngôn này Người đã tạo nên một cơ sở khách quan đầy tính thuyết phục cho nền
độc lập của Việt Nam. Neu đem so sánh với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất là Nam quốc
sơn hà thì sẽ thấy từ việc sử dụng một căn cứ còn mang đậm màu sắc duy tân, chủ quan là
“thiên thư” (sách trời) đén căn cứ khách quan được cả thế giới thừa nhận của HCM là cả một
bước tiến dài.
+ Người trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ chứ không phải của bất cứ quốc
gia nào khác trên thế giới còn bởi một dụng ý rất sâu sắc và thâm thúy. Người đã dùng chính
những lý lẽ, những tư tưởng của người Pháp, người Mĩ để ràng buộc khiến chúng không thể
chối cãi được. Để có thể tạo nên những lời bất hủ trong hai bản tuyên ngôn này thì người dân
Pháp, Mỹ, trong lịch sử cũng đã phải đổ rất nhiều mồ hôi, công sức, máu xương. Bởi vậy, nếu
chúng sang xâm lược Việt Nam nghĩa là đã chà đạp lên, đã đi ngược lại công sức, máu xương
của tổ tiên mình. Đây thực chất chính là lối đánh ‘lấy gậy ông, đập lưng ông” vô cùng thâm
thúy và sâu sắc.
+ Hơn nưa, Pháp và Mỹ là những cường quốc trên thế giới, bởi vậy khi dùng
tuyên ngôn của hai cường quốc này để khẳng định quyền độc lập của Việt Nam Người
lại nâng cao tầm vóc, vị thế của dân tộc. Đã đặt Việt Nam sánh ngang với các cường
quốc trên thế giới, đã để cách mạng Tháng Tám của ta sánh ngang với những cuộc
cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử của nhân loại, đó không gì khác chính là ý thức tự
hào, tự tôn dân tộc.
+ Ngoài ra, việc Người vận dụng một cách hợp lý, thuyết phục kho tàng tri
thức của nhân loại đã đập tan luận điệu xảo trá, bịp bợm của thực dân Pháp khi cho
rằng người dân Việt Nam là An nam mít - những người dân Việt Nam ngu dốt. Người
đã chứng tỏ người Việt Nam không những không ngu dốt mà còn rất thông thái, mẫn
tiệp.
+ Việc Người trích dẫn nguyên văn những nội dung quan trọng của hai bản
tuyên ngôn này và đặt ở vị trí đầu tác phẩm thể hiện rõ sự tôn trọng, trân trọng mà
HCM dành cho tinh hoa tri thức của hai nước Pháp, Mỹ nhưng đằng sau sự trân trọng
này là thái độ răn đe, cảnh tỉnh một cách nghiêm khác. Điều đó đã cho thấy sách lược
chính trị vừa mềm dẻo, khôn khéo vừa kiên quyết của HCM. Sách lược này được
Người sử dụng một cách nhất quán trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Như vậy, chỉ bằng một thao tác tưởng như rất đơn giản là trích dẫn hai bản
tuyên ngôn của Pháp, Mỹ Người đã đặt nền móng vững chắc về pháp lý cho nền độc
lập của Việt Nam.
Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã cho thấy tầm hiểu biết sâu rộng của HCM
nhưng trí tuệ lớn của Người còn được thể hiện rõ hơn khi từ nội dung của hai bản
tuyên ngôn này Người đã suy rộng ra, cả hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều
xoay quanh quyền được tự do, hạnh phúc, bình đẳng của con người. HCM đã dựa vào
đó để mở rộng, nâng cao thành quả được bình đẳng, được độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới. Điều HCM suy
rộng ra đã cho thấy Người không chỉ vận dụng mà còn có khả năng làm giàu, làm
phong phú thêm cho kho tàng tri thức của nhân loại. Điều này có ý nghĩa vô cùng to
lớn không chỉ với việc khẳng định quyền độc lập của Việt Nam mà còn có ý nghĩa với
tất cả các dân tộc; thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới. Việc cách mạng tháng Tám
thành công và đặc biệt là việc ra đời bản tuyên ngôn độc lập của HCM có nghĩa như
mội phát súng lệnh để sau đó phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước Á, Phi;
Mỹ La tinh đã diễn ra một cách liên tiếp và mạnh mẽ.

b) Phần hai:
Khái quát: sau khi xác lập có sở pháp lý HCM tiếp tục chỉ ra cơ sở thực tế cho
nền độc lập của Việt Nam. Về phía Pháp, Người lần lượt đập tan các luận điệu xảo trá,
bịp bợm của chúng để chỉ rõ dã tâm xâm lược xấu xa, độc ác. Còn về phía Việt Nam,
Người đã chứng minh sức mạnh và vị thế của nhân dân ta đế cho thấy nhân dân ta
không chỉ có quyền mà còn có đủ khả năng để giành độc lập dân tộc.
b.l) Đập tan mọi Iuận xảo trá, bịp bợm của thực dân Pháp
b1.1) Đập tan mọi luận điệu xảo trá, bịp bợm của thực dân Pháp
Đối tượng mà tuyên ngôn độc lập của HCM hướng đến không chỉ là nhân dân cả
nước, nhân dân thế giới mà còn là bè lũ thực dân đế quốc đang lăm le xâm lược Việt Nam.
Bởi vậy, bản tuyên ngôn còn là một cuộc đấu trí để Người vạch trần, đập tan tất cả những luận
điệu xảo trá, bịp bợm của thực dân Pháp. Để che đậy dã tâm xâm lược Việt Nam, Phá đã
tuyên bố với thế giới rất nhiều chiêu bài giả dối như đến Việt Nam để khai hóa, đến Việt Nam
để bảo hộ. Ngoài ra, chúng còn khẳng định chúng thuộc phe đồng minh và Việt Nam là thuộc
địa của Pháp. Tất cả những luận điệu này đều bị HCM đập tan bằng sức mạnh của văn chính
luận.
* Với luận điệu Pháp đến Việt Nam để khai hóa:
Một trong những chiêu bài được Pháp sử dụng từ những ngày đầu đến xâm lược Việt
Nam cho đến ngày cuối cùng chính là chiêu bài khai hóa. Chúng rêu rao với thế giới ràng
Pháp đến Việt Nam là để đem đến ánh sáng của văn minh, văn hóa, là để làm cho cuộc sống
của người dân Việt Nam tốt đẹp hơn. Nhung HCM đã bình tĩnh, chủ động bóc trần luận điệu
này bằng hai vũ khí rất lợi hại của văn chính luận là lý lẽ và dẫn chứng. Người đã tố cáo tội ác
của Pháp trên tất cả các phương diện từ chính trị đến kinh tế, từ văn hóa đến giáo dục. Đây là
một hệ thống lý lẽ toàn diện. Việc để những cụm từ “về chính trị, về kinh tế” lên đầu đoạn
này khiến lý lẽ của Người trở nên rõ ràng và sắc sảo hơn. Trong từng lĩnh vực Người lại sử
dụng nghệ thuật liệt kê để đưa ra rất nhiều những dẫn chứng. Đó đều là những dẫn chứng xác
thực, điển hình và giàu sức nặng. Cụ thể (trên ba mặt mỗi mặt lấy hai dẫn chứng). Bằng các
dẫn chứng này Người đã cho thấy mức độ chồng chất của tội ác, vừa cho thấy sự độc ác, dã
man của Pháp trên mặt chính trị, sự tham lam vô độ của chúng trên mặt kinh tế và sự thâm
độc của chúng trên mặt văn hóa, xã hội.
Dễ nhận thấy những đoạn văn Người dùng để tố cáo tội ác của thực dân Pháp được
người kết cấu theo cùng một kiểu cấu trúc, đều được bắt đầu bằng từ “chúng” và sau đó là
liên tiếp các dẫn chứng nói về tội ác. Các câu văn, đoạn văn trùng điệp lên nhau tạo nên một
giọng tố cáo vừa đanh thép, vừa hùng hồn.
Cùng với giọng điệu là sức mạnh của ngôn từ, từ đầu đến cuối Người nhất quán gọi
thực dân Pháp là “chúng” thể hiện thái độ căm ghét, khinh bỉ; còn với nhân dân ta Người sử
dụng các cách gọi “đồng bào ta, nhân dân ta, những người yêu nước thương nòi của ta”.
Những cách gọi này thể hiện rõ thái độ yêu thương, trìu mến.
Văn chính luận không phải là thể văn cần đến quá nhiều hình ảnh ướt át, cầu kỳ hay
gợi cảm nhưng neu biết chọn lọc thì sẽ đem đến hiệu quả rất cao. HCM đã tạo được một hình
ảnh như thế: đó chính là hình ảnh “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu”, hình ảnh “bể máu” mà Người tạo ra thực sự tạo nên được nỗi ám ảnh về sự tàn bạo, độc
ác, phi nhân tính của thực dân Pháp cũng như cho thấy nỗi đau tận cùng mà nhân dân Việt
Nam phải trải qua.
Một trong những yếu tố làm nên sức thuyết phục cho tuyên ngôn độc lập của HCM
còn là thái độ của Người khi viết. Rõ ràng, để tìm được những con số, những minh chứng cho
tội ác của thực dân Pháp thì không phải chỉ trong tuyên ngôn độc lập mới có nhưng điểm khác
biệt là ở chỗ Người không nhìn, không viết bằng con mắt lạnh lùng, khách quan như nhà chép
sử mà viết bằng nỗi đau thống thiết của người dân mất nước.
Bởi vậy, tuyên ngôn dộc lập của Người có khả năng làm lung dộng hàng triệu hàng triệu
con tim, khối óc của người dân Việt Nam.
—> Bằng những thế mạnh của văn chính luận Người đã bóc trần chiêu bài khai hóa
của thực dân Pháp để cho thấy sự xấu xa, tham lam độc ác của chúng.
* Với luận điệu Pháp đến Việt Nam để bảo hộ: cùng với chiêu bài khai hóa, Pháp còn tự
nhận mình là “mẫu quốc” có vai trò bảo hộ cho Việt Nam. Nhưng HCM cũng đã rất tỉnh
táo để đập tan và bóc trần luận điệu này.
Người tiếp tục sử dụng thế mạnh của văn chính luận là dẫn chứng xác thực,
điển hình. Người đã đưa ra hai sự kiện cụ thể là “Mùa thu năm 1940 và ngày 9/3 năm
nay” (tức năm 1945). Đây đều là hai sự kiện gắn với việc Pháp đầu hàng một cách
nhục nhã trước Nhật, bỏ mặc nhân dân ta trong tình thế nguy hiểm. Hai dẫn chứng này
đi kèm với các mốc ngày, tháng, năm cụ thế cho thấy tính chính xác, điển hình để tạo
nên sức thuyết phục cho tuyên ngôn độc lập.
Từ những bằng chứng cụ thể không thể chối cãi được, Người đã dùng lối tư
duy quy nạp chặt chẽ, logic để đưa ra lập luận sắc sảo: “Thế là chẳng những chúng
không bảo hộ được ta trái lại, trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.
Chỉ trong một câu văn, Người đã sử dụng tới ba quan hệ từ “thế là, chẳng những, trái
lại”, những quan hệ từ này khiến cho lập luận của Người trở nên kín kẽ, sắc sảo hơn.
Có thể nói, đây chính là lời khắng định, rõ ràng, đanh thép để đập tan luận điệu đến
Việt Nam để bảo hộ của thực dân Pháp.
Ngoài ra, HCM còn khai thác sức mạnh của giọng điệu, hai cãu văn có cùng
một
Kiểu cấu trúc: “từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích.. .từ đó dân ta càng cực khổ,
nghèo nàn” và đặc biệt là con số “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói” mà Người đưa
ra đã tạo nên một giọng điệu thống thiết để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Những
câu văn ấy như chứa đựng đầy máu và nước mắt của nhân dân Việt Nam.
* Với luận điệu Pháp thuộc phe đồng minh: lợi dụng tình thế chiến tranh thế giới thứ hai đã
đi đến đến hồi kết thúc trong đó phần thắng thuộc về phe đồng minh, thực dân Pháp
luôn rêu rao chúng thuộc phe đồng minh để kiếm cớ quay trở lại xâm lược Việt Minh.
Nhưng bằng sự sắc sảo, chủ động, HCM đã đập tan luận điệu này bằng cách chứng
minh chúng đã phản bội phe đồng minh một cách trắng trợn để tiếp tay cho bọn phát
xít.
Để tạo nên tính thuyết phục, Người đã sử dụng các dẫn. chứng rõ ràng, minh
bạch được ghi chép lại trong sử sách. Ngoài việc chúng đã “bán nước ta hai lần cho
Nhật” vào “mùa Thu năm 1940 và ngày 9/3/1945” thì sự phản bội của thực dấn Pháp
với phe đồng minh còn được thể hiện rõ khi chúng thẳng tay killing bố, đàn áp mặt
trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh của Việt Nam được thành lập chính là để ủng hộ
phe đồng minh trên thế giới. Bởi vậy, việc Pháp không những không liên minh chống
phát xít rnà còn khủng bố Mặt trận Việt Minh cho thấy luận điệu mà chúng đưa ra chỉ
là một sự bịp bợm.
Để tô đậm hơn vào sụ: phản bội trắng trợn của thực dân Pháp, HCM đã sử dụng
một hình ảnh giàu sức gợi: “Bọn thực dân Pháp qùy gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật”, các từ “quỳ gối, rước” đã tô dậm vào sự nhục nhã, đê hèn, sự yếu đuối,
bạc nhược của Pháp íxước phát xít Nhật. Điểu đó khiến cho bản chất phản bội phe
đồng minh của Pháp càng lộ rõ hơn. bao giờ hết.
* Với luận điệu Việt Nam là thuộc địa của Pháp: khi những luận điệu của Pháp lần lượt bị
bóc trần, chúng vẫn ngoan cố cho rằng Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp nên chúng có
quyền quay trở lại Việt Nam. Đứng trên tư thế của người chiến thắng, một lần nữa HCM đã
đập tan luận điệu này bằng giọng điệu chắc nịch, hào hùng. Hai câu văn “Sự thật là từ mùa
thu năm 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chức không phải là thuộc địa của Pháp
nữa” và “sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
Tiếp tục trùng điệp về mặt cấu trúc để tạo nên sự tầng bậc. Cụm từ “sự thật là” đặt ở đầu hai
câu văn thể hiện rất rõ dụng ý tô đậm, nhấn mạnh. Tất cả đã tạo nên một giọng điệu vô cùng
hào hùng, hào sảng.
Như vậy, bằng những lý lẽ sắc sảo, bằng những dẫn chứng điển hình, bằng giọng điệu
hào hùng và một vài hình ảnh giàu sức gợi, HCM đã đập tan tất cả các luận điệu xảo trá, bịp
bợm của thực dân Pháp để cho thấy chúng không còn bất cứ một tư cách nào trên đất Việt
Nam.
b. 2) Khẳng định sức mạnh và vị thế của nhân dân Việt Nam và Mặt trận Việt Minh
Khái quát: Việc đập tan mọi luận điệu của thực dân Pháp đã góp phần căn bản để xác
lập cơ sở thực tế cho nền độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào cơ sở này thì nền
độc lập của Việt Nam mới chỉ giống như một thứ có may từ bên ngoài. Bởi vậy, sau đó HCM
còn chỉ ra sức mạnh, vị thế của mặt trận Việt minh nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung
để cho thấy dân ta không chỉ có cơ hội mà hoàn toàn có đủ khả năng để giành độc lập.
Trước hết là lời khẳng định chắc nịch của Người về sức mạnh to lớn của Mặt trận
Việt minh, HCM không tô vẽ, kể lể nhiều mà dồn nén thông tin cao độ để dồn nén chặt trong
một câu văn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chỉ một câu văn rất ngắn nhưng
Người đã khái quát được toàn bộ sức mạnh to lớn của người dân Việt Nam khi đồng thời nhân
dân ta đã thực hiện được ba nhiệm vụ vĩ đại của lịch sử là đánh đổ thực dân Pháp (Pháp chạy),
phát xít (Nhật hàng) và thành trì hơn một nghìn năm của chế độ phong kiến (vua Bảo Đại
thoái vị). Những cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại cũng thường chỉ giải
quyết được một trong những nhiệm vụ này, nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Mặt trận
Việt minh đã đồng thời giải quyết được ba nhiệm vụ trọng đại. Đó là điều rất đáng tự hào.
Không chỉ khẳng định sức mạnh, Người còn khẳng định tư cách và vị thế của nhân
dân Việt Nam khi chứng minh cách ứng xử vô cùng nhân văn mà người Việt Nam dành cho
Pháp. Mặc dù thực dân Pháp đối xử với nhân dân ta vô cùng tàn bạo, “khi thua chạy chúng
còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”, nhưng nhân dân ta vẫn
giữ một thái độ khoan hồng, nhân đạo. Trong tình thế khốn cùng của Pháp khi bị Nhật đảo
chính, nhân dân Việt Nam còn giúp cho Pháp chạy qua biên thùy, bảo vệ tính mạng và tài sản
cho họ. Cách hành xử nhân văn ấy đã cho thấy nhân dân ta hoàn toàn có quyền trở thành
những người dân tự do của một đất nước độc lập.
Chỉ bằng một dung lượng rất ngắn gọn, HCM đã từng bước xác lập cơ sở thực tế cho
nền độc lập của Việt Nam. Mỗi câu văn của Người đều hàm xúc và chắc nịch, nó hàm chứa
trong đó sức mạnh của cả trí tuệ, của cả lý trí và tình yêu thương dành cho nhân dân, tổ quốc.
c) Phần ba: Lời tuyên ngôn
Khái quái: sau khi đã có đầy đủ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế, HCM đã thay
mặt cho toàn thể nhân dân Việt Nam đưa ra lời tuyên ngôn trịnh trọng, dõng dạc. Ở phần này
Người đã phát huy tối đa vai trò, sức mạnh của giọng điệu trong văn chính luận.
Trước tiên, Người đã tuyên ngôn xóa bỏ mọi quan hệ và đặc quyền, đặc lợi của
Pháp trên đất Việt Nam, cụm từ “Bởi thế cho nên, chúng tôi lâm thời Chính phủ của
nước Việt Nam mới” được Người khắng định một cách đàng hoàng, đĩnh đạc, cho thấy
sự ngang hàng bình đẳng giữa Việt Nam và Pháp. Chỉ trong một câu văn, Người đã
huy động tới ba phủ định từ : “thoát li hẳn, xóa bỏ hết, xóa bỏ tất cả” đế tạo nên giọng
phủ định quyết liệt, triệt để. Bằng cách này, Người đã cho cả thế giới thấy Việt Nam
không còn bất cứ một sự ràng buộc nào với Pháp và chúng không còn bất cứ lý do nào
để ở lại trên đất Việt Nam.
Trong một bản tuyên ngôn độc lập thì nội dung quan trọng nhất không gì khác
chính là tuyên ngôn quyền độc lập. Bởi vậy, sau khi tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với
Pháp, Người đã dõng dạc tuyên ngôn quyền được độc lập của Việt Nam, Người đã rất
khôn khéo khi ràng buộc dư luận, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế khi viết: “Chúng tôi
tin rằng, các nước đồng minh đã công nhận các nguyên tắc bình đắng ở các hội nghị
Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nhân
dân Việt Nam”. Ở đoạn này, trên bề mặt Người thể hiện sự tin tưởng, trông mong
nhưng thực chất đó chính là sự ràng buộc của Người với Pháp và Mỹ vì các hội nghị
tại Têhêrăng và Cựu Kim Sơn đều có tiếng nói to lớn của Pháp và Mỹ. Bởi vậy, khi
chúng đã công nhận quyền độc lập cho các dân tộc khác thì không thể không công
nhận nền độc lập của Việt Nam. Sau đó, Người đã dõng dạc tuyên bố: “Một dân
tộc...phải được độc lập”, đây chính là đoạn văn hào hùng, hào sảng nhất trong bản
tuyên ngôn. Các câu, các vế câu trùng điệp lên nhau tạo nên một giọng tuyên ngôn
sảng khoái, dõng dạc. HCM đã rất có dụng ý khi sử dụng từ “phải” chứ không phải
nên, cần hay muốn. Bằng từ này, Người đã cho thấy độc lập dự do không chỉ là mong
muốn, là khát vọng của dân tộc Việt Nam mà nó trở thành một chân lý, một sự thật
hiển nhiên không thể chối cãi được.
Không chỉ tuyên ngôn độc lập, Người còn thay mặt toàn thể nhân dân Việt
Nam tuyên bố quyết tâm bảo vệ nền độc lập “Toàn, thể dân tộc Việt Nam, quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền độc lập ấy”. Bằng
nghệ thuật liệt kê, Người đã chỉ ra tất cả sức mạnh vật chất cũng như tinh thần của dân
tộc Việt Nam để cho thấy nhân dân Việt Nam sẵn sàng huy động tất cả, hi sinh tất cả
để giữ cho được nền tự do, độc lập. Đằng sau lời tuyên ngôn hào hùng, hào sảng này
chính là lời răn đe, cảnh tỉnh nghiêm khắc của Người với bè lũ thực dân, đế quốc đang
lăm le quay trở lại xâm lược Việt Nam. Tuyên ngôn này không chỉ đúng với thời điểm
năm 1945 mà đúng với mọi thời đại. Bởi thế, sau này trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, Người lại khẳng định: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giữ cho
được độc lập, tự do”, lời tuyên ngôn của Bác chính là sự nối tiếp của hồn thiêng sông
núi, nốt tiếp từ những vần thơ hào sảng của Lý Thường Kiệt!
“Cớ sao lũ giặc sang xâm lược
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời ”
Chính bởi vậy, những lời tuyên ngôn hào hùng của Bác không chỉ làm cho muôn triệu
trái tim Việt Nam trong này 2/9/1945 cảm thấy sung sướng, tự hào mà còn là lời tuyên ngôn
của muôn đời sau.
BÀI 2 : TÂY TIẾN
(Quang Dũng)
TRỌNG TÂM:
1. Hình tượng người lỉnh Tây Tiến
2. Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên
3. Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng
I Khái quát:
1. Tác giả:
a) Cuộc đời:
Quang Dũng (1921 - 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm.
Ông là một người nghệ sĩ đa tài, ngoài làm thơ, viết văn ông còn có khả năng vẽ tranh
và sáng tác nhạc, điều này khiến cho thơ ông rất nhiều chất nhạc và chất họa.
Quang Dũng sống trọn vẹn trong thế kỷ XX, cùng đất nước đi qua những biến động
dữ dội là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Thời đại này khiến cho ông rất
thành công về đề tài chiến tranh và người lính.
Sinh ra ở Hà Tây nhưng thời gian đi học ông chủ yếu sống ở Hà Nội bởi vậy Quang
Dũng mang trong mình tất cả cái tài hoa, tinh tế, lãng mạn của người Hà Thành.
Quang Dũng đã có những năm tháng sống cuộc đời của một người chiến sĩ, chính
khoảng thời gian quý giá này khiến cho Quang Dũng có những trải nghiệm trực tiếp về cuộc
sống và chiến đấu của người chiến sĩ để sau này ông viết được những câu thơ rất chân thực .
b) Sự nghiệp
Sự nghiệp sáng tác của ông đã đi theo quy luật “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” bởi vậy
tuy sáng tác của Quang Dũng không nhiều, chỉ gồm một tập thơ chính là “Mây đầu ô” và một
vài tập truyện kí nhưng Quang Dũng đã để lại được những thi phẩm độc đáo và đặc sắc cho
văn học Việt Nam.
Phong cách: Quang Dũng đã hình thành cho mình một phong cách riêng không lẫn
với các nhà thơ khác đó là vừa hồn nhiên, tinh tế vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng,
đậm chất lãng mạn.
2. Tác phẩm
N g u ồ n g ố c x u ấ t x ứ : ra đời năm 1948, nằm trong tập “Mây đầu ô”.
H o à n c ả n h ra đ ò i : Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947, hoạt động
chủ yếu ở vùng Tây Bắc của Việt Nam và Thượng Lào. Nhiệm vụ chủ yếu của binh đoàn là
vừa đánh, vừa làm tiêu hao sinh lực địch, vừa tuyên truyền cho cách mạng. Thành phần chủ
yếu của binh đoàn là thanh niên Hà Nội với nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau, Quang Dũng
címg Niính Jà mộ í í rong nhung uguời có mặt trong binh đoàn Tây Tiến ngay từ buổi đầu.
Khoảng thời gian Quang Dũng gắn bó với bình đoàn Tây Tiến là khoảng thời gian rất gian
khổ vì họ không chỉ phải đối mặt với bom đạn mà còn phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng
quái ác và những thiếu thốn về vật chất. Tuy nhiên, đây cũng là khoảng thời gian có ý nghĩa
nhất trong cuộc đời ông. Bởi vậy, đến cuối năm 1948, Quang Dũng phải quay trở về miền
xuôi đế nhận nhiệm vụ khác, ông đã mang trong mình nỗi nhớ khôn nguôi, da diết dành
cho mảnh đất Tây Bắc và binh đoàn Tây Tiến để viết bài thơ này.
Ngay sau khi ra đời, bài thơ được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi bạn đọc và
đặc biệt là những người chiến sĩ. Nhung sau đó vì bị coi là còn rơi rớt lại cái buồn, cái
mộng của người trí thức tiểu tư sản nên trong một khoảng thời gian dài bài thơ ít được
nhắc đến. Phải đến thời kỳ đổi mới, bài thơ mới được nhìn nhận lại và khôi phục vị trí
xứng đáng trong văn học Việt Nam.
Vị trí, ý nghĩa: với Quang Dũng đây chính là bài thơ quan trọng nhất thể hiện
rõ hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa. Với văn học Việt Nam đây được coi là
bài thơ hay nhất trong thế kỷ XX.
II. Đọc - hiểu
1. Cảm xuất chủ đạo
Bản chất của thơ là trữ tình, bởi vậy cái hay, cái duyên của một bài thơ trước
khi thể hiện ở ngôn từ, hình ảnh nó phải xuất phát từ cảm xúc của tác giả. Tùy vào độ
mãnh
liệt, độ chân thành, độ thiết tha trong cảm xúc mà tác giả sẽ tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ
của mình.
Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ chính
bằng nỗi nhớ vừa bâng khuâng, vừa tha thiết, vừa mãnh liệt, nỗi nhớ này chảy tràn,
xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phấm.
Biểu hiện của nỗi nhớ:
+ Dạng thức trực tiếp: trước khi có tên là Tây Tiến bài thơ này đã được tác giả đặt
tên là Nhớ Tây Tiến, nhan đề này đã thể hiện rất rõ cảm xúc chủ đạo trong bài thơ. Ngoài
nhan đề, trong bài thơ có bốn lần Quang Dũng sử dụng chứ “nhớ”, mỗi lần xuất hiện
chữ “nhớ” lai gắn với một đối tượng và một sắc thái khác nhau:
“ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi ”
Ngay từ đầu bài thơ tác giả đã đưa vào hai chữ “nhớ”, với cách ngắt nhịp 4/3, hai chữ
“nhớ” trở thành hai nốt nhấn trong câu thơ. Chữ “nhớ” thứ nhất cho biết đối tượng của nỗi
nhớ chính là “rừng núi”, hình ảnh này đã gợi ra mảnh đất Tây Bắc xa xôi, hiểm trở nhưng đó
cũng đồng thời là không gian của chiến tranh. Điều đó khác hẳn với nỗi nhớ manh màu sắc cá
nhân, riêng tư của các nhà thơ mới. Nỗi nhớ của Quang Dũng chính là sự hòa trộn giữa cảm
xúc, tâm sự cá nhân với tình yêu dành cho đất nước, cho tổ quốc, Chữ “nhớ” thứ hai lại gợi ra
sắc thái “chơi vơi’ là một từ láy tượng hình gợi ra sự mơ hồ, không xác định gắn với sắc thái
bồng bềnh, lan tỏa. Có thể khiến nổi nhớ ở đây không dữ dội, nóng bỏng mà nhẹ nhàng, tha
thiết, sâu lắng gắn với hình ảnh “rừng núi” ở vế trước, hoàn toàn có thể hình dung nỗi giống
như một màn sương mỏng, bồng phủ kín núi rừng Tây Bắc.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”
Lần thứ ba xuất hiện ở trong bài nỗi nhớ của tác giả lại gắn với hình ảnh của những
nồi xôi mới tỏa hương thơm ngát, gắn với tình cảm mà những người nông dân dành cho chiến
sĩ cách mạng, nỗi nhớ này được gắn với thán từ “ôi” cho thấy sắc thái trào dâng mãnh liệt, câu
thơ bật lên như một tiếng gọi thiêng liêng.
“Có nhớ dáng người trên độc mộc ”
Lần thứ tư xuất hiện trong bài thơ nỗi nhớ gắn với hình ảnh gần gũi, mộc mạc của
người dân Tây Bắc trên con thuyền độc mộc. Nỗi nhớ lần này xuất hiện trong dạng thức câu
hỏi tạo nên sắc thái khắc khoải, day dứt, câu thơ giống như lời tác giả tự nhắc, tự hứa với lòng
mình để không bao giờ nguôi quên những kỷ niệm về Tây Bắc.
+ Dạng thức gián tiếp: ngoài nhũng lần xuất hiện trực tiếp có thể thấy toàn bộ các
hình ảnh, các chi tiết trong bài thơ đều được sáng tạo thông qua nỗi nhớ và bằng nỗi nhớ bởi
khi sáng tác bài thơ này Quang Dũng không còn được gắn bó với mảnh đất Tây Bắc và đoàn
binh Tây Tiến mầ chỉ có thể trở về bằng hoài niệm.
Tác dụng của nỗi nhớ :
+ Nỗi nhớ trong bài thơ chính là chất men say để đốt lên thi hứng mãnh liệt của tác
giả và cũng chính là chất men để cuốn hút người đọc.
+ Ngoài ra, nỗi nhớ còn có ý nghĩa liên kết tất cả các hình ảnh, các chi tiết thành một
thể thống nhất.
+ Nỗi nhớ thể hiện rất rõ tình yêu, sự trân trọng, biết ơn mà Quang Dũng dành cho
mảnh đất Tây Bắc và đồng đội.

2. Phân tích
* Bố cục: 4 phần
Khổ 1: Hồi tưởng về những con đường hành quân của người lính Tây Tiến Khổ 2:
Những kỷ niệm gắn với người dân Tây Bắc.
Khổ 3: Bức chân dung người lính Tây Tiến Khổ 4: Lời hứa, lời thề của tác giả
a) Khổ 1
Khái quát: Những ký ức đầu tiên của Quang Dũng về mảnh đất Tây Bắc và đoàn binh
Tây Tiến chính là những kí ức về những con đường hành quân rất dài, rất khó khăn, rất nguy
hiểm nhưng cũng rất đỗi nên thơ lãng mạn. Hình ảnh của những con đường hành quân chính
là phông nền, để tác giả khéo léo thể hiện những đặc điểm, phẩm chất của người lính Tây
Tiến.
- Hai câu thơ mở đầu là điểm nhìn của nhà thơ, là nơi xuất phát cảm xúc đó là nỗi
nhớ, điểm nhìn từ hiện tại mà nhớ về quá khứ, nhớ về những kỉ niệm một thời đã qua của thời
chiến tranh. Bởi vậy mà hai câu thơ mở đầu vang lên như một tiếng gọi tha thiết, nó thể hiện
tâm trạng nhớ nhung da diết của nhà thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của tác giả hướng về một vùng đất cụ thể, gắn liền với sông Mã. Đó là con
sông chảy qua vùng Tây Bắc của Tổ quốc, nơi ấy cũng chính là địa bàn hoạt động của đoàn
binh Tây Tiến năm xưa, nơi ấy người lính đã đặt dấu chân của mình trên những nẻo nường
hành quân. Ở đó họ đã sống, chiến dấu và hi vọng. Trong hoài niệm, tác giả còn nhắc tới một
cái tên “Tây Tiến” - cái tên gắn bó với tác giả, gắn bó với những người lính tiền chiến. Đó là
trung đoàn chủ lực, những chàng trai trẻ tuổi mười tám đôi mươi. Họ sống, chiến đấu với một
lý tưởng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Nơi ấy Quang Dũng đã từng gắn bó, cùng sống với
đồng đội ngay cả những lúc vui mừng hạnh phúc và những lúc bị thương nhất. Song, nơi ấy
đã lùi vào quá khứ, nơi ấy chỉ còn lại những hoài niệm. Bởi vậy mà nhắc đến nơi ấy, tác giả
sống trong nỗi nhớ “chơi vơi”:
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình được một cách cụ thể, cũng không
nhớ một hình ảnh cụ thể mà dường như tất cả nhũng kỉ niệm ùa về cùng một lúc tạo
cho tác giả chơi vơi giữa hai bờ hiện thực và quá khứ. Nỗi nhớ “chơi vơi” còn là một
nỗi nhớ sâu sắc. Nó cho ta thấy những kỉ niệm sâu trong tâm hồn của tác giả. vần “ơi”
gợi cho ta cảm xúc và nỗi nhớ như da diết hơn, gợi ta nhớ tới câu ca dao: “Ra về nhớ
bạn chơi vơi
Nỗi nhớ đã tạo cảm xúc chủ đạo xuyên suốt, bao trùm cả không gian, thời gian
và nó như một cây cầu đưa từ hiện tại trở về quá khứ. Bởi vậy mà trong nỗi nhớ,
Quang Dũng đã tái hiện lại chiến tranh hoàn cảnh về thiên nhiên và con người Tây
Bắc.
Dễ nhận thấy trong khố thơ đầu Quang Dũng đã đưa rất nhiều địa danh: Mai
Châu, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Sông Mã. Sự nối tiếp của
những địa danh này tự nó đã tạo hình những con đường hành quân rất dài, chạm đến
những miền đất hoang sơ, heo hút nhất của Tổ quốc. Đặt vào hoàn cảnh khi ra đời của
bài thơ, khi mảnh đất Tây Bắc và những địa danh này còn rất xa lạ với phần lớn người
dân miền xuôi thì sự xuất hiện của những địa danh này còn có tác dụng kích thích trí tò
mò của người đọc, tạo cho người đọc hứng thú ngay từ những câu thơ đẩu.
Đặc điểm nổi bật và rõ nét nhất của những cuộc hành quân mà người lính Tây
Tiến phải trải qua là sự khó khăn, gian khố, hiếm. nguy.
+ Những khó khăn, vất vả trước hết do điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt
ở Tây Bắc dem lại:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Cũng nói đến sương nhưng đó không phải là thứ sương long lanh, lãng mạn,
đẹp đẽ thường thấy được miêu tả trong văn học:
“Sương trắng rõ đầu cành như giọt sữa ” (Đoàn Cừ)
Mà đó là thứ sương mù, sương muối võ cùng dày đặc, Sương phủ kín núi rừng che lấp
cả đường hành quân nên tác giả đã gọi là “sương lấp”, chính cái khắc nghiệt, buốt giá của thời
tiết đã khiến cho bước chân của người lính Tây Tiến trở nên nặng nề, mỏi ixiêt mà tác giả đã
miêu tả rất chân thực ià “đoàn quân mỏi”
+ Yếu tố mang đến nhiều khó khăn, nguy hiếm nhất cho người lính Tây Tiến chính là
địa hình gập ghềnh, hiểrn trở của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng đã sử dụng tới ba câu thơ rất
giàu giá trị tạo hình để dựng lên trước mắt người đọc bức tranh hùng vĩ, sừng sững, hiểm trở
của núi rừng Tây Bắc, Tác giả đặc tả những con dốc dựng đứng đầy nguy hiểm:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thăm.”
Trong một câu thơ ngắn nhà thơ đã sử dụng tới hai từ láy rất giàu giá trị tạo hình là
“khúc khuỷu” và “thăm thẳm” để vẽ ra trước mắt người đọc những con dốc vừa gồ ghề, lồi
lõm, gập ghềnh vừa sâu hun hút như không có điểm dừng. Hơn nữa, cách ngắt nhịp 4/3 của
câu thơ với hai chữ “dốc”đứng đầu hai nhịp tạo ra cảm giác con dốc này chưa hết con dốc
khác đã hiện ra. Con dốc cứ nối tiếp nhau như vậy cho đến lúc vươn đến những đỉnh núi cao
nhất, tác giả đã vẽ ra một hình ảnh ấn tượng:
“Heo hút cồn mây, súng ngửi trời ”
Hình ảnh “Cồn mây” đã vẽ ra những đỉnh núi cao trơ trọi quanh năm có mây bao phủ,
bản thân hình ảnh này đã gợi ra được sự vắng vẻ, lạnh lẽo lại được kết hợp thêm với từ láy
“heo hút” để tạo nên cảm giác rợn ngợp. Hành quân trên những con dốc ấy khẩu súng trường
trên vai người chiến sĩ như chạm cả vào trời xanh, những con dốc lên đã hết sức đáng sợ,
nhưng những con dốc xuống còn đáng sợ và nguy hiểm hơn. Câu thơ:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống ”
Câu thơ sử dụng tiểu đối, đặc biệt là với dấu phẩy nằm giữa câu thơ đã bẻ đôi câu thơ
về hai phía, vẽ ra một đường gấp khúc ngoạn mục để cho thấy những con dốc lên dựng đứng
bao nhiêu thì những con dốc xuống cũng bất ngờ đổ ập xuống theo chiều thẳng đứng bấy
nhiêu. Rõ ràng, bằng tài năng của mình Quang Dũng đã kết hợp thi với họa để đem đến cho
người đọc cảm giác chân thực khi đứng trước một vùng rừng núi trùng điệp, hùng vĩ ẩn chứa
đầy hiểm nguy.
+ Cùng với thời tiết, địa hình, những chàng thanh niên đến từ mảnh đất Hà Nội mộng
mơ, lãng mạn còn phải đối mặt với thiên nhiên đầy hoang dã, bí ẩn của mảnh đất Tây Bắc.
Hai từ “chiều chiều” và “đêm đêm” vẽ ra những khoảng thời gian thường xuyên, liên tục. Neu
với địa hình hiểm trở người lính đã phải đối mặt với cái khó khăn trên trục không gian thì với
thiên nhiên hoang dã, bí ẩn của Tây Bắc những khó khăn, nguy hiếm còn bày ra trên trục thời
gian. Điều đó khiến người đọc có cảm giác những khó khăn, nguy hiểm bày ra ở mọi lúc, mọi
nơi. Tác giả đã sử dụng một hình ảnh và một âm thanh để làm nổi rõ tính chất của Tây Bắc,
âm thanh trấn động dữ dội của những con thác vẽ ra một khung cảnh âm u, huyền bí của vùng
ma thiêng nước độc, có hình ảnh “cọp trêu người” gợi ra nỗi ám ảnh khiếp sợ về loài mãnh
thú luôn rình rập, đe dọa cuộc sống yên bình của người dân Tây Bắc cũng như bước chân của
người lính Tây Tiến. Thiên nhiên vừa hoang dã, vừa bí ẩn, vừa ẩn chứa nhiều nguy hiểm thực
sự cũng là một trở ngại lớn với những người chiến sĩ Tây Tiến.
Những con đường hành quân gian lao, trắc trở, hiểm nguy vất vả mà Quang Dũng vẽ
lên một cách chân thực chính là phông nền để làm nổi bật lên nhưng phẩm chất của ngươi lính
Tây Tiến. Dù mới chỉ thấp thoáng xuất hiện nhưng người lính Tây Tiến đã hiện lên với một tư
thế hiên ngang: “súng ngửi trời”, đây chính là một trong nhũng hình ảnh độc đáo nhất mà
Quang Dũng sáng tạo ra trong bài thơ. Động từ “ngửi” không chỉ nhân hóa khiến cho hình
ảnh cây súng ưở nên sống động mà quan trọng hơn còn thể hiện được giọng điệu tinh nghịch,
lém lỉnh đậm chất lính. Giữa vô vàn khó khăn, khắc nghiệt, bằng sự dũng cảm, bản lĩnh của
mình họ đã vượt lên trên hoàn cảnh để thể hiện tư thế hiên ngang làm chủ đất trời. Sự hiên
ngang cứng cỏi của họ còn được thể hiện rõ nét hơn trong cách họ đối diện với cái chết. Mặc
dù là một nhà thơ lãng mạn nhưng không vì thế Quang Dũng né tránh hiện thực, ông đã đưa
váo thơ mình cả những mảng h i ệ n t h ự c g a i góc, xù xì nhất khi ghi lại hình ảnh những
người chiến sĩ đã phải nằm lại trên đường hành quân. Nói đến cái chết, sự mất mát là nói đến
cái bi nhưng ở đây không phải là bi lụy, bi ai mà là bi tráng, với người lính cái chết chỉ
nhẹ nhàng giống như một giấc ngủ;
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Để làm được điều này rõ ràng người lính Tây Tiến đã mang trong mình bản
lĩnh, cốt cách của những bậc đại trương phu ngày trước, coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng.
Bên cạnh tính chất chủ đạo là sự gian khổ khắc nghiệt, Quang Dũng đã khéo
léo đan cài, điểm xuyết vào những chi tiết nên thơ, lãng mạn đe ở một góc khác người
đọc vẫn nhận thấy con đường hành quân rất đỗi nên thơ, trữ tình của người lính Tây
Tiến.
+ Ngay sau cái khắc nghiệt, cái buốt giá của khí hậu Tây Bắc, tác giả đã gieo
vào lòng người đọc cảm giác nhẹ nhàng, ấm áp bằng hình ảnh:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi ”
Câu thơ vẽ ra khung cảnh người lính hành quân trong đêm đến một bản nhỏ để
nghỉ ngơi, khói từ những ngọn đuốc mà họ mang theo hòa lẫn với sương tạo thành một
“đêm hơi” bồng bềnh, huyền ảo. Hình ảnh “hoa” tự nó đã đem đến cảm giác đẹp đẽ,
tươi tắn lại được đặt trong một kết hợp từ độc đáo “hoa về” khiến cho người đọc có
cảm giác thiên nhiên như quấn quýt với từng bước chân của người chiến sĩ. Câu thơ
với 6/7 là thanh bằng tạo nên cảm giác lâng lâng, nhẹ nhàng, êm ái khó tả.
+ Ngay sau cái trập trùng, cái hùng vĩ của địa hình Tây Bắc, tác giả lại đem
đến cảm giác bình yên, sự cân bằng với một nét bút tài hoa:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ”
Cả câu thơ tác giả đều sử dụng thanh bằng tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, bâng
khuâng, da diết, người lính hành quân trên những sườn non cao, trong khoảnh khắc
nghỉ ngơi họ ngước mắt nhìn ra xa đế ghi lại hình ảnh giản dị của vài nếp nhà sàn ấn
hiện trong màn mưa bang bạc, khung cảnh giản dị không cầu kỳ tạo nên cảm giác bình
yên, thư thái. Đó cũng chính là điếm tựa cho người lính Tây Tiến.
+ Sau cái hoang dã, bí ấn của thiên nhiên Tây Bắc, tác giả đã gieo vào lòng
người đọc cảm giác dịu ngot bằng hình ảnh:
“Nhớ ôi Tãy Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”
Cái hấp dẫn mà hai câu thơ làm toát lên không chỉ ở hương vị của những nồi xôi mới
dẻo thơm mà còn bởi tình quân dân ấm áp mà người dân Tây Bắc dành cho người lính Tây
Tiến, hai chữ “mùa em” tiếp tục là một sáng tạo độc đáo của Quang Dũng về ngôn từ gián
tiếp cho thấy cái nhìn tình tứ, đắm say mà người lính Tây Tiến dành cho những cô gái trẻ
người dân tộc thiếu số.
Dù chỉ là những nét đan cài, hòa quyện vào giữa những chi tiết đậm chất hiện thực
nhưng những nét vẽ mềm mại, tươi tắn, đẹp đẽ này của Quang Dũng lại rất có ý nghĩa bởi nó
khiến cho hiện thực được nhắc đến dù rất chân thực nhưng không khiến cho người đọc có
cảiĩi giác khiếp sợ trọng hơn nó đã hé lộ phần nào tâm hồn mộng mơ, lãng mạn, đầy cảm xúc
của người lính Tây Tiến.
b)Khổ hai:
Khái quát: Sau hồi tưởng về những con đường hành quân, Quang Dũng tiếp tục để
cho miền ký ức của mình trở nên đầy ắp với những kỷ niệm ấm áp mà người lính Tây Tiến đã
có trong khoảng thời gian gắn bó với nhân dân Tây Bắc. Trong chuỗi những kỷ niệm, nhà thơ
đã chọn lấy hai kỷ niệm thiêng liêng nhất, đáng quý nhất là những đêm liên hoan và cảnh
chiều sương Châu Mộc.
* K ỷ n i ệ m v ề n h ữ n g đ ê m l i ê n h o a n : Chỉ bằng bốn câu thơ
Quang Dũng như đã đưa người đọc đến một thể giới khác từ thế giới của những cuộc hành
quân gian khổ, khắc nghiệt đến một thế giới lung linh rực rỡ của màu sắc, của âm thanh, của
ánh sáng. Hình ảnh những đêm liên hoa mà tác giả vẽ ra vừa như ở cõi thực vừa như ở cõi
mơ.
- Ánh sáng: Tác giả đã khiến cho những đêm liên hoan trở nên đẹp đẽ, rực rỡ nhờ ánh
sáng của những bó đuốc mà tác giả gọi là “hội đuốc hoa”. Bằng ánh sáng này, cái lạnh lẽo đặc
trưng của những đêm dài trên Tây Bắc đã bị xua tan, thay thế vào đó là một không khí ấm áp.
Cũng bằng ánh sáng này những doanh trại quân đội hàng ngày thiếu thốn, kham khổ đã trở
nên đẹp đẽ, lung linh đầy màu sắc, ánh sáng từ những bó đuốc đã mở ra một thế giới của sự
huyền ảo, lãng mạn.
- Âm thanh: cùng với ánh sáng rực rỡ của những bó đuốc là âm thanh rộn ràng, náo
nức của tiếng “khèn”. “Khèn” là một nhạc cụ quen thuộc, phổ biến của đồng bào các dân tộc
thiếu số ở miền núi phía Bắc, âm thanh của tiếng khèn vừa có cái hoang dã, vừa có cái phóng
khoáng như chính con người nơi đây, âm thanh ấy như rót mật vào cả cảnh vật và hồn người
để âm thanh ấy trở nên khiến tất cả trở nên say mê, náo nức.
- Con người: âm thanh, ánh sáng đã tạo thành một bức phông nền đẹp đẽ để trên đó
xuất hiện hình ảnh trung tâm của bức tranh chính là nhũng người thiếu nữ đồng bào các dân
tộc thiểu số. Bình thường họ mang vẻ đẹp hồn hậu, giản dị như những bông hoa đồng nội của
núi rừng nhưng trong những đêm liên hoan họ bất ngờ hiện ra với vẻ đẹp kiều diễm của xiêm
y lộng lẫy khiến tất cả mọi người ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Nhưng họ cuốn hút tất cả mọi người
không phải chỉ bằng vẻ đẹp của dung nhan kiều diễm mà còn bằng những điệu nhảy, điệu
múa vừa mềm mại, uyển chuyển vừa tình tứ, e ấp, đắm say.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp ”
Tác động của bức tranh đến tâm hồn người lính Tây Tiến:
Dễ nhận thấy từ cảnh vật đến con người trong những đêm liên hoan đều mang một vẻ
đẹp rực rỡ, tươi sáng đầy sức sống, không khí của đêm liên hoan đã tác động rất mạnh đến
tâm hồn, cảm xúc của những người lính Tây Tiến. Bản thân họ đã là những chàng trai mang
trong mình tâm hồn mộng mơ, lãng mạn nay lại được tiếp xúc với vẻ đẹp của xứ lạ, phương
xa, vẻ đẹp của những sắc màu vàn hóa nên họ đi từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng (thể hiện rất rõ qua
từ “kìa”) đến chỗ say mê, cuốn hút (từ “bừng” không chỉ diễn tả được ánh sáng của những bó
đuốc mà còn cho thấy ngọn lửa bừng lên trong mắt người chiến sĩ) và cuối cùng là tâm hồn họ
như chứa đầy nhạc và thơ:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đằng sau những đêm liên hoan vui tươi, náo nức chính là vẻ đẹp của nghĩa tình quân
dân ấm áp, chính tình cảm ấy đã tiếp thêm cho người lính ý chí, nghị lực, niềm tin. Đã trở
thành điểm tựa tinh thần để người lính có thể vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
* Cảnh chiều sương Châu Mộc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dâng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Nếu những đêm liên hoan đem đến niềm vui, sự phấn khởi, niềm say mê cho
người lính Tây Tiến thì cảnh sông nước miền Tây lại gieo vào trong lòng họ một nỗi
buồn man mác và sự lưu luyến bịn rịn.
- Không gian, thời gian: là một buối chiều sương bên một dòng sông. Không
gian - thời gian ấy tạo nên một vẻ đẹp bảng lảng, mơ hồ đầy chất lãng mạn nhưng
cũng thấm đượm một nỗi buồn man mác bởi trong văn học, buổi chiều chính là thời
điểm để gợi buồn, gợi nhớ nhất; còn không gian bến sông luôn là không gian quen
thuộc của những buổi chia ly.
- Cảnh vật: Trong rất nhiều thiên nhiên, cảnh vật của núi rừng Tây Bắc, Quang
Dũng đặc biệt nặng lòng với hình ảnh của những cây lau xào xạc vi vút hai bên bờ
sông. Điều đặc biệt là ở chỗ tác giả không ghi lại dáng lau, hình lau mà ghi lại “hồn
lau”, ở hình ảnh này tác giả của Tây Tiến đã có sự gặp gỡ với Chế Lan Viên khi Chế
Lan Viên đã từng cảm nhận rất tinh tế:
“Ngàn lau cười trong nang
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trang. ”
Hình ảnh hồn lau của Quang Dũng cho phép hiểu theo các cách khác nhau. Có
thế hiểu những cây lau mang trong mình toàn bộ tình cảm, nỗi nhớ thương của mảnh
đất Tây Bắc, chúng vi vút, xao xác hai bên bờ sông như muốn níu giữ bước chân của
người ra đi, nhưng cũng có thể hiểu, là sự lưu luyến bịn rịn không muốĩl ròi xa của
người lính Tây Tiến đã khiến m ộ t p h ầ n tâm hồn họ nằm lại nơi mảnh đất này
trong những bông lau xao xác, bâng khuâng. Dù hiếu như thế nào thì hình ảnh
này cũng mang không khí man mácbuồn của buổi chia. tay.
- Con người: nối bật trên không gian, cảnh vật là hình ảnh con người Tây Bắc,
dễ nhận thấy khác với bức hanh đêm liên hoan rực rỡ, tươi sáng, tất cả các nét vẽ của
Quang Dũng đều rất mảnh, rất mờ: dòng sông thì đặt trong buổi “chiều sương”, lau cũng
chỉ được miêu tả với “hồn lau” và đến con người thị cũng chỉ là một nét vẽ phác
thảo “dáng người”. Cũng chính vì lối vẽ mơ hồ, huyền ảo này mà hình ảnh thơ trở nên đa
nghĩa. Gắn với dòng nước lũ cuồn cuộn và con thuyền độc mộc khỏe khoắn có thể hiểu đây
là dáng người, khỏe khoắn, rắn chắc của một chàng trai Tây Bắc. Tuy nhiên, đặt trong
dòng cảm hứng lãng mạn xuyên suốt trong bài thơ và đặc biệt là hình ảnh mềm mại của
“hoa đong đưa” ở câu dưới thì sẽ hợp lý hơn khi hiếu đây là dáng người mánh mai,
thanh thoát của. người thiếu nữ Tây Bắc. Quang Dũng cũng tiếp tục sáng tạo ra một hình
ảnh độc đáo “hoa đong đưa”, “đong đưa” chứ không phải là đung đưa, vì nếu là đung đun
thì chỉ là sự chuyển động bẽn ngoài cha hoa trên sóng nước, còn “đong đưa” lại gián tiếp
cho thấy ánh nhìn lúng liếng, tình tứ và cũng đầy lưu luyến của những người., thiếu nữ
Tầy Bắc.
Từ đường nét đến màu sắc, từ cảnh yật đến con người trong buổi chiều sương đều chỉ
hiện lên mơ hồ, bàng bạc như bức tranh mực tàu thời cổ. Cách nói “có thấy, có nhớ” tạo nên
giọng khắc khoải, da diết. Bức tranh ấy, không khí ấy đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi để
giữa chốn phồn hoa đô hội tác giả vẫn gửi lòng mình lên Tây Bắc để tràn lên một nỗi nhớ
quặn thắt, khôn nguôi.
c) Khổ ba
Khái quát: Phần thiêng liêng, quan trọng nhất trong miền kí ức của Quang Dũng chính
là phần kí ức hướng về đoàn binh Tây Tiến. Bằng bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi
tráng, Quang Dũng đã chạm nổi trong văn học Việt Nam bức tượng đài sừng sững về người
lính Tây Tiến từ diện mạo, ngoại hình bên ngoài đến khí phách, bản lĩnh bên trong, từ tâm
hồn đến lý tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh anh dũng.
Về d i ệ n m ạ o , n g o ạ i h ì n h : ngay từ đầu đoạn thơ Quang Dũng đã đem
đến cho người đọc cảm giác thú vị khi vẽ ra bức chân dung có phần kì dị, lạ thường của người
lính Tây Tiến. Hình tượng người lính vốn không phải một hình tượng lạ trong văn học nhưng
chưa bao giờ người đọc được thấy cả một đoàn quân trọc đầu với nước da xanh như “màu lá”.
Đằng sau vài nét phác thảo về diện mạo, ngoại hình của người lính, Quang Dũng đã mở ra cả
một hiện thực khó khăn, khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng
chiến này, người lính không chỉ phải đối mặt với bom đạn, những thiếu thốn về vật chất mà
còn phải đối mặt với một căn bệnh vô cùng quái ác là căn bệnh sốt rét rừng: căn bệnh này
cướp đi tính mạng của rất nhiều người chiến sĩ và khiến cho những người còn sống trở nên
tiều tụy, ốm yếu: tóc rụng hết, da xanh như màu lá. Hiện thực khắc nghiệt này đã được nhiều
nhà thơ cùng thời với Quang Dũng nhắc đến. Đó là cảm giác chân thực
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Trong thơ Tổ Hữu, đó là hình ảnh
Trên má anh vàng nghệ ”
“Giọt mồ hồi rơi
(Tố Hữu)
Những chất liệu này một lần nữa khẳng định mặc dù là một nhà thơ lãng mạn nhưng
Quang Dũng không hề né tránh hay tô hồng hiện thực.
K h í p h á c h , b ả n l ĩ n h : vì là một nhà thơ lãng mạn nên các chất liệu hiện
thực đều được Quang Dũng xử lý qua lăng kính lãng mạn. Các chất liệu hiện thực mà Quang
Dũng đưa vào chính là một sự đối lập giữa bên trong và bên ngoài, giữa hoàn cảnh và khí
phách. Mặc dù diện mạo của họ có phần xanh xao, ốm yếu nhưng ẩn bên trong vẫn là một khí
phách hiên ngang, vẫn là tinh thần uy dũng vô song. Quang Dũng đã sử dụng một hình ảnh so
sánh theo lối cổ: “dữ oai hùm” để cho thấy khí phách ngang tàng, cứng
cỏi của người lính Tây Tiến. Ngoài ra, người đọc còn có thể cảm nhận được khí phách
của người lính qua giọng điệu và dạng thức của câu thơ. Mặc dù trên thực tế việc
không mọc tóc chính là sản phấm của hoàn cảnh nhưng Quang Dũng không sử dụng
cấu trúc câu bị động mà lại sử dụng cấu trúc câu chủ động để tạo nên sự ngang tàng,
rắn rỏi.
Tâm hồn: Sau những nét vẽ phác thảo bên ngoài, nhà thơ liếp tục đi sâu để cho
thấy vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tầy Tiến. Chỉ bằng hai câu;
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ”
Quang Dũng đã cho thấy hai vẻ đẹp quan trọng nhất trong tâm hồn họ, trước
hết đó là vẻ đẹp nổi bật rực rỡ của lòng yêu nước, lòng căm thù giặc. Hình ảnh “mắt
trừng” gợi ra ánh nhìn dữ dội, nóng bỏng, hờn căm mà người lính Tây Tiến dành cho
kẻ thù. Cũng bởi thế giấc “mộng” được nói đến ở đây không gì khác chính là mộng
giết giặc lập công. Đây chính là vẻ đẹp tiêu biểu của người lính thường xuất hiện trong
văn học. Đáng chú ý hơn là vẻ đẹp thứ hai, nếu câu thơ trên gân guốc, mạnh mẽ bao
nhiêu thì câu thơ dưới lại trải ra thiết tha, êm ái bấy nhiêu. Quang Dũng đã lách ngòi
bút của mình vào góc sâu nhất trong tâm hồn người lính đế ghi lại nỗi nhớ da diết mà
họ dành cho quê hương và nhũng người thân yêu. ở đây, tác giả đã rất tinh tế khi
không sử dụng chữ “nhớ” mà sử dụng chữ “mơ” vì “mơ” ngoài nghĩa là nhớ còn là sự
tưởng tượng, mơ mộng cho thấy nỗi nhớ thường trực trong tâm hồn họ. Cả hai hình
ảnh trong câu thơ đều là hai hình ảnh rất lãng mạn vì chỉ bằng hai chữ “Hà Nội” thôi
tác giả đã gợi ra cả một miền đất bình yên, đẹp đẽ, cổ kính. Còn hình ảnh “dáng kiều
thơm” lại vẽ ra dáng người thanh mảnh, yêu kiều, duyên dáng, đài các của những
người thiếu nữ Hà thành. Chữ “thơm” vừa tạo ra một vẻ đẹp trang trọng vừa gợi ra
trường liên tưởng về bầu không khí nồng nàn hương hoa sữa đặc tnmg của Hà Nội. Dễ
nhận thấy nỗi nhớ đầy mộng mơ, lãng mạn này đã in đậm bản chất của những người
lính xuất thân từ trí thức tiếu ta sản. Nó khác hắn với nỗi nhớ mộc mạc, chân chất của
người lính xuất thân từ nông dân trong thơ Chính Hữu:
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính ”
Đã có một thòi hai câu thơ này bị coi là vương lại cái buồn rớt, cái mộng rớt
của người tri thức tiểu ta sản nhưng chính sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian đã
chứng minh một cách thuyết phục chính vẻ đẹp của nliững tâm hồn mộng mơ, lãng
mạn giàu cảm xúc này mới thực sự làm nên chiều sâu, mới đem đến tính nhân văn cho
hình tượng
người lính Tây Tiến.
Lý tưởng sống: Như tất cả các anh bộ đội cụ Hồ thời bấy giờ, những người chiến sĩ
Tây Tiến cũng mang trong mình một lý tưởng sống cao đẹp. Để làm nổi bật lên lý tưởng sống
cao đẹp này, Quang Dũng tiếp tục sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập. Câu thơ:
“Rải rác biên cương mô viên xứ”
Vẽ ra một hiện thực tàn khốc đến buốt lạnh. Cả một vùng biên cương rộng lớn
khône có bất cứ màu sắc nào của sự sống mà chỉ có những nấm mồ cô đơn, lạnh lẽo.
Hiện thưc đó đã cho thấy một sự thật tàn khốc khi rất nhiều những người lính Tây
Tiến đẵ hi sinh, đã phải nằm lại trên chiến trường, họ không thể trở về với quê hương
mà buộc phải nằm lại nơi đất khách quê người. Những hiện thực tê buốt ấy khiến cho bài
thơ này ngập trong sự thê lương, bi ai nhưng ngay sau đó tác giả đã khiến cho chất tráng
ca vút lên qua lời khắng định;
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình ảnh “đời xanh” trong câu thơ gợi ra khoảng thời gian đẹp đẽ nhất, trẻ trung nhất,
ý nghĩa nhất trong cuộc đời của mỗi một con người, đó cũng chính là khoảng thời gian mà ai
cũng muốn được sống, được cống hiến, người lính Tây Tiến dù ý thức được điều này nhưng
vẫn có quyết định dứt khoát “đi chẳng tiếc”, họ quyết định ra đi nghĩa là quyết định cầm súng
chiến đấu, thậm chí chấp nhận cả hi sinh, hai chữ “chẳng tiếc” khiến cho hơi thơ trở nên mạnh
mễ, khỏe khoắn, đó là thái độ lựa chọn chủ động, mạnh mẽ, dứt khoát, sẵn sàng hi sinh tuổi
trẻ để bảo vệ quê hương. Quyết định đó đã làm sáng lên lý tưởng sống cao đẹp, đáng trân
trọng, ngợi ca. Cách nói của Quang Dũng có nhiều nét tương đồng với một nhà thơ trong giai
đoạn chống Mỹ sau này:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi Tổ quốc”.
(Thanh Thảo)
S ự h i s i n h : dõi theo từng bước chân, từng con đường hành hành quân của
người lính Tây Tiến bằng tất cả sự trân trọng, yêu thương để rồi đến cuối bài thơ Quang Dũng
tiếp tục kính cẩn nghiêng mình trước sự hi sinh của họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành ”
Trong Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa vào rất nhiều chất liệu hiện thực xù xì, gai góc
nhưng có thể nói câu thơ nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến là câu thơ đem đến cho
người đọc nỗi ám ảnh về cái khắc nghiệt, gai góc của hiện thực. Thông thường, với quan niệm
nghĩa tử là nghĩa tận của người Á Đông thì sự ra đi của con người luôn được tổ chức bằng
những nghi lễ trang nghiêm, thành kính. Ngay cả những con người khốn khổ nhất cũng có
được một manh chiếu để bọc thây, nhưng hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp thiếu
thốn và tàn khốc đến mức ngay cả một manh chiếu để bọc thây cũng không có. Người lính đã
nằm lại nơi chiến trường chỉ với duy nhất bộ quân phục đang mặc trên mình. Quang Dũng
không hề né tránh hiện thực nhưng cái đích mà nhà thơ muốn hướng đến không phải là cảm
giác xót xa, chua chát mà là sự hào hùng, sự cao cả. Bởi vậy, chất liệu hiện thực tiếp tục được
xử lý qua lăng kính lãng mạn để bộ quân phục bình thường, giản dị của người lính Tây Tiến
trở thành hình ảnh tấm “áo bào” sang trọng. Đây là một hình ảnh cổ kính gắn liền với văn hóa
của thời thuộc địa. Trước đây, áo bào chỉ được dùng cho vua, quan và những người lập được
công lớn. Bởi vậy, khi khoác lên mình đồng đội tấm áo bào sang trọng Quang Dũng đã kính
cẩn đặt người lính Tây Tiến vào vị trí người anh hùng. Đó vừa là sự trân trọng, yêu thương
vừa là sự ngưỡng mộ, tự hào Quang Dũng dành cho đồng đội. Và sự hi sinh cao cả ấy tất yếu
đã để lại một cơn dư chấn đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc để dồn tụ lại thành tiếng
“gầm” dữ dội của dòng sông Mã. Đặt trong hoàn cảnh người lính đã hi sinh, đã về với đất mẹ
thì tiếng gầm ấy hoàn toàn có thể hiểu là tiếng khóc, sự tiếc thương. Đáng chú ý là ở chỗ tiếng
khóc ấy không kéo dài, nỉ non, ai oán mà chỉ là một khúc “độc hành” duy nhất cất lên dữ dội
đế rồi sau đó nín bặt và gieo vào lòng người đọc cảm giác hào hùng. Có thể xem là khúc tráng
ca để đưa tiễn người lính Tây Tiến về cõi bất tử. Việc mở đầu bằng dòng Sông Mã và cũng
kết lại bằng tiếng gầm của dòng sông cho thấy dòng sông ấy chính là linh hồn của mảnh đất
này, đã dõi theo, đã song hành và cuối cùng dã cất tiếm? khóc vĩ đại để đưa tiễn người
lính Tây Tiến.
Dễ nhận thấy trong đoạn thơ miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, Quang Dũng sử
dụng khá nhiều từ Hán Việt. Những từ Hán Việt kết hợp với các hình ảnh cổ kính như “áo
bào, biên cương, viễn xứ” khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất trong mình
bóng dáng của những người tráng sĩ ngày xưa. Nhưng nhìn kĩ, ngắm kĩ người đọc thấy rất rõ
vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bút pháp lãng mạn và cảm
hứng bi tráng đã khiến Quang Dũng dựng lên một bức tượng đài sùng sững nhất, độc
đáo nhất về người lính trong văn học Việt Nam.
d) Đoạn bốn:
Khái quát: Sau những mảng ký ức thiêng liêng, xúc động về mảnh đất Tây Bắc
và đoàn binh Tây Tiến, Quang Dũng đã quay trở về với thực tại để ý thức được sự xa
xôi, cách trở, sự xa xôi cách trở ấy đến từ thời gian: “không hẹn ước” và đến từ cả
không gian:
“Đường lên thăm thắm, một chia phôi”
Nhưng vượt qua tất cả Quang Dũng đã đưa ra lời hứa, lời thể thủy chung, son
sắt:
“Hồn về Sầm Nứa chang về xuôi”
Nghĩa là tâm hồn của tác giả đã mãi mãi nằm lại, gắn bó thủy chung với đồng
đội, với nhân dân, với kháng chiến.
BÀI 3: ÔN TẬP VIỆT BẮC
(Tổ Hữu)
TRONG TÂM
Tám câu đầu : khung cảnh chia li
Đoạn Mình đi có nhớ những ngày...mái đình cây đa
Đoạn : ta với mình mình với ta...đều đều suối xa.
Đoạn bức tranh tứ bình : ta về mình có nhớ ta... thủy chung
Đoạn Việt Bắc ra quân: Những đường VB của ta...Đèo De núi hồng
Tính dân tộc trong bài Việt Bắc
PHẦN 1: TÁC GIẢ TỐ HỮU

1. Những nét chính về tiểu sử


Tên khai sinh là Nguyễn Thành. Sinh 1920 - mất 2002

Quê hương: Làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng (sông Hương núi Ngự, lăng tấm đền đài..,) và những giá trị
văn hóa truyền thống, đậm bản. sắc dân tộc bao gồm cả văn hóa cung đình và văn hóa dân
gian mà nổi tiếng nhất là những ứng điệu ca, hò như Nam ai, Nam binh, mái nhì, mái đẩy của
vùng đất cố đô có ảnh hưởng đến hồn thơ Tố Hữu.
Gia đình: Bố là một nhà nho nghèo (đã từng làm nghề quạt trần, đưa thư, thầy địa),
thích sưu tầm văn học dân gian, dạy Tố Hữu cách làm thơ cố, Mẹ thuộc nhiều ca dao dân ca,
rất cưng chiều Tố Hữu. Yếu tố gia đình cũng góp phần làm nên hồn thơ của Tố Hữu,
Thời đại: Thời đại Tố Hữu sống có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại (Đảng ra đời, Trào
lưu Thơ mới 1932-1945 phát triến mạnh, 9 năm kháng chiến _ Pháp, hơn 20 năm kháng chiến
chống Mĩ). Điều này cũng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến hồn thơ của ông.
Bản thân:
+ Thời thơ ấu: Sớm mồ côi mẹ (năm 12 tuổi), xa gia đình vào học ở trường Quốc học.
+ Thời thanh niên: Sớm giác ngộ lí tưởng cộng sản, hăng say hoạt động cách mạng (16
tuổi vào Đoàn. 17 tuổi vào Đảng. 19 tuổi bị tù. 22 tuổi vượt ngục , tiếp tục hoạt động cách
mạng. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, làm Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa ở Huế).
+ Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, Tố Hữu liên tục giữ nhiều cương vị
trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước (đặc trách về văn hóa văn nghệ, từng là
ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
Đ á n h g i á : Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất làm
một, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp
cách mạng. Ông là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Ông
được Nhà nước tặng thưởng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 1996.
II. Các chặng đường thơ của thơ Tố Hữu
Các chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó làm một với quá trình hoạt động cách mạng
của ông (Thơ Tố Hữu là lí lịch hoạt động cách mạng của Tố Hữu).
Các chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó làm một với các nhiệm vụ của Đảng, với
những bước phát triển của cách mạng Việt Nam qua các thời kì lịch sử (Tố Hữu là người viết
lịch sử Việt Nam hiện đại bằng thơ).
Các chặng đường thơ của Tố Hữu cũng là các chặng đường vận động về tư tưởng và
nghệ thuật của Tố Hữu.
Ba vấn đề trên được thể hiện qua các tập thơ sau:
1.T â p t h ơ “ T ừ ấ y ” (1937-1946) là chặng đường đầu tiên của đời thơ Tố
Hữu. Đây là tiếng hát say mê lí tưởng, khát khao chiến đấu, xả thân vì sự nghiệp cách mạng
với tinh thần lạc quan của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng cộng sản.
Tập thơ gồm ba phần:
M á u l ử a : thể hiện ba nội dung chính:
+ Ngợi ca lí tưởng, khẳng định niềm tin vào tương lai của Cách mạng (Từ ấy, Ý xuân,
Tiếng hát sông Hương,... ).
+ Tố cáo những bất công trong xã hội (Hai đứa bé, Vú em, Đi đi em,...).
+ Kêu gọi đứng dậy đấu tranh (Đi đi em, Hãy đứng dậy, Liên hiệp lại,...).
X i ề n g x í c h : gồm những bài thơ được sáng tác trong tù, thể hiện lòng yêu đời,
sự gắn bó thủy chung với đất nước, đồng bào, đồng chí, niềm khao khát tự do và ý chí cách
mạng kiên cường của người chiến sĩ nguyện trung thành với lí tưởng, bất chấp cái chết kề bên
(Nhớ đồng, Con cá chột nưa, Trăng trối, Tâm tư trong tù,...).Đây là phần có giá trị nổi bật và
đặc sắc của tập thơ.
G i ả i p h ó n g : gồm những bài thơ được sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục đến
những ngày đầu đất nước được giải phóng, thể hiện niềm vui của người chiến sĩ cách mạng
được trở về tiếp tục hoạt động cácíi mạng, ca ngợi nền độc lập, tự do, khẳng định niềm tin
vững chắc vào chế độ mới với cảm húng lãng mạn trước cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc (Huế
tháng Tám, Vui bất tuyệt, Xuân nhân loại,.).
2, Tập thơ “ V i ệ t Bắc” (1946-1954) là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc
kháng chiến và những con người kháng chiến.
Cái tôi trữ tình của nhà thơ bớt đi phần non nớt, được hòa mình trong những nhân vật
quần chúng nhân dân. Đó là anh vệ quốc quân hiền lành, vượt khó, hào hùng (Cá nước, Lên
Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Việt Bắc); là người phụ nữ Bắc Giang bề bộn
việc nhà vẫn hăng hái tham gia kháng chiến(Phá đường); là những người mẹ chất phác,
thương con thương nước (Bà mẹ Việt Bắc, Bà bủ, Bầm ơi); là em bé liên lạc hồn nhiên, anh
dũng (Lượm); là Bác Hồ - kết tinh mọi phẩm chất của dân tộc(Sáng tháng Năm, Việt Bắc).
“Việt Bắc” là tập thơ kết tinh những tình cảm lớn của con người Việt Nam trong
kháng chiến. Tình cảm ấy là tình yêu nước được biểu hiện trong tình quân dân “cá nước”,
nghĩa tình hậu phương với tiền tuyến, miền ngược với miền xuôi, nghĩa tình gắn bó người cán
bộ với quần chúng, lòng kính yêu của nhân dân với lãnh tụ.
“Việt Bắc” là tập thơ mang đậm màu sắc dân tộc. Phần cuối mang cảm hứng sử thi,
lãng man đầy âm vang thời đại. Đây là một trong những thành tựu xuất sắc của văn học thời
chín năm chống Pháp.
3, Tâp thơ “Gió lộng”\í 1955-1961) là chặng đường thơ Tố Hữu sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi, cách rnạng bước vào giai đoạn mới với nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất đất nước.
Tập thơ “Gió lộng” thể hiện niềm vui trong xây dựng cuộc sống mới trên quê hương
miền Bắc (Xưa...Nay, Trên miền Bắc mùa xuân, Mùa thu mới, Bài ca mùa xuân 1961,...), thể
hiện tình cảm đối vói miền Nam và ý chí đấu tranh thống nhất đất nước (Quê mẹ, Người con.
gái Việt Nam,.). Tập “Gió lộng” vì thế mà mà phơi phới lạc quan, tràn đầy cảm hứng lãng
mạn và đậm nét sử thi.
Tuy vậy, thơ Tố Hữu trong thời kì này cũng không tránh khỏi cái nhìn giản đơn về
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thể, ngợi ca một chiều cuộc sống mới ở miền Bắc như khá
nhiều sáng tác về đề tài này trong văn học đương thời (Bài ca mùa xuân 1961,...).
4, Hai tập thơ “Ma trận ” (1962-1971), “Máu và hoa” (1972,-1977) là chặng đường thơ Tố
Hữu trong những năm kháng chiến chống Mĩ cho tới ngày toàn thắng. Đây là khúc ca ra trận,
là mệnh lệnh tiến công, là lời kêu gọi, cổ vũ trong cuộc chiến đấu quyết liệt và hào hùng của
cả dân tộc.
Cái tôi trữ tình ở chặng đường thơ này nhân danh, cộng đông, dân tộc. “Dân tộc Việt
Narn là ai ?”, “Sức mạnh Việt Nam bắt nguồn từ đâu ?” là những câu hỏi mà văn học một thời
nói chung, Tố Hữu nói riêng đã tập trung giải quyết. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn là nét chủ đạo của. hai tập thơ này. Nhiều bài thơ tập trung thể hiện hình tượng
cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam, mang ý nghĩa tống kết, khái quái về dân tộc, lịch
sử và thời đại (Hãy nhớ lấy lời tôi, Kính gửi Cụ Nguyễn Du, Chào xuân 1967, Bài ca xuân 68,
Bác ơi, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm, Việt Nam - máu và hoa, Toàn thắng về ta,...).
Tuy nhiên, do quá chú trọng đến tính chính luận, thời sự nên thơ Tố Hữu thời kì này
có một số bài còn nghèo về cảm xúc nghệ thuật, trở thành những lời kêu gọi, hô hào như
mệnh lệnh, khẩu hiệu.
5 . H a i t ậ p t h ơ “ M ộ t t i ế n g đ ò n ” ( 1 9 9 2 ) , “Ta với ta” ( 1 9 9 9 ) là
chặng đường thơ đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu. Cuộc sống đời thường
sôi động , thăng trầm khiến nhà thơ ưu tư, chiêm nghiệm về lẽ đời, việc người, hướng tới
những qui luật phổ quát và những giá trị bền vũng với giọng thơ trầm lắng. Điều đáng quí là
trước sau thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lí tưởng và con đường cách mạng,
C.PHONG CÁCH THƠ TỐ HỮU
1. Khuynh hướng thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của Tố Hữu:
1.1/Khuynh hướng thẩm mĩ:
+Tố Hữu là một người yêu thơ, có tâm hồn thi sĩ.
+Tố Hữu làm thơ để phục vụ cách mạng. Ông “không có thơ cho mình, chỉ có thơ hết
mình” cho lí tưởng cộng sản (trả lời phỏng vấn của Tố Hữu).
1.2/ Quan niệm nghệ thuật:
Với Tố Hữu, lí tưởng cộng sản là đẹp nhất và con người đẹp nhất phải là con người có
lí tưởng cộng sản, dám đấu tranh và hi sinh cho lí tưởng ấy thắng lợi. Đó cũng là nguồn cảm
hứng vô tận của nhà thơ.
2. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu:
Thơ Tố Hữu có ba đặc điểm: thơ trữ tình chính trị; có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết;
đậm đà tính dân tộc.
2.1/ Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị:
Lí tưởng cách mạng, các vấn đề và sự kiện chính trị lớn của dân tộc và đất nước bong
từng thời điểm lịch sử là nguồn cảm hứng nghệ thuật chính của nhà thơ.
Nội dung trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn.
+ Khuynh hướng sử thi:
Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ. Càng về sau, cái tôi đó là cái ta
chung. Cái tôi đó là cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng, nhân danh dân tộc mà
chiến đấu, hi sinh. Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu là những con người kết tinh những
phẩm chất của giai cấp, dân tộc, mang tầm vóc thời đại và lịch sử, tỏa sáng vẻ đẹp của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, nhiều khi được thể hiện bằng bút pháp thần thoại hóa (Người con
gái Việt Nam, Mẹ Tơm, Hãy nhớ lấy lời tôi, Toàn thắng về ta)
Thơ Tố Hữu ca ngợi lẽ sống cao đẹp vì dân, vì nước, “Vì T H I Ê N G L I Ê N G G I Á T R Ị
C O N N G Ư Ờ I - V Ì M U Ô N Đ Ờ I H O A L Á X A N H T Ư Ơ I ” (Bài ca xuân 68). Thơ ông
không đi sâu vào cuộc sống và những tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm
lớn của con người cách mạng. Đó là tình yêu lí tưởng (Từ ấy), tình cảm kính yêu lãnh tụ.
Sáng tháng năm, Việt Bắc, Bác ơi, Theo chân Bác), tình cảm đồng bào đồng chí, tình quân
dân (Cá nước, Việt Bắc), tình cảm quốc tế vô sản (Em bé Triều Tiên). Niềm vui trong thơ Tố
Hữu không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn. Những vần thơ về chiến thắng thể hiện rõ
nét nhất niềm vui lớii này (Huế Tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).
+ Cảm hứng lãng mạn:
Cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn. Trong nô lệ, lầm than,
chia lìa, chết chóc, thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và
niềm say mê với con đường cách mạng. Do vậy mà thơ Tố Hữu thường cất lên thành những
tiếng hát: khúc hát tâm tình, bài ca chiến đấu và tiếng reo ca chiến thắng (Tiếng hát sông
Hương, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Bài ca mùa xuân 61, Chào xuân 67,...)
2.2/ Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết:
Tố Hữu chịu ảnh hưởng của người mẹ (thuộc nhiều ca dao dân ca), của quê hương xứ
Huế (vùng đất nổi tiếng về những câu ca, điệu hò). Hơn nữa, theo Tố Hữu: “Thơ là chuyện
đồng điệu. Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”, làm thơ là để phục vụ cách mạng,
tuyên truyền lí tưởng và đường lối chính trị của Đảng, nhằm vào đối tượng chủ yếu là đông
đảo quần chúng nhân dân nên phải sáng tác theo một hình thức quen thuộc, dễ hiểu đối với
quần chúng và được họ yêu thích, dễ nhập tâm.
Tố Hữu dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến đồng bào, đồng chí
mà giãi bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ. Thơ ông phần nhiều có cách diễn đạt tự
nhiên, đằm thắm, chân thành, liền mạch. Đó chính là giọng của “tình thương mến”, là “một
thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ” (Xuân Diệu).
2 . 3 / T h ơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc:
Về n ô i d u n g : Thơ Tố Hữu thể hiện hiện thực đời sống, những tình cảm chính
trị, đạo lí cách mạng theo chiều hướng gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần, tình cảm
và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm cho truyền thống ấy.
Về h ì n h t h ứ c :
+ về thể thơ, Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền thống của dân tộc (như
lục bát, song thất lục bát, bốn chữ, năm chữ, bảy chữ) và có những sáng tạo làm phong phú
thêm cho các hình, thức thơ ca này.
+ Về ngôn ngữ, Tố Hữu sử dụng từ ngữ và lối nói quen thuộc với dân tộc, những so
sánh ví von, phép chuyển nghĩa và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian nhưng lai biểu hiện
được nội dung mới của thời đại.
+ Về hình ảnh, Tố Hữu sáng tạo hình ảnh thiên về giá trị biểu hiện tình cảm hơn là giá
trị tạo hình, thâm chí nhà thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng khá quen thuộc.
+ Về nhạc điêu, Tố Hữu sử dụng tài tình các từ láy, nhịp nhàng trong việc phối âm
trầm bổng, phong phú hóa về vần,... nên thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ ngâm, dễ hát, có khi thành
lời ru. Đây là chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

PHẦN 2: TÁC PHẨM


I. Khái quát
1, Tác giả
Tố Hữu là nhà thơ t r ữ t ì n h c h í n h t r ị , là lá cờ đầu trong thơ ca cách
mạng Việt Nam Thơ Tố Hữu chủ yếu mang khuynh hướng sử thỉ và cảm húng lãng mạn,
đậm đà tính dân tộc.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tố Hữu để lại nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu
nhất là bài thơ “ Việt Bắc” được sáng tác tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của
Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.
Việt Bắc là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến mà cội nguồn sâu xa là tình
yêu đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy
chung của dân tộc.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến. Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ - tháng 7/1954 hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết,
hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở ra một trang sử mới cho đất nước.
Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.
b. Bố cục :
Bài thơ có 150 câu lục bát, gồm hai phần:
+ Phần đầu(88 câu): Hoài niệm những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến
(phần được trích học ở sách giáo khoa)
+ Phần sau (62 câu): Viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ngợi ca công ơn của Đảng,
Bác Hồ đối vói dân tộc.
Đoạn trích nằm ở đầu phần 1
c. Kết cấu bài thơ
Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp, có sự đắp đổi luân phiên giữa lời của người ở
lại và lời của người ra đi. Đây vốn là kiểu kết cấu rất quen thuộc trong ca dao xưa.
Ý nghĩa :
Bên trong lớp đối thoại của kết cấu là lời độc thoại của tâm trạng: kẻ ở - người đi,
câu hỏi lời đáp cũng chỉ là sự phân thân của chủ thể trữ tình, là thủ pháp để nhà thơ bộc lộ nỗi
niềm tâm trạng, tạo ra sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
Trong tiếng Việt, “mình” có thể là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để chỉ bản thân
người nói, cũng có thể là ngôi thứ hai để chỉ những đối tượng giao tiếp thân yêu, gần gũi,
thường hay xuất hiện trong các quan hệ tình yêu, vợ chồng.
Trong bài thơ Việt Bắc, “mình” lại chủ yếu được dùng ở ngôi thứ hai cho thấy sự
gắn bó thân thiết vô cùng giữa hai nhân vật đối đáp - “mình” có thể là người ra đi trong câu
hỏi của người ở lại, có khi là người ở lại trong những xao xuyến của người đi. Tuy nhiên
“mình” cũng có lúc chuyển hóa đa nghĩa, vừa là người đi, vừa là người ở lại trong sự hòa
nhập, gắn kết
Đại từ “ta” cũng được sử dụng rất linh hoạt, độc đáo chủ yếu ở ngôi thứ nhất -
người phát ngôn, nhưng nhiều khi lại dùng để chỉ chung người đi, kẻ ở với nghĩa “chúngta”.
Hình ảnh người ở - người đi và cách đối đáp xung hô Mình - Ta này thường dùng đế
diễn tả những tình cảm riêng tư như tình bạn, tình yêu., nay thế hiện những nghĩa tình thiêng
liêng lớn lao của cách mạng. Cách cấu tứ đặc biệt này khiến chuyện nghĩa tình cách mạng,
kháng chiến được diễn tả bằng ngôn ngữ và giọng điệu ngọt ngào của tình yêu, đưa người đọc
vào khoảnh khắc xúc động của ân tình luư luyến, của hồi tưởng và hoài niệm, của tin tưởng
và ước vọng. Đây cũng là nét riêng đặc sắc trong phong cách thơ Tố Hữu.
Cặp đại từ này khiến cho nội dung chính trị được nói đến trong bài thơ không bị khô
khan, cứng nhắc mà trở nên mềm mại dễ tiếp nhận. Hay nói cách khác nó đã giúp nhà thơ trữ
tình nói một vấn đề chính trị.
II. Phân tích
1.Lượt lời đối đáp thứ nhất
Tám câu đầu: khung cảnh chia li
a. Lời người ở lại
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng những lời tâm tình , thủ thỉ của người ở lại . Trong
bốn câu thơ đầu, cấu trúc ‘mình về mình có nhớ’ được điệp lại 2 lần , dạng thức câu
hỏi tu từ khiến lòi thơ trở nên da diết. Tất nhiên mục đích của người ở lại không phải là hỏi
mà là để gợi nhắc cho người ra đi những ấn tượng sâu đậm về thời gian, không gian cũng
như nghĩa tình trong cuộc kháng chiến chống pháp.
-Thời gian : được nhắc đến trong số từ 15 năm. 15 năm ấy chính là khoảng thời gian từ 194
đến 1954, nhân dân ta đang dồn hết sức mạnh và trí tuệ vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hơn nữa, khoảng thời gian này người dân Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt
sẻ bùi với cán bộ cách mạng đế rồi giờ đây họ để lại trong nhau những kỉ niệm khó phai.
-Không gian; Bằng các hình ảnh “ cây”, ‘núi”, ‘sông’, nguồn”, người ở lại đã gợi ra không
gian rộng lớn, hoang sơ , kì vĩ của núi rừng Việt Bắc. Đó chính là không gian gắn liền với
cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc.
-Nghĩa tình kháng chiến : chỉ trong 4 câu thơ ngắn, tác giả sử dụng đến 4 lần từ nhớ cộng
với 2 tính từ giàu sức biểu cảm là thiết tha và mặn nồng để gợi ra tình cảm sâu đậm keo sơn
gắn bó giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Câu hỏi thứ nhất hướng về thời gian, đó là những năm tháng kháng chiến, là khoảng thời gian
“thiết tha mặn nồng”, biết bao ân sâu nghĩa nặng. Câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung và
niềm trăn trở, ý thơ còn dem đến những suy ngầm sâu xa về nghĩa tình đạo lý, về cội nguồn
chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tu tưởng của một dân tộc luôn nhắc nhau “uống nước
nhớ nguồn”
b. Lời người ra đi:
Chia tay với Việt Bắc, người cán bộ thấy lòng mình bâng khuâng, xao xuyến nên đã
cất lên lời đáp như lời giã từ của 1 người yêu đối với 1 người yêu :
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
- Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người đưa tiễn ở đây chính là người dân Việt Bắc nhưng lại được tác giả tái hiện qua
1 hình ảnh vừa độc đáo vừa giàu sức gợi : Á O C H À M . Ở đây Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật
hoán dụ khi dùng màu áo để chỉ người dân Việt Bắc. Hình ảnh này vừa gợi ra được trang
phục quen thuộc đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc, vừa gợi ra được
vẻ đẹp tâm hồn của người dân VB là những người giản dị, hiền hậu , chất phác.
Trong không khí đó, người ra đi lưu luyến bịn rịn. Tố Hữu đã sử dụng tới 3 từ láy giàu
sức gợi là T H A T H I Ế T , B Â N G K H U Â N G , B Ồ N C H Ồ N . Từ láy T H A T H I Ế T được sử
dụng một cách sáng tạo với cách đảo vị trí hai tiếng : T H I Ế T T H A thành T H A T H I Ế T . Hai
từ này thực chất không có sự chênh lệch về ý nghĩa, nhưng việc hoán đổi đó đã tạo ra cảm
giác những nỗi lòng, những lời nhắn nhủ của người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu để rồi
đồng vọng trở lại. Có thể nói Tố Hữu đã khai thác tối đa sự giàu có và sự trong sáng của tiếng
Việt
Hai từ láy B Â N G K H U Â N G , B Ồ N C H Ồ N thể hiện sự khắc khoải, vưong vấn không
muốn rời xa. “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự
đan xen buồn vui, luyến tiếc nhớ nhung., khiến con người như ngơ ngẩn. “Bồn chồn” miêu tả
tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người đứng ngồi không yên. Tuy cũng là từ láy miêu
tả trạng thái cảm xúc nhưng “bồn chồn” không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng
mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ hay hành động. Cảm động nhất vẫn là hành
động C Ầ M T A Y N H A U B I Ế T N Ó I G Ì H Ô M N A Y . Đó là cuộc chia tay không nói nên lời ,
chỉ có sự lưu luyến bịn rịn trong lòng. Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau,
chỉ có bàn tay nắm lấy bàn tay, hành động ấy đã nói lên tất cả.
2. Lượt lời đối đáp thứ hai :
a. Lời người ở lại :
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi đế rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Qua lời của người ở lại, những kỉ niệm hiện lên như một thước phim quay chậm in
dấu đạm nét tất cả những gì đáng nhớ nhất. Ngay cả những hình ảnh bình dị nhất trong cuộc
sống đời thường giờ đây cũng được tái hiện.
Đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc vừa có nét hoang sơ sữ dội vừa có vẻ gần gũi êm
đềm thơ mộng. Thế nhưng đằng sau vẻ hoang sơ thơ mộng ấy là thời tiết khắc nghiệt dữ dội ”
ưa nguồn suối lũ” lạnh lẽo “những mây cùng mù”, những hình ảnh ấy là ẩn dụ nói lên những
tháng ngày vất vả cực khổ gian nan của cán bộ và nhân dân Việt Bắc mà suốt đời Tố Hữu sẽ
chẳng thể nào quên. Hai câu thơ tiếp theo là câu hỏi tu từ :
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Nhắc đến Việt Bắc, là nhắc đến chiến khu với sự thiếu thốn về vật chất “ miếng cơm
chấm muối” . Ngày ấy dân ta nghèo, trang thiết bị cho bộ đội thô sơ , lương thực lại càng hạn
chế nhưng những con người ấy đã tạm thời quên đi những khó khăn bởi họ đang gánh vác
trên vai một nhiệm vụ nặng nề đó là mối thù với giặc Pháp. Thế mới biết quyết tâm của Việt
Bắc, của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Họ sẵn sàng quên đi cái riêng ,
cái cá nhân để hòa vào cái chung của cộng đồng .
Bốn câu thơ tiếp theo người VB tiếp tục khắc ghi trong lòng người ra đi bằng những
câu hỏi tu từ gợi nhớ kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên núi rừng và con người nặng nghĩa nặng
tình:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi đế rụng, măng mai đế già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lan xám, đậm đà lòng son
Câu hỏi thứ nhất gợi tình cảm thiên nhiên vói con người. Cách nói “rừng núi nhớ ai”
là nghệ thuật nhân hóa gợi nỗi niềm bâng khuâng da diết. từ ‘ai” trong cụm từ “nhớ ai” là. chỉ
người cán bộ, còn “ rừng núi” là hoán dụ chỉ người dân VB. Trong câu thơ có 2 hình ảnh trám
và măng là lương thực chủ yếu của bộ đội ta khi còn ở VB. Nay người đi
trám để rụng, măng để già không người thu hái.Ở đây thiên nhiên cũng mang nỗi buồn thiếu
vắng khi phải chia tay những người cán bộ kháng chiến về xuôi.Qua đó ta thấy rằng không chỉ
có con người mới mang nỗi nhớ nhung mà cảnh vật cũng mang nỗi bùi ngùi như thúc vào
lòng kẻ ở người đi, thiên nhiên như cùng nặng tình nặng nghĩa với con người.
Câu hỏi tu từ thứ 2 M ì n h đ i , c ó n h ớ n h ữ n g n h à - H ắ t h i u l a u
x á m , đ ậ m đ à l ò n g s o n có 2 hình ảnh tương phản: những ngôi nhà lá đơn sơ mộc
mạc trong dáng vẻ hắt hiu lau xám Nhưng bên trong lại chứa đựng tấm lòng son sắc thủy
chung nghĩa tình của người dân VB đối với cách mạng. Đó là nghĩa tình sâu nặng của những
con người đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa
cầu”. Bốn câu cuối đoạn thơ là những sự kiện lịch sử gắn với những địa danh, những tên gọi
đã trở thành điểm mốc của chiến khu:
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Đến đây 1 loạt câu hỏi tu từ lại cất lên gợi nhắc người đi nỗi nhớ về rừng núi VB nơi
căn cứ địa của kháng chiến cùng với 2 sự kiện lịch sử: khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh.
Đó là khoảng thời gian 1940 khi phát xít Nhật xâm lược nước ta, núi rừng Việt Bắc bắt đầu
vào cuộc chiến đấu, phong trào Việt Minh được thành lập năm 1941, T Ổ chức này có tên gọi
là VN ĐL đồng minh hội. Hai sự kiện này làm nên một phong trào lớn mạnh tạo thành mặt
trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của cuộc cách mạng tháng 8 và là tiền đề cho
những thắng lọi trong cuộc kháng chiến chống Pháp sau này .
Cả hai từ “mình” trong cụm từ “ mình có nhớ mình” có thể hiểu chung một nghĩa bởi
đến lúc này cả kẻ ở và người đi dường như đã hòa vào nhau , đều có tâm trạng buồn nhớ như
nhau. Câu thơ M Ì N H Đ I , M Ì N H C Ó N H Ớ M Ì N H giống như một lời nhắ nhở với người ra
đi về việc đừng bao giờ lãng quên quá khứ, lãng quên chính bản thân mình.
Hình ảnh câu đa tân trào gợi nhắc đến sự kiện lịch sử ngày 22/12/1944 đồng chí Võ
Nguyễn giáp làm lễ xuất quân cho đội VN tuyên truyền giải phóng quân. Mái đình Hồng Thái
là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng mang tầm vóc chiến lược đi tới thắng lợi của cách
mạng.
Đặc sắc nghệ thuật : Mang đậm dấu ấn phogn cách thơ Tố Hữu như : thể thơ lục bát
mang đậm tính dân tộc phù hợp với cách thể hiện tình cảm, âm hưởng của những bài hát đối
đáp giao duyên, cách xưng hô mình ta ngọt ngào thắm thiết. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng nhiều
câu hỏi tu từ , nghệ thuật hoán dụ, điệp từ “ nhớ” đã làm nên thành công của đoạn thơ nói
riêng và bài thơ nói chung
b . L ờ i người r a đ i
b1. Việt Bắc nghĩa tình trong hoài niệm của người ra đi
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mãn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vãn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Trong nỗi nhớ của người ra đi, thiên nhiên Vb hoang dã mộc mạc như tấm lòng người
Vb chất phác hiền hậu .Chính vì vậy trong phút chia xa cả kẻ ở và người đi cùng cất lên lời
đồng vọng:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Ở đây học đã cùng khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, hơn thế nữa, tấm lòng ấy
còn được so sánh với nước trong nguồn:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Tố Hữu đã sử dụng hình ảnh quen thuộc trong tâm thức của bất cứ người Vn nào. Đó
là hình ảnh nguồn nước bởi một trong những câu ca dao ý nghĩa nhất đối với người Vn đó là
:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bằng hình ảnh này, Tố Hữu đã gợi ra một tình cảm dạt dào không bao giờ vơi cạn.
Cặp từ bao nhiêu bấy nhiêu mang ý nghĩa tăng tiến càng làm cho lời khẳng định của người ra
đi trở nên chắc chắn hơn.
Như vậy, tác giả đã để người ra đi an ủi động viên người ở lại bằng lời khẳng định đầy
thủy chung tình nghĩa. Sau những lời khẳng định đó, người ra đi đã làm sống dậy cả 1 thế giới
kỉ niệm êm đềm đẹp đẽ trong khoảng thời gian sống, chiến đấu ở VB. Trong thời gian ấy,
hình ảnh thiên nhiên VB, con người Vb và cuộc sống ở nơi đây hiện lên vừa chân thực, sống
động vừa ấm áp thân thương.
Đoạn thơ tiếp theo là tâm trạng của người ra đi nhưng đó cũng chính là sự hóa thân
của tác giả. Tác giả nhớ thiên nhiên, nhớ con người Vb giống như nỗi nhớ người yêu :
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Ở đây câu hỏi được đặt ra : “nhớ gì” nhưng ngay sau đó là câu trả lời : “như nhớ người
yêu”. Đối tượng của nỗi nhớ không xác định, có thể là nhớ cảnh, nhớ người, nhớ kỉ niệm...
nhưng nỗi nhớ ấy cồn cào da diết như nỗi nhớ người yêu. Nó tha thiết khắc khoải, trong lòng,
Hình ảnh thiên nhiên được nhắc tới cũng thật đẹp đẽ: đó là hình ảnh vầng trăng lấp ló ở đầu
núi, là nắng chiều buông lơi ở lưng chừng đồi, là bản khói cùng sương bảng lảng, là Ngòi
Thìa, sông Đáy, suối Lê.,, Tất cả những địa danh quen thuộc gần. gũi đọng lại trong kí ức
người ra đi, trong giời phút chia tay tất cả đều trỗi dậy mãnh liệt và tha thiết.
Đến những câu thơ sau, tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê the hiện những cung bậc
cảm xúc khác nhau của nỗi nhớ. Người ra đi nhớ những bản làng chìm trong sương khói,
những bếp lửa nhà sàn đầm ấm đơn sơ. Ở đó dù sớm hay khuya đều đậm tình đậm nghĩa. Hai
chữ “người thương” đã nói lên tình cảm gắn bó thân thiết giữa người cán bộ với đồng bào Vb.
Hơn thế nữa, nhũng hình ảnh cụ thể đã được hiện ra như rừng nứa, bờ tre trong nỗi nhớ đến
nao lòng.
Con người Việt Bắc được hiện ra trong nỗi nhớ với tất cả sự trìu mến thân thương.
Bằng những hình ảnh thơ giản dị, Tố Hữu đã giúp người đọc cảm nhân rất rõ cái nhọc nhằn
vất vả, cái thiếu thốn của người dân nơi đây :
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Các hình ảnh “ củ sắn lùi” , “ bát cơm”, “ chăn sui” đều gợi lên cảm giác gần gũi quen
thuộc, giản dị trong đời sống của người dân VB. Tuy cuộc sống còn khó khăn gian khổ nhưng
người dân VB lại thể hiện đức tính vô cùng cao đẹp đó là đức tính vị tha, cùng chia ngọt sẻ
bùi, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng. Chỉ trong đoạn thơ ngắn Tố Hữu đã dùng rất
nhiều từ trong cùng trường nghĩa nói về sự chia sẻ; C H I A , S Ẻ , Đ Ắ P C Ù N G , và cặp đại từ
tạo nên sự hô ứng, quấn quýt ; Đ Â Y Đ Ó . Những từ ngữ này làm sáng lên vẻ đẹp trong tâm
hồn của người dân tộc thiểu số nghèo khổ lam lũ nhưng lại sẵn sàng hi sinh tất cả cho cách
mạng, cho kháng chiến.Tố Hữu đặc biệt ấn tượng với hình ảnh người mẹ:
Nhớ người mẹ nang cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Hình bóng người mẹ ở đây phảng phất giống với hình ảnh người mẹ Tà ôi trong
“khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật phóng đại để
nhấn mạnh vào những cơ cực vất vả nhọc nhằn mà người mẹ phải trải qua. Đó là cái nắng
bỏng rát như thiêu như đốt “ nắng cháy lưng”. Nhưng vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt này
là sự cần mẫn , chịu thương chịu khó . Mẹ cố gắng bẻ từng bắp ngô không chỉ để nuôi con
khôn lớn mà còn nuôi bộ đội, mẹ lao động phục vụ kháng chiến trường kì. Chính bởi vẻ đẹp
tâm hòn đáng quý này mà các hình ảnh thơ dù rất giản dị nhưng lại gây được sự xúc động
mạnh mẽ đối với người đọc.
Nỗi nhớ về kỉ niệm trong những tháng ngày ở VB :
Nhớ sao lớp học ì tờ
Đồng khuya đuốc sáng nhũng giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Trong kí ức của tác giả, khoảng thời gian gắn bó với mảnh đất này là những ngày
tháng gian nan nhưng cũng vô cùng ý nghĩa . Đó là kỉ niệm về lóp bình dân học vụ khi các
chiến sĩ cách mạng dạy cho đồng bào cách đọc cách viết từng con chữ. Đó là kỉ niệm về
những đêm liên hoan vui vẻ, rực sáng, là những khúc hát lạc quan khỏe khoắn để vượt lên
trên khó khăn vất vả. Chính những lả niệm sâu sắc đáng nhớ này càng khiến tâm trạng của
người ra đi trở nên lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa.
Qua đoạn thơ, Tố Hữu mang đến cho người đọc những thước phim đen trắng mộc
mạc, gần gũi về mảnh đất và con người Tây Bắc. Qua thước phim ấy người đọc càng cảm
nhận rõ về sự keo sơn gắn bó giữa nhân dân và cách mạng, giữa miền xuôi và miền ngược ,
giữa tiền tuyến và hậu phương.
Tiểu kết : Cả đoạn thơ là hình ảnh của VB trong nỗi nhớ của người ra đi. Thiên nhiên được
miêu tả khắc nghiệt nhưng rất đỗi trữ tình, con người hiện lên vừa giản dị, vừa sâu nặng, thủy
chung, một lòng một dạ hi sinh cho kháng chiến , cho cách mạng. Tất cả đều được tái hiện
trong cảm xúc trữ tình mang đậm khuynh hướng sử thi của Tố Hữu.
b2. Bức tranh T Ử bình Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nang ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đố vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất của bài thơ, nói về nỗi nhớ thiên nhiên
và con người VB của người cán bộ kháng chiến về xuôi. Mặc dù đoạn thơ vẫn nằm trong
mạch cảm xúc chung của toàn bài thế nhưng bản thân nó đã hoàn chỉnh về cả nội dung lẫn
hình thức thể hiện và có thể tách riêng thành bài thơ đặc sắc.
Đoạn thơ được mở đầu bằng lời của người ra đi :
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu hỏi tu từ chỉ là cái cớ để người ra đi bày tở nỗi nhớ với cảnh và người VB. Vẫn là
cách xưng hô mình ta quen thuộc gần gũi gợi lên cảm giác gắn bó tha thiết. Từ ta chỉ người
ra đi, còn từ mình chỉ người ở lại. Ta được nhắc lại 4 lần trong câu thơ khiến dòng cảm xúc
của người đi bỗng trở nên mênh mang sâu nặng. Đặc biệt 2 từ nhớ đã được chia đều cho cả kẻ
ở lẫn người ra đi. Với người cán bộ kháng chiến về xuôi thì khi ra đi họ không chỉ nhớ người
dân Vb mà còn nhớ cả thiên nhiên và núi rừng . Ớ đây Tố Hữu đã chọn thật đắt hình ảnh hoa
và người. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp của thiên
nhiên. Đặc biệt từ hoa đặt bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người VB. Hoa
và người hòa quyện gắn bó vói nhau bởi vì nói tới thiên nhiên không thể không nói tới con
người và ngược lại những con người ấy sẽ đẹp hơn trong mối quan hệ với thiên nhiên.
Việt Bắc lúc bấy giờ vẫn còn là vùng rừng thiêng nước độc hoang vu hẻo lánh thế
nhưng trong nỗi nhớ niềm thương của người ra đi, thiên nhiên ấy hiện lên thật đẹp, thật tươi
thắm và thấm đẫm nghĩa tình. Tám câu thơ tiếp là hình ảnh thiên nhiên và con người VB hiện
lên trong những trạng thái cảm xúc khác nhau cùng với sự luân chuyển của không gian và thời
gian.
B ứ c t r a n h mùa đông :
Bức tranh mùa đông mở ra hình ảnh thiên nhiên núi rừng VB đầy sức sống:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
V ẻ đ ẹ p c ủ a t h i ê n n h i ê n : bức tranh mùa đông đã được tác giả mở ra bằng không
gian rộng lớn bát ngát và sắc xanh thẫm quen thuộc của rừng già. Trên nền xanh ấy tác giả đã
khéo léo sử dụng nghệ thuật chấm phá để đưa vào sắc đỏ tươi của những bông hoa chuối.
Ngay lập tức sắc đỏ ấy đã trở thành tâm điểm của bức tranh. Sự kết hợp của hai gam màu đối
lập xanh và đỏ khiến cho bức tranh hở nên sống động. Hơn nữa sắc đỏ là một gam màu nóng,
nó khiến cho bong hoa chuối hiện lên giữa rừng già như một bó đuốc rực rỡ xua tan đi cảm
giác u ám, ảm đạm lạnh lẽo vốn có của mùa đông .
Vẻ đ ẹ p c ủ a c o n n g ư ờ i : trên phông nền sống động của thiên nhiên là hình
ảnh người dân Vb Đ È O C A O N Ắ N G Á N H D A O G À I T H Ắ T L Ư N G . Hình ảnh người dân
lao động gài dao ở thắt lưng đi giữa rừng già đã tạo nên cảm giác khỏe khoắn, mạnh mẽ ,
đồng thời nó trở nên đẹp hơn khi được đặt ở tư thế đèo cao. Bình thường đướng trước thiên
nhiên kì vĩ, lớn lao, con người thường trở nên nhỏ bé , tội nghiệp nhưng ở đây lại là hình ảnh
của con người đang vượt lên trên thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên , làm chủ đất trời. Đứng ở
trên đèo cao ánh nắng đã phản chiếu vào lưỡi dao mà người lao động mang theo để tạo nên vẻ
đẹp lấp lánh. Đó là một vẻ đẹp hết sức tự nhiên, không hề có sự sắp đặt nhưng lại thể hiện
được hết cái mạnh mẽ, khỏe khoắn kiên cường của người dân VB.
Bức tranh mùa xuân :
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Vẻ đ ẹ p c ủ a t h i ê n n h i ê n : Để phù hợp với mùa đầu tiên của một năm,
trong trẻo, thanh khiết, Tố Hữu đã miêu tả sắc trắng. Gắn mùa xuân với sắc trắng thực ra
không có gì là lạ nhưng độc đáo ở chỗ sắc trắng ấy lại gắn với hoa mơ loài hoa bình dị mộc
mạc chứ không phải là loài hoa vương giả quý tộc mà người ta thường nhắc tới nhơ hoa mai,
hoa đào. Sắc trắng của hoa mơ tràn ngập núi rừng tạo nên ấn tượng rất mạnh về sự trong trẻo,
thanh khiết, nhẹ nhõm. Mặc dù bức tranh mùa xuân không có nhiều màu sắc như bức tranh
mùa đông nhưng nó cũng không hề tẻ nhạt, đơn điệu bởi nhà thơ đã đặt động từ “ nở “ trước
tính từ “trắng” làm người đọc có cảm giác sắc trắng của hoa mơ từ một điểm đã lan dần, bung
nở dần để rồi ngập tràn trong cả khu rùng. Như vậy bằng sự khéo léo của mình Tố Hữu đã tạo
ra một bức tranh sống động đẹp đẽ .
V ẻ đ ẹ p c ủ a c o n n g ư ờ i : con người hiện lên trong bức tranh mùa xuân
vẫn là hình ảnh con người bình dị chất phác: “người đan nón” . Nhưng không còn là người lao
động khỏe khoắn, vững vàng, mà là con người khoéo léo, tài hoa của núi rừng VB. Họ đã biến
cây cỏ xung qunh mình thành những vật dụng tinh xảo đẹp đẽ. Rõ ràng hình ảnh người lao
động ở đây tiếp tục được tác giả nhìn bằng con mắt trân trọng, ngợi ca.
Bức tranh mùa hè :
Vẻ đẹp của thiên nhiên: Để tạo nên sức sống cho moa vốn được coi là sôi động nhất
trong năm, nhà thơ đã sử dụng cả âm thanh và còn có những sắc màu ấm nóng. Tiếng ve âm
thanh đặc trưng nhất của mùa hè tạo nên một bầu không khí rộn ràng náo nức. Còn sắc vàng
của hoa phách thì tạo nên cả sự chuyến biến kì diệu của thiên nhiên. Sự kì diệu ấy chính là
nhờ vào động từ “đổ” mà Tố Hữu đã sử dụng rất tài hoa. Cùng diễn tả sự biến đổi màu sắc
nhưng Tố Hữu không dùng từ như “ nhuốm” , “ nhuộm” hay “giũa” mà sử dụng từ “ đổ”.
Động từ này diễn tả sự biến đổi màu sắc một cách mau lẹ, mạnh mẽ bất ngờ và trên một diện
rộng. Có cảm giác chỉ trong một khoảnh khắc cả một bình màu lớn của thiên nhiên, của tạo
hóa đã ào ạt tràn xuống chảy xuống để cả khu rừng ngập trong sắc vàng. Động từ “đổ” đã
đem đên nhũng ý nghĩa thú vị cho câu thơ, nhưng còn thú vị hơn là quan hệ giữa sắc màu với
âm thanh. Ở đây vừa có thể hiểu là ve kêu trong rừng phách nhưng cũng có thế hiếu chính
tiếng ve kêu làm cho rừng phách đồng loạt trố hoa vàng. Nếu hiểu theo cách này thì rõ ràng
sức sống trong mỗi sự vật, hiện tượng không đóng khung trong bản thân nó mà nó kéo theo
nhau, nó hòa quyện vào nhau, đua nhau bung ra để tạo nên một mùa hè căng tràn nhựa sống.
Vẻ đẹp của con người : hô ứng với thiên nhiên đang ở độ căng tràn nhựa sống là
hình ảnh con người đang ở tuổi trẻ trung tươi tắn nhất :
Ve kêu rừng phách đố vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Cách gọi “cô em gái” tạo nên cảm cảm giác thân thương, trìu mến như dành cho
những người thân trong gia đình. Cô gái hiện lên trong công việc hái măng tiêu biếu cho hình
ảnh người dân lao động cần cù chăm chỉ. Mặc dù cô gái hái măng một mình nhưng lại không
tạo ra cảm giác cô đơn, buồn tẻ vì ở đây có sự hòa hợp cân xứng giữa thiên nhiên đang ở độ
tươi tắn, sung mãn nhất vói hình ảnh con người ở độ trẻ trung và giàu sức sống nhất.
Bức tranh mùa thu
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Vẻ đẹp của thiên nhiên: khác với cái sôi động ồn ã của mùa hè là không khí thanh
bình, yên ả của mùa thu. Vẻ đẹp của mùa thu được tạo nên từ ánh trăng thanh mát, nhẹ nhàng.
Gắn mùa thu với ánh trăng là cách làm quen thuộc bởi ngày trung thu là khoảnh khắc trăng
tròn đầy viên man nhất nhưng điều khác biệt là ở chỗ vầng trăng ở đây không chỉ là vầng
trăng thanh bình của muôn đời mà còn là vầng trăng của kháng chiến, của tự do. Hai chữ ‘hòa
bình” được tác giả nhấn mạnh trong câu thơ đã không giấu được niềm tự hào, kiêu hãnh của
tác giả khi được ngắm nhìn vẻ đẹp của một vầng trăng hòa bình trên 1 đất nước tự do.
Vẻ đẹp của con người: Trong bức tranh mùa thu, tác giả không cồn khắc họa con
người trong tư thế lao động mà gắn với tiếng hát ân tình thủy chung. Âm thanh này vừa gợi ra
không khí của những đêm hát giao duyên rộng ràng, tình tứ của người dân tộc thiểu số, vừa
gợi ra được phẩm chất, nghĩa tình son sắt giầu đức hi sinh mà người, dân VB dành cho cách
mạng, dành cho kháng chiến. Tiếng hái thủy chung ấy vang vọng núi rừng và đã chạm tới cõi
miền sâu nhất trong tâm hồn người ra đi. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại chọn bức tranh
mùa thu để khép lại bức tranh tứ bình của mình. Bởi mùa thu là mùa gắn với những tháng
năm lịch sử khi cách mạng tháng 8 thành công, khi kháng chiến chống Pháp toàn thắng, khi
TW chính phủ chuyển từ VB về Hn. Nhưng quan trọng nhất là bởi những vẻ đẹp của thiên
nhiên, con người mà tác giả miêu tả trong mùa thu: thiên nhiên thanh bình, con người thủy
chung nặng nghĩa nặng tình.
N h ậ n x é t c h u n g : Trong đoạn thơ trên, mỗi mùa đều có một vẻ đẹp riêng, tất
cả tạo nên một vũ hội của sắc màu: có màu xanh của cây lá, màu đỏ tươi của hoa chuối, có
màu trắng tinh khiết của hoa mơ, có màu vàng rực rỡ của hoa phách, hòa cũng màu nắng, màu
ánh trăng. Tất cả đều là những gam màu tươi thắm thể hiện một sức sống mãnh liệt. Đặc biệt
trong đoạn thơ trên, cứ một câu thơ nói về thiên nhiên lại có 1 câu thơ nói về con người, chính
điều đó đã làm chi bức tranh Vb trong hoang vắng hiu quạnh mà rộn rã náo nức lòng người.
Đoạn thơ có cách kết cấu khép kín đầu cuối tương ứng. Mở đầu là một câu hỏi “ ta về mình có
nhớ ta” và kết thúc hàm chứa một câu trả lời” nhớ ai...” Tiếng hát ân tình thủy chung của
người ở lại cũng chính là tấm lòng son sắc của người dân VB và tiếng lòng của người về bởi
vì ta và mình đều được sinh ra trên mảnh đất VN vốn có truyền thống nhân nghĩa uống nước
nhớ nguồn ân tình thủy chung.
Đặc sắc nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng mang phong vị của ca dao dân ca, đậm đà tính
dân tộc.
- Cách miêu tả giầu hình ảnh sử dụng những động từ giàu tính biểu cảm.
- Điệp từ nhớ biến hóa linh hoạt để lại trong lòng người những ẩn tượng khó quên
Tất cả đã tạo nên 1 đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người VB, cao
hơn nữa đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn nhà thơ Tố Hữu. b 3 .
Việt Bắc trong kháng chiến
Nhớ Việt Bắc là nhớ cảnh, nhớ người, nhưng quan trọng nhất là nhớ về kháng chiến
một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng đã đứng lên với hình ảnh cả núi rừng đánh giặc:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bổn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng. ”
Biện pháp nhân hóa, điệp ngữ kết hợp với việc rải chữ “rừng” kín cả những câu thơ
tạo thế hiểm của trường thành lũy thép che chắn quân ta, vây bọc quân thù.
Nhưng ở Việt Bắc, đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cách mạng
lúc này đòi hỏi phải miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn. Trước đó, tháng
8-1954, trong bài thơ “Ta đi tới ”, Tố Hữu đã làm điều này:
“ Đội ngữ ta trùng trùng điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt
Ta đi tới không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến ải Cà Mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biến
Lòng ta chung giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam. ”
Sau những khó khăn gian khổ trong buổi đầu quan và dân ta đã dần dần giành thế
chủ động, phát huy được tối đa sức mạnh để tạo nên những chiến thắng liên tiếp dồn dập. Tố
Hữu đã dành cả một đoạn thơ mang khung hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đế ca ngợi về
cuộc kháng chiến chống Pháp :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chăn nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đèm thăm thắm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bac, đèo De, núi Hồng.
Hai câu đầu đoạn đã đem đến 1 cách nhìn khái quát, toàn cảnh về không gian, thời
gian cũng như sức mạnh của cuộc kháng chiến :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Không gian gắn liền với những đường Việt Bắc còn thời gian là đêm đê . Những gì Tố
Hữu đưa vào thơ trùng khít với sự thật lịch sử về cuộc kháng chiến chống Pháp để có thể đối
đầu với những vũ khí tối tân của kẻ thù , quân dân ta thường chiến đấu vào ban đêm, thường
dựa vào địa hình hiểm trở của núi rừng VB. Hai chữ “của ta’ thể hiện rõ ý thức, niềm tự hào
của tác giả về chủ quyền , về sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Trên không gian, thời gian ấy
là sức mạnh to lớn, vĩ đại. Từ láy “ rầm rập” vốn là từ láy tượng thanh gợi ra những bước
chân nhanh, mạnh mẽ của người chiến sĩ. Hình ảnh so sánh “như là đất rung” khẳng định sức
mạnh của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bước chân người chiến sĩ khiến
cho thiên nhiên phải rung chuyển. Ở đây tác giả đã học tập cách nói của các thi nhân xưa khi
đặt sức mạnh con người trong thể so sánh với sức mạnh của tự nhiên.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi
Am đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Sau cái nhìn mang tính khái quát, tác giả đã tập trung miêu tả sức mạnh của từng đoàn
quân mà đầu tiên là đoàn bộ binh :
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ảnh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Trong cuộc kháng chiến, đoàn bộ binh luôn là lực lượng đông đảo nhất, nòng cốt
nhất, bởi vậy tác giả đã miêu tả đoàn quân này bằng một hình ảnh hoành tráng. Hai từ láy toàn
phần Đ I Ệ P Đ I Ệ P , T R Ù N G T R Ù N G đã vẽ ra một đội ngũ đông đảo, hùng hậu đang ra trận
với một khí thế quyết tâm sục sôi. Bởi vậy bước chân của họ đều như đang duyệt binh. Tố
Hữu cũng đã từng miêu tả đoàn quân này trong 1 bài thơ khác:
Đội ngữ ta
Cao như núi
Dài như sông
Chí ta lớn như biển đông trước mặt
Nếu hình ảnh này mang đậm khuynh hướng sử thi thì hình ảnh ở câu thơ sau lại đầy
chất lãng mạn . Nhà thơ đã ghi lại vẻ đẹp giản dị nhưng tươi sáng của người lính trên đường
hành quân. Họ hành quân trong đêm ánh sao trên đầu như song hành với từng bước đường
hành quân. Ở đây Tố Hữu có sự đồng điệu với Chính Hữu khi đặt hình ảnh Á N H S A O Đ Ầ U
S Ú N G bên cạnh hình ảnh Đ Ầ U S Ú N G T R Ă N G T R E O . Sự kết hợp giữa hình ảnh ánh vẻ
đẹp sao lấp lánh với mũ nan vẻ đẹp giản dị gần gũi đã khiến người lính hiện lên đời thường,
chân thực nhưng hết sửc đẹp đẽ
C ù n g v ớ i đ o à n b ộ b i n h l à đ o à n d â n c ô n g . Đây không phải là
đội quân tiên phong nên ít được biết đến nhưng không phải vì thế mà đội quân này kém phần
quan trọng. Đây chính là đoàn quân vận chuyển lương thực thực phẩm, thuốc men đạn
dược,... để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp
khi quân ta gặp rất nhiều khó khăn, thiểu thốn thì phương tiện của đoàn dân công chỉ là những
vật dụng rất thô sơ như quang gánh, xe thồ nhưng họ đã vượt lên trên tất cả khó khăn để cung
cấp đủ quân trang, quân dụng cho cuộc kháng chiến.Tố Hữu cũng đã từng gây xúc động cho
người đọc khi miêu tả đoàn quân này trong một bài thơ khác :
Dốc Pha Đin chị gánh anh gồng
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Trong Việt Bắc, vẻ đẹp của đoàn dân công được tác giả miêu tả chân thực: họ đi từng
đoàn, từng tốp mang theo những bó đuốc đỏ rực đã thể hiện 1 khí thế quyết tâm sục sôi nóng
bỏng. Tất cả cảm giác nặng nề, vất vả đã bị xua tan để thay vào đó là sự hồ hởi, phấn khởi.
Nói theo cách của Lê Nin thì đây thực sự là 1 ngày hội của quần chúng. Sức mạnh của đoàn
dân công được đặc tả qua hình ảnh “bước chân nát đá”. Hình ảnh này vừa có thể hiểu theo
nghĩa thực : vì những gánh hàng của họ rất nặng nên bước chân của họ cũng trở nên mạnh
mẽ, chắc nịch, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng chỉ sức mạnh có thể thay đổi,
lấn át cả thiên nhiên.
Đội quân khác cũng góp phần rạo nên sức mạnh của cuộc kháng chiến, đó chính là
đoàn công binh. Tác giả đã ghi ỉại khung cảnh tấp nập nhộn nhịp khi những đoàn xe nườm
nượp nối nhau ra mặt trận. Họ hành quân trong đêm tối mù mịt, lạnh lẽo và buốt giá nhưng vì
số lượng xe rất lớn nên khi đèn pha đồng thời được bật sáng đã tạo nên một cảnh tượng rực rỡ
huy hoàng mà tác giả đã so sánh là “ như ngày mai lên”. Tuy nhiên ngoài lớp nghĩa thực này,
2 câu thơ còn gợi ra 1 lớp ý nghĩa biếu tượng sâu sắc. N g h ì n đ ê m t h ă m t h ẳ m s ư ơ n g
d à y là biểu tượng cho quá khứ đau thương, tăm tối mà dân tộc phải trải qua, còn hình ảnh
đ è n p h a b ậ t s á n g là biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, huy hoàng đã được tạo nên
từ thành quả của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Chính sức mạnh tống lực của những đoàn quân này mà chiến thắng liên tiếp giòn giã,
lẫy lừng đã đi vào thơ Tố Hữu một cách hân hoan:
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Tiếp tục bằng cách liệt kê các địa danh, nhà thơ đã khắc họa một khí thế hào hùng khi
dân tộc ta giành được toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đọc những câu thơ này
lên người đọc cảm giác đó không còn là thơ nữa mà là tiếng reo vui náo nức nhiệt thành của
tác giả. Ở đó thể hiện rất rõ niềm vui sướng, tự hào. Không khí chiến thắng đang dồn dập
khắp mọi miền tổ quốc. Cũng là thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây không gắn với
chữ ‘nhớ” mà nó gắn với chữ vui để thấy rằng tin vui đến từ mọi miền tổ quốc . Trong sự liệt
kê ấy, những địa danh chiến thắng cũng mang giá trị tư tưởng, nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp
nhằm làm nổi bật tin vui bay đi với tốc độ “thần tốc”, vừa mới ở Hòa Bình, Tây Bắc, Điện
Biên, đã là Đồng Tháp An Khê và cuối cũng là Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng. Câu kết là tin
vui về VB chúng tỏ sự tôn trọng của tác giả đối vói VB là đầu não của cuộc kháng chiến trước
sau không đối.
Nghệ thuật :
Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống
Các biện pháp tu từ so sánh, trùng điệp , phóng đại
Các từ láy tượng hình, tượng thanh,
Hình ảnh thơ sống động, gợi cảm, giọng thơ hào sảng, sôi nổi, ngdu ngữ sử thi tráng
lệ
Tất cả làm nên thành công của đoạn thơ.
Hai đoạn cuối :
Hai đoan cuối là những hoài niêm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của chính phủ trong
hang núi:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng của hang.
Nắng trưa, rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phái động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ẩy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn rực
rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng... Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng khoáng trong
ngọn gió của thời đại mới con đường của cách mạng Việt Nam đã thực sự chuyển từ đêm tối
gian lao sang ngày mai tươi sáng.
Vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến :
Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ chân lí
kiểu châm ngôn. Việt Bắc đã trở thành đầu mối qui tụ tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc, là
điểm chốt lại của bài thơ. Hai chữ “ N H Ì N L Ê N ” thể hiện sự ngưỡng vọng về Niềm Tin, về
Lãnh tụ Hồ Chí Minh đang “ V Ạ C H Đ Ư Ờ N G Đ I T Ừ N G P H Ú T T Ừ N G G I Ờ ” ( S Á N G
T H Á N G N Ă M - Tố Hữu) cho dân tộc. Hai chữ “ T R Ô N G V Ề ” thể hiện sự gắn bó máu thịt
đầy ân nghĩa thủy chung của quân và dân. Chính vì thế, Việt Bắc không còn là cái tên gọi
riêng mà đã trở thành một biểu tượng chung cho sức mạnh Kháng chiến, cho linh hồn Cách
mạng, cho ý chí Toàn dân. Như vậy, Việt Bắc bình dị đã trở thành Việt Bắc thiêng liêng. Việt
Bắc ấy nào ai quên được, bởi nói như Khổng Tử: “ K I M C Ư Ơ N G C H I Ế U S Á N G V Ề
NHIỀU PHÍA, QUÁ KHỨ SOI RỌI TƯƠNG LAI. ”
BÀI 4 : ÔN TẬP ĐẤT NƯỚC
(Nguyễn Khoa Điềm)
TRỌNG TÂM:
Nội dung chính cần ôn tập :
1. Những cảm nhận mới mẻ về đất nước
+ Đất nước có từ bao giờ ?
+ Đất nước là gì ?
2. Tư tưởng đất nước của nhân dân
+Ai làm nên đất nước ?
Các đoạn thơ quan trọng :
Đoạn : khi ta lớn lên đất nước đã có rồi...từ ngày đó
Đoạn : đất là nơi anh đến trường... nhớ ngày giỗ tổ
Đoạn : trong anh và em hôm nay... làm nên đất nước muôn đời
Đoạn : những người vợ nhớ chồng...đã hóa núi sông ta
Đoạn : Em ơi em hãy nhìn rất xa... đất nước của ca dao thần thoại
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát
1, Tác giả :
Quê hương: Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế (quê gốc làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế).
Gia đình: Gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng (bố là Nguyễn
Khoa Văn - Hải Triều, nhà báo, nhà phê bình văn học, nhà lí luận tiên phong trong nền báo
chí cách mạng Việt Nam vào những năm của thập niên 1930).
Quá trình hoạt động:
Năm 1955, ra Bắc học tại trường học sinh miền Nam.
Năm 1964, tốt nghiệp đại học sư phạm Hà Nội, khoa văn (cùng lứa với Phạm Tiến
Duật, Lê Anh Xuân). Sau khi tốt nghiệp đại học, ông trở về quê hương, hoạt động trong
phong trào học sinh, sinh viên thành phố Huế, xây dựng cơ sở của Mặt trận giải phóng miền
Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ đã từng bị bắt, bị giam tại lao Thừa Phủ.
Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, được giải thoát, tiếp tục hoạt động trở lại tại chiến
trường Trị Thiên.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, ông tiếp tục hoạt động chính trị và văn nghệ
ở Thừa Thiên Huế. Ông đã từng đảm nhận nhiều cương vị trọng trách (Phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh
Thừa Thiên Huế, Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- thông
tin, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư 'tưởng- Văn hóa Trung
ương).
Sau Đại hội X của Đảng (từ 18 đến 25/4/2006), ông về nghỉ hưu ở Huế, tiếp tục làm
thơ.
Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca, 1974),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (thơ, 2007).
Đánh giá: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu
nước. Thơ ông là kết tinh của niềm xúc cảm nồng nàn và những suy tư sâu lắng của người trí
thức về đất nước và con người Việt Nam, có những phương thức cảm nhận và thể hiện mới
mẻ, độc đáo. Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2. Trường ca “Mặt đường khát vọng”
Thể thơ tư do, dài hơn 1000 câu, được sáng tác tại Trại sáng tác của chiến, khu
Trị Thiên (đặt trên đất Lào) năm 1971. Xuất bản lần đầu năm 1974.
Đây là một sự thế nghiệm mạnh bạo, mới mẻ của nhà thơ bằng giọng thơ trữ
tình chính luận trong việc bộc bạch những suy tư, cảm xúc của ông về Đất nước, về
Nhân dân, về Dân tộc nhằm thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non
sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến
đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:
“Ôi Đất phải ra đi và Đất phải trở về
Là gạch ngói đau thương là chiến hào căm giận
Là Trường Sơn dựng lên ngàn bệ phóng
Là Kì đài xưa ta khắc một câu thề: Giải phóng! ”
Trong Trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ quá khứ đến
hiện tại, từ đau thương đến hạnh phúc, từ sách vở đến cuộc đời để bộc bạch những cảm nhận
của ông về Đất Nước theo hai chiều không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật hên các
phương diện lịch sử, địa lí, văn hóa, văn học dân gian, gắn liền với đời sống của mỗi con
người và tâm hồn dân tộc nhằm khẳng định tư tưởng: Đất nước của Nhân dân, do Nhân dân
làm ra.
Điều đặc biệt là Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận, vận dụng một cách sáng tạo những
di sản văn hóa, văn học dân gian trong quá ừình bộc bạch những suy tư, cảm xúc về Đất
Nước, về Nhân Dân bằng ngôn ngữ bình dị, giọng điệu tha thiết, trang nghiêm, trầm lắng.
3. Đoạn trích Đ Ấ T N Ư Ớ C (thuộc chương V trường ca M Ặ T Đ Ư Ờ N G K H Á T
V Ọ N G ) là đoạn trích đặc sắc, thể hiện những cảm nhận mới mẻ, độc đáo về đất nước, đây có
thể xem là linh hồn của Trường ca dài hơn 1000 câu. Ở đó, ta thấy được cảm xúc chủ đạo của
đoạn thơ được bao trùm bởi tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, do Nhân dân làm ra. Tư tưởng
này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là dòng chủ lưu trong nguồn mạch chính luận - trữ tình, là sự kế
thừa tư tưởng truyền thống của cha ông trong văn học dân tộc.
Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ được bao trùm bởi tư tưởng “Đất nước của Nhân
dân, do Nhân dân làm ra”. Cảm xúc này được bộc lộ qua một cái tôi trữ tình giàu suy tư, ưa
phân tích, lí giải. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình-chính luận sâu lắng, thiết
tha.
Đây là tư tưởng mang tính truyền thống, vốn có từ xa xưa trong lịch sử của dân tộc
Việt Nam. Điều này được thể hiện ở một số nhà văn, nhà thơ sau:
- Lí Thường Kiệt đã khẳng định sông núi nước Nam là của Hoàng đế nước Nam, cũng
là của Nhân dân, do Nhân dân làm nên và trấn giữ: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”(Thơ Thần-
1076).
- Nguyễn Trãi đã đồng nhất Nhân dân với Đất nước, đã đề cao vai trò của Nhân dân:
Nhân dân là người nắm giữ vận mệnh của Đất nước: “Dân là nước, chở thuyền cũng là
nước,Tật thuyền cũng là nước.”
Trong “Bình Ngô đại cáo”(1428), Nguyễn Trãi đã định nghĩa một cách đầy đủ về
nước Đại Việt với các yếu tố cấu thành: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài:
“NHƯ NƯỚC ĐẠI VIỆT TA TỪ TRƯỚC
VỐN XƯNG NỀN VĂN HIẾN ĐÃ LÂU
NÚI SÔNG BỜ CÕI ĐÃ CHIA
PHONG TỤC BẮC NAM CŨNG KHÁC
TỪ TRIỆU, ĐINH, LÍ, TRẦN ĐÃ BAO ĐỜI GÂY NỀN ĐỘC LẬP
Cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên môi bên xưng đế một phương
Tuy manh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Nước Đại Việt có được là do:
“ Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một
lòng phụ tử, hòa niĩớc sông chén rượu ngọt ngào
- Phan Bội Châu đã rat logic trong khái quát: “Dân là dân nước - Nước là nước dân”.
Nghĩa là: Dân là dân của Nước, Nước là nước của Dân.
- Hồ Chí Minh thì rất cụ thể, giản dị: “Sự nghiêp cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhan dân Người còn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng, bất di bất dịch giữa Đất nước
và Nhân dân trong mọi thời đại: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có
thể cạn, núi có thế mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi.”
- Nguyễn Đình Thi rất phấn chấn khi ngợi ca những người dân Việt trong chín năm
chống Pháp bằng những lời thơ sung mãn: “ôm đất nước những người áo vải, đã đứng lên
thành những anh hùng". Sau chiến thắng Điện Biên, niềm tự hào về chủ quyền đất nước theo
đó mà trào dâng trong bài thơ “Đất nước”( 1948-1955):
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngã đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.”
- Tố Hữu cũng đã ngợi ca Đất nước và Nhân dân trên bước đường “Ta đi tới (8/1954)
với cảm quan nghệ thuật “Của ta trời đất đêm ngày - Núi kia đồi nọ sông này của ta”:
“Mây nhởn nhơ bay,
Hôm nay ngày đẹp lắm!
Mây của ta, trời thắm của ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa! ”
* Rõ ràng, tư tưởng Đất nước của Nhân dân, do Nhân dân làrn ra là dòng mạch chủ
lưu của văn học Việt Nam, là sức mạnh để dân tộc Việt Nam giương cao ngọn cờ Độc lập dân
tôc trên bước đường bảo vệ và dựng xây đất nước.
II, Phân tích
Phần 1 : những cảm nhận mới mẻ về đất nước
1. Phân tích 9 câu đầu: (đất nước có từ bao giờ?)
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa... ” mẹ thường hay
kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái, kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Trong suốt chiều dài hình thành và phát triển lâu đời của đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm đặc biệt chú ý vào 2 thời điểm đ ấ t n ư ớ c b ắ t đ ầ u và đ ấ t n ư ớ c lớn l ê n
Để xây dựng hình tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng tìm về cội nguồn
của Đất nước khi trả lời câu hỏi Đ Ấ T N Ư Ớ C C Ó T Ừ B A O G I Ờ ? . Khác với các nhà văn
cùng thế hệ thường tạo ra khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước với các
từ ngữ, hình ảnh kì vĩ có tính chất biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi
để miêu tả 1 đất nước tự nhiên bình dị mà không kém phần thiêng liêng tươi đẹp. Hình ảnh
đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động và lắng đọng trong tâm
tưởng của chúng ta qua những nét đẹp về phong tục tập quán, văn hóa, truyền thống mang
đậm dấu ấn của con người Việt Nam.
Đoạn trích mở đầu bằng câu : K H I T A L Ớ N L Ê N Đ Ấ T N Ư Ớ C Đ Ã C Ó R Ồ I .
Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là một giá trị lâu bền vĩnh hằng, được
tạo dựng và bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cách nói “đất
nước đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn
năm lịch sử. Cũng như trời và đất, đất nước có từ rất xa xưa, khó xác định, nó luôn hiện hữu
quanh ta với những gì yêu thương nhất. Cụm từ ‘ngày xửa ngày xưa” là cách mở đầu quen
thuộc trong các câu chuyện cổ tích của ông cha ta. Nó gợi ra một khoảng thòi gian rất xa giúp
người đọc có thể hình dung về việc đất nước có từ rất lâu đời.
Trong 2 câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của đất nước trong chiều sâu văn
hóa phong tục tập quán :
Đ Ấ T N Ư Ớ C B Ắ T Đ Ầ U V Ớ I M I Ế N G T R Ầ U B Â Y G I Ờ B À Ă N Những từ ngữ
“đất nước có trong” “đất nước bắt đầu” là những từ ngữ diễn tả nhẹ nhàng về sự ra đời của đất
nước ở hai câu thơ này tác giả đã mượn chất liệu của văn hóa dân gian để nói về cội nguồn đất
nước. Đất nước vô cùng thân thương qua lời kể “ngày xửa ngày xưa’ của mẹ. Đất nước có từ
trước khi những câu chuyện cổ ra đời vì vậy những câu chuyện cổ trở thành nguồn sữa mát
lành chăm bẵm cho tâm hồn, nhân cách của chúng ta, và khi lớn lên ta sẽ biết yêu đất nước,
yêu con người. Câu thơ Đ Ấ T N Ư Ớ C B Ắ T Đ Ầ U V Ớ I M I Ế N G T R Ầ U B Â Y G I Ờ B À Ă N
gợi cho ta nhớ đến câu chuyện cổ tích trầu cau .Miếng trầu là hình ảnh quen thuộc trong văn
hóa của người Việt. Đằng sau vẻ bề ngoài nhỏ bé bình dị là cả một nền văn hiến lâu đời đậm
đà bản sắc dân tộc được gói ghém trong miếng trầu. Trong phong tục cưới xin, hay ma
chay ,tế lễ, miếng trầu là đầu câu chuyện, là vật đính ước, là tín hiệu giao duyên:
“Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu loan trầu phượng trầu mình trầu ta”
Như vậy có thể thấy đằng sau cách diễn đạt mới mẻ độc đáo là nhận thức rất sâu sắc
của Nguyễn Khoa Điềm: 1 đất nước chỉ thực sự bắt đầu khi có nền văn hóa riêng mang đậm
bản sắc của dân tộc mình .
Với thời điểm đất nước lớn lên, tác giả tiếp tục có 1 khẳng định thuyết phục :
ĐẤT NƯỚC LỚN LÊN KHI DÂN MÌNH BIẾT TRỒNG TRE MÀ ĐÁNH
G I Ặ C Câu thơ khai thác chất liệu từ 1 truyền thuyết được coi là hào hùng nhất trong kho tàng
văn học dân gian: truyền thuyết Thánh Gióng. Câu thơ vừa gợi ra hình ảnh dũng mãnh của
Thánh Gióng khi gậy sắt gãy đã nhổ bụi tre ngà để quét sạch lũ giặc An, vừa gợi ra được r ấ t
nhiều thế hệ người dân VN dã dùng tre để vót chông, làm mũi lên, làm gậy gộc để đánh
giặc. Đằng sau những hình ảnh này nhà thơ đã khẳng định 1 sự thật đúng đắn đó là 1 dân tộc
chỉ thực sự trưởng thành khi nhân dân của dân tộc ấy có ý thức , có đủ sức mạnh và bản lĩnh
đế đánh giặc ngoại xâm bảo vệ nền hòa bình, độc lập của dân tộc. Nhìn vào lịch sử 4000
năm dựng nước giữ nước khi dân tộc ta liên tục phải gồng mình đế chống lại giặc ngoại
xâm thì nhận thức của Nguyễn Khoa Điềm trở nên thấm thía hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ 1 mệnh đề vô cùng quan trọng là một đất nước chỉ thực sự bắt đầu
khi có một nền văn hóa, ở những câu thơ sau NKĐ đã miêu tả những nét đặc sắc, đặc
trưng riêng của văn hóa VN trên nhiều phương diện :
+ Đó là văn hóa trang phục “Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Câu thơ đã gợi ra đặc trung riêng vô cùng quen thuộc trong văn hóa trang phục
của người phụ nữ VN đó là mái tóc thường được búi gọn sau đầu. Thế nhưng ý nghĩa
của câu thơ không chỉ dừng lại ở đó. Đặt hình ảnh của mái tóc được búi đơn giản gọn
gàng của người VN bên cạnh những kiếu tóc cầu kì của các dân tộc khác người đọc có
thể cảm nhận rất rõ sự giản dị, thuần hậu, chất phác, mộc mạc của người PNVN.
+ Đó còn là văn hóa ứng xử :
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Bằng việc vận dụng sáng tạo thành ngữ “ gừng cay muối mặn” NKĐ đã cho
thấy đặc trưng rất riêng trong văn hóa ứng xử của người VN: đối xử với nhau không
phải bằng những điều luạt khô khan, cứng nhắc, mà chủ yếu bằng tình nghĩa. Đặc biệt
những tình nghĩa ấy được tạo nên khi cùng nhau vượt qua những khó khăn, khắc
nghiệt của cuộc sống .
+ Đó còn là văn hóa đặt tên :
Cái kèo, cái cột thành tên
Câu thơ đã gợi ra lối tư duy đơn giản, hồn nhiên nhưng cũng đậm màu sắc tâm linh
của người VN khi đặt tên cho con cái. Với quan niệm tên xấu xí thì dễ nuôi, người VN
thường không hay chọn những cái tên cầu kì, kiếu cách mà thường sử dụng chính
những sự vật quen thuộc, gần gũi trong đời sống hằng ngày để đặt tên cho con cái
mình. Đằng sau nét văn hóa đặc trưng đó, người đọc cũng có thé cảm nhận rõ lối sống
cởi mở chan hòa với tư nhiên của người VN.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Thành ngữ “ một nắng hai sương” cùng với 4 động từ liên tiếp “xay- giã - giầm sàng”
đã gợi ra được cả một nền vân minh nông nghiệp gắn với việc trồng lúa nước của người VN.
Câu thơ khiến người đọc cảm nhận rất rõ những nhọc nhằn vất vả, cơ cực của người dân VN
khi phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt nhưng quan trọng hơn là giúp người đọc cảm nhận
được sự cần cù, chăm chỉ chịu thương chịu khó của người dân VN từ ngàn đời nay.
Chỉ bằng câu thơ NKĐ đa tạo nên cả một thước phim tư liệu đầy màu sắc về vẻ đẹp
trong văn hóa phong tục tập quán của người VN nền văn hóa ấy vẩn do cha mẹ và những
người nông dân cần cù chăm chỉ làm nên, gìn giữ và phát triển. Nó khiến cho người đọc nhận
thức được 1 dân tộc chỉ thực sự bắt đầu khi dân tộc đó có 1 nền văn hóa riêng.
Đoạn thơ được khép lại bằng câu “ đất nước có từ ngày đó”. Ngày đó là ngày nào ta
không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống , có phong tục tập quán, có văn
hóa văn minh ,đó chính là những thành tố tạo nên đất nước.
N g h ệ t h u ậ t : Thành công của đoạn thơ là vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa
dân gian như tục ăn trầu, búi tóc sau đầu, truyền thuyết Thánh Gióng. Sử dụng thành ngữ dân
gian, ca dao, tục ngữ, ngôn ngữ mộc mạc giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng vẫn mang
đậm tính triết lí.
2. Phân tích đoạn : (đất nước là gì ?)
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc ”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.
Sau khi trả lời 1 cách thuyết phục câu hỏi Đ Ấ T N Ư Ớ C C Ó T Ừ B A O G I Ờ , NKĐ
tiếp tục đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi Đ Ấ T N Ư Ớ C L À G Ì . Để trả lời cho câu hỏi này ,
NKĐ đã tách đất nước thành hai thành tố đất và nước để giải thích 1 cách đơn giản nhưng cụ
thể về đất nước.
4 câu thơ đầu đoạn thơ , tác giả đã giới thiệu về đất nước theo lối chiết tự, đi từ cái
riêng đến cái chung, giúp cho người đọc có cái nhìn rõ hơn về không gian địa lí của đất nước:
+ Với cặp đất nước đầu tiên :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Ở đây thành tố đất gắn liền với con đường anh đi đến trường, con đường mang tới cho
anh những hành trang tri thức để anh tự tin làm chủ cuộc sống. Còn thành tố nước lại gắn liền
với dòng sông noi em tắm máí, Với cách chiết tự ấy, NKĐ dà giúp ta hình dung một
cách cụ thể đất nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt hàng ngày.
Đất nước còn gắn với kỉ niệm riêng tư của những đôi lứa yêu nhau :
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Khi ta hò hẹn, đất nước hòa nhập làm một, nâng bước minh chứng cho tình yêu
đôi lứa, và khi đôi lứa yêu nhau thì đất nước cũng trở thành nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm. Câu thơ gợi nhớ một bài ca dao nổi tiếng của người Việt:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Rõ ràng, bằng việc tách hai thành tố đất nước tác giả đã giúp cho người đọc
cảm nhận được hình hài, dáng vẻ của đất nước. Đất nước hiện lên thật bình dị với nơi
anh đến trường nơi em tắm. Tuy nhiên lối chiết tự chỉ giúp cho người đọc hiểu được
thành phần của 1 khái niệm chứ không thể là bản thân khái niệm bởi đất nước không
chỉ đơn giản là sự cộng gộp của hai thành tố đất và nước. Ý thức được điều này, sau
khi chiết tự, nhà thơ lại đi tìm chất keo kết dính các thành tố đơn lẻ để có thể tạo thành
đất nước: đó chính là tình yêu đôi lứa.
+ Với cặp đất nước thứ hai:
Đât là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc ”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi ”
Nhà thơ tiếp tục tách hai thành tố đất và nước để lí giải sâu sắc hơn về khái
niệm này. Ở hai câu thơ, tác giả đã mượn chất liệu dân ca Huế để cảm nhận về đất
nước trên bình diện không gian địa lí. Có thể hiểu đất nước là núi sông rừng bể, là
hòn núi bạc, là biển khơi, là bờ cõi thiêng liêng của tổ quốc. Cách nói ấy giúp ta hình
dung đất nước ta là đất nước rừng vàng biển bạc và trong không gian mênh mông ấy,
nhiều thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống, gìn giữ, làm nên non sông gấm vóc VN. Ở hai
câu này, NKĐ đã sử dụng chất liệu từ những câu hò của người miền Trung, trong đó
các hình ảnh “hòn núi bạc” “biển khơi” gợi ra không gian vừa rộng lớn vừa đẹp đẽ.
Còn hình ảnh con chim phượng hoàng, còn cá ngư ông gọi ra được sự giàu có, vương giả.
Tất cả đem đến cho người đọc hình dung về một đất nước vừa rộng lớn vừa giàu đẹp.
+ Với cặp đất nước thứ 3 :
Điều đặc biệt, NKĐ không chỉ cảm nhận về đất nước gắn với biên cương lãnh
thố mà còn cảm nhận đất nước gan với chiều dài lịch sử. Với niềm tự hào dân tôc,
NKĐ đã nhắc lại truyền thuyết về con rồng cháu tiên :
Thời gian đằng đẳng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Ấu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Thời gian đằng đẵng chính là chiều dài của lịch sử, không gian mênh mông là bề rộng
của địa lý, không gian thời gian ấy chính là nơi dân mình đoàn tụ. Câu chuyện truyền thuyết
mẹ Âu cơ sinh ra bọc trăm trứng có từ rất lâu nhằm lí giải nguồn gốc của nguời Việt. Từ câu
chuyện ấy, dân ta muôn đời vẫn tự hào mình là con rồng cháu tiên, là con cháu của vua Hùng.
Đất nước không gì khác chính là không gian sinh tồn, phát triển của các dân tộc anh em cùng
được sinh ra trong bọc trứng của mẹ Âu cơ.
Cho nên ở đây đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá khứ,hiện tại, và tương
lai :
Những ai đã khuất
Những ai bầy giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Nguyễn Khoa Điềm đã đi ra ngoài chủ đề chính của đoạn trích để nhắc nhở người đọc
về cách ứng xử đối với tổ tiên, nguồn cội. Đây cũng là một cách làm rất hợp lí bởi ở trên tác
giả vừa mới nhắc đến sự tích thiêng liêng về bà Âu cơ và Lạc Long Quân. Nhắc đến nguồn
cội là nhắc đến điều thành kính và xúc động nhất: dù mỗi người đều có những công việc khác
nhau nhưng đều phải có nghĩa vụ chung là phát huy truyền thống tốt đẹp uống nước nhớ
nguồn.N H Ữ N G A I Đ Ã K H U Ấ T là những con người trong quá khứ những con ngưòi sống
giản dị chết bình tâm, có công dựng nước và bảo vệ đất nước. N H Ữ N G A I B Â Y G I Ờ là
những người đang sống trong thực tại, những người đang sống, chiến đấu để giữ vững chủ
quyền thiêng liêng của tổ quốc. Một điều rất đáng trân trọng là tất cả những người VN đều ý
thức sâu sắc về sứ mệnh của mình . Họ ý thức được rằng ngoài việc lập gia đình, sinh con đẻ
cái để bảo tồn nòi giống cho dân Việt, họ còn phải gánh vác phần việc của người đi trước để
lại, dặn dò con cháu chuyện mai sau.
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.
Hành động cúi đầu mà nhà thơ nhắc đến không phải là hành động ồn ào khoa trương mà là
hành động rất lặng lễ thể hiện sự thành kính biết on chân thành, sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến
bài ca dao quen thuộc :
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Tất nhiên biết nhớ ơn nguồn cội chính là một dạng tình yêu để thế hệ sau biết gìn giữ, phát
huy những thành quả của thế hệ trước và nhờ đó đất nước mới được trường tồn. Câu thơ nhắc
nhở mỗi người dân VN phải biết hướng về lịch sử, về giỗ tổ Hùng Vương. Đó chính là sự
thành kính thiêng liêng trong tâm linh của mỗi người dân Việt.
+ N g h ệ t h u ậ t : thể thơ tự do, lối tách từ độc đáo, phép điệp cú pháp, sử dụng nhuần
nhuyễn linh hoạt sáng tạo những chất liệu của văn học dân gian, chất trữ tình hòa quyện với
chất chính luận đặc sắc.
3. Phân tích đoạn
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Sau khi trả lời được câu hỏi Đ Ấ T N Ư Ớ C C Ó T Ừ B A O G I Ờ và Đ Ấ T N Ư Ớ C L À
G Ì tác giả đã khơi dậy trong mỗi người ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Khổ thơ được mở đầu bằng một mệnh đề vô cùng quan trọng :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Tiếp tục những khám phá mới mẻ độc đáo về đất nước đã có ở trên, ở mệnh đề này
Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên sự thú vị bằng cách đặt ra mối quan hệ giữa cá nhân với đất
nước, đó là sự gắn bó hữu cơ không thể tách rời Đất nước là một phần trong anh và em, là 1
phần trong cơ thể của mỗi chúng ta bởi vì đất nước là nơi ta sinh ra lớn lên, sinh hoạt, học
tập. Đất nước là chủ quyền lãnh thổ, là núi sông bờ cõi do biết bao con người đã dựng nên.
Đất nước còn là hơi thở của ta , là máu thịt thiêng liêng cho nên không ai sống trong một lãnh
thổ của mình mà không được thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần của ông cha. Với
cách nói trên, Nguyễn Khoa Điềm đã cho thấy niềm tự hào của thế hệ trẻ về đất nước.
+ Đất nước là sự kết nối giữa cá nhân với cá nhân :
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà
nồng thắm
Những cá nhân gắn kết với nhau bằng tình yêu lứa đôi sẽ tạo nên gia đình yên ấm,
hạnh phúc mà gia đình chính là tế bào của xã hội. Bởi vậy sự gắn kết giữa người với người
trong tình yêu lứa đôi sẽ là tiền đề tạo nên đất nước hạnh phúc thanh bình.
+ Khi vòng tay được mở rộng, đất nước không chỉ là sự kết nối giữa cá nhân với cá nhân
mà là sự kết nối giữa cá nhân với cộng đồng tập thể
Khi chúng ta cầm tay mọi người.
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Điệp từ “ cầm tay” được nhắc lại hai lần thể hiện một tình cảm đẹp: Khi hai đứa cầm tay là
lúc cả 2 đều hiểu nhau yêu thương nhau, khi hai đứa cầm tay mọi người là sự vươn xa lớn dậy
của cái tôi cá nhân. Từ thế giới của anh em , họ vượt qua cái tôi bé nhỏ để đến với cái ta
chung, vì thế vòng tay của họ cũng rộng mở để tình đoàn kết hữu nghị càng thêm bền chặt. Ở
đây NKĐ đã cho ta thấy rằng tình yêu chỉ thực sự đẹp khi tình yêu ấy hòa vào tình yêu của
cộng đồng . Hình ảnh đất nước lúc này không chỉ dừng lại ở chỗ hài hòa nồng thắm mà trở
nên vẹn tròn to lớn. Kết luận này cũng hoàn toàn thuyết phục bởi sự gắn kết giữa cá nhân với
cộng đồng tạo nên sức mạnh đoàn kết to lớn giúp đất nước bao lần chiến đấu và và chiến
thắng giặc ngoại xâm.
Như nhà thơ Tố Hữu cũng viết :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để
tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi
với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm
mạnh khối đời.
( Từ ấy- Tố Hữu)
Chính vì có ý thức cộng đồng như vậy nên trường ca Mặt đường khát vọng đã thức tỉnh tuổi
trẻ đô thị miền nam xuống đường đấu tranh cho “vòng tay lớn mãi để nối sơn hà”.
+ 3 câu thơ tiếp theo nhà thơ hướng về tương lai phía trước với những ước mơ giản dị:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

Từ hiện tại của cuộc đấu tranh khốc liệt chống lại Đế quốc Mĩ, khi mà “ bom na pan
dội lửa mái nhà”, khi mà hàng trăm ngàn người phải sống dưới địa đạo nhưng họ vẫn yêu
nhau, vẫn ước mơ và mong chờ phía trước với 1 niềm tin quyết thắng. Nguyễn Khoa Điềm đã
mơ về tương lai khi mai này con ta lớn lên để nhắc nhở thế hệ trẻ hãy kế tục truyền thống để
làm rạng danh quê hương đất nước . Lời nhắn nhủ ấy tha thiết nồng nàn bởi vì NKĐ mong
muốn rằng con sẽ mang đất nước đi xa như những vì sao tiến lên phía trước để đến những
tháng ngày tươi đẹp mở rộng những ngày của hòa bình tự do. Đó không chỉ là ước mơ của
riêng NKĐ mà còn là niềm mong mỏi của hàng chục triệu con người VN.
+Trách nhiệm với đất nước
Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ giữa đất nước với tâm hồn của
từng con người. Với giọng thơ nhắn nhủ tâm tình nhà thơ nhắc nhở thế hệ trẻ:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
NKĐ viết lên nhũng câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một con người lăn lộn
trong phong trào đấu tranh của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình
để nói lên những tâm tư, nhiệt huyết của tuổi trẻ, đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính
chính luận về sự trường tồn của đất nước. Đất nước bất tử chính nhờ ở những con người sẵn
sàng dâng bầu nhiệt huyết cho sự nghiệp cứu nước cứu dân. Ba tiếng “em ơi em” vang lên
thật ấm áp trìu mến. Nó như một khúc đạo đầu cho lời nhắn nhủ ân tình nhẹ nhàng cảm động.
Cách so sánh gần gũi: đất nước là máu xương của mình khẳng định ý nghĩa : Đất nước không
thế thiếu trong anh và em, nó như máu như xương cấu thành nên cơ thể. Và thiêng liêng hơn,
đất nước còn là 1 phần máu thịt của những con người đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Lời thơ giản dị mà rất đỗi thiêng liêng. Phải chăng tình yêu tổ quốc
trong lòng tuổi trẻ đã được đẩy lên 1 bước cao nhất trong trái tim của mỗi người. NKĐ cũng
giống như nhà thơ Giang Nam khi thể hiện tình yêu đất nước trong bài thơ “ Quê hương” :
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm.
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong tùng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm được viết như một mệnh lệnh nhưng không
khô khan cứng nhắc mà trở thành lời nhắn nhủ thiết tha. Điệp ngữ “phải biết” được nhắc lại 2
lần như nhắc nhở mọi người về trách nhiệm đối với đất nước. Ở đoạn thơ này có những từ
ngữ đáng chú ý : G Ắ N B Ó , S A N S Ẻ , H Ó A T H Â N . Gắn bó là có mối quan hệ mật thiết với
nhau, từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc. Mặt khác, đất nước không
phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng đoàn kết. Vì thế mỗi con
người cần phải biết hóa thân, hòa mình vào đất nước, cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc để làm nên đất nước muôn đời. Các động từ G Ắ N B Ó S A N S Ẻ H Ó A T H Â N
được sắp xếp theo chiều tăng tiến về mức độ cống hiến, có tác dụng thôi thúc, giục giã, thối
bùng lên ở mỗi người dân nhiệt huyết và quyết tâm chiến đấu hi sinh vì tổ quốc. Đặt vào hoàn
cảnh ra đời của bài thơ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cuối vô cùng
ác liệt thì những câu thơ của NKĐ có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên, khơi dậy
tinh thần trách nhiệm của mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ cống hiến cho đất nước.
Phần 2 : tư tưởng đất nước của nhân dân
4. Phân tích đoạn
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hoàn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thắm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông la...
Sau khi làm rõ câu hỏi: đất nước có từ bao giờ ? đất nước là gì? Nhà thơ tiếp tục dành
nhiều tâm huyết để giải đáp cho câu hỏi “đất nước do ai làm ra?”. Câu hỏi này đã được tác giả
trả lời 1 cách thuyết phục trên cả 3 trục địa lý- lịch sử- văn hóa.
a. Trước tiên NKĐ đã chứng minh vai trò của nhân dân lao động trong việc tạo ra diện
mạo về địa lí:
+ Đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy nhất ở đoạn thơ này chính là s ự x u ấ t h i ệ n
với mật độ dày đặc của các danh từ riêng chỉ địa danh.
Nghệ thuật liệt kê đã giúp tác giả đưa vào rất nhiều địa danh ở 3 miền tổ quốc: miền Bắc có
hòn Vọng Phu, đất tổ Hùng Vương, Hạ Long, miền Nam có dòng sông xanh thẳm (sông Cửu
Long ), địa danh Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Chỉ bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã kể ra hàng loạt địa danh nổi tiếng và cả những
không gian giản dị như R U Ộ N G Đ Ồ N G G Ò B Ã I ... Đoạn thơ là 1 tấm bản đồ địa lí của đất
nước giúp cho người đọc hình dung được sự rộng lớn và giàu đẹp của đất nước. Đặt trong
hoàn cảnh đế quốc Mỹ đang tìm mọi cách để chia rẽ, xâm lược đất nước ta thì những câu thơ
của NKĐ có y nghĩa khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ dân tộc.
+ Gắn với địa danh là tên những con người giản dị, vô danh.
Trong cả đoạn thơ dài, NKĐ đã liên tiếp sử dụng nhũng danh từ chung mang khái quát
như: người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, học trò nghèo, người dân nào, những cuộc
đời, Rõ ràng NKĐ không có ý định nêu danh , biểu dương 1 cá nhân cụ thể mà ông hướng
đến số đông quần chúng nhân dân - những con người bình dị nhất, vô danh nhất. Gắn với
những đối tượng này là một loạt các động từ thuộc cùng 1 trường nghĩa nói về sự đóng góp:
góp cho, góp nên, góp mình. Chỉ bằng lối diễ tả giản dị, dễ hiểu này, NKĐ đã khiến cho
người đọc hiểu được chân lí: không ai khác, chính nhân dân đã tạo nên diện mạo địa lí của đất
nước. Hoặc là họ truyền vẻ dẹp tâm hồn, dáng điệu của mình để tạo nên dáng núi hình sông
(gắn với những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau) hoặc họ khai khẩn để mở mang
bờ cõi (ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm) hoặc họ chiến đấu ảnh dũng để bảo vệ biên
cương. Tựu chung lại nhân dân lao động đã góp phần tạo nên sự toàn vẹn, sự đẹp đẽ trong
hình hài của dân tộc.
b. Trong chiều sâu văn hóa :
Không chỉ làm nên diện mạo địa lí, nhân dân lao động còn góp phần tạo nên chiều sâu
văn hóa của dân tộc. Dễ nhận thấy mỗi địa danh trong đoạn thơ này đều gắn liền với 1 sự tích,
1 truyền thuyết đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Đó là sự tích hòn Vọng
Phu, hòn Trống Mái, Núi Bút Non Nghiên, sông Cửu Long,... Đó là truyền thuyết Thánh
Gióng, Vua Hùng. Việc dùng những địa danh để gợi nhắc ra cả một thế giới văn hóa dân gian
cho thấy chính nhân dân lao động đã dùng tâm hồn, dùng trí tuệ để sáng tạo nên cả 1 kho tàng
văn học dân gian độc đáo và kì diệu đó.
Không chỉ dừng lại ở việc tạo nên thế giới văn học dân gian nhiều màu sắc, nhìn sâu,
nhìn kĩ hơn vào tùng dòng thơ người đọc còn thấy chính nhân dân lao động đã tạo nên những
vẻ đẹp quan trọng trong tâm hồn Việt Nam, tính cách VN: đó là tấm lòng thủy chung tình
nghĩa qua sự tích hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, đó là lòng yêu nước, lòng căm thù giặc
trong truyền thuyết Thánh Gióng, là tinh thần hiếu học làm nên sự tích núi bút non nghiên, là
phẩm chất cần cù chăm chỉ chịu thương chịu khó gắn với những Ông Đốc Ông Trang, Bà Đen
, Bà Điểm, vẻ đẹp tâm hồn trong đời sống tinh thần luôn là yếu tố quan trọng nhất trong một
nền văn hóa. Nó đã đưẹrc nhân dân lao động bằng cuộc đời của mình tạo nên những lối sống
đẹp , những tính cánh đẹp. Một lần nữa tác giả đã chứng tỏ vai trò của nhân dân trong việc
hình thành nên nền văn hóa của dân tộc.
-» Sau những chứng minh thuyết phục, NKĐ đã dùng lối tư duy quy nạp để đưa ra lời
khẳng định, kết luận của mình về vai trò của nhân dân lao động trong việc tạo nên diện mạo
địa lí mà ấn sâu trong đó là bề dày văn hóa. Đen đây tác giả không còn đừng lại ở 1 địa danh
cụ thế mà đã bao quát:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
CHẲNG MANG MỘT DÁNG HÌNH, MỘT AO ƯỚC, MỘT LỐI SỐNG ÔNG
CHA

Nghĩa là nhân dân không chỉ tạo nên những danh lam thắng cảnh tươi đẹp mà còn
góp vào đó những giá trị tinh thần , những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa
ngàn đời của con người VN.
Nhận thức được điều đó nhà thơ đã xúc động trào dâng để lời thơ bật ra thành lời cảm
thán trước vai trò của nhân dân trong việc làm ra đất nước :
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
Nghệ thuật:
Đoạn thơ được viết theo thể tự do ,có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên, câu thơ mở rộng kéo dài
nhưng không nặng nề mà biến hóa linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu cảm và sự khái
quát cao.
Thủ pháp liệt kê địa danh, điệp từ “góp” được nhắc lại nhiều lần .
5 . Phân tích đoạn (vai trò của nhân dân trong việc tạo nên bề dày lịch sử mà ấn
bên trong cũng là chiều sâu của văn hóa dân tộc)
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bon ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng
đánh Nhiêu người đã trở thành anh
hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã loan ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chổng ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khỉ chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Tác giả đã nhìn thấu vào 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc để nhận thấy 1
chân lí, để có thể tạo nên được 1 lịch sử lâu bền, hào hùng của dân tộc ta, không thể không kể
đến những con người vô danh bình dị :
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Nhà thơ bày tỏ niềm tự hào về những cô gái chàng trai, tự hào về tuổi trẻ. Cách dùng từ “ năm
tháng nào”, “ người người lớp lớp” chỉ sự đông đảo của con người tmg lịch sử hết lớp này đến
lớp khác đã thay nhau làm nên lịch sử nước nhà.
Khi đất nước hòa bình, những con người ấy lại trở về với cuộc sống thường nhật, họ
chăm chỉ cần cù làm lụng. Nhưng khi đất nước có chiến tranh, những chàng trai ấy lại trở
thành Thạch Sanh, Thánh Gióng lên đường xông pha trận mạc còn người con gái ở nhà lo
việc hậu phương tăng gia sản xuất nuôi dạy con cái.
Nhà thơ đã gợi ra được không khí sục sôi khi nhân dân ta chiến đấu oanh liệt để bảo
vệ dân tộc. Thật hiếm có dân tộc nào mà tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc lại sục sôi
không chỉ ở đấng nam nhi đại trượng phu mà ở cả những người phụ nữ chân yếu tay mềm.
Bằng việc sử dụng thành ngữ “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” NKĐ cho thấy nhân dân VN
dù là những đối tượng nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất cũng mang trong mình ý chí sục sôi để đánh
giặc bảo vệ quê hương. Chính từ việc nhìn thấy vai trò của nhân dân lao dộng trong những
thời điểm khác nhau của lịch sử nên tác giả đã đi đến lời khẳng định ngợi ca:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Về hình thức, giữa những câu thơ dài như những câu văn xuôi xuất hiện những
câu thơ ngắn, đanh, chắc, tạo ra sự chú ý đặc biệt. Tác giả đã ghi tạc công lao cuả nhân
dân lao động trong việc làm ra đất nước mà điều vĩ đại nhất là ở họ không có sự thổi
phồng, ra vẻ. Họ đã sống cuộc đời giản dị, bình lặng nhưng nó thực sự là 1 quá trình
cống hiến âm thầm, bền bỉ cho đất nước.
Song song với bề dày lịch sử là dòng chả liên tục của văn hóa. Ở đoạn sau
NKĐ đã viết những câu thơ có cùng 1 kiểu cấu trúc, tất cả đều bắt đầu bằng từ “họ” và
tiếp sau đó là những động từ nói về việc làm, đóng góp của nhân dân cho văn hóa của
dân tộc. Những câu thơ dài đã giúp người đọc hình dung ra dòng chảy liên tục của văn
hóa. Nhà thơ đã chứng minh vai trò của nhân dân trên rất nhiều phương diện: Họ tạo ra
cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước: họ tạo ra lửa để đưa dân tộc bước từ thời
đại hỗn mang, mông muội sang thời đại văn minh, họ tạo nên và làm giàu đẹp cho
ngôn ngữ của dân tộc, họ gìn giữ phong tục tập quán của dân tộc dù đi đến phương trời
nào, họ tạo ra tất cả các cơ sở, các giá trị vật chất cho thế hệ sau thừa hưởng :
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho môi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Nhân dân là những con người không tiếc máu xương sẵn sàng đứng lên bảo vệ
đất nước:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Như vậy dù trên phương diện vật chất hay tinh thần, chúng ta đều có thể thấy
dấu ấn của nhân dân lao động được in một cách đậm nét. Nhìn vào dòng chảy liên tục,
mạnh, mẽ của văn hóa, bóng dáng của nhân dân lao động càng trở nên đẹp đẽ hơn
bao giờ hết.
Để Đất Nước này là Đất nước Nhân đân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Nhà thơ sử dụng lối nói vắt dòng độc đáo để hai từ đất nước - nhân dân được
vắt từ cuối câu thơ trên xuống đầu câu thơ dưới với dụng ý tô đậm và khắng định tư
tưởng đất nước của nhân dân. Hai từ Đất Nước và Nhân Dân được viết hoa thể hiện
thái độ trân trọng, ngợi ca, tôn vinh. Cách nói “đất nước của ca dao thần thoại” nhằm
khảng định ý nghĩa: chính nhân dần là người sáng tạo nên cả một thế giới văn học dân
gian Trong rất nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần mà nhân dân dã tạo ra, nhà thơ
đặc biệt nhấn mạnh vào văn học dân gian bởi qua văn học dân gian, tất cả những vẻ
đẹp của đất nước, con người VN được thế hiện rõ nét nhất.
Và trong đó, tác giả đã chọn ba câu ca dao nói về ba phương điện quan trọng
nhất của tính cách người Việt đế mượn lời, mượn ý nhằm tỏ lòng biết ơn đối với Nhân
dân, Đất Nước, đồng thời cũng là nhằm tự nhắc nhủ mình và nhắc nhủ mọi người phải
biết gìn giữ, phát huy những đức tính tốt đẹp của người Viêt Nam: Yêu thương trong
sáng, đắm say - Quí trọng nghĩa tình - Quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi ”
Biết quí công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu ”.
Bốn dòng thơ ngắn gọn nhưng có sức gợi mở vô cùng lớn. Hàng loạt câu ca
dao được đánh thức và ăm ắp ùa về, làm người đọc như sống lại một thời xa xưa
nhưng vô cùng gần gũi: “Yêu em từ thuở trong nôi - Em nằm em khóc, anh ngồi anh
ru”; “Cầm vàng mà lội qua sông - Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”; “Thù
này ắt hẳn dài lâu - Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què
Vẻ đẹp thơ mộng của đất nước như được kết đọng trong những câu ca, trong tâm hồn
giàu chất thơ của dân tộc. Tất cả đã soi bóng cùng vẻ đẹp của núi sông trữ tình:
“Ôi những dòng sông bẳt nước từ đâu
Mà khi đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
Những câu thơ kết thúc đoạn trích quả thật đã để lại nhiều dư ba sâu sắc trong hồn
người. Trên những dòng sông chảy từ nguồn cội, có con thuyền đất nước cong cong hình chữ
s vượt thác bằng công sức “ C H È O Đ Ò ” , “ K É O T H U Y Ề N ” , bằng khát vọng và tinh
thần lạc quan “ T I Ế N G H Á T ” của muôn dân nước Việt. Càng vượt thác, tiếng hát càng cất
cao để sông nước yên bình với “ T R Ă M M À U ” rực rỡ...
III/ Phần nâng cao : Những thành công về nghệ thuật:
1 / Đ i ệ p t ừ “ Đ ấ t N ư ớ c ” được viết hoa, rải đều trong toàn bài (23 lần.
Phần 1 : 1 4 lần; phần 2: 9 lần), làm nên một chuỗi cườm ĐẨT NƯỚC MUÔN ĐỜI óng
ánh, lung linh. Chuỗi cườm đó được két lại bởi những hạt cườm VIỆT NAM, tỏa ánh hào
quang trong vang vọng của Trường ca đầy hào khí thiêng liêng theo hai chiều không gian và
thời gian nghệ thuật trên các bình diện lịch sử, địa lí, văn hóa, văn học dân gian bằng giọng
điệu tâm tình, thiết tha, trang nghiêm, trầm lắng.
2 / L ố i c h i ế t t ự , tách hai từ tố “ĐẤT” và “ NƯỚC” của từ “ĐẮT NƯỚC”ra
để cảm nhận có chiều sâu từng thành tố, rồi sau đó nhập lại nhằm khẳng định sự thống nhất
của các bộ phận trong một chỉnh thể bất biến của giang sơn Việt Nam. Đúng như nhà thơ Tố
Hữu đã từng nói:
“ Một thân không thể chia đôi Lửa gươm không thể cắt rời núi sông.”
3/ Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng sáng tạo và đa dạng.
Tác giả thường sử dụng lại một vài chữ của câu ca dao, dân ca; hoặc một hình ảnh,
một chi tiết trong phong tục, truyền thuyết, cố tích... trong câu thơ của mình để tạo thành một
câu, một ý thơ mới, gắn bó trong mạch thơ của bài, đưa ta vào một thế giới vừa bình dị, gần
gũi với hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng.
1. Tác giả
a. Tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, mất 1988
- Quê ở làng La Khê, Hoài Đức, Hà Đông
- Xuất thân từ mọt gia đình công chức
- Mồ côi mẹ từ nhỏ, bố mất sớm đi bước nữa, ở với bà nội
- Chỉ học đến lớp 6. Năm 13 tuổi, học làm diễn viên múa
- Đã từng làm thư viện, hoạt động xã hội, biên tập viên báo Văn nghệ, nhà xuất bản tác
phẩm mới, ủy viên ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa III.
b. Cuộc đời Xuân Quỳnh có nhiều bất hạnh
Mặc dù khuôn mặt rất đẹp, trẻ hơn tuổi, đôi mắt rất tinh anh, nhưng hai bàn tay thì lại
quá Trương Chi:
“Bàn tay em ngón chẳng thon dài
Vệt chai cũ đường gân xanh vai vả
Em đánh chắc chơi chuyền tuổi nhỏ
Hái rau dền rau diệu nấu canh
Tập vá may tết tóc cho mình
Rồi ôm mặt hai bàn tay khóc mẹ
(Bàn tay em)
Bàn tay ấy báo trước một số phận luôn đánh đu với hạnh phúc:
Thiếu hụt tình thương gia đình.
- Li hôn với chồng là một nhạc công của Đoàn Văn công Trang ương. Năm 1973, kết
hôn lại với nhà thơ, nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ (nhỏ hơn Xuân Quỳnh 6 tuối, cũng đã một
lần li hôn với nghệ sĩ Tố Uyên). Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ tuy sống trong sự hạn hẹp về
vật chất nhưng rất hạnh phúc, say mê sáng tác, sinh được cháu trai Lưu. Quỳnh Thơ.
- Năm 1987, Xuân Quỳnh bị bệnh tim.
- Ngày 29/8/1988, trên đường từ Đồ Sơn về Hà Nội, bị tử nạn cùng Lưu Quang Vũ và
con Lưu Quỳnh Thơ tại Llải Dương do một tai nạn giao thông khủng khiếp.
c. Tác phẩm chính:
Thơ Tơ tằm- Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974),
Lời ra trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989), Bầu trời trong quả trứng (thơ
viết cho thiếu nhi, 1982), truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn.
Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
d, Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh viết nhiều đề tài khác nhau, nhưng Tình yêu vẫn là đề tài chính.
Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền
thơ Việt Nam từ sau năm 1975.
Thơ Xuân Quỳnh mang tính tự truyện, là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều
trắc ấn, hồn hậu, chân thành, vừa nồng nhiệt, hồn nhiên, táo bạo, giàu trực cảm, vừa dịu đàng,
thiết tha, say đắm, lắng sâu những trải nghiệm, suy tư trong khát vọng về hạnh phúc đời
thường, gắn liền với thiên chức làm vợ, làm mẹ.
Có chất liệu được chiết ra từ phong tục tập quán, sinh hoạt, lối sống, vật dụng quen
thuộc: miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo, xay, giã, giần, sàng, đắp đập, be
bờ, hòn than, con cúi.
Có vận dụng chất liệu ca dao:
+ Tay bưng đìa muối miếng gừng- Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
+ Thù này ắt hắn dài lâu - Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què.
+ Khăn thương nhớ ai - Khăn rơi xuống đất - Khăn thương nhớ ai - Khăn vắt
lên vai - Khăn thương nhớ ai - Khăn chùi nước mắt - Đèn thương nhớ ai - Mà đèn
không tắt – Mắt thương thớ ai – Mắt ngủ không yên - Đêm qua em những lo phiền - Lo
vì một nỗi không yên một bề.
+ Yêu em từ thưở trong nôi - Em nằm em khóc anh ngồi anh ru.
+ Cầm vàng mà lội qua sông - Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.
Có vận dụng chất liệu dân ca Bình Trị Thiên: Con chim phượng hoàng bay về hòn núi
hạc - Con cá ngư ông móng nước biển khơi.
Có vận dụng chất liệu thành ngữ: Gừng cay muối mặn; Một nắng hai sương.
Có vận dụng chất liệu cổ tích: Trầu cau; Hòn Vọng phu; Hòn Trống Mái...
Có vận dụng chất liệu truyền thuyết:Thánh Gióng; Hùng Vương.
Từ những chất liệu trên, ta có thể nhận xét rằng: chất văn hóa, văn học dân gian đã thấm sâu
vào tư tưởng, cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích
này.
4 / T í n h h i ệ n đ ạ i được thể hiện ở các yếu tố suy tưởng, triết lí và ở thể thơ tự do với
các câu thơ dài ngắn, co duỗi linh hoạt, thay đổi nhịp điệu và rất ít dựa vào sự liên kết vần.
5/ Chất chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc kết hợp một cách nhuần nhuyễn.
C h í n h l u ậ n : Chất chính luận thể hiện ở dụng ý thức tỉnh tinh thần dân tộc của
thế hệ trẻ miền Nam, lựa chọn con đường đứng về phía nhân dân và cách mạng.
T r ữ t ì n h : Chất trữ tình không chỉ được thể hiện ở những câu thơ bộc lộ trực
tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình mà còn thấm sâu ữong cái nhìn, trong thái độ trân
trọng, yêu quí với mỗi hình ảnh, chi tiết về đất nước gắn liền với nhân dân được miêu tả, gợi
ra trong đoạn trích.
S u y tưởng Nhờ suy tưởng mà nhà thơ đã phát hiện được nhiều ý nghĩa mới và sâu
từ những điều quen thuộc (những truyện cổ tích, câu ca dao, những địa danh, thắng cảnh của
đất nước đều chứa đựng tâm sự, quan niệm, lối sống, cả cuộc đời và máu thịt của nhân dân).
C ả m x ú c : Tuy nhiên, những suy nghĩ, phát hiện ấy không phải được nói lên
bằng những mệnh đề khô khan, mà được nói lên qua hình ảnh thơ sinh động và những cảm
xúc chân thành.
BÀI 5 : ÔN TẬP SÓNG
(Xuân Quỳnh)
TRỌNG TÂM : Hình tượng sóng và em
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát
Cái tôi thi sĩ trong thơ Xuân Ouỳnh là cái í ôi giàu vẻ đẹp nữ tính; rất thành thật, giàu
đức hi sinh và lòng vị tha.
Đó là cái tôi luôn thổn thức lo âu về sự tàn phai, đổ vỡ trên đường đời nhiều gieo neo,
bất trắc (Lời yêu mỏng mảnh như màu khói - Ai biết lòng anh có đối thay; Em đâu dám nghĩ
là vĩnh viễn - Hôm nay yêu mai có thế xa rồi).
Đó là cái tôi coi tình yêu là cứu cánh (Đó tình yêu em muốn nói cùng anh -
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng - Lòng tốt để duy trì sự sống - Cho con người thực
sự người hơn).
Chính vì thế mà cái tôi đó luôn thể hiện khát vọng vưon tới một tình yêu đích thực,
vĩnh cửu, vượt lên trên sự hữu hạn của kiếp người ( L À M S A O Đ Ư Ợ C T A N R A - T H À N H
TRĂM CON SÓNG NHỎ -GIỮA BIỂN LỚN TÌNH YÊU - ĐỂ NGÀN NĂM CÒN
VỖ).

2. Khái quát về bài thơ Sóng


a. Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1967, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biến
Diêm Điền (Thái Bình), in trong “Hoa dọc chiến hào” (1968). ở thời điểm này, tuy mới
25 tuổi, nhưng Xuân Quỳnh đã nếm trải vị buồn của tình yêu.
b. K ế t cấu:
bl. Sóng là hình tượng bao trùm toàn bài thơ :
Sóng là một hiện tượng tự nhiên, có hai đặc điểm:
+ Không ngừng hoạt động và hoạt động mạnh mẽ.
+ Tồn tại vĩnh hằng ở hai trạng thái: sóng nổi trên bề mặt của nước, sóng chìm dưới
lòng sâu của nước.
Với hai đặc điểm ấy, sóng có khả năng thể đạt tình yêu- một phạm trù đầy biến ảo
nhưng rất thực.
Vì thế mà không riêng Xuân Quỳnh, nhiều thi nhân từ xua đến nay đã chọn sóng để
diễn đạt tình yêu :
Ca dao
Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em
Nguyễn Du :
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có ciều lả lơi.
(Truyện Kiều)

Xuân Diệu:
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn đến mãi muôn đời.
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
( Biển)
Chế Lan Viên:
Anh xa em như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em
( Chùm nhỏ thơ yêu)
- Xưa nay, nam giới thường giành quyền chủ động trong yêu thông qua hình tượng
sóng (Sóng ở trạng thái động, bờ ở trạng thái tĩnh). Chọn sóng làm hình tượng để biểu đạt tình
yêu của mình, Xuân Quỳnh đã sống thực với chính mình, đã vượt qua lối mòn để giành quyền
chủ động trong yêu. Cứ mỗi lần hình tượng sóng xuất hiện là mỗi lần nữ sĩ bộc bạch những
cung bậc khác nhau của một trái tim yêu thiết tha, nồng cháy. b2. B à i t h ơ được k ế t
cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, sự hòa hợp giữa
hai nhân vật trữ tình Sóng và Em .
Sóng trong quan hệ với Bờ là sóng biển.
Em trong quan hệ với Anh là sóng lòng.
Lúc "Sóng giống như Em” là lúc chủ thể trữ tình phân thân để chiêm nghiệm về sóng,
về mình trong yêu. Trong cái nhìn và cảm nhận của Em, Sóng là sóng nước, là nỗi khát khao
của biển, sóng ngàn năm ru vỗ bến bờ để biển - bờ hòa nhập.
Còn lúc "Sóng cũng là Em” chính là lúc chủ thể trữ tình hóa thân để nói lên tiếng nói
của mình trong khát vọng tình yêu cửa một tâm hồn giàu nữ tính. Trong trường hợp này, sóng
và em cộng hưởng, hòa nhập: sóng là em, em là sóng. Sóng luôn thao thức, xao động, tự biểu
hiện mình để hiểu mình hơn.
Trên cách hiểu đó, bài thơ được kết cấu bởi ba phần với các ý thơ cụ thể như sau:
* Phần l (kho 1 - khổ 2): sóng trước cái nhìn và cảm nhận của em (em và sóng có khoảng
cách):
+ Khổ 1 : Sóng tồn tại hai thái cực đối nghịch nhưng thống nhất: dữ dội, ồn ào và dịu êm,
lặng lẽ; Sóng từ bỏ dòng sông cạn hẹp, tìm ra tận biển để tự do vẫy vùng giữa mênh mông đại
dương. Cũng như tâm hồn em, tâm hồn người con gái đang yêu: khi nồng nàn, mạnh bạo, sôi
nỗi, lúc rạo rực, dịu dàng, kín đáo; không chịu chấp nhận sự nhỏ hẹp, tầm thường, luôn vươn
tới cái lớn lao, cao thượng để đồng cảm, đồng điệu.
+ Khổ 2: Sóng là nỗi khát khao của biển, ngàn năm ru vỗ bến bờ để sóng bờ hòa nhập. Cũng
như nỗi khát vọng tình yêu luôn bồi hồi trong ngực trẻ, trong trái tim em để em anh chung
họp.
* Phần 2 (khổ 3 - khổ 8): sóng đồng hành cùng em, sóng và em hô ứng cho nhau (em và
sóng tương hợp nhau):
+ Khổ 3-4: Cội nguồn bí ẩn của tình yêu.
+ Khổ 5: Nỗi nhớ vượt thời gian.
+ Khổ 6: Nỗi nhớ vượt không gian.
+ Khổ 7: Niềm tin tương phùng hội ngộ.
+ Khố 8: Sức mạnh của tình yêu; cũng là dự cảm lo âu trước cái mỏng manh, hữu hạn của
tình yêu (có hai cách hiểu về khổ thơ này).
* Phần 3 (khổ 9): em hóa thân thành sóng để vĩnh hằng trong biển cả tình yêu (em và sóng
thống nhất).
Âm điệu của bài thơ
Âm điệu của bài thơ “Sóng” là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu
xa hơn, chính là nhịp của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc trong
trái tim của nữ sĩ tình yêu. Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm
chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.
Thể thơ năm chữ cùng với sự luân phiên đắp đối bằng trắc, tạo ra sự linh hoạt,
phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biến, cũng là
nhịp sóng lòng. Từng cặp câu là từng đợt sóng. Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã
xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống thì con sóng khác đã trào lên. Sóng
muôn màu muôn dáng, khi bổng khi trầm, khi lên khi xuống nối tiếp nhau, và cứ thế
mà khi thì dịu êm, khoan thai, khi thì dồn dập, dữ dội. Điều đó rất hợp với những trạng
huống tình cảm không dứt trong tình yêu.
II. Phân tích bài thơ
Khổ 1:
Mở đầu bài thơ ta bắt gặp hình tượng sóng với những trạng thái đối ngược nhau :
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
+ Nghệ thuật đối đã được nữ sĩ khai thác 1 cách triệt để từ tiểu đối giữa các vế
câu đến song đối giữa các câu, vừa đối về từ loại (tính từ- tính từ ), vừa đối về ý nghĩa.
Các từ “dữ dội”, “ồn ào” gợi ra tính chất manh mẽ, mãnh liệt, còn các từ “ diu êm” ,
“lặng lẽ” lại gợi ra sự hiền hòa, nhẹ nhàng. Sử dụng nghệ thuật đối lập giúp Xuân
Quỳnh chuyển tải trọn vẹn tính chất, đặc điểm của hai hình tượng trung tâm là sóng và
em cũng như thế giới tình yêu.
Trước hết các cặp đối lập đã khiến người đọc hình dung, hiểu về thuộc tính tự
nhiên của con sóng trong thực tế: khi thì chúng cuồn cuộn, ào ạt vỗ vào bờ một cách
dữ dội, nhất là khi phong ba, biển động nhung cũng có những lúc chúng thật hiền hòa,
êm dịu, mon man vỗ vào bờ. Nhưng đích đến của nữ sĩ không phải là những con sóng
vô tri vô giác ngoài biển khơi mà mỗi đặc điểm của sóng đã trở thành ẩn dụ cho người
con gái trong tình yêu. Việc tồn tại các cặp đối lập trong thế sóng đôi với nhau đã gọi
ra một thế giới vừa bí ẩn, vừa diệu kì cửa tình yêu. Chỉ ở thế giới đó người đọc mới có
thể thấy vô vàn những cảm xúc phức tạp, thậm chí đối lập của con người: Yêu thương,
nhớ nhung, hờn giận, lạnh lùng. Đặc điểm nay của, thế giở tình yêu cũng đã được thi
hào Puskiii thừa nhận :
“Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rạt rè khi hậm hực lòng ghen’’
Bản thân nữ sĩ Xuân Quỳnh trong câu chuyện cổ tích “thuyền và biến” cũng đã nói tới
quy luật này :
Những đêm trăng hiền tủ
Biển như cô gái nhỏ
Thăm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có khi vô cớ
Biến ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)
Ngoài ra các cặp đối lập trong hai câu thơ cũng khắc họa tính cách của nhân vật trữ
tình: Bước vào thế giới của tình yêu, cô gái ấy vừa mang theo cái táo bạo chủ động, quyết liệt
và nhũng đam mê cháy bỏng vừa mang trong mình cái dịu dàng, đằm thắm đầy nữ tính. Việc
sắp xếp ngôn từ của Xuân Quỳnh trong hai câu thơ này là rất tinh tế.Nếu để ý kĩ sẽ thấy hai
tính từ “dữ dội” và “ ồn ào” được đặt trước hai từ” dịu êm” và “lặng lẽ. Phải chăng cách sắp
xếp ấy đã gián tiếp cho biết cái mạnh mẽ, mãnh liệt, chủ động chính là nét tính cách bề nổi dễ
nhận thấy của người con gái trong tình yêu, nhưng ẩn đằng sau vẫn là 1 tâm hồn, 1 trái tim
dịu dàng, đằm thắm tràn đầy vẻ đẹp nữ tính.
+ Nhận thức rõ về bản thân mình , sóng em đã đi đến một khát vọng vô cùng táo bạo:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Nghệ thuật nhân hóa đã biến sóng trở thành một sinh thể sống động, có đam mê, có
khát vọng giống như con người. Cùng với nghệ thuật nhân hóa là cặp hình ảnh sông bể. Đặt
trong tương quan với bể thì sông là một không gian nhỏ hẹp ít sóng gió, mang đến cảm giác
nhỏ bé, an toàn, bình yên hơn . Nhưng biển là không gian bao la, chứa nhiều điều bí ẩn và
sóng gió, hiểm nguy bất trắc. Gắn với ý muốn của sóng, cặp hình ảnh này cho thấy một khát
vọng lớn lao: sóng không chấp nhận bó buộc mình trong một không gian nhỏ hẹp mà muốn
theo những dòng sông đổ ra biển lớn để vươn đến một không gian rộng rãi hơn, mới mẻ hơn.
Đối với em, cặp từ sông bể lại gợi ra một khát vọng táo bạo: cô gái không chấp nhận ngủ yên
trong hạnh phúc quen thuộc, bình yên, nhỏ hẹp mà dám chấp nhận, đánh đổi, thậm chí là đối
mặt với muôn ngàn sóng gió, hiểm nguy, bất trắc để có thể vươn đến một hạnh phúc lớn lao
hơn, 1 tình yêu đẹp đẽ hơn. Quan trọng nhất là được hiểu về thế giới của tình yêu .
Như vậy ngay từ đầu tác phẩm, nhân vật trữ tình đã hiện lên khác hẳn với những cam chịu,
thụ động của người phụ nữ VN truyền thống mà người con gái ấy dám yêu, dám sống đầy táo
bạo, chủ động.
Khổ 2:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Đứng trước biển, nhân vật em đã vượt qua tình yêu cụ thể, nhỏ bé của chính mình để
suy ngẫm về quy luật của sóng và quy luật của tình yêu muôn đời. Quan sát hành trình của
những con sóng biển, em đã nhận thức được một quy luật đó là dù quá khứ hay hiện tại và
tương lai thì con sóng muôn đời không thay đổi. Nó sẽ mãi luôn dào dạt trong 1 tình yêu
mãnh liệt với biển khơi. Tương tự với quy luật của sóng là quy luật của tình yêu muôn đời.
Nếu sóng không bao giờ mất đi dù quá khứ, hiện tại hay tương lai thì tình yêu của loài người
cũng vậy, nó s ẽ luôn đập những nhịp đập thiết tha, rạo rực. Từ láy “bồi hồi” mà Xuân Quỳnh
sử dụng gợi ra được nhũng cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn pha lẫn hồi hộp của tình yêu thuở
đầu đời. Bằng cái vĩnh hằng của sóng, Xuân Ouỳnh đã miêu tả cái tuần hoàn của tình yêu.
Câu thơ đã gieo vào lòng người đọc niềm lạc quan, tin tưởng về sự bất diệt của tình yêu muôn
đời.
Khổ 3-4
Sau khi nhận thức, khám phá về đặc điểm của thế giới tình yêu, nhân vật trữ tình tiếp
tục đi tìm lời giải đáp cho cội nguồn, cho điểm khởi đầu của tình yêu .
Trước muôn trùng sóng
bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Dễ nhận thấy, trong 2 khổ thơ ngắn, Xuân Quỳnh sử dụng 3 câu hỏi tu từ tạo nên sự
băn khoăn, trăn trở đầy suy tư của nhân vật trữ tình vấn đề khiến cho cô gái muốn tìm lời giải
đáp chính là căn nguyên, là nguồn cội, là điểm khởi đầu của sóng và của tình yêu.
Ban đầu cô gái rất háo hức, tự tin khi đưa ra lí giải rất logic chặt chẽ về nguồn gốc
của sóng biến: S Ó N G B Ắ T Đ Ầ U T Ừ G I Ó . Nhưng càng đi sâu tìm hiểu, nhân vật trữ tình
càng nhận thấy sự phức tạp và bất lực, và cô đã phải thừa nhận sự bất lực ấy :
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Quy luật của thiên nhiên thật bí ẩn, cội nguồn của tình yêu lại càng bí ẩn hơn. Không
thể tìm ra câu trả lời cho nguồn gốc của sóng, cô gái cũng không thể lí giải nổi “khi nào ta yêu
nhau”. Ở đây Xuân Quỳnh đã cảm nhận tình yêu bằng cả trái tim và lí trí tâm trạng của chị
tiêu biểu cho tâm trạng của bao trái tim người phụ nữ trong tình yêu. Vì thế những câu thơ
của Xuân Quỳnh còn mang tính triết lí sâu xa về sự phức tạp và bí ẩn của trái tim mà lí trí dù
có sáng suốt đến đâu cũng không thể nào lí giải tường tận được. Nói như nhà thơ Xuân Diệu:
Làm sao có thể cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhe, gió hiu hiu...
C ó lẽ chính vì sự bí ấn nên tình yêu càng hấp dẫn, càng cuốn hút với tuổi trẻ muôn
đời.
Với 4 khổ đầu, Xuân Quỳnh đã để cho sóng và em tự nhận thức, lí giải về chính bản
thân mình và thế giới của tình yêu. Trong quá trình ấy có những câu hỏi không thể tìm được
lời giải đáp, nhưng điều quan trọng nhất là chân dung nhân vật trữ tình đã hiện lên một cách
chân thực, đó là người con gái hết sức táo bạo, chủ động trong tình yêu nhung cũng rất đỗi dịu
dàng, đằm thắm đầy nữ tính.
Khổ 5 ;
Không thể lí giải được nguồn gốc của tình yêu, nhân vật trữ tình em đã quay trở về để
phơi trải, để sống trọn vẹn với cung bậc cảm xúc được coi là mãnh liệt, nồng nàn nhất: n ỗ i
nhớ.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Bằng nghệ thuật nhân hóa, Xuân Quỳnh tiếp tục khiến cho những con sóng trở nên
sống động vói những cung bậc cảm xúc mãnh liệt trong nỗi nhớ , trong tình yêu mà sóng dành
cho bờ. Nỗi nhớ của sóng được nữ sĩ khai triển trên cả 2 trục không gian và thời gian. Về
không gian thì có “ con sóng dưới lòng sâu” gợi ra nỗi nhớ tuy không ào ạt trên bề mặt nhung
lại quặn thắt nhức nhối, day dứt từ tận đáy tâm hồn; “ con sóng trên mặt nước” gợi ra những
cung bậc ào ạt, trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ về thời gian, thì dù “ngày” hay “ đêm” thì nỗi
nhớ đều khiến con sóng “không ngủ được”. Nghĩa là nhớ đến thao thức, khắc khoải, nhớ đến
mức trở thành nỗi ám ảnh thường trực không thể nguôi quên. Những câu thơ này gợi nhắc đến
câu ca dao quen thuộc khi viết về nỗi nhớ:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống
than Hay trong thơ Xuân Diệu :
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em., anh nhớ lắm, em ơi!
Đi vào đề tài vốn không còn mới lạ, nhưng Xuân Quỳnh vẫn tạo được nét riêng cho bài thơ
của mình. Mượn sóng để bày tỏ nỗi nhớ dường như chưa thỏa, chưa giải tỏa được nỗi nhớ
nhung đang đè nặng trong lòng nên sau khi ẩn mình trong sóng, nhân vật trữ tình đã trực tiếp
lộ diện để thể hiện :
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Hai câu thơ vừa cho thấy sự tương đồng, vừa thấy sự khác biệt giữa nỗi nhớ của sóng
dành cho bờ với nỗi nhớ của em dành cho anh.Tương đồng bởi nó đều là những cảm xúc chân
thành và mãnh liệt trong tình yêu, còn khác biệt là Ở chỗ nỗi nhớ của sóng dù mãnh liệt đến
đâu vẫn nằm trong khuôn khổ giới hạn của không gian , thời gian; còn nỗi nhớ của em lại
vượt qua tất cả những khuôn khổ, giới hạn ấy, vượt qua cả cõi vô thức. Điều đó có nghĩa là
nỗi nhớ của em còn mãnh liệt và cồn cào hơn nỗi nhớ của sóng. Hình ảnh một người con gái
ngay cả trong giấc mơ vẫn thao thức, vẫn khắc khoải về hình bóng của người yêu thực sự đã
chạm đến được trái tim, tâm hồn của hàng triệu người con gái khác bởi Xuân Quỳnh đã nói hộ
, đã bày tỏ hộ tình yêu cho người con gái dù ở b ấ t cứ thòi đại nào. Trong khổ thơ nảy có
với 2 lần động từ nhớ được sử dụng cộng với hình thức đặc biệt khi đây là khổ thơ duy
nhất có tới 6 câu (các khổ thơ khác chỉ có 4 câu), điều này một lần nữa cho thấy tất cả
cái mãnh liệt, nồng nàn trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình .
Khổ 6 :
Nếu như ở khổ thơ thứ 5 người đọc nhìn thấy hình ảnh 1 người con gái chủ động, táo
bạo, không ngại ngần phơi trải tất cả cảm xúc tâm trạng của mình thì sang khổ 6 vẫn nỗi nhớ
ấy nhưng người đọc lại thấy màu sắc khác , màu sắc của truyền thống đằm thắm dịu dàng .
Hai câu thơ :
Dầu xuôi về phương bắc
Dấu ngược về phương nam
Thoáng đọc qua thì ta có cảm giác như Xuân Quỳnh đang nhầm lẫn vì trong tư duy và
thói quen sử dụng ngôn ngữ, người VN thường nói : ngược về phương Bắc, xuôi về phương
Nam. Tuy nhiên , đây không phải là sự nhầm lẫn mà là dụng ý nghệ thuật của nữ sĩ. Sự đảo
ngược này cho thấy sự sáo trộn, sự biến động , đối thay dữ dội của cuộc đời. Cho dù mọi thứ
có đảo lộn, có xa cách thì tình yêu và nỗi nhớ mà em dành cho anh mãi là một hằng số bất
biến không bao giờ thay đối:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Khổ thơ này không xuất hiện từ “nhớ” mà thay vào đó là các từ “ nghĩ”, “hướng về”
để giúp nhân vật trữ tình truyền tải nỗi nhớ thầm kín hơn , thường trực hơn. Ở đoạn thơ này
Xuân Quỳnh đã sử dụng kết cấu “ dẫu.. cùng với những từ đối lập : xuôi - ngược, Bắc- Nam
để khẳng định nỗi niềm đau đáu hướng về 1 phương duy nhất: phương anh. Nỗi nhớ ấy xuất
phát từ tấm lòng thủy chung , tình nghĩa của người phụ nữ VN.
Khổ 7-8-9
Nỗi nhớ là gia vị không thể thiếu của tình yêu nhưng để tình yêu có thể bền chặt lớn
lao hơn thì cần có niềm tin mãnh liệt . Bởi vậy nhũng khố thơ cuối bài đã được Xuân Quỳnh
dùng để thể hiện niềm tin và khát vọng bất tử hóa tình yêu của nhân vật em. Tình yêu cho ta
sức mạnh vượt qua thử thách và qua đó tình yêu càng thêm bền vững .
Không chỉ tương đồng trong đặc điếm, trong cách thể hiện nỗi nhớ, cặp hình ảnh sóng
đôi sóng và em còn có sự tương đồng đến kì lạ trong niềm tin mãnh liệt với tình yêu. Đưa vào
quy luật tự nhiên không bao giờ thay đoi của những con sóng là cho dù xa xôi cách trở, dù
phong ba bể động tới đâu thì cuối cùng con sóng nào cũng sẽ vào được đến bờ. Nhân vật trữ
tình đã chuyển tải một niềm tin vững chắc vào tình yêu của mình. Sóng đến đây đã trở thành
ấn dụ cho tình yêu , còn bờ chính là biếu tượng cho sự gặp gỡ, đoàn tụ. Thực tế cuộc đời đầy
phong ba, bão tố, khó khăn trở ngại nhưng nhân vật trữ tình vẫn mang trong mình 1 niềm tin
mãnh liệt:
Ở ngoài kìa đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chăng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Nghĩa là chính niềm tin đã tạo nên sức mạnh để con người vượt qua cách trở, tìm
được 1 nửa đích thực của cuộc đời mình, để được cặp bến bờ của hạnh phúc, của tình yêu.
Đặt vào hoàn cảnh cá nhân của Xuân Quỳnh khi con đường đến với hạnh phúc của chị thật
nhiều chông gai thì những câu thơ trong trẻo đến lạ kì này vừa khiến người đọc khâm phục,
vừa gieo vào lòng người đọc niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
Tuy nhiên nhìn vào cả sự nghiệp thơ của Xuân Quỳnh, người đọc có thể nhìn thấy 1
điểm rất rõ nét đó là tình yêu, niềm tin trong thơ chị luôn song hành với những băn khoăn trăn
trở, lo âu. Tâm hồn nhạy cảm và quá đỗi mong manh của Xuân Quỳnh không chỉ khiến nữ sĩ
nhạy cảm với tình yêu ,với hạnh phúc mà còn nhạy cảm với những đắng cay, mất mát, phôi
pha. Sóng thể hiện rất rõ đặc điểm này của thơ Xuân Quỳnh. Ngay sau khổ thơ thể hiện niềm
tin mãnh liệt trong tình yêu giọng thơ bỗng trầm xuống, da diết mênh mang :
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Cấu trúc “ tuy ... vẫn” , “ dẫu... vẫn” đã thể hiện rõ nỗi lo âu , trăn trở của nhân vật trữ
tình. Tất cả các hình ảnh trong khổ thơ : C U Ộ C Đ Ờ I , N Ă M T H Á N G , B I Ể N R Ộ N G , M Â Y
B A Y đều khiến cho nữ sĩ băn khoăn, trăn trở về sự ngắn ngủi, sự hữu hạn của kiếp người.
Cuộc đời của con người dẫu rằng được quy ước là trăm năm nhưng đặt trong sự vô hạn của
thiên nhiên vũ trụ thì sẽ trở nên ngắn ngủi và mong manh. Những câu thơ này dường như
không còn là thơ nữa mà là 1 nỗi thổn thức chân thành của nhân vật trữ tình về sự ngắn ngủi,
sự hữu hạn , sự phôi pha của tuổi trẻ và tình yêu.
Lo lắng trước bước đi của thời gian, tất nhiên đó không phải là tâm trạng của riêng nữ
sĩ Xuân Quỳn . Trong văn học trung đại VN đã từng có 1 Hồ Xuân Hương xót xa ngồi uống
chén rượu để tiêu sầu khi cảm nhận được sự chảy trôi dồn dập của thời gian trong “ trống
canh dồn” và cũng đã từng có 1 Xuân Diệu run rẩy, lo sợ trước mỗi bước đi của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Tuy nhiên cách ứng xử của mỗi nhà thơ, mỗi 1 tâm hồn lại khác nhau. Nếu Hồ Xuân
Hương ngang ngạnh bướng bỉnh tin cách quẫy đạp, tìm cách chống lại số phận, nếu như ở
Xuân Diệu để ra lối sống táo bạo và vội vàng để chạy đua với thời gian thì Xuân Quỳnh cũng
có cách ứng xử của riêng mình, đó là đi đến ước muốn :
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Từ đầu đến cuối bài thơ, sóng và em luôn tương đồng, tuy nhiên em cũng đã nhận ra 1
điểm khác biệt đó là cuộc sống của con người thì hữu hạn còn những con sóng ngoài khơi là
sự vô biê , vô hạn. Sóng không có tuổi, sóng mãi trẻ trang, dào dạt và không bao giò' mất đi
chừng nào còn có biển. Bởi vậy người con gái đã đi đến ước muốn được tan thành trăm con
sóng nhỏ để ngàn năm còn vỗ. số từ “ngàn năm” là một con số mang tính ước lệ, nó gợi liên
tưởng đến khoảng thời gian dài gắn với khát vọng được bất tử hóa tình yêu của nhân vật trữ
tình. Tới đây sóng và em không chỉ song hành, quấn quýt, mà còn đan cài vào nhau cuối
cùng đã hòa vào nhau làm 1 để thế giới chỉ còn những nhịp đập dạt dào của sóng và cũng là
những nhịp đập nồng nàn trong trái tim người con gái đang yêu. Qua đó ta thấy tình yêu trong
thơ Xuân Quỳnh không mang màu sắc vị kỉ mà ngược lại nó thật lớn lao, cao thượng bởi chỉ
khi tình yêu riêng hòa vào tình yêu chung của muôn đời thì nó mới thực sự trở nên bất tử.
Khát vọng bất tử hóa tình yêu của Xuân Quỳnh không chỉ xuất hiện khi chị còn trẻ, tâm hồn
còn bồng bột sôi nổi mà nó còn có ngay cả khi chị đã phải trải qua nhiều cay đắng nhọc nhằn
trong tình duyên. Trong bài “ tự hát” Xuân Quỳnh viết :
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Rõ ràng với “ Sóng”, người đọc không thấy sự cầu kì hoa mỹ của ngôn từ, hình ảnh,
nhưng bài thơ vẫn chiếm được trọng trái tim của bạn đọc muôn đời bởi với “Sóng”, người đọc
được trải nghiệm, tất cả những cung bậc cảm xúc chân thành nhất, mãnh liệt nhất trong tình
yêu.
Hình tượng sóng là 1 sáng tạo độc đáo, đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sóng không chỉ là 1
sự thể hiện chính xác những khát vọng tình, yêu của người phụ nữ mà còn thể hiện vẻ đẹp tâm
hồn của người phụ. nữ trong thời đại mới. Nếu người phụ nữ truyền thống luôn luôn chân
thành đằm thắm dịu dàng thủy chung thì người phụ nữ hiện đại lại dám chủ động đến với tình
yêu , sống hết mình cho tình yêu, dám trưc tiếp bộc lộ, giãi bày khát khao hạnh phúc.
BÀI 6: ĐÀN GHI TA CỦA LOR - CA
(Thanh Thảo)

TRỌNG TÂM: Hình tượng Lor-ca


NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát
1.Tác giả
a.Cuộc đời
Thanh Thảo sinh năm 1946, tên thật là Hồ Thành Công
Thời đại: Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cùng đất nước đi qua những năm tháng gian khổ nhưng hào hùng, sau đó lại cùng
đất nước bước vào giai đoạn đổi mới.
Quê hương: Quảng Ngãi - mảnh đất miền Trung đã phải gánh chịu rất nhiều đau
thương mất mát của chiến tranh. Chính bởi vậy mà dù trong giai đoạn 1945 - 1975 cái nhìn
của Thanh Thảo về chiến tranh không dễ dãi và mang tính chất tô hồng như những nhà thơ
cùng thời.
Bản thân:
+ Học vấn: Thanh Thảo tốt nghiệp Đại học Tổng hợp, khoa Văn bởi vậy ông có một
nền tảng kiến thức và lý luận tương đối vững chắc. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường ông
đã tiếp xúc với thơ tượng trưng và siêu thực.
+ Tính cách: ông là người thâm trầm, sâu sắc và đặc biệt là rất nhạy cảm với cái mới,
bởi vậy Thanh Thảo đã có rất nhiều thể nghiệm để đổi mới thơ ca Việt Nam sau 1975.
b) Sự nghiệp:
Thanh Thảo để lại một sự nghiệp đồ sộ, phong phú và rất có ý nghĩa với quá trình đổi
mới thơ ca Việt Nam sau 1975. Sở trường của ông ở hai thể loại thơ và trường ca.
Sự nghiệp của Thanh Thảo được chia thành hai giai đoạn: trước 1975 và sau 1975.
+ Trước 1975: Hòa chung với không khí của thời đại sôi nổi, hào hùng, trong giai
đoạn này Thanh Thảo tập trung viết về đất nước, chiến tranh, người lính. Tư tưởng yêu nước
được Thanh Thảo thể hiện không theo lối hô hào, dễ dãi mà trải qua sự giằng xé, lựa chọn
nhưng cũng vì thế mà sâu sắc hơn:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc thì còn chì tổ quốc ”
Hoặc
“Chúng tôi không muốn
Không thể chết vì tiền bạc
Chúng tôi xa lạ với những tư tưởng điên cuồng
Những liều thân vô ích
Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thẩm sâu đến tận cùng xương thịt
Chỉ riêng cho Người chúng tôi xin chết”
Những cảm nhận về đất nước của Thanh Thảo cũng rất độc đáo, giàu sự suy
tư:
“Với những thằng con trai mười tám tuổi
Tổ quốc là một nhịp tim có thể khác thường
Là một làn mây mỏng đến bâng khuâng
Là mùi mồ hôi thật thà của lính
Đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội
Hay một bát canh rau rừng ”
S a u n ă m 1975: Thanh Thảo chuyển từ những mảng đề tài lớn, trọng đại để về với
những vấn đề đời tư thế sự. Ông viết về những bộn bề cuộc sống với những mảng sáng tối
nằm cạnh nhau:
“Có những lúc ra về lòng rỗng không
Vì gặp phải trong cơ quan một thằng cặn bã
Tôi chào đất nước tôi. Buồn quá
Đất nước cùng tôi lặng lẽ xuống đường
Có những lúc thò tay vào túi chỉ gặp bài thơ
Bài thơ viết về tương lai nhuwg buổi trưa thì vẫn đi chợ
Tôi chào đất nước tôi. Buồn quá
Trước đó đất nước cùng tôi ăn bữa cơm chay ”
Đặc biệt trong giai đoạn này Thanh Thảo thường đi sâu khám phá chất người trong
mỗi một con người. Khái niệm chất người được Thanh Thảo cụ thể hóa bằng hình tượng:
“Tôi yêu chất người đầu tiên
Như giọt sương lặng vào trong cỏ
Qua nắng gió qua bão tố
Vẫn ngời lên cái trong lành đầy sức mạnh
Vẫn long lanh bình thản trước “vầng dương”
Chất người đó có thể là lòng nhân ái, sự bao dung, sự can đảm, trung thực.. .nhưng
phẩm chất được Thanh Thảo chú ý nhất và ca ngợi nhiều nhất đó chính là nghĩa khí. Nghĩa
khí là khái niệm đế chỉ những người có tài năng, có nhân cách ngay thẳng, cứng cỏi, luôn
giám chiến đấu vì công lý, vì lẽ phải dù số phận phải chịu những bất hạnh, ngang trái. Tất cả
những hình tượng đẹp nhất trong thơ Thanh Thảo như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu,
Êxênhin, Lorca...đều là những người mang vẻ đẹp của nghĩa khí.
Về Nghệ thuật:
+ Thanh Thảo chịu ảnh hưởng mạnh từ hai trường phái thơ tượng trưng và thơ siêu
thực.
Trường phái thơ tượng trưng:
Thơ tượng trung luôn sáng tạo ra những hình ảnh biểu tượng như những cái vỏ để
người - đọc khám phá cái lõi bên trong.
Thơ tượng trưng rất ưa chuộng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Thơ tượng trưng rất đề cao tính nhạc.
T r ư ờ n g p h á i t h ơ s i ê u t h ự c : là trường phái thơ ra đời ở Pháp cuối thế kỷ
XVIII, các nhà thơ thuộc trường phái này đòi hỏi phải nới rộng biên độ của hiện thực, cho
phép tồn tại. trong tác phẩm những điều phi thực hoặc hoàn toàn bịa đặt miễn là nó giúp tác
giả truyền đạt những ý nghĩa. Thơ siêu thực dề cao phần tâm linh, phần tiềm thức, vô thức của
con người. Thơ siêu thực phá vỡ mọi công thức, mọi lối mòn bằng việc đề cao yếu tố ngẫu
nhiên.
Với những thể nghiệm ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật, Thanh Thảo chính là
nhà thơ đi tiên phong trong việc đổi mới thơ ca Việt Nam sau 1975.
2. Tác phẩm:
Ý nghĩa, nguồn gốc, xuất xứ: Bài thơ ra đời năm 1979 nằm trong tập K H Ố I V U Ô N G
Rubic.
Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ Đàn ghita của Lorca được Thanh Thảo viết rất nhanh: chỉ
trong vòng một đêm sau khi những người nghệ sĩ có cuộc tranh luận về Lorca.
Vị trí, ý nghĩa: Đây là bài thơ đặc sắc nhất của Thanh Thảo sau 1975, đồng thời cũng
là tác phẩm thể hiện đầy đủ sự đổi mới của thơ ca Việt Nam.
Giới thiệu về Lorca (1898 - 1936): là nghệ sĩ thiên tài của nước Tây Ban Nha. Lorca
sinh ra trong một gia đình mà mẹ ông rất giỏi Pianô nhưng Lorca lại đặc biệt yêu thích cây
đàn ghita - cây đàn được mệnh danh là Tây Ban cầm, Lorca đã được đào tạo để trở thành một
luật sư nhưng sau đó bất ngờ rẽ ngang sang con đường nghệ thuật. Lorca là một nghệ sĩ rất đa
tài, ngoài là nhà thơ vĩ đại nhất của Tây Ban Nha trong Thế kỉ XX, ông còn là một nhà soạn
kịch, một nhạc sĩ... Và dù sáng tác ở bất cứ thể loại nào Lorca đều ca ngợi tự do, dân chủ và
đấu tranh đòi hỏi tự do, dân chủ cho con người. Tư tưởng của Lorca đã mâu thuẫn gay gắt với
chủ nghĩa phát xít chuyên ché độc tài, bởi vậy năm 1936 khi Lorca trở về quê hương ông đã
bị bọn phát xít theo dõi sau đó tìm cách sát hại. Tương truyền xác của Lorca bị vứt xuống một
cái giếng cùng với xác của 1.500 người khác.
II. Đọc - hiểu
* Bố cục: bốn phần
Phần 1: Giới thiệu về chân dung người nghệ sĩ Lorca.
Phần 2: Hai khổ tiếp: giây phút bi phẫn trong cuộc đời Lorca.
Phần 3: Khổ 4: Sự xót thương trước sự ra đi của Lorca
Phần 4: Còn lại: sự giải thoát và bất tử của Lorca.
1. Nhan đề và đề từ:
a) Nhan đề:
Thanh Thảo đã đặt cho bài thơ của mình một nhan đề sáng rõ và giàu ý nghĩa: “Đàn
ghita của Lorca”, nhan đề này đã định hướng cho người đọc biết trong bài thơ có hai hình
tượng trung tâm là tiếng đàn và người nghệ sĩ chơi đàn. Từ “của” cho thấy mối quan hệ giữa
hai hình tượng rất chặt chẽ, khăng khít, khi thì sóng đôi khi thì đan cài hòa quyện. Hơn nữa,
trong rất nhiều phẩm chất, đặc điểm của người nghệ sĩ Lorca, tác giả chỉ nhấn mạnh vào tiếng
đàn, điều đó ngầm cho biết tiếng đàn chính là tinh hoa, tinh túy, là những gì đẹp đẽ và quý giá
nhất mà Lorca để lại cho đời.
b) Đề tư
+ Mô tả: Thanh Thảo đã sử dụng chính một câu thơ được coi là nổi tiếng nhất của
Lorca và cũng được coi là di nguyện mà Lorca để lại cho hậu thế để làm đề từ:
“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ”
+ Ý nghĩa: Lời đề từ mà Thanh Thảo chọn cho tác phẩm của mình có ý nghĩa vô cùng
lớn lao, nó đã định hướng để người đọc có thể nắm bắt được tất cả những vẻ đẹp, những giá
trị quan trọng nhất của nhân vật trung tâm trong tác phẩm người nghệ sĩ Lorca, lời đề từ có
thể hiểu theo hai cách:
Trên bề mặt: cây đàn mà Lorca nhắc đến chính là biểu tượng của âm nhạc mà cao hơn
là biểu tượng cho nghệ thuật nói chung. Việc ngay cả đến lúc chết người nghệ sĩ vẫn muốn
được chôn cùng với cây đàn nghĩa là vẫn muốn được gắn bó, nghĩa là không thể chấp nhận sự
xa cách đã cho thấy tình yêu mà Lorca dành cho âm nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung.
Thông thường N G Ư Ờ I ta cho rằng chết là tất cả sẽ kết thúc, dừng lại nhưng với Lorca cái
chết cũng không thể chia lìa tình yêu của ông với nghệ thuật.
Hiểu một cách sâu sắc hơn và thực sự gắn với ý nghĩa của một di nguyện thì cây đàn
vẫn là biểu tượng cho âm nhạc, cho nghệ thuật nhưng mong muốn được chôn với cây đàn lại
được hiểu theo một cách khác. Đó là một cách ứng xử rất riêng, rất khác của Lorca. Thông
thường khi bất cứ người nghệ sĩ nào khi sáng tạo nghệ thuật đều mong muốn nghệ thuật của
mình sẽ trường tồn vĩnh cửu để nối dài thêm sự sống cho người nghệ sĩ. Nhưng Lorca thì
khác, ông dũng cảm đề nghị người đời sau chôn đi thứ nghệ thuật của mình. Đặt vào thời đại
mà Lorca sống khi ông chính là người đi tiên phong trong việc cách tân, đổi mới nền nghệ
thuật vốn già nua, cũ kĩ, lạc hậu của Tây Ban Nha, mới hiểu được hết sự cao thượng, đẹp đẽ
trong nhân cách của nhà thơ. Ông muốn chôn đi thứ nghệ thuật của mình vì không muốn thứ
nghệ thuật đẹp đẽ, trác tuyệt của ông trở thành một bức tường thành, một vật cản, một vật án
ngữ những người đi sau. Nghĩa là ông giám chấp nhận chôn đi nghệ thuật của mình để thế hệ
sau giám vượt qua ông mà tiếp tục cách tân, đổi mới nghệ thuật của Tây Ban Nha. Như vậy,
rõ ràng Lorca không chỉ hướng đến nghệ thuật, sự nghiệp của cá nhân mà ông muốn hướng
đến một điều cao cả hơn là nền nghệ thuật rộng lớn của đất nước Tây Ban Nha. Cách hành xử
cao thượng đó đã làm toát lên chất người, đã làm toát lên vẻ đẹp của nghĩa khí.
Chỉ bằng một câu đề từ ngắn gọn Thanh Thảo đã khiến cho người đọc có ấn tượng sâu
đậm về Lorca, đó là người nghệ sĩ có một tình yêu mãnh liệt dành cho nghệ thuật nhưng hơn
cả là một người dũng cảm, cao thượng và đầy nghĩa khí.
2. Tính nhạc
Khái niệm: Tính nhạc là một phẩm chất nghệ thuật của một tác phấrn văn học thể hiện
sự giao thoa giữa văn học và ârn nhạc, một tác phẩm được coi là có tính nhạc khi đọc nó lên
tac cảm nhận được âm điệu, nhịp điệu, tiết tấu giống như trong một bản đàn. Trong các thể
loại của văn học, thể loại có nhiều thế mạnh nhất để có tính nhạc chính là thơ ca vì khác với
ngôn ngữ trong văn xuôi, ngôn ngữ thơ được chọn lọc rất kỹ càng, tỉ mỉ, tinh tế lại được tổ
chức trong một hình thức đặc biệt để có vần, có nhịp. Bởi thế, ngay từ xa xưa các thi nhân đã
đúc kết “thi chung hữu nhạc” và “thi chung hữu họa”.
Tính nhạc trong bài thơ: tính nhạc vốn là phẩm chất chung của thơ ca nhưng với
Thanh Thảo - người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ trường phái thơ tượng trưng của Pháp thì
tính nhạc còn được đề cao hơn bao giờ hết. Thanh Thảo đã tạo ra cho bài thơ tính nhạc dồi
dào bởi các yếu tố sau:
+ Từ ngữ:
Từ dùng để mô phỏng âm thanh ở đàu và ở cuối bài thơ này Thanh Thảo đều sử dụng
chuỗi âm thanh “li - la - li - ỉa - li - la” với sự lặp lại của phụ âm “1” cùng với việc kết thúc
một âm mở “a” chuỗi âm thanh này đã mô tả rất chính xác những tiếng đàn ngân nga, tha
thiết, trong trẻo.
Từ láy: Trong kho tàng từ vựng Việt Nam so với từ đơn và từ ghép thì từ láy giàu tính
nhạc hơn rất nhiều vì trong từ láy có một bộ phận được lập lại. Trong đàn ghi ta của Lorca
Thanh Thảo đã sử dụng một chuỗi từ láy ữải từ đầu đến cuối tác phẩm: “lang thang, chếnh
choáng, nghêu ngao, bê bết, ròng ròng, long lanh”. Chuỗi những từ láy này đã trở thành
nhũng nốt luyến láy trong bản đàn và ngôn từ của Thanh Thảo.
+ Tiết tấu: Là thuật ngữ được sử dụng trong âm nhạc nhưng Thanh Thảo đã cố gắng
tạo cho bài thơ của mình tiết tấu nhờ sự phối hợp khéo léo thanh điệu cũng như độ dài ngắn
của các câu. Có nhũng câu thơ ngắn chỉ gồm 2-3 chữ như: “máu chảy, Tây Ban Nha” xen kẽ
với những câu thơ dài như: “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”, “đi lang thang về miền đơn
độc”, “chàng ném lá bùa cô gái Digan” đã giúp tác giả tạo nên tiết tấu khi thì nhanh, dồn dập
khi lại chậm rãi, khoan thai. Bên cạnh đó việc xen kẽ các câu có nhũng hoặc hoàn toàn thanh
bằng như “li - la - li - la - li - la, Tây Ban Nha, chàng đi như người mộng du”, với những câu,
những thanh trắc ‘áo choàng bê bết đỏ, Lorca bị điệu về bãi bắn, máu chảy” đã khiến cho tác
giả tạo nên được tiết tấu khi thì nhẹ nhàng, tha thiết, du dương khi thì buốt sắc, nặng nề, gay
gắt. Chính sự biến hóa trong tiết tấu đã tạo nên sức hấp dẫn trong bản đàn của Thanh Thảo.
+ Cấu trúc: cùng với lối kết cấu quen thuộc trong thơ của Thanh Thảo là rubic thơ, bài
thơ này còn được chất tạo theo kiểu giao hưởng thơ nghĩa là bài thơ có đầy đủ các phần giống
như một bản giao hưởng, có mở đầu:
“ Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li -la - li -la - li - la ”
Có phát triển:
“Đi lang thang về miền đơn
độc Với vầng trăng chểnh
choáng Trên yên ngựa mỏi
mòn”
Có cao trào, đỉnh điểm:
“ Bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ ”
Có điệp khúc:
“Tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng - máy chảy ”
Có kết thúc:
“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang trên
chiếc ghi ta màu bạc ”
và có cả vĩ thanh:
“li — la - li — la -li - la”...
Đây là một cấu trác thơ hiện đại, táo bạo, mói mẻ đã được Thanh Thảo thểnghiệm
thành công để đổi mới thơ ca Việt Nam sau 1975.
+ Về hình thức: Thanh Thảo đã viết bài thơ này và phần lớn các bài thơ khác của ông
theo một hình thức khác với truyền thống đó là không viết hoa đầu các dòng thơ và không sử
dụng dấu ngắt câu (trong bài thơ chỉ có duy nhất một dấu ba chấm nằm ở vị trí cuối cùng).
Điều này khiến cho người đọc có cảm giác bài thơ của ông trôi chảy, liền mạch giống như
một bản đàn.
Tính nhạc vốn được xếp vào phưong diện hình thức nghệ thuật của một tác phẩm
nhưng trong “Đàn ghi ta của Lorca” hình thức này có ảnh hưởng và can thiệp rất lớn trong
việc thể hiện nội dung vì đế khắc học hai hình tượng trung tâm là tiếng đàn và người nghệ sĩ
chơi đàn thì không có gì thích hợp hơn là tính nhạc.
3. Phân tích bài thơ
a.Chân dung Lorca
Khái quát: Ngay từ nhan đề Thanh Thảo đã cho biết hình tượng trung tâm trong bài
thơ chính là người nghệ sĩ Lorca và tiếng đàn tuyệt diệu của chàng. Bởi vậy, những câu thơ
đầu tiên đã được Thanh Thảo dùng để vẽ nên bức chân dung của người nghệ sĩ thiên tài này.
Để làm nổi bật chân dung của Lorca, Thanh Thảo đã dùng ngôn từ, hình ảnh để tạo
nên hai bức phông nền đó là phông nền văn hóa và phông nền chính trị của đất nước Tây Ban
Nha.
+ Phông nền văn hóa: Trong sáu câu thơ đầu và rải rác ở phần sau của bài thơ, Thanh
Thảo đã đưa vào rất nhiều những hình ảnh giúp gợi lên những đặc trưng về văn hóa của đất
nước Tây Ban Nha: đó là tiếng đàn li - la trong trẻo của cây đàn ghi ta vốn được mệnh danh là
“Tây Ban cầm”. Đó là một loại hoa mọc rất nhiều trên đất nước Tây Ban Nha, li - la còn là tên
gọi khác của loài hoa tử đinh hương, đó là những đấu trường bò tót nóng bỏng, sôi động:
“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gai ”
Là những thảo nguyên bát ngát gắn vói nền văn hóa du mục:
“đi lang thang về miền đơn độc”
Đó còn là hình, ảnh của những chàng kị sĩ với tinh thần quả cảm, nghĩa hiệp.. ..Tất cả
những hình ảnh đó đã tạo nên một bức phông nền văn hóa phong phú, giàu có, đậm đà bản sắc
dân tộc, Chính nền văn hóa đó đã dồn tụ tất cả tình hoa của mình để sản sinh ra một người
nghệ sĩ thiên tài 1 Lorca.
Phông nền chính trị: ngược lại với phông nền văn hóa đẹp đẽ, giàu có là phong nền
chính trị trong những năm đầu thế kỉ XX của đất nước Tây Ban Nha. Câu thơ:
Tây Ban nha áo choàng đỏ gắt
Ngoài việc gợi lên những đấu trường bò tót sôi động vốn được xem là nét đặc trưng
của văn hóa Tây Ban Nha, câu thơ còn gợi lên một không khí chính trị ngột ngạt, chuyên chế,
đẫm máu bởi màu đỏ còn là màu của máu, của sự chết chóc, đó chính là không khí chính trị
xã hội ở Tây Ban Nha khi mà bóng đen của chủ nghĩa phát xít đang dần bao trùm và khống
chế đất nước này. Nếu phông nền văn hóa lí giải cội nguồn tài năng ở Lorca thì phong nền
chính trị xã hội lại chính là nguyên nhân dẫn đến số phận bi thảm của người nghệ sĩ thiên tài
này dần bao trùm và khống chế đất nước này. Nếu phông nền văn hóa lí giải cội nguôn tài
năng ở Lorca thì phông nền chính trị xã hội lại chính là nguyên nhân dẫn đến sô phận bi thảm
của người nghệ sĩ thiên tài này.
Trên phông nền văn hóa cũng như phông nên chính trị - xã hội bức chân dung của
Lorca đã dược Thanh Thảo vẽ ra tuy chỉ bằng những nét phác thảo chứ không phải là lối vẽ
vụ thể, tỉ mỉ như thường thấy trong văn xuôi nhưng lại là một bức chân dung rất ấn tượng làm
toát lên tất cả thần thái, cốt cách của người nghệ sĩ này.
+ Hình ảnh đâu tiên mà Thanh Thảo dùng đê tạo dựng lên bức chân dung của Lorca
đó chính là “những tiếng đàn bọt nước”. Ngay từ câu thơ đầu tiên Thanh Thảo đã cho thấy
cây đàn ghi ta chính là sứ mệnh của Lorca, cây đàn ấy, tiếng đàn ấy quấn quýt với người nghệ
sĩ không rời. Đây là một câu thơ độc đáo chịu ảnh hưởng mạnh từ bút pháp của chủ nghĩa
tượng trưng bởi thông thường tiếng đàn được cảm nhận bởi thính giác nhưng Thanh Thảo đã
sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để chuyến âm thanh thành hình khối. Chỉ bằng
hình ảnh “bọt nước” người đọc có thể có rất nhiều liên tưởng về tiếng đàn của Lorca. Nói đến
“bọt nước” là người đọc nghĩ ngay đến những hình khối tròn trịa, trong trẻo để từ đó liên
tưởng đến những tiếng đàn đẹp đẽ, trong trẻo của Lorca. Nhưng hình ảnh bọt nước cũng mang
đến cảm giác về sự mong manh dễ vỡ bởi vậy mà nó còn gợi lên được số phận bạc mệnh của
Lorca. Như vậy, chỉ bằng một nét vẽ đầu tiên, Thanh Thảo đã “bắt” được thần thái của người
nghệ sĩ này, đó là người nghệ sĩ tài hoa gắn với những tiếng đàn trong trẻo, ngân nga nhưng
đó cũng là người nghệ sĩ có số phận ngắn ngủi giống như những “bọt nước” mong manh, dễ
vỡ.
+ Tư thế, tâm thế: sau khi ghi lại thần thái, Thanh Thảo đã ghi lại tư thế và tâm thế
của Lorca trên con đường sáng tạo nghệ thuật:
“đi lang thang về miền đom độc ”
Từ láy “lang thang” đã gợi ra được những bước chân tự do, phiêu lãng, phóng khoáng
của Lorca, chàng đi “lang thang” nghĩa là thoải mái để cảm hứng nghệ thuật dẫn lối mà không
phải khuôn mình, gò mình theo một con đường đã định sẵn. Điều này là hoàn toàn phù hợp
với bản chất của nghệt thuật vì nghệ thuật không chấp nhận sự lặp lại, sự sao chép. Mỗi người
nghệ sĩ sẽ phải tìm ra con đường nghệ thuật của chính mình, Lorca cũng vậy, chàng tự do đi
đến khắp mọi nơi, đem tiếng đàn trong trẻo đến với mọi người. Ngay từ tư thế người đọc đã
thấy rõ ở chàng cốt cách của một người nghệ sĩ. Cùng với tư thế là tâm thế, các từ ghép “đơn
độc, mỏi mòn” đã gợi ra tâm hồn cô đơn, cảấi giác lẻ loi, cô độc của Lorca trên hành trình
sáng tạo nghệ thuật. Cô đơn dường như là nét đồng điệu ở tất cả những người nghệ sĩ, đặc biệt
là ở những người nghệ sĩ thiên tài dù ở bất cứ thời đại nào, quốc gia nào. Từ Đỗ Phủ của
Trung Quốc, Nguyễn Du của Việt Nam tới Tago của Ấn Độ, Puskin của Nga, người đọc đều
có thể thấy nỗi cô đơn ấy. Đó như một chất xúc tác, một chất men để người nghệ sĩ sáng tạo
nghệ thuật. Nhưng với Lorca nỗi cô đơn còn lớn hơn bao giờ hết, đặt vào hoàn cảnh Lorca là
người tiên phong trong công cuộc cách tân nền nghệ thuật của Tây Ban Nha và tư tưởng tự
do, dân chủ của chàng đang chịu sự truy đuổi, chà đạp của chủ nghĩa phát xít chuyên chế, bạo
tàn ta mới có thể thấm thìa hết nỗi cô đơn buốt nhói nơi chàng. Thanh Thảo đã diễn tả nỗi cô
đơn của chàng một cách độc đáo qua cụm từ “miền đơn độc”, đây là một kết hợp từ lạ vì
thông thường sau từ “miền” người ta thường nghĩ tới một địa danh, một vùng đất nhưng ở đây
Thanh Thảo lại kết hợp từ “miền” với một tính từ vốn được dùng riêng đế nói về tâm trạng
của con người, kết hợp từ ấy cho phép người đọc liên tưởng không phải miền đất cô đơn mà
chính là do nỗi cô đơn trong tâm hồn của Lorca quá lớn. Nó đã tràn ra và thấm vào tất cả
những mảnh đất chàng đã đi qua để biến những mảnh đất ấy thành “miền đơn độc”,
+ Hành trang: trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình, Lorca đã mang theo hai
hành trang quý giá nhất đó chính là “vầng trăng” và “yên ngựa”:
“với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn ”
“Vầng trăng”: với sự xuất hiện của vầng trăng người đọc có thể thấy ngay hành trang
mà Lorca mang theo không mang sức nặng của vật chất mà hoàn toàn mang giá trị tinh thần.
“Vầng trăng” trước hết là một vẻ đẹp trong sáng của thiên nhiên - sự vật luôn mang đến rất
nhiều cảm hứng cho những người nghệ sĩ muôn đời, cao hơn vầng trăng còn được coi là biểu
tượng của cái đẹp, của nghệ thuật. Như vậy với việc mang theo một vầng trăng có thể hiểu
hành trang quý giá nhất của Lorca chính là một tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng dành cho vẻ
đẹp của thiên nhiên, dành cho cái đẹp và nghệ thuật. Tình yêu ấy lớn đến mức trở thành một
thứ men say mà Thanh Thảo đã phải sử dụng từ láy “chếnh choáng” để thể hiện câu thơ:
“Với vầng trăng chếnh choáng”
Có thể hiểu theo những cách khác nhau, nếu hiểu chủ thể của “chếnh choáng” là
“vầng trăng” thì có thể lý giải rằng chính vẻ đẹp, chính cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa đã
khiến cho cả thiên nhiên phải rung động, nhưng nếu hiểu chủ thể của “chếnh choáng” là
Lorca thì người đọc lại có thể thấy cái nhìn say mê, đắm đuối mà người nghệ sĩ này dành cho
thiên nhiên, cái đẹp và nghệ thuật. Cách hiểu này càng hợp lý hơn khi gắn với phương tiện di
chuyển của Lorca là ngựa. Vó ngựa gập ghềnh đã khiến cho cảnh vật trước mắt chàng như
nhún nhảy, lay động.
Cùng với “vầng trăng” là “yên ngựa”. Hình ảnh này trước hết có thể hiểu theo nghĩa
thực để cho thấy phương tiện mà Lorca dùng để di chuyển trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật của mình chính là bằng ngựa - một phương tiện gợi nên sự khỏe khoắn. Nhưng quan
trọng hơn trong nền văn hóa lâu đời của Tây Ban Nha đặc biệt là ở các thế kỷ 17, 18, 19 khi
nền văn hóa kiếm hiệp đang rất phát triển thì hình ảnh yên ngựa còn gợi ra những chàng kị sĩ
can trường, dũng cảm sẵn sàng chiến đấu vì chính nghĩa. Hiếu như vậy, trường liên tưởng của
người đọc tiếp tục có thể đẩy đi xa hơn, Lorca mang theo “yên ngựa” nghĩa là mang theo tinh
thần của một người kị sĩ, chiến sĩ. Chàng không chỉ là một người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật
mà còn sẵn sàng chiến đấu, thậm chí hi sinh vì nghệ thuật. Cách hiểu này cho phép người đọc
thấy hết vẻ đẹp trong cốt cách của Lorca.
—» Bằng sáu câu thơ ngán gọn với những hình ảnh đa nghĩa, những kết hợp từ độc
đáo Thanh Thảo đã vẽ nên bức chân dung người nghệ sĩ Lorca. Chàng hiện lên với tất cả cái
tự do, phiêu lãng, phóng khoáng của một người nghệ sĩ. Chàng mang theo một tình yêu mãnh
liệt dành cho cái đẹp, nghệ thuật cũng như tinh thần của một người chiến sĩ can trường, quả
cảm. Tuy nhiên, là người đi tiên phong, mở đường và bị đặt trong hoàn cảnh đối lập gay gắt
với nền chính trị đương thời nên hình ảnh người nghệ sĩ hiện lên vô cùng cô đơn, cô độc.
Trong văn học có rất nhiều bức chân dung đặc sắc, độc đáo về các nhân vật nhưng khắc họa
chân dung mà lại cho thấy hết thần thái, cốt cách, cho thấy hết tài năng, số phận của nhân vật
thì bức chân dung mà Thanh Thảo vẽ về Lorca thực sự là một kiệt tác.
b) Phút bi phẫn trong cuộc đời Lorca
Khái quát: Trong khuôn khổ của một bài thơ ngắn, Thanh Thảo không thể đi vào từng
chi tiết, từng sự kiện trong cuộc đời của Lorca như truyện ngắn hay tiểu thuyết mà tác giả chỉ
đi sâu khắc họa giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời người nghệ sĩ khi bị chủ nghĩa phát xít
sát hại. Tuy nhiên, điều đáng nói là ở chỗ chính lúc đón nhận cái chết là lúc vẻ đẹp trong tài
năng, trong tâm hồn, trong khí phách của Lorca được thể hiện rõ nhất.
* Câu 7-12
Bối cảnh diễn ra cái chết: trước khi miêu tả giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời
Lorca Thanh Thảo đã ghi lại bối cảnh của xã hội cũng như bối cảnh tâm lý của người nghệ sĩ
qua hai câu thơ:
“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao ”
Hành động “hát nghêu ngao” gợi ra một tâm thế phấn chấn, lạc quan, vui vẻ và có
phần vô tư. Tuy nhiên, chủ thể của “hát nghêu ngao” lại mờ đi, nếu hiểu “Tây Ban Nha” là
chủ ngữ còn “hát nghêu ngao” là vị ngữ thì Thanh Thảo đã cho thấy cái chết của Lorca đã
diễn ra khi cả đất nước, con người Tây Ban Nha còn rất vô tư, thậm chí vô tâm, họ chưa để ý
đến bóng đen của chủ nghĩa phát xít đang bao trùm, đang bủa vây khắp nơi. Nhưng nếu hiểu
“Tây Ban Nha” là trạng ngữ thì chủ thế của “hát nghêu ngao” lại là Lorca, người nghệ sĩ vẫn
đang say sưa, lạc quan, vui vẻ trên hành trình sáng tạo nghệ thuật mà không để ý đến việc
chàng đang bị chủ nghĩa phát xít theo dõi và tìm cách sát hại. Dù hiểu theo cách nào thì hai
câu thơ đều cho thấy cái chết của người nghệ sĩ hoàn toàn không được báo trước, nó thực sự
là một bất ngờ, một cú sốc lớn với cả đất nước Tây Ban Nha, Thanh Thảo đã sử dụng câu thơ:
“bỗng kinh hoàng ”
Để tô đậm cảm giác này, câu thơ có hai từ thì cả hai từ đều gắn với sắc thái ngạc
nhiên, ngỡ ngàng. Đặc biệt từ “kinh hoàng” còn gợi ra được cảm giác kinh hãi, đau đớn. Đó
chính là cảm giác khi cả đất nước Tây Ban Nha phải chứng kiến cái chết đau đớn của người
nghệ sĩ thiên tài.
Cái chết của Lorca đã hiện lên một cách ám ảnh qua hình ảnh:
“áo choàng bê bết đỏ”
Đây là một hình ảnh thực hiếm hoi xen lẫn giữa hệ thống hình ảnh tượng trưng và
siêu thực của bài thơ. Thanh Thảo đã cố tình sử dụng một hình ảnh tả thực để lấy màu đỏ của
máu đập mạnh vào thị giác của người đọc. Màu đỏ vốn đã là màu của máu, gợi lên sự mất
mát, đau thương lại được kết họp với tính từ “bê bết”, tính từ này đã gợi ra được mức độ đầm
đìa của máu. Bằng hình ảnh ám ảnh này, Thanh Thảo vừa cho thấy cái chết đau đớn, dữ đội
của người nghệ sĩ, vira tố cáo đanh thép sự dã man, tàn bạo của chủ nghĩa phát xít.
Cái chết của người nghệ sĩ là rất đau đớn, nó gây ra niềm xót xa cho tất cả
những ai chứng kiến, nhưng vượt lên trên cái chết này lại là một tâm thế bình thản, nhẹ
nhàng của Lorca, hai câu thơ:
“Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du ”
Đã tạo ra một cặp đối hoàn chỉnh. Neu câu thơ trên sử dụng những thanh trắc,
đặc biệt với hai thanh nặng đặt cạnh nhau: “bị điệu” khiến cho câu thơ trĩu xuống nặng
nề, góp phần thể hiện sự áp chế, cưỡng chế, bạo tàn mà chủ nghĩa phát xít thi hành với
Lorca thì ngược lại, câu thơ dưới lại sử dụng những thanh bằng tạo nên cảm giác nhẹ
nhàng, bình yên đến khó tả. Cách thức “đi như người mộng du” vừa cho thấy màu sắc
của siêu thực khi Thanh Thảo đề cao sự vô thức nhưng quan trọng hon cho thấy những
bước chân và cả một tâm hồn nhẹ nhàng, bay bổng của Lorca. Tất cả sự áp chế bạo tàn
kia và cả cái chết cũng không khiến cho chàng phải bận tâm, lo lắng mà tất thảy ý
nghĩ, cảm xúc của chàng vẫn mải miết đuổi theo một thế giới khác, thế giới mộng du,
thế giới của những giấc mơ nhưng cũng chính là thế giới của cái đẹp và nghệ thuật.
Tâm thế mà Lorca đón nhận cái chết vừa cho thấy tình yêu mãnh liệt mà chàng dành
cho nghệ thuật vừa cho thấy sự can đảm, dũng cảm của Lorca khi dám coi thường,
xem nhẹ cái chết của chính mình.
*Câu 13- 18
Khái quát: sau khi miêu tả giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đòi của Lorca,
Thanh Thảo đã viết một đoạn thơ đặc sắc, độc đáo để miêu tả sự phong phú, sụ: tinh
tế, sự kì diệu trong tiếng đàn của Lorca. Đây chính là một trong những đoạn thơ độc
đáo nhất trong tác phẩm thể hiện dấu ấn đậm nét của thơ tượng trưng khi Thanh Thảnh
liên tục sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác.
Ở hình ảnh. đàu tiên âm thanh của tiếng đàn đã bất ngờ được Thanh Thảo
chuyển đổi với cách thú vị để trở thành màu sắc:
“tiếng ghi ta nâu ”
Sự xuất hiện của màu nâu gọi ra rất nhiều cách hiểu, đó có thể là màu của đất -
khởi nguyên của sự sống, đó cũng có thế là màu của vỏ đàn và gắn với hình ảnh cô gái
Digan xuất hiện ở cuối bài thơ, màu nâu còn gợi ra màu da, màu mắt của người con gái
Digan - tộc người vốn được coi là đại diện cho vẻ đẹp tự nhiên, hoang dã, nóng bỏng.
Neu hiếu là màu mắt thì khi gắn với câu thơ dưới:
“bầu trời cô gái ấy”
Các hình ảnh sẽ gợi lên một trường liên tưởng đầy chất thơ, trên hành trình
sáng tạo nghệ thuật Lorca đã mang theo một tình yêu mãnh liệt vừa là tình yêu dành
cho âm nhạc, nghệ thuật vừa là tình yêu dành cho một cô gái Digan, Chính tình yêu,
nỗi nhớ để khiến cho trong hành trình ấy khi ngước mắt lên nhìn bầu trời chàng đã
thấy hiện lên đôi mắt của người con gái mà chàng thầm yêu. Và như vậy, lại có một sự
chuyển đổi kì diệu từ chiều cao của bầu trời thành chiều sâu hun hút, thăm thắm của
đôi mắt nâu với ánh nhìn da diết, khắc khoải.
Ở câu thơ thứ hai âm thanh tiếng đàn lại từ màu nâu chuyển thành màu xanh tươi non
của lá, màu xanh vốn là màu biểu tượng cho sức sống, cho sự sinh sôi, phát triển, bởi vậy hình
ảnh:
“tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”
Chính là lời khẳng định về sức sống, về giá trị trong tiếng đàn của Lorca. Câu thơ vừa
có thể hiểu là tiêng ghi ta như lá xanh biết mấy, vừa có thể hiểu là tiếng ghi ta làm lá xanh biết
mấy. Nếu hiểu theo cách thứ hai thì ý nghĩa sức sống trong tiếng đàn của Lorca còn mãnh liệt
và dồi dào hơn, sức sống từ tiếng đàn đã lan truyền, đã thấm vào các cảnh vật xung quanh để
lá như xanh thêm, để vạn vật thêm tràn trề sức sống.
Từ màu sắc, âm thanh tiếng đàn của Lorca lại bất ngờ được tác giả “vặn” sang “kênh”
hình khối
“tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan ”
Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” đã xuất hiện ở đầu bài thơ gợi ra những tiếng đàn tròn
trịa, trong trẻo, đẹp đẽ và dự cảm về sự mỏng manh, dễ vỡ. Nhưng đến đây với hai chữ “vỡ
tan” thì dự cảm về số phận đau đớn của tiếng đàn và người nghệ sĩ đã bị hiện thực hóa,
khoảnh khắc tiếng đàn đẹp đẽ, tròn trịa, trong trẻo bỗng nhanh chóng vỡ tan ngay lập tức gieo
vào lòng người đọc cảm giác xót xa.
Ám ảnh nhất trong chuỗi hình ảnh mà Thanh Thảo dùng để viết về tiếng đàn chính là
hình ảnh cuối cùng:
“tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy ”
Thanh Thảo đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để biến tiếng đàn vốn vô hình trở nên
hữu hình, nó như có thân thể, số mệnh như con người. Nỗi đau khi người nghệ sĩ bị sát hại đã
tràn ra, đã thấm đẫm vào tiếng đàn để mỗi tiếng đàn giống như một giọt máu nối tiếp nhau gợi
nên cái chết đau đớn của Lorca. Hình ảnh này một lần nữa cho thấy sự quấn quýt, sự hòa quện
giữa số mệnh của Lorca và vận mệnh của tiếng đàn. Lúc người nghệ sĩ thăng hoa chính là lúc
tiếng đàn tràn trề sức sống, còn lúc người nghệ sĩ bị sát hại chính là lúc tiếng đàn vỡ ra thành
những dòng máu. Ở đây đã có một sự gặp gỡ kỳ lạ giữa Thanh Thảo với đại thi hào Nguyễn
Du trong Đ Ộ C T I Ế U T H A N H K Í , Nguyễn Du đã tinh tế cảm nhận được nỗi đau về tinh
thần của một vật vốn thuộc về thể xác (son phấn) và nỗi đau thể xác của một vật vốn thuộc về
tinh thần (văn chương). Còn Thanh Thảo cũng đã cảm nhận được nỗi đau thể xác của những
tiếng đàn đẹp đẽ, kì diệu. Điều đó một lần nữa đã tô đậm cái chết đau đớn, nghiệt ngã của
Lorca.
Các hình ảnh mà Thanh Thảo dùng để miêu tả về tiếng đàn đều rất đặc sắc, độc đáo.
Nhìn trên bề mặt thì đoạn thơ viết về tiếng đàn dường như chỉ có liên kết rất lỏng lẻo với khổ
thơ viết về Lorca nhưng thực chất đó chính là cách chất tạo đặc biệt của Thanh Thảo theo kiểu
rubic thơ, nhà thơ đã cố tình tạo nên những khoảng trống, khoảng trắng để người đọc có
quyền lấp đầy bằng cảm xúc, bằng hiểu biết, bằng phông văn học của mình. Có thể lý giải
logic giữa đoạn thơ này và đoạn thơ trên bằng những hình ảnh khác nhau:
- Cách 1: ở cuối khổ thơ trên Thanh Thảo đã kết thúc bằng hình ảnh Lorca chìm đắm
trong thế giới mộng du với những bước chân nhẹ nhàng, bay bổng vì vậy có thể hiểu đoạn thơ
viết về tiếng đàn chính là sự nối dài để làm rõ hơn cho thế giới mộng du đó, thế giới mà
Lorca chìm đắm vào đến mức không để ý đến cả sự sống chết của bản thân, không gì
khác chính là thế giới của nghệ thuật, của tiếng đàn với rất nhiều cung bậc kì diệu.
- Cách 2: Cũng có thể hiểu đoạn thơ này là một bản tống kết khác về cuộc đời của
Lorca. Neu như ở phần trên tác giả tổng kết cuộc đời của Lorca bằng những sự kiện thì đến
đây Thanh Thảo đã viết một bản tổng kết khác bằng tiếng đàn, với hình ảnh:
“tiếng ghi ta nâu ”
Gợi ra màu của đất, của khởi nguyên sự sống có thể xem đó là thời điếm người nghệ
sĩ được khai sinh. Với hình ảnh:
“tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”
Với màu xanh tràn đầy sức sống có thể xem đó là giai đoạn thăng hoa nở rộ, phát
triển rực rỡ trong tài năng nghệ thuật của Lorca. Sau đó với hình ảnh:
“tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan ”
Có thể xem đó chính là giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời của Lorca khi chàng bị
chủ nghĩa phát xít chà đạp, tìm cách sát hại. Và cuối cùng với hình ảnh tiếng đàn mang hình
hài, màu sắc của những giọt máu đầm đìa đó chính là cái chết đau đớn của Lorca.
- Cách 3: cũng hoàn toàn có thể hiểu theo một cách khác, ngay từ nhan đề Thanh
Thảo đã cho biết Lorca là người nghệ sĩ chơi đàn, tinh hoa tinh túy của người nghệ sĩ này
chính là ở tiêng đàn. Bởi vậy, có thê xem đoạn thơ này là đoạn Thanh Thảo dùng để khắc họa
nhũng giai điệu, những cung bậc, những tiết tấu khác nhau trong tiếng đàn tuyệt diệu của
Lorca, chỉ có điều Thanh Thảo không đi theo cong đường truyền thống là so sánh. âm. thanh
của tiêng đàn với rnôt âm thanh khác như:
“Trong như tiếng nhạc bay qua
Đục như nước suối mới ra nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đố mưa ”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Mà Thanh Thảo đã miêu tả tiếng đàn một cách tài hoa, độc đáo qua hình, ảnh, màu
sắc, hình khối:
“tiếng ghi ta nâu
Với một sắc màu với tính chất trầm, thầm gợi nên những âm thanh trầm lắng, da diết
trong bản đàn của Lorca; còn “tiếng ghi ta lá xanh” lại gọi ra những âm thanh cao vút, trong
trẻo, tươi vui tràn trề sức sống; “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” lại gợi ra những thanh âm
sắc lạnh, gai góc; “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” gợi ra những âm thanh kéo dài, tha thiết,
não nề, đau đón. Bằng những nét nghệ thụật mói mẻ Thanh Thảo đã cho thấy đầy đủ những
cung bậc, những âm sắc khác nhau trong tiếng đàn của Lorca.
Cách 4: Tuy nhiên cũng có thể xem đoạn thơ này là hệ quả từ cái chết của Lorca. Sau
khi người nghệ sĩ bị sát hại tiếng đàn của chàng dường như cũng vỡ ra thành những mảng
màu sắc, hình khối khác nhau. Có mảng màu nâu, có mảng màu xanh, có mảng tròn trịa, trong
trẻo, có mảng màu đỏ thẫm mang hình hài của những giọt nước mắt.
Khái quát: sau khi khắc họa giây phút bi phẫn, đau đớn nhất trong cuộc đời Lorca,
Thanh Thảo đã giành một đoạn thơ để thể hiện tất cả sự xót xa, tiếc nuối của cá nhân ông và
của cả nhân loại trước sự ra đi của Lorca. Đây là đoạn thơ xúc động nhất trong tác phẩm.
Thanh Thảo tiếp tục sáng tạo các hình ảnh theo cơ chế tượng trung để tạo nên sự đa
nghĩa. Ngay sau cái chết của Lorca, Thanh Thảo .viết:
“không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang ”
Nếu chỉ chú ý đến hình ảnh so sánh “tiếng đàn như cỏ mọc hoang” và đặt sau một
đoạn thơ dài viết về tiếng đàn thì có thể hiểu đây là lời khẳng định của Thanh Thảo về sức
sống mãnh liệt của tiếng đàn, của nghệ thuật. Vì trên thực tế không có loài sinh vật nào, mọc
nhiều, mọc nhanh như cỏ, chúng có thể tồn tại ở ngay những điều kiện khắc nghiệt nhất. Tuy
nhiên, nếu đặt hình ảnh so sánh này trong quan hệ chặt chẽ với câu thơ “không ai chôn cất
tiếng đàn” thì hoàn toàn có thể hiểu theo một cách khác. Câu thơ “không ai chôn cất tiếng
đàn” là một câu thơ với nhịp chậm, giọng thơ trầm lắng và có giọng ngậm ngùi đã gợi nhắc về
việc di nguyện của Lorca không được thực hiện. Sinh thời Lorca đã nhắn nhủ với hậu thế:
“khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ”
Nhưng người đời sau đã không đủ bản lĩnh và dũng cảm để chôn vùi đi thứ nghệ thuật
ấy, để tiếp tục cách tân nền nghệ thuật của Tây Ban Nha. Bởi thế, phong trào cách tân nghệ
thuật mà Lorca là người khởi xướng đã bị dở dang, phát triển tự phát không đường lối, không
người lãnh đạo giống như cỏ mọc hoang vậy. Hiểu theo cách này ý vị xót xa, ngậm ngùi trong
câu thơ sẽ thấm thìa hơn bao giờ hết. Xót xa không chỉ bởi cái chết của Lorca mà xót xa bởi
di nguyện của ông không được thực hiện.
Nhưng hệ quả tất yếu của nỗi xót xa, ngậm ngùi ấy là giọt nước mắt của tác giả:
“giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng ”
Với việc đề cao sự kết hợp ngẫu nhiên Thanh Thảo đã ghép hai hình ảnh vốn không
hay đi liền với nhau. Sự kết hợp này càng lỏng lẻo hơn hơn nữa khi Thanh Thảo loại bỏ hoàn
toàn các quan hệ từ để cố định nét nghĩa. Nhưng chính sự lỏng lẻo đó lại chính là khoảng
trống, khoảng trắng mà Thanh Thảo cố tình tạo ra để cho người đọc lấp đầy. Có thể hiểu câu
thơ theo các cách khác nhau khi sử dụng các quan hệ từ khác nhau. Neu thêm vào quan hệ từ
“của” thì vầng trăng sẽ là chủ thể của nước mắt, vầng trăng của thiên nhiên - người bạn tri âm,
tri kỉ đã từng song hành cùng Lorca trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật đến giờ đã tìm
đến tận nơi ma Lorca bị sát hại để xót thương, để than khóc. Nếu hiếu như vậy, câu thơ gợi
lên một tình bạn lớn lao, đẹp đẽ, xúc động giữa người và trăng; nhưng nếu thêm vào quan hệ
từ “như” thì câu thơ lại gợi ra được độ lớn, độ sáng, độ long lanh của giọt nước mắt mà tác
giả dành cho Lorca; và nếu thêm vào quan hệ từ “và” thì câu thơ sẽ hiểu đến cách hiểu khái
quát nhất đó là cả con người và thiên nhiên đều nhỏ những giọt nước mắt xót thương để đưa
tiễn Lorca, vẻ đẹp trong tài năng, trong nhân cách của người nghệ sĩ có khả năng lay động
không chỉ là trái tim của nhân dân Tây Ban Nha mà còn là trái tim của cả nhân loại. Thậm chí
là cả những vật vô tri vô giác nhất, tất nhiên trong giọt nước mắt lớn lao đó chắc chắn sẽ có
giọt nước mắt chân thành và xúc động của chính Thanh Thảo. Dù hiếu theo cách nào thì giọt
nước mắt ấy đều có.chung một đặc điểm là “long lanh”, có nghĩa là lấp lánh, ngời sáng. Đặc
điểm này là hoàn toàn phù hợp bởi dù ở đâu, dù ở thời đại nào, quốc gia nào thì biết tiếc, biết
xót trước sự ra đi, sự mất mát của cái đẹp, cái tài luôn là một trong những cảm xúc nhân văn
nhất của con người,
d) Sự giải thoát và bất tử của Lorca
Khái quát: ở phần cuối của bài thơ, Thanh Thảo đã khắc họa sự giải thoát và sự bất tử
của Lorca. Đây chính là lúc hình ảnh của Lorca hiện lên đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất gắn với cảm
hứng ngợi ca, tôn vinh, về nghệ thuật ở đoạn này ngoài màu sắc của chủ nghĩa tượng trang
còn có sự pha trộn của những sắc màu siêu thực.
Thanh Thảo đã một lần nữa nhấn mạnh về sự ra đi đột ngột, bất ngờ của Lorca:
“đường chỉ tay đã đứt ”
Trong văn hóa, trong niềm tin tâm linh của rất nhiều dân tộc trên thế giới thì đường
chỉ tay chính là biểu tượng cho số mệnh, cho đường đời bởi vậy hình ảnh “đường chỉ tay đã
đứt” đã gợi lại cái chết đau đớn, đột ngột của Lorca ở chính thòi điếm mà tài năng đang nở rộ
nhất. Chữ ‘đã” trong câu thơ tô đậm cảm giác nghiệt ngã, bạc mệnh trong số phận của chàng.
Bằng tư duy của chủ nghĩa siêu thực Thanh Thảo đã đế cho Lorca sau khi chết vẫn
tiếp tục có một hành động:
“dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang ”
Hình ảnh thơ gợi ra nhũng cách hiểu khác nhau, trong rất nhiều sự vật, hình tượng của
thiên nhiên, dòng sông vẫn được xem là có những điếm tương đồng với dòng đời bởi vậy
trong văn học, dòng sông thường là ẩn dụ cho dòng đời, cuộc đời của mỗi con người thường
được quy ước là 100 nam, nếu đi hết quãng thời gian ấy có nghĩa, là đi hết chiều dài của dòng
sông nhưng vì Lorca đột ngột ra đi khi ở lứa tuối 38 nên chàng không thể đến bến, xuôi dòng
như mọi người mà buộc phải rẽ ngang trên dòng sông cuộc đời. Tuy nhiên, vẫn có thế hiếu
theo cách khác, dòng sông, giếng, biến...trong van học của rất nhiều dân tộc trên thế giới còn
được xem là cửa ngõ, là ranh giới giữa các cối, các miền, các không gian. Bởi vậy, hành động
“Lorca bơi sang ngang” cũng có thế hiếu là Lorca vượt qua ranh giới để đi từ sự sống hữu hạn
ở cõi thực đến sự sống hằng thường, vô hạn ở cõi bất tử. Còn phương tiện giúp cho Lorca có
thế thực hiện được điều kì diệu này không gì khác vẫn chính là chiếc ghi ta. Bình thường vỏ
đàn ghi ta có màu nâu nhưng ở đây Thanh Thảo lại gắn với màu bạc. sắc màu này cũng có thế
lý giải theo những cách khác nhau. Trước hết, vì cây đàn đang trôi trên sông do có sóng nước
nên có thể tạo ra ảo giác khiến cây đàn chuyển từ màu nâu sang màu bạc. Nhưng quan trọng
hơn màu bạc là sắc màu luôn gợi ra sự lấp lánh, sang trọng, nó cho thấy nghệ thuật mà Lorca
tạo ra là vô cùng đẹp đẽ, quý giá và Lorca được bất tử cũng chính là nhờ thứ nghệ thuật ấy.
Đó chính là quy luật:‘Thác là thể phách còn là tinh anh” của những người nghệ sĩ muôn đời.
Ở những câu thơ cuối cùng, Thanh Thảo đã dồn tất cả tâm huyết để ghi khác, tô đậm
tất cả vẻ đẹp trong tâm hồn, trong cốt cách của Lorca. Cả hai câu thơ: “chàng ném L Á B Ù A
CÔ GÁI D I G A N và C H À N G N É M T R Á I T I M M Ì N H ” đều được viết theo cấu trúc chủ
động tạo ấn tượng mạnh về thái độ chủ động, dứt khoát, mạnh mẽ của Lorca.
+ Trước hết Lorca đã can đảm:
“chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước”
Tộc người Digan là tộc người rất tin vào bùa chú. Có thể xem lá bùa là biểu tượng cho số
mệnh đã được an bài, cho sự may mắn. Việc Lorca ném lá bùa cho thấy chàng không trông
chờ vào sự may mắn của số phận, cũng không chap nhận để cho số phận tự xoay vần, định
đoạt mà chàng chủ động tự điều khiển số phận của chính mình. Điều đặc biệt hon là Lorca
không lựa chọn con đường đi bằng phẳng, êm ả để đi như tâm lý của số đông mọi người mà
chàng lại chủ động để đương đầu với xoáy nước, có nghĩa là sóng gió, bão tố, thậm chí là cả
tai ương. Đặt trong hoàn cảnh sống của Lorca, xoáy nước cũng có thể hiểu là sự tàn bạo, sự
khắc nghiệt của chủ nghĩa phát xít. Như vậy, hành động Lorca chủ động đương đầu với sóng
gió, bão tố, tai ương đã làm nổi bật lên phẩm chất kiên cường, dũng cảm của người nghệ sĩ.
+ Không chỉ dũng cảm, kiên cường dám đương dầu với sóng gió, bão tố, Lorca còn là
hiện thân của một nhân cách đẹp, của sự cao thượng, vị tha. Thanh Thảo đã làm nổi bật vẻ
đẹp này qua hành động:
“chàng ném trái tỉm mình
vào lặng yên bất chợt”
Trái tim với nhịp đập nóng hổi của nó luôn là biểu tượng cho sự sống của con người
bởi vậy hành động “ném trái tim” của Lorca chính là hành động dám từ bỏ sự sống - điều luôn
được coi là quý giá nhất với mỗi một con người. Người nghệ sĩ đã “ném trái tim mình vào
lặng yên bất chợt”. Cái “lặng yên” mà Thanh Thảo vẽ ra rất đa nghĩa. Đó có thể là cái lặng
im, yên tĩnh của cõi hằng thường, bất tử sau khi người nghệ sĩ nằm xuống khác hắn với sự sôi
động, sự ồn ào khi ta sống, ta hành động. Tức là Lorca từ bỏ sự sống để trở về với cõi bất tử.
Nhưng cái “lặng yên”bất chợt ấy nếu đặt vào bối cảnh lịch sử - xã hội của Tây Ban Nha
đương thời lại có thể xem như giấc ngủ say của đất nước, của nhân dân Tây Ban Nha khi họ
chưa hề ý thức được nguy cơ của chủ nghĩa phát xít đang bủa vây Lorca đã dám dùng chính
cái chết của mình để lay thức, để đánh động, để khiên cho cả dân tộc Tây Ban Nha bừng tỉnh.
Nếu hiểu theo cách này thì cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn của Lorca sẽ trở nên rực rỡ hơn bao giờ
hết. Bởi người nghệ sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để đổi lại sự sống của cả một dân tộc. Đó
chính là một sự hi sinh cao thượng và đầy tinh thần nghĩa hiệp. Hành động của Lorca khiến ta
liên tưởng đến hành động nghĩa hiệp của người anh hùng Đancô trong huyền thoại Nga -
người đã dám xé toang lồng ngực của mình lấy trái tim làm ngọn lửa soi sáng cho cả bộ tộc
thoát khỏi đầm lầy tăm tối. Và tất nhiên những con người nghĩa hiệp, dám xả thân vì đất
nước, vì dân tộc như Lorca, Đancô thì cái chết của họ chỉ là một sự chuyển đổi để họ mãi mãi
sống trong lòng của tất cả mọi người. Bởi vậy, chính lúc trái tim của Lorca rơi xuống là lúc
tiếng đàn của chàng vút lên, ngân nga trong trẻo. Câu thơ:
“li-la li-la li-la...”
Khép lại bài thơ chính là vĩ thanh tạo nên rất nhiều dư ba cho tác phẩm. Những thanh
âm ấy chính là cách gián tiếp để Thanh Thảo khẳng định Lorca và tiếng đàn của chàng sẽ mãi
mãi bất tử trong tái tim của nhân dân Tây Ban Nha và cả nhãn loại.
BÀI 7: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Nguyễn Tuân)
TRỌNG TÂM
1. Hình tượng con sông Đà
2. Hình tượng người lái đò sông Đà
3. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân NỘI
DUNG ÔN TẬP
I, Khái quát
Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập S ô n g Đ à (1960) của Nguyễn
Tuân. Tác phẩm là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc.
Cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc
và nhất là chất vàng mười - “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động,
chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
Lời đề tử :
Câu thơ của nhà thơ Ba Lan “ đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” đã cho thấy cảm
hứng chủ đạo và đậm nét nhất trong tác phấm chính là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh (đẹp vậy
thay). Đối tượng được ngợi ca chính là vẻ đẹp của dòng sông rộng lớn, bát ngát và cao hơn là
vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, cùng với đó chính là tiếng hát khỏe khoắn của những người
lao động.
Câu thơ của Nguyễn Quang Bíc : “chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu” ,
Nghĩa là mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng dòng sông Đà chảy về phía Bắc.
Ngay từ lời đề từ, tác giả đã nhấn mạnh vào sự độc đáo, khác lạ của dòng sông này. Câu thơ
còn cho thấy đối tượng miêu tả trong văn của Nguyễn Tuân không bao giờ là cái tâm thường
mà luôn là những cái độc đáo, phi thường.
II.Phân tích
Hình tượng của con sông đà
Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông Đà không chỉ có vẻ đẹp của cảnh sắc thiền nhiên,
không chỉ có diện mạo, ngoại hình mà còn sống dậy cả tâm hồn, tính cách thậm chí là cá tính
độc đáo.
Để biến dòng sông từ một đối tượng của tự nhiên trở thành 1 sinh thể sống thực sự có
tâm hồn, có tính cách, Nguyễn Tuần đã tạo cho dòng sông của mình một lai lịch rõ ràng. Bằng
sự tìm hiếu cạn kẽ và nghiêm túc, tác giả đã cho người đọc biết sông Đà khai sinh ở huyện
Cảnh Đông ,Vân Nam, Trung Quốc, chảy qua vùng núi rồi nhập quốc tịch VN sau đó trưởng
thành mãi lên. Cách dùng từ : khai sinh, nhập quốc tịch, trưởng thành cho thấy dòng sông
cũng có đời sống riêng như đời sống của một công dân thực thụ. Từ lai lịch này, Nguyễn
Tuân đã chính thức biến dòng sông trở thành 1 sinh thế sống động có cả diện mạo lẫn tâm
hồn, tính cách.
II.Phân tích
1. Con sông Đà hung bạo
N g u y ê n n h â n : theo Nguyễn Tuân, những lí do cơ bản khiến dòng sông Đà trở nên
hung bạo là:
Trước khi chảy vào VN, sông Đà đã chảy qua một vùng núi hiểm trở của Trung Quốc
bởi vậy mà sự dữ dằn, hung tợn của dòng sông đã được hun đúc từ thượng nguồn, về VN,
sông Đà chảy qua địa hình Tây Bắc vốn là vùng đất nhiều đèo dốc, đồi núi gập ghềnh , hiểm
trở tạo nên dòng chảy xiết mạnh cho dòng sông.
Do lịch sử đau thương: những năm trước 1945, sông Đà cũng là nạn nhân của chiến
tranh, thực dân Pháp chà đạp, giày xéo nước ta. Chúng ngang nhiên “ đè ngửa” dòng sông ra
và đổ vào đó một thứ mực đen đúa, bẩn thỉu khi viết tên dòng sông Đà trên bản đồ là sông
Đen. Ngoài ra bọn lang đạo thổ ti ở miền núi vì tham lam đã chia cắt dòng sông ra thành
nhiều mảnh khiến cho dòng sông tức giận và càng trở nên hung bạo hơn.
Bằng kiến thức địa lý, XH, Nguyễn Tuân đã giải thích 1 cách cặn kẽ , hợp lí cho tính
cách hung bạo của dòng sông. Đi đến tận ngọn nguồn của vấn đề , Nguyễn Tuân cho người
đọc thấy ông không chỉ là 1 người nghệ sĩ tài hoa mà còn là một người lao động nghệ thuật
một cách nghiêm túc.
Biểu hiện của sự hung bạo :
a. Hung bạo ở diện mạo :
+ Sự dữ dội, hùng vĩ xen lẫn với hung bạo của dòng sông Đà trước hết được thể hiện
qua c ả n h đ á d ự n g v á c h t h à n h ở 2 bên bờ sông. Nguyễn Tuân đã dùng 1 hình
ảnh so sánh “ có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như 1 cái yết hầu”. Đây là hình ảnh so
sánh lạ , khiến người đọc hình dung những khối đá lớn chặn ngang dòng chảy khiến lòng sông
Đà vốn rất rộng giờ đây bị tắc nghẽn lại. Cùng với so sánh là những câu văn miêu tả tỉ mỉ :
“mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Chi tiết này vẽ ra hình ảnh những vách
đá cao , dựng đứng che kín ánh sáng chiếu vào lòng sông bởi vậy chỉ lúc giữa trưa khi ánh
sáng chiếu thắng mới lọt được vào lòng sông Đà. Khung cảnh ven sông vừa kì vĩ hoành tráng
vừa âm u , rợn ngợp. Tài hoa của Nguyễn Tuân thể hiện ở chỗ để gợi ra cái lạnh , ông không
sử dụng nhũng hình ảnh quen thuộc của mùa đông (sương giá hoặc tuyết trắng) mà với cá tính
độc đáo của mình, ông đã gợi ra cái lạnh chưa từng có ừong văn học. Đó là cảm giác “ N G Ồ I
TRONG KHOANG ĐÒ QUA QUÃNG ẤY, ĐANG MÙA HÈ MÀ CŨNG THẤY

LẠNH, CẢM THẤY MÌNH NHƯ ĐỨNG Ở HÈ 1 CÁI NGÕ MÀ NGÓNG VỌNG
LÊN 1 KHUNG CỬA SỔ NÀO TRÊN CÁI TẦNG NHÀ THỨ MẨY NÀO VỪA TẲT
P H Ụ T Đ È N Đ I Ệ N . ” Đây không còn là cái lạnh trên bề mặt mà là cái lạnh thấm sâu vào
cảm giác bên trong gắn liền với nỗi sợ hãi do vừa đặt toàn bộ hi vọng bỗng bất ngờ bị đẩy vào
thất vọng, tuyệt vọng.
+ Bên cạnh khung cảnh hùng vĩ của đá bờ sông dựng vách thành, cái hung dữ bạo
ngược của sông Đà còn được thể hiện rõ qua n h ữ n g g h ề n h t h á c ở t r ê n
s ô n g . Bằng kiến thức địa lí uyên thâm cùng với sự khảo sát chi tiết, tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã
cho người đọc biết trong số 73 ghềnh tác trên sông Đà thì mặt ghềnh Hát loóng chính là nơi
dài nhất, nguy hiểm nhất. Đe diễn tả được điều này, Nguyễn Tuân dùng 1 câu văn đầy giá trị
tạo hình “ L Ạ I N H Ư Q U Ã N G M Ặ T G H Ề N H H Á T L O Ó N G , D À I H À N G C Â Y S Ổ
NƯỚC XÔ ĐÁ, ĐÁ XÔ SÓNG, SÓNG XÔ GIÓ, CUỒN CUỘN LUỒNG GIÓ GÙN

GHÈ SUỐT NĂM NHƯ LÚC NÀO CŨNG ĐÒI NỢ XUÝT BẤT CỨ NGƯỜI LÁI ĐÒ

SÔNG ĐÀ NÀO TÓM ĐƯỢC QUA ĐẤY. QUÃNG NÀY MÀ KHINH SUẤT TAY
L Á I , T H Ì C Ũ N G D Ễ L Ậ T N G Ử A B Ụ N G T H U Y Ề N R A ” ở câu văn này, Nguyễn Tuân
đã chứng tỏ khả năng bậc thầy về ngôn từ . Câu văn được tác giả cố tình nới rộng biên độ để
tạo hình chiểu dài tưởng như bất tận của ghềnh thác sông Đà. Câu văn tuy dài song lại không
tạo nên cảm giác dàn trải , chậm rãi, vì được tác giả chia thành nhiều vế ngắn tạo nhịp điệu
nhanh , mạnh, gấp gáp . cấu trúc trùng điệp giữa các vế : N Ư Ớ C X Ô Đ Á , Đ Á X Ô S Ó N G ,
S Ó N G X Ô G I Ó , đã tạo ra một phản ứng dây chuyền giữa 4 đối tượng: nước, đá, sóng, gió.
Bình thường mỗi thế lực này đã mang sẵn trong mình sức mạnh ghê gớm của tự nhiên , nay
chúng lại được gối lên nhau để tạo nên 1 sức mạnh vô cùng khủng khiếp . Thêm vào đó là các
từ: “xô”, “cuồn cuộn”, “ gùn ghè” vừa gợi hình vừa gợi thanh nên tất cả đã giúp nhà văn tạo
hình một cách sống động những ghềnh thác có dòng chảy cuộn xiết, dữ dội đầy nguy hiểm
với bất cứ 1 người lái đò nào.
+ Nguy hiểm nhất, dữ dội nhất vẫn là những cái hút nước trên sông. Để miêu tả hình
ảnh này, tác giả đã huy động rất nhiều yếu tố ngôn ngữ khiến người đọc như đang được chứng
kiến những cái hút nước trên sông Đà.
Trước hết đó là ấn tượng về âm thanh : N Ư Ớ C Ở Đ Â Y T H Ở V À K Ê U N H Ư C Ử A C O N G
CÁI BỊ SẶC. TRÊN MẶT CÁI HÚT XOÁY TÍT ĐÁY, CŨNG ĐANG LỪ LỪ
NHŨNG CÁNH QUẠ ĐÀN. KHÔNG THUYỀN NÀO DÁM MEN GẦN NHỮNG CÁI
H Ú T N Ư Ớ C Ấ Y . . . Tất cả âm thanh của nước đều dữ dội, chấn động, như âm thanh phát ra
tù' cổ họng của 1 con quái vật đang lồng lộn để giật tung sợi xích trói mình.
+ Ẩn tượng về hình ảnh “trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh
quạ đàn”. Trong văn hóa và tâm thức của con người Việt Nam, quạ là con vật gắn với điềm
gở, sự đen đủi, chết chóc..Bản thân sự xuất hiên của hình ảnh này đã tạo nên ấn tượng ghê rợn
nhung tác giả còn tô đậm thêm bằng việc tạo hình dáng bay lừ lừ của những cảnh quạ đàn.
Câu văn tạo cảm giác như cái chết đang từ từ ập đến, bủa vây không có cách nào trốn thoát.
+ Tác giả tạo ấn tượng mạnh mang tính thuyết phục bằng việc dẫn ra những sự thật là rất
nhiều chiếc thuyền đi qua những cái hút nước đã bị nó lôi tuột xuống trồng cây chuối ngược
rồi mươi phút sau thấy tan xác ở dưới khuỷnh sông dưới. Tất cả những chi tiết tác giả huy
động đều tạo nên ấn tượng vô cùng ám ảnh về sự hủy diệt khủng khiếp cũng như sức mạnh
ghê gớm của dòng sổng Đà với con người.
+Tài hoa và độc đáo nhất trong việc miêu tả những cái hút nước chính là việc sử dụng trường
liên tưởng của Nguyễn Tuân. Ông đã liên tưởng đến cảnh một anh bạn quay phim táo bạo đã
dũng cảm ngồi vào 1 chiếc thuyền thúng đế cả mình và máy quay rơi vào cái hút của sông Đà.
Trải nghiệm thực tế đó đã. khiến anh cảm nhận được tất cả sự nguy hiểm, ghê rợn khi “nhìn
ngược lên vách thành hút mặt chông chênh nhau tới 1 cột nước cao đến vài sải Cũng chính vì
lòng dũng cảm , anh đã được đền đáp bằng những thước phim quý giá có 1 không 2 gắn với
khung cảnh tráng lệ, tuyệt mĩ cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve
một áng thủy tinh khối đúc dày”. Rõ ràng cái đẹp mà Nguyễn Tuân hướng đến ở đây là cái
đẹp mang tính chất tráng lệ, phi thường. Tuy nhiên đế có 1 niềm đam mê nghệ thuật mãnh
liệt, sự dũng cảm, bản lĩnh dám đánh đổi cả mạng sống của mình cho nghệ thuật thì anh bạn
nghệ sĩ đó chỉ có thể là Nguyễn Tuân.
Bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã tạo dựng nên hình ảnh
chân thực, sống động về cái mạnh mẽ, mãnh liệt, hung bạo của dòng sông Đà mà người đọc
có thể cảm nhận chân thực bằng ấn tượng thị giác như được đứng trước dòng sông.
b. Hung bạo ở tâm địa
Sự hung bạo của sông Đà không chỉ được thể hiện ở dòng chảy cuộn xiết, những ghềnh thác
mà con người có thể cảm nhận bằng mắt, sự hung bạo của nó còn được thể hiện ở tâm địa ,
những mưu mô xảo quyệt vừa thâm hiểm vửa độc ác. Khi khai thác tâm địa của dòng sông ,
tác giả đã khai thác triệt để hiệu quả của nghệ thuật nhân hóa .
+Tâm địa của thác nước
Tâm địa của dòng sông trước hết được thể hiện ở tâm địa của những thác nước : C Ò N X A
LẮM MỚI ĐẾN CÁI THÁC DƯỚI. NHƯNG ĐÃ THẤY TIẾNG NƯỚC RÉO GẦN
MÃI LẠI, RÉO TO MÃI LÊN. TIẾNG NƯỚC THÁC NGHE NHƯ LÀ OÁN TRÁCH
GÌ, RỒI LẠI NHƯ LÀ VAN XIN, RỒI LẠI NHƯ LÀ KHIÊU KHÍCH, GIỌNG GẰN

M À C H Ế N H Ạ O . Từ một khoảng cách rất xa mà thác đã chủ tâm dùng âm thanh để mê


hoặc, dụ dỗ kẻ thù. Câu văn đã cho thấy sự biến đổi liên tục trong giọng điệu , hong am thanh
của thác nước : khi thì nhẹ nhàng, mềm mại, khi lại khiêu khích chế nhạo, sự thay đổi giọng
điệu liên tục như vậy chính là một mê cung mà thác nước và sông Đà tạo ra để dụ đối phương
vào trong vòng vây không thể có đường thoát thân. Thứ âm thanh như van xin, như oán
trách , như khiêu khích của thác nước thực chất là một thứ âm thanh nguy hiểm, mê hồn
người nhưng chết người. Sau khi đã chính thức dụ được đối phương vào vòng vây của mình
thì các con thác mới phô ra tất cả sức mạnh của nó bằng 1 thứ âm thanh dữ dội như một đòn
đánh phủ đầu làm cho kẻ thù phải choáng váng “T H Ế R Ồ I N Ó R Ố N G L Ê N N H Ư T I Ế N G
MỘT NGÀN CON TRÂU MỘNG ĐANG LỒNG LỘN GIỮA RỪNG VẦU, RỪNG

TRE NỨA NO LỬA, ĐANG PHÁ TUÔNG RỪNG LỬA, RỪNG LỬA CÙNG GẦM

THÉT VỚI ĐÀN TRÂU DA CHÁY BÙNG BÙNG. ” Có thể nói ở đây là 1 trong những
câu văn độc đáo và tài hoa nhất của Nguyễn Tuân .Đó không đơn thuần là sự chọn lọc, sắp
xếp ngôn từ mà là 1 lối chơi độc tấu, 1 lối chơi ngông mà ở VHVN không có ai làm được.
Ông đã dùng những hình ảnh vốn là đối cực, vốn là tương khắc của nhau để chuyển hóa, để
diễn tả sức mạnh của đối tượng .Dùng chính sức mạnh của lửa để diễn tả sức mạnh của nước,
dùng sức mạnh của trâu- 1 con vật vốn ở trên cạn để diễn tả sức mạnh của thác. Lối so sánh
độc đáo: tiếng thác nước được so sánh với tiếng một ngàn con trâu - loài động vật vốn rất
khỏe đang bị đặt trong tình huống khẩn cấp phải đối diện với cái chết.
+Tâm địa của thạch trận:
Sau những âm mưu hiểm độc của thác nước, tác giả đi sâu khai thác sự dữ dằn, độc ác của
đám đá hòn , đá tảng trên sông Đà. Bằng nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân đã miêu tả cả nét
mặt của nhũng hòn đá tảng trên sông: “ M Ặ T H Ò N Đ Á N À O T R Ô N G C Ũ N G N G Ỗ
NGƯỢC, HÒN NÀO CŨNG NHĂN NHÚM MÉO MÓ HƠN CẢ CÁI MẶT NƯỚC

C H Ỗ N À Y ” Bản thân mỗi hòn đá đã chứa sẵn sự dữ dằn, hiểm độc. Thế nhưng chúng còn
phối hợp với nhau để tạo thành một thạch trận giữa lòng sông. Bằng kiến thức sâu rộng về
quân sự và thể thao, Nguyễn Tuân đã cho người đọc chúng kiến 1 trận điạ đá vô cùng vững
chắc. Những hòn đá phối hợp ăn ý với nhau chặt chẽ, kết họp dàn hàng ngang trên sông: Hàng
tiền vệ có nhiệm vụ dụ đối phương. Đá và sóng dùng sức mạnh của mình để đánh vào chiếc
thuyền đơn độc. Tuyến sau íà những boog ke và những pháo đài nổi do những hòn đá to nhất
tạo thành làm nhiệm vụ đánh tan chiếc thuyền .Trận địa chặt chẽ và khoa học này đã cho thấy
sự thâm độc hiểm ác mà sông Đà đã tính toán để tiêu diệt tất cả những thuyền qua đây. Rõ
ràng sự chiến đấu giữa con người và dòng sông nơi đây không chỉ là đấu sức mà là đấu trí.
Tất cả sự thâm hiểm , độc ác trong tâm địa của sông Đà được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn
trong cuộc thủy chiến với người lái đò. Sông Đà bố trí trận địa thành 3 chặng, 3 phòng tuyến
với vô vàn cửa tử nhưng lại chỉ có 1 cửa sinh duy nhất cho mỗi chặng.
+ Ở trùng vây thứ nhất: thần sông dàn ra năm cửa đá, thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh.
+ Ở trừng vây thử hai: tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào.
+ Ở trừng vây thử 3: Thạch trận ít cửa tử hơn, nhưng bên phải, bên trái đều là luồng chết cả
+ Phối hợp với đá là tâm địa của sóng nước, chúng tạo ra âm thanh mà Nguyễn Tuân ví với
“vang trời thanh la não bạt” . Thứ âm thanh náo nhiệt này vừa làm nhiệm vụ reo hò, cổ vũ
tinh thần cho đội quân đá vừa làm nhiệm vu uy hiếp tinh thần của đối phương. Điều nguy
hiểm và khó nhận biết nhất chính là nhũng cửa sinh ít ỏi này không nằm cố định mà biến hóa
khôn lường .Chặng thứ nhất nằm lập lờ ở phía tả ngạn sông, chặng thứ 2 ngay lập tức đối
sang phía hữu ngạn, chặng thứ 3 đối về chính giữa. Có thể nói đây là cái bẫy nguy hiểm nhất
mà sông Đà đã giăng ra để có thể tiêu diệt được tất cả kẻ thù của nó. Để vượt qua cái bẫy
này, người lái đò không chỉ cần sức khỏe mà còn cần sự khéo léo, giàu kinh nghiệm, bản lĩnh
và dũng cảm .
Không chỉ hiểm độc Ở cách bày binh bố trận, sông Đà còn phô trương tất cả sự hiếm dữ của
nó thông qua cách đánh, khi thì chúng huy động toàn bộ sực mạnh để giáng những đòn chí
mạng vào người lái đò : M Ặ T N Ư Ớ C H Ò L A V A N G D Ậ Y Q U A N H M Ì N H , Ù A V À O
MÀ BẺ GẪY CÁN CHÈO VÕ KHÍ TRÊN CÁNH TAY MÌNH SÓNG NƯỚC NHƯ
THỂ QUÂN LIỀU MẠNG VÀO SÁT NÁCH MÀ ĐÁ TRÁI MÀ THÚC GỐI VÀO

BỤNG VÀ HÔNG THUYỀN. C Ó L Ú C C H Ú N G Đ Ộ I C Ả T H U Y Ề N L Ê N . Khi thì


chúng lại dùng trí để sử dụng những đòn tỉa, đòn âm, thậm chí đòn hiểm để đá vào chỗ sơ hở
nhất của người lái đò S Ó N G T H Ó C Đ Ã Đ Á N H Đ Ế N M I Ế N G Đ Ò N Đ Ộ C H I Ể M N H Ấ T ,
CẢ CÁI LUỒNG NƯỚC VÔ SỞ BẤT CHÍ ẤY BÓP CHẶT LẤY HẠ BỘ NGƯỜI LÁI

ĐÒ.
Như vậy từng bằng sự độc ác và nham hiểm, sông Đà từng bước dồn những người lái đò vào
con đường chết. Thực tế đã có không ít người lái đò phải bỏ mạng nơi đây.
Nghệ thuật:
Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, những câu văn dài, những từ ngữ giàu sức biểu cảm ở đoạn thủy
chiến giữa sông Đà và người lái đò sông Đà, với kiến thức phong phú, uyên thâm về các lĩnh
vực địa lí, lịch sử, thể thao, quân sự, điện ảnh,... Nguyễn Tuân đã khắc họa 1 cách chân thực
hình ảnh 1 con sông Đà hung bạo, kẻ thù số 1 của con người.
2, Vẽ đẹp trữ tình của dòng sông ôà
Để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm:
mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ : khi thì ngồi trên trực tháng đế bao quát toàn cảnh, khi
thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hắn lại để chiêm ngưỡng và
miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con
sông Đà mang trong mình 1 vẻ đẹp đa chiều , phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc
độ mới có thể thấu hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm
túc ở Nguyễn Tuân.
a. Hình dáng màu sắc
+ H ì n h d á n g : Vì quan sát sông ở nhiều thời điểm , nhiều góc độ khác nhau nên tác giả
cũng có nhiều cảm nhận khác nhau về hình dáng của sông Đà. Khi ngồi trên trực thăng nhìn
xuống, nhà văn đã nhận thấy dòng sông như 1 cái dây thừng ngoằn ngoèo tãi ra trên 1 đại
dương đá. Hình ảnh này giúp người đọc hình dung toàn cảnh về độ lớn , độ hoành tráng của
dòng sông khi nó tãi ra , uốn lượn trải quanh gần như toàn bộ địa hình của Tây Bắc, đồng thời
bước đầu giúp người đọc hình dung được độ uốn lượn của dòng sông . Nhưng cái đẹp đẽ nhất,
mĩ lệ nhất gắn với hình dáng của dòng sông chính là hình ảnh “Con Sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.Tác giả đã đặt dòng
sông trong 1 trường liên tưởng vô cùng diễm lệ: Cả mảnh đất Tay Bắc giống như 1 người
thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp yêu kiều, còn dòng sông Đà chính là mái tóc của người thiếu nữ
ấy. Cách so sánh đã gợi ra cái mềm mại, cái thướt tha, cái dịu dàng của dòng sông
Nếu trên thượng nguồn dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông
lại trở nên đằm thắm bấy nhiêu .Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ đến mê đắm
lòng người, nhưng tác giả còn tô điểm thêm cho vẻ đẹp của dòng sông bằng sự phối cảnh với
màu sắc, đường nét cảnh vật ở xung quanh sắc xanh của dòng sông trở nên nổi bật giữa sắc
trắn tinh khiết của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng của hoa gạo. Ngược lại cái bung nở mạnh
mẽ đầy sức sống của hoa ban, hoa gạo lại góp phần diễn tả sức sống căng tràn của dòng sông
và tất cả bức tranh nên thơ, đẹp đẽ đó lại được ẩn hiện trong lớp sương khói, bởi vậy có thêm
vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo. Bằng con mắt rất tinh tế, Nguyễn Tuân đã phát hiện được những
góc nhìn mà ở đó dòng sỗng đã phô ra được tất cả vẻ đẹp trẻ trung, mềm mại, thướt tha của
mình. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân : giữa hai
chữ “tuôn dài tuôn dài” thường sẽ có dấu phay nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp
để bản thân câu chữ cũng có khả năng tạo hình và tô đậm ấn tượng về cái mênh mang , dàn
trải, cái mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Ngoài ra trong câu văn này còn có thể nhận
thấy tác giả sử dụng rất nhiều vần bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng ,êm
đềm của dòng sông Đà ở hạ nguồn .Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào
những câu văn đẹp được coi là ‘tờ hoa” trong văn học VN.
+ Màu sắc
Màu sắc của sông Đà cũng được tác giả quan sát, miêu tả một cách tinh tế, kĩ lưỡng qua hai
thời điểm xuân và thu.
Mùa xuân : sông Đà mang sắc xanh ngọc bích. Ấn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng
như đơn giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên sông Đà. Bởi đế có
thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngọc thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt,
dòng chảy phải thực sự êm đềm , ngoài ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ sắc xanh của
dòng sông mà tác giả miêu tả gợi nhắc đến sắc xanh trong khu vườn của Hàn Măc Tử. Xanh
ngọc là mầu xanh vừa có mầu lại vừa có ánh, đẹp đẽ và cao quý. Bằng sự từng trải của 1
người ham xê dịch, Nguyễn Tuân đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về
mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô,
sông Gâm mang màu xanh canh hến. Ở đây cảm hứng đề cao tôn vinh, ngợi ca của tác
giả thể hiện rất rõ.
Về mùa thu : màu sắc của dòng sông lại biến đổi hoàn toàn không còn là màu xanh
ngọc bích mà chuyển sang ulừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”, sắc đỏ của
dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt có thể cảm nhận bằng mắt mà còn ở sâu
tâm trạng, ở sự bất mãn , bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được.
-» Dù mùa xuân hay mùa thu, dù là sắc xanh hay sắc đỏ thì màu sắc của sông Đà đều
rất rõ ràng và độc đáo khác hẳn với những dòng sông khác. Bằng tình yêu của 1 người
say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã
gọi sông Đà là sông Đen.
Như vậy ở phưong diện diện mạo, sông Đà mang hình dáng mềm mại, duyên dáng ,
màu sắc rực rỡ tươi tắn mà ít có dòng sông nào sánh được.
b. Trong quan hệ với con người, sông Đà như một cố nhân
Quan hệ giữa Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không chỉ đơn thuần là quan hệ
giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa nhũng người bạn tri âm tri
kỉ. Bởi vậy tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà
còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính các , trong quan hệ của
dòng sông với con người.
Tác giả dùng 1 từ ngữ rất thiêng liêng và Ỷ nghĩa để gọi sông Đà , đó chính là
“cố nhân”. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình
bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được
thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa từ “cố nhân” còn gợi lên cảm
xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu.
Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa , tiêu diệt con người ở thượng
nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia
sẻ mọi buồn vui vói con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng
sông như nhớ 1 người bạn thân thiết .Vì tác giã dành cho dòng song nỗi nhớ da diết, mãnh liệt
nên khi được gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ
của Nguyễn Tuân :
+ Trước hết , đó là câu văn: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông
Đà. Ở đây Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu
trúc tạo nên nhịp điệu nhanh , dồn dập , vừa gợi ra niềm vui háo hức say mê, vừa gợi ra
những bước chân nhanh vội của tác giả để đến với dòng sông của mình. Cụm từ “sông Đà”
được điệp lại liên tiếp 3 lần ở 3 vế của câu văn gợi ra được trái tim nồng nhiệt, ấm nóng dang
cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại những biểu hiện dù là nhỏ bé , giản dị nhất
của sông Đà như : bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm bướm. Các vế câu lại được khéo léo sắp xếp
để vế sau dài hơn vế trước cho thấy sự tăng cấp, sự hối hả dồn dập trong niềm vui vỡ òa của
tác giả khiến cho câu văn không còn là câu mô tả bình thường mà đã trở thành những tiếng
reo vui.
+Niềm vui của tác giả còn được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh dộc đáo liên tiếp đặt
cạnh nhau: “ C H A O Ô I , T R Ô N G C O N S Ô N G , V U I N H Ư T H Ấ Y N Ắ N G G I Ò N T A N
S A U K Ì M Ư A D Ầ M , V U I N H Ư N Ỗ I L Ạ I C H I Ê M B A O Đ Ứ T Q U Ã N G ” . Có thể nói
đây là 2 hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được mang ra so sánh đều rất đẹp đẽ , thơ
mộng: đó là thứ nắng vàng xuất hiện trên bầu trời trong veo sau cơn mưa, đó là những giấc
mơ kì diệu bay bổng của con người . Cách so sánh giúp tác giả diễ tả chính xác niềm vui căng
tràn, mãnh liệt của mình. Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự
mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt vì thông
thường những giấc mơ khi đã đứt thì rất khó nối lại được, việc nối lại những giấc chiêm bao
đứt quãng vừa là những trường hợp rất hi hữu, vừa vô cùng quý giá.
Như vậy trong quan hệ với con người, sông Đà là 1 người bạn tri âm , tri kỉ, là nơi chia sẻ mọi
buồn vui, nó mang đến cho người đọc những cảm xúc vừa chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hét
sức nhân văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn , tính cách của dòng sông ở hạ nguồn.
c. Cảnh ven sông
Tác giả đã đẩy dòng sông về quá khứ để có cảm giác “Cảnh ven sông ở đây lặng
tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi.”.Nhờ vậy con sông như thoát khỏi tất cả nhũng bụi bặm xô bồ về cuộc sống hiện
đại để đạt đến độ tinh khiết , trong vắt , trở thành dòng sông của thuở hồng hoang dội
về, dòng sông của cố tích trong trẻo, hồn nhiên. “Bờ sồng hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ”, 2 hình ảnh độc đáo đặt
cạnh nhau đã gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ trong trẻo và tĩnh lặng đen tuyệt đối của dòng
sông Đà . Để phù hợp với vẻ đẹp nguyên sơ này Nguyễn Tuân đã dùng 1 nét nghệ
thuật rất cổ điển : Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm
nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mẳt mà như hỏi
tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông
cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biển ”
Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh bởi chỉ có thể lặng tờ đến tuyệt đối thì những
tiếng quẩy của cá dầm xanh mới có khả năng tác động mạnh đến vậy với những cảnh vật xung
quanh. Nét nghệ thuật cổ điển này đã mang đến sức hấp dẫn lạ thường cho văn chương của
Nguyễn Tuân .
Tác giả miêu tả trực tiếp dòng chảy ở hạ nguồn : “ D Ò N G S Ô N G Q U Ã N G N À Y
LỮNG LỜ NHƯ NHỚ THƯƠNG NHỮNG HÒN ĐÁ THÁC XA XÔI ĐỂ LẠI TRÊN

THƯỢNG NGUỒN T Â Y B Ắ C . ” Dòng sông chảy chậm rãi, êm đềm , duyên dáng khác
hẳn với hình ảnh con sông Đà cuồn cuộn gềnh thác ở thượng nguồn.
Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua những cảnh vật ven sông . Nhà văn chỉ chọn
lọc 1 số hình ảnh có sức gợi tả lớn, đó là: 1 nương ngô nhú lên mấy lá non đầu mùa, là cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp, là con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương. Chi vài chi tiết nhung đa rạo I a ấn tượng rất mong manh về sự non tơ, mỡ màng, về
sự tươi mới và về sức sống nội tại trong bản thân mọi sự vật, hiện tượng. Các cảnh vật đã nối
tiếp nhan tạo nên bức tranh nên thơ, đẹp đẽ, yên bình.
Để gia tăng chất trữ tình cho hình ảnh dòng sông Đà, Nguyễn Tuân khéo léo trích dẫn 1
vài câu thơ của Tản Đà, Nguyễn Quang Bích mà không cần thêm bất cứ lời bình luận nào.
Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm
hứng bất tận cho thi ca.
Hình tương người lái đò sông Đà
1. Khái quát:
Trong những năm 60 , khi miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, khi đất
nước bị bom đạn chiến tranh cầy nát đang dần dần hồi sinh nhờ bàn tay khối óc của những
người lao động bình dị thì cảm húng ngợi ca người lao động là cảm hứng X U Y Ê N suốt trong
các tác phẩm văn học thời bấy giờ. Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân cũng không nằm
ngoài dòng chảy ấy. Bên cạnh việc dồn công sức để tạo nên 1 hình tượng dòng sông độc đáo
nhất trong văn học , Nguyễn Tuân còn ngợi ca tôn vinh vẻ đẹp của người lao động gắn với
dòng sông ấy. Đó cũng chính là lí do vì sao tác giả lại đặt tên hco tác phấm của mình là
NLĐSĐ.
Hình tượng NLĐSĐ được đặt trong mối quan hệ song song với hình tượng con sông Đà từ
đầu đến cuối tác phẩm, khi thì là quan hệ đối lập, loại trừ, khi thì là quan hệ bổ sung hỗ trợ tô
đậm vào cái dữ dội, hung bạo của sông Đà. Thưc chất chính là 1 cách đế Nguyễn Tuân làm
bật lên những phẩm chất tốt đẹp của NLĐSĐ. Bước vào thế giới nghệ
thuật của Nguyễn Tuân, NLĐSĐ thực sự đã trở thành nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
2. Phân tích
a. Lai lịch
Theo lời giới thiệu của Nguyễn Tuân thì người lái đò được khắc họa trong tác phẩm là người
Lai Châu, khoảng 70 tuổi, là người dày dạn kinh nghiệm trong việc vượt thác dữ sông Đà.
Ông đã từng xuôi ngược sông Đà trên 100 lần trong đó trên 60 lần giữ lái chính. Có thể nói
những con số mà tác giả đưa ra là con số mang đầy áp lực và thử thách bởi 1 lần đối diện với
con sông Đà hung bạo đã là 1 lần phải đối diện với cái chết nhưng ở đây người lái đò trên 100
lần vượt qua thử thách nguy hiểm đó, không chỉ giữ an toàn tính mạng cho bản thẫn mà còn là
người chỉ huy để giữ gìn tính mạng cho tất cả những người đi cùng. Những con số đó đã cho
thấy phần nào sự tài giỏi, lão luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
b. Ngoại hình :
Ông có ngoại hình thật đặc biệt “ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất
mun trông trẻ tráng quá”. Mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại
hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại
như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông
nước, vượt qua bao ghềnh thác mà NT đã ca ngợi lá thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà NT đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc
một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra
trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá,
sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà
văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó,
yêu quý nghề ở chính con người đó.
c. Vẽ đẹp của NLĐSĐ trong cuộc chiến với thác lũ
C. Sự trí dũng cao cường của người lái đò
Việc tác giả công phu miêu tả con sông Đà chỉ là 1 cách để tôn vinh vẻ đẹp của người lái
đò. Nếu sông Đà không mang vẻ đẹp dữ dội và mĩ lệ nên thơ thì người lái đò cũng chỉ là 1
ông ngư ông chài bình thường trong cuộc sống.Thế nhưng ở đây người lái đò lại chèo đò vượt
thác trên 1 dòng sông đặc biệt vì thế ở ông lái đò có những vẻ đẹp đối xứng hài hòa với dòng
sông. Nếu sông Đà hung bạo và dữ dội thì ông lái đò có chí dũng cao cường để chéế ngự nó,
còn nếu sông Đà trữ tình nên thơ thì người lái đò lại có 1 tâm hồn nghệ sĩ tài hoa để hòa hợp
với vẻ đẹp của dòng sông .
Để làm nổi bật vẻ đẹp chí dũng cao cường của người lái đò tác giả đã xây dựng 1
cuộc thủy chiến khủng khiếp dữ dội với tương quan lực lượng chênh lệch nhau : một bên là
ông lái đò đã già với 1 con đò bé nhỏ và những mái chèo lại càng bé nhỏ như 1 que tre giữa
trùng trùng sóng nước, còn 1 bên là con sông Đà hung bạo dữ dội với dòng nước hùm beo
đang hồng hộc té mạnh vào thuyền, sức mạnh của sông Đà là sức mạnh hủy diệt .Sông Đà còn
có đá mai phục dưới lòng sông, có thác nước vang trời như thanh la não bạt, tưởng rằng sông
Đà sẽ dễ dàng nhấn chìm nuốt chửng người lái đò thế nhưng với trí thông minh, với lòng
dũng cảm phi thường, ông lái đò đã lao vào trận đồ bát quái tả xung hữu đột như một viên
tướng của ngày xưa. Ngay cả khi sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất làm ông hoa
mắt chóng mặt nhung ông vẫn cố nén vết thương, 2 chân vẫn kẹp chặt lấy cuốn lái. Dù mặt đã
méo bệch đi nhưng ông vẫn bình tĩnh chỉ huy 6 bơi chèo.
Đá trên sông Đà bày ra 3 vòng vây mà mỗi vòng đều có những chiến thuật riêng
Vòng thứ nhất đá mở ra 5 cửa trận, có 4 cửa tử, 1 cửa sinh mà cửa sinh lại nằm lập lờ phía tả
ngạn sông .Đến vòng thứ 2 chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lại
bố trí lệch sang phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ 3 ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là
luồng chết, còn luồng sống ở chặng 3 này lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Mặc
dù 'phải đối mặt với khó khăn nhưng với sự trí dũng cao cường, người lái đò vẫn như 1 kị sĩ
dũng cảm đang thuần phục con tuấn mã bất kham . Ông cưỡi lên con thác, nắm lấy cái bờm
sóng ghì chặt lấy cương sấn nó ra làm đôi để mở đường tiến. Quy luật của dòng nước sông Đà
vô cùng khắc nghiệt, chỉ 1 tích tắc sơ ý lóa mắt lỡ tay là phải trả giá bằng cả tính mạng của
mình. Vì thế lái đò trên sông Đà là 1 nghề đòi hỏi phải luôn mắt luôn tay và luôn cả tâm trí
nữa. Cũng bởi vậy người lái đò phải vững chí vững tâm, phải có khí phách anh hùng, sự bình
tĩnh tự tin chủ động để có thể vượt qua dòng nước.
Người lái đò công Đà còn có trí nhớ dẻo dai ông thuộc lòng về con công Đà
như 1 thiên anh hùng ca mà thuộc cả những dấu chấm câu, ngắt đoạn, xuống dòng.
Đọc văn Nguyễn Tuân viết về người lái đò chiến đấu vói sông Đà gợi cho ta liên tưởng
tới hình tượng Uy- lít -xơ trong sử thi Ô- đi- xê của Hô Me Rơ. Có điều nếu Uy- lít- xơ
hiện lên với khí phách trí tuệ của 1 nhân vật sử thi là nơi hội tụ sức mạnh tài năng của
cả dân tộc thì ông lái đò hiện lên rất đỗi bình dị, đời thường. Đó chỉ là một con người
không tên tuối, lại làm 1 công việc mà trước cách mạng người ta vẫn xem
thường ,thậm chí rẻ rúng. Qua đó Nguyễn Tuân khẳng định chủ nghĩa anh hùng không
chỉ có ở nơi chiến trường mà còn hiện diện ngay ở cuộc sống đời thường, khi con
người phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt đế làm ra bát cơm manh áo nuôi sống
bản thân, gia đình và làm giầu cho xã hội. Ta cũng thấy rằng đến đây cái tài, cái đẹp
không chỉ có ở những người nối tiếng mà còn có ở ngay những con người bình thường
nhất, không tên tuổi trong cuộc đời.
C2. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ
Với Nguyễn Tuân, không chỉ những người làm nghệ thuật mới là nghệ sĩ mà
trong mọi ngành nghề, trong mọi lĩnh vực nếu con người thực hiện công việc của mình
một cách thành thục điêu luyện có kĩ năng kĩ xảo thì đều là nghệ sĩ. Trong tác phẩm
này ông lái đò thực sự là nghệ sĩ chèo đò trên dòng thác lũ.
Trong cuộc đời chèo lái của mình, ông lái đò có thể bằng mắt thường mà đóng
đinh đóng dấu vào từng luồng lạch, từng cửa tử cửa sinh trên dòng sông. Với ông,
dòng sông Đà như một thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng nó. Vì nắm chắc được
quy luật của thần sông thần đá nên ông lái đò luôn giành chiến thắng, luôn có tự do và
sự sống ngay cả ở những tình huống nguy hiểm nhất. Trên dòng sông Đà, ông như 1
nhac trưởng đang điều khiến dàn nhạc của mình. Ông bình tĩrứi tư tin chỉ huy 6 tay
chèo , vượt hết cửa tử này đến cửa tử khác để phóng thẳng vào luồng sinh. Nói về tài
nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã gọi đã gọi đó là 1 tay lái nở hoa. Cách gọi ấy
cũng là 1 lối nói ẩn dụ độc đáo táo bạo thể hiện bản chất nghệ sĩ của ông lái đò trong
nghệ thuật chèo đò vượt thác.
Bên cạnh nét tài hoa, ông lái đò còn có tâm hồn tinh tế nhạy cảm. Sau mỗi lần
chèo đò vượt thác, nhà đò lại đốt lửa trong hang đá nướng ống cơm lam và bàn về
những loài cá dầm xanh, cá anh vũ trên sông, về những cái hầm cá, hang cá mùa khô
nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng không có ai bàn
tán lời nào về chiến công vượt thác sông Đà, bởi đối với họ, ngày nào cũng chèo đò
vượt qua thác lũ, cái đọng lại trong tâm hồn họ không phải là những khó khăn gian
khổ, mà là vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Đà. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến
đấu với dòng thác dữ dội, giành cái sống từ tay những cái thác , nên nó cũng không có
gì là hồi hộp đáng nhớ. Như bao người lái đò khác, họ thường buộc 1 bu gà vào đuôi
con thuyền của mình. Việc làm ấy không chỉ đơn thuần là đế biết thời gian mà còn
mang theo tiếng gà cho đỡ nhớ quê hương, bản mường của mình.
Bánh giáp NLĐSĐ của Nguyễn Tuân mang trong mình vẻ dẹp của người dân
lao động, cần cù, dũng cảm trong cuộc sống bình dị, hi sinh cống hiến thầm lặng cho
đất nước.
BÀI 8 : AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
Hoàng Phủ Ngọc Tường
TRỌNG TÂM:
Hình tượng sông Hương
Cái tôi trữ tình, phong cách của tác giả
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
Sinh năm 1937, lớn lên, học tập và công tác nhiều năm ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường rất yêu Huế, hiểu Huế. Sự hòa họp, tương giao, linh úng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử
Huế, văn hóa Huế với tâm hồn nhạy cảm, tinh té của một trí thức yêu nước, vốn hiểu biết sâu
rộng là căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mĩ mãn của những trang viết
trong bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác bài bút kí.
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên
bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ
lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian. Thành công của HPNT là
nhà văn đã xây dựng được con sông thơ mộng, lãng mạn để từ đó bộc lộ cái "Tôi" với tình
yêu quê hương đất nước nồng nàn, sâu sắc.
b. Ý nghĩa nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”:
Đây là câu hỏi tu từ, thể hiện sự ngỡ ngàng, xúc động của tác giả về dòng sông huyền
thoại. Có huyền thoại cho rằng cái mùi thơm tinh tế của rừng già nơi đầu nguồn tích tụ, lan
tỏa, tạo nên dư vị, mùi hương riêng của con sông. Cũng có huyền thoại theo lời kể của người
làng Thành Trung (Quảng Điền): vì quá yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông
Hương đã nấu nước của trăm ngàn loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi
mãi.
Sông Hương là một dòng sông trong vắt, thơ mộng, chảy ngang thành phố Huế, là
biểu tượng của lịch sử, văn hóa và tâm hồn của người Huế.
II. Phân tích
1. Những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông Hương qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc
Tường:
Bằng một tình yêu thiết tha với Huế, một vốn sống văn hóa phong phú, và một vốn ngôn từ
giàu có, đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ca ngợi vẻ đẹp của Huế, tập trung ở vẻ đẹp
của dòng sông Hương từ các góc n h ì n t h i ê n n h i ê n , v ă n h ó a , l ị c h sử, đ ờ i
thường.
a. Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên:
Sông Hương ở thượng nguồn (Sông Hương nhìn từ nguồn cội):
HPNT đã mở đầu bài kí của mình bằng một câu văn đầy chủ quan: "Trong
những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông
Hương là thuộc về một thành phổ duy nhất." Nhận xét của HPNT thể hiện được niềm
tự hào của mình với dòng sông Hương đồng thời ông đã đặt ngang hàng Hương giang
với vẻ đẹp của các dòng sông trên thế giới. Bằng trí tưởng tượng phong phú và niềm
say mê bất tận đối với Hương giang, HPMT đã gợi nên vẻ đẹp hoang dại của dòng
sông ở thượng nguồn.
Trong mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, sông Hương có vẻ đẹp như “một bản trường
ca cia rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng:
+ Khi thì “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” vô cùng hùng tráng.
+ Khi thì “mãnh liệt qua những ghềnh thác” quá đỗi ào ạt.
+ Khi thì “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí Ẩ N ” dữ dội khôn cùng.
+ Khi thì “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
nên thơ, mê đắm.
+ Khi thì “dịu dàng và trí tuệ’ như “người mẹ phù sa” từng trải, mang cốt cách văn hóa, làm
nên sức sống của một vùng đất cố đô.
Sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dai” như “môt cô gái Bí-gan” với “một
bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” đầy nữ tính, vừa dịu dàng, hoang sơ, vừa
mãnh liệt, huyền bí. Đây là vẻ đẹp mang tính bản năng của một tâm hồn sâu thẳm mà chính
dòng sông cũng không muốn bộc lộ. Ngay ở những câu đầu tiên của bài kí này, HPNT đã sử
dụng rất thành công nghệ thuật nhân hóa để ví dòng sông như một cô gái với sức mạnh của
rừng già. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn hình tượng cô gái Di - gan để ví với
dòng sông Hương trên thượng nguồn. Nếu ai đã từng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một cô gái Di
- gan thì sẽ bị cuốn hút bởi sự bí ẩn nhưng mạnh mẽ vô cùng, với làn da nâu rám nắng, đôi
mắt xanh thăm thắm như những thảo nguyên, mái tóc vàng đầy nắng và gió. Đặc biệt những
cô gái này còn biết đến bởi nhưng vũ điệu bốc lửa, đắm say và thuật bùa chú. Dòng Hương
giang trên thượng nguồn cũng vậy.
Nghệ thuật : Nếu con sông Đà của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội qua những câu văn có kết cấu
điệp trùng như "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. ” thì
con sông Hương của HPNT lại hiện lên với những câu văn tạo ra âm hưởng hùng tráng
rất riêng cho bản trường ca rầm rộ của rừng già. Để tạo nên sự man dại của dòng sông
ở phần thượng nguồn, HPNT đã sử dụng dày đặc nghệ thuật đối lập, tương phản, so
sánh để kích thích trí tưởng tượng của người đọc và từ đó độc giả hình dung ra vẻ đẹp
khác nhau của dòng sống. Tác giả cũng chọn lựa những tính từ miêu tả đế làm nổi bật
vẻ đẹp riêng của sông Hương trên thượng nguồn: rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu
dàng và say đắm để cho thấy những nét tính cách đối lập, đa dạng nhưng lại vô cùng
thống nhất của sông Hương.
Nhận xét: Ở đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hé mở một phát hiện mới về vẻ đẹp của
sông Hương. Người ta hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm từ”, êm
đềm, trong trẻo, nay lại biết thêm phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dòng sông qua sự
khám phá tinh tế của nhà văn.
Sông Hương ở đồng bằng (Sông Hirơng trong mối quan hệ vói kinh thành Huế): - Với
Nguyễn Tuân, Sông Đà là “một người tình chưa quen biết” bởi “Dải Sông Đà bọt nước lênh
đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”(Tản Đà). Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, kinh thành
Huế là “người tình mong đợi” của sông Hương. Hành trình về cố đô của sông Hương được
nhà văn hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức’” một người tình trong mộng của người
con gái.Quả là một tưởng tượng bay bổng, diệu kì.
- Hành trình về xuôi “tìm người tình mong đợi” của sông Hương:
+ “Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, sông Hương là “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng
”. Hình ảnh này gợi nhớ truyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng”, mang vẻ đẹp tình tứ,
lãng mạn.
+ Khi ra khỏi vùng núi, cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên,
“chuyển dòng... liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế, đi trong
dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước
trở nên xanh thẳm, trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao
đột ngột”. Bằng nhiều động từ được sử dụng với mật độ dày đặc trong phép nhân hóa ở một
đoạn văn ngắn, nhà văn đã tạo ấn tượng sâu đậm cho người đọc về cái thế đi tìm người tình
trong mộng của sông Hương - một cái thế vô cùng linh hoạt, rạo rực sức trẻ và đầy khao khát
của tuổi thanh xuân.
+ Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương có vẻ đẹp dịu dàng “mềm như tấm
lụa”.
+ Qua những dãy đồi tây nam thành phố, sông Hương ánh lên vẻ đẹp đầy biến ảo như phản
quang nhiều màu sắc trên nền trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
+ Qua lăng tẩm đền đài giữa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc ”,
như triết lí, như cổ thi” trong âm hưởng “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga”. Tác giả tả
'mặt nước phang lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ. Cách
so sánh độc đảo, giàu sức gợi này đã làm nổi bật vẻ thâm nghiêm. Bao nhiêu thăng trầm lịch
sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa, lặn vào vẻ đẹp ngàn
năm không suy xuyển của dòng nước. Từ đó, ta thấy thấp thoáng một cái “tôi ” giàu suy tư.
* Nhận xét:
Sông Hương chảy qua nhiều địa danh với nhiều dáng vẻ khác nhau, khơi gợi bao tầng
sâu văn hiến.
Sông Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng.
Tác giả sử dụng bút pháp kể và tả, liệt kê theo hướng thơ hóa bằng sự cảm thụ tài hoa,
tinh tế.
Sông Hương khi chảy vào thành phố:
+ Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long, sông Hướng có vẻ đẹp rạng
rờ, “vui tươi hẳn lên” với tâm trạng của một người đi xa đã “tìm đúng đường về”, đang nao
nức bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc của quê hương, đang nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành
phố... như những vành trăng non”. So sánh như thế thì thật tuyệt vời. Có màu sắc chiếc cầu,
có ánh sáng bầu trời, có nét dịu dàng duyên dáng của cô gái Huế. Có một cái gì bừng sáng
nhưng không chói gắt ở chân tròi xa, thể hiện một niềm vui mà không ồn ào.
+ Giáp mặt với thành phố ở cồn Giá Viên, sông Hương có vẻ đẹp hiền thục, “uốn một
cánh cung rất nhẹ sang cồn Hen... làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng“vâng”
không nói ra của tình yêu”. Đây là một so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp,
ngập ngừng, ý vị thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh
cung của dòng sông, thể hiện cái nhìn tình tứ, mê say, thống nhất, đem lại cho người đọc
những khoái cảm thấm mĩ độc đáo.
+ Khi qua thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp mực thước, thâm trầm với “điệu chảy
lặng lờ”, “trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, như một “điệu slow
tình cảm ” êm đềm, chậm mềm,lặng lẽ, như không vướng víu chút nào cái xô bồ của bụi bặm
cuộc đời, như sự nuối tiếc của con người vì mọi thứ một đi không trở lại, như nỗi lòng nhiều
vấn vương với Huế vì sắp phải chia xa. Chảy giữa lòng chốn phồn hoa đô hội mà sông Hương
vẫn cứ nguyên sơ, vẫn bất di bất dịch như điệu chảy thời gian. Sông Hương mang cảm
nghiệm thời gian của nhà văn.
Bởi vậy mà nhà văn đã so sánh sông Hương “giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa- nuýp
của Bu-đa-pét”, tất cả đều là biểu tượng văn hóa của mỗi quốc gia. Mọi quốc gia đều có chủ
quyền và bình đẳng trong thế đứng của mình. Ý thức này vốn có từ xa xưa trong lịch sử văn
học, như Nguyễn Trãi đã từng đặt các triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung
Hoa trong “Bình Ngô đại cáo” (1428).
Tuy nhiên, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng. Khi đến Lê-
nin- grat, đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới
ánh sáng của mặt trời mùa xuân.băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc- bua cũ để ra bế
Ban- tích”, nhà văn đã nhớ lại con sông Hương của mình, và “chợt thấy quí điệu chảy lặng lờ
của nó khi ngang qua thành phố”. Cái quí đó biểu hiện sự gắn bó máu thịt với quê hương đất
nước, là niềm tự hào bền vững về Văn hóa Việt vói bản sắc rất Việt: “không háo hức cái tráng
lệ, huy hoàng; không say mê cái huyền ảo, kì vĩ; chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, vừa khéo,
vừa xinh, vừa khoảng, hợp tình, hợp lí (Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Giáo sư Trần Đình
Hượu, 1928-1995).
Hương luyến lưu khi rời khỏi kinh thành:
+ Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc, sông Hương có vẻ đẹp luyến lưu:
“ôm lấy Cồn Hến... mơ màng trong sương khói”, rồi “ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và
của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói,
phải “đột ngột đổi dòng... để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh để nói môt lời
thề trước khi về biển cả... ”.
+ Vẻ đẹp luyến lưu của sông Hương đã được tác giả cảm nhận: nó “rất lạ với tự nhiên
và rất giống với con người”. Từ đó mà nhân cách hóa, gọi đấy là “nỗi vương vấn... chút lẳng
lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế cũng giống
như Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng, cũng giống như người
Châu Hóa mãi mãi thủy chung với xóm làng.
Như vậy, ta nhận ra có ba so sánh bắc cầu: từ dòng chảy khác lạ của dòng sông mà
liên tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim Kiều, rồi từ đó mà liên
tưởng đến tình yêu quê hương xứ sở của người dân xứ Huế. Mượn tình cảm riêng đế khái quát
mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không chung chung, to tát, mà mềm mại, ý vị,
tinh tế, đằm thắm, thiêng liêng, sâu sắc. Đây là nét đặc sắc khá chung của nhiều cây bút tài
hoa: Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu”(1960) thì “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương’;
Tố Hữu trong “Việt Bắc”(1954) thì “Nhớ gì như nhớ người yêu'”; Nguyễn Đình Thi trong
“Nhớ” thì “Anh yêu em như anh yêu đất nước - vất vả đau thương tươi thắm vô ngần’
*Tiểu kết:
Nhà văn đã khám phá và cảm nhận sâu sắc những nét đặc trưng riêng về vẻ đẹp
Thiên nhiên của dòng sông.
Sông Hương hiện lên như một “người gái đẹp”, một “cô gái Di-garì’ mãnh liệt, mê
đắm nhưng không kém phần dịu dàng, tình tứ, ý nhị.
b. Vẻ đẹp của sông Hưong nhìn từ góc độ văn hóa:
Tác giả nói: “Có một dòng thi ca về sông Hương”. Dòng sông đó luôn đổi màu thơ, “
không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của người nghệ sĩ”.
-Từ màu xanh biếc thường ngày, bỗng thay màu thành “dòng sông trắng - lá cây xanh” trong
cái nhìn tinh tế của Tản Đà trong “Chơi xuân”.
- Từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” (Trường giang
như kiếm lập thanh thiên) trong khí phách của văn võ toàn tài Cao Bá Quát.
- Từ nỗi quan hoài vạn cổ “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn”trong thơ Bà Huyện Thanh
quan, nó đột ngột khởi thành sức mạnh phục sinh trong thơ Tố Hữu:
“Răng không cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
Thơm như hương nhụy hoa nhài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đầy thân giang hồ ”
(Tiếng hát sông Hương, 1938)
-Từ Quảng Nam ra, nhìn điệu chảy lặng lờ, nửa muốn đi muốn ở của dòng sông, Thu Bồn đã
cảm được dòng sông đang chảy vào chính lòng mình: “Con sông dùng dằng con sông không
chảy, sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn).
- Từ Hà Nội vào, có nhà thơ đã hỏi trời, hỏi đất: “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”. Câu hỏi
dường như không thể có một lời đáp cụ thể. Câu hỏi ẩn chứa niềm xúc động, tự hào sâu sắc về
dòng sông quê hương, gợi mở cho người đọc nhũng hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm
văn hóa của bản thân.
Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra. Qua năm tháng,
danh xưng của tác giả bị mai một, nó hở thành tài sản chung của cộng đồng. Tuy nhiên, cái
tên đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu
lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này, chính những người dân bình thường – những người
sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử là những người đặt tên cho dòng sông.
Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước,“Sông Hương đã trở thành người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”. Với cảm nhận rất người này, nhà văn đã liên tưởng:
“Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông
này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế, là cái nôi hình thành nền âm
nhạc truyền thống, được UNESCO công nhận là văn hóa phi vật thế của thế giới.
“Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và
từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Nguyễn Du và truyện Kiều là linh hồn, là niềm tự
hào của nền quốc văn Việt Nam. Tái hiện Nguyễn Du và Kiều, tác giả đã làm cho dòng sông
thổn thức với cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học cổ điển của dân tộc, đang chảy
từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay.
- Thế kỉ XV,trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sông Hương được ghi là “Linh giang”,
dòng sông bảo vệ biên cương thời Đại Việt.
-Thế kỉ XVIII, sông Hương là dòng sông “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh
hùng Nguyễn Huệ”.
- Thế kỉ XIX, sông Hương là dòng sông “sống hết lịch sử bi tráng với máu của những cuộc
khởi nghĩa... đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển”.
- Sông Hương “cổ vũ nồng nhiệt” cuộc nổi dậy mùa xuân Mậu Thân, năm 1968. Đồng thời,
sông Hương cũng đã đón nhận những lời chia buồn sâu sắc của thế giới về sự tàn phá mà bom
đạn chiến tranh đã chụp lên những di sản văn hóa của Huế.
Sông Hương “là dòng sông ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời
gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm rnôt chiến công, đế rồi nó trở về với cuộc sống bình
thường, làm lĩiôt người con gái dịu dàng của đất nước Sử thi là chiến công, là cái hùng,
thường đi với màu đỏ. Nhưng ở đây, sông Hương là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”- sử
thi mà trữ tình, hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng, tươi mát. Đó là nét độc đáo của Huế.
Nêu như ở đoạn một và hai, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của
không gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bô cục theo
chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công vùng lên quật khởi. Nó lặng khóc cho
những hi sinh âm thầm. Nó giống như một tấm gương soi vào lịch sử, biếu tượng cho lịch sử.
Nó như biết bao chiến sĩ vô danh vô cùng thiện chiến nhưng không hề hiếu, chiến, trên mảnh
đất Việt Nam hình chữ S này. Khi bình yên, những chiến sĩ vô danh ây lại trở vê với cuộc
sồng binh thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước, đa. tình mà kín đáo, tình tứ mà thủy
chung như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục với “màu tím ẩn hiên”, “màu của
sương khói”, của “tấm voan huyền ảo” trên sông Hương.
Đánh giá :
“Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” là một dòng sông trữ tình đậm màu triết lí rất phóng
túng, tự do và cũng rất lặng mềm, dịu ngọt khởi nguồn từ cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường tài
hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say mê cái đẹp của cảnh và người
xứ Huế mộng thơ. Dòng sông ấy đã hòa chung với dòng sông Hương, chan hòa trong vẻ đẹp
thiên nhiên, văn hóa, lịch sử của vùng đất kinh thành, bồi đắp phù sa trên những bến bờ cảm
xúc để nuôi dưỡng những tình yêu không bao giờ nói hết trong tâm hồn của mỗi một chúng
ta:
Quê tôi đó Huế đó ôi trầm lặng
Cung miếu này thanh vẳng lắm người ơi
Hương giang nay đã bao đời
TRỌNG TÂM

Lửng lơ sâu kín những lời yêu thương.

BÀI 9 : VỢ CHÒNG A PHỦ


(Tô Hoài)
- Hình tượng nhân vật Mỵ
- Hình tượng nhân vật A Phủ
- Giá trị hiện thực và nhân đạo
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Giới thiệu
1. Tác giả
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn
từ trước cách mạng , nổi tiếng với truyện “Dế mèn phiêu lưu kí”.
Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác
nhau của đất nước.
Là nhà văn lớn, sáng tác nhiều thể loại , số lượng tác phẩm của ông đạt kỉ lục trong
nền VHVN hiện đại. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc
sống con người vùng Tây Bắc.
2. Tác phẩm
H o à n c ả n h s á n g t á c : V Ợ C H Ồ N G A P H Ủ (1952) là kết quả của
chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, in trong tập Truyện Tây Bắc, giải Nhất giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955.
Tác phấm được lấy nguyên mẫu từ 1 câu chuyện của đôi vợ chồng người mông mà Tô
Hoài đã được gặp gỡ, tiếp xúc.
V ị t r í , ý n g h ĩ a : Tác phẩm là 1 truyện ngắn đặc sắc nhất trong sự nghiệp
sáng tác của Tô Hoài, thể hiện sự chuyển biến , tiến bộ trong tư tưởng của ông.
Ra đời không lâu sau “ đôi mắt” của Nam Cao, tác phẩm được coi là tuyên ngôn “
nhận đường của các nhà văn sau cách mạng tháng Tám 1954. VCAP của TH cũng có 1 vai trò
quan trọng nhất trong việc thay đổi cách nhìn nhận đánh giá về những người nông dân nghèo
khổ. Cũng giống “Đôi mắt”, VCAP đa cho thấy người nông dân không chỉ đơn thuần là
những người nhỏ bé , đáng thương mà ẩn trong cái vỏ bọc tầm thường , xấu xí ấy lại là những
tâm hồn đẹp đẽ và đặc biệt là những trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng. Tô Hoài đã chứng
minh ở những người nông dân có 1 sức mạnh to lớn, tiềm tàng để có thể phản kháng được tất
cả những thế lực đã đày đọa, chà đạp lên quyền sống của mình.
II. Phân tích
1. Hình t ư ợ n g nhân vật Mỵ
a. Sự xuất hiện của nhân vật
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cồ con
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù
quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thông lí, ăn của
dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết
khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: cô ấy
là vợ Á Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Mỵ là nhãn vật chính, trang tâm, là linh hồn của tác phẩm. Tác giả đã dồn rất nhiều
công sức để Mỵ được xuất hiện 1 cách độc đáo, trực tiếp. Dung lượng của đoạn mở đầu rất
ngắn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Tô Hoài đã để cho nhân vật Mỵ xuất hiện “ bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.
Thực ra việc xuất hiên như thế không có gì là đặc biệt nhưng khi việc đó diễn ra thường
xuyên , liên tục đến mức “ai ở’ xa về có dịp vào nhà thống lý “ đều nhận thấy sự việc này thì
nó đã trở thành điều bất thường . Hình ảnh này hé lộ cho người đọc biết trong gia đình thống
lí Pá Tra Mỵ không được ỏ' vị trí bình thường của một con người mà bị đầy xuống vị trí của 1
loài vật , đồ vật vì tàu ngựa là không gian đế nuôi nhốt gia súc, còn tảng đá lại gợi ra ý niệm
về sự vô tri vô giác, trơ lì và câm lặng. Bằng cách đặt Mỵ bên cạnh, những đồ vật, con vật, Tô
Hoài đã hé lộ cho người đọc biết thân phận bị rẻ rúng , chà đap, bị coi như con vật trong ĩửià
Thống lí Pá Tra.
Cùng với việc miêu tả không gian gắn liền với Mỵ , nhà văn còn miêu tả một
cách khái quát về diện mạo , thần thái của nhân vật này : Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi. Rõ ràng với câu văn này , mục đích của TH không phải là
miêu tả diện mạo mà chỉ bắt lấy thần thái của nhân vật để hé lộ cho người đọc biết thế
giới nội tâm đầy đau khổ, sầu não, u uất trong lòng, "đồng thời nó cũng cho biết thái
độ cam chịu, chấp nhận của nhân vật Mỵ trước số phận đau khổ.
Tô Hoài đã có dụng ý khi để hình ảnh nhỏ bé đáng thương đầy đau khố của Mỵ xuất
hiện ngay bên cạnh bức tranh xa hoa trụy lạc của nhà thống lý Pá Tra: Người ta thường nói:
nhà Pá Tra làm thắng lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muỗi về bán, giàu lắm, nhà có
nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Sự đối lập tương phản gay gắt này đã
phản ánh ỉ hiện thực đau đớn phũ phàng của nông thôn miền núi trước năm 1945. Chính ở
nơi giàu có nhất, xa hoa nhất lại là nơi con người bị rẻ rúng, chà đạp nặng nề nhất, u
uất và đáng thương nhất.
b. Cuộc đời cơ cực và khổ đau của Mỵ
+ Trước khi về làm dâu nhà Thống lý Pá Tra:
Mỵ là cô gái có đầy đủ điều kiện để được hưởng hạnh phúc: trẻ trung xinh đẹp. Vẻ
đẹp ở nhan sắc của cô không mang cái yểu điệu thướt tha của người con gái miền xuôi mà
mang nét khỏe khắn trong sáng, đầy sức sống như những bông hoa đồng nội của núi rừng.
Không chỉ xinh đẹp, Mỵ còn có tài thổi sáo khiến cho bao chàng trai say mê” ngày
đêm thổi sáo đi theo Mỵ”. Tiếng sáo thiết tha trong trẻo của Mỵ cũng đã hé lộ cho người đọc
biết 1 tâm hồn lạc quan, khỏe khan.
Vẻ đẹp nổi bật ở Mỵ chính là sự chăm chỉ cần cù, yêu lao động, yêu tự do. Mỵ chấp
nhận cuộc sống vất vả, công việc cực nhọc, chấp nhận làm nương để trả nợ cho cha chứ
không chịu làm dâu gạt nợ ngột ngạt tù túng trong nhà Thống lý.
Ngoài ra nhân vật Mỵ còn khiến người đọc thực sự xúc động bởi sự hiếu thảo của mình. Mặc
dù luôn khao khát tự do, không chấp nhận cuộc sống tù túng, giam hãm trong nhà thống lí Pá
Tra nhưng cuối cùng Mỵ đã từ bỏ ý định ăn lá ngón tự tử vì thương cha già không co tiền trả
nợ. Hành động vứt nắm lá ngón để quay trở về với cuộc sống trâu ngựa trong nhà thống lý đã
làm ánh lên vẻ dẹp của lòng hiếu thảo. Mỵ đã chấp nhận cuộc sống bị đày đọa đau khổ đến
tận cùng để đổi lấy bình yên cho cha.
Như vậy có thể thấy ở Mỵ kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp đáng quý của người
lao động - nông dân miền núi .Những phẩm chất này mở ra cơ hội để Mỵ có thể được hưởng 1
cuộc sống hạnh phúc và trên thực té cơ hội này cũng đã chớm nở bằng việc Mỵ đã có 1 tình
yêu đẹp, trong sáng với chàng trai cùng bản. Nhưng hạnh phúc chưa kịp mở ra thì cánh cửa
của nó đã đóng sầm lại để đẩy Mỵ vào cuộc sống tăm tối, đau khổ, tủi nhục.
+ Cuộc đời con dâu gạt nợ -Nguyên
nhân :
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những đau khổ tủi nhục trong số phận của Mỵ chính là
món nợ truyền kiếp mà cha mẹ Mỵ đã nợ từ lúc 2 người lấy nhau, mỗi năm buộc phải trả lãi 1
nương ngô. Mỵ trở thành con dâu gạt nợ nhà Thống lý.
Nhưng đem lại đau khổ, bất hạnh cho cuộc đời Mỵ không chỉ đơn thuần là 1 món nợ có thể
nhìn thấy được mà sâu xa hơn, nó xuất phát từ bản chất dã man vô nhân đạo của giai cấp
thống trị ở miền núi tước 1945 .Chế độ ấy điển hình là cha con thống lý Pá Tra đã coi rẻ giá
trị con người không bằng đồ vật, súc vật. Chế độ ấy dã dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi đế
trùm bóng đen lên số phận của người nông dân từ đời này qua đời khác.
- B i ể u h i ệ n : dưới sự tàn bạo dã man của giai cấp thống trị, Mỵ đã bị chà đạp cả thể xác
lẫn tinh thần.
B ị chà đ ạ p v ề t h ể xác : Mỵ về nhà thống lý Pá Tra với danh nghĩa là con
dâu nhưng thực chất là nô lệ, bị bóc lột 1 cách thậm tệ để biến thành 1 công cụ làm giàu
không công cho nhà thống lý. Mỵ bị bóc lột đến mức cô không còn mối quan tâm nào khác
ngoài công việc:“ M Ị C Ú I M Ặ T , K H Ô N G N G H Ĩ N G Ợ I N Ữ A , M À L Ú C N À O C Ũ N G
CHỈ NHỚ ĐI NHỚ LẠI NHỮNG VIỆC GIỐNG NHAU, TIẾP NHAU VẼ RA

TRƯỚC MẶT, MỖI NĂM MỖI MÙA, MỖI THÁNG LẠI LÀM ĐI LÀM LẠI: TẾT
XONG THÌ LÊN NÚI HÁI THUỐC PHIỆN, GIỮA NĂM THÌ GIẶT ĐAY, XE ĐAY,

ĐẾN MÙA THÌ ĐI NƯƠNG BẺ BẮP, VÀ DÙ LÚC ĐI HÁI CỦI, LÚC BUNG

NGÔ, LÚC NÀO CŨNG GÀI MỘT BÓ ĐAY TRONG CÁNH TAY ĐỂ TƯỚC

THÀNH SỢI. ” Tô Hoài đã có dụng ý khi viết 1 câu văn rất dài để cho người đọc có thế
hình dung về vòng quay triền miên, liên tiếp, nặng nề của công việc mà Mỵ phải thực hiện
Mỵ đã biến thành công cụ câm lặng để làm giàu có cho nhà thống lý. Qua bi kịch của Mỵ,
người đọc thấm thìa hơn về nỗi khổ của người nông dân trước cách mạng đoạn này Tô Hoài
đã dùng cách trần thuật nửa trực tiếp, về hình thức thì lời kể là lời người dẫn truyện, nhưng
bản chất lại giống như lời Mỵ tự kế , tự bộc bạch , nhờ thế nỗi khổ của Mỵ càng hiện lên 1
cách tự nhiên, chân thực, đầy xót xa đau đớn.
Mị bị chà đạp về tinh thần :
Không chỉ dừng lại ở việc bị biến thành 1 công cụ làm giàu cho nhà thống lý Mỵ còn
bị chà đạp, đối xử như 1 nô lệ, thậm chí 1 con vật. Nỗi khổ về mặt tinh thần còn đau đớn hơn
nỗi khổ về mặt thể xác.
Cuộc sống tù ngục của Mỵ trước hết được thể hiện rõ trong quan hệ với A Sử.
A Sử bắt Mỵ về làm vợ nhưng lại không yêu thương trân trọng mà đối xử tàn nhẫn độc
ác, cạn tình cạn nghĩa như đối với 1 nô lệ. Ngày tết Á Sử vẫn tiếp tục đi bắt con gái
bản khác về làm vợ trong khi tất cả mọi người được đi chơi ngày tết thì Mỵ phải ở nhà
làm việc. Ngày xuân Mỵ cũng muốn đi chơi, khi khao khát sống vừa bùng lên thì ngay
lập tức bị chặn đứng bởi 1 loạt hành động dã man của A Sử. Hắn nói với Mỵ 1 câu lạnh
lùng vô cảm Mày muốn đi chơi à? Hắn bước lại , lấy thắt lưng trói hai tay Mỵ. Nó còn
xách cả 1 thúng sợi đay trói đứng cô vào cột nhà, quấn tóc lên cột khiến cô không cúi
không nghiêng đầu được nữa. Đó là hình thức tra tấn dã man thời trung cổ. Ở đoạn
này, tác giả
đã có dụng ý khi không miêu tả ngôn ngữ nhân vật” phương tiện giao tiếp giữa người
với người để tất cả diễn ra trong sự lạnh lùng, tàn nhẫn, câm lặng. Điều này cho thấy
Mỵ khi bị bắt về làm dâu, co phải trải qua 1 nghi lễ hết sức khung khiếp đó là bị đem
cúng trình ma.. Đối với những người nông dân ít học, hành động này đã đánh vào
niềm tin tâm linh để Mỵ và phần lớn người dân nơi đây tin rằng mình đã, trở thành ma
nhà thống lý, không thể thoát ra được. Có thể thấy đây là hành động thâm độc nhất
của giai cấp thống trị ở miền núi để người nông dân tự từ bỏ quyền sống, quyền tự do
của mình.
Việc Mỵ bị bóc lột tàn tệ về thể xác và chà đạp về tinh thần trong 1 khoảng thời
gian dài đã mang đến hệ quả tất yếu là người phụ nữ nhỏ bé ấy dần trở nên chai lì,
câm lặng, cúi đầu chấp nhận tất cả những đau khổ ấy, Điều này được Tô Hoài thể
hiện 1 cách đầy ám ảnh qua cách so sánh “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ” và
hình ảnh căn buồng Mỵ nằm.
Trước hết, Tô Hoài đã sử dụng hình ảnh so sánh đầy sức nặng hiện thực : M Ỗ I
NGÀY MỊ CÀNG KHÔNG NÓI, LÙI LŨI NHƯ CON RÙA NUÔI TRONG XÓ
C Ử A . Hình ảnh một con yật vốn bị coi là nặng nề chậm chạp nhất (con rùa) , sống trong
không gian tăm tối ngột ngạt (xó cửa) tô đậm thân phận nhỏ bé đáng thương cùng thái độ cam
chịu, chấp nhận cúi đầu sống trong đau khổ cuả Mỵ.
Cung với hình ảnh so sánh này là hình ảnh của sổ nơi căn buồng Mỵ nằm: Ở C Á I
BUỒNG MỊ NẰM, LÁN MÍT, CÓ MỘT CÁI CỬA SO MỘT LO VUÔNG BẰNG
BÀN TAY. LÚC NÀO TRÔNG RA CŨNG CHỈ THẤY TRĂNG TRẮNG, KHÔNG
B I Ế T L À S Ư Ơ N G H A Y L À N Ắ N G . Đây không phải là căn phòng mà thực chất là 1 nhà tù
ngột ngạt tăm tối giam hãm cả cuộc đời và tuổi xuân của Mỵ . Sống trong không gian ấy Mỵ
dần dần bị bào mòn, mất hết ý thức, không còn phân biệt được thời gian. Biểu hiện cao nhất
của sự tê liệt về cảm xúc đó là Mỵ không còn nghĩa đến cái chết như trước đây nữa. Mặc dù
cha cô đã chết, cô không còn điều gì ràng buộc nhưng vì Ở L Â U T R O N G C Á I K H Ổ M Ỵ
Đ Ã Q U E N K H Ổ R Ồ I , sống hay chết cũng chỉ như thế mà thôi.

Ý nghĩa :
Phản ánh cuộc sống đau khổ đọa đầy, tủi nhục của Mỵ trước hết Tô Hoài đã đem đến
cho tác phẩm của mình giá trị hiện thực sâu sắc. Qua nhân vật Mỵ, nhà văn đã khái quát số
phận đau khổ, bi thương của người nông dân miền núi trước 1945. Đó cũng là lí do đế bên
cạnh Mỵ, Tô Hoài còn xây dựng những nhân vật khác trong truyện như chị dâu chưa già
nhưng lưng đã còng xuống, và nỗi ám ảnh về câu chuyện đã từng có người đàn bà bị trói đứng
cho đến chết trong nhà thống lí.
Số phận Mỵ còn mang ý nghĩa phê phán tố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác, tham lam của giai
cấp thống trị ở miền núi.
Đằng sau câu chuyện của Mỵ, người đọc còn nhận thấy trái tim nhân đạo cao cả của Tô Hoài
bởi nhà văn đã trải lòng mình ra để đồng cảm xót thương cho số phận nhân vật.
c. Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ
Khái quát: Khi viết về số phận đau khổ, bi thảm của Mỵ, người đọc đã có thể cảm
nhận giá trị hiện thực , giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đây thì
VCAP chưa có điểm già khác so với các tác phẩm trước cách mạng như : Tắt đèn, Lão Hạc,
Chí Phèo,...Trong tác phẩm, bên cạnh việc khắc họa cuộc sống khổ cực của người nông dân
miền núi, Tô Hoài còn có cái nhìn mới mẻ khi đi sâu khai thác sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở
những con người nhỏ bé đáng thương mà điển hình là Mỵ. Sức sống của Mỵ đã được nhà văn
khai thác ở trong hai đoạn đặc sắc là đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ
+ Trong đêm tình mùa xuân :
Tô Hoài là nhà văn bậc thầy trong việc phân tích miêu tả tâm lí nhân vật, bởi vậy đế
Mỵ từ một con rùa lùi lũi trong xó cửa đến chỗ là hiện thân của một sức sống mãnh liệt tiềm
tàng mà không gây ra sự đột ngột bất ngờ, gấp khúc, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu
đáo cho việc bùng lên khát vọng sống của nhân vật. Ông đã khéo léo lựa chọn các chi tiết đế
tác động vào tâm lý của Mỵ khiến cho sự thay đổi tâm lý diễn ra tự nhiên hợp lo gic chứ
không phải sự sắp đặt của tác giả.
Ba tác phẩm quan trọng
Yếu tố đầu tiên tác động đến tâm lý nhân vật là không khí mùa xuân trên các bản
mèo. Tô Hoài đã lựa chọn 1 vài chi tiết đặc sắc để miêu tả không khí mùa xuân rộn ràng, náo
nức. Đó là hình ảnh của nhũng chiếc váy hoa đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc
sỡ, đó là cỏ gianh vàng ửng, là trò chơi của con trẻ, tất cả đã tạo ra hình ảnh đặc trưng của các
dân tộc ở miền núi. Mùa xuân ở bất cứ nơi đâu cũng là mùa của sức sống căng tràn, mùa của
tình yêu hạnh phúc. Bởi thế không khí của mùa xuân đã âm thầm gieo vào tâm hồn Mỵ những
hạt mầm của sức sống, của khát vọng .
Cùng với mùa xuân, men rượu cũng là tác nhân ảnh hưởng tới tâm lý nhân vật. Mỵ
uống rượu ngày tết thì chưa có gì lạ lạ, nhưng cách uống mới thực đặc biệt. “ Ngày tết Mỵ
cũng uống rượu”. Từ ‘cũng” cho thấy đây là hành động không có chủ đích, chí làm theo số
đông khi mọi người trong nhà đều uống .Hành động của Mỵ chỉ thực sự bất thường khi tác giả
miêu tả Mỵ uống ực từng bát. Cách uống thể hiện tâm trạng đầy phẫn uất, uống nhiều, uống
nhanh từng ngụm lớn không phải để thưởng thức mà thực chất để nuốt tủi hờn đau đớn vào
trong lòng. Men rượu khi bừng lên đã thành 1 chất xúc tác quan trọng để dẫn đén sự nổi loạn
ở con người tưởng như chỉ biết đến sự lam lũ, cam chịu.
Tác nhân quan trọng nhất dẫn đến sự nổi dậy mạnh mẽ của Mỵ trong đêm tình mùa
xuân chính là tiếng sáo. Nhắc đến tiếng sáo là nhắc đến ngày hội của dân tộc thiếu số mà ở đó
thanh niên nam nữ được gặp gỡ ,tình tứ. Với Mỵ, tiếng sáo còn gắn với quá khứ tươi đẹpkhi
có rất nhiều chàng trai ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ. Bởi thế khi tiếng sáo xuất hiện, nó đã
gợi nhắc đến khát vọng tự do , tình yêu và hạnh phúc. Tô Hoài đã rất dụng công khi miêu tả
tiếng sáo trong tác phẩm :Từ chỗ tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, sau đó xuất hiện ở đầu làng,
rồi tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường và cuối cùng rập ròn trong đầu Mỵ.Cùng với sự thu hẹp
của không gian tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần , từ mơ hồ đến rõ ràng là khát vọng hạnh
phúc mỗi tóc một lớn, mãnh liệt của Mỵ. Từ chỗ mới chỉ là tiếng gọi từ bên ngoài, khát vọng
hạnh phúc đã được thôi thúc nảy nở từ chính trong tâm hồn Mỵ.
Diễn biến tâm lý nhân vật Mỵ
Khái quát: dưới tác động của không khí mùa xuân, men rượu và tiếng sáo thiết tha gọi bạn
tình , Mỵ đã thực sự nổi loạn với diễn biến tâm lý vừa tự nhiên, vừa phức tạp.
B ư ớ c 1 : Sự thay đổi đầu tiên trong tâm lý của Mỵ chính là cảm nhận về tiếng sáo.
Nếu trước đây tất cả những tác động của cuộc sống dù đau đớn đến cùng cực cũng không
khiến Mỵ bận tâm vì cô đã chai lì tê liệt thì dưới tác động của tiếng sáo Mỵ đã cảm nhận thấy
âm thanh này t h i ế t t h a b ố i h ồ i , Hai tính từ tác giả sử dụng không nhằm miêu tả đặc
điểm của tiếng sáo mà nhằm cho thấy sự thay đối âm thầm trong tâm hồn Mỵ. Từ chỗ từ bỏ
mọi khát vọng sống nay khát vọng hạn phúc, tình yêu đã bắt đầu nảy nở trong tâm hồn Mỵ.
Chính, vì khát vọng này nên Mỵ đã có 1 hành động rất ý nghĩa là ngồi nhẩm thầm bài hát của
người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con
gái.
Ta đi tìm người yêu
Dù mới chỉ là lời nhẩm thầm nhưng nó đã đánh dấu sự quay trở lại của ngôn ngữ.
Trước đây Mỵ gần như khước từ hoàn toàn ngôn ngữ, nhưng nay ngôn ngữ gắn với khát vọng
giao tiếp đã quay trở lại. Đó là bài hát mà Mỵ nhẩm gắn liền với khát vọng tình yêu hạnh
phúc. Nó cho thấy Mỵ không còn muốn sống câm lặng, lùi lũi như trước kia nữa.
B Ư Ớ C 2 : Sự thay đổi mạnh mẽ táo bạo trong tâm lý của Mỵ tiếp tục được thể hiện
khi Mỵ uống rượu. R Ồ I S A Y , M Ỵ L Ị M M Ặ T N G Ồ I Đ Ấ Y N H Ì N N G Ư Ờ I N H Ả Y
ĐỒNG, NGƯỜI HÁT. N H Ư N G L Ò N G M Ỵ Đ A N G S Ổ N G V Ề N G À Y T R Ư Ớ C . Với
hành động này, Mỵ đã có thái độ khước từ thực tại, cô đã thoát khỏi thực tại bằng việc nhớ về
quá khứ đẹp đẽ. Mỵ nhớ lại tài thổi sáo của mình, nhớ lại quãng đời hạnh phúc trước kia, khi
vẻ đẹp và tài năng của cô đã tạo nên sự cuốn hút mãnh liệt cho các chàng trai. Việc sống về
quá khứ đã cho thấy cô không còn chấp nhận sống cuộc đời câm lặng nữa mà đang tìm cách
đổi thay, vượt thoát.
B Ư Ớ C 3 : Đến đây khát vọng tình yêu, hạnh phúc của Mỵ đã rất mãnh liệt nhưng
với sự già dặn , lão luyện của một cây bút từng trải ,Tô Hoài đã không để tâm lý của Mỵ phát
triển theo đường thẳng mà nhà văn còn tinh tế cảm nhận được những uẩn khúc quanh co
trong tâm lý của nhân vật. Bởi thế Tô Hoài không để cho Mỵ ra đường chơi ngay mà để cô từ
từ bước vào buồng. Hành động này xuất phát từ thói quen của Mỵ khi khoảng thời gian sống
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa đã diễn ra quá dài, quá lâu, bởi thế không dễ gì ngay 1
lúc Mỵ có thể thay đổi. Bắt được uẩn khúc này trong tâm lý của nhân vật, Tô Hoài đã khiến
cho tâm lý của Mỵ diễn ra 1 cách tự nhiên , họp lý chứ không còn cảm giác khiên cưỡng, ép
buộc . Mỵ bước vào buồng, nhìn ô cửa vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắn. Chính hình ảnh
của ô cửa sổ đã làm Mỵ bừng tỉnh để ý thức về cuộc sống tù ngục, tăm tối, đau khổ của mình .
Cũng chính hình ảnh này đã khiến mỵ đoạn tuyệt hoàn toàn với sự lũi lũi, câm lặng để khát
vọng sống được bừng lên mãnh liệt. M Ỵ T H Ấ Y P H Ơ I P H Ớ I T R Ở L Ạ I , T R O N G L Ò N G
ĐỘT NHIÊN VUI NHƯ NHỮNG ĐÈM TẾT NGÀY TRƯỚC. MỴ TRẺ. MỴ VẪN
CÒN TRẺ. M Y M U Ố N Đ I C H Ơ I . Ba câu văn ngắn được đặt cạnh nhau tạo nên sự thôi
thúc mạnh mẽ khát vọng sống từ sâu trong tâm hồn Mỵ để rồi sau đó cảm xúc, sự lựa chọn
của Mỵ trở nên rõ ràng, mãnh liệt. Sự sống, cái chết ở Mỵ lúc này không còn nhòa mờ vào
nhau mà đã có sự phân định rạch ròi. Thậm chí Mỵ dám chấp nhận cái chết để từ bỏ kiếp sống
đọa đầy : N Ế U C Ó N Ắ M L Á N G Ó N T R O N G T A Y L Ú C N À Y , M Ỵ S Ẽ Ă N C H O
CHẾT NGAY, CHỨ KHÔNG BUỒN NHỚ LẠI NỮA. NHỚ LẠI, CHỈ THẤY NƯỚC
M Ắ T Ứ A R A . Sự xuất hiện của nước mắt đã chứng tỏ Mỵ không còn rơi vào trạng thái tê liệt
mà đã tìm được đầy đủ cung bậc cảm xúc của mình.
B Ư Ớ C 4 : Ngay khi cảm xúc căng tràn mãnh liệt thì tiếng sáo lại xuất hiện đầy dụng
ý đế khát vọng tình yêu của Mỵ từ chỗ tồn tại trong tư tưởng đã được hiện thực hóa bằng 1
loạt các hành động mang ý nghĩa nổi loạn mà hành động đầu tiên là M Ỵ Đ Ế N G Ó C N H À ,
L Ẩ Y Ố N G M Ỡ , S A N M Ộ T M I Ế N G , B Ỏ T H Ê M V À O Đ Ĩ A Đ È N C H O S Á N G . Đây
không đơn thuần là hành động thắp lên ánh sáng cho căn phòng tăm tối mà còn là biểu tượng
cho việc thắp lên ngọn lửa của tình yêu, hạnh phúc. Sau hành động này là 1 loạt các hành
động khác, liên tiếp : M Ỵ M U Ố N Đ I C H Ơ I . M Ỵ C Ũ N G S Ắ P Đ Ì C H Ơ I . M Ỵ Q U Ấ N
LẠI TÓC. M Ỵ V Ớ I T A Y L Ẩ Y C Á I V Á Y H O A V Ắ T P H Í A T R O N G V Á C H . Những câu
văn ngắn , nhịp nhanh, gấp gáp thể hiện khát vọng trong Ivỉỵ đang ¡rào dâng mánh iiệỉ. Mành
dộng này thực sự là 1 sự lội xác , cô đâ thực sự tìm lại được chính mình _ một cô Mỵ trẻ trang
, đầy khát vọng sống.
B Ư Ớ C 5 : Chính lúc khát vọng của Mỵ đạt đến cao trào thì đã vấp phải hiện thực
nghiệt ngã: đó chính là sự độc ác, tàn nhẫn, vô cảm của A Sử. Nhận thấy Mỵ muốn đi chơi, A
Sử đã tìm cách dập tắt ý định này bằng 1 loạt hành động dã man : A S Ử B Ư Ớ C L Ạ I , N Ắ M
MỴ, LẨY THẮT LƯNG TRỐI HAI TAY MỴ. NÓ XÁCH CẢ MỘT THÚNG SỢI
ĐAY RA TRỐI ĐÚNG MỴ VÀO CỘT NHÀ. TÓC MỴ XÕA XUỐNG. A SỬ QUẤN
LUÔN TỐC LÊN CỘT, MỴ KHÔNG CÚI, KHÔNG NGHIÊNG ĐƯỢC ĐẦU NỮA.
TRÓI XONG, A SỬ THẮT CÁI THẮT LƯNG XANH RA NGOÀI ÁO RỒI PHAY
T A Y T Ắ T Đ È N , Đ I R A K H É P C Ử A B U Ồ N G L Ạ I . Miêu tả những hành động độc ác của
A Sử, Tô Hoài đã đặt ra 1 thử thách rất lớn với khát vọng sống của Mỵ . Nhưng khát vọng này
lớn đến mức dù bị giam hãm , trói buộc về thể xác nhưng Mỵ vẫn tìm cách vượt ngục bằng
tinh thần. Tiếng sáo vẫn rập rờn trong đầu Mỵ để đưa cô đi theo những cuộc chơi. Suốt đêm
Mỵ bị trói đứng như vậy Mỵ sống giữa ranh giới giữa thực và mộng, vùng bước đi nhưng
chân đau không cựa được. Cô cảm nhận được sâu sắc nỗi khố của mình, thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa. .Khi chìm vào cõi mộng cô lại nín khóc, bồi hồi. Một biểu hiện của
lòng ham sống trong Mỵ đó là nhớ lại câu chuyện kinh hoàng về người đàn bà bị trói đứng 3
ngày chết trong nhà thống lý. Mỵ thấy sợ, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Nỗi sợ
hãi đó chứng tỏ Mỵ vẫn còn ham sống lắm.
Như vậy rõ ràng là cường quyền tàn bạo không thể dập tắt nối khát vọng hạnh phúc,
tình yêu nơi Mỵ. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức
sống mãnh liệt tiềm tàng trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn khổ
nhất.
+Trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ
Tô Hoài tiếp tục miêu tả sự nổi loạn thứ 2 của Mỵ trong đêm đông cứu A Phủ. Nếu
đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, tình yêu thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn
liền với khát vọng tự do của những người nông dân khốn khÓ.
Tô Hoài đã miêu tả Mị theo hướng miêu tả một nhân vât tâm trang qua bốn
chặng đường phát triển như sau:
Chặng 1: Lúc đầu, Mị có trạng thái thản nhiên, đáng sợ,
Sau sự nổi loạn ở đêm tình mùa xuân không thành, Mỵ đã bị cường quyền, thần
quyền nhà thống lý Pá tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào hạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả
trước đây. Điều đó thể hiện trong cách Mỵ nhìn A Phủ bị trói đứng. Mỵ trơ lí tê liệt đến mức
cô cảm thấy nếu. AP là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Nghĩa là cô không chỉ khước từ
quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại. Tuy có lúc
A S'ử đi chơi đêm về, ngứa tay ngứa chân, “đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp”, nhưng đêm
sau Mị vẫn gan lì, lặng lẽ phản kháng, tiếp tục ra sưởi lừa như đêm trước. Bởi lể ngọn lửa đã
là người bạn, là cứu cánh của Mị - “Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”.
Đó là thái độ thản nhiên đáng sợ vì không có tinh đồng loại. Vì sao? Lí giải vấn đề
này, ta thấy có ba nguyên nhân:
Một là, cảnh người bị trói đến chết không phải ỉà hiếm hoi ở nhà thống lí.
H A I L À , cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã tạo cho Mị một sức
ì, một quán tính cam chịu, nhẫn nhục quá lớn.
B A L À , Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên cô đã trở nên
chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị
gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì “tảng đá”. Đây là nguyên nhân cơ bản, mang ý nghĩa của
một bản cáo trạng buộc tội lũ người vô nhân tính đã cướp đi tình người của người dân lao
động.
Ở điểm xuất phát như vậy nên việc thể hiện sức sống mãnh liệt của Mỵ sao cho tự
nhiên, hợp lý là không hề dễ dàng. Tô Hoài đã lựa chọn thời điểm mùa đông giá lạnh với cái
rét cắt da cắt thịt của núi rừng Tây Bắc để làm nền cho cuộc gặp gỡ giữa Mỵ và A Phủ. Đêm
nào Mỵ cũng dậy thổi lửa hơ tay theo thói quen. Chính ngọn lửa ấy vẫn âm ỉ nuôi dưỡng
trong cô khao khát hướng về ánh sáng và thể hiện thái độ phản kháng với sự tăm tối. Đó cũng
chính là lí do mà trong tất cả những thân phận khốn khổ trong nhà thống lý Pá Tra chỉ có 1
mình Mỵ đêm nào cũng dậy thổi lửa hơ tay.
C h ặ n g 2 : N h ữ n g d ò n g n ư ớ c m ắ t c ủ a A P h ủ làm M ị c ó
n h u c ầ u đ ư ợ c h i s i n h : Nguyên nhân quan trọng nhất đã tác động đến tâm lý của
Mỵ để từ sự chai sạn vô cảm đã sống dậy những cảm xúc mãnh liệt , đã bừng dậy khát vọng
tự do đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen của AP đã tác động mạnh đến tâm lý của Mỵ đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ.
Mỵ nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị A Sử trói đứng như vậy, nước mắt chảy xuống mà
không thể lau đi được. Chính việc sống lại những kí ức đó đã khiến Mỵ nhận thấy sự đồng
cảm , đồng cảnh giữa mình và A Phủ , để từ lòng thương mình, cô đã thương người và cuối
cùng là hành động cứu người.
Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm
xúc của Mỵ : T R Ờ I Ơ I N Ó B Ắ T T R Ó I Đ Ứ N G N G Ư Ờ I T A Đ Ế N C H Ế T . Dạng thức cảm
thán đã cho thấy Mỵ không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên
một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm
hồn người phụ nữ cùng khổ.
Cùng với lòng thương người, Mỵ đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân đạo của cha con
nhà thống lý: C H Ú N G N Ó T H Ậ T Đ Ộ C Á C . Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau
đớn đọa đày ở nhà thống lý đến chỗ cảm nhận được điều này là 1 bước tiến trong nhận thức
và tình cảm của nhân vật. Mỵ đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế
của thần quyền và cường quyền nữa.
Mỵ nhận thấy sự khác biệt giữa mình và AP. Vì tin là mình đã bị ma nhà thống lý Pá
Tra nhận mặt nên cô ý thức được sự ràng buộc cùa đời mình, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi. Còn với AP, Mỵ nhận rõ sự bất công: N G Ư Ờ I K I A V I Ệ C G Ì M À P H Ả I C H Ế T ?
Ý thức rõ được hậu quả khi 1 ngày kia AP trốn được rồi thì mình sẽ bị trói và chết bên cái cọc
ấy nhưng Mỵ không thấy sợ. Dù không nói ra 1 cách rõ ràng nhưng những suy nghĩ của Mị đã
cho thấy cô chấp nhận cái chết về phía mình để tìm cách cho AP được sống. Đến đây có thể
thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mỵ quên đi sự sống của bản thân để đổi lấy sự sống
cho người khác .Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha trong tâm hồn Mỵ.
Chặng 3: Mị can đảm cắt dây mây cứu A Phủ:
Hành động cắt dây trói: Hành động cắt dây trói cứu A Phủ diễn ra bất ngờ và đầy
kịch tính, nhưng cũng rất logic theo tiến trình phát triển câu chuyện. Đây là sự tiếp nối tự
nhiên của 1 loạt những việc làm mà Mỵ đã có trước đây: Từ cô Mỵ nguyện quốc nương làm
rẫy trả nợ cho bố, rồi cũng vì bố mà chấp nhận làm con dâu gạt nợ đến cô Mỵ dám ăn lá ngón
để giải thoát cho mình, vậy thì làm sao cô không dám chết để giải thoát cho AP. Cô đã quyết
định rất nhanh chóng, dứt khoát là dùng con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây trói AP. Với
hành động này Mỵ đã chính thức đem đến tự do cho 1 thân phận khốn khổ cùng cảnh ngộ với
mình.
Sau hành động mang tính nổi loạn rất rõ ràng này của Mỵ, Tô Hoài đã tinh tế dừng lại
để ghi lại một khảnh khắc trùng xuống trong tâm lí của Mỵ: M Ỵ Đ Ứ N G L Ặ N G T R O N G
B Ó N G T Ố I . Không còn là những hành động dứt khoát, liên tiếp, không còn là những cảm
xúc căng tràn mà đây là 1 khoảnh khắc đầy xáo trộn trong tâm lí của Mỵ. Nét tâm lí này đã
cho thấy hành động cắt dây trói để cứu AP không chỉ gây bất ngờ đối với gia đình thống lí Pá
Tra mà còn bất ngờ với chính bản thân Mỵ.
Chặng 4: Cứu xong A Phủ, bản năng tự vệ của Mị đã trỗi dậy
Hành động chạy theo A Phủ : Sự trùng xuống trong tâm lí của Mỵ chỉ là 1 khoảnh
khắc rất nhỏ để ngay sau đó tâm lý của Mỵ đã có sự vận động mạnh mẽ, quyết liệt nhất, sau
đó Mỵ quyết định vụt chạy theo AP. Hành động này của Mỵ tiếp tục là 1 bất ngờ vì chưa hề
được chuẩn bị về động cơ tâm lý nhung vẫn có thế lý giải được . Đôi chân yếu ớt của A Phủ
ngã khụy xuống nhưng rồi trước cái chết đang đến gần kề, lập tức anh vùng lên chạ. Dù chỉ là
những bước chân của một người đã kiệt sức nhưng đó là bước chân của 1 người tự do, nó đã
tác động rất mạnh đến tư tưởng của 1 thân phận nô lệ. Từ chỗ xác định sẽ rũ xương ở nơi đây,
Mỵ đã bừng dậy khát vọng tự do. Tiếng gọi mà Mỵ hướng đến A Phủ: AP cho tôi đi! Không
chỉ là tiếng gọi thông thường mà còn là niềm khao khát hưởng đến tự do mà Mỵ đã dũng cảm
cất lên. Tô Hoài đã có dụng ý khỉ miêu tả những hành động mạnh mẽ này trên nền đen thẫm
của bóng đêm và hơi gió lạnh buốt. Nó không chỉ là hiện thực mà còn là biểu tượng cho việc
hai con người khốn khổ đám vượt lên trên cái tăm toi, nghiệt ngã của hiện thực đế hướng đến
tự do hạnh phúc.
Ý nghĩa
Toàn bộ diễn biến tarn lý của Mỵ trong đêm đông cứu AP đã tạo nên 1 bước ngoặt
trong cuộc đời của. Mỵ và AP. Mỵ cắt một sợi dây mà xóa đi hai kiếp người nô lệ, mở ra một
cuộc đời mới của một đôi vợ chồng . Hành động này không chỉ mang ý nghĩa là cắt ỉ sợi dây
trói hữu hình để mang đến tự do cho 1 con người mà quan trọng hơn, MỴ còn cắt đứt cả sợi
dây vô hình đã ràng buộc , bủa vây lấy Mỵ trong nhà thống lý Pá Tra. Mỵ đã bước qua nỗi sợ
hãi vì bị cúng trình ma để dám sống , dám vươn lên tìm tự do và hạnh phúc.
Qua. diễn biến tâm lí của nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: bạo lực
không thể đè bẹp, hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều ỉ à. đế có
được sự sống, tự do, hạnh phúc, con người đã phải trải qua nhiều tủi nhục, dang cay.
Tái hiện nhân vật Mị trong thế cùng Á Phủ đối đầu với bọn lang đạo, địa chủ miền núi
Tây Bắc, Tô Hoài đã. lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà
đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của những người dân lương thiện miền núi Tây Bắc.
Đồng thòi, Tô Hoài cũng đã đồng cảm, xót thương sâu sắc trước những nỗi đau tê buốt, xé
lòng; đặc biệt là ngợi ca nhũng phẩm chất tốt đẹp, sức sống diệu kì của những kiếp nông nô
lầm than, tủi nhục - trong mọi cảnh ngộ, họ luôn luôn tìm cách vươn lên bằng khát vọng tự
do, hạnh phúc, bằng sức mạnh yêu thương và sự dẫn đường chỉ lối của cách mạng. Do đó, chủ
nghiã nhân đạo của Tô Hoài trong “Vợ chồng A Phủ” là chủ nghĩa nhân đạo cách mạng.
Chính Cách mạng, chính trường lớp cuộc đời đã dạy cho Tô Hoài những điều cuộc sống cần ở
người nghệ sĩ.
1. Hình tượng nhân vật A Phủ
Ý khái quát;
“ V Ợ C H Ồ N G A P H Ủ ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “T R U Y Ệ N T Â Y
B Ắ C ” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện
đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đây là truyện ngắn đặc sắc
nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh
chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới
ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát
vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời
của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất
của Tô Hoài trong truyện ngắn này.
Phân, tích cụ thể
Cách giới thiệu nhân vật.
Trong tác phẩm tác giả không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự tuyến tính của
thời gian mà để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với
A Sử.
A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về
làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai
dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái,
thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết
vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ.
Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: A P H Ủ Đ Â U ? A
P H Ủ Đ Á N H C H Ế T N Ó Đ I ! Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong
một nhóm các trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản như những chàng trai kia.
Điều này phần nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất
hiện với những câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch
truyện để tìm hiểu rõ ngọn nguồn về nhân vật.
A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân
hình là một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc
địa trong những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: A Phủ C H Ạ Y
VỤT RA NÉM CON QUAY RẤT TO VÀO MẶT A SỬ. A PHỦ XỘC TỚI, NẮM
C Á I V Ò N G C Ố , K É O D Ậ P Đ Ầ U X U Ố N G , X É V A I Á O , Đ Ả N H T Ớ I T Ấ P . Với
những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con người này. Không
chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm chất của một con
người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan nhưng cũng
không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì bản tính của
một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với những hành động
mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tại bên trong một con người - một Lục
Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ đầy sóng gió của
A Phủ. Lai lịch của A Phủ.
Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ hơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở
Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận
dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em
cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ - một mầm sống khỏe. Làng chết
nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt À Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người
Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh
đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà
người khác đế sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khố, cô
đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp
của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng Tây
Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi đây.
Phẩm chất của A Phủ.
A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao
động. A Phủ sớm tự khắng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề
biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất
b ạ o ” . Khi lớn lên, A Phủ chang những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn
người: “ c ô n g v i ệ c l à m h a y đ i s ă n , c á i g ì c ũ n g l à m p h ă n g p h ă n g . . . ” ,
“ A P h ủ c h ạ y n h a n h n h ư n g ự a Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn
sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “ Đ a n g t u ổ i
chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A
Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng,
đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng
t r o n g r ừ n g ” . Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước
của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã
hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không mộng
nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc?
Con đường đẩy A Phủ vào kiếp nô lệ
Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp
sống nô lệ, Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã
dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của Á Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ một mối
thù giai cấp gay gắt. Sau đó Á Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập
vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cố.
* Cảnh xử kiện có một không hai.
@Thành phần sử kiện.
Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan
phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người
kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền.
Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc.
@Cảnh xử kiện.
Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh
táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn
nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến
ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “ C À N G H Ú T , C À N G
T Ỉ N H , C À N G Đ Á N H , C À N G C H Ử I , C À N G H Ú T ” . Người bị xử, là trung tâm của buổi
xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ
trước nhà, lại bị người xô đến đánh. M Ặ T Á P H Ủ S Ư N G L Ê N , M Ô I V À Đ U Ô I M Ắ T
DẬP CHẢY MÁU. H A I Đ Ầ U G Ố I S U N G H Ạ N H R A N H Ư M Ặ T H Ổ P H Ù ” . Người
thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong
một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi
hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai
trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác Vong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn
chúa đất phong kiến miền núi.
Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của
người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy
vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “ A P H Ủ Q U Ỳ
CHỊU ĐÒN CHỈ ỈM LẶNG NHƯ TƯỢNG ĐÁ ”.
@Kết quả cuộc xử kiện.
Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công
cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được
tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “ Đ Ờ I M À Y , Đ Ờ I C O N M À Y , Đ Ờ I
C H Á U M À Y T A O C Ũ N G B Ắ T T H Ế , B A O G I Ờ T R Ả H Ế T N Ợ M Ớ I T H Ô I ” . Và số
tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có
tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì
cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay
vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. vẫn là một lối mòn cũ, giống như
đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng
trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân
bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra.
Cuộc sống của A Phủ ở nhà thống lí.
Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động
“ĐỐT RỪNG, CUỐC NƯƠNG, SĂN BÒ TÓT, BẪY HỔ, CHĂN BÒ, NGỰA
QUANH NĂM MỘT THÂN MỘT MÌNH, RONG RUỐỈ NGOÀI GÒ NGOÀI RỪNG

” . Quanh năm A Phủ bôn ba một thân một mình rong ruối ngoài gò ngoài rừng. Với sức vóc
của một chàng trai khỏe mạnh, lại biết công biết việc nên công việc làm hay đi săn cứ đi
phăng phăng. Điều đặc biệt là chúng ta tự hỏi vì sao một chàng trai khao khát tự do, không
chịu gò mình vào khuôn phép nào lại chấp nhận sống kiếp nô lệ cho nhà thống lí? Phải chăng
cũng vì công việc mà A Phủ đang làm vẫn đảm bảo cho chàng trai này cuộc sống tự do
như mong đợi, vẫn như ngày chưa đi ở cho nhà Pá Tra. Tự do giữa núi rừng với thiên
nhiên, cây cỏ, muông thú.
Bí kịch tính mạng và số phận của Á Phi.
Nếu cuộc đời làm nô lệ của A Phủ cứ thế trôi di êm đềm thì chắc chẳng bao giờ có
thêm bước ngoặt nào trong cuộc đời chàng trai này. Nhưng cuộc đời là sóng gió, là phong ba,
chỉ với một việc cỏn con mà tính mạng của A Phủ bị đe dọa...
Vào mùa năm đó, khi hổ, gấu đang đói, chúng kéo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa,
do mải mê bẫy nhím nên A Phủ đã đe hổ vồ mất một con bò. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa
khi tính mạng của A Phủ sống hay chết lại được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí
Pá Tra. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “ Q U Â N Ă N C Ư Ớ P L À M M Ấ T B Ò T A O . . . ”
rồi sai A Phủ lấy cái cọc, tự đóng cọc, và lấy dây mây để trội mình. Pá Tra bắt và cuộn dây
mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ. Neu không bắt được hố đem về thì cho A Phủ
“ Đ Ứ N G C H Ế T Ở Đ Ấ Y ” . Người đọc có lẽ cảm giác thấy đau đớn, xót xa bởi mạng sống
của một con người mà không bằng một con bò - quá rẻ mạt. Con người không được làm chủ
cuộc đời, không bảo vệ được sinh mạng của mình. Đó là lời tố cáo chế độ xã hội đương thời
đã bóp nghẹt quyền sống của con người. A Phủ hay Mị đều một thân phận nô lệ như nhau.
Sau mấy ngày bị “ T R Ó I Đ Ứ N G Ở T R O N G G Ó C N H À ” , “ C H Ỉ Đ Ứ N G N H Ắ M
M Ắ T ” và thần chết đã đặt tay lên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ.

Cận kề bờ vực của cái chết: “ C ơ c h ừ n g c h ỉ đ ê m m a i l à n g ư ờ i k i a c h ế t


đ a u , c h ế t đ ó i , c h ế t r é t , p h ả i c h ế t ” . Một câu văn với sự dự đoán nhưng
như lời khắng định chắc nịch theo các thành phần vị ngữ được ngắt ra dứt khoát: c h ế t
đ a u , c h ế t đ ó i , c h ế t r é t , p h ả i c h ế t . Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người
ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chúng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành
bất lực tuyệt vọng. Không có một con đường nào khác. Đó là bi kịch của số phận môt con
người. Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng
cảm xót thương với than phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch
trần bộ mặt tàn bạo dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ.
Sức sống mãnh liệt trỗi dậy khí cận kề cái chết.
Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có đã tiềm
ẩn trong dòng máu của mình, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát.
“Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích
g i ã n d ã y t r ó i m ộ t b ê n t a y Nhưng nếu một mình, vói chút sức lực yếu đuối của
mình thì A Phủ không thể tìm được lối thoát trong thân phận của một người nô lệ. Và khi có
sự trợ giúp của Mị, cả hai đã đứng lên tự giải phóng và tìm được đường đi cho mình, thoát
khỏi kiếp sống nô lệ. A Phủ đã bị trói đứng mấy ngày, không được ăn uống, lại chịu cái lạnh
cắt da cắt thịt của vùng núi cao Mị tưởng A Phủ dã chết rồi nếu không thấy A Phủ mở mắt và
nước mắt bò xuống hai hõm má. Lúc ấy, mị thấy À Phủ thở phè phè, không biết là mê hay
tỉnh. Nhưng với. quá trinh đấu tranh târn lí đầy giằng xé của mình, Mị đã quyết định tiến lại
gần cầm dao cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Bản thân Mị cũng hốt hoảng nhưng cuối
cùng hành động đó cũng xảy ra. Dù Mị chỉ thì thào một tiếng “ đ i n g a y ” . Kin vừa cởi
được dây trói thì “ A P H Ủ K H U Ỵ U X U Ố N G , K H Ô N G B Ư Ớ C N Ổ I ” . Ta cứ tưởng khi
Mị cắt dây trói A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa ranh giới của sự sống
và cái chết, thậm chí là cái chét đang cận kề thì bản năng sống của con người sẽ trỗi
dậy, bùng lên mạnh mẽ mà không một thế lực nào cản trở nổi. “ A P H Ủ Đ Ã Q U Ậ T
SỨC VÙNG LÊN, CHẠY XUỐNG DỐC NÚI”. Với A Phủ lúc này chỉ có con đường
chạy trốn mới tìm được lối thoát cho cuộc đời, mới giữ được tính mạng và giải phóng
khỏi kiếp nô lệ. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán
bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời minh, bản làng quê hương mình. Từ đấu
tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Nếu đứng lên đấu tranh
đơn lẻ, một mình sẽ không bao giờ giành được thắng lợi, nhưng nếu biết đoàn kết họp
sức nhau lại thì thắng lợi sẽ nằm trong tầm tay. Minh chứng là cuộc sống đổi thay của
nhân dân vùng núi Tây Bắc khi cách mạng về, tập họp quần chúng nhân dân dưới lá cờ
thống nhất của Đảng lãnh đạo và đưa cuộc cách mạng đi hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Kết luận:
Khắc họa nhân vật thông qua những hành động, A Phủ hiện lên trong tác phẩm như
một nhân vật anh hùng cổ trang, kiệm lời mà sống động. Dù số phận của Mị và A Phủ có
những điểm chung nhưng cách miêu tả và khắc họa chân dung hai con người thì không giống
nhau. Nhưng đó là số phận tiêu biểu cho người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc
đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, của tự do và cách mạng.
Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.
3.Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
a. Khái niệm về giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh
trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tại
cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong
các tác phẩm văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của
một thời kỳ trên nhiều phương diện khác nhau hơn là các hiện thực cụ thể.
- Nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét
chính:
+ Phản ánh trung thực đờí sống xã hội lịch sử.
+ Khắc họa trung thực đời sống và nộì tâm của con người.
+ Giá ừị hiện thực có sức mạnh tố cáo (hay ca ngợi) xã hội, chế độ.
b. Khái niệm giá trị nhân đạo
Là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm
cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh
trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thề hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp
trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
của cuộc đời.
- Nói đến giá trị nhân đạo trong một tác phấrri văn học người ta thường đề cập 4 nét
chính:
+ Tố cáo xã hội: đây chính là cái hoàn cảnh chung mà ở đó nhân vật bị đẩấy vào các
hoàn cảnh bi đát, đau khổ. Thông thường ở phương diện tố cáo, các nhà văn thường thể hiện
quan điểm lên án, phê phán tầng lớp thống trị, những kẻ chà đạp cuộc sống con người và làm
băng hoại các giá trị đạo lý.
+ Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phấm
chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong xã hội. Đây chính là những vẻ đẹp
bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.
+ Thương cảm, bênh vực: xuất phát từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp
tiềm tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương
thiện vào đường cùng, hoặc đẩy họ vào con đường tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương
cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ đế làm chô dựa,
bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức và vươn lên khẳng
định bản thân, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.
+ Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất
cả các tác phẩm. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà
văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật,
hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo
đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đểu không có khả năng thay đối được hoàn cảnh.
c. Biểu hiện của giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ
Giá trị hiện thực :
- Truyện miêu tả chân thực số phận nô ỉệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây
Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyển phong Men miền núi (dẫn chứng Mị, Á Phủ).
- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (dẫn
chứng cha con thống lí Pá Tra)
- Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong
tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ )
Giá trị nhân đạo:
* Nội dung cần phân tích, làm rõ:
- Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhãn đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên từ
niềm cảm thông sâu sắc của Tõ Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền
sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Hai sự sống trẻ trung bị đày đọa
khủng khiếp trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dàn, chết mòn vì khố đau. Mị cô
gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống
lý. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi.
Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Khi thì
tưởng “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Bởi Mị sống mà hầu như mọi quyền
lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con
dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ đế “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt
đay, xe đay. Cuối mùa thì đi nương bẻ bắp.. lúc nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước
thành sợi. Suốt năm, suốt đời như thế”. Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước
đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thần quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa sổ, một lỗ
vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Đó là chốn địa ngục trần
gian mà tên chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi xuân của Mị ở đó.
A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống cuộc sống hồn nhiên, phóng
khoáng của tuổỉ trẻ yêu đời, lao động giỏi. A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục
cũng biến thành kẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần
như tê liệt cả sức phản kháng. Cảnh xử kiện tàn bạo như thời trung cổ được Tô Hoài vẽ nên
bằng một trang giấy mà ở đó sự tàn nhẫn, độc ác đã lên ngôi. A Phủ bị đánh đập gần như cả
ngày: “đầu, đuôi mắt giập chảy máu” nhưng “chỉ quỳ và im như cái tượng đá”. Đen cả cái
cảnh vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ phải bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn từ
chân lên đến cổ. Phải chờ chết một cách vô lý trên cái cọc ấy giữa đêm đông rét mướt nếu
không có bàn tay cứu giúp của Mị và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
- Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự
tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân
lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Chúng đã lợi dụng chính sách cho vay nặng
lãi để nô lệ hóa con người mà Mị và A Phủ chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ từ là
những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành
những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. Nợ là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A
Phủ vào nhà thống lý nhưng thần quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh
thần Mị và A Phủ vào nhà thống lý. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản kháng,
trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa. Không chỉ vậy, chúng còn dùng
cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. Mị bị bóc lột
lao động tàn tệ chỉ biết chúi đầu vào công việc cả đêm cả ngày “suốt năm, suốt đời như thế”.
Bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ vì Mị muốn đi chơi. A Phủ thì quanh
năm chỉ rong ruổi ngoài bìa rừng chăn bò chăn ngựa đến nỗi quên cả việc về thăm làng cũ. Bị
trói đứng vào cột chờ chết, thế mạng mình cho mạng của con bò. Qua những số phận ấy, ngòi
bút Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt tàn bạo của cha con nhà thống lý. Mang đến cho người đọc
“tập hồ sơ tội ác” về tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi ở Tây Bắc trước
khi có cách mạng về.
- Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn phát
hiện và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị
và A Phủ.
Trước hết, nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước vẻ đẹp của nhân vật Mị. Mị là cô
gái trẻ đẹp, giàu tài năng “Mị thổi sáo hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Có tấm lòng hiếu
thảo với cha già. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý, dù cuộc sống nhiều khổ cực, khổ
như trâu ngựa nhưng trong Mị luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản k h á n g
mạnh mẽ. Tất cả đã được ngòi bút Tô Hoài trân trọng, nâng niu qua từng phát hiện.
Trong đêm tình mùa xuân, sức sống ấy như ngọn lửa bùng cháy dữ dội. Khi nghe
tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã sống lại những phút giây tuối trẻ ngày nào. Đó là
lúc tài năng âm nhạc trong Mị được đánh thức “Mị ngồi nhẩm thầm lời người dang thổi sáo”.
Hành động ấy nói lên bao điều. Bấy lâu nay, cô Mị câm lặng, vô cảm, ấy thế mà hôm nay
bỗng được sống dậy. Bài hát cũ lâu rồi không hát, điệu sáo ấy lâu rồi không thổi nhưng Mị
vẫn nhớ, Mị không quên nghĩa là sức sống trong Mị chưa nguội tắt mà vẫn âm ỉ như hòn than
trong lớp tro tàn.
Cũng trong đêm tình ấy, ngòi bút Tô Hoài còn chứng kiến được hình ảnh một cô Mị nổi loạn
cùng men rượu cay đêm tình. Rượu đã đưa Mị từ cõi quên về với cõi nhớ, rượu và tiếng sáo
ngất ngây gọi bạn tình đã làm MỊ nhận ra “Mị trẻ lắm. Mẹ còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khát
vọng ấy, là khát vọng của con người yêu tự do, khát vọng tự do mãnh liệt. Và h ành động “Mị
cuốn lại tóc. Mị với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách... Mị rút thêm cái áo” đã cho
thấy sự bứt phá của Mị với bản năng sống mãnh liệt bất chấp cả cường quyền, thần quyền.
Ngay cả khi bị Á Sử trói đứng vào cột “tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm
cho Mị không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng Mị vẫn thản nhiên, Mị không hề biết
mình đang bị trói, thậm chí khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị, Mị đã “vùng bước đi”. Điều, đó
cho thấy, sức sống tinh thần trong Mị đã lớn dậy, nó đã lấn át cả nỗi đau về thể xác. Cũng có
nghĩa là bóng ma thần quyền, cường quyền đã khuất phục trước sức sống ấy của Mị.
Sức sống mãnh liệt ấy lại một lần trỗi dậy trong đêm cứu A Phủ. Lúc đầu, Mị dửng dưng vô
cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã
làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình, mùa xuân là “tia lửa
nhỏ” thì đêm cứu A Phủ là “đám cháy lớn”. Đám chầy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội
ác cha con nhà thống lý “Trời oi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết
người đàn bà ngày trước cũng ở trong cáĩ nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy là
nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự nồi loạn thứ hai của
Mị mới thật là mong muốn của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt
chạy theo A Phủ vì theo Mị “Ở đây thì' chết mất”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết.
Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn
nhà này “Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị
cắt đứt xong dây trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham
sống, Đó là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà
văn vào khả năng vươn dậy của nhân vật.
- Bên cạnh đó, nhà văn Tô Hoài còn nhìn thấy bản chất đẹp đẽ của A Phủ, một chàng trai của
núi rừng tự do. Anh yêu lao động, giỏi giang: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và
săn bò tót rất bạo...”. À Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát
khao của bao cô gái trong làng “ Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”.
Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A
Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự
tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai
làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo,
khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Trong cảnh xử kiện, dù bị
đối xử tàn tệ nhưng A Phủ chỉ quỳ và “im như tượng đá” đó là bản tính gan góc rất đáng quý.
Lúc được Mị cứu, dừ đã kiệt sức nhưng A Phủ đã “quật sức vùng lên chạy”. Phải chăng ở con
người đó luôn tiềm ẩn lòng yêu đời, khát sống, khát tự do. Có lẽ vì vậy mà khi sang Phiềng
Sa, A Phủ đã nhanh chóng trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng Mị giải phóng quê hương.
- Biểu hiện sau cùng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn
đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác. Mị và
A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau
đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo
Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua
đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm
chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng
của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp
của con người dù bị đày đọa đau khổ.
PHẦN NÂNG CAO : Phần này dành cho học sinh giỏi
Những nét thành công về nghệ thuật của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ".
1. Thành công ở nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nhà văn đã xây dựng được những tính cách điển hình:
Hai nhân vật Mị và A Phủ vừa mang nét chung, tiêu biểu cho dân tộc, cho giai cấp của họ,
đồng thời cũng có nét riêng, cá tính rõ rệt. A Phủ thì gan góc, bộc trực, cả tin, chất phác. Mị
thì có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lạnh lùng.
- Nhà văn đã rất tinh tế trong việc miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật:
Những đoạn miêu tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng sống ở Mị trong đêm xuân, cảnh Mị suy
nghĩ tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những thành công của tác giả trong việc diễn tả
được những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật, không sa vào cái nhìn giản đơn, cũng
không tô vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi.
- Nhà văn đã miêu tả tính cách của hai nhân vật chính Long sự biến đổi, phát triển
theo quá trình đi tới của họ.
2. Thành công ở chỗ nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức
khái quát cao:
Những chi tiết ấy thường đặt trong một hệ thống tương quan đối lập nên càng nói rõ
(cô Mị cúi mặt lặng lẽ như một cái bóng giữa cảnh giàu có tấp nập của nhà Pá Tra; căn phòng
âm u của Mị và khung cảnh mùa xuân tràn đầy ánh sáng và sức sống ở bên ngoài; tiếng sáo
gọỉ bạn yêu lủng lơ bay ngoài đường và tiếng chân ngựa đạp vào vách,v.v...)
3. Thành công ở chỗ lôi cuốn người đọc bằng chất thơ đậm đà trong sáng:
Tô Hoài đã từng nói về ý thơ trong truyện của mình: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất
cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng
lên hơn nữa, rồi bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và nhỏ bé
vấn đề đi”. Chất thơ ấy được thể hiện chủ yếu ở các khía cạnh sau:
Chất thơ toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân
dân lao động miền núi và con đường giải phóng của họ.
Chất thơ toát lên từ tâm hồn trong sáng, hồn hậu trung thực của các nhân vật tích cực
(Mị, A Phủ).
Chất thơ cũng thắm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng
và đường nét uyển chuyển, hùng vĩ của Tây Bắc, làm nền cho những sinh hoạt giàu chất trữ
tình của con người (những đêm mùa xuân, cảnh đi chơi tết, tiếng sáo rủ ban đi chơi ngoài đầu
núi, tiếng sáo gọi bạn yêu lủng lơ bay ngoài đường, những đám chơi pao, thổi khèn, uống
rượu bên bếp lửa của trai gái Hmông,v .v...).
BÀI 10 : VỢ NHẶT
(Kim Lân)
- Tình huống truyện
- Nhân vật Tràng
- Nhân vật người vợ nhặt
- Bà cụ tứ
- Giá trị nhân đạo
NỘI DUNG ÔN TẬP
Khái quát
1. Tác giả
- Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài (1920 - 2007) quê ở làng Phù Lưu, xã Tân
Hồng, huyện Từ Sơn (nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc
Ninh.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Kim Lân là nhà văn thực hiện xuất sắc của
văn học Việt Nam. Tuy viết không nhiều nhưng ông có một số tác phẩm thành công. Ông là
nhà văn của nông thôn Việt Nam, chuyên viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình
cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Vì thế, ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ
và tâm lí của những người nông dân nghèo. Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm
a, Hoàn cảnh sáng tác:
- Sau cách mạng tháng Tám, Kim lân viết ngay tiểu thuyết “ X Ó M N G Ụ C Ư
(1946).
- Sau hòa bình lập lại, năm 1954, dựa vào cốt truyện của cuốn tiểu thuyết “Xóm ngụ
cư” đang còn dang dở, ông chỉnh sửa thành truyện ngắn “Vợ nhặt” và cho in.
- Đây là tác phẩm hay nhất của Kim Lân, phản ánh hiện thực nghiệt ngã, đớn đau của
nhân dân ta tháng 3, năm 1945" mùa xuân Ất Dậu, từ Quảng Trị ra Lạng Sơn, có 2,5 triệu
người Việt Nam bị chết đói, mất 1/10 tổng dân số bởi sức ép của phát xít.
Nhật và thực dân Pháp (1940, Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta một cổ hai tròng, Nhật bắt
nhổ lúa trồng đay, Pháp thì tăng thuế),
b. Nhan đề
Nhan đề truyện ngắn là “vợ nhặt”, là nhan đề rất lạ, rất độc đáo
- Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể
nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng
liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt,
coi như trò đùa.
- “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì
đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã
theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa
và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã
gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Với nhan đề này, ngay lập tức Kim
Lân đã tạo ra sự tò mò, hứng thú cho người đọc. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình
cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. ^
-» Nhan đề thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm.
II, Phân tích
1. Tình huống truyện
a. Khái niệm và vai trò của tình huống truyện trong tác phẩm Khái niệm và vai trò của tình
huống truyện
Tình huống truyện ngắn là sự sắp xếp các tình tiết, các sự kiện nhằm thúc đẩy câu
chuyện, tạo ra xung đột, những mâu thuẫn ....Tình huống tạo nên những nét riêng của từng
truyện, đồng thời thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Nghệ thuật tạo dụng
tình huống là tạo hoàn cảnh đặc trưng, đặt nhân vật vào một hoàn cảnh đặc biệt nào đấy để
nhân vật bộc lộ hết tính cách tâm trạng của mình.
V A I T R Ò : Tình huống trực tiếp góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, tư tưởng chủ đề của tác
phẩm. Tình huống càng kì lạ, độc đáo bao nhiêu, tác phẩm càng có sức hấp dẫn, càng hay bấy
nhiêu.
b. Tình huống truyện Vợ nhặt Mô tả tình huống :
Truyện ‘Vợ nhặt” được đánh giá là tác phẩm đặc sắc viết về số phận của người nông
dân trước cách mạng tháng Tám. Một trong những lí do quan trọng để tạo nên sự thành công
chính việc Kim Lân đã tạo nên 1 tình huống truyện đặc biệt, độc đáo, éo le và cảm động.
Tràng một anh nồng dân ngụ cư nghèo bỗng “ N H Ặ T ” được vợ trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Việc “ N H Ặ T V Ợ ” của Tràng lại diễn ra trong hoàn cảnh không ai dám nghĩ đến
chuyện vợ con cho anh ta người dân đang chết đói đầy đường. Chính nhờ nạn đói khủng
khiếp ấy mà Tràng đã lấy được vợ 1 cách bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng.
Dù chỉ với dung lượng 1 truyện ngắn, Kim Lân đã khai thác tỉ mỉ, chi tiết không khí
nạn đói năm 1945. Thực ra viết về cái đói không phải là điều mới lạ, trong các tác phẩm của
dòng văn học hiện thực 1930-1945 với các tác giả như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Ham
Cao,Nguyên Hồng,...người đọc đều cảm nhận rất rõ cái đói chi phối mạnh rnẽ đến đời sống ,
số phận , tính cách của các n h â n vật. Song cái khác trong tác phẩm “Vợ nhặt” là ở chỗ người
đọc không còn cảm nhận cái đói một cách gián tiếp qua hành động, số phận của nhân vật mà
tác giả đã dồn rất nhiều công sức để cái đói và việc chết đói hiện hình rõ nét trong tác phẩm
như 1 nỗi ám ảnh ghê sợ nhất. Người đọc không còn phải tưởng tượng hay cảm nhận về cái
đói vì nó đã có thể nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy: " C á i đ ó i đ ã t r à n đ ế n x ó m n à y
tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không
gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên
mùi ấm thoi của rác rưởi và mùi gây của xác người"
+ Cái đói qua ấn tượng thị giác: Hai lần Kim Lân sử dụng hình ảnh so sánh đầy sức
ám ảnh : Đó là việc so sánh nhũng bóng người đi lại dật dờ như những bóng ma. Đây không
phải là lối nói ngoa dụ mà là hình ảnh chân thực đến tận cùng. Nó lột tả hình hài, dáng vẻ của
con người khi đã bị cái đói vắt kiệt sức sống, khi người bị đẩy đến ranh giới cuối cùng của sự
sống, mà chỉ một thoáng mong manh một con người đã trở thành ma quỷ, từ sự sống có thể
rơi xuống hố sâu của sự chết chóc.
+ Cái đói qua ấn tượng khứu giác: Cái đói trong tác phấm không chỉ nhìn thấy mà còn
ngửi thấy. Tác giả đã tao nên ấn tượng ghê rợn , hãi hùng về cái đói và cái chết bằng mùi gây
của xác người và mùi khét của đống rấm trong N H Ữ N G gia đình có người chết. Đây là mùi
khủng khiếp bốc lên từ sự thối rữa , mục ruỗng . Sự thật là năm 1945 , hơn 2 triệu người dân
VN chết đói đã tạo nên 1 mùi tử khí bao trùm toàn tác phấrn , bao trùm cả đêm tân hôn của
Tràng.
+ Cái đói qua ấn tượng thính giác: Cái đói còn được hiện hình, được nghe thấy qua
những âm thanh: Đó là âm thanh bầy quạ kêu từng hồi tha thiết. Với tâm thức của người VN,
quạ là biểu tượng của điều xấu, của điềm gở và chết C H O C . T I Ế N G K Ê U C Ủ A L O À I
Đ Ộ N G V Ậ T C H U Y Ê N Ă N X Á C T H Ố I X U Ấ T H I Ệ N tác phẩm đã tạo nên ám ảnh về
hiện thực tăm tối, vô cùng tang thương. Bên cạnh đó lại là tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia
đình có người chết, tiếng khóc yếu ớt và đứt đoạn khiến người đọc có cảm giác số người chết
nhiều không đếm xuể. Những người còn sống chỉ còn tồn tại cẩm chừng, dật dờ bên cạnh
những xác chết chưa được chôn cất.
-» Bóng đen của cái đói, cái chết đã hiện hình 1 cách rõ nét và bao trùm cuộc đời, số
phân của các nhân vật. Chưa bao giờ cái đói lại trở nên dữ dội, tàn khốc và tang thương đến
vậy. Bức tranh hiện thưc mà Kim Lân vẽ ra đã trở thành bức phông nền đen tối để trên đó là
cuôc đời, là số phận của những người nông dân VN. Ngoài giá trị hiện thực sâu sắc, việc khai
thác kĩ càng, tỉ mỉ bối cảnh nạn đói năm 1945 còn góp phần tạo dựng tình huống truyện độc
đáo, góp phần khắc họa tính cách nhân vật. Bởi khi đứng trên ranh giới mong manh giũa sự
sống và cái chết, con người sẽ bộc lộ rõ bản chất và tính cách của mình, hoặc là sự bi quan
tuyệt vọng, hoặc là khao khát sổng mãnh liệt, hoặc là sự vị kỉ tìm cách giành giật sự sống về
phía mình, hoặc là sự vị tha cao thượng, dám chia sẻ miếng ăn đế cứu mạng người.
Chính nhờ nạn nói năm ấy, anh cu Tràng vốn không có đủ điều kiện để lấy vợ, nay
bỗng dưng nhặt được vợ 1 cách bất ngờ, dễ dàng và nhanh chóng. Chỉ là 1 câu hò vu vơ, 4 bát
bánh đúc, anh đã có 1 người vợ theo không về nhà.
Ý n g h ĩ a t ì n h h u ố n g : Tình huống có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thể
hiện tính cách, số phận, tâm lí nhân vật cũng như chủ đề tác phẩm.
Trước hết có thể dễ dàng nhận thấy, tình huống thể
h i ệ n g i á t r ị h i ệ n t h ự c c ủ a t á c p h ẩ m . Nếu chỉ đọc phần đầu của câu
chuyện, người đọc có thể nhận thấy không hề có sự phân biệt hay ranh giới giữa nhân vật
trong trang văn của Kim Lân với nhân vật trong các tác phẩm khác thuộc trào lưu văn học
hiện thực phê phán 1930-1945. Cả cái thế giới tăm tối, ngột ngạt bóp nghẹt cuộc sống và hạnh
phúc của con người một lần nữa được tái hiện sinh động và đầy ám ảnh. Nhà văn không chỉ
khiến người đọc cả nhận mà còn thấy rùng mình ghê sợ trước một vết thương lớn trong lịch
sử dân tộc với 1/10 dân số bị chết đói. Văn học có giá trị trước hết là ở tấm gương chân thực
phản chiếu cuộc sống. Với khía cạnh này, tình huống đã giúp tác phẩm “Vợ nhặt” đạt đến giá
trị hiện thực sâu sắc.
Cùng với giá trị hiện thực, tình huống truyện còn
góp phần khắc họa cuộc sống và số phận của những nhân
vật trong tác phẩm nói riêng và số phận của những ngưòi
d â n V N t r o n g n ạ n đ ó i 1 9 4 5 n ó i c h u n g . Với hình ảnh của những đoàn
người đi lại dật dờ như nhũng bóng ma , của miếng cháo cám nghẹn bứ trong cổ họng và của
chi tiết vừa khôi hài vừa chua xót là Tràng nhặt được vợ, thì người đọc đã có thể thấy rõ số
phận khốn khổ, bất hạnh của người dân. Chưa bao giờ cuộc sống, miếng ăn của con người lại
trở nên khó khăn, nghiệt ngã đến vậy. Họ phải giành giật từng phút với cái đói và cái chết để
có thể tồn tại dù chỉ là cầm chừng. Cũng chưa bao giờ giá trị, vị thế của con người lại bị rẻ
rúng đến như vậy. Khi mà những sự kiện trọng đại (cưới vợ) lại diễn ra ngẫu nhiên , bất ngờ
khi người ta có thể nhặt nhau ở ngoài đầu đường xó chợ như nhặt cọng rơm rác thì tình huống
truyện đã gợi lên cho người đọc sự xót xa thương cảm.
T ì n h h u ố n g t r u y ệ n g ó p p h ầ n m i ê u tả t â m l í , k h ắ c h ọ a
t í n h c á c h , p h ẩ m c h ấ t c ủ a n h â n v ậ t . Dễ nhận thấy việc anh Tràng nhặt
được vợ giữa nạn đói là 1 tình huống vô cùng éo le, nó đã khiến cho người trong cuộc và cả
những người chứng kiến đều rơi vào trạng thái tâm lí vô cùng phức tạp. Những người dân
xóm ngụ cư nhìn thấy cảnh Tràng dẫn vợ về nhà, sau cảm giác ngạc nhiên tò mò thích thú là
sự xót xa bởi thời buổi này đến cấi thân còn không nuôi nổi lại còn đèo bòng. Bản thân người
trong cuộc cảm thấy rối bời: Tràng dẫn vợ về nhà và ngay cả đến sáng hôm sau vẫn còn ngạc
nhiên và ngờ ngợ như không phải thế. Ngạc nhiên, bất ngờ về việc lấy vợ của chính mình.
Sau ngạc nhiên là lo lắng , rồi lại tin tưởng, hạnh phúc,... Cũng như Tràng, Bà cụ Tứ ngạc
nhiên ,vừa mừng vừa lo, rưng rưng cảm động,...Tâm trạng của các nhân vật phức tạp và thay
đổi nhanh chóng giữa các đối cực và đầy uẩn khúc. Nhờ vậy Kim Lân đã rất thành công khi
miêu tả tâm lí và phẩm chất nhân hậu, tình yêu thương và niềm lạc quan tin tưởng vào tương
lai của các nhân vật trong truyện.
Ngoài ra tình huống Tràng nhặt được vợ giữa những ngày đói khổ còn mang đến thông
điệp ý nghĩa, sâu sắc và nhân văn. Tràng nhặt được vợ về hình thức là sự khôi hài nhưng sâu
xa đó là sự nương tựa, sự cưu mang giữa nhũng người khốn khổ bị đẩy đến đường cùng. Tuy
đói khổ, họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của lòng nhân ái Họ không tìm cách giành hết sự sống về mình
mà biết chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ. Bởi vậy bên cạnh sự éo le, câu chuyện Tràng
nhặt được vợ và những gì diễn ra sau đó còn thực sự cảm động . Một sự việc chóng vánh bất
ngờ nhưng lại là 1 bản lề quan trọng để 3 người khốn khổ có những thay đối mạnh mễ trong
cả tâm lí và tính cách theo chiều hướng tốt đẹp hơn . Không gì khác , đó chính là vẻ đẹp và
giá trị của tình người. Bởi vậy tình huống truyện còn giúp tác giả khai thác và thế hiện sâu sắc
tinh thẩn nhân đạo lớn lao và cao cả của mình.
-» Tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ N H Ặ T thực sự là 1 trong những sáng tạo
độc đáo và quan trọng nhất của Kim Lân trong tác phẩm này.
2. Nhân vật tràng
Ý khái quát: Tràng là nhân vật chính, nhân vật trung tâm , là người tạo nên những biến
cố, những bất ngờ cho cả câu chuyện. Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã phản ánh chân
thực số phận , tâm trạng cũng như sự chuyến biến tư tưởng của người nông dãn Vn từ trước
cách mạng đến sau cách mạng tháng 8.
a. Hoàn cảnh của Tràng t r ư ớ c khi lấy vợ
* Tràng là một người nông dân nghèo khổ, đơn độc, có số phận và gia cảnh vô cùng
đáng thương. Trong nạn đói năm 1945, Tràng và mẹ già cũng bị cái đói dồn đuối, bởi vậy anh
hầu như không có khả năng để có thế lấy vợ.
- Cái nghèo khổ, nhỏ bé, đáng thương của Tràng được gợi lên ngay T Ừ C Á I T Ê N .
C H O dù nhà văn không nói rõ ý nghĩa cái tên của nhân vật nhưng từ “Tràng” bản thân nó gợi
lên trong hình dung của người đọc về một loài động vật nhỏ bé, đáng thương sống ở biến (con
dã tràng) hay một dụng cụ dùng trong nghề mộc. Dù với ý nghĩa nào, cái tên này cũng góp
phần gợi lên thân phận nhỏ bé, khố sở, có phần thấp kém. Cái tên in đậm tư duy mộc mọc,
giản dị của những người nông dân Việt nam từ ngàn đời.
- Ngoại hình: Ngay từ ấn tượng bên ngoài, người ta đã có cảm giác về sự xấu xí, thô
kệch của Tràng: quai hàm bạnh ra, dáng đi ngật ngưỡng, lưng to bè như lưng gấu. Ngoại hình
của Tràng in đậm dấu vết nghề nghiệp, đó là công việc kéo xe nặng nhọc, vất vả, phải căng
toàn bộ sức lực đế mưu sinh.
- Tính cách: Mặc dù đã là một chàng trai trưởng thành nhưng trong tính cách của
Tràng vẫn còn rất nhiều nét hồn nhiên, ngây ngô, lộc cộc của một chàng trai M Ớ I L Ớ N .
Điều đó thể hiện rất rõ qua việc ngày nào đi làm về Tràng cũng đùa nghịch với lũ trẻ ở xóm
ngụ cư và thỉnh thoảng lại ngửa mặt lên tròi cười kềnh kệch. Ngoài ra, tật vừa đi vừa nói của
Tràng đôi khi tao ra cảm giác bất bình thường về tâm lý, mà theo cách gọi nôm na của dân
gian là hơi dở hơi. Nhưng dù tính cách Tràng có phần hồn nhiên, ngây ngô song người đọc
thấy rõ ở đó bản chất của một người nông dân hiền lành, lương con Tràng cũng giống như bao
nhiêu người nông dân Việt Nam trước cách mạng phải còng mình chống đỡ với cái đói, cái
nghèo. Ngoài cái nghèo ở gia cảnh của Tràng, người đọc còn cảm thấy rõ sự neo đơn, Tràng
chỉ sổng với một người mẹ đã già, bởi vậy đòi sống tình cảm rõ ràng là vô cùng thiếu thốn.
- Ngoài tất cả những sự nghèo khổ, đáng thương do số phận, gia cảnh mang lại, Tràng
còn mang thân phận của dân ngụ cư, trong quan niệm và định kiến của người dân ở nông thôn
Việt Nam thì dân ngụ cư - dân ở nơi khác chuyển đến - thưòng bị coi thường, khinh rẻ,
thường bị giao làm nhiều công việc mạt hạng nhất như làm mõ.
—> Từ tất cả các yếu tố: ngoại hình, số phận, gia cảnh, hoàn cảnh xuất thân ở Tràng
người đọc đều thấy sự khốn khổ lầm lũi, đáng thương. Hình ảnh của Tràng mang ý nghĩa tiêu
biểu, điển hình cho số phận người nông dân Việt Nam trước CM T8. Cũng với tất cả các yếu
tố này, Tràng gần như hội tụ đủ các nguy cơ để ế vợ.
b) Việc Tràng lấy vợ:
Việt một người nông dân xấu xí, thô kệch, nghèo khổ, cơ hàn, hơn nữa còn là dân ngụ
cư đã gần như xóa đi tất cả các cơ hội để Tràng có thể tạo dựng được cho mình một tổ ấm gia
đình nhưng trong nạn đói 1945, Tràng đã lấy được vợ một cách bất ngờ, nhanh chóng và dễ
dàng.
+ Việc Tràng lấy vợ trước hết là do một câu hò rất vu vơ trong khi kéo xe thóc lên
tỉnh, hò hát vốn là một thói quen của người lao động để giảm bớt mệt nhọc, căng thẳng ừong
quá trình lao động. Thực tâm Tràng khi hò không hề có ý chòng ghẹo ai mà chỉ hò vu vơ
nhưng không ngờ nội dung có liên quan đến miếng ăn của câu hò (muốn ăn cớm trắng mấy
giò) lại tác động vô cùng mạnh mẽ đế một người đàn bà đói khổ để thị “ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng”. Đó chính là cơ duyên để Tràng lấy được vợ.
+ Lần thứ 2 gặp lại cũng không khá khẩm hơn, Tràng chỉ đầu tư có bốn bát bánh khúc
- thứ thức ăn được coi là bình dân và vô cùng rẻ tiền trong đời sống của người Việt Nam.
Cộng với câu nói đùa: “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” là đã nghiễm nhiên
có một người đàn bà theo không về nhà.
—* Chính nhờ nạn đói Tràng đã bị đẩy vào một tình thế vừa bi lại vừa hài. Hài là ở
chỗ một người vốn không có bất cứ khả năng, điều kiện gì để lấy vợ lại nhặt được vợ một
cách dễ dàng, nhanh chóng. Còn bi đát là ở chỗ, giữa thời buổi người đang bị vắt kiệt sức
sống vì cái đói mà một người vốn chưa đủ điều kiện để nuôi chính bản thân mình như Tràng
lại còn đèo bồng thêm một miệng ăn. Cũng chính từ nạn đói đó, nhũng sự kiện trọng đại cần
chuẩn bị chu đáo tươm tất nhất trong cuộc đời người là hôn nhân lại có thể diễn ra chóng
vánh, qua loa. Việc Tràng lấy vợ, hay đúng hơn là nhặt vợ đã kết tinh giá trị hiện thực đậm
đặc của tác phẩm
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn, kỹ hơn vào câu chuyện nhặt vợ của Tràng sẽ nhận thấy
đó không hoàn toàn là kết quả của sự xô đẩy từ hoàn cảnh, từ xã hội mà đó còn là sự vận động
nội tại rất phù hợp với logic tâm lý, tình cảm của nhân vật Tràng. Bởi tuy chỉ gặp cô vợ nhặt
có hai lần nhưng cả hai lần gặp gỡ đều có tác động rất mạnh mẽ đến Tràng.
+ Lần 1: Sau câu hò vu vơ của Tràng, Tràng đã được một người đàn bà ton ton chạy ra
đẩy xe và tít mắt cười tình. Hành động đó của người vợ nhặt rõ ràng tác động rất mạnh đến
tâm lý của một người đàn ông trưởng thành vốn phải sống đơn độc. Hành động đó của thị đã
đem đến cho Tràng cảm giác và cảm xúc hoàn toàn mới mẻ, khác hắn với câu bông đùa hàng
ngày cùng lũ trẻ con. Nó khơi dậy cho Tràng một khát khao chân chính, mãnh liệt mà người
trưởng thành nào cũng có, đó là khát khao được chia sẻ yêu thường cùng một người khác giới.
+ Lần 2: Điều tác động mạnh, nhất đến Tràng chính là sự biến đối bất ngờ đến không
hề nhận ra của cô vợ nhặt. Chỉ sau một thời gian ngắn ngủi, với sự tàn phá khủng khiếp của
cái đói, cô vợ nhặt gần như biến đổi hoàn toàn về nhân hình, nhân dạng. Từ một người khỏe
mạnh, phốp pháp, thị đã biến thành kẻ đói rách, khố sở: “quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy rọp
hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Vốn là người nông dân
hiền lành, lương thiện, sự thay đổi, biến dạng của người vợ nhặt không thể không tác động
vào lòng trắc ẩn nơi Tràng. Bởi vậy, Tràng đã rất nhanh chóng đi đến quyết định cho thị ăn
một bữa no rồi dẫn về nhà làm vợ. Thực chất đó chính là hành động đầy tình người, dám đưa
đôi bàn tay của mình đế cưu mang nhũng người cùng cảnh ngộ.
—> Chính nhờ phù hợp với logic và tâm lý của nhân vật Tràng nên đằng sau cái khôi
hài ở bên ngoài, câu chuyện Tràng nhặt được vợ vẫn thực sự cảm động. Dã Tràng nhặt được
vợ phù hợp với tâm lý và tình cảm của nhân vật này còn cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng để
không tạo nên sự khiên cưỡng, chắp nối của nhà văn Kim Lân.
c) Sư biến đổi của Tràng sau khi lấy vợ:
Khái quát: Sự kiện Tràng nhặt được vợ tuy diễn ra bất ngờ, chóng vánh và không hề
có sự chuẩn bị song lại thực sự tạo nên những biến đổi quan trọng, lớn lao, tốt đẹp trong cả
tâm lý cũng như tình cảm của Tràng.
+ Sự thay đổi về tâm lý: chuyến từ cuộc sống cô đơn, cô độc sang cuộc sống
có một người bạn đời để sẻ chia, Tràng đã có một phản ứng tâm lý dây chuyền với
rất nhiều cung bậc cảm xúc mới mẻ mà người đàn ông nghèo khổ này chưa từng có,
Tràng đã đi từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến ngập tràn sung sướng, hạnh phúc.
+ Cảm giác đầu tiên của Tràng khi cô vợ nhặt quyết định theo mình về nhà là sự ngạc
nhiên. Điều này được thể hiện rất rõ qua câu trần thuật của Kim Lân: “Nói thế Tràng cũng
tưởng là nói đùa,, ai ngờ thị về thật”. Là chính người trong cuộc nhưng Tràng không khỏi bất
ngờ về việc lấy được một cô vợ lại dễ dàng, nhanh chóng đến thế. Tâm lý này của Tràng là
hoàn toàn hợp lý và dễ hiểu bởi Tràng trước đó không hề có khả năng, điều kiện cũng như
chưa hề chuẩn bị tâm lý cho việc lấy vợ của mình.
+ Ngay sau cảm giác ngạc nhiên là sự xuất hiện của sự lo lắng, lo sợ: “Mới đầu anh
chàng cũng chọn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết cố nuôi nối không, lại
còn đèo bong”. Nỗi lo sợ của Tràng là sản phẩm tất yếu của gia cảnh nghèo khổ mà anh đã
sống biết bao nhiêu năm nay. Hơn nữa, còn ám ảnh hơn bởi không khí của thời đại lúc bấy
giờ. Hình ảnh của những đoàn người kiệt sức đi vì đói rét, tất yếu buộc Tràng phải nghĩ về
khả năng nuôi sống vợ con của mình.
+Nhưng với một người đàn ông đã phải sống cô đơn, thiếu thốn tình cảm trong một
khoảng thời gian dài thì nỗi lo sợ kia nhanh chóng bị lấn át bởi cảm giác vui sướng, hạnh
phúc. Nỗi vui sướng trong Tràng dường như không thế giấu nối mà bật ra ngoài qua điệu bộ,
cử chỉ: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai
mắt thì sáng lên lấp lánh”. Những câu trần thuật tưởng như là khách quan của Kim Lân đã cho
thấy sự biến đổi lớn lao của Tràng. Tình cảm giữa Tràng và người đàn bà giống như mạch
nước ngầm đã làm hồi sinh tâm hồn của một người tưởng như đã cằn cỗi đi vì đói rét và sự cô
độc.
+ Cũng trong tâm lý hạnh phúc và vui sướng ngập tràn, Tràng đã có một hành động
đầy ý nghĩa, đó là bỏ ra 2 hào - số tiền xa xỉ với những người nghèo - để mua dầu về thắp
trong đêm tân hôn với tâm niệm: “Vợ viếc gì thì cũng phải sáng sủa một tí chứ”. Câu nói tuy
thô mộc, dân dã đã thể hiện được một điều rất thật đó là sự trân trọng, nâng niu Tràng dành
cho người bạn đời và đồng thời là dành cho hạnh phúc của chính mình. Việc Tràng mua dầu
để thắp sáng tất nhiên ngoài ý nghĩa thực còn mang ý nghĩa biểu tượng: thắp sáng ước mơ, hy
vọng vào tương lai, vào hạnh phúc của gia đình. Như vậy, từ sự tồn tại cầm chừng với đời
sống tinh thần nghèo nàn, tâm hồn của Tràng đã xuất hiện những ước mơ, hy vọng nhỏ bé,
giản gị nhưng đáng trân trọng.
+ Và cũng như tất cả những người nông dân chân chất khác, Tràng cũng có cách biểu
lộ tình yêu thương của riêng mình. Đúng như nhận định của Nam Cao, với người nông dận
tình yêu thương không biểu hiện qua những cái hôn mà dân dã, suồng sã hơn, thân mật hơn là
qua các cử chỉ cấu véo hay những câu nói bông đùa, ỡm ờ trong tâm trạng hạnh phúc ngập
tràn. Tràng cũng muốn nói một câu tình tứ với vợ nhưng không biết nói như thế nào mà lúng
túng, ngượng nghịu, chỉ biết lấy tay nọ xoa vào tay kia. Và rồi theo cách rất nông dân, Tràng
đã mưọn cách nói ỡm ờ để thể hiện tình cảm của mình: “Chả lẽ chưa tối lại rúc ngay vào, hì
hì”. Đặc biệt khi nhận được cử chỉ yêu thương là cái tát của cô vợ nhặt Tràng đã sung sướng
cười lên khanh khách. Tất cả những biểu hiện có vẻ như rất vụng về, hồn nhiên ở Tràng đã
diễn tả trọn vẹn niềm hạnh phúc ngập tràn của anh khi lấy được vợ.
—» Từ việc nhặt được vợ tưởng như vô cùng ngẫu nhiên, bất ngờ, qua loa đại khái,
Tràng đã có những biến đổi tâm lý, cảm xúc vô cùng lớn lao, mới mẻ. Trong những cảm xúc
đa dạng, nhiều chiều ở Tràng, có thể thấy ấn tượng đậm nhất là niềm vui sướng, hạnh phúc.
Đó là những cảm xúc rất nhân văn, rất người, làm xua tan nỗi ám ảnh về sự nghiệt ngã của cái
đói và cái chết trong tác phẩm.
Sự thay đổi về tính cách: sau những biến đổi về tâm lý, cảm xúc Tràng có những biến
đổi sâu sắc và mạnh mẽ hơn trong tình cảm, hành động. Từ sự vô tâm, vô tính, việc lấy vợ đã
khiến Tràng dần trở thành người đàn ông chững chạc, trưởng thành, chín chắn, đầy tinh thần
ưách nhiệm với gia đình.
+ Thay đổi đầu tiên ở Tràng được thể hiện ngay Long buổi chiều đưa cô vợ qua xóm
ngụ cư về nhà, khác hẳn với mọi ngày, Tràng không còn đế lũ trẻ con bảm trước bám sau cười
cợt bông đùa rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Lần này, Tràng vội nghiêm nét mặt, lắc
đầu ra hiệu không bằng lòng. Như vậy, từ diện mạo, cử chỉ, điệu bộ bên ngoài đã có thể nhận
thấy rõ sự thay đổi nơi Tràng. Cái lộc ngộc, vô tâm, vô tính có phần trẻ con đã được thay thế
bằng sự chững chạc, nghiêm túc, của một người đàn ông trưởng thành, biết suy nghĩ sâu sắc
về việc lập gia đình của mình.
+ Sự biến đổi tính cách của Tràng được thể hiện rõ hon và sâu sắc hơn trong lời giới
thiệu với bà cụ Tứ về cô vợ Nhặt và việc lấy vợ của Tràng. Khó có thế ngờ một người nông
dân ít học, vốn vụng về như Tràng lại có thể nói ra những câu nói sâu sắc và ý nhị đến như
vậy: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy quạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với
nhau...Chẳng qua nó cũng là cái số cả...”. Trong lời giới thiệu, Tràng đã bỏ qua tất cả sự thực
đắng chat khi chi với một câu hò và bốn bát bánh đúc mà đã lấy được vợ, mà chỉ nhấn mạnh
vào kết quả - nhà tôi về làm bạn với tôi. Đó chính là cách nói đầy tế nhị để Tràng giữ thế diện
và không làm tốn thương đến lòng tự trọng của cô vợ nhặt. Cái cách gọi “nhà tôi, làm bạn”
gợi ra tình cảm vừa ấm áp, gần gũi, vừa nhẹ nhàng, sâu lắng chứ không như cái suồng sã,
chóng vánh trong thực tế. Đặc biệt, Tràng còn dùng đến những khái niệm vô cùng thiêng
liêng đối với người Việt Nam là “duyên, số, kiếp” để nâng việc mình lấy được vợ từ sự thật
đầy ngẫu nhiên, bất ngờ, qua quýt trở thành một sự kiện trọng đại và đầy ý nghĩa. Chỉ với một
câu nói như vậy đã đủ thấy việc có một người bạn đời đã làm cho Tràng thực sự sâu sắc và
chín chắn.
+ Buổi sáng hôm sau, tức là qua một đêm có vợ, tính cách của Tràng tiếp tục
biến đổi mạnh hơn, rõ hơn. Không chỉ sâu sắc, chín chắn mà Tràng đã trở thành một
người đàn ông biết lo toan và đầy tinh thần trách nhiệm. Sự thay đổi đó trước hết là do
tác động của ngoại cảnh, sự thay đổi nơi ngôi nhà Tràng ở. Sau cảm giác êm ái, lửng
lơ như người mới trong giấc mơ đi ra, Tràng đã ngỡ ngàng trước sự thay đối của ngôi
nhà. Không còn cái bừa bộn, bẩn thỉu, rúm ró mà thay vào đó là sự ngăn nắp, gọn
gàng, sạch sẽ: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếu quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mười niên ở một góc nhà đã
thấy đem ra sân hũiìg. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước
đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Nhận thấy sự thay đối
của tố ấm từ đôi bàn tay của người vợ đảm đang, trong Tràng bỗng dâng lên một tình cảm
rất tự nhiên, ấm áp: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng...một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy
hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Cái nhìn của
người kế chuyện biết tuốt đã cho người đọc nhìn thấy rõ ràng toàn bộ tâm trạng với những
ngõ ngách sâu kín của nhân vật Tràng. Khung cảnh giản đơn song yên ấm, hạnh phúc của gia
đình vừa mang đến cho anh những cảm xúc nhân văn của người, vừa dấy lên trong anh sự tự
nguyện đóng góp công sức của mình để vun đắp cho tổ ấm. Không còn là sản phẩm của sir xô
đẩy từ hoàn cảnh. Không còn là một anh chàng thờ ơ, vô tâm, sống hôm nay mà không biết
đến ngày mai. Sau khi lấy vợ, sau khi cảm nhận được không khí gia đình, Tràng đã cố cả tâm
thế, có cả những dự định, kế hoạch đế xây dựng hạnh phúc gia đình. Như vậy, anh đã thực sự
trở thành một người đàn ông đầy tinh, thần trách nhiệm, không chỉ biết đón nhận hạnh phúc
do mẹ và vợ đem lại mà còn biết chủ động tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc gia đình. Không có
những biến cố ly kỳ, giật gân nhưng những dòng văn nhẹ nhàng của Kim Lân viết về sự biến
đổi của Tràng trước và sau khi lấy vợ vẫn thực sự xúc động và hấp dẫn vì đằng sau sự thay
đối của Tràng chính là sức mạnh, là giá trị của tình người, nó đã nâng đỡ những thân phận
khốn khố như Tràng đế đưa họ chạm đến những tình cảm, giá trị rất nhân văn của con người.
+ Sự thay đổi về nhận thức: đến cuối tác phẩm, Kim Lân còn cho người đọc thấy sự
thay đổi to lớn trong nhận thức của Tràng. Từ câu chuyện của người vợ về Việt Minh và việc
phá kho thóc Nhật, trong đầu óc Tràng đã hiện lên rõ rệt và đầy ám ảnh về đám người đố và lá
cờ đỏ bay phấp phới. Tuy không khẳng định trực tiếp Tràng sẽ đi theo cách mạng nhưng nhìn
vào thái độ của Tràng: từ chỗ sợ sệt, bất an, phải kéo xe vòng theo lối khác khi nhìn thấy đám
người đi phá kho thóc Nhật đến chỗ ân hận về hành động của mình, và cuối cùng là ấn tượng
sâu đậm về lá cờ đỏ sao vàng, người đọc có thể nhận thấy sự vận động của Tràng và nhũng
người nông dân khốn khổ nói chung. Đến với cách mạng là con đưòng tất yếu bởi đó là con
đường duy nhất để họ có thể tự giải phóng và tìm hạnh phúc cho mình. Ở chi tiết này Kim
Lân tiếp tục khám phá một chi tiết khác trong vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động Việt
Nam: dù bị đẩy đến bước đường cùng song họ không bao giờ rơi vào tuyệt vọng, trong cái
nhỏ bé, bình dị của họ luôn ẩn chứa một khát vọng và sức mạnh to lớn để bùng lên theo quy
luật: “tức nước vỡ bờ”. Và khi gặp được sự soi đường, hướng dẫn, chỉ đạo, tất yếu sự đấu
tranh của người lao động sẽ chuyển từ tự phát sang tự giác.
—> Như vậy, từ việc nhặt được vợ bất ngờ và đầy bi hài, Tràng đã bước sang một
trang khác của cuộc đời với những biến đổi lớn lao cả về tâm trạng, cảm xúc cũng như tính
cách. Sự thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, nhân văn của Tràng khiến cho truyện ngắn Vợ
nhặt thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Ở đó các giá trị người đã được nâng niu, trân trọng, ngợi
ca.
3. Nhân vật người vợ nhặt:
- Khái quát: tuy không phải là nhân vật chính trong tác phẩm song nhân vật người vợ
nhặt được Kim Lân chọn lọc rất nhiều chi tiết đắt giá để xây dựng. Bởi vậy, nhân vật có tính
khái quát và điển hình rất cao, đồng thời cũng kết tinh đậm đặc giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
a) Người vợ nhặt là một ngưòi phụ nữ nông dân khốn khổ, cùng đường bởi vậy đã có
lúc trở nên liều lĩnh, táo bạo và đánh mất tự trọng
- Trong tác phẩm có thể nói hình ảnh người vợ nhặt là hình ảnh tiêu biểu nhất, chân
thực nhất cho sự khốn cùng đau khổ của người nông dân Việt Nam trước CMT8, Thị không
có cả một cái tên riêng mà chỉ được gọi chung chung là “thị” (tất nhiên không đặt tên cho
nhân vật cũng là một dụng ý nghệ thuật của Kim Lân để tính khái quát của nhân vật cao hơn,
là hình ảnh chung cho những người phụ nữ nông dân Việt Nam), Thị không có gia đình,
không có nhà cửa, không có nghề nghiệp. Cả hai lần Tràng gặp thị đều ở đầu đường, xó chợ.
Như vậy, trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một số không tròn trĩnh, không chỉ không có
tương lai mà chính hiện tại thị cũng không hề biết số phận mình như thế nào. Sự thay đổi bất
ngờ, nhanh chóng đến mức biến dạng diện mạo của thị qua hai lần gặp gỡ với Tràng đã cho
thấy trong vô số nhũng người nông dân khốn khổ, thị là một trong những người khốn khổ,
cùng đường nhất, cái đói đã dồn đuổi thị sát mép bờ vực của cái chết, đã khiến nhân hình,
nhân dạng của thị bị vắt kiệt toàn bộ sức sống. Hình ảnh thị mang đậm giá trị hiện thực về số
phận người trong nạn đói 1945. Đồng thời cũng là hình tượng tạo nên những ám ảnh xót xa
nhất dong tác phẩm với người đọc.
Vì đã bị cái đói dồn đuổi đên kề cận vói cái chết nên thị đã trở nên táo bạo, liều lĩnh
và có khi đánh mất tự trọng. Điều đó được thế hiện rõ qua. hai lần tiếp xúc giữa thị với Tràng.
+ Lần thứ nhất: khi đang ngồi vêu ra ở đầu đường, chỉ nghe thấy câu hò của Tràng có
nhắc đến miếng ăn, dù không hề quen biết thị đã ton ton chạy ra đấy xe và tít mắt cười tình.
Thì ra khi bị cái đói hành hạ, miếng ăn đã trở nên quá hấp dẫn với những người khốn khổ như
thị, để vì nó thị đã đánh mất cái tế nhị vốn có của người phụ nữ Việt Nam.
+ Lần thứ hai; Khi cái đói không còn là một nỗi lo sợ mơ hồ mà đã thực sự dồn đuổi
và vắt kiệt toàn bộ sức sống của thị thì sự táo bạo, liều lĩnh trong người vợ nhặt càng lớn hơn.
Dù không có bất cứ một lời hẹn ước nào nhưng khi gặp lại Tràng, thị đã sầm sập chạy đến
sưng sỉa mặt, mắng Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu!” Và khi được Tràng đề nghị đi ăn, thị
đã ngay lập tức đồng ý và không ngại ngần sà xuống ăn uống một cách thô tục: “thị cắm đầu
ăn một chập bốn bát bánh đúc liền, chang chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quẹt
ngang miệng, thở: hà, ngon!” Cái đói đã thôi thúc thị để vì miếng ăn thị sẵn sàng từ bỏ nhân
cách, lòng tự trọng. Cách ăn uống thô tục của thị cho thấy miếng ăn đã trở thành điều quan
trọng nhất.
+ Song, táo bạo và liều lĩnh nhất là quyết định theo Tràng về nhà làm vợ dù chưa hề
biết gì về tính cách cũng như hoàn cảnh gia đình Tràng: hình ảnh một người đàn bà rách như
tổ đỉa không có bất cứ tài sản nào khác ngoài cái thúng con bất ngờ đi theo một người đàn ông
gặp ở đường, ở chợ về nhà làm vợ đã tạo nên nỗi ám ảnh vô cùng xót xa về thân phận và giá
trị người thị đã đánh đổi số phận mình dù không biết tương lai như thế nào, miễn là trước mắt
đó là một cơ hội được sống.
—> Trước khi trở thành vợ nhặt của Tràng, thị là hiện thân đầy đủ và tiêu biểu nhất
cho sự khốn quẫn, khổ sở của người nông dân Việt Nam trước sự truy đuổi ráo riết của cái đói
và cái chết. Nhìn bề ngoài, những biểu hiện của sự táo bạo, liều lĩnh, đánh mất tự trọng ở thị
khiến thị trở nên đáng khinh và câu chuyện trở thành vợ nhặt mang đầy tính chất bi hài,
nhung nếu nhìn sâu hơn bằng con mắt nhân văn sẽ thấy thị đáng thươn hơn là đáng trách. Bởi
lẽ những biểu hiện của sự trơ tráo, liều lĩnh, thiếu tự trọng ở thị không phải là bản chất mà ỉà
sản phẩm của một hiện thực cuộc sống nghiệt ngã. Không đảm bảo những điều kiện sống tối
thiểu nhất đế người dược sống với tất cả giá trị người. Và xét ở một góc độ nào đó, việc thị
chấp nhận trở thành vợ nhặt của Tràng ngay giữa đường, giữa chợ chính là biểu hiện của khát
vọng sống mãnh liệt. Ai sinh ra trên đời cũng muốn được sống, được tồn tại, đó là một khát
vọng hết sức chính đáng và tốt đẹp của người. Và ở nhân vật vợ nhặt, khi có một cơ hội để
vượt thoát cái đói và cái chết, thị đã quyết định nắm lấy nó.
b) Những thay đổi của cô vợ nhặt sau khi lấy Tràng:
Khái quát: Quyết định trở thành vợ nhặt của Tràng là một quyết định táo bạo, bất ngờ
của người vợ nhặt, như cố gắng để tìm cách vượt thoát khỏi cái chết. Tuy nhiên, sự việc tưởng
như hoàn toàn ngẫu nhiên ấy đã thực sự trở thành một sự kiện trọng đại, một bản lề để khép -
mở hai nửa cuộc đòi của thị. Từ chỗ chỉ là một số không tròn trĩnh, không gia đình, nhà cửa,
nghề nghiệp, người thân, không tương lai. Ở thị đã có sự chuyển hóa giá trị một cách kỳ diệu.
Thị đã thuộc về một gia đình có người thân, có cả một tổ ấm để chăm lo,vun đắp và có cả một
tương lai dẫu còn đầy khó khăn nhưng vẫn ngập tràn niềm tin, hy vọng. Cũng chính bởi vậy,
sau sự kiện trở thành vợ nhặt của Tràng, ở nhân vật này đã có những biến đổi hết sức mạnh
mẽ cả về cảm xúc cũng như tính cách..
Sự thay đổi đầu tiên có thể nhận thấy một cách dễ dàng ở thị đó là sự thay đổi trong
điệu bộ, dáng vẻ, cảm xúc khi cùng Tràng đi qua xóm ngụ cư về nhà: “người đàn bà đi sau
hắn chừng 3-4 bước, thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che đi nửa mặt, thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Từ tất cả những biểu hiện bên ngoài của
thị, người đọc không còn thấy cái cong cớn, chao chat, chỏng lỏn như khi gặp Tràng trên tỉnh
mà thay vào đó là cái ngượng ngùng, e ấp rất phù hợp với tâm lý của những cô dâu mới về
nhà chồng. Trong cái ngượng nghịu, e thẹn của thị, ngoài vì ánh mắt tò mò, những lời trên
ghẹo của bọn trẻ con còn là sự phấp phỏng, lo lắng về con đường tương lai mà thị chưa thể
hình dung nó như thế nào.
Khi đã cùng Tràng về tới nhà, nhìn quang cảnh của ngôi nhà nghèo nàn, rúm ró, bừa
bộn “thị đã đáo mắt xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Hành động
này của thị cũng gián tiếp thể hiện một tâm lý có sự pha trộn phức tạp. Đó vừa là tiếng thở dài
se xót cho tương lai số phận của mình khi biết gia cảnh của Tràng cũng vô cùng khốn khổ,
vừa là tiếng thở dài đầy lo toan cho cuộc sống tương lai đúng như thiên chức của một người
phụ nữ chứ không còn là một người sống vội, sống táo bạo, liều lĩnh cho thời khắc hiện tại.
Hơn thế, đó cũng chính là sự đồng cảm, thương xót cho Tràng khi thị nhận thấy Tràng đồng
cảnh ngộ với mình.
Khi vào đến trong nhà, vẫn với tâm lý ngại ngùng, bẽn lẽn thị chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường. Khi gặp bà cụ Tứ, thị đã chào hỏi rất lễ phép nhưng mặt vẫn cúi xuống, hai tay
mân mê tà áo đã rách bợt. Những phản ứng của thị khi về nhà chồng, đặc biệt là khi tiếp xúc
với mẹ chồng một lần nữa càng cho thấy rõ cái trơ tráo, liều lĩnh, mất tự trọng ở thị chỉ là sản
phẩm của hoàn cảnh. Ẩn sâu trong tâm hồn người đàn bà đó vẫn là sự đúng mực, ngoan hiền
với tất cả sự ngượng nghịu, bẽn lẽn đầy nữ tính của một cô dâu mới.
Sự thay đổi rõ ràng và lớn lao nhất trong tính cách, tâm hồn của người vợ nhặt được
thể hiện trong buổi sáng hôm sau khi thị đã chính thức ưở thành vợ Tràng. Để tăng tính khách
quan, Kim Lân đã để Tràng là người nhận thấy và suy nghĩ về những thay đổi của thị: “Tràng
nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Những nhận định đầy sự trân trọng, yêu
thương, bao dung ở Tràng xuất phát từ chính những việc làm, hành động của người vợ nhặt
trong buổi sáng đầu tiên, thị đã dậy sồm cùng người mẹ già thu dọn, quét tước, sắp xếp lại nhà
cửa. Để vẫn là một gia cảnh nhưng người ta không còn thấy sự nhếch nhác, bẩn thỉu, bừa bộn
mà là sự gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp. Như vậy, bằng những hành động nhỏ bé nhưng thiết
thực đầy sự chăm lo, thu vén của mình, thị đã làm những màu nét tươi sáng được hiện hình
trên khung cảnh ngôi nhà vốn u ám, tối tăm. Bằng sự hiền hậu, đúng mực của mình, thị đã gắn
kết các mối quan hệ để ngôi nhà không còn cảm giác lạnh lẽo mà thực sự là một tổ ấm mà
trước đây Tràng và bà cụ Tứ chưa bao giờ cảm nhận được. Tất cả những việc làm, hành động
của thị đã làm ánh lên vỏ ri ftp I am hồn của một người phụ nữ Việt Nam truyền thống hiền
hậu, đảm đang, tần tảo, biết chăm lo thu vén để xây dụng hạnh phúc gia đình. Cùng với vẻ
đẹp đó cũng chính là một khát vọng mãnh liệt của người vợ nhặt về hạnh phúc.
Sự thay đổi của người vợ nhặt không chỉ được Kim Lân khai thác sâu sắc ở cảm xúc,
ở tính cách mà còn ở cái nhìn, ở niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Trong tác phẩm, người vợ
nhặt chính là nhân vật có thân phận khốn khổ nhất, một nửa cuộc sống vất vưởng, khổ sở
trong sự dồn đuổi của cái đói, thị đã lấy chồng giữa khung cảnh những người chết đói như ngả
rạ. Đêm tân hôn của thị diễn ra giữa những tiếng hờ khóc tỉ tê của N H Ữ N G gia đình có người
chết. Sự đeo bám của cái đói, cái chết tưởng như đến thế đã là tận cùng nhưng trên thực tế
hạnh phúc mong manh mà thị vừa có được vẫn chưa thôi bị giành giật, bị bám đuổi bởi cái
đói và cái chết. Điều đó được thể hiện rõ trong bữa cơm đón cô dâu mới trong buổi sáng hôm
sau. Bữa cơm đầu tiên ăn cùng gia đình, thị đã phải đón nhận cái nghèo túng, khổ sở: ba
người ăn nhưng chỉ có một nồi cháo lõng bong và một lùm rau chuối thái rối nhưng thứ thức
ăn xoàng xĩnh rẻ mạt ấy cũng không đủ. Ngay sau đó, người con dâu trong bữa ăn đầu tiên
với gia đình đã phải đưa vào miệng miếng cháo cám đắng ngắt mà bà mẹ chồng gọi đùa là
“chè khoán”. Nhưng ngay lúc tất cả niềm vui, tất cả hy vọng tưởng như bị dập tắt bởi hiện
thực nghiệt ngã là lúc trong tâm hồn khỏe khoắn của người vợ nhặt ánh lên niềm tin mãnh liệt
vào cách mạng. Không ai khác chính người vợ nhặt ỉà người đầu tiên trong tác phẩm nhắc đến
những khái niệm việt minh, cách mạng, người kể câu chuyện về việc phá kho thóc nhật để
đem đến cho Tràng và bà cụ Tứ cái nhìn tươi sáng vào tương lai. Không phải ngẫu N H I Ê N
mà Kim Lân lại chọn người vợ nhặt là nhân vật nhắc đến những khái niệm to tát, vĩ đại này
bởi một người đã tìm mọi cách để thoát khỏi cái chết, một người đã vùng vẫy từ đói khổ để có
thể sống đôi mắt nhèm dử và tiếng húng hắng ho cùng hình ảnh về ngôi nhà nghèo nàn xơ
xác, người đọc đã đủ hình dung về số phận của một người mẹ nông dân nghèo khổ, cơ cực đã
bị cái đói đeo bám, truy đuổi trong suốt cả cuộc đời dài dằng dặc. Ngay từ những ấn tượng
ban đầu, Kim Lân đã gợi nên rất nhiều sự thưong cảm, xót xa từ hình ảnh bà cụ Tứ.
b) Tâm trạng bà cụ Tứ:
Khái quát: Ở bà cụ Tứ, tất cả các chi tiết từ ngoại hình, diện mạo, số phận đều bị mờ
đi để làm nổi bật lên toàn bộ tâm trạng với rất nhiều cung bậc cảm xúc trái chiều, phức tạp.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, từ buổi tối đón nhận nàng dâu mới đến buổi sáng hôm
sau ở bà cụ Tứ đã xuất hiện rất nhiều cung bậc cảm xúc mà Kim Lân đã khai thác hết sức tỉ
mỉ, sâu sắc.
* Tâm trạng bà cụ Tử trong buổi tối đón nàng dâu mói:
Phản ứng tâm lý đầu tiên của bà cụ Tứ khi bước vào nhà và nhìn thấy người vợ nhặt
là sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến cao độ. Phản ứng này là hoàn toàn dễ hiểu bởi chưa bao
giờ bà thấy cậu con trai lại sốt sắng, mong ngóng mình về đến vậy. Nhưng quan trọng hơn là
bà nhìn thấy một người đàn bà xa lạ ngồi ngay đầu giường thằng con trai mình lại chào bà là
“u”. Sự ngạc nhiên này trước hết thể hiện qua những bước chân phấp phỏng của bà theo
Tràng vào nhà, sau đó là hành động đứng sững lại ở giữa sân và rõ nhất là ở một loạt những
câu hỏi dồn dập mà Kim Lân đã dùng dạng lời nửa trực tiếp để thể hiện: “Quái, sao lại có
người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình
thế kia? Saọ lại chào mình bằng u?” Sự ngạc nhiên lớn đến mức bà cụ không còn tin vào mắt
mình, còn tưởng gặp lại người con gái đã mất, sau đó bà phải dụi mắt cho đỡ nhoèn.
Ngay sau sự ngạc nhiên, khi nghe lời giải thích đồng thời cũng là lời giói thiệu ngắn
gọn nhưng đầy ý nhị của Tràng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!” Ở bà cụ Tứ đã
có một phản ứng không lời nhưng lại chất chứa đầy c ả m x ú c p h ứ c t ạ p : “Bà lão
hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình”. Như vậy, trong cái nín lặng của bà cụ Tứ là sự nén chặt,
sự dồn tụ rất nhiều cảm xúc: vừa là niềm h ạ n h p h ú c khi thằng con mình có một người
bạn đời để sẻ chia buồn vui, vừa là sự x ó t x a vì việc trọng đại với đứa con hai lại diễn ra
chóng vánh, bất ngờ đến thế, vừa là sự t ủ i p h ậ n của người mẹ cảm thấy mình đã không
làm tròn trách nhiệm, không lo lắng được cho hạnh phúc của con cái. Phải rất tinh tế Kim Lân
mới bắt được khoảnh khắc tâm lý tưởng như rất tĩnh tại nhưng thực chất lại đầy phức tạp, uẩn
khúc này của bà cụ Tứ.
'Sau phút cúi đầu nén lặng với nhiều cảm xúc trái chiều phức tạp, bà cụ đã trở về vơi
thực tại, nhìn vào thực tế đói khổ nghiệt ngã để trong lòng trào lên sự l o lắng, t h ư ơ n g
x ó t cho hai đứa con: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không”. Những dòng nước mắt lặng lẽ chảy của bà cụ đã khiến cho tất cả người đọc đều phải
lặng đi, xúc động bởi ở đó tình mẫu tử, t ì n h t h ư ơ n g c o n đã được thể hiện sâu sắc.
Và rất tự nhiên từ tình thương, từ sự l o l ắ n g giành cho đứa con hai, bà cụ chuyển
sang nhìn người con dâu cũng bằng ánh mắt đầy xót xa, thương cảm. Dù Tràng không hề đề
cập đến việc nhặt vợ ở đầu đường, xó chợ qua loa và chóng vánh n h ư t h ế nào nhưng bằng
kinh nghiệm sống của một người đã đi gần hết cả cuộc đời bà cụ có thể hoàn toàn hiểu
được sự thật trần trụi, đắng chát của cuộc hôn nhân đó. Nhưng bà không hề nhìn cô
con dâu bằng sự phát xét khắt khe đay nghiến thường thấy của một bà mẹ chồng mà
bằng con mắt đầy bao dung và cảm thông. Bà n h ư t ự bào chữa cho chính đứa con
dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có được vợ...” Với chi tiết này, bà cụ Tứ hiện lên không chỉ là hình
ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng cao cả mà còn là biểu hiện của tình người ấm áp, bao
dung. Bằng sự nhân hậu, vị tha bà đã sẵn sàng mở rộng lòng và dang đôi bàn tay đế
cưu mang, che chở, nâng đỡ những kiếp người khốn khổ hơn mình. Ở đó, truyền thống
đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam: “Lá lành đùm lá rách” được thể hiện rất rõ.
Nhưng điều đáng lưu ý và cũng đáng trân trọng nhất ở bà cụ Tứ là dù có xót xa, đau
đớn và lo lắng nhưng tất cả đều được bà mẹ này giữ kín trong cõi riêng của mình còn những
điều bà nói ra đều là sự vui mừng, tốt đẹp. Câu nói mà bà nói với nàng dâu mới: “ừ, thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..Tuy giản dị nhưng cũng đầy ý
nghĩa. Nó vừa giúp cả ba người thoát khỏi tình thế ngượng nghịu, khó xử vừa là sự chào đón
ấm áp, đôn hậu với nàng dâu mới. Cùng với các khái niệm thiêng liêng: “duyên, kiếp” bà cụ
đã cho thấy dưới đôi mắt của người mẹ thương con thì người con dâu không phải là người đàn
bà chao chát, chỏng lỏn, trơ trẽn mà là người đáng được trân trọng. Còn cuộc hôn nhân chóng
vánh, vội vàng của Tràng cũng trở nên thiêng liêng, trọng đại như các cuộc hôn nhân mâm
cao cỗ đầy khác. Như vậy, với tấm lòng cao cả,, giàu đức hy sinh bà lão đã nén chặt trong
lòng những buồn tủi để nâng đỡ, vun vén cho hạnh phúc của hai đứa con mình.
Để tiếp tục gieo vào lòng hai đứa con mềm tin, hy vọng cũng như sự lạc quan vào
cuộc sống, bà đã dùng đến kinh nghiệm dân gian, được đúc kết từ ngàn đòi. Câu tục ngữ:
“Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” mà bà nói ra chính là cách động viên ấm áp nhất
để Tràng và người vợ nhặt có thể tin vào sự thay đối tốt đẹp hơn.
Nén lòng để tạo tâm lý thoải mái cũng như sự khởi đầu tét đẹp nhất cho hai đứa con
nhưng bà lão không thể quên đi những ám ảnh về đói rét, chết chóc. Có thể nói đây là một nét
tâm lý rất phức tạp và sâu kín của bà cụ Tứ. Khi trở về vói cõi riêng của mình, lòng người mẹ
nghèo lại quặn thắt với những đau đớn, xót xa. Điều đó được thế hiện rất rõ qua chì tiết: “Bà
lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt, Ngoài xa dòng sông sáng trắng
uốn khúc trong cánh đồng tối....Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ
đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình.” Kim Lân đã thấu suốt vào cái nhìn của bà cụ
Tứ để nhận thấy trong đó sắc màu chủ đạo là màu đen đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở đây
không chỉ là bóng tối của đêm mà còn là bóng tối của đói nghèo, cực khổ đã bao trùm lên
toàn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự chết, chóc, ám ảnh qua nỗi nhớ về những người thân
đã khuất là chồng và đứa con gái út. Bóng tối này đã. đè nặng lên ánh nhìn, đè nặng lên tấm
lòng của người mẹ nghèo để trong lòng bà tràn lên một nỗi xót xa cho số phận mình nhưng
lớn hơn là sự lo lắng đến xót ruột cho sự tồn tại, cho tương lai các con. Bởi vậy, sau phút trọn
vẹn vói những cảm xúc của riêng mình, khi trở về với thực tại bà không còn nén nối cảm xúc
như trước đó mà những lời nói ra đã n g h ẹ n n g à o trong nước mắt: “Năm nay thì đói to
đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Những lời nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ
đã tạo nên sự xúc động cao độ của câu chuyện về vẻ đẹp của tình mẫu tử, lớn hơn là tình
người.
—» Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là buổi tối khi Tràng đưa vợ nhặt
về nhà, Kim Lân đã xoáy sâu, đã nhập thân gần như làm một với nhân vật bà cụ Tứ để đi vào
những ngõ ngách sâu kín, những uẩn khúc khó nắm bắt trong tâm lý nhân vật này. Một loạt
những phản ứng tâm lý phức tạp nhưng vẫn hết sức tự nhiên, hợp lý đã được Kim Lân khai
thác thành công để làm nổi bật tấm lòng ở một bà mẹ g i à u t ì n h t h ư ơ n g c o n và ở
một người nông dân c h a n c h ứ a t ì n h n g ư ờ i nơi bà cụ Tứ.
* Tâm trạng bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau:
Khái quát: sáng hôm sau, bà cụ Tứ tiếp tục được Kim Lân khai thác ở chiều sâu tâm
lý mà màu sắc chủ đạo là sự lạc quan, tin tưởng, phấn chấn vào cuộc sống.
Cùng với người con dâu, sáng hôm sau bà cụ Tứ đã dậy sớm, xăm xăm quét dọn, thu
vén nhà cửa để ngôi nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa, mang không khí của một tổ ấm hạnh
phúc thật sự. Niềm hạnh phúc của con đã khiến người mẹ nhân từ, bao dung dường như cũng
hạnh phúc theo. Không còn dáng vẻ của một bà lão gần đất xa trời, khốn khổ, Tràng đã nhận
thấy rất rõ sự thay đổi ừong dáng vẻ, thần thái của mẹ mình. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhẹ
nhõm khác ngày thường, khuôn mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Sự thay đối ở diện
mạo, thần thái của bà cụ Tứ cùng với những việc làm nhỏ bé, giản dị của bà đã thể hiện rất rõ
sự chăm lo cho hạnh phúc của đứa con. Tất cả đều giản dị song lại vô cùng cảm động vì bà cụ
đã hành động bằng tất cả tấm lòng mình để góp phần xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.
Bữa ăn đón nàng dâu mới mà bà cụ Tứ chuẩn bị không thể tránh khỏi cái thảm hại
của một gia đình nghèo nàn. Y ới tất cả sự cố gắng của bà cũng chỉ có thể chuẩn bị cho bữa
cơm với một nồi cháo lõng bong và một lùm rau chuối thái rối. Nhung điều quan ữọng là ở
chỗ, để tránh cho hai đứa con, đặc biệt là người con dâu cảm thấy xót xa trong bữa ăn bà cụ
Tứ đã nói toàn những câu chuyện vui với cái nhìn phấn khởi. Không phải ngẫu nhiên bà lại
nói với hai đứa con về việc mua gà để “ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy mà có ngay đàn gà”.
Đằng sau câu chuyện là niềm tin với người nông dân Việt Nam đã được dồn tụ từ ngàn đời
nay, đó là bài ca dao “Mười cái trứng” với thông điệp quan trọng:
“Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây ”.
Câu chuyện chính là sự động viên khích lệ rất lớn của bà cụ Tứ để đứa con tràn đầy niềm tin
vào cuộc sống.
Nhưng dù cố gắng đến đâu thì những câu chuyện vui, những niềm lạc quan mà bà cụ
Tứ cố gắng nói ra cũng không đủ che lấp đi hiện thực nghiệt ngã của bữa ăn ngày đói. Món ăn
dù quá xoàng xĩnh cũng không đủ để ba mẹ con vượt qua được cái đói. Bởi vậy, cuối cùng dù
không muốn bà lão vẫn phải xuống bếp để bê lên nồi cám mà bà gọi tránh đi là “chè khoán”.
Ở chi tiết này, hình ảnh bà cụ Tứ thật đáng thương, tội nghiệp, bà đã cố gắng đế Tràng và
người vợ nhặt không bị sốc khi đối mặt với hiện thực này bằng những câu nói: “Chúng mày
đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ” hay “chè đây...chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Cùng
với ngôn ngữ là dáng điệu, cử chỉ, Kim Lân đã tỏ ra rất tinh té khi phát huy tối đa hiệu
quả biểu đạt của tiếng Việt, Với ba từ láy liên tiếp “lật đật, lề mề, khuấy khuấy” Kim
Lân đã đặc tả thành công dáng điện tất bật vội vã gắn với sự hào húng, đồng thời vẫn
đậm chất nông dân của hà cụ Tứ. Dường như từ ngôn ngữ đến điệu bộ, cử chỉ bà lão
đang cố gắng làm cho nồi cám trở nên hấp dẫn hơn, để hiện thực bớt đắng chát hơn.
Dù không thể hiện được nhung sau khi đựa miếng cám vào miệng cả ba người đều
cảm thấy cái đắng chát nghẹn bứ trong cổ họng, nhưng những cố gắng và tình cảm của
bà cụ Tứ một lần nữa làm sáng lên vẻ đẹp của một người mẹ nhân từ hết lòng yêu
thương con.
Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ
Tứ đầy xúc động trong tâm hồn bà cụ nổi bật lên vẻ đẹp của tình người, tình mẫu tử thiêng
liêng, cao cả và niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Kim Lân đã rất có dụng ý khi để cho một bà
cụ đã gần đất xa trời là người nhắc đến nhiều nhất về tương lai, về ngày mai với niềm tin vào
những điều tốt đẹp. Đó chính là thông điệp nghệ thuật của tác giả: dù hoàn cảnh có khó khăn
và khắc nghiệt đến đâu, mỗi người đều phải cố gắng giữ lấy niềm tin vào cuộc sống. Ở cả hai
điểm này của bà cụ Tứ đều ánh lên vẻ đẹp của giá trị nhân đạo, đó chính là lý do mà nhà văn
Kim Lân đã trực tiếp khẳng định: “Đối với tôi, phần xúc động nhất khi đọc lại tác phẩm là
đoạn bà cụ Tứ về nhà. ở đó, tình người của người mẹ thật lớn. Đó là bản chất nhân đạo của
người Việt Nam và cũng là chủ đề của câu chuyện”.
5. Giá trị hiện thực, nhân đạo
a. Giá trị H I Ệ N T H Ự C :
Truyện đã đựng ỉại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngu c ư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nép nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói biện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm
1945.
- Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế,
đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
h. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tôi ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đa gây ra nạn đói khủng
khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao
động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh đế đốỉ đời, vươn tới tưong
lai tươi sáng.

BÀI 11 : RỪNG XÀ NU
(Nguyễn Trung Thành)
TRỌNG TÂM:
- Nhân vật T nú
- Hình tượng rừng xà nu
- Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát:
1. Tác giả
a) Cuộc đời:
Nguyễn Trung Thành (NTT) sinh năm 1932, tên thật là Nguyễn Văn Báu, ông còn
một bút danh khác dùng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là Nguyên Ngọc.
Thời đại: sống gần như trọn vẹn trong thế kỷ XX, cùng đất nước đi qua cả hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bởi vậy, Nguyên Ngọc đặc biệt thành công khi viết về
đề tài chiến tranh và người lính với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Quê hương:
+ NTT sinh ra tại Quảng Nam, đây là một mảnh đất miền Trung dường như phải gánh
chịu nhiều nhất những đau thưong, mất mát của chiến tranh bởi vậy sớm hun đúc cho ông
lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sục sôi. Nếu để ý, tất cả các tác phẩm sáng tác trong giai
đoạn chiến tranh dù viết về anh hùng Núp, Tnú hay bất cứ nhân vật nào khác thì đặc điểm nổi
bật nhất chính là lòng yêu nước và lòng căm thù giặc. Với ông, tinh thần yêu nước không đơn
thuần là đối tượng để khắc họa trong văn học mà nó chảy ra tự nhiên từ huyết quản của ngôn
ngữ để tạo nên những trang văn sục sôi đầy khí thế.
+ Ngoài nơi chôn rau cắt rốn, còn có một mảnh đất để lại ảnh hưởng sâu đậm đến cả
cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của NTT là Tây Nguyên. Dù thời gian gắn bó với Tây Nguyên
không dài, chỉ khoảng ba năm (1951- 1954) khi ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân
liên khu 5, nhưng mảnh đất và người nơi đây đã để lại dấu ấn không thể phai mờ, làm nên cả
linh hồn và sức sống qua tác phẩm của NTT. Bởi vậy, dễ dàng nhận thấy không gian nghệ
thuật trong tác phẩm của ông thường là không gian của núi rừng, đại ngàn, của những cao
nguyên đặc quánh chất Tây Nguyên. Nhân vật chính trong tác phẩm ra đời trong thời chiến
tranh của ông thường là những người con anh hùng của mảnh đất Tây Nguyên, nội dung lới là
quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường của người dân Tây Nguyên chống lại thực dân, đế
quốc. Chất Tây Nguyên đã trở thành một đặc trưng không thể lẫn của NTT với các nhà văn
khác.
Bản thân:
-+ Đường đời: tương đối dài, gắn chặt với những bước đi của đất nước, thòi đại. Năm
1950 ông gia nhập quân đội, từ 1951 - 1954 ông là phóng viên ở liên khu V, từ 1955 - 1962
ông tập kết ra Bắc, hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ. Năm 1962, trở lại miền Nam vừa chiến
đấu vừa sáng tác, sau 1975 ông công tác liên tục tại Hội Văn nghệ Việt Nam.
+ Con người NTT là người thẳng thắn, bộc trực, luôn mang trong mình lòng yêu nước
sục sôi và lòng căm thù giặc cháy bỏng. Ông cũng có khả năng lao động nghệ thuật bền bỉ. ở
NTT đã có những đóng góp to lớn cho công cuộc đối mói văn học ở Việt Nam sau 1975.
b) Sự nghiệp:
NTT để lại một sự nghiệp phong phú, đồ sộ, giàu giá trị với sở trường của ông là tiểu
thuyết và truyện ký.
Tác phẩm chính: Đất nước đứng lên, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đất
Quảng...
Dù sáng tác ở thể loại nào hay thời điểm nào, tác phẩm của NTT cũng mang một số
đặc điểm cơ bản sau:
+ Mang đậm dấu ấn thời đại sục sôi, hào hùng gắn với khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn.
+ Nhân vật chính thường là người-anh hùng được kết tinh từ sức mạnh và vẻ đẹp cộng
đồng.
+ Dù viết về đau thương, mất mầt chiến tranh nhưng tác phẩm của NTT luôn ánh lên
niềm tin về chiến thắng, tương lai, có ý nghĩa cổ vũ tích cực trong việc khơi dậy tinh thần yêu
nước.
+ Lối viết dung dị, kết hợp giữa mạch tự sự chặt chẽ, lôi cuốn với những đoạn miêu tả
biểu cảm, xúc động.
2. Tác phẩm:
Nguồn gốc: Rừng Xà nu nằm trong tập truyện ký Trên quê hương nhũng anh hừng
Điện Ngọc được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trang Bộ.
Hoàn cảnh ra đời: năm 1965, khi Đế Quốc Mỹ ồ ạt đổ bộ tấn công vào miền Nam,
trong đó có mảnh đất Tây Nguyên, NTT đã viết tác phẩm này để vừa phản ánh, vừa ca ngợi,
cổ vũ cho tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân.
Vị trí, ý nghĩa: đây là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông, cùng với Đất nước đứng lên,
Rừng xà nu là tác phẩm để đời tạo nên tên tuổi của nhà văn NTT. Đối với văn học Việt Nam
hiện đại, đây là truyện ngắn thành công của giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, mặc dù mang
đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn song vẫn tạo được cảm giác tự nhiên, chân
thực.
II. Đọc - hiểu - vb
1. Hình tượng cây Xà nu:
Khái quát: bên cạnh hình tượng trang tâm là người anh hùng Tnú đọc tác phẩm Rừng
Xà nu người ta còn nhận thấy một hình tượng độc đáo và không kém phần hấp dẫn là hình
tượng cây xà nu. Hình tượng này được NTT xây dựng trong thế sóng đôi với hình tượng Tnú
nói riêng và với dân làng Xô Man nói chung.
Cây Xà nu trở thành một hình tượng lớn trong tác phẩm, trước hết xuất phát từ tình
cảm cá nhân của NTT, điều để lại ấn tượng sâu đậm nhất cho nhà văn khi đặt chân lên mảnh
đất Tây Nguyên theo tâm sự của ông chính là những cây Xà nu. Ấn tượng lớn đến mức nhà
văn phải thốt lên: “Tôi yêu đến say mê loài cây Xà nu này” trong hồi ký của mình nhà văn đã
dùng những mĩ từ có ý nghĩa nhất để ca ngợi cây Xà nu: “Đó là loài cây họ thông hùng vĩ, cao
thượng, hoang dại, trong sạch. Những cây cao vừa vạm vỡ đầy nhựa ứa ra, tán lá vừa rắn rỏi
vừa thanh nhã, tưởng như đã sống từ ngàn năm trước và sẽ sống mãi đến ngàn năm sau”. Hiểu
được tình cảm này của NTT với cây Xà nu mới lý giải được vì sao nhà văn đã dành nhiều
công sức và tâm huyết đến như vậy để xây dựng hình tượng cây xà nu thành một hình tượng
lớn trong tác phẩm. Cây xà nu được coi là một hình tượng lớn bởi đối với một truyện ngắn thì
kết cấu cách mở đầu và kết thúc, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật đều là những yếu tốt
hết sức quan trọng. Với tác phẩm Rừng xà nu, soi chiếu vào tất cả các yếu tố này đều nhận
thấy rõ sự hiện diện của hình tượng cây xà nu.
a) Hình t ư ợ n g cây xà nu vói kết cấu tác phẩm:
Khái quát: đối với truyện ngắn thể loại có dung lượng nhỏ nhưng lại có tầm bao quát
lớn về nội dung tư tưởng thì việc tổ chức, sắp xếp tác phẩm đòi hỏi tính logic chặt chẽ rất cao.
Cũng vì vậy, yếu tố kết cấu đối với mỗi truyện ngắn cũng có vai trò rất quan trọng để người
đọc có những ấn tượng sâu đậm khi tiếp nhận tác phẩm. Với Rừng xà nu, hình tượng cây xà
nu có ảnh hưởng và can thiệp rất mạnh đến kết cấu của tác phẩm này.
Việc tác giả mở đầu tác phẩm bằng hình ảnh: “Đứng trên đồi xà nu ấy, trông ra xa,
đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tói chân trời” rồi
cũng kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh: “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” đã tạo
nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Sự xuất hiện của cây xà nu, đồi xà nu ở đầu - cuối tác phẩm
vừa tạo nên một kết cấu độc đáo, vừa tạo nên tính cân xứng, hài hòa cho tác phẩm
Ngoài xuất hiện một cách ấn tượng ở đầu - cuối tác phẩm, còn có thể nhận thấy cây
xà nu và nhiều biến thể của nó như nhựa xà nu, gỗ xà nu, khói xà nu.. .xuất hiện rải rác theo
chiều dài của tác phẩm. Với cách thức này, cây xà nu đã tạo nên một trục liên kết ngầm, một
bộ khung vững chắc để trên đó các hình ảnh, chi tiết, sự ldện khác được liên kết lại với nhau
một cách chặt chẽ, đồng thời cũng là một cái nền để tác giả triển khai những hình tượng trung
tâm trong tác phẩm.
Ngoài ra, việc khép lại tác phẩm theo lối mở bằng hình ảnh: “những đồi xà nu nối
tiếp chạy đến chân trời” NTT còn dùng hình tượng cây xà nu để tạo nên dư ba cho tác phẩm.
Bởi vậy, tuy sau hình ảnh này, tác phẩm đã két thúc trên bề mặt ngôn từ nhưng lại mở ra cả
một trường liên tưởng, tưởng tượng cùng cảm xúc trong người đọc...Lối kết thúc mở có dư ba
này cũng được tạo nên chính từ hình tượng cây xà nu.
b) Vai trò của cây xà nu với không gian nghệ thuật trong tác phẩm
Khái quát: đối với một tác phẩm tự sự, ngoài linh hồn là nhân vật, các yếu tố không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật bao giờ cũng được các tác giả chú trọng xây dựng vì
không gian nghệ íhuậl, thời gian nghệ thuật thường giúp tác giả làm bật lên tính chất, đặc
điểm của nhân vật trang tâm. Với tác phẩm Rừng xà, hình tượng cây xà nu đã giúp NTT
tạo nên một không gian nghệ thuật đậm đặc chất Tây Nguyên.
Ngay từ đầu tác phấm, với hình ảnh kỳ vĩ là những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến
tận chân trời, tác giả đã đem đến cho người đọc nhũng ấn tượng về đặc điếm địa lý, tự nhiên
của mảnh đất Tây Nguyên, đó là những cao nguyên bao la rộng lớn gắn với cái hoang sơ,
khoáng đạt tràn đầy nắng và gió.
Gắn với loài cây xà nu, tác giả còn gợi ra đặc trung của thiên nhiên Tây Nguyên, từ
đó gợi nên khí chất của người nơi đây. Neu nói đến miền Bắc là người ta nghĩ ngay đến cây
tre gắn với nhũng người cần cù, trang hậu. Neu nói đến miền Nam người ta nghĩ ngay đến cây
dừa gắn với những người phóng khoáng, tự do, thì hình ảnh. cây xà nu - loài cây được trồng
và mọc rất nhiều ở Tây Nguyên lại gắn vói khí chất của người dân Tây Nguyên khỏe khoắn,
giản dị, hồn hậu và cũng rất kiên cường, mãnh liệt.
Bám sát vào hình tượng cây xà nu và những biến thể của nó trong suốt chiều dài của
tác phẩm, người đọc còn có một hình dung hết sức cụ thể về nếp sống, nếp sinh hoạt giản dị
đời thường của người dân Tây Nguyên. Cây xà nu hiện diện rất nhiều trong đòi sống sinh hoạt
ở các buôn làng Tây Nguyên cây xà nu được trồng bát ngát ở các quả đồi bao bọc buôn làng,
thân xà nu được dùng làm gỗ, làm củi đốt, khói xà nu dùng đế hun bảng cho trẻ con học chữ,
nhựa xà nu được sử dụng như một chất đốt quan trọng nhất...như vậy, chỉ thông qua lăng kính
là cây xà nu, người đọc đã có thế thấy được nét độc đáo trong phong tục tập quán của nhân
dân Tây Nguyên, đó là lối sinh hoạt giản dị, mộc mạc, cởi mở và gần gũi với tự nhiên.
Không chỉ hiện diện thường trực trong đời sống hàng ngày cùa người Tây Nguyên,
cây xà nu còn tham gia vào nhiều biến cố, những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man nói
riêng và của nhân dân Tây Nguyên nói chung. Dưới ánh lửa xà nu, thanh niên làng Xô Man
đã mang giáo mác làm vũ khí và cũng chính dưới ánh lửa xà nu ấy là xác mười tên giặc ngổn
ngang trong đêm nhân dân Xô Man đồng loạt nổi dậy cứu Tnú và tiêu diệt bọn Mỹ - Ngụy ác
ôn. Cũng với chính cây xà nu, người đọc thấy được một lịch sử đậm chất Tây Nguyên, một
không khí đấu tranh sôi nổi hào hùng của những người con Tây Nguyên kiên cường, bất
khuất.
Và chất Tây Nguyên ở trong tác phẩm này, ngoài thể hiện ở đặc điểm địa lý, tự nhiên,
phong tục tập quán còn được thể hiện đậm đặc ở hình thức diễn xướng của một thể loại văn
học dân gian được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên, đó là sử thi: Như đã biết, sử thi là một
trong những thể loại văn học dân gian độc đáo vào bậc nhất ở Việt Nam. Đời sống của thể
loại sử thi không bị đông cứng trên tra ng giấy, không bị đóng khung thành văn bản mà nó
bám lấy cuộc sống tự nhiên và tươi dòng của người để hình thành và phát triển. Trong Rừng
xà nu, không có tên của bất cứ tác phẩm sử thi nào được nhắc đến nhưng người đọc lại thấy
rất rõ không khí của sử thi dân gian trong đêm cụ Mết kể về cuộc đời Trui, Bên ánh lửa bập
bùng được đốt từ chính thân xà nu, cụ Mết đã kể nhân dân làng Xô Man, về cuộc đời Tu ú
như một bản anh hùng ca bi tráng. Với không khí của đêm kể chuyện đó, người đọc nhận thấy
phảng phất ở nhân vật Tnú là bóng dáng, là hình ảnh của những anh hùng trong sử thi Tây
Nguyên như Đam San, Xinh Nhã: Những người anh hùng huyền thoại của mảnh đất Tây
Nguyên đang hòa nhập vào những người đời thường giản dị để tiếp tục viết nên những trang
sử thi hoành tráng trong thời đại mới. Như vậy, cây xà nu, bếp lửa xà nu còn gắn chặt với nền
văn hóa, văn học đầy bản sắc và cũng đầy kiêu hãnh của Tây Nguyên.
c) Vai trò của cây xà nu vói việc làm nổi bật số phận và vẻ đẹp của nhân dân
Khái quát: Văn học là nhân học, bởi vậy dù là một đồ vật, con vật hay một loài cây thì
trong một tác phẩm văn học, nó chỉ có ý nghĩa và sức sống khi góp phần thể hiện đặc điểm,
tính cách cũng như vẻ đẹp của người. Trong Rừng xà nu, cây xà nu cũng chỉ trở thành một
hình tượng trung tâm nổi bật và quan trọng bởi nó gắn chặt với số phận đau thưong nhưng
đồng thời cũng là vẻ đẹp kiên cường, bất khuất và tràn đầy sức sống của người dân Tây
Nguyên.
* Cây xà nu, rừng xà nu vừa là chứng nhân, vừa là biểu tượng cho những đau
thương, mất mát mà các thế hệ nhân dân Tây Nguyên phải gánh chịu trong chiến tranh.
Cây xà nu là chứng nhân, nạn nhân đau thưong của chiến tranh. Mở đầu tác phẩm,
NTT đã mở ra một hoàn cảnh bất bình thường: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc” nghĩa
là cả làng Xô Man và những cánh rừng xà nu bao bọc lấy nó nằm ngay trong tầm sát' thưong,
hủy diệt của một thứ vũ khí tối tân và rất nguy hiểm. Điều đó cũng đồng nghĩa là ở cận kề với
việc bị thương và cái chết nhưng điều đáng nói và cũng đáng sợ hơn là ở chỗ với dân làng Xô
Man, với cây xà nu cảnh vốn là bất bình thường này đã trở nên quen thuộc, diễn ra hàng ngày
nơi đây: “Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buối sáng sớm và xế chiều, hoặc
đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Những câu mở đầu với nhịp đều đều,
bình thản đã cho thấy việc đối mặt với nguy hiểm, với đau thương trong một khoảng thời gian
quá dài đã khiến cho chiến tranh, bom đạn không còn là điều bất bình thường đối với cả Tây
Nguyên và người nơi đây nữa. Cũng chỉ với một câu mở đầu, tác phẩm đã rất giàu sức nặng tố
cáo bởi chiến tranh đã khiến cả người và Tây Nguyên phải gồng mình chống chịu và hình
thành những thói quen kỳ lạ: quen với nguy hiểm, chết chóc. Và cũng bởi bị đặt trong hoàn
cảnh bất bình thường như vậy nên tất yếu rừng xà nu phải hứng chịu rất nhiều đau thương của
chiến tranh: “Hầu hét đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn” từ đó dẫn
đến hậu quả “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Chỉ với một
câu ngắn gọn song NTT đã khái quát, đã dồn tụ được toàn bộ những mất mát, đau thương của
cây xà nu. Đó không còn là nỗi đau riêng rẽ, nỗi đau cá thế mà là nỗi đau cộng đồng, nỗi đau
tập thể. Đó cũng là một sự thật tàn khốc đến buốt nhói của chiến ữanh khi hầu như không có
một sinh thể nào có thể thoát khỏi sự tàn phá khốc liệt của nó. Sauk hi quay khái quát toàn
cảnh, để người đọc có thể nhìn thấy bức tranh rộng lớn của đau thương, chiến tranh, tác giả đã
di chuyển góc máy để đi vào cận cảnh, đi vào chi tiết, cụ thể của những đau thương, mất mát
này. Đó là sự sát thương khủng khiếp: “Có những cây bị chặt đứt ngang ngửa thân mình, đổ
ào ào như một trận bão”. Việc sử dụng động từ mạnh cùng âm thanh dữ dội để giúp tác giả
tạo ấn tượng sâu đậm về sức tàn phá, sát thương khủng khiếp của bom đạn đối với cây xà nu.
Nhưng không chỉ dừng lại ở chỗ bị ràn phá, sát thương, cây xà nu còn bị đấy đến bờ vục của
cự hủy Hiệt, phải đón nhận cái chết bất ngờ, đau đớn: “Có những cây con vừa lớn tầm ngang
ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong chất dầu còn
loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, 5-10 hôm thì cây chết”. Cái chết bao giờ
cũng tạo nên một nỗi ám ảnh xót xa nhưng hình ảnh mà NTT ghi lại còn xót xa hơn bởi đó là
cái chết đối với những cây non, những cây mà sự sống, tương lai vừa được mở ra đã bị hủy
diệt ngay tức khắc. Nhưng ám ảnh nhất về nỗi đau chiến tranh là việc miêu tả chi tiết và đầy
tính biểu tượng: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra.. .rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành
từng cục máu lớn”. Hình ảnh những cục máu đen đặc quện vừa biến cây xà nu trở thành
những sinh thể sống thực sự, có thân thế, có huyết mạch, có số phận, vừa cho thấy nỗi đau của
chiến tranh là quá lớn, vết thương của chiến tranh là quá sâu, không thế lành lại, không thể
giải tỏa, nó dồn tụ lại thành từng cục, đông đặc, nhức nhối.
—>Chỉ bằng một đoạn văn ngắn nhưng với sự chọn lọc chi tiết sắc sáo, đắt giá NTT
đã khiến người đọc phải rùng mình trước nỗi đau của chiến tranh mà rừng xà nu phải gánh
chịu. Trong chiến tranh, không chỉ người mà ngay cả Thiên nhiên cũng là đối tượng bị tàn
phá, hủy diệt phũ phàng. Đoạn văn đã dựng lên hình ảnh của cả một đồi xà nu rộng lớn phải
oằn mình gánh chịu những vết thương nhức nhối do chiến tranh gây ra, bức tranh của NTT có
sự đồng điệu với bức tranh đầy mầu máu của Nguyễn Đình Thi hay bức tranh của sự hoang
tàn, đố nát trong thơ Hoàng cầm:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiểu ”
(Đất nước)
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
(Bên kia Sông Đuống)
Rừng xà nu, cây xà nu còn là biếu tượng cho những đau thương mà người dân làng Xô
Man phải gánh chịu: ngoài việc là nạn nhân trực tiếp của born đạn chiến tranh, rừng xà
nu, cây xà nu trong tác phẩm còn là biểu tượng, còn mang ý nghĩa, khái quát cho
những đau thương, mất mát mà người dân làng Xô Man phải gánh chịu. Nỗi đau cộng
đồng, nỗi đau tập thể của cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị. thương
cũng giống như rất nhiều thế hệ người dân làng Xô Man đã bị thương, bị tra tấn, đánh
đập, thậm chí bị chết dưới bom đạn, dưới sự tàn ác của kẻ thù. Đó là những bà Nhan,
anh Xút vì nuôi giấu cán bộ cách mạng mà bị chặt đầu treo trên cây vả đầu làng, đó là
Mai và đứa con chưa tròn tháng tuổi đã chết một cách đau đớn dưới làn mưa roi sắt
của kẻ thù. Đó là đôi bàn tay của Tnú bị đốt bằng nhựa xà nu vĩnh viễn không lành lại
được. Đó là tuổi thơ của những đứa trẻ như Trrú, Mai, Dit, Heng đã bị chiến tranh
đánh cắp nên không thể hồn nhiên vô tư mà sớm phải học cách gồng mình chống chọi
với bom đạn và kẻ thù. Và nếu hình ảnh gây árn ảnh nhất trong nỗi đau của rừng xà nu
là những vết thương đen và đặc quánh lại thành từng cục máu lớn thì tương ứng với
thế giới người là đôi bàn tay bị đốt bằng chính nhựa xà nu của Tnú, để lửa không chỉ
cháy trên da thịt mà còn cháy trong tâm can, huyết quản của anh. Neu hình ảnh xót xa
nhất của thiên nhiên là việc những cây con chết dưới bom đạn kẻ thù thì tương ứng với
thế giới người, đọc tác phẩm khó ai có thể cầm lòng trước hình ảnh một sinh linh bé
nhỏ vừa chào đời là đứa con của Tnú đã phải chết đầy đau đớn.
Thiên nhiên đã đồng điệu, đã bao trùm nỗi đau của người nơi đây để vừa tạo ra sự
tương ứng, vừa làm phông nền trên đó nổi bật nỗi đau của người dân Tây Nguyên cũng như
tội ác của kẻ thù.
* Cây xà nu biểu tượng cho vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của người Tây Nguyên
Khái quát: ở cây xà nu, người đọc đã nhìn thấy rất nhiều đau thương mất mát đến
mức xót xa mà người Tây Nguyên phải gánh chịu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhưng
do đặc điểm của văn NTT thì nói đến đau thương, mất mát không phải là để gợi lên sự xót
thương mà bao giờ cũng để làm bật lên vẻ đẹp sức sống một lần nữa, cây xà nu lại hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ là thể hiện trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của người dân làng Xô Man
nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung.
Trước hết, dựa vào đặc điểm sinh lý, sinh học của loài cây họ thông là rất ham ánh
sáng: “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt ừời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy
ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tấp”. Tác giả đã
gián tiếp khẳng định tình yêu tự do, yêu Đảng, yêu cách mạng cũng như tinh thần yêu nước
của người dân Tây Nguyên. Bởi trong văn học giai đoạn cách mạng kháng chiến chống Mỹ,
hình ảnh mặt trời, ánh nắng mặt trời thường đi kèm với ý nghĩa là biểu tượng cho Đảng, cho
cách mạng. Hình ảnh này cũng cho thấy ở những buôn làng tưởng chừng như rất xa xôi,
tưởng chừng được phong kín bởi những đại ngàn hùng vĩ, người dân vẫn tràn đầy tinh thần và
nhiệt huyết đấu tranh cách mạng.
Dựa vào khả năng sinh trưởng và phát triển của cây xà nu trong thực tế, tác giả đã
trầm trồ thán phục: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà
nu mới ngã gục, đã có 4 - 5 cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
bầu trời”. Đằng sau những hình ảnh miêu tả rất chân thực, sống động này là cả một truyền
thống đấu tranh cách mạng bền bỉ, liên tục, anh hùng bất khuất của người dân Tây Nguyên.
Có một sự tương ứng kỳ lạ giữa những thế hệ người dân làng Xô Man với thế hệ của những
cây xà nu ở trong rừng. Những người dân tham gia đấu tranh bảo vệ cách mạng bị giặc sát hại
thảm khốc như những cây xà nu trưởng thành, vững chãi mà bom đạn kẻ thù không thể quật
ngã. Cũng như vậy, Dít, bé Heng cũng giống như cây xà nu con mọc cạnh những cây xà nu bị
quật ngã để dù còn nhỏ tuổi chúng đã mang trong mình quyết tâm, ý chí sục sôi chống lại kẻ
thù. Thông qua sự nối tiếp để tồn tại và phát triển của các thế hệ cây xà nu, tác giả đã gián tiếp
dệt nên một bản anh hùng ca hiển hách, rực rỡ để thấy được tinh thần đấu tranh cách mạng
sục sôi, nhiệt huyết, bền bỉ và liên tục của người dân Tây Nguyên.
Cũng thông qua chính những đặc điểm, tính cách của cây xà nu, tác giả còn làm bật
lên vẻ đẹp ở sức chịu đựng phi thường, ở khả năng chống chọi với hoàn cảnh khắc nghiệt, ở
bản lĩnh và lòng díing cám của nhung ngii’ời dược 1'iim đúc từ cái nóng bỏng của mảnh đất
Tây Nguyên. Tác giả đã miêu tả về sức chịu đựng của những cãy xà nu trước bom đạn kẻ thù
bằng tất cả sự cảm phục: “Nhưng cũng có nhiều cây vượt ỉên được cao hon đầu người, cành lá
sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng,
những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên
rất nhanh, thay thế những cây đã ngã...” sự trầm trồ, cảm phục mà tác giả dành cho cây xà nu
cũng chính là cái nhìn đầy ngưỡng mộ về sức sống của người Tây Nguyên. Mảnh đất nơi đây
có thể bị cày xới bởi hàng nghìn tấn bom đạn, người nơi đây cũng không tránh được những
mất mát đau thương, thậm chí là chết chóc ở chiến tranh, nhưng tất cả không làm cho họ nản
lòng, khí chất này của những người vốn phải chống chọi với thiên nhiên hoang dã cộng thêm
tình yêu Đảng, yêu cách mạng mãnh liệt đã mang đến cho họ sức mạnh thần thánh để giữa sự
hủy diệt tàn khốc họ vẫn vươn lên mạnh mẽ, vẫn đấu tranh quyết liệt. Đó cũng là hình ảnh củạ
cụ Met, Tnú, của Dít trong tác phẩm.
Từ những đặc điểm cụ thể, tính chất cụ thể, những thế hệ cụ thể. của cây xà nu, tác giả
đã khái quát ngắn gọn nhưng có sự cô đọng, dồn nén ý nghĩa rất lớn về vẻ đẹp, vai trò và vị trí
của người dân Tây Nguyên: “Cứ thế 2-3 năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra,
che chở cho làng...”. Câu văn ngắn gọn của NTT có thể hiểu theo cả hai lớp Ý nghĩa, trên bề
mặt câu văn gắn vói ý nghĩa thực trong việc khẳng định vai trò, vị trí là lá chắn, là áo giáp
vững chắc của rùng xà nu để bao bọc, bảo vệ cho các buôn làng Tây Nguyên. Nó cũng giống
như hình ảnh của núi rừng Việt Bắc:
“Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
Nhưng nếu coi cây xà nu là biểu tượng nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm cho vẻ đẹp và
sức mạnh của người Tây Nguyên thì câu văn lại đạt đến lớp ý nghĩa sâu hơn, đó là ca ngợi
tinh thần tự nguyện tiên phong của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Mặc dù ở một vùng hẻo lánh xa xôi còn đầy những khó khăn, thiếu thốn nhưng
những người dân nơi đây với ý chí, với quyết tâm đấu tranh sục sôi của mình đã khiến cho
phong trào chống Mỹ ở Tây Nguyên trở thành một trong những phong trào tiên phong khơi
dây tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh, trong cả nước.
Nằm trong dòng chảy văn học 1945 - 1975, khi cảm hứng ngợi ca tôn vinh trở thành
cảm húng chủ đạo, đôi khi còn biến thành giọng hô hào trong văn họe, MTT đã dùng hình ảnh
cây xà nu đê ca ngợi tât cả những phâm chât tôt đẹp đáng quý của người dân Tây Nguyên.
Đây là cách khai thác vừa độc đáo, vừa tránh được cảm giác hô hào, tuyên truyền, vừa đạt
được hiệu quả rất cao.
Với sự tương ứng đến kỳ lạ giữa cây xà nu, rừng xà nu với số phận vẻ đẹp của người
dân Tây Nguyên, tác giả đã dùng lăng kính ỉà cây xà nu để cho người đọc thấy rõ hình ảnh
của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ. Những
người đã phải gánh chịu quá nhiều đau đớn, mất mát nhưng vẫn vượt lên mạnh mẽ, quật khởi.
Sự tương ứng đến trùng họp giữa cây xà nu và người Tây Nguyên được tác giả thể hiện rất
khéo léo qua hai biện pháp nghệ thuật: nhằn hóa và so sánh. Cây xà nu luôn được nhìn trong
thế nhân hóa để mang đặc điểm, tính cách của người. Bởi thế chúng cũng có thân thể, cũng có
những “tấm ngực lớn”, có nhiều “vết thương” và thậm chí có cả “máu” như người. Đẻ khi bị
sát thương, những cục máu “đen và đặc quện” đầy ám ảnh. Ngược lại, người Tây Nguyên
luôn được nhìn ương thế liên tưởng, so sánh với cây xà nu, ngực của cụ Mết được liên tưởng
là “căng như một cây xà nu lớn”, còn khi Tnú bị giặc tra tấn dùng dao chém lên lưng thì
những dòng máu túa ra trên thân thể anh lại được tác giả liên tưởng ngay đến những dòng
nhựa xà nu. Hai biện pháp nghệ thuật này đã khiến cho hai hình tượng cây xà nu và người
Tây Nguyên hòa quyện với nhau trùng khớp, đồng điệu, khổng có bất cứ vách ngăn hay ranh
giới nào.
c) Vai trò của cây xà nu trong việc tạo nên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn trong tác phẩm
Khái quát: không chỉ can thiệp mạnh mẽ, sâu sắc đến nội dung tư tưởng của tác phẩm,
vai trò của cây xà nu còn được thể hiện rõ trong việc can thiệp đến hình thức nghệ thuật của
tác phẩm. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà tác phẩm rừng xà nu đã hòa nhập nhanh chóng
vào dòng chảy của văn học cách mạng với đặc trưng nổi bật nhất là khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn.
Cây xà nu góp phần tạo nên khuynh hướng sử thi cho tác phẩm
+ Những tác phẩm mang đậm khuyn hướng sử thi bao giờ cũng đề cập, khai thác
những đề tài to lớn có tầm phổ quát, ảnh hưởng đến số phận của cả cộng đồng, dân tộc. Trong
rừng xà nu, chỉ thông qua hình tượng cây xà nu, người đọc đã thấy được toàn bộ số phận cũng
như cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Bởi vậy, đề tài gắn liền với cây xà nu cũng là đề tài mang đậm khuynh hướng sử thi.
+ Kết thúc hình ảnh tạo nên khuynh hướng sử thi bao giờ cũng mang đặc điểm là kỳ
vĩ, mỹ lệ và hình ảnh “những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời” xuất hiện ở đầu và
cuối tác phẩm cũng như hình ảnh “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho
làng” thực sự tạo nên ấn tượng về sự kỳ vĩ, to lớn, trùng điệp.
+ Nhân vật trung tâm gắn với khuynh hướng sử thi bao giờ cũng được kết tinh từ vẻ
đẹp và sức mạnh cộng đồng. Nhìn vào hình tượng cây xà nu, người đọc thấy rõ đặc điểm này
vì cây xà nu đã thể hiện trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp cửa người dân Tây Nguyên là yêu
Đảng, yêu cách mạng, có truyền thống đấu tranh bền bỉ, kiên cường, có sức chịu đụng phi
thường, có tinh thần quả cảm, nghĩa hiệp.
+ Ngôn ngữ trong những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi thường giàu nhịp điệu
và nhạc điệu. Chỉ cần đọc đoạn văn mở đầu tác phẩm Rừng xà nu, với sự quan sát, miêu tả tỉ
mỉ, tinh tế về cây xà nu, người đọc dễ dàng nhận thấy sự thấm đẫm của chất thơ cùng nhịp
điệu vô cùng sôi nổi, hùng tráng.
Cây xà nu góp phần tạo nên cảm hứng lãng mạn: như đã biết, cảm hứng lãng mạn
trong văn học Việt Nam sau 1945 - 1975 được định danh là lãng mạn cách mạng. Đó là những
tình cảm, cảm xúc mãnh liệt được nảy sinh từ cái đẹp, từ niềm vui, niềm tin, sự phấn khởi.
Hình tượng cây xà nu cũng góp phần làm cho cảm hứng lãng mạn trở nên đậm nét trong tác
phấm.
+ Ngay từ sự quan sát, miêu tả NTT đã làm ánh lên một vẻ đẹp tự nhiên, khỏe khoắn
của cây xà nu. Đó là vẻ đẹp từ ấn tượng thị giác: “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có 4 - 5
cây con mọc lên” là vẻ đẹp gắn với ấn tượng khứu giác: “ở chỗ vết thương, nhựa ứa, tràn trề,
thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Và khi tác giả đặt cây xà nu trong phối
cảnh với nắng gió của Tây Nguyên đã tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ: “Nó phóng lên
rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng.. .thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây
bay ra, thơm mỡ màng”.
+ Vẻ đẹp lãng mạn còn gắn liền với sức sống dẻo dai, mãnh liêt của cây xà nu. Ở
nhũng đoạn văn đầu tác phẩm, tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật rất đặc trưng của chủ
nghĩa lãng mạn là tương phản đối lập, một bên là nền hiện thực khắc nghiệt, chết chóc, hủy
diệt, một bên là sức sống mãnh liệt, không thể quật ngã của cây xà nu. Với hình ảnh các thế
hệ nối tiếp nhau tạo nên những cánh rừng xà nu xanh bát ngát, sức sống của cây xà nu là vẻ
đẹp lãng mạn nhất trong tác phẩm.
+ Cảm hứng lãng mạn còn gắn liền với niềm T I N . Hình Ả N H N H Ữ N G Đ Ồ I xà nu
nối tiếp nhau bất tận tưởng như không có điếm dừng ấn chứa cái nhìn lạc quan, tươi sáng của
tác giả về tương lai của phong trào đấu tranh cách mạng ở Tây Nguyên. Những người nơi đây
sẽ nối tiếp nhau để viết nên một bản anh hùng ca không có hồi kết cho lịch sử đấu tranh của
mảnh đất Tây Nguyên.
2. Hình tượng tập thể anh hùng
* Chủ nghĩa yêu nước vốn là một dòng chảy mạnh mễ và liên tục nhất trong văn học
Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại, chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên rất nhiều
những hình tượng những người anh hùng đẹp đẽ trong văn học nhưng trong thời đại bão tạp
cách mạng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong văn học Việt Nam đã được nâng cao một
bước để trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, những
người anh hùng không tồn tại trong tác phấin ở thế độc tôn, riêng lẻ mà trong tác phẩm bao
giờ cũng có cả một tập thể những người anh hùng tạo nên một khí thế đấu tranh mạnh mẽ, sôi
nổi chưa từng có. Với rừng xà nu, NTT cũng đã xây dựng nên một tập thể những người anh
hùng tương ứng với các thế hệ người dân của làng Xô Man.
2.1. Cu Mết
Khái quát: tuy không phải là nhân vật trang tâm trong tác phẩm nhưng cụ Mết có vai
trò quan trọng với toàn thể người dân làng Xô Man, cũng như với kết cấu của tác phẩm rừng
xà nu, hình tượng nhân vật này vừa có ý nghĩa tương đồng, vừa soi chiếu để
làm nổi bật hình tượng trung tâm trong tác phẩm là Tnú.
a) Vai trò
Với người dân làng Xô Man, cụ Mốt là già làng. Điều đó nghĩa là ông cụ không chỉ là
người cao tuổi nhất mà còn là người có uy tín và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với dân
làng. Cụ Mết vừa là tiêu biểu, vừa là kết tinh cho ý chí, nguyện vọng của cộng đồng, cũng
như cho trí tuệ của cộng đồng.
Vói tác phẩm, cụ Mết là người kể chuyện thứ hai bên cạnh người kể chuyện biết tuốt,
câu chuyện mà cụ Mêt kể về cuộc đời Tnú đã tạo nên kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện vô
cùng độc đáo. Hơn nữa, lời kể, giọng kể cùng không khí buổi kể chuyện mà cụ Mết tạo ra để
kể về cuộc đời Tnú đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn, đồng thời thực sự khiến Tnú
mang dáng dấp người anh hùng trong sử thi, bước ra từ sử thi đế hòa nhập vào thời dại mới.
b) Lai lịch
Trong làng Xô Man, cụ Met thuộc lớp người đi trước, thuộc thế hệ của những người
anh hùng thời đại “Đất nước đứng lên” (kháng chiến chống Pháp) còn sót lại và đồng hành
với hiện tại. Với lai lịch này, cụ Mết vừa là thế hệ cha ông, là lớp người đi trước, biểu tượng
cho truyền thống, vừa là người giữ lửa, là người bắc cây cầu nối từ quá khứ đến hiện tại và
tương lai để tinh thần đấu tranh cách mạng trở thành một dòng chảy liên tục, mạnh mẽ trong
lịch sử dân làng Xô Man.
c) Diện mạo - ngoại hình
Ngay từ diện mạo - ngoại hình cụ Mét đã gây ấn tượng mạnh về sự dẻo dai, cường
tráng khác hẳn với độ tuổi của ông lão. Sau ba năm đi liên lạc trở về, Tnú nhận thấy ông cụ
“vẫn quắc thước như xưa”. Hầu như ở ông cụ không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự tàn phá bởi
thời gian: đôi bàn tay ông vẫn chắc nịch “như một kìm sắt”, “râu bây giờ đã dài tới ngực và
vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng”. Và chi tiết gây
ấn tượng mạnh nhất chính là: “ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn” và “tiếng nói
vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”.
Sự dẻo dai, khỏe khoắn, cường tráng ở ngoại hình của cụ Mết vừa cho thấy đặc điểm
tiêu biểu của người dân Tây Nguyên, những người luôn mang trong mình cái mạnh mẽ, cái
hoang dã được hun đúc tù' nắng gió, nhưng quan trọng hơn diện mạo, ngoại hình này đã thể
hiện được phần nào vai trò là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc của cụ Mết với người dân làng Xô
Man. Cũng giống như một cây xà nu lớn, cụ chính là linh hồn của cả buôn làng.
d) Phẩm chất:
Ở nhân vật cụ Met kết tinh rất nhiều phẩm chất quan trọng và đẹp đẽ của người dân
Tây Nguyên.
Cụ Mết là một người rất giàu tình yêu Đảng, yêu cách mạng, một lòng trung thành
với Đảng, với cách mạng. Chính vì tình yêu mãnh liệt này mà cụ đến với Đảng, với cách
mạng từ rất sớm, tham gia nhiệt tình vào phong trào đấu tranh từ thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, vết sẹo má phải là một chứng tích về tinh thần đấu tranh kiên cường của cụ. Chính cụ là
người đã khẳng định chắc nịch: “Đảng còn thì núi nước này còn”, với câu nói này cụ đã thể
hiện tình yêu Đảng, yêu cách mạng cho toàn thể người dân làng Xô Man. Có thể nhận thấy,
cụ không dùng lời tuyên truyền, hô hào, lên gân mà dùng lối biểu đạt cùng cách tư duy rất đặc
trưng của người dân tộc thiểu số đó là gắn những khái niệm trừu tượng với những cái cụ thể,
gần gũi. Tình yêu Đảng, yêu cách mạng đã được cụ khơi lên từ tình yêu với buôn làng, với đại
ngàn, với núi nước non sông, vừa gần gũi dễ hiểu, vừa hết sức thiết thực. Cũng bởi tình yêu
này mà cụ và dân làng Xô Man đã có những nghĩa cử vô cùng thiêng liêng cao đẹp dành cho
cách mạng, đó là chấp nhận ăn độn dù có đủ thóc lúa đế dành cơm cho cách mạng, để có thể
kháng chiến trường kỳ. Sự hy sinh cao cả của những người rất đỗi giản dị trong tác phẩm mà
điển hình là cụ Mết khiến tất cả mọi người đều phải cảm phục.
Là người đã đi gần trọn cuộc đời, đã lãnh đạo người dân làng Xô Man trong thời gian
rất dài đồng thời là người chịu trách nhiệm chính ở những sự kiện trọng đại, cụ Mết còn là
người rất giàu kinh nghiệm, bản lĩnh và quyết đoán. Chỉnh cụ là người đã nhận thức dược:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo, cầm mác” nghĩa là kêu gọi dân Xô Man đấu
tranh vũ trang. Cũng chính cụ là người đã sáng suốt trong đêm Tnú bị giặc tra tấn cụ quyết
định không xông ra đơn độc, nôn nóng như Tnú mà quay vào rừng gọi thanh niên, trai tráng
cầm vũ khí chiến đấu. Chính vì vậy mà chỉ trong một đêm, làng Xô Man đã hạ được 10 tên
giặc, để lửa xà nu soi sáng xác 10 tên giặc ngổn ngang, đồng thời cứu được người anh hùng
Tnú. Kinh nghiệm, sự từng trải cùng những quyết định sáng suốt, đúng đắn của cụ Met có vai
trò quan trọng đối với sự sống còn và là lịch sử phát triển của làng Xô Man,
Với thế hệ trước cụ Met không bao giờ là vật cản mà luôn là người giữ lửa, truyền
lửa, là người động viên, khích lệ để màu sắc ý chí chiến đấu cho thế hệ tương lai. Trong tác
phẩm, dễ dàng nhận thấy rất nhiều đứa trẻ của làng Xô Man từ khi biết nhận thức đã có lòng
căm thù giặc, đã có ý thức tham gia cách mạng như Tnú, Mai, Dít, Heng. Để làm được điều
đó, rõ ràng vai trò của người lãnh đạo, của người giáo dục như cụ Mết là rất lớn, trong đêm kể
chuyện về cuộc đời Tnú, đối tượng trọng tâm nhất mà cụ Mết hướng đến cũng là lũ trẻ đang
chập chững bước vào đời. Bằng những câu chuyện cụ thế và sinh động như vậy cụ đã truyền
ngọn lửa đấu tranh từ thế hệ mình đến thế hệ trẻ để phong trào đấu tranh của làng Xô Man
càng thêm sục sôi và hào hùng. Tuy không sử dụng những lời khen to tát như tốt, giỏi đen
nhận xét, để khen ngợi thế hệ trẻ nhung chỉ với chữ “được” giản dị, khiêm nhường của ông cụ
đã hàm chứa một ý nghĩa rất lớn bởi đó là sự động viên khích lệ đồng thòi cũng là niềm tin và
thế hệ trước trao gửi.
Trong thời đại bão táp cách mạng, tất yếu vai trò quan trọng nhất của một tác phẩm
văn học là cổ vũ chiến đấu và chuyên chở những nội dung, những tư tưởng, những quyết sách
của cách mạng, người đọc đã từng biết đến những câu thơ mang dáng dấp như lời hiệu triệu
của Tô Hữu:
“Nắng trưa, rực rỡ sao vàng
………………………………………
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu”
Và ở trong rừng xà nu, NTT cũng khéo léo gửi gắm những nhận thức quan trọng của
cách mạng, những vấn đề chân lý của thời đại qua những câu nói ngắn gọn nhưng sáng rõ và
chắc nịch của cụ Mết. Trước hết là nhận thức về Đảng: “Đảng còn thì núi nước này còn”, câu
nói này của cụ khiến tất thảy dân làng Xổ Man và cả người đọc đều thấm thìa về một chân lý:
không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có chiến thắng, không thể có độc lập, tự do.
Nhưng chân lý quan trọng nhất, cốt lõi nhất mà NTT để cho cụ Met pliât ngôn đó là: “Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Trong đêm kế chuyện về cuộc đời Tnú, cụ Met nhắc đi
nhắc lại rất nhiều lần về một sự thật đau xót là Tnú không thể cửu được vợ con mình. Giọng
kế trầm lắng của ông cụ đã không né tránh mà nhìn thẳng vào một sự thật là dù là một anh
hùng nhưng nếu chỉ có hai bàn tay không, nếu chỉ đấu tranh đơn độc tự phát thì sẽ thất bại. Và
từ bi kịch cụ thể của gia đình Trui cụ đã khắc cốt ghi tâm cho thế hệ trẻ phải nhớ lấy, ghi lấy:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” Câu nói của cụ chính là chân lý của thời đại
cách mạng, yêu cầu phải chuyển từ đấu tranh tự phát sang đâu tranh tự giác, từ đấu tranh thô
sơ sang đấu tranh vũ trang, cũng chính nhờ chân lý này mà nhân dân mới giành được chiến
thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Với sự từng trải, bản lĩnh, giàu kinh nghiệm với tình yêu Đảng, yêu cách mạng, cụ
Met đã trở thành trụ cột quan trọng nhất về cả sức mạnh vật chất lẫn sức mạnh tinh thần cho
tất cả dân làng Xổ Man. Với NTT, cụ Met còn là người thư ký trung thành của thời đại, thay
tác giả phát ngôn những chân lý quan trọng nhất của thời đại mình.
2.2. Tnú
Khái quát: Tnú là nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong toàn bộ tác phẩm. Tnú là
người anh hùng kết tinh tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của người dân Tây Nguyên. Cuộc đời của
anh cũng mang ý nghĩa khái quát tiêu biểu cho số phận, tính cách và phẩm chất của người Tây
Nguyên.
Vì gắn chặt với những nội dung quan trọng nhất trong nội dung tư tưởng của tác phẩm
nên cuộc đời và số phận của Tnú được nhà văn khai thác một cách sâu sắc, kỹ càng. Chỉ trong
dung lượng của một truyện ngắn, chỉ trong khuôn khổ, chỉ trong khuôn khố câu chuyện của
nhân vật Tnú.
a) Khi Tnú còn nhỏ
Hoàn cảnh xuất thân: Tnú có một hoàn cảnh xuất thân vô cùng đáng thương, sớm mồ
côi cha mẹ khi còn rất nhỏ, và đứa trẻ tội nghiệp ấy lớn lên được chính là nhờ sự bao bọc,
nuôi dưỡng của dân làng Xô Man. Bởi vậy, sau này việc Tnú đấu tranh kiên cường, bất khuất
để bảo vệ buôn làng vừa là phẩm chất của một người anh hùng nhưng lớn hon là để thể hiện
sự yêu thương, sự ưi ân sâu sắc đối với buôn làng. Cũng ngay từ bản thân của Tnú, người đọc
đã thấy rõ đặc trưng của người anh hùng trong văn học 1945 - 1975. Đó là những người anh
hùng được sản sinh, nuôi dưỡng từ cộng đồng, từ nhân dân.
Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã sớm bộc lộ những tư chất vô cùng đáng quý
+ Tnú sớm mang trong mình lòng yêu nước, lòng căm thù giặc sục sôi để ngay khi
còn là một đứa trẻ, Tnú đã hăng hái tham gia phục vụ cho cách mạng. Bằng sự nhanh nhẹn,
gan dạ, dũng cảm của mình, Tnú và Mai thường xuyên luồn rừng và thường nuôi cán bộ. Tnú
đồng thời cũng là người liên lạc, người dẫn đường, người truyền tin cho cán bộ cách mạng,
mặc dù đã có những bài học rất ám ảnh về sự tra tấn của kẻ thù với những người tham gia
phục vụ cách mạng, là cái chết đau xót của bà Nhan, anh Xút nhưng không hề sợ hãi.
+ Phẩm chất nổi bật trong Tnú là sự gan dạ, dũng cảm, Tnú hay quên chữ nhưng đi
đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng. Đi rừng Tnú không bao giờ đi đường mòn mà cứ xé rừng
mà đi, nhờ vậy mà lọt tất cả các vòng vây của địch. Đi qua sông, Tnú cũng không thích lội
chỗ nước êm mà cứ lựa chỗ tháo mạnh để bơi ngang, vượt lên trên mặt nước như một con cá
kình. Tất cả những hành động và lựa chọn đó của Tnú đã thể hiện rõ sự táo bạo, chủ động đến
mức gan lỳ của Tnú. Sự dũng cảm của Tnú thể hiện rõ nhất khi bị giặc bắt trên đường đi liên
lạc, ngay sau đó Tnú đã nhanh chóng nuốt thư vào bụng. Khi bị giặc tra tấn, đánh đập dã man,
Tnú đã khảng khái chỉ vào bụng mình mà nói: “Ở đây này”. Như vậy, cuộc sống hoang dã
giữa đại ngàn hùng vĩ đã sớm hun đúc cho Tnú sức mạnh và bản lĩnh để đòn roi, thậm chí
súng đạn của kẻ thù cũng không làm cho Tnú run sợ. Tnú đã bất chấp tính mạng của mình để
bảo vệ cho cán bộ cách mạng.
+ Tnú là một đứa trẻ nóng nảy, bộc trực nhưng cũng rất cầu thị, cầu tiến, làm cách
mạng n ế u không biết chữ Tnú đã đề nghị Mai dạy lại và kiên nhẫn học lại từng chữ cái.
+ Bên ngoài Tnú là một đứa trẻ gan lỳ, ít nói, ít bộc lộ cảm xúc nhưng thực chất Tnú
vẫn rất nhạy cảm và giàu tình thương. Trong đêm được anh Quyết ô m vào lòng thủ thỉ tâm
sự, được anh trao gửi: “Tnú phải làm cán bộ thay anh” và nhắc nhở “không học chữ sao làm
được cán bộ giỏi”, Tnú đã giả vờ ngủ nhưng không nén nối những dòng nước mắt giàn dụa.
Đó vừa là nhũng dòng nước mắt của sự xấu hổ vì đã không kiên trì học chữ, vừa là sự xúc
động mãnh liệt khi nhận được niềm tin của Đảng, của cách mạng, vừa là tình yêu thương dành
cho anh Quyết.
Tất cả những phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng này của Tnú đã tạo nên một
tiền đề quan trọng, vững chắc để sau này Tnú trở thành người anh hùng của mảnh đất
Tây Nguyên, thể hiện trọn vẹn những sứ mệnh mà Đảng và cách mạng đã giao cho.
b) Sau 3 Băm: v ư ợ t ngục trở về
Khái quát: Sau khi bị giặc bắt vì làm liên lạc cho cán bộ cách mạng, Tnú đã bị tra tấn
đánh đập dã man, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém, Tĩìú đã bị giặc bắt vào tù nhưng
sau ba năm bằng ý chí sục sôi, bằng sự táo bạo, quả quyết của mình, Tnú đã vượt ngục thành
công và quay trở về làng. Khoảng thời gian ba năm được tôi luyện qua thử thách, qua đòi roi,
qua sự tra tấn của kẻ thù đã làm cho Tnú thực sự trưởng thành, cũng giống như nhũng cây xà
nu, anh đã vượt iên rất nhanh để sau khi trở về làng, Tnú đã thực sự trở thành một trụ cột
vững chắc của người dân làng Xô Man.
Sự kiện đầu tiên đáng lưu ý trong giai đoạn này của Tnú là việc anh lập gia đình vói
Mai, cuộc hôn nhân của họ chính là kết quả của sự phát triển từ tình bạn, tình đồng chí, trở
thành tình yêu thủy chung, thắm thiết, tình cảm giữ Tnú và Mai cũng thế hiện rõ nét đặc trưng
của tình yêu đươc phản ánh trong giai đoạn 1945 - 1975, tình yêu được xuất phát rất sâu từ
việc chung kẻ thù, chung lý tưởng, chung mục đích và kết quả của tình yêu giữa Tnú và Mai
là đứa con trai đầu lòng giống Tnú như đúc. Việc để cha đứa bé vừa đã chào đời đã mang
những đặc điểm của người cha đã khéo léo cho thấy niềm tin của tác giả về thế hệ tương lai sẽ
tiếp nối và phát huy nhũng phấm chất, bản lĩnh của thế hệ trước như là trụ cột sức mạnh cho
làng Xô Man, Anh chính ỉà người lên núi Ngọc Linh, gùi đá về cho dân làng làm vũ khí.
Hành động này không chỉ mang ý nghĩa cụ thể mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, là mài sắc ý
chí đấu tranh, tinh thần đấu tranh cho người dân làng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
Tnú phải chứng kiến việc vợ và con bị tra tấn dã man: để bắt được Tnú, bắt được “con
cọp lớn” của làng Xô Man, bọn Mỹ - Ngụy đã dùng đến những thủ đoạn bẩn thỉu nhất, đê hèn
nhất và dã man nhất. Chúng đã lôi Mai và đứa con chưa tròn tháng tuổi của Tnú tra tấn, đánh
đập dã man. Cảnh tượng Mai và đứa con bị tra tấn là cảnh tượng gây ám ảnh nhất trong tác
phẩm, một người phụ nữ vừa mới sinh và một sinh linh bé nhỏ vừa mới chào đời đã phải quằn
quại trước vũ lực tàn bạo, độc ác của bọn Mỹ - Ngụy. Ở đây, sức nặng tố cáo của tác phẩm trở
nên đanh thép và dõng dạc hon bao giờ hết. Phải tận mắt chứng kiến cảnh tượng này, người
chồng - người cha là Tnú đã phải nếm trải nỗi đau đến tận cùng. Từ chỗ nấp sau cây vả, nỗi
đau đến mức run rẩy, nghẹt thở trong Tnú đã khiến tay anh vô thức vò nát hàng chục trái vả.
Để rồi sau đó không thể kìm nén được, Tnú đã lao ra để bảo vệ vợ con dù chắc sẽ rơi vào cái
bẫy của kẻ thù.
Tnú không thể cứu được vợ con.
Tnú đã lao ra cứu vợ con bằng lòng căm thù và nỗi đau đến tận cùng. Điều đó được
nhà văn NTT diễn tả rất đắt qua đôi mắt, qua ánh nhìn của Tnú: “ở chỗ hai con mắt anh bây
giờ là hai cục lửa lớn”. Đó chính là hai cục lửa dồn tụ từ sự hờn căm, từ nỗi đau đón, một cơn
cuồng phong và dang cánh tay bảo vệ mẹ con Mai.
+ Dù mang trong mình sức mạnh như vũ bão, dù đôi bàn tay Tnú có “rộng lớn như
hai cánh lim chắc” thì Tnú cũng không thể bảo vệ được vợ con mình. Đứa con trai nhỏ bé đã
không thể vượt qua sự tra tấn'dã man nên đã chết ngay khi Mai không kịp che chở cho nó, còn
Mai tối hôm đó cũng đã chết, Tnú đã phải đau đóm chứng kiến tận mắt và chấp nhận cái chết
của hai người thân yêu nhất, dù có là một người anh hùng nhưng Tnú chỉ có hai bàn tay
không, sự bùng nổ đơn độc của anh không thể chống trả nổi với bọn lính đông đảo được trang
bị vũ khí tối tân. Trong lời kể của ông cụ Met về sự kiện này, ông cụ đã nhắc đi nhắc lại rất
nhiều lần để buộc Tnú và toàn thể dân làng Xô Man phải khắc cốt ghi tâm về một bi kịch đau
xót, thêm vào đó là bài học: không thể thành công nếu chỉ đấu tranh đơn độc, tự phát và
không trang bị vữ trang. Bài học mà Tnú phải trả bằng tính mạng của chính vợ con mình là
một bài học vô cùng thấm thìa và đắt giá.
Tnú bị giặc tra tấn: không thể cứu được vợ con, bản thân Tnú còn bị giặc bắt và tra
tấn. Nhưng chính hoàn cảnh đầy kịch tính này đã tạo nên độ căng để thể hiện rõ nhất những
phẩm chất vô cùng tốt đẹp ở người anh hùng Tnú.
+ Bị giặc bắt là đã cận kề với cái chết nhưng Tnú không mảy may nghĩ đến an nguy
của bản thân, bị giặc trói ném vào góc nhà, nằm trong bóng tối dày đặc, điều duy nhất khiến
Tnú day dút trăn trở là: “Ai sẽ làm cán bộ”, “Đến khi có lệch Đảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ
lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc”, điều đó có nghĩa là ngay khi cận kề với cái chết, Tnú
vẫn một lòng hướng về Đảng, về cách mạng, vẫn băn khoăn trăn trở cho tương lai phát triển
của phong trào đấu tranh. Những suy nghĩ thầm kín ấy đã làm ánh lên vẻ đẹp của tinh thần
trách nhiệm, của tình yêu Đảng, yêu cách mạng của Tnú. Nói đến tình yêu nước trong văn học
1945 - 1975 không có gì là lạ nhưng tình yêu nước của Tnú đã được lựa chọn, đánh đổi bằng
chính mạng sống của mình, bởi vậy không hề đế cho nhân vật hô hào nhưng tinh thần yêu
nước vẫn được nhà văn truyền tải đầy thuyết phục.
Không chỉ mang vẻ đẹp của tinh thần trách nhiệm, của lòng yêu nước, trường đoạn
Tnú bị tra tấn còn làm nổi bật ở anh vẻ đẹp của sức chịu đựng phi thường, của bản lĩnh và của
sự dũng cảm đến kiên cường, bọn giặc không đế cho anh được chết ngay mà buộc anh phải
trải qua nỗi đau cào xé khi từng phần trên cơ thế bị hủy hoại. Chúng đã dùng giẻ tẩm nhựa xà
nu quấn lên 10 đầu ngón tay Tnú rồi châm ỉửa đốt. Nhựa xà nu vốn bắt lửa rất nhanh nên
chẳng bao lâu 10 đầu ngón tay Tnú đã biến thành 10 ngọn đuốc, khi miêu tả sự kiện này, NTT
đã sử dụng đến thủ pháp quay chậm của điện ảnh khi đếm: “một ngón tay Tnú bốc cháy, 2
ngón, 3 ngón”, cách đếm chậm với nhũng câu văn ngắn, nặng nề đã đè nặng lên tâm trí người
đọc một nỗi ám ảnh khủng khiếp về nỗi đau đớn mà Tnú phải trải qua.
+ Nằm trong dòng chảy của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
nhung NTT không hề dễ dãi khi miêu tả nỗi đau của Tnú, nhà văn cũng đem đến cho
người đọc những hình dung xác thực nhất, chân thực nhất về nỗi đau đớn đến quằn
quại của Tnú khi khẳng định: lửa không chỉ cháy trên 10 đầu ngón tay Tnú mà còn
thiêu đốt trong lồng ngực, trong bụng anh, thứ lửa ở bên ngoài đang cháy trên da thịt
đã lan vào tận tâm can. Bởi vậy, Tnú đã cảm thấy “máu mặn chát ở đầu lưỡi. Rằng anh
đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng ngay ở thời điếm nỗi đau tưởng như đã vượt qua giới
hạn chịu đựng của người, Tnú đã thể hiện sức chịu đựng phi thường của mình. Nhớ
đến lời dạy của anh Quyết “người cộng sản không thèm kêu van” - Tnú đã không kêu
lấy một lời, tình yêu Đảng, yêu cách mạng đã cho anh một sức mạnh phi thường đế
dồn nén tất cả nỗi đau vào bên trong và vượt qua.
Quá trình vật lộn với nỗi đau khủng khiếp từ da tlộí, tủ tâm can Tnú đã chứng minh cho

phẩm chất không thể thiếu của một người anh hùng: sức chịu đụng phi thường và lòng dũng cảm. Những người
anh hùng trong văn học 1945- 1975 cũng được các tác giả gắn với phẩm chất này, song ở đây
nhờ thể hiện lòng dũng cảm của Tnú qua việc chống chọi với việc thân thể mình bị
hủy hoại tác giả đã thực sự gây được sự xúc động mãnh liệt cũng như sự cảm phục,
thán phục với người anh hùng Tnú.
+ Có thể nhận thấy trong thời khắc Tnú bị giặc tra tấn, tác giả đã cố tình tô đậm nỗi
đau đớn mà anh phải gánh chịu. Song ở những người anh hùng như Thú nỗi đau không bao
giờ để gợi lên sự đáng thương, yếu ớt, gục ngã mà bao giờ cũng là chất xúc tác cực mạnh đế
làm bật lên ý chí và sức mạnh. Ngọn lửa của nhựa xà nu mà giặc đốt trên 10 đầu ngón tay Tnú
đã lan vào đến tâm can của anh, nhưng nó đã không còn là ngọn lửa hủy diệt của sự khác
thường mà là ngọn lửa đấu tranh mãnh liệt cho sự sống. Điều đó thể hiện rất rõ qua tiếng thét
dữ dội của Tnú “giết”, NTT đã đưa ra những lời bình luận trực tiếp để cho thấy ý nghĩa tiếng
hét của Tnú: '“Tnú thét lên một tiếng. Chi một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang
dội thành những tiếng thét dữ dội hơn”. Vượt qua ý nghĩa là tiếng thét gắn với nỗi đau cụ thể
của một người cụ thể, tiếng thét của Tnú là sự cộng hưởng, là sự đồng vọng từ tiếng thét của
đại ngàn, của hàng vạn cãy xà nu, của nỗi đau mà dân làng Xô Man đã trải qua» lớn hơn đó
cũng chính là tiếng thét của lịch sử, của đất nước, của thời đại để tố cáo tội ác của kẻ thù và
để trở thành mệnh lệnh tiến công. Bởi vậy, ngay san tiếng thét của Tnú, dưới sự lãnh đạo của
cụ Mét, dân làng Xô Man đã đồng khởi nổi dậy với một khí thế sục sôi để tiêu diệt tất cả 10
tên giặc, để ngay trong đêm đó, ánh sáng chói lòã từ lửa xà nu đã soi sáng xác 10 tên giặc
ngổn ngang. Như vậy, ngay ở hoàn cảnh khó khăn nhất, Tnú vẫn khod dậy, thổi bùng lên ý
chí và sức mạnh đấu tranh cho cả buôn làng. Đó thực sự là phẩm chất của một người thủ lĩnh
Với dấu mốc quan trọng nhất trong cuộc đời Tnú là thời khắc phải đón nhận nỗi đau
đến tận cùng từ cái chết của người thân và nỗi đau trên chính da thịt mình, nhà văn NTT đã
quan sát và miêu tả tỉ mỉ, chi tiết từ mọi góc cạnh để làm bật lên tầm vóc, ý chí, nghị lực,
quyết tâm và sức mạnh phi thường ở người anh hùng Tnú. Với trường đoạn này, Tnú đã trở
thành một trong những hình tượng người anh hùng đẹp nhất trong văn học Việt Nam 1945 -
1975.
d) Tnú sau đêm đồng khỏi
Sau đêm dân làng Xô Man đồng khởi nổi dậy, sau tiếng thét dữ dội của Tnú, Tnú đã
được cứu sống, 10 ngọn lửa trên 10 đầu ngón tay anh đã được dập tắt, Tnú tiếp tục sống và
chiến đấu. Bằng cuộc đời anh hùng của mình, anh tham gia đi liên lạc, hoạt động sôi nối cho
phong trào cách mạng. Bằng chính đôi bàn tay mà mỗi ngón đã cụt một đốt, Tnú đã lập nên
chiến công hiển hách là giết chết tên giặc chỉ huy trong hầm ngầm cố thủ.
Có thể nhận thấy trong quá trình khắc học nhân vật Tnú tác giả đã đặc biệt chú trọng
vào đôi bàn tay để đôi bàn tay của Tnú thực sự trở thành một hình tượng đẹp. Đó là đôi bàn
tay gan dạ dũng cảm, dám chỉ vào bụng mình và thách thức: “ở đây này”. Đó là đôi bàn tay
tín nghĩa, đôi bàn tay yêu thưng khi Tnú nắm lấy tay Mai để xây dựng một gia đình hạnh
phúc. Đó là đôi bàn tay chắc chắn, đôi bàn tay che chở, bảo vệ, che chắn cho mẹ con Mai. Đó
cũng là đôi bàn tay hiện hình như minh chứng rõ ràng nhất về tội ác của kẻ thù, là đôi bàn tay
của nỗi đau tận cùng khi giặc đốt 10 đầu ngón tay bằng nhựa xà nu. Đôi bàn tay của Tnú
không thể vượt qua quy luật của tự nhiên, vĩnh viễn không thể mọc lại lành lặn nhưng bằng
lòng yêu nước, bằng lòng dũng cảm, bằng ý chí nghị lực, Tnú đã biến đôi bàn tay không còn
lành lặn của mình thành đôi bàn tay báo thù, thành đôi bàn tay của sức mạnh, thành đôi bàn
tay của những chiến công. Việc NTT để Tnú giết chết tên chỉ huy bằng chính đôi bàn tay mỗi
ngón cụt một đốt chứ không phải bằng vũ khí, bằng súng đạn là rất có dụng ý, nó cho thấy kẻ
thù chỉ có thể hủy hoại thân xác, chỉ có thể chà đạp lên thân thể người dân Việt Nam chứ
chúng không thể hủy diệt được lòng yêu nước, lòng căm thù giặc sục sôi trong mỗi người Việt
Nam bình dị. Ở mỗi người Việt Nam luôn là một sức mạnh quật khởi để lập nên những chiến
công hiển hách. Ngoài ra, việc làm này của tác giả còn mang ý nghĩa cổ vũ, động viên rất lớn
cho phong trào đấu tranh cách mạng trên cả nước. Bởi chỉ bằng đôi bàn tay không còn lành
lặn, Tnú vẫn có thể lập nên chiến công thì có nghĩa là bất cứ người dân Việt Nam nào cũng có
thể tham gia đánh giặc.
Bằng bút pháp vừa khái quát hóa, vừa điển hình hóa, NTT đã dựng nên trong tác
phấm của mình hình ảnh đẹp đẽ sống động của người anh hùng Tnú. Anh vừa là một đại diện
tiêu biểu, vừa là kết tinh từ tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của mảnh đất Tây Nguyên, người Tây
Nguyên. Ở anh vừa có vẻ đẹp chung của tất cả nhũng người chiến sĩ cách mạng trong thời đại
chống Mỹ là kiên cường dũng cảm, là yêu nước mãnh liệt, là căm thù giặc sục sôi, là có ý chí
đấu tranh quật khởi, vừa mang nét riêng mà chỉ những người
anh hùng trên dái Tây Nguyên mới có, là cái mạnh mẽ pha lẫn chút hoang dã. Tnú
cũng giống như nhũng người anh hùng trong những pho sử thi hoành tráng của Tây
Nguyên đã gắn cuộc đời với quốc gia, dân tộc, nhưng anh là người anh hùng của thời
đại mới, đang cùng cả dân tộc tạo nên khí thế sục sôi trong những năm tháng chống
Mỹ, Tnú vừa là đối tượng ngợi ca, tôn vinh của nhà văn NTT, vừa là nơi tác giả gửi
gắm những bài học sâu sắc về tình yêu quê liưong đất nước và căm thù giặc.
2.3. Dít và Heng
Khái quát trong tác phẩm Dít và Heng chỉ là những nhân vật phụ nhưng thông
qua những nhân vật này người đọc lại thấy được hình ảnh thế hệ tương lai của làng Xô
Man cũng như chiều hướng phát triển của mảnh đất Tây Nguyên. Cùng với thế hệ cha
ông là cụ Met và Tnú, hai nhân vật này đã góp phần hoàn thiện hình ảnh của một tập
thế anh hùng trên mảnh đất Tây Nguyên.
a) Dít
Khi còn nhỏ cũng như Tnú và Mai, Dít có hoàn cảnh xuất thân vô cùng đáng
thương. Nó là một đứa trẻ mồ côi, sống được là nhờ sự bao bọc của dân làng. Nhưng
dù hoàn cảnh xuất thân có khốn khổ, tội nghiệp, Dít vẫn lớn lên mạnh mẽ, mang
những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Nguyên: “Bụng nó sạch như nước suối
trong rừng”, nó cũng sớm đến với Đảng và cách mạng như Tnú và Mai, bằng sự nhanh
nhẹn, gan dạ và dũng cảm, Dít là người duy nhất đã thoát được khỏi vòng vây của
giặc, luồn rừng đi tiếp tế cho cụ Mét, Tnú và thanh niên trai tráng trong làng trong thời
điếm bọn giặc kéo đến làng Xô Man càn quét. Chi tiết gây ấn tượng nhất ở Dít là chi
tiết nó bị giặc bắt, bị trói giữa làng và bị bọn giặc tra tấn tinh thần bằng việc bắn đạn
liên tục rượt qua người nó, cũng như bao nhiêu đứa trẻ ngây thơ khác, trước cảnh
tượng đạn sượt qua tai, xém tóc, khiến đất cày quanh hai chân nhỏ của Dít, váy nó
rách tuột từng mảng, Dít cũng hoảng sợ đến mức khóc thét lên nhưng đến viên đạn thứ
10, nó chùi nước mắt, từ đó đứng irn bặt, nó nhìn bọn giăc bằng đôi mắt bình thản lạ
lùng. Chi tiết đó trước hết cho thấy sự thích ứng rất nhanh, của Dít và thế hệ trẻ làng
Xô Man với chiến tranh, bom đạn. Từ sợ hãi, chúng đã bình thản, dũng cảm đối mặt
với thách thức nhung quan trọng hơn, đôi mắt mở to bình thản nhìn vào kẻ thù của. Dít
đã tạo ấn tượng mạnh về ý chí Việt Nam, về nghị lực của người Việt Nam cũng như
lòng căm thù giặc sục sôi chảy trong huyết quản của bất cứ người dân Việt Nam nào.
Sau ba năm đi liên lạc trở về, Tnú đă phải ngạc nhiên, ngỡ ngàng về sự trưởng thành
của Dít. Đó không đon thuần ià sự lớn lên về mặt thể chất khiến Tnú nhầm tưởng người ngồi
đó là Mai chứ không phải là Dít mà đó còn là sự lớn lên về tài năng, về ý chí, nghị lực. Trước
mắt Tnú không còn là một con bé gày gò, đen đúa mà đã là một đồng chí chính trị viên xã đội.
Dít rất nhanh nhẹn, có đủ tài năng và bản lĩnh để giữ những nhiệm vụ trọng yếu, vẻ đẹp của
một nữ chiến sĩ cách iTiagnj ở Dít được thể hiện rất rõ qua cách ứng xử vơi Tnú, dù cũng
giống như tất cả dân làng Xô Man đang háo hức đón chờ người anh hùng Tnú nhưng Dít đã
không để tình cảm cá nhân chi phối mà vẫn giữ đúng nguyên tắc cách mạng. Ngay khi gặp
Tnú, Đít đã dùng phong thái chững chạc cùng giọng điệu bình thản, tự tin để yêu cầu Tnú
xuất trinh giấy của đơn vị cho về thăm làng. Dít xưng hô: “Tôi đồng chí” thể hiện rất rõ sự
can đảm, tự tin cũng như nguyên tắc làm việc rõ ràng của Dít. Sau việc làm đầy trách nhiệm
đó, khi Tnú xuất trình giấy tờ, Dít mới đổi thái độ và thể hiện những tình cảm yêu thương,
ngưỡng vọng của thế hệ đàn em với người anh hùng của dân tộc mình. Chỉ thông qua một chi
tiết rất nhỏ, NTT đã đem đến cho người đọc niềm tin vào thế hệ trẻ của dân làng Xô Man
b) Heng
Bé Heng chỉ xuất hiện thấp thoáng trong tác phẩm nhưng cũng là một hình ảnh đẹp
về thế hệ trẻ làng Xô Man. Trong ấn tượng của Tnú, bé Heng là một cậu bé nhỏ tuổi, còn
chưa biết làm việc nặng: “mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi” nhưng khi trở về,
Tnú cũng rất ngạc nhiên khi trước mặt anh là một cậu bé nhanh nhẹn, tháo vát, có hẳn một
khẩu súng trường Mát và với dáng vẻ của một người lính thật sự. Chỉ với một hình ảnh này,
tác giả cũng đã cho thấy sự trưởng thành và thích úng rất nhanh với hoàn cảnh của những cô
bé, cậu bé làng Xô Man.
Dít và Heng chính là hình ảnh biểu tượng cho thế hệ trẻ đang tiếp bước cha anh ở làng
Xô Man. Thế hệ này vừa tạc mình theo thế hệ cha anh để có được những phẩm chất truyền
thốn: yêu nước, thù giặc, dũng cảm và có khả năng chịu đựng phi thường, vừa có những vẻ
đẹp riêng, do thời đại mới mang lại: được đào tạo bài bản hơn, vững chắc về sự phát triển
mạnh mẽ của phong hào cách mạng cũng như tương lai tươi sáng của làng Xô Man và mảnh
đất Tây Nguyên.
BÀI 12 : NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
(Nguyễn Thi)
TRỌNG TÂM : Nhân vật Việt và Chiến
NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát:
1. Tác giả:
a) Cuộc đời
Nguyễn Thi (1928 - 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, có bút danh là Nguyễn Ngọc
Tấn.
Thời đại: Nguyễn Thi sinh ra vào thời đại bão táp cách mạng, nên bản thân ông vừa
mang tinh thần yêu nước sục sôi vừa thể hiện đậm nét tinh thần này trong các trang viết của
mình. Nội dung chính trong các tác phẩm của Nguyễn Thi là phản ánh cuộc sống và chiến đấu
của nhân dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm của Nguyễn Thi do ảnh
hưởng của thời đại mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Quê hương: Hải Hậu, Nam Định nhưng mảnh đất thực sự để lại dấu ấn và ảnh hưởng
mạnh đến cuộc đời và sự nghiệp của ông lại không phải là quê gốc mà là mảnh đất miền Nam.
Chỉ khi vào đến miền Nam, sống với những người dân Nam Bộ hiền hậu, bộc trực, Nguyễn
Thi mới thực sự tìm được ý nghĩa của cuộc đời mình. Ông viết văn cũng là để ca ngợi và tri
ân mảnh đất và những người nơi đây. Sau này được tập kết ra Bắc, Nguyễn Thi vẫn tình
nguyện trở vào miền Nam chiến đấu, tình yêu với mảnh đất và người Nam Bộ khiến ông sẵn
sàng hy sinh vì nó.
Gia đình: Gia đình Nguyễn Thi có hoàn cảnh éo le, ông mồ côi cha năm 10 tuổi, sau đó mẹ lại
đi bước nữa. Bởi vậy, tuổi thơ của Nguyễn Thi vừa vất vả, cơ cực vừa thiến thốn tình thương,
hoàn cảnh này đã khiến Nguyễn Thi có một tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động, suy tư và cũng
là lý do để tình yêu ông dành, cho người Nam Bộ càng thêm mãnh liệt. Với Nguyễn Thi, miền
Nam chính là ngôi nhà lớn của mình, chỉ gắn bó với mảnh đất và người nơi đây ông mới tìm
thấy được bình yên và hạnh phúc.
Bản thân:
Năm 1943, một người anh đưa ông vào Sài Gòn. Năm 1945, ông tham gia cách mạng.
Năm 1954 tập kết ra Bắc. Năm 1962 tình nguyện trở về miền Nam đánh giặc, ông đã hy sinh
anh dũng trong chiến dịch Mậu Thân 1968.
+ Tư chất, tài năng: Nguyễn Thi là một nghệ sĩ đa tài, ngoài viết văn, làm thơ ông còn
khả năng vẽ tranh, sáng tác bài hát, điệu múa.
B) S Ự nghiệp
Khá phong phú và giàu giá trị. ông sáng tác trên nhiều thể loại: thơ, tùy bút, tiếu
thuyết.. .Tất cả được tập hợp trong bộ truyện ký xuất bản năm 1978.
Đặc điểm truyện ngắn:
+ Nội dung, tư tưởng: Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ và mảnh
đất Nam Bộ. Không gia nghệ thuật trong các tác phấm của ông bao giờ cũng là những chòm,
Ấ P , K Ê N H , rạch.. .đặc trưng của miền Nam. Nhân vật trung tâm trong các tác phẩm bao giờ
cũng là những người nông dân Nam Bộ hồn hậu, bộc trực, phóng khoáng và mang trong mình
lòng căm thù giặc sục sôi. Chủ đề chính trong các tác phấm của ông là đế ca ngợi tinh T H Ầ N
Y Ê U nước, dũng cảm của người dân Nam Bộ.
+ Nghệ thuật: Nguyễn Thi có biệt tài trong việc phân tích, miêu tả tâm lý nhân vật,
đặc biệt là người nông dân Nam Bộ. ông có khả năng nhập rất sâu vào nội tâm nhân vât để tạo
nên lối viết dòng ý thức, điển hình là truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.
Ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000.
2. Tác phẩm
Hoàn c ả n h ra đòi: Ra đời năm 1966 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước
vào giai đoạn gay go, ác liệt nhất, khi Đế quốc Mỹ vừa tìm cách mua chuộc dụ dỗ, vừa thẳng
tay đàn áp nhân dân miền Nam. Nguyễn Tin viết truyện ngán vừa đế ca ngợi vố vũ, vừa để
khơi dậy tinh thần chiến đấu cho nhân dân miền Nam.
Tóm tắt:
Truyện kể về việc chiến sĩ Việt bị thương trong trận đánh. Việt tấn công xe bọc thép
bằng thủ pháo và tiêu diet được nó. Bị lạc đồng đội và ngất đi, tỉnh lại nhiều lần giữa một khu
rừng xa vắng. Mỗi lần tỉnh lại, anh nhớ lại những kỉ niệm thân thiết về gia
đình, về ba má, về chị Chiến, về chú Nam, về đồng đội và anh Tánh,., .nghĩ đến sự sống và
cái chết. Những suy nghĩ đó góp phần nói lên phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải
phóng quân.
Như vậy, truyện được viết chủ yếu dưa trên dòng hồi tưởng của nhân vật KI ức của
nhân vật mở ra từng trang trong quá khứ - một quá khứ không xa xôi với bao kỉ niệm, tốt đẹp.
- Lần thứ nhất tỉnh dậy, thấy trời đất tối đen, trận địa thì phắng lặng, rnùi xác chết của
lính MI tanh tưởi, hôi hám, rồi hố bom, công sụ, Việt lê từng bước với những vết thương rỉ
máu. Cảnh ngộ trong hiện tại thật bi đát nhưng Việt vẫn cố hồi ức về những kỉ niệm đẹp về
gia đình, về tình chị em.
- Lần thử hai tỉnh dậy, nghe tiếng nhái kêu, Việt nhớ lại những ngày cùng chị đi bắt
ếch, Việt thường dành phần nhiều về mình. Một lần đi đánh Mĩ trên sông Định Thủy, bắn
được tàu chiến Mĩ, Việt cũng đòi tranh công và chị Chiến lại nhường em.
- Lần thứ ba tỉnh dậy, tiếng súng kẻ thù vẫn nổ. Xe bọc thép chạy và pháo nổ mỗi lúc
mỗi gần hơn. Bị thương, toàn thân đau đớn, mắt không nhìn rõ được gì, Việt nghĩ tới hoàn
cảnh nếu không may bị kẻ thù bắt và giết chết. Việt không sợ chết mà lại sợ ma. Việt lại suy
nghĩ nếu chết mà không được sống chung với anh Tánh và không còn được đi bộ đội nữa thì
buồn lắm.
- Lần thứ tư tỉnh dậy, Việt vẫn nghe tiếng súng từ xa vọng lại. Ý nghĩ trở về sâu sắc
nhất là những ngày hai chị em (Việt 18 tuổi, Chiến 19 tuổi) tranh nhau đi bộ đội để trả thù cho
má, họ bàn bạc việc đem bàn thờ qua gởi nhà chú Năm.
Câu chuyện kết thúc khi Việt gặp lại đơn vị và được đưa đi điều trị chu đáo. Việt lại
nhớ đến chị Chiến với biết bao tình cảm xúc động, nhớ thương.
Tình huống truyện:
Tác phẩm kể về câu chuyện của gia đình anh giải phóng quân trẻ tên là Việt. Nhân vật
này rơi vào một tình huống đặc biệt:
Trong một trận đánh, Việt bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến
trường. Nhiều lần anh bị ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi ngất đi. Truyện được kể theo dòng hồi
tưởng khi đứt (ngất đi) khi nối (tỉnh lại). Tình huống này dẫn đến cách trần thuật theo dòng ý
thức, nội tâm của nhân vật.
Chủ đề:
Thù nhà nợ nước, sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm - truyền thống gia đình và tình
yêu nước - truyền thống dân tộc là động lực, sức mạnh để thế hệ trẻ Việt Nam nối tiếp cha
ông đứng lên kiên cường đánh Mĩ cứu nước.
II. Đọc - hiểu - vb
1. Nghệ thuật trần thuật
Kiến thức chung về cách trần thuật của các nhà văn:Căn cứ vào ngôi của nhân vật
truyện, ta thấy có 3 phương thức trần thuật được các nhà văn sử dụng trong quá trình sáng tác
tác phẩm tự sự :
- Phương thức thử nhất: nhân vật truyện là đối tượng được thuật kể nên thuộc ngôi
thứ ba. (người trần thuật giấu mình - lời gián tiếp).
- Phương thức thử hai: nhân vật tự kể chuyện mình nên thuộc ngôi thứ nhất(lời
trực tiếp).
- Phương thức thứ ba: nhân vật thuộc ngôi thứ ba, nhưng điểm nhìn, lời kể lại
phỏng theo quan điểm, ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật (người trần thuật tự giấu mình, lời
nửa truc tiếp ). Cách trần thuật này có hai tác dung về mặt nghệ thuật:
+ Câu chuyện vừa được thuật kể, cùng một lúc, tính cách nhân vật cũng được khắc
họa.
+ Câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua
con mắt, tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.
Nhà văn phải thành thạo tâm lí và ngôn ngữ nhân vật mới có thế trần thuật theo cách
thứ ba.
Kiến thức riêng về cách trần thuật của Nguyễn Thi trong N H Ữ N G Đ Ứ A C O N T R O N G
GIA A N H : Truyện N H Ữ N G Đ Ứ A C O N T R O N G G I A A N H được trần thuật chủ yếu qua
dòng hồi tưởng miên man đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng thương nằm lại ở chiến
trường.
Về hình thức, câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba nhung về bản chất lại là ngôi thứ
nhất vì phần lớn nội dung câu chuyện là do nhân vật Việt - nhân vật chính trong tác phẩm kể
lại. Thậm chí, người kể chuyện ở ngôi thứ ba gần như đã nhập làm một với Việt để cả truyện
này là một chuỗi những đứt - nối trong tâm tư, trong mạch hồi tưởng của nhân vật Việt.
Trong truyện ngắn này, tác giả không đi sâu miêu tả hình ảnh nhân vật Việt (cả truyện
hầu như chỉ có một hành động đáng kể là Việt leo lên xe bọc thép của địch chiến đấu sau đó
bị thương) còn phần lơn cả độ dài lẫn nội dung của tác phẩm là những cảm xúc, suy nghĩ, tâm
trạng của Việt khi nghĩ đến cả những việc trong quá khứ và hiện tại. Dòng tâm sự của nhân
vật đã trở thành dòng chảy đậm nét nhất để tạo nên một lối trần thuật mới mẻ: trần thuật theo
dòng ý thức. Đây là một kiểu trần thuật hiện đại mà trên thế giới mới chỉ có một số ít nhà văn
làm được. Còn ở Việt Nam trước Nguyễn Thi chưa có tiền ỉệ. Dù không được đào tạo bài bản
nhưng bằng độ nhạy cảm của một thiên tài, Nguyễn Thi đã sử dụng lối viết này rất thành
công. Có thể nói trần thuật theo dòng ý thức là yếu tố quyết định nhất đến thành công của
truyện ngắn này, Lối trần thuật này mang đến những tác dụng:
+ Kiểu trần thuật còn can thiệp mạnh mẽ đến kết cấu của tác phẩm, truyện không đi
theo đường thẳng tuyến tính như lối kể chuyện truyền thông mà có sự đan xen giữa quá khứ
và hiện tại. Sự đan xen này không chỉ diễn ra một khúc đoạn mà diễn ra suốt chiều dài tác
phẩm. Sau mỗi lần tỉnh lại của Việt, hiện tại lại trở về là hiện tại của chiến trường, của những
ý nghĩ về kẻ thù của Việt nhưng ngay sau đó Việt lại mê man đi để tất cả những ký ức về tuổi
thơ, về má, về chú Năm lại dội về. Trong tác phẩm đến bốn lần tác giả khai thác những lần
tỉnh lại của Việt, nhờ đó hiện tại và quá khứ được hòa trộn tạo nên một kết cấu phóng túng
linh hoạt chưa từng thấy ở các tác phấiiì văn học Việt Nam trước đó. (Sách giáo khoa lược bỏ
1 phần văn bản đoạn Việt tỉnh dậy lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Các em cân tìm đọc đê biêu
sâu tác phâm).
- Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, tự nhiên Việt nhớ về
những đêm đi soi ếch ở quê, nhớ khi đổ ểch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là
hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và. cuốn số gia đình cùng ý nghĩa, của nó rnà
chú là tác giả,
- Lần thứ ba Việt tỉnh dây, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun hôi còn ở
nhà Việt thường xách đi bắn những con cu cố đeo những chấm xanh đỏ óng ánh như cườm,
rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong ba lổ ngày nhập ngũ, ngày nhập nhũ là ngày má
Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu giàu lòng vị
tha, hết lòng vì chồng con, cuộc đời chồng chất những khổ đau uất hận nhưng rất đỗi hiên
ngang, bất khuất,...
- Lần thứ tư Việt tỉnh dậy trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên
tưởng tới ý nghĩ thôi thúc đi bộ đội, liên tưởng chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau
đó là chuyện khiêng bàn thờ má đi gửi bên nhà chú.
+ Lối trần thuật này cũng giúp tác giả chuyển cảnh, chuyển giọng vô cùng linh hoạt,
từ cảnh Việt bị lạc đồng đội, bơ vơ giữa rừng sâu đến cảnh hai chị em Việt đi bắt ếch, cảnh
hai chị em Việt tranh nhau đi tòng quân, cảnh má Việt dắt đàn con đi đòi đầu ba... .Hay từ
giọng sục căm hờn của Việt khi nghĩ đến kẻ thù nhanh chóng chuyển sang giọng hồn nhiên,
vô tư khi Việt nói đến anh Tánh, anh Công - những người cùng đơn vị với Việt, đến ông bà
nội, chú thím Năm, ba má Việt, chị Chiến...
+ Lối trần thuật này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc gia tăng tính trữ
tình cho tác phẩm. Nói đến truyện ngắn là nói đến phương thức tự sự bao giờ nó cũng xoay
xung quanh một câu chuyện, một nhân vật trung tâm, nhưng với tác phẩm Những đứa con
trong gia đình nói riêng và với các truyện ngắn của Nguyễn Thi nói chung thì một tác phẩm
không bao giờ chỉ là sự nối tiếp của các sự kiện, hành động để tạo nên mạch tự sự mà bao giờ
cũng được khai thác triệt để những cảm xúc, suy nghĩ, cảm giác của nhân vật để tạo nên một
trục trữ tình song song với trục tự sự. Trong tác phẩm này, chính những cảm xúc, suy nghĩ,
cảm giác của nhân vật Việt đã đem lại chất trữ tình lãng mạn, thậm chí là cả những đoạn văn
thấm đẫm chất thơ. Đây cũng là một trong những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
+ Vai trò quan trọng nhất của phương thức trần thuật này là giúp cho nhà văn Nguyễn
Thi phát huy tối đa sở trường phân tích và miêu tả tâm lý của mình, nhân vật Việt được tác
giả khai thác chủ yếu không phải qua hành động, ngôn ngữ mà qua suy nghĩ, tâm trạng. Tác
giả vừa “bắt được” những cảm xúc căng tràn, mãnh liệt ở Việt, là người yêu nước, là căm thù
giặc, vừa “bắt được” những cảm xúc sâu lắng và xúc động hơn, là tình thương đối với má, với
chị Chiến, là ý thức tiếp nối truyền thống gia đình, vừa có những cảm xúc, cảm giác rất đỗi
mong manh, tinh tế của nhân vật như cảm giác về cái ngòn ngọt của bông trang, cảm giác về
cái tấp nập, vui tươi khi đàn đom đóm bay vào nhà trong đêm Việt đăng ký tòng quân...Tất cả
những nét tâm lý này đã tạo nên chiều sâu và sức hấp dẫn lôi cuốn cho hình tượng nhân vật
Việt.
—> Với lối trần thuật theo dòng ý thức, Nguyễn Thi đã tạo nên một cách trần thuật
vừa độc đáo, vừa hiện đại mới mẻ, vừa hết sức linh hoạt, lối trần thuật này giúp cho trong vô
vàn những câu truyện viết về chiến tranh, về lòng yêu nước, căm thù giặc của văn học 1945 -
1975, Những đứa con trong gia đình đã nổi trội lên như một tác phẩm xuất sắc, hay nói cách
khác đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công của tác phẩm.
2. Truyền thống gia đình
Đặc sắc nghệ thuật của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong
một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thủy chung,
son sắt với cách mạng. 'Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc
điểm của nhân vật Nguyễn Thi. Đó là:
- Thủy chung với quê hương, cách mạng.
- Căm thù giặc sâu sắc, khao khát được chiến đấu, gan góc, kiên cường.
- Thẳng thắn, bộc trực, trung hậu, lạc quan yêu đời, khi xúc động thường bày tỏ tình
cảm bằng cách hò, hát, kế chuyện Lục Vân Tiên hoặc ca cải lương.
Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình, “ M Ỗ I N G Ư Ờ I M Ộ T
K H Ú C ” , có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điếm thế hiện tài năng của
Nguyễn Thi.
2.1.Nhan đề của tác phẩm là “Những đứa con trong gia đình”. Điều đó đã định hướng
cho người đọc biết đối tượng được phản ánh trung tâm trong tác phẩm chính là những đứa
con - Việt, Chiến nhưng đồng thời cũng cho thấy rõ hai hình tượng trung tâm ấy được đặt
trong mối quan hệ đối lập.
Một gia đình đau thương: nói đến chiến tranh là nói đến đau thương mất mát,
bởi vậy trong văn học kháng chiến để tìm thấy những trang viết về nỗi đau, về những
mất mát của người là điều không khó. Nhưng đọc NĐCTGĐ của Nguyễn Thi người
đọc thấy được nỗi đau chiến tranh dồn tụ trong một gia đình đế dù là điều không lạ
song sự đau thương của gia đình ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt với người
đọc. Có thế nhận thấy ở gia đình Việt, tình cảm của một gia đình nhiều thế hệ song đau
thương của chiến tranh đã không bỏ qua bất cứ thế hệ nào của gia đình này. Thế hệ
nào cũng có những người phải chết một cách đau đớn, thảm khốc của bom đạn và tội
ác của kẻ thù, ông nội Việt bị lính Tổng phòng bắn ba phát vào bụng, bà nội Việt dù đã
rất già yếu vẫn bị giặc lôi ra giữa sân đánh
—» Việt kể các chi tiết, những đau thương mà tùng thế hệ trong gia đình này
phải gánh chịu đã thể hiện rõ dụng ý của nhà văn Nguyễn Thi, đó là tô đậm vào những
mất mát, những đau thương mà gia đình nói riêng và nhân dân miền Nam nói chung,
phải gánh chịu trong kháng chiến chống Mỹ. Đồng thời lên án, tố cáo gay gắt tội ác
của kẻ thù...
Một gia đình quật khỏi: tô đậm vào những đau thương mà gia đình Việt phải trải qua
ngoài giá trị hiện thực và giá trị phê phán, tố cáo nó còn có ý nghĩa như một chất xúc tác để
làm bật lên tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất và truyền thống quật khởi của gia đình
này. Những đau thương của chiến tranh không làm họ khiếp sợ mà đã hun đúc cho mỗi thế hệ
lòng căm thù giặc ngùn ngụt, mài sắc ý chí chiến đấu để trả nợ nước, thù nhà. Ngay sau một
thế hệ vừa ngã xuống, đã coa một thế hệ khác vùng lên, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Ba Việt
là một chiến sĩ cách mạng kiên trung đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp sau đó tiếp
tục cầm. súng chống lại Đế quốc Mỹ. Ba Việt bị quân Mỹ chặt đầu nhưng má Việt không hề
sợ hãi dẫn đàn con đi đòi đầu chồng, sau đó tiếp tục tham gia phong trào đấu tranh cách
mạng, má, Việt có vai trò rất lớn ừong việc khơi dậy phong trào đấu tranh cách mạng với các
con từ khi chúng còn là những đứa trẻ. Vừa đến tuổi đi tòng quân họ lập tức xung phong và
trở thành những chiến sĩ năng nổ, xông xáo trên chiến trường.
Nếu truyền thống đau thương để lại nỗi ám ảnh xót xa bao nhiêu thì truyền thống quật
khởi đã khiến cho hình ảnh gia đình nảy trở nên rực rỡ, hào hùng, đáng khâm phục bấy nhiêu.
Đó là một truyền thống đấu tranh bền bỉ, gan góc, đầy khí thế, quyết tâm và sẵn sàng hi sinh
vì tổ quốc. Truyền thống quật khởi của gia đình Việt cũng chính là tinh thần đấu tranh cách
mạng của nhân dân miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ.
Hai truyền thống đau thương và quật khởi của gia đình Việt mà Nguyễn Thi phản ánh
trong tác phẩm có ý nghĩa rất quan trọng bởi chính truyền thống này của gia đình đã tạo nền
tảng vững chắc để hun đúc cho hai chị em Việt - Chiến những phẩm chất tốt đẹp nhất của
người anh hùng trong thời đại chống Mỹ, hai chị em vừa là sự kế thừa, tiếp nối, phát triển vừa
là tinh hoa của truyền thống dồn tụ lại.
2.2. Truyền thống gia đình được thể hiện rõ nét qua nhân vật chú Năm và má Việt:
a) Chú Năm
Khát quát: Chú Năm chính là hình cảnh của thế hệ cha anh tiếp tục song hành với con
cháu trong hiện tại. Chú vừa là người tạo ra huyền thống, vừa là người giữ gìn truyền thống,
vừa là người truyền lửa để thế hệ tương lai tiếp nối truyền thống vẻ vang của gia đình. Trong
tác phẩm, chú Năm là người có ảnh hưởng mạnh mễ đến suy nghĩ, tư tưởng, nhân cách của
hai nhân vật Việt - Chiến.
Chú Năm là người lao động chất chất phác, giàu tình cảm gia đình và đất nước. Ở
chú Năm thể hiện đầy đủ những đặc điểm của người nông dân Nam Bộ, đó là sự phóng
khoáng , tự do, lạc quan, yêu đời. Thời trẻ chú Năm “ham sông ham bến” đã đi rất nhiều nơi,
chú cũng rất yêu ca hát.
Bên cạnh những đặc điểm của người nông dân Nam Bộ truyền thống, ở chú Năm còn
có những đặc điểm mới là sản phẩm của thời đại chống Mỹ, thời đại này đã biến chú Năm
thành một người nông dân anh hùng, chú đã cùng ba má Việt tham gia cầm súng chiến đấu từ
những năm tháng kháng chiến chống Pháp, sau đó bị thương chú lại trở thành người dìu dắt,
nuôi dạy thế hệ trẻ để thế hệ con cháu có thể tiếp tục tmyền thống tốt đẹp của gia đình.
Chú Năm là người hướng về truyền thống, sống vói truyền thống, lưu giữ truyền thống:
Đặc điểm nổi bật nhất, quan trọng nhất ở chú Năm là tinh thần bảo lưu truyền thống,
giữ gìn truyền thống và tìm cách phát triển truyền thống của gia đình. Tinh thần này được gắn
chặt với chi tiết rất giàu sức gợi cảm trong tác phẩm, đó là câu hò Nam Bộ, nơi những người
nông dân Nam Bộ gửi gắm những tâm sự, những nỗi lòng, ước mơ, khát vọng của mình.
Nhung cách hò và tiếng hò của chú Năm lại không như vậy. Nó không cất lên giữa đêm khuya
mà “nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh giữa ánh nắng chói chang, rồi
kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ tha thiết, cuối cùng lại ngắt lại như một lời thề dữ
dội”, giọng hò chú Năm không ngọt ngào tha thiết mà “đục và tức như gà gáy” nhưng chú hò
không phải theo thói quen mà dường như đó là lúc chú thể hiện tất cả tâm sự, dự dồn nén, xúc
động mãnh liệt của mình nên lúc đó: “gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, mắt chú
mở to, đọng nước nhìn thắng vào mắt Việt”...
Với tất cả những đặc điểm và cách thức ấy, tiếng hò của chú Năm không chỉ đơn
thuần là phương tiện để gửi gắm những tâm sự riêng tư như cách của người nông dân Nam Bộ
vẫn làm mà đó là tiếng hò để gửi gắm tâm sự của cả một thời đại, là hiệu lệnh của thời đại
chống Mỹ, chú Năm đã dồn tụ vào đó tất cả những ước mơ, khát khao của thế hệ cha ông để
tiếng hò ấy thấm sâu và tác động mạnh vào thế hệ trẻ, khơi dậy tinh thần đấu tranh quyết liệt
cho Việt - Chiến nói riêng và thế hệ con cháu nói chung. Việc tiếng hò của chú Năm “ngắt ra
như một lời thề dữ dội” chính là lời thề quyết trả nợ nước, thù nhà. Dù không nói gì nhưng
cách nhìn thẳng vào mắt Việt khi thì thành người nghĩa quân Trương Định hay ngôi sao sáng
ở Tháp Mười, chính là cách hiệu quả nhất đế ngay từ khi là một đứa bé Việt đã thấu hiếu được
những tâm tư, khát vọng của cha anh.
Chú Năm luôn đề cao trách nhiệm của những đứa con trong gia đình. “ C H Ú
THƯỜNG ví C H U Y Ê N gia đình T A N Ó C Ũ N G D À I N H Ư S Ô N G , Đ Ể R Ồ I C H Ú sẽ
C H I A C H O M Ô I N G Ư Ờ I M Ộ T K H Ú C M À G H I V À O Đ Ó ” . Lời chú nói thật là dung dí
nhưng vô cùng triết lí. Chỉ được coi là con của gia đình đối với những ai ghi vào được, làm
nên được khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống. Không thể hiểu khúc sau của
một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể
hiếu về những đứa con của một truyền thống gia đình khi và chỉ khi ta đã hiếu ít nhiều về
chính cái truyền thống gia đình đã sinh thành ra những đứa con.
+ Cuốn số gia đình: Cuốn sổ gia đình là biếu hiện của lòng chung thủy với truyền
thống cách mạng của gia đình chí em Việt Chiến, gắn liền với hình tượng nhân vật chú Năm.
Trước hết, cuốn số gia đình là lịch sử của một gia đình. Ở đó, chú Năm đã ghi chép tỉ
mỉ, đầy đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chí em Chiến- Việt. Từ chuyện
người nào bị giặc giết, giết trong hoàn cảnh nào, vào ngày nào đến chuyện ai bí chúng nhục
mạ, nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành
viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông
Đính Thủy.
Như vậy, cuốn sổ là bằng chứng sống về tội ác của kẻ thù, là nơi lưu giữ truyền
thống của những con người cùng huyết thống trong quá trình tiếp nổi, đấu tranh sinh
tồn.
Cuốn sổ gia đình là một thứ “gia phả” thiêng liêng, là một báu vật cha truyền con nối
của không chỉ gia đình chị em Chiến-Việt mà còn là của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Nó
không phải là kim cưong nhưng chắc chắn nó là ánh sáng, vì “kim cương chiếu sáng về
nhiều P H Í A , quá khứ soi rọi tương lai” (Khổng Tử).
Trong tưong quan với nhan đề tác phẩm, với những lời chú Năm: “Chuyện gia
ĐÌNH ta nó cũng D À I như sông, Đ Ể rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc
mà ghi vào đó”, thì cuốn sổ như một con sông tích tu nước bao đời, luôn luôn chảy, đổ về
biển rộng, như các thế hệ nối tiếp nhau, hòa quyện vào truyền thống bất khuất của dân tộc,
hướng tới tương lai tươi sáng. Cuốn sổ chính là dòng chảy gia đình bền bỉ, liên tục và bất tử.
Má Việt
Hình ảnh người mẹ hiện lên qua dòng hồi tưởng của đứa con - Việt. Đây là một người
phụ nữ vị tha, nhân hậu nhưng không mềm yếu. Nhà văn đã khéo chọn những chi tiết điển
hình dồn nén biết bao ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ này với những nét tính
cách của nhân vật Nguyễn Thi:
Má Việt là người rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát:
Khi thằng Tây chặt đầu chồng, cầm đầu chồng đi bêu từ ấp trong tới ấp ngoài, má
Việt một tay bồng con (thằng út), một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, không hề
khóc. “Chiều hôm đó, về tới nhà, má mới khóc... má chỉ nằm khóc chớ không kể
gì hết”. Những năm sau, “lúc nào nối lại chuyện trên má cũng không khóc. Mà
lúc nào khóc thì má không nói G Ì hết”
Chữ nghĩa của nhà văn như được chiết ra từ cõi lòng của người vợ đau chồng.
Không khóc vì nỗi đau quá lớn, uất nghẹn, lặng vào tâm linh. Khóc mà không nói gì hết vì nỗi
đau bị dồn nén quá mức, tâm linh không chịu nổi, phải trào vỡ ra bằng nước mắt chứ không
thể bằng lời.
Chồng chết, một thân một mình chèo chống, cấy thuê, gặt mướn, lam lũ, nhọc nhằn
nuôi ba con nhỏ. “Má lội hết đồng này sang bưng khác, con M Ắ T tìm V I Ệ C , bàn
chân dọ đường” để khi thì đem về “thúng lúa ” , khi thì đem về “mớ củi, mớ tép”,
“trông ngày trông đêm cho con mau lớn”, trông đến mức “ T R Ô N G từ cách con
làm tới miếng cơm con ăn trong miệng”. Tình thương con vô hạn đã khiến má ngày
càng xốc vác, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã “đẩy xuồng ra tuốt
giữa sông” và “bơi xuồng thiệt khỏe ”.
Đối mặt với quân thù, hai bàn tay to bản của má “phủ lên đầu đàn con đang
nép dưới chân” hoặc “ Đ Ù A đàn con L Ạ I đàng sau tránh đạn” là hình ảnh cho ta
hình dung một các rõ nét về một người mẹ giàu đức hi sinh nơi Thành đồng Tổ quốc những
năm đánh Mĩ.
Má Việt là người rất gan dạ, căm thù giặc sâu sắc:
Thời con gái, má đã “gánh cơm tặng bộ đội tầm vông”.Giáp mặt với quân thù, má
hiên ngang đối đáp một cách không hề sợ hãi. Giặc bắn dọa mấy mẹ con” mắt má lại sắc ánh
lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển".
Má luôn nhắc nhở con về mối thù sâu nặng và truyền thống gia đình. Má thường
hay kể câu chuyện cả nhà đi theo thằng Tây đòi “Trả đầu ba! Trả đầu ba! ” với mong
muốn “chị em bay trả thù cho ba” má cũng thườngquở nhắc Việt mỗi lần Việt dùng
ná thun b ắ n chim trong vườn. "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi! Để ráng mà nuôi
bay lớn coi bay có làm được gì cho cha.mày vui không?”.
Má ngã xuống trong một cuộc đấu tranh vì mảnh đạn cà nông Mĩ, nhưng trái cà
nông lép mà má nhặt, bỏ trong rổ đem về vẫn còn nóng hổi. Như vậy, trong cách nghĩ của
Nguyễn Thi, người mẹ thác chỉ là cái phần thế phách, còn linh hồn thì bất tử, sống mãi với
những đứa con. Chính vì thế mà nhà văn đã để cho người mẹ hiện về trong ngôi nhà trong tâm
tưởng của hai chị em vào cái đêm sắp xếp việc nhà đế ngày mai lên đường đi chiến đấu, trả
thù cho ba má.
Cả Chiến và Việt luôn tạc dạ lời của mẹ. Trong tâm hồn của hai chị em, hình bóng
của người mẹ đầy tin yêu là ngọn lửa hun đúc ý chí căm thù , là sức mạnh tinh thần dũng
mãnh để hai chị em tiếp bước cha ông.
3. Chiến và Việt
3.1. Giống nhau
a. Đều có lòng căm thù giặc và quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương
+ Chị Chiến
Mặc dù rất thương em, hay nhường nhịn em nhưng quyết không nhường em
việc ghi tên tòng quân để ra chiến trường. Tâm niệm mà Chiến mang theo chính là tâm
niệm quyết chiến đấu đến cùng với địch, thậm chí là phải hi sinh tính mạng của mình,
nó cũng giống như tâm niệm của rất nhiều thanh niêm trong thời đại chống Mỹ lúc bấy
giờ:
“Ra đi chỉ một lời thể
Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”.
Cũng vì quyết tâm cao độ, ý chí đấu tranh quật cường đó mà dù mới hai mươi tuổi
những suy nghĩ có phần trẻ con, hồn nhiên của Việt về cái chết, người đọc thấy rõ một tinh
thần quả cảm, kiên cường
b. Giàu tình yêu thương
Nếu sự anh hùng dũng cảm là vẻ đẹp bề nổi dễ nhìn thấy của hai chị em Việt - Chiến
thì sự nhạy cảm, giàu tình yêu thương, đặc biệt là với những người thân trong gia đình chính
là vẻ đẹp ở bề sâu làm cho hình tượng Việt - Chiến trở nên mềm mại, gần gũi với người đọc.
+ Chiến: mặc dù mói chỉ là một cô gái nhưng Chiến đã tỏ ra vô cùng đảm đang, tháo
vát, chị suy nghĩ và vun vén mọi việc một cách gọn gàng để cho hai đứa em được hồn nhiên
vô tư lớn lên trong mọi công việc, Chiến luôn nhường nhịn và giành phần hơn cho em, chỉ
duy nhất một lần Chiến không nhường em, đó là khi ghi tên tham gia tòng quân, nhưng đó là
lúc tình thương, sự lo lắng chị giành cho em được thể hiện rõ nhất, chị muốn giành về mình
phần nguy hiểm để em được an toàn.
+ Việt: mặc dù còn rất nhiều những đặc điểm trẻ con, hồn nhiên, vô tư của một đứa
trẻ và luôn thích tranh giành với chị nhưng ở những thời khắc thiêng liêng, quan trọng nhất
trong Việt luôn có những tình cảm xúc động, yêu thương ấm áp giành cho gia đình và mọi
người. Khi cùng chị chuyển bàn thờ má sang nhà chú Năm, nghe tiếng bước chân của chị,
Việt thấy thương chị lạ lùng, khi bị thương nằm một mình trong rừng, cận kề với cái chết,
những dòng hồi tưởng, đứt nối của Việt luôn tìm đến những gương mặt thân thương: là chú
Năm, má, chị Chiến, là anh Tánh và đồng đội. Chính những tình cảm ấm áp đó đã tiếp thêm
cho Việt sức mạnh để anh có thể vượt qua những thời khắc khó khăn, nguy hiểm nhất.
Không thể phủ nhận ảnh hưởng của khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn đến
cách thức xây dựng hai nhân vật Việt - Chiến của Nguyễn Thi. Nhưng chính nhờ có hái tim
yêu thương, giàu cảm xúc, tình cảm mà rất trung thành nên hai hình tượng người anh hùng
Việt - Chiến không trở nên xa lạ hay bị chai sạn mà trở nên giản dị, tự nhiên và vô cùng gần
gũi với người đọc.
Như vậy, ở hai hình tượng Việt - Chiến có rất nhiều đặc điểm tương đồng, những đặc
điểm tương đồng đó là sản phẩm của một thời đại anh hùng, của một gia đình anh hùng và của
những thanh niên có lý tưởng sống cao đẹp. Những đặc điểm chung của Việt và Chiến mang
tính khái quát rất cao cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong kháng chiến chống
Mỹ.
3.2. Khác nhau
a) Chị Chiến
Chiến là nhân vật được Nguyễn Thi xây dựng vơi ý thức tô đậm những nét kế thừa
người mẹ trong vận hội mới của cách mạng.
D i ệ n mạo, n g o ạ i h ì n h : chị Chiến thừa hưởng rất nhiều những đặc điểm từ
người mẹ, ở chị không có cái tha thướt, yểu điệu dù còn là một cô gái mà đó là một thân hình
chắc chắn, khỏe mạnh, là bắp tay lúc nào cũng luôn tròn lẳn, đó là sức vóc của một người sinh
ra để đóng vai trò trụ cột trong gia đình, để tảo tần lo lắng, để chiến đấu và chiến thắng.
Tính cách:
- Chiến là người con gái sớm trưởng thành, già dặn bởi hoàn cảnh M thương của gia
đình:
- Theo lời chú Năm, Chiến “ k h ô n g k h á c m ẹ c h ú t n à o ” , Ngay cả Việt cũng
nhận xét chị Chiến “ n ó i i n n h ư m á v ậ y ” . Đã thế, Chiến còn học cách nói “ t r a n g
t r ọ n g ” của chú Năm.
- Chiến có đức tính kiên trì, chịu khó, gắn bó với lớp người đi trước hơn Việt, mặc đù
chỉ hon Việt chừng hơn một tuổi. Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn số gia đình: “ C h ị
đọc tiếng được tiếng mất, chữ mẹ đẻ chữ con, từ trưa tới xế, rồi từ
xế tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vang”.
- Từ ngày mẹ chết, Chiến thay mẹ nuôi em, quản lí việc nhà, tính toán sắp xếp công
việc như một người trụ cột trong gia đình. Điều này thể hiện rất xúc động ở cảnh hai chị em
trò chuyện trong đêm sau buổi mít tinh ghi tên thanh niên tòng quân: gửi em út cho ai nuôi?
nhà cho ai mượn? đồ đạt cất ở đâu? Làm thế nào để có tiền hàng năm giỗ ba má? Bàn thờ gửi
ở đâu?...Sự chu tất của Chiến đã làm cho Việt khâm phục: “ C h ị nói nghe thiệt gom”, và
chú năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu”, rồi nói: “Khôn! Việc nhà nỗ
thu được gọn thì viêc nước né mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non
Chiến là người con gái có tâm hồn đẹp đẽ, luôn sục sôi với gánh nặng thù nhà nợ
nước
- Chiến hết lòng, chăm sóc, nhường nhịn em, nhưng riêng chuyện đi bộ đội thì chị
không nhường nhịn em, bởi ý thức thù nhà nợ nước, bởi thương em, sợ em vất vả, hiểm nguy
trong bom đạn.
- Chiến giống mẹ nhưng khác mẹ.
+ Đời mẹ khổ, “ h a y n g h ĩ n g ơ i - l ặ n g l ẽ ” , một mình chịu đau, chỉ khóc.
Chiến cũng đã đau từ tấm bé, đã cùng Việt chạy theo chị Hai đang cầm đũa bếp chạy theo
thằng Tây để đòi đầu ba. Nhưng Chiến là cô gái có cái dáng trẻ trung, “ k e p m ộ t n h ú m
t ó c m a i v à o m i ệ n g ", tính hay cười. Đi bộ đội, chiếc gương nhỏ vẫn theo Chiến ra
ngoài mặt trận để làm duyên cho đòi giữa hai trận đánh.
+ Trước nỗi đau mất chồng, mẹ đã không có dịp cầm súng, chỉ mới dừng lại ở
mức “đi đấu tranh ở Mỏ Cày”, khi về, bị cà nông Mĩ bắn chết. Trước nỗi đau mất cha,
Chiến đã cầm súng với một quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm
rải. Đã làm than con gái ra đĩ thì tao chỉ cỗ một câu: Nếu giặc còn thì im mất, vậy à”.
Nhận xét:
Cũng như Việt, Chiến đã là một khúc sông sau chảy xa hơn khúc sông trước. Bi
kịch bạo liệt của gia đình đã là động lực để Chiến là hiện thân của sức trẻ tiến công.
Chiến được bao bọc bởi hình ảnh người mẹ, đúng hơn là Chiến đã hòa vào trong mẹ
trong cuộc sống đời thường, đặc biệt là trong cái thời điếm thiêng liêng - cái đêm “vui
náo nức ”, “không ngủ được ” bởi bao nhiêu chuyện phải lo để ngày mai lên đường đi
đánh giặc
b) Nhân vật Việt
Việt là nhân vật chính, nhân vật trang tâm trong tác phẩm, toàn bộ câu chuyện
được kể qua điểm nhìn trần thuật của Việt nên rõ ràng yêu cầu về tính độc đáo khác
biệt
của nhân vật này là lớn nhất trong tác phẩm. Với hình tượng người chiến sĩ vốn không
xa lạ trong văn học đặc biệt là văn học 1945 - 1975, Nguyễn Thi đã tạo dấu ấn riêng
cho nhân vật bằng những suy nghĩ, cảm xúc vừa hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng vừa
sâu sắc.
Việt là một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính tình rất “trẻ con”, hồn nhiên, hiếu động:
Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ
, thường hay nhường nhịn em dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính
chất của một cậu bé, thường hay tranh giành phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch, chuyện bắn
trúng tàu chiến của giặc trên sông Định Thủy, đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Việt rất
thích đi câu cá, bắn chim. Và đến khi đi bộ đội , trong hành trang người lính, ngoài cái võng,
bộ quân phục, Việt còn mang theo chiếc ná thun . Việt bị thương nằm một mình trong rừng
nhưng ý nghĩ của Việt thường xuyên đuổi theo những ký ức của tuổi thơ, nghe tiếng ếch nhái
kêu ran, anh nghĩ ngay đến lúc nhỏ hai chị em thường rủ nhau đi bắt ếch rồi tranh giành
những con chong chong. Sự trẻ con ngây thơ của Việt còn bộc lộ rõ trong suy nghĩ của anh về
cái chết. Với Việt, chết không phải là việc gì ghê gớm mà chỉ là “đau gấp mấy lần bị thương”,
là “người giả nằm ở dưới đất còn người thật bay lên nóc nhà”, thâm chí cái chết còn không
đáng sợ bằng việc không được gặp lại anh Tánh và đồng đội. Hay nỗi ám ảnh tuổi thơ của
Việt khi nghĩ đến con ma cụt đầu nằm trên cây xoài, bởi vậy bị thương nằm một mình trong
rừng nhưng Việt không hề sợ hãi mà luôn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Nhưng khi nỗi ám
ảnh tuổi thợ dội về anh lại òa khóc như một đứa trẻ, đặc biệt sự trẻ con của Việt còn được thể
hiện trong suy nghĩ, tình cảm mà Việt dành cho chị Chiến. Dù rất yêu thương chị nhưng Việt
lại giấu đồng đội việc mình có một người chị gái lớn hơn hai tuổi, bởi tâm lý Việt sợ khi mọi
người biết thì mình sẽ mất chị.
Việt lộc ngộc, vô tư, phó thác chuyện nhà cho chị: “Tôi nói chị tính sao cứ tính
mà”. Đêm trước ngày lên đường, trong khi chị Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út
em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách nghiêm túc thì
Việt vô tư “lăn kềnh ra ván C Ư Ờ I K H Ì khi”, vừa nghe vừa “chụp một con đom
đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Những biểu hiện hồn nhiên, ngây thơ, thậm chí có phần ngốc nghếch, trẻ con của Việt
đã khiến cho hình tượng nhân vật này tạo nên một cảm giác nhẹ nhõm, trong trẻo với người
đọc. Không tô đậm vào những chiến công, không tô đậm vào những lý tưởng, tuyên ngôn như
những người chiến sĩ anh hùng thường được khai thác trong văn học, nhân vật Việt đã làm
cho một tác phẩm văn học cách mạng trở nên nhẹ nhàng, gần gũi, dễ tiếp nhận chứ không có
cảm giác nặng nề của sự hô hào, lên gân.
Việt là một con người giàu tình nghĩa yêu thương:
Với ai, Việt cũng sống với tất cả nghĩa tình. Trong dòng hồi tưởng khi liền khi đứt, hình ảnh
người mẹ đã mất luôn hiện hũu trong tâm hồn Việt. Đến khi tỉnh dậy lần thứ tư, Việt “ước gì
bây giờ lại được gặp má” để má “xoa đầu... đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm ... cho Việt
ăn”.
- Với chú Năm, Việt thương chú vì chú là người thân gần nhất và lớn nhất còn lại của
gia đình, vì chú hay bênh Việt, hay kể chuyện nhà, hay đặt tay lên vai Việt, nhìn thắng vào
mắt Việt mà hò trong điệu dáng đầu lắc lư, xem Việt như là nơi để chú gửi gắm những nỗi
niềm tâm sự.
- Với chị Chiến, khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm, nghe tiếng
chân bịch bịch của chị Chiến ở phía sau, “ V i ệ t t h ả y t h ư ơ n g c h ị l ạ ” . Khi bị thương,
một mình nằm lại ở chiến trương, Việt ước ao “ p h ả i c h i c ó c h ị C h i ế n ở đ ầ y ” để
hai chị em cùng bên nhau chiến đấu.
- Với đồng đội, Việt được anh em gọi là “ c ậ u T ư ” một cách rất thân thương. Khi
bị thương, Việt không sợ chết mà chỉ sợ không còn được ở chung với anh Tánh, với đồng đội.
Do đó, Việt quyết tâm bò đi tìm đồng đội. Và khi gặp laị được rồi, Việt xúc động “ k h ó c đ ó
rồi cười đó”
* Sống trong nghĩa tình yêu thương sâu nặng, Việt không bao giờ cô đơn. Hình ảnh
những người thân luôn chập chờn, ẩn hiện quanh anh với bao kỉ niệm ngọt ngào, âu
yếm hoặc quặn thắt xé lòng. Đó là điều góp phần lí giải tính cách anh hùng của người chiến sĩ
trẻ tuổi trên bước đường ra trận.
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân gan góc, dũng cảm, kiên cường.
Việt là một người chiến sĩ dũng cảm, gan dạ nhưng sự gan dạ, dũng cảm ở Việt cũng
có sự khác biệt so với những người chiến sĩ anh hùng khác. Sự dũng cảm của Việt không gắn
liền với kinh nghiệm, sự từng trải, bản lĩnh mà gắn nhiều hon với sự bộc phát và bản tính gan
góc, bướng bỉnh trong con người anh..
- Khi còn nhỏ tí, Việt đã hun đúc, bộc lộ lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết liệt. Trước
sự việc thằng Tây chặt đầu ba, cầm đầu ba đi bêu từ ấp trong tới ấp ngoài, Việt đã chạy theo
mẹ và chị mà la: “ T R Ả Đ Ầ U B A ! T R Ả Đ Ầ U B A ! ” , Lúc thằng Tây ném đầu ba trả lại,
Việt dã " Đ Ầ U B A Ở D Ư Ớ I Đ Ấ T K H Ô N G L Ư Ợ M , C Ứ N H È C Á I T H Ằ N G V Ừ A
LIỆNG ĐẦU MÀ ĐÁ”

- Tuy chưa đủ mười tám tuổi, Việt đã nằng nặc đòi dược tòng quân đế trả thù cho ba má
tìm giặc mà đánh. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tỉến công, rất xứng đáng với lời khen của
chú Năm: “Con N Í T C H Ú N G B A Y K Ì N À Y Đ Á N H G I Ặ C K H Ô N H Ơ N C H Ú H Ồ I
TRƯỚC”
Đặc điểm khác biệt lớn nhất giữa Việt và tập thể anh hùng trong tác phẩm cũng như
phần lớn những người chiến sĩ được miêu tẫ trong văn học bấy giờ chính là việc tác giả không
khai thác hình tượng nhân vật Việt qua hành động, ngôn ngữ như lối mòn truyền thống mà
khai thác hình tượng nhân vật này chủ yếu qua thế giới suy nghĩ, cảm xúc. Những suy nghĩ
miên man của Việt đã đem đến một hình ảnh thực sự mới lạ cho hình ảnh người chiến sĩ,
người đọc thấy ở Việt không chỉ là một nhân vật của những chiến công, của những hành động
anh hùng, dũng cảm mà điều lớn nhất thấy ở Việt là hình ảnh một con người với đầy đủ
những cung bậc cảm xúc: vui, buồn, sợ hãi, lo lắng, thất vọng, hi vọng, quan tâm...
BÀI 13 : CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Nguyễn Minh Châu)
TRỌNG TÂM:
1. Tình huống truyện
2. Nhân vật Người đàn bà làng chài
3. Nhân vật Phùng
4. Ý nghĩa đoạn kết, tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy
NỘI DUNG ÔN TẬP
1. Tác giả :
a) Cuộc đòi:
Nguyễn Minh Châu (NMC) (1930 - 1989)
Thời đại: NMC sống trọn vẹn trong thế kỉ XX, chứng kiến đầy đủ những
biến động dữ dội của thế kỷ này, đặc biệt là những năm tha1ng chống Mỹ gian
khổ, hào hùng nên cuộc đời, sự nghiệp của NMC được chia thành hai giai đoạn:
trước 1975 và sau 1975.
Quê hương: Quỳnh Lưu, Nghệ An. Đây là một mảnh đất nghèo, giàu
truyền thống cách mạng, NMC mang khí chất của người nơi đây: mộc mạc, giản
dị nhưng cũng rất thâm trầm, sâu sắc.
Là nhà văn giàu lòng trắc ẩn với những người nghèo khổ, đáng thương,
cũng vì thế tâm lý của người nông dân trong các sáng tác của NMC luôn được
khai thác một cách rất tinh tế, tỉ mỉ, sâu sắc.
Bản thân:
+ Đường đời: chia thành hai giai đoạn:
. Trước 1975: năm 1950, NMC gia nhập bộ đội từ đó ông sống cuộc đời ý
nghĩa của một chiến sĩ - nghệ sĩ.
. Sau 1975: trở về với cuộc sống đời thường, NMC dốc toàn bộ tâm huyết
với vai trò của một nhà văn cần mẫn, dùng những sáng tác của mình để thúc đẩy
công cuộc đổi mới văn học Việt Nam.
+ Tư chất, tài năng: kiến thức NMC có được chủ yếu qua con đường tự
học, song bằng sự nhạy cảm của một nhà văn tài năng, NMC đã đem đến cho
văn học Việt Nam bàng những tác phẩm vô cùng giá trị.
+ Tính cách: thâm trầm, giản dị, chủ yếu hướng vào đời sống nội tâm, ông
cố trái tim nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn với những người bất hạnh.
b) Sự nghiệp: thực sự phong phú, đồ sộ, ở giai đoạn nào ông cũng đạt đến
đỉnh cao và được biết đến như một trong những nhà văn tài năng nhất của văn
học Việt Nam hiện đại
Bộ phận sáng tác trước 1975: trong giai đoạn này, NMC đã bám sát dòng
chảy của lịch sử, của cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, ác liệt song vô cùng
hào hùng. Ông đã sử dụng ngòi bút của mình để ca ngợi tinh thần đấu tranh anh
dũng, quả cảm của nhân dãn. Cũng do ảnh hưởng của thời đại, các sáng tác của
NMC cũng mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm húng lãng mạn, bởi vậy đôi
khi cái nhìn về hiện thực của ông mang tính chất tô hồng. Sau 1975, những nhận
thức về sáng tác trước 1975 của mình, NMC đã sử dụng hình tượng: “Mọi nhân
vật đều được đặt trong bầu không khí vô trùng” để cho thấy cái nhìn này mang
đậm cảm hứng lãng mạn đã tạo nên người của lý tưởng, của hoàn hảo, không tì
vết nhưng có phần giản đơn.
Sau 1975: dù trước 1975, NMC đã được biết đến như một nhà văn tài năng
nhưng sức nặng trong sự nghiệp của ông chủ yếu dồn tụ và kết tinh ở giai đoạn
sáng tác sau 1975. Bằng linh cảm của một nhà văn xuất sắc, bằng tâm huyết của
một người coi việc cầm bút là một công việc thực sự nghiêm túc và bằng bản
lĩnh của một người dám đi đầu, NMC đã trở thành người mở đường vô cùng tinh
anh. Do tính cách thâm trầm, giản dị nên ở NMC không có những tuyên ngôn,
phát ngôn nhưng bằng chính những sáng tác của mình như tập truyện “Bến
quê”, truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, NMC đã vừa thể
nghiệm, vừa chứng tỏ một cách thuyết phục việc văn học Việt Nam cần tìm ra
một lối đi mới, đó là lối đi đưa văn học về gần hon vói cuộc sống, đi từ hiện
thực lớn của những sự kiện, biến cố đến hiện thực vi mạch của đời tư, thế sự,
đưa người đọc từ chỗ là một sản phẩm toàn thiện, toàn mĩ về đúng với bản chất
của nó: đó là những mặt tốt - xấu, đúng - sai, cao thượng - thấp hèn hay như
cách nói của ông là cố cả rồng phượng, rắn rết.
Tác phẩm chính: Bến quê, tập truyện cỏ lau, truyện ngắn Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành
Với những đóng góp to lớn, NMC đã được Nhà nước truy tặng giải thưởng
Hô Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000.
2. Tác phẩm
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (CTNX) ra đời năm 1983, trong hoàn
cảnh đất nước đã thoát khỏi chiến tranh, không còn bom đạn, chết chóc nhưng
vẫn còn tồn tại đầy rẫy những khó khăn, nhiều nghịch lý trong mạch ngầm của
cuộc sống mà văn học trước đây đã bỏ qua hoặc né tránh. NMC đã viết truyện
ngắn này đế đem đến một cái nhìn chân thực hơn về cuộc đòi và người. Cũng
như tất cả các sáng tác của ông sau 1975, truyện ngấn này cũng là một thể
nghiệm quan trọng của NMC để tìm ra con đường mới cho văn học Việt Nam.
II. Phân tích
1. Nhan đề:
Nhan đề của truyện ngắn CTNX: Phần lớn các tác phẩm của NMC đều
được nhà văn đặt nhan đề từ các hình ảnh, biểu tượng giàu sức gợi. Mảnh trăng
cuối rừng, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, cỏ lau.. .Và với truyện ngắn
CTNX cũng vậy, nhan đề của tác phẩm đã được đặt bằng hình ảnh biểu tượng
lớn nhất ám ảnh nhất trong tác phẩm là CTNX.
Hình ảnh biểu tượng CTNX lại được hợp thành từ hai biểu tượng nhỏ, đó là
“chiếc thuyền” và “ngoài xa”. Hình ảnh thuyền - bến, thuyền - nước vốn là
những thi liệu quen thuộc trong văn học Việt Nam, thường gắn với vẻ đẹp thi vị,
lãng mạn. Nhưng hình ảnh con thuyền cũng luôn gắn liền với ý niệm về sự trôi
nổi, bấp bênh, vô định. Còn “ngoài xa” gợi ra một khoảng cách tạo nên cái đẹp
mơ màng, huyền ảo. vẻ đẹp thơ mộng, thi vị, lãng mạn của thiên nhiên, cuộc
sổng có khả năng đem đến cho người những rung cảm thẩm mĩ mãnh liệt (cũng
giống như việc nhân vật Phùng bắt gặp vẻ đpẹ của CTNX trong khoảnh khắc
ười cho), nhưng theo một lớp nghĩa sâu hơn thì cái vẻ đẹp thơ mộng, thi vị, lãng
mạn lại có thể chính là một thứ vỏ bọc để che lấp đi hiện thực gai góc, xù xì bên
trong. Và từ đó lớp nghĩa sâu nhất của nhan đề này chính là khoảng cách giữa
cuộc đời và thiên nhiên, nếu người nghệ sĩ đặt thiên nhiên của mình cách xa
cuộc đời thì anh ta chỉ có thể tìm được, ghi lại được những vẻ đẹp lãng mạn thơ
mộng của cuộc sống. Nhưng cái lãng mạn, thơ mộng đó đôi khi trái ngược hẳn
với bản chất cuộc đời, giống như việc từ chính con thuyền thơ mộng, Phùng đã
phải chứng kiến một cảnh vô cùng đắng chát, đó là cảnh một người đàn ông
đánh đập dã man một người đàn bà.
Như vậy, ngay từ yếu tố đàu tiên của tác phẩm là nhan đề, NMC đã thể
hiện rất rõ tư tưởng của mình, đồng thời cũng chính là những khao khát đổi mới
của ông sau 1975; đó là: nhà văn không được phép để thứ nghệ thuật của mình
cách xa cuộc đời. Bởi nếu như vậy, cái anh ta nhận được chỉ là “những ánh trăng
xanh lừa dối” (chữ của Nam Cao) mà nhà văn phải đưa nghệ thuật đến gần hơn
với cuộc đời để trở thành thứ nghệ thuật vị nhân sinh chân chính.
2. Tình huống truyện
a. Kiến thức cơ bản chung về tình huống truyện:
Tác phẩm tự sự được cấu thành bởi ba yếu tố: TÌNH HUỐNG - NHÂN VẬT -
TRẦN thuật
Tình huống là hoàn cảnh diễn biến sự việc. Tình huống truyện là diễn biến
các sự việc, là sự phức tạp của tình tiết, là cái éo le nghịch lí của cuộc đời. Tình
huống truyện phải hợp với logic cuộc sống, có vậy tác phẩm mới chân thật. Tình
huống đóng vai trò bộc lộ các mối quan hệ, địa vị xã hội và tính cách nhân vật,
thể hiện chủ đề của tác phẩm. Tình huống càng kì lạ, độc đáo, tác phẩm càng
hấp dẫn, càng hay.
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể
loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt,
khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và chủ đích tư tưởng của tác
giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
Trong truyện ngắn, các tác giả rất chú ý tới việc sáng tạo tình huống (vì đặc
trưng thể loại truyện ngán là dung lượng ngắn, chi tiết cô đọng, hàm súc, phát
hiện ra một nét bản chất trong đời sống). Thông thường, có ba loại tình huống
sau:
Tình huống hành động: chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặc
của nhân vật.
Tình huống tâm trạng: chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc
của nhân vật.
Tình huống nhận thức: chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của
nhân vật.
b. Phân tích tình huống truyện "Chiếc thuyền ngoài xa"
Khám phá - phát hiện - Nhận thức Tình huống 1 : Tình huống khám phá
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, NMC đã tạo ra tình huống
truyện hết sức độc đáo: Anh phóng viên Phùng đang làm công việc đi săn ảnh
nghệ thuật và phong cảnh để làm lịch. Một buổi sáng sớm anh đi trên bãi hiển,
anh bỗng phát hiện ra một bức tranh tuyệt tác của thiên nhiên, đó hình ảnh một
chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong màn sương sớm, lúc ẩn lúc hiện. Cảnh
vật hiện lên trước mặt anh phóng viên Phùng là “một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ. Mũỉ thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe .. ” bầu sương
mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào
“Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một
vẻ đẹp đơn giản và toàn bích" đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng
“như có gì bóp thắt vào ", và trong cái giây phút bối rối ấy Phùng "tưởng
chính mình vừa khám phá thấy cái chân ỉí của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái không khí trong ngần của tâm hon". Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại
cảnh đã mang lại “khoảnh khắc hạnh phúc tràm ngập tâm hồn Phùng ” và
Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong
ống kính của mình.
Khi gặp được khoảnh khắc trời cho, Phùng đã có những cảm xúc thật mãnh
liệt, thật trong sáng: “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước
nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào... “Tôi tưởng
chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám, phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tầm. hồn”, Cảm xúc đó của Phùng thực chất là sự
pha trộn của niềm hạnh phúc, vui sướng đến tột độ, với cảm giác được thanh lọc
trong tâm hồn đế cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trong sáng, nhẹ nhõm.
Từ những cảm xúc, những rung động mãnh liệt này của Phùng, NMC đã
gián tiếp cho thấy vai trò, vị trí, ý nghĩa của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật
chân chính bao giờ cũng đem đến cho người những rung động tinh tế và mãnh
liệt trước cái đẹp nhưng không bao giờ dừng lại ở đó, nghệ thuật chân chính bao
giờ cũng dùng cái đẹp để thanh lọc tâm hồn người, để hướng người đến cái đích
của chân, thiện, mĩ. Ở phương diện này, quan điểm, tư tưởng của NMC đã có sự
đồng điệu với nhà văn Thạch Lam: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao
và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, cải tạo một cái thế giới giả dối và tàn
ác, vừa làm cho tâm hồn người đọc trong sạch và phong phú”.
Tinh huống 2 : tình huống phát hiện ( Phát hiện về đời sống đầy nghịch lý)
Thế nhưng, khi chiếc thuyền vào tới bờ thì một sự thật trần trụi phơi bày
trước Phùng, một sự thực bi thương, đó là hình ảnh những con người lao động
nghèo khổ, xơ xác, như không hề có chút niềm vui, hạnh phúc nào cả. Phùng
nghe tiếng anh làng chài quát vợ "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tạo giết cả
mày đì bầy giờ” rồi nhìn cảnh anh làng chài “mặt đỏ gay, lão rút trong người ra
một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... quật tới tấp vào lưng người đàn bà,
hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất
xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!"trong khi đó thì người đàn bà nhẫn
nhục cam chịu tất cả những sự việc ấy diễn ra làm cho Phùng “kinh ngạc đến
mức, trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn...". Điều làm cho
Phùng càng kinh ngạc sững sờ hơn khi nhìn cảnh thằng Phác lao vun vút đến
chỗ bố nó, giằng lấy cái thắt lưng trong tay bố nó “liền dướn thẳng người vung
chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám
lông đen như hắc ín, loãn xoăn từ rốn mọc ngược lên" của bố nó để bảo vệ mẹ
nó.
Tình huống truyện này đã đưa ra những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa
cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí
giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ
phu tàn bạo của anh làng chài với vợ nhưng không bỏ vợ. Với tình huống của
truyện, nhà văn NMC đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ,
đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một
cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc
sống thì rất cần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, NMC
cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân
thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt
đẹp hơn. Quan điểm này của NMC rất gần với quan điểm của nhà văn Nam Cao
“nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
doi, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than...
(Trăng sáng)".
Tình huống 3 : Tình huống nhận thức
Quá trình nhận thức lại về cuộc đời và người của nhân vật Phùng gán chặt
với hình tượng người đàn bà làng chài trong câu chuyện về gia đình bà ta. Phùng
đã nhận ra cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất,
xót xa nhất khi chiếc thuyền vào bờ với điểm nhìn gần, trực diện, rõ nét.
Những lời lẽ của người đàn bà khiến "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu
vị Bao Công của cải phổ huyện miền biển". Đẩu chợt nhận ra rằng lòng tốt của
anh hóa ra phi thực tế. Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nhưng
trước thực tế đa dạng, muôn nỗi, anh trở thành kẻ ngây thơ.
Những lời lẽ của người đàn bà đã giúp Đẩu nhận ra những nghịch lí của đời
sống - những nghịch lí buộc con người phải chấp nhận một cách chua chát “trên
thuyền phải có một người đàn ông dù hẳn man rợ, tàn bạo”. Từ đây, Đẩu có thể
đã bắt đầu hiểu ra rằng muốn con người thoát ra khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man
rợ cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là lòng tốt, thiện
chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tế.
Tình huống này cùng với tình huống trên của. truyện, Phùng đã có nhận
thức về nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ: Cái đẹp ngoại cảnh cố khi
che khuất cái xấu của đời sống (ban đầu Phùng ngây ngất trước cái đẹp bề ngoài
của hình ảnh con thuyền, về sau anh nhận ra vẻ đẹp ngoại cảnh đó đã che lấp
cuộc sống nhức nhối bên trong con thuyền). Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị
khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình làng chài, Phùng lại thấy cuộc sống nhức nhối
ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít thành viên trong gia đình). Anh đã
nhận ra rằng để hiểu được sự thật đời sống không thể nhìn một cách đơn giản,
phải đi sâu vào thực tế cuộc sống để hiểu được thực tế cuộc sống, những nghịch
lí nhung cổ lí của cuộc sống.
Tóm lại, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhà văn NMG đẫ tạo nền
những tình huống truyện khá độc đáo, tạo cho người đọc sự suy nghĩ về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống và đặt ra một vấn đề hết sức quan trọng
của xã hội là khi nhìn cuộc sống chúng ta phải có cái nhìn đa chiều, chúng ta
mới hiểu cuộc sống sâu sắc hơn. Nếu nhìn cuộc sống một cách hời hợt, theo cảm
tính, theo sách vở... thì chúng ta chưa thể hiểu hết được những nghịch lí nhưng
có lí của thực tế cuộc sống.
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính
vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở
về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của
trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một
không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cố.
Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy
nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều
hài hòa Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái
chân lí của sự hoàn thiện Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại
là một cảnh 'ượng phũ phàng: Người đàn bà xấu xí, người chồng vũ phu, thô bạo
hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu
đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy
khiến lòng anh tan vỡ.
b. Phân tích
Tên gọi
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy
là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà làng chài,
lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta....như một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận
của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đấu,
ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà NMC không đặt tên cho người
đàn bà làng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không
thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà
ở vùng biến nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời
nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền
quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn
bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những
bất hạnh như thị. Nhân vật người đàn bà làng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến
nhân vật thị trường truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Phải “chắng vẫn là
những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong
manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.
Ngoại hình
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người
đàn bà hắng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen
thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ
mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lướỉ, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho
diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung
miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân, ...nhìn ra
ngoài bờ phá Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả
của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau khổ tinh thần đang giày xéo tâm
can.
Số phận và cuộc đời bất hanh.
Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà
tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị,
xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người
chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái
xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu
quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị
có mang với một anh làng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.
Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm.
Nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia
đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh
đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút
giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đì cho ông nhờ, chúng
mày chết hết đì cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà làng chài có cả một cuộc
đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và
lạc hậu. số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện, số
phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Phẩm chất
Sự nhẫn nhục, chịu đựng.
Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc
đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu
đụng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen
thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng
như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình.
Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có
người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề
và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn
nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người đàn
bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm. Thương
con
Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả,
làm tất cả vì nhũng đứa con thân yêu của minh. Thị nhận thấy rằng, các con là
cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án
đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch
nhục nhã của đời mình. Yới người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hon
phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng
đùng bắt con bỏ nó”, Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần
có chồng để cùng nuôi những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là
nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của
người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục:
“Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải song cho con chứ không thế sống cho mình
như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn
để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề
sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay
đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xỉn được với lão...đưa tôi
lên bờ mà đánh”, Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con
bị tổn thương. Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt
vào sâu trong lòng cho riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc
nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương
như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cam động và sâu sắc
nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ
cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như
biến Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
Thậm chí bà thương yêu thằng Phác, thằng con ương bướng nhất trong số
những đứa con của bà. Tính nết và ngoại hình của nó giống bố như lột nên rất
yêu con mà bà phải gửi nó lên rừng cho ông nuôi. Thật đau đớn biết bao khi
người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy
cảnh đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập
mẹ nó thậm tệ. Một tình mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con
còn suy nghĩ nông cạn nó lao nhanh như mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt.
Thậm chí nó còn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với lòng mình chừng nào
nó còn ở đây thì sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi giận
trước hành động rất con trẻ của thằng Phác. Và thật bất ngờ khi người mẹ phản
ứng trước cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một
cái ngã dúi dụi xuống cát Và bỏ đi thì lúc này lòng thương con mới trỗi dậy.
“Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn vừa đau đớn vừa vô
cùng xấu hổ, nhục nhã”, Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người đàn bà ngồi
xệp xuống trước mặt thẳng bé, ôm châm lẩy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái
lấy vái đế, rồi lại ôm chầm lấy Ta lại tìm thây một nghịch lí trong cách hành xử
của người đàn bà. Tại sao khi bị gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà
không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố bà lại đau đớn
đến vậy?. Có lẽ lúc này đã có vô số luồng điện chạy trong tâm trí của người đàn
bà kia. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao?
Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống tính bố nó không? Bà
đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui và
đặc biệt để tâm hồn chúng khổng bị lắng nhũng cặn bẩn của cuộc sống để vẩn
đục tâm hồn. Nhưng giờ đây bà bất lực. Sự chịu đựng và hi sinh của bà đã vô ích
chăng? Bởi khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác “như
một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người
đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Cảm nhận được nỗi đau đớn cực
đỉnh của người đàn bà lúc này ta mới thấy hết bà yêu thương con đến nhường
nào, cái nỗi đau tận cùng vì lòng yêu mà hi sinh nhưng vô ích. Thật cảm động
trước tấm lòng người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động giản đơn mà cao
đẹp nghĩa tình.
Lòng bao dung, độ lượng.
Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một
tấm lòng bao dung, độ lượng đối vói chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của
người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao
giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì
bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc.
Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta
làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu
rằng chòng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau
khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu
sinh. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến
cuộc sống của chồng trở nên khốn khồ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ
nhiều quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Ta cứ hình dung một
người đàn bà khoảng 40 tuổi mà có 10 đứa con thì ắt hẳn người đàn bà ấy sẽ
không thể làm việc nào nhiều ngoài ăn và đẻ. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh
như dồn hết lên đôi vai của người dàn ông. Chính vì thế bà nghĩ mình là căn
nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính
xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ
lượng với chồng.
Sự trải đời, hiểu đời.
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với
người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà làng chài tuy thất
học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm
chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị
che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng
như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh àn Đẩu. Ấn
trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của
Phùng. Nhung người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không
ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người tùng trải. Để
từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ ra bao điều. Bà hiểu thiện chí của chánh
án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song
bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra tù' cuộc đời nhọc nhằn,
lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đảm đàn bà
làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khỉ
phong ba ”,
Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là
người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người
phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà ỉà đế đẻ con, rỏi nuôi con cho đến khỉ
khôn lớn cho nên phải gánh lay cái khổ Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao
thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Nâng niu chút hạnh phức nhỏ nhoi đòi thường.
Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá
hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên
nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng
những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn
nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những
kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh
cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức
mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: ; “lần đần tiên trên gương mặt xấu xí của
mụ chợt ừng sáng lên một nụ cười Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong
cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống
và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát
vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
c. Nghệ thuật miêu tả nhân vật
Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại
hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy đế làm nối bật lên nhũng phấm chất cao
thượng đáng được ngợi ca.
Qua cuộc đời của người đàn bà làng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn
đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất
học, sự tha hóa về nhân cách... nhũng ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.
4. Nhân vật Phùng
Phùng trong truyện vừa là nhân vật chính đồng thời lại là người kể chuyện.
Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh
khiến cho câu chuyện diễn ra vira khách quan lại có chiều sâu khái quát. Trong
tác phang bằng những trải nghiệm Phùng đã có những phát hiện quan trọng về
cuộc sống và nghệ thuật. Từ đó tác giả có thể chuyển tải đến bạn doc những
thông điệp của tác phấm.
a. Là người thiết tha vói cái đẹp và tâm huyệt với nghề + Lý do phùng đến
bờ biển này»
Phùng là một người lính trở về với chiến trường chống Mĩ năm xưa ở một
vùng biển miền Trung với tư cách là một nghệ sĩ nhiếp ảnh với mục đích săn
tìm, chụp một bức ảnh “về thuyền và biển, không có người. Hoàn toàn thế giới
tĩnh vật” để bổ sung cho bộ ảnh nghệ thuật làm lịch, “được treo ở nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật” theo yêu cầu của ông trưởng phòng
“thông minh, sâu sắc, lại lắm sáng kiến”.
Sau gần một tuần lễ “phục kích” công phu, đến lần thứ năm, Phùng đã phát
hiện và “chộp” được một vẻ đẹp “trời cho ” : Chiếc thuyền trên mặt biển với
điểm nhìn từ xa, trong làn sương mờ ảo:
Lần thử nhất, Phùng không lấy “cảnh, người ta đấy một chiếc thuyền xuống
nước ” vì “ không khí vui nhộn...hùng tráng...hơi thô lỗ”.
Lần thứ hai, Phùng cũng không lấy cảnh “thuyền đánh cá thu lưới vào lúc
nhập nhoạng sáng” vì đó là “cảnh chết ” bởi có nhiều người đã khai thác.
Lần thứ ba, Phùng cũng không lấy cảnh “đằng đông đã trắng sáng” vì “tẻ
nhạt, im thít và không màu sắc”.
Phải đến lần thứ tư Phùng mới quyết định bấm máy để thu vào ống kính
cảnh “vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đong
đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh
sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực
rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa
những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh
tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng
người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứạ trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền,
dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên
trời”. Đúng là một cảnh đẹp hài hòa, có hồn: thiên nhiên trong sáng - con người
khỏe khoắn - cuộc sống lao động đầm ấm, tươi vui. Tất cả thật đáng yêu, đáng
ca ngợi.
Để có được cảnh này, Phùng phải qua bốn lần quyết định. Nghệ thuật là
vậy, phải là sự công phu, tìm tòi, đòi hỏi một sự kiên nhẫn cao độ.
b. Là nghệ sĩ tài năng, biết rung cảm trước cái đẹp C.L
Tài năng
Một người nghệ sĩ đích thực, người đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và
giá trị của một “cảnh đắt trời cho”- một cảnh tượng tuyệt đẹp. Phùng đang đứng
trước cảnh biển sớm khi mặt trời mới thức dậy qua đám mây ánh hồng. Phùng
bộc lộ rung động của người nghệ sĩ chân chính trước “Một cảnh đắt trời cho”
mà “suốt đời cầm máy chưa bao giờ thấy”. Nó đẹp “như bức tranh mực tàu của
một danh hoạ thời cổ”. Cảnh đó được nhìn từ xa nên “Mũi thuyền ỉn một nét mơ
hồ loè nhoề vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút hồng hồng do ánh mặt
trời chiếu vào”. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua đôi mắt của người nghệ sĩ. Anh
khẳng định “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp,
một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích ”.
Phùng là người nghệ sĩ chân chính, anh thực sự biết quan sát bằng con mắt
tinh tường của người làm nghề nhiếp ảnh, từ đó lựa chọn được khung cảnh hài
hòa giữa thiên nhiên và con người, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một
lần.
Biết rung cảm trước cái đẹp
Phùng thực sự rung động “Đứng trước nó tôi trở nên bối rối. Trong trái
tim như có cái gì bóp thắt vào” và “phát hiện ra khoảnh khắc trắng ngần của
tâm hồn”. Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết
quan sát lựa chọn cái đẹp của thiên nhiên, cảnh vặt, con người. Sự rung động
của người nghệ sĩ đã đến đúng lúc. Sự rung động thực sự khi đứng trước cái đẹp.
Cái đẹp tự nhiên “đắt giá” , “trời cho ”, mới thực sự làm rung động lòng người.
Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho
đời. Phùng còn nhận ra trong suy nghĩ của mình “chẳng biết ai đó lần đầu phát
hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức ”, Đó là cái đẹp phải kết hợp với cái tâm,
cái tài kết hợp với cái thiện. Hay đó cũng chính ià quan điểm của NMC thể hiện
trong cả cuộc đời cầm bút của mình.
c. Là người có trái tim yêu thương, giàu lòng trắc ẩn
Đang sung sướng vì bắt gặp cảnh đẹp trời cho thì chiếc thuyền đâm thẳng
vào chỗ anh đứng. Từ chiếc thuyền đẹp như mơ, Phùng thấy bước ra một đôi vợ
chồng làng chài mệt mỏi, xấu xí, thô kệch ... “trạc ngoài 40, một thân hình quen
thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rẽ
mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ “Người đàn bà đứng lại, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Còn gã đàn ông không chỉ có ngoại hình xấu xí mà ngôn từ còn thô lỗ, hành
động cục cằn: “ Tấmn lưng rộng và cong như lưng thuyền. Mái tóc tổ quạ.
Chân đi chữ bát... hàng lông mày rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ”.
Tâm trạng và hành động của Phùng:
Phùng bất ngờ đến mức há hốc mồm ra mà nhìn, ném chiếc máy ảnh xuống
đất, chạy nhào tới. Nhưng anh chưa kịp ra tay thì thằng Phác đã chạy tới giật
chiếc thắt lưng từ tay người cha vũ phu.
Lần thứ 2 chứng kiến cảnh bạo lực, Phùng không thể nhắm mắt làm ngơ.
Anh xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác .
Phùng đã lắng nghe, thấu hiểu và cảm thông với nỗi khổ của người đàn bà
làng chài. Từ sự thật phũ phàng trên bãi biển về chiếc thuyền đánh cá đẹp như
mơ, nghệ sĩ Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của nhũng người dân
chài lưới. Biết bao cảnh đời cứ phơi bày ra trước mắt: Người đàn bà xấu xí, lam
lũ, khổ cực. Gã đàn ông độc dữ, thô lõ cục cằn và dáng vẻ đầy khắc khổ, hung
ác.
Anh hiểu rằng cặp vợ chồng làng chài là nạn nhân của cái nghèo khổ, vất
vả lao động cật lực mà vẫn ngặt nghèo vì miếng cơm manh áo vì đông con.
Người đàn bà thú nhận: “giá tôi đẻ ừ và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn
’'.Thì ra đẻ nhiều, thuyền nào cũng từ mười đến hơn mười đứa. Đây là nguyên
nhân của sự đói nghèo. Rồi thiên tai, trời làm động biển không ra khơi được nên
có lúc hàng tháng “vợ chồng con cái phải ăn xương rồng chấm muối”. Cái lí ở
đời “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn
lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con
chứ không thể sống như mình trên đất được”. Do con người, do thiên tai do cái
lẽ ở đời đã ăn sâu, bám bám rễ hàng ngàn đời nay mà người đàn bà phải chịu
đau khổ. Người đàn ông vì vất vả cực nhọc, không biết đổ cái bực tức, uất ức
vào đâu, chỉ còn biết trút lên người vợ, coi việc đánh vợ như trò giải tỏa tâm lí.
Đáng đau lòng hơn mà có lẽ Phùng cảm thông được cho người đàn bà làng
chài kia chính là cái nhìn về thằng Phác. Vừa chiều tối hôm trước nó vẫn còn
ngủ với Phùng. Ấy thế mà trong buổi sáng hôm sau khi chứng kiến cảnh bố
đánh mẹ nó đã. phản ứng làm Phùng không ngờ. Vậy là sự bất ngờ với Phùng
không chỉ là từ người đàn ông và đàn bà kia mà ngay cả từ tâm hồn trong sáng
ngây thơ của thằng bé cũng bị làm hoen mờ bởi những bạo lực của gia đình. Cậu
bé Phác thương mẹ nhưng hành động liều lĩnh, thiếu suy nghĩ, Nó chỉ nghĩ
thương mẹ bị đánh mà sẵn sàng bỏ quên tình phụ tử. Xét cho cùng, Phác cũng là
nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ xem cử chỉ của nó thì thấy: “Cái thằng nhỏ
lặng lẽ đua mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn một người mẹ như muốn lau đi
những giọt nước mắt”. Hành động nhất thời của Phác “Như viên đạn” bắn vào
người bố và lúc này “đang xuyên qua tâm hồn” người mẹ. Tình cảnh thật đau
lòng. Làm thế nào để xoá đi những chuyện đau lòng trong gia đình này. Phùng
đau đớn đi qua những thực cảnh để có một trải nghiệm và nhận ra mặt trái, mặt
thật của cuộc sống đằng sau vẻ đẹp nghệ thuật mà Phùng đã khám phá ra từ vẻ
đẹp của chiếc thuyền.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của
anh về lao động nghệ thuật. Nghệ thuật không thể tách rời với cuộc sống. Nghệ
thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hon
lên. Chi tiết Phùng đánh rơi chiếc máy ảnh mà lao vào đánh người đàn ông để
cứu lấy người đàn bà đã khẳng định điều này. Nghệ thuật chỉ có thể sống được
và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nên đến mãi sau này, mỗi khi
nhìn vào bức ảnh nghệ thuật toàn thiện, toàn mĩ của mình thì anh đều nhìn thấy
“người đàn bà cao lớn ấy bưrớc ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà cao lớn
với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân
dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Nghệ thuật
thực sự chỉ sống được khi được cất lên “từ những tiếng đau khổ kìa trong cuộc
đời”.
Phùng đã hiểu về người đàn bà làng chài kia : đằng sau vẻ ngoài xấu xí,
thái độ nhẫn nhịn đến đáng thương kia là tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn
bà.
Phùng còn có nhận thức về cách giải quyết tấn bi kịch gia đình. Cách giải
quyết của chánh án toà án huyện là: Gọi người đàn bà tới cơ quan và nói bằng
giọng giận dữ: “Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu”. Chỉ có cách duy
nhất là bỏ gã đàn ông đó đi. Cách giải quyết này tuy đứng về phía người đàn bà
nhưng thiếu thực tế. Đáng lẽ phải tìm hiểu nguyên nhân, phân tích cụ thể, nam
bắt yêu cầu nguyện vọng. Cách giải quyết này thực sự chưa ốn. Không thể áp
dụng lí thuyết sách vở mà phải cân cứ vào thực tế đời sống. Cách gợi ý của Đẩu
và câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn phòng “lồng
lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Cảm giác của
Phùng thấy như vậy. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tuỳ
tiện. Giải quyết li hôn, cổ vũ li hôn càng làm cho hạnh phúc gia đình rạn nứt và
tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra
khơi lao dộng cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột
trong nhà. Người đàn bà ấy và 10 đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi
trên thuyền không còn bàn tay lao động chủ đạo của gã đàn ông??? Câu trả lời
thật giản đơn như chân lí cuộc sống lao động mà người đàn bà lam lũ kia đã nói
cho Đẩu và Phùng hiểu. Và từ đó chân lí của cuộc sống đã được làm sáng tỏ.
Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông. Phùng đi gặp thằng Phác. Kết quả
như thế nào, tác giả còn bỏ ngỏ. Chỉ biết rằng hình ảnh đọng lại cuối tác phẩm là
chiếc thuyền vẫn lênh đênh ngoài phá trong gió bão, trong biển động khi tất cả
những chiếc thuyền khác đã cập bờ. Và hình ảnh đầy ám ảnh của người đàn bà
trong bức ảnh của Phùng mỗi khi anh nhìn vào đó. Phải chăng đây là sự trăn trở
trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn, vất vả của người làm nghệ thuật. Đó
là mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Nỗi trăn trở của Phùng về hình ảnh
người đàn bà làng chài cứ hiện ra mỗi lần anh ngắm bức ảnh chính là quá trình
tự nhận thức của mình và trau dồi nhân cách của mình.
d. Ý nghĩa hình tượng nhân vật
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là 44điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn 9 là
hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu
chuyện kể vừa tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy
ngẫm« Hình ảnh người nghệ sĩ “khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận
khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận thức của Phùng thực sự đã đổi khác, anh đã
để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít thi vị ùa tới “trời trở
gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và
biến bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu và . chiếc thuyền đang chống chọi với sóng
gió giữa phá”. Chiếc thuyền được đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển
động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn còn đó. Nó cho thấy rằng, chiếc
thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt
của nhà văn về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những
người đi biển họ vẫn luôn phải chống chọi với phong ba và bão táp và cuộc song
vốn chang bao giờ bình yên.
Truyện ngắn kết thúc bằng những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ
mỗi lẫn ngắm bức ảnh được chụp tại vùng biến nọ: nhìn kĩ vào bức ảnh đen
trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”.
Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang'bước ra khỏi
tấm ảnh...”. “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống,
là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh
“người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn
khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh.

BÀI 14: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


(Lưu Quang Vũ)

TRỌNG TÂM : Bi kịch của nhân vật Trương Ba


NỘI DUNG ÔN TẬP
I. Khái quát
1. Tác gíả:
a) Cuộc đời:
- Lưu Quang Vũ (LQV) (1948 - 1988)
- Thời đại: LQV thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ, sau đó tiếp tục cùng dân tộc bước vào giai đoạn đổi mới, Cả hai giai
đoạn lịch sử này đều ảnh hưởng đậm nét đến sáng tác của ông. Giai đoạn chống Mỹ
LQV viết nhiều về chiến tranh và nhân tính, còn giai đoan đổi mới với bầu không
khí dân chủ cởi mở, LQV tìm đến kịch để thế hiện nhu cầu được nói thẳng, nói
thật của mình.
- Ouê hương: ĐN, sinh ra ở Phú Thọ, lớn lên và sống một thời gian dài ở

Hà Nội, khi tham gia kháng chiến đã đi qua rất nhiều miền đất xa xôi của Tố
quốc.
Dù thời gian sống không nhiều nhưng vốn sống, vốn trải nghiệm của LQV
rất phong phú, đây là cuộc sống quan trọng để ông có thể xây dựng nên rất nhiều
nhân vật kịch thành công ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị, tính cách.
- Gia đình: Sinh ra trong một gia đình mà cha ông cũng là một nghệ sĩ viết
kịch, bởi vậy ông có một chỗ dựa tinh thần rất lớn. Hon nữa, những khao khát,
những dang dở mà người cha chưa thực hiện được đã thôi thúc ông đến với kịch
nói như một duyên nợ và trở thành nhà soạn kịch tài năng nhất trong giai đoạn
đổi mới ở Việt Nam.
-Bản thân:
+ Đường đời: Ngắn ngủi song đầy sóng gió, sớm đến với tình yêu và sớm
đạt được hạnh phúc viên mãn nhưng hạnh phúc đó cũng nhanh chóng tan vỡ.
Thất bại trong cuộc hôn nhân khiến LQV rời vào khủng hoảng trầm trọng, mất
khoảng gần 2 năm ông sống không lý tưởng, không mục đích, đi lang thang
khắp noi, làm phụ hồ, vẽ pano.. .chỉ để chứng tỏ mình đang tồn tại. Phải đến khi
gặp được Xuân Quỳnh, LQV mới thực sự cập được vào bờ bến của hạnh phúc.
Tình yêu, sự động viên, nâng đỡ của người yêu, người bạn đời, người đồng
nghiệp là Xuân Quỳnh đã giúp đỡ LQV rất nhiều để ông đạt đến độ thăng hoa
trong nghệ thuật. LQV đạt được nhiều thành tựu xuất sắc ở hai thể loại: thơ, kịch
nhưng chính lúc tài năng đang nở rộ thì cái chết bất ngờ và đầy định mệnh đã
đến với ông và gia đình để kết lại bản nhạc đầy cung bậc của cuộc đời ông.
+ Tư chất tài năng: LQV thông minh và vô cùng sắc sảo, ông là một người
nghệ sĩ đa tài, ngoài làm thơ, viết kịch ông còn có khả năng vẽ tranh, viết nhạc,
b) Sự nghiệp:
* Thơ: LQV sớm đến với thơ, sớm chứng tỏ mình là một nhà thơ tài năng.
Thơ LQV có sự kết hợp cái nhiệt huyết của tuổi trẻ, cái dạt dào mãnh liệt của
cảm xúc và chiều sâu triết lý.
Trong thơ LQV luôn có một hình tượng lớn, hình tượng của Xuân Quỳnh
với
“em”
Biết ơn em từ miền cát gió
VỀ vớỉ anh bông cúc nhỏ hoa vàng
Anh thành người có ích cũng như em
Anh biết sống vũng vàng không sợ hãi
Như người làm vườn, như người dệt vải
Ngày của đời thường, ngày ở bên em
Anh biết, tình yêu không phải vô biên
Như tia nắng chúng mình không sống mãi
Như câu thơ chắc gì ai đọc lại
Ai biết ngày mai có những gì
Ngườỉ đổi thay năm tháng cũng qua đi
Giữa thế giới mong manh nhiều biến đổi
Anh yêu em và anh tồn tại.
Thơ LQV giàu tính triết lý:
Dù đục dù trong con sông vẫn chảy
Dù cao dù thấp cây lá vẫn xanh
Dù phàm tục hay kẻ tu hành
Đều phải sóng từ những điều rất nhỏ Ta hay chê cuộc đời méo mó Sao ta
không tròn ngay tự trong tâm Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm Nhưng chồi non
tự vươn lên tìm ánh sáng Nếu tất cả đường đời đền trơn, láng Thì chắc gì ta đã
nhận ra ta. ”
* Kịch:
Vai trò: LQV đến với kịch san khi đến với thơ nhung nhũng khát khao đau
đáu của người cha cùng tài năng thiên bẩm của LQV khi vừa bước chân lên sân
khấu kịch nói đã trở thành “người khổng lồ không có địch thủ”, thành “trái núi
không thể vượt qua” trong vòng khoảng 20 năm. LQV đã gánh trên vai mình
nền kịch nói của cả hai miền Bắc
- Nam, ông đã sáng tác trên 50 vở kịch, được các đoàn kịch nói trên khắp

cả nước đặt hàng và mời dựng vở diễn.


- Đề tài: Kịch của LQV có thể chia thành hai mảng đề tài lón:

+ Khai thác các tích truyện dân gian (hồn trương ba da hàng thịt, nàng
Xita...)
+ Lấy chất liệu từ hiện thực công cuộc đổi mới đất nước trong nhũng năm
80 (Tôi và chúng ta, nếu anh không đốt lửa)
- Đặc điểm: Dù đi vào mảng đề tài nào, kịch của LQV đều mang một số

đặc điếm cơ bản.


+ Tươi - động - chất hiện thực (dù lấy bối cảnh từ các truyện dân gian)
+ Nóng - bỏng - tính thời sự (LQV mạnh dạn để cập đến những vấn đề
nhạy cảm, nhũng thói hư tật xấu trong xã hội: quan liêu, tham ô...
+ Rất giàu tính triết lý (vấn đề LQV đề cập trong các vở kịch của mình
không chỉ đúng với một vài hoàn cảnh, một vài trường hợp mà bao giờ cũng
mang ý nghĩa khái quát để đúng với mọi thời đại).
Đó là lý do mà hơn hai thập kỷ đã đi qua và chắc chắn là còn mãi về sau
này khi đọc và nghiên cứu tư tưởng của LQV người ta vẫn thấy bất ngờ, mói mẻ.
Đó là lý do để có nhà phê bình đã khẳng định chắc nịch: “LQV không bị cũ bởi
thời gian”.
- Vị trí, ý nghĩa: Đối với thể loại .kịch nói - thể loại mối được du nhập và
phát triển ở Việt Nam trong thế kỷ XX, LQV là ngươi có công rất lớn trong việc
phát triển, hoàn thiện và đưa thể loại này lên đến đỉnh cao. Ông được coi là nhà
soạn kịch lớn nhất, tài năng nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, được mệnh
danh là Môlie của Việt Nam. Việc LQV đột ngột qua đời được coi là một lỗ hổng
không thế lấp đầy với những đóng góp to lớn của mình. LQV đã được nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 2 năm 2000.
2, Tác phẩm:
Thời điểm sáng tác: 1981 đến 1984 được cong diễn.
- Cốt truyện: (SGK-209)

- Nhận xét: Dễ nhận thấy, vở kịch “Hồn trương ba, da hàng thịt” của LQV

mượn tích truyện “Hồn trương ba, da hàng thịt” trong dân gian nhưng “Hồn
trương ba da. hàng thịt” của LQV không phải là sự mô phỏng, sạo chép hay một
cái bóng của tích truyện dân gian mà đó chỉ là một cách độc đáo để LQV lật lại
vấn đề, đối thoại lại với dân gian, thậm chí giễu nhại lại với dân gian. Có thể
thấy, điểm kết thúc của truyện dân gian (hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt
sống hạnh phúc với gia đình, vợ con) chính là điểm khởi đầu để LQV triển khai
toàn bộ vở kịch của mình. Lướt qua rất nhanh những chi tiết, sự kiện của truyện
dân gian đó là Trương Ba hiền lành, chăm chỉ ra sao, bị chết oan như thế nào,
sống lại trong thân xác anh hàng thịt để LQV coppy vào việc hồn Trương Ba
sống trong thân xác anh hàng thịt, khác hẳn với cái nhìn ngây thơ, lãng mạn và
có phần ảo tưởng của tác giả dân gian, LQV đã khai thác tất cả những bất ổn,
đào sâu vào những đau khổ, bất hạnh của nhân vật Trương Ba khi phải sống
trong xác hàng thịt. Vở kịch của LQV thể hiện tính đối thoại rất rõ với dân gian:
+ Dân gian để cho Trương Ba sống hạnh phúc, hòa bình trong thân thể anh
hàng thịt vì quan niệm được sống là hạnh phúc, còn LQV để Trương Ba đau
khổ, bất hạnh trong thân xác anh hàng thịt lại nhằm thể hiện rõ tư tưởng được
sống chưa chắc đã là hạnh phúc mà quan trọng là phải sống như thế nào.
+ Xét đến cùng, truyện dân gian để Trương Ba được sống hạnh phúc là do
quan niệm truyền thống đề cao phần hồn của con người, còn LQV lại cho thấy
một sự thật: phần hồn đôi khi thật nhỏ bé, yếu ớt trước sự lấn át của xác thịt, dục
vọng.
Như vậy, về mặt hình thức: “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của LQV có
phần giống với Truyện dân gian song về bản chất lại khác hẳn. Hình thức “đã
rượu mới vào bình cũ” là cách để LQV triển khai vô cùng mới mẻ, hiện đại, sâu
sắc.
- Vị trí, ý nghĩa:
+ Với LQV tác phẩm là vở kịch gây được tiếng vang lớn nhất, khẳng định
tên tuổi, tài năng, tầm vóc của LQV
+ Với Văn học Việt Nam, đây là một trong những vở kịch xuất sắc nhất thể
hiện sự nhập cuộc của thể loại kịch nói với cổng cuộc đổi mới văn học, vở kịch
được coi là đỉnh cao của kịch nói Việt Nam.
II. Đọc - hiểu vb
1. Nhan đề:
LQV đã giữ nguyên tên của truyện dân gian trở thành tên vở kịch của
mình. Nhan đề “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đã thể hiện sáng rõ mâu thuẫn
trung tâm và xuyên suốt toàn bộ vở kịch, đó là mâu thuẫn giữa hồn - xác, bên
trong - bên ngoài. Đồng thời, nhan đề cũng cho thấy bi kịch lớn nhất của nhân
vật trung tâm chính là bi kịch “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, không
được sống là mình.
Nhan đề giản dị, sáng rõ, thể hiện được tất cả những vấn đề hung tâm quan
trọng của tác phẩm.
2. Màn đổi thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
2.1. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân trong toàn tác phẩm: nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại
giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn kết là bởi việc Trương Ba sống
nhờ trong thân xác anh hàng thịt đã đem đến quá nhiều bất ổn, thay đổi, mất
mát, đau khổ cho bản thân Trương Ba và nhiều người xung quanh.
+ Bản thân Trương Ba vốn là người làm vườn hiền lành, chất phác, tốt
bụng nhung dưới ảnh hưởng của xác hàng thịt đã trở nên thô lỗ, nặng nề nhiều
khi bị dục vọng của xác hàng thịt lấn át nên thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, run
ray khi đúng trước sự trẻ đẹp của. cô vợ hàng thịt. Ý thức rõ được sự thay đổi
của mình, Trương Ba vô cùng đau đớn.
+ Với những người xung quanh: vợ Trương Ba đau khố, tự ti về sự già yếu
của mình, trước sự trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt, đau khổ vì ban ngày Trương Ba
phải sang ở bên nhà hàng thịt, cái Gái - cháu - nội của Trương Ba nhất quyết
không chịu nhận ông, cô con dâu dù thấu hiểu nhưng không thể phủ nhận việc
cha mình đang ngày một thay đổi, bác Trưởng Hoạt - bạn đánh cờ - bắt đầu xa
lánh, khinh bỉ ông vì nó - cờ của Trương Ba không còn khoảng đạt - cao thượng
như xưa mà trở nên bần tiện - đầy toan tính, chỉ có anh con trai của Trương Ba
và bọn lý trưởng là vui thích trong việc Trương Ba sống lại trong thân xác hàng
thịt nhưng đều nhằm mục đích xấu xa;, thấp hèn: anh con trai nhờ thân xác hàng
thịt của bố để buôn gian bán lận, còn bọn lý trưởng vì cả hai gia đình đều muốn
Trương Ba về nhà mình nên kiếm cớ sách nhiễu để trục lợi
- Trực tiếp: Tất cả những thay đổi, bất ổn, đau khổ, mất mát này được
LQV triể khai suốt chiều dài vở kịch, chúng gối lên nhau, nối tiếp nhau để đầy
nỗi đau khố, bế tắc của Trương Ba lên đến đỉnh điểm. Điều đó thể hiện rất rõ ở
lòi độc thoại nội tâm của nhân vật ở đầu đoạn trích. Cả một lời thoại dài đều
được tạo từ các câu cảm than với nhịp nhanh, ngắn, liên tiếp, dồn dập: “Không!
Khôngỉ Tôi không muốn sống như thị mày mãiỊ Tôi chán cái chô ở không phải
của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thê kênh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu
sợ mỉ, ta chỉ muốn rời xa mỉ tức khắc! Neu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ,
để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát! ” đã cho thấy nỗi đau đớn, phẫn
uất của Trương Ba bị đẩy lên đến đỉnh điểm, không còn kìm giữ được ở trong
lòng mà bật ra ngoài như một nhu cầu cần được giải tỏa. Từ chỗ ý thức được sự
thô lỗ của thân xác anh hàng thịt, Trương Ba đã đi đến quyết định không chấp
nhận sống chung với thân xác anh hàng thịt. Đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cuộc đối thoại giữa hồn và xác.
2.2. Diễn biến:
- LQV đã dùng tới 25 lời thoại để triển khai cuộc đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt. Điều này đẵ phần nào chứng tỏ đây là một màn đối
thoại có ý nghĩa vô cùng quan trọng., Nhìn một cách khái quát có thế thấy đây là
một màn đối thoại có tính chất căng thẳng, quyết liệt, đầy kịch tính, nó đã làm
bật lên trục mâu thuẫn trọng tâm của toàn bộ tác phẩm.
* Mô tả diễn biến:
- Hồn bắt đầu cuộc đối thoại bằng sự phủ nhận quyết liệt, mạnh mẽ về
vai trò, tầm ảnh hưởng của xác hàng thịt với mình: “Vô lý, mày không thế biết
nói! Mày không cố tiếng nối, mày chỉ là xác thịt âm u đui mũ,,,“Mày chỉ là cái
vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không cỏ tư tưởng, không cố cảm xúc ”.
- Xác đáp lại bằng sự khẳng định chắc nịch về sức mạnh ghê gớm
cũng như sự sai khiến, chi phối của nó đối với hồn: “Có đấy! Xác thịt có
tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai
khiến, chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khỉ át cả cái linh
hồn cao khiết của ông đấy!
- Trước cái lí lẽ sắc sảo của xác, hồn trở nên bối rối, từ chỗ phủ nhận
quyết liệt, hồn đã buộc phải thừa nhận sự tồn tại của xác nhưng quy nó gấn với
nhiều thứ xấu xa, thấp hèn: “Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất
cứ con thú nào cũng có được”
- Nhận thấy sự thắng thế của mình, xác bắt đầu lấn lướt bằng việc đưa ra
dẫn chứng cụ thể, xác thực về việc hồn Truong Ba đã rung động, bối rối trước sự
trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt cùng những thói quen tầm thường, dung tục như xác
trước đây: “Tôi chỉ trách là sao đèm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài
của!.. .Hà. hà, cái món tiết canh, cồ hữ, khẩu đuôi và đủ các thứ thú vị khác
không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao ? ”
- Bằng chứng không thể chối cãi đó đã làm cho hồn trở nên xấu hổ. Hồn
chỉ còn phủ nhận được một cách yếu ớt bằng cách đổ lỗi cho xác: “im đi! Đấy là
mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày...” rồi ngụy biện: “Ta vẫn có một đời
song riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn...
- Lời ngụy biện yếu ớt của hồn đã làm cho xác thấy nực cười, nó đã chế
giễu các “nguyên vẹn, trong sạch, thằng than” của hồn bằng hành động tàn bạo:
tát thằng con tóe máu mồm, máu mũi, trong đà thắng thế, xác còn tiếp tục lên
giọng khẳng định vai trò, tầm quan trọng của mình: “Nhờ tôi mà ông có thể làm
lụng, cuốc xới...Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những
giác quan của tôi” VÀ nó còn chỉ trích về thói tật của nhũng kẻ lắm sách, những
chữ, đã vịn vào cớ tâm hồn cao quý để bỏ bê, hành hạ thân xác. Nó đã đưa ra
một lý lẽ quan trọng mà hồn không thể chối cãi được: “Mỗi bữa tôi đòi ăn 8 - 9
bát cơnn, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không cỏ đủ 8 - 9
bát cơmn cho tồi ăn chứ! ”
- Đến đây, hồn Trương Ba đã bế tắc, tuyệt vọng và thất thế hoàn toàn, chỉ
còn đáp lại bằng thứ ngôn ngữ rời rạc, đứt quãng.
- Lấn át hoàn toàn được hồn bằng sự mạnh mẽ, trâng tráo, sau đó xác đã
rất khôn ngoan khi hạ giọng để dụ dỗ, ve vuốt hồn tham gia vào “trò chơi tâm
hồn” vô cùng nguy hiểm: “Làm xong điều gì xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để
ông được thanh thản. Hà hà, miên là ông vân làm đủ mọi việc đế thỏa mãn
những thềm khát của tôi! ”.
- Kết thúc màn đối thoại, xác đã đạt được mục đích đó là thuyết phục hồn
nhập trở lại làm một với mình.
* Nhận xét về diễn biến:
- Nhận xét về hồn: Như vậy, trong cuộc đối thoại người đọc (người xem)
có thể cảm nhận rõ sự yếu ớt đến tội nghiệp của hồn, sau mỗi một lời thoại, 'hòn
lại phải đi xuống một nấc thang trong việc nhượng bộ, chấp nhận những gì xác
nói, để rồi đi đến chỗ thất thế và tuyệt vọng hoàn toàn.
+ Từ chổ hào hứng khi phủ nhận quyết liệt, mạnh mẽ vai trò, tầm ảnh
hưởng của xác, hồn đã buộc phải cay đắng thừa nhận.
+ Từ chỗ sẵn sàng đối đáp lại những lý lẽ của xác, ngôn ngữ của hồn trở
nên đứt quãng, ngắn ngủi, yếu ớt (tác giả thể hiện ở một loạt dấu ba chấm trong
lời thoại của hồn).
+ Từ chỗ cao đạo gọi xác là mày một cách đầy khinh miệt, hồn đã buộc
phải thay đổi gọi xác là anh.
+ Từ chỗ tìm mọi cách để có thể thoát khỏi thân xác hàng thịt, hồn đã phải
đau đớn, bần thần nhập lại với thân xác đó.
—» Trong cả đoạn thoại, hồn hiện lên vô cùng cao quý, trong sáng, thánh
thiện nhưng lại trở nên yếu ớt trước cái trâng tráo vô sỉ nhung lại rất đúng với
thực tế của xác. Bởi vậy, trong cuộc đối thoại đầy kịch tính này, hồn đã thua.
“ Nhận xét về xác: Ngược lại với hồn, trong cuộc đối thoại xác tỏ ra vô
cùng ghê gớm, lọc lõi, mạnh mẽ và khôn ngoan, lời lẽ mà nó tuôn ra mỗi lúc
một trơn tru, hể hả. Sự khôn ngoan của xác thể hiện rất rõ trong cách thức mà nó
dùng đế quy phục hồn: khi nó đưa ra lý lẽ sắc sảo, hùng hồn; khi nó lại đưa ra
những dẫn chứng cụ thể không thể chối cãi; khi thì nó lấn lướt, lên giọng phê
phán, chỉ trích gay gắt; lúc lại hạ giọng đế ve vuốt, dụ dỗ kết hợp sự khôn ngoan
lọc lõi với sự trâng tráo, vô sỉ xác đã thắng thế hoàn toàn trong cuộc đối thoại
khiến hồn buộc phải quay lại chung sống hòa bình với nó.
- Mối quan hệ giữa hồn và xác: Trong toàn bộ đoạn hội thoại hồn và xác
được tác giả đặt ở hai vị thế đối lập, tương phản một cách gay gắt và mâu thuẫn
với nhau vô cùng quyết liệt: hồn trong sạch bao nhiêu thì xác ti tiện bấy nhiêu,
hồn nho nhã bao nhiêu thì đối lập lại xác thô lỗ bấy nhiêu: hồn yếu ớt, tội nghiệp
bao nhiêu thì xác lại mạnh mẽ, thắng thế bấy nhiêu.
—> Kêt quả: Từ diễn biến này, kết quả tất yếu của màn đỗĩthoại là hồn đã
thua một cách thảm hại, buộc phải quy phục, buộc phải quay trở lại thân xác anh
hàng thịt.
2.3. Ý nghĩa của màn đối thoại:
- Khái quát: Như đã khẳng định với 25 lời thoại dài, đây là một màn đối
thoại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó chứa đựng vấn đề cốt lõi, vấn đề mang
tính chất chìa khóa cho toàn bộ tác phẩm đồng thời cũng là đoạn đối thoại kết
tinh đậm đặc những chiều sâu, triết lý vô cùng sâu sắc của LQY.
- Ý nghĩa về mặt nội dung: về mặt kiến thức cuộc đối thoại giữa hồn và
xác mà LQV xây dựng nhuốm màu sắc phi lý vì trên thực tế, hồn và xác của mệt
người không thể tách rời nhau ra để đối thoại với nhau như vậy nhưng kiến thức
phi lý này lại chính là phương tiện độc đáo để LQV chuyển tải những nội dung
hợp lý, sâu sắc và mang tính triết lý.
+ Từ nỗi đau khả của Trương Ba khi phải song trong thân xác anh hàng
thịt, khi phải chung đụng với cái tầm thường, dung tục và có khi bị cái tarn
thường, dung tục ấy sai khiến, LQV đã cho thấy bi kịch của tất cả những ai
không được sống là mình: “Bên. trong một đằng, bên ngoài một nẻo” ở đó hàm
chứa lời răn đe, cảnh tỉnh vô cùng nghiêm khắc của tác giả với những ai đang cố
gắng tạo cho mình một vỏ bọc, bề ngoài giả dối khác với bản chất thực bên
trong, bởi dù bị ép buộc hay cố tình: “Bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
thì hậu quả của nó cũng là vô cùng to lớn.
+ Xét đến cùng, bị kịch của Trương Ba chính là do không có sự hài hòa,
thống nhất giữa bên trong và bên ngoài, giữa linh hồn với thể xác. Từ việc nhận
thức điều đó, tác giả đã đưa ra cái nhìn mang tính chất biện chứng về hai phần
hổn và xác của người, cả hai phần đều có ý nghĩa quan trọng và không thể tách
rời nhau ra. Bởi vậy, điều quan trọng là làm sao để thể xác và linh hồn của một
người được hài hòa, cân đối và hỗ trợ nhau phát triển, cố tình nghiêng về bất cứ
bên nào cũng sẽ đem đến hậu quả nghiêm trọng.
+ Từ việc Trưong Ba - một người làm vườn hiền lành, chất phác, lương
thiện, sau 3 tháng sống trong thân xác hàng thịt đã bị nhiễm những thói xấu,
những điều dung tục, vở kịch của LQV còn đặt lại một vấn đề đã quen thuộc
nhưng chưa bao giờ thôi nhức nhối, đó là mối quan hệ giữa tính cách với hoàn
cảnh. Dù muốn hay không, tính cách của người trong quá trình va đập, tiếp xúc
với thực tế cuộc sống với hoàn cảnh sống sẽ ít nhiều bị hoàn cảnh đó tác động.
Bởi vậy để nhân cách người trở nên tốt đẹp, điều quan trọng là phải cải tạo làm
cho môi trường sống của người trở nên trong lành, nhân văn và tốt đẹp hơn. Vấn
đề nhức nhối này từ những trang văn của Nam Cao trước 1945 đến những trang
viết của Nguyễn Minh Châu và LQV ở thời đại đổi mới sẽ luôn là những điều
thôi thúc người đọc phải suy nghĩ.
+ Không chỉ đề cập đến những vấn đề sâu sắc truyền thống, vở kịch “Hồn
Trương Ba da hàng thịt” và đặc biệt là màn đối thoại giữa hồn và xác còn đề cập
đến những vấn đề hết sức mới mẻ, hiện đại. Với hình tượng xác hàng thịt khôn
ngoan, sắc sảo và có sức mạnh ghê gớm trong việc chi phối linh hồn Trương Ba,
LQV đã buộc tất cả những người theo lối tư duy truyền thống của người Á Đông
là chỉ coi trọng phần hồn phải nghĩ lại. Nhà văn đòi hỏi một cái nhìn khách quan
hơn, công bằng hơn trong việc đánh giá vai trò thể xác của người. Màn đối thoại
đã cho thấy thể xác cũng có vai trò quan trọng không kém linh hồn và người cần
phải chăm sóc, nâng niu thân xác của mình, bởi rời bỏ thể xác, linh hồn sẽ chỉ là
một thứ siêu hình, mờ nhạt hoặc không tồn tại, gạt bỏ mục đích ti tiện tầm
thường của xác hàng thịt trong tác phẩm thì lý lẽ mà anh ta đưa ra: “Mỗi bữa tôi
đòi ăn 8 - 9 bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không
có đủ 8 - 9 bát cơm cho tôi ăn chứ!” là một lý lẽ sắc sảo, đúng đắn, không chỉ
hồn Trương Ba mà tất cả mọi người đều phải thừa nhận. Với lý lẽ này, LQV đã
lên án những lối sống, những tư tưởng cực đoan, chỉ chăm chăm chú ý đến phàn
hồn mà bỏ bê, hành hạ thân xác, ông đã mạnh dạn, dũng cảm chỉ ra những thói
tật của giới mình - giới trí thức. Có thể nói việc đưa ra đòi hỏi phải đối xử công
bằng với thân xác là một tư tưởng vô cùng tiến bộ và mới mẻ của LQV.
+ Yêu cầu phải nhìn nhận đúng đắn về thể xác và người của LQV không hề
cực đoan. Trong đoạn trích, dù không trực tiếp xuất hiện nhưng từ lời thoại đến
hành động, đến đánh giá của các nhân vật khác đều cho thấy rõ tư tưởng của
LQV, đó là xót xa, bênh vực cho phần hồn trong sáng nhưng yếu đuối của
Trương Ba, đồng thời phê phán sự trâng tráo, vổ sỉ, dung tục của xác hàng thịt.
Nhà văn đã cho thấy, bình thường thể xác của người không có gì là xấu, đáng
được chăm sóc và coi trọng nhưng nó sẽ trở nên xấu xa khi lấn lướt, chi phối
phần hồn của người bằng những ham muốn, những bản năng dung tục, tầm
thường của nó.
+ Từ những hình tượng cụ thể, hồn Trương Ba - xác hàng thịt với những bi
kịch cụ thể, nỗi đau cụ thể, màn đối thoại còn mang ý nghĩa khái quát rất rõ,
đem đến nhiều bài học thấm thìa cho tất cả mọi người. Từ việc hồn Trương Ba
không chấp nhận sự dung tục, tầm thường của xác hàng thịt nên phải tách ra,
nhung rồi cuối cùng lại phải bần thần nhập vào thân xác đó. Đến cuối tác phẩm,
để không bị cái xấu xa, tầm thường chi phối, Trương đã phải lựa-chọn cái chết,
Tất cả điều đó đã cho thấy để sống cho ra một người theo đúng nghĩa là không
hề dễ dàng, người sẽ không những phải đấu tranh với những đối thủ cạnh tranh
ở bên ngoài để sinh tồn mà khó khăn hơn người sẽ phải không ngừng đấu tranh
với những ham muốn bản năng do phần con chi phối để giữ lấy phần người,
Hơn nữa, còn phải cố gắng cân bằng giữa cả hai phần hồn và xác bởi nếu
nghiêng quá về thể xác người sẽ trỏ’ nên thấp kém, trơ trẽn, tầm thường. Nhưng
nếu ngược lại thì lại có nguy cơ trở thành kẻ đạo đức giả. Quá trình đấu tranh
cũng như cân bằng giữa hai mặt này đòi hỏi mỗi một người phải trung thực, vừa
phải nghiêm khắc với bản thân, thậm chí còn cần đến cả bản lĩnh và lòng dũng
cảm.
- Ý nghĩa về mặt hình thức: ngoài những ý nghĩa to lớn sâu sắc về mặt nội
dung, màn đối thoại giữa hồn và xác còn có ý nghĩa quan trọng với hình thức
nghệ thuật. Từ đầu đến cuối, hai hình tượng hồn Trương Ba - xác hàng thịt dược
đặt troríg thế mâu thuẫn, đối lập tương phản một cách gay gắt. Yị thế này cùng
tính chất gay gắt, quyết liệt trong lời thoại đã tạo nên kịch tính cùng những nút
thắt quan trọng trong vở kịch. Với một tác phẩm kịch (theo quan điểm truyền
thống) thì kịch tính chínli là vấn đề sống còn và kịch tính được tạo ra từ màn đối
thoại này đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn cho vở kịch.
3. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân:
- Khái quát: Qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, mâu
thuẫn kịch phát triển trở nên gay gắt yà vô cùng quyết liệt, song vẫn chưa được
giải quyết (kết thúc màn đối thoại hồn Trương Ba. vẫn phải nhập trở lại xác
hàng thịt). Bởi vậy, LQV tiếp tục xây dựng màn đối thoại thứ hai, màn đối thoại
này ngắn hơn nhưng cũng có vai trò vô cùng quan trọng, đó là đẩy mâu thuẫn
kịch lên đến đỉnh điểm, cao trào không thế trì hoãn mà buộc phải giải quyết. Đó
chính là màn đối thoại của Trương Ba với người thân của mình. Trong đó,
Trương Ba lần lượt đối thoại với người vợ, cái Gái, con dâu.
3.1 Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với người
- Ngay saư cuộc đối thoại với xác hàng thịt, Trương Ba đã đối thoại với
người vợ, người bạn đời chung thủy của mình. Là một thể loại kịch mà ngôn
ngũ’ của nhân vật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó không đơn thuần là ngôn
ngữ mà được coi là một dạng hoạt động, bởi tất cả suy nghĩ, tâm trạng cũng như
việc làm của nhân vật chủ yếu được thể hiện thông qua lời thoại. Và thông qua
những lời thoại của người vợ, người đọc có thể cảm nhận rất rõ tâm trạng đau
đớn, xót xa người vợ của Trương ba không thể chấp nhận việc chồng mình ngày
nào cũng sang nhà hàng thịt để giúp cô vợ hàng thịt bán hàng, đôi lúc còn bị cái
trẻ đẹp của cô vợ hàng thít làm cho xao xuyến. Bà đau khổ còn bởi nhận thấy sự
thay đổi ở Trương Ba: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa”. Tâm trạng đau khổ đó càng trở nên nhức nhối khi đi kèm với
nỗi tự ti về bản thân mình đã già, đã yếu. Nhưng do bản tính cam chịu, nhẫn
nhục của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, người vợ đã đi đến cách giải
quyết bi kịch đầy vị tha, bao dung và đức hi sinh là chấp nhận, bỏ đi nơi khác để
Trương Ba được thảnh thơi sung sướng.
- Ngôn ngữ, cảm xúc, hành động của người vợ tuy không gay găt, quyêt liệt
nhưng đã có tác động rất mạnh mẽ đến tâm trạng của Trương Ba. Điều này được
LQV khéo léo thể hiện qua ngôn ngữ của Trương Ba khi phần lớn những lời
thoại của nhân vật này với người vợ đều được để ở dạng thức hoặc câu hỏi: “Sao
bà lại nói thế?”, “Đi thực người mình đã biên dạng, thay đôi.
3.2. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và cái Gái
- Ngay sau cuộc đối thoại với người vợ, Trương Ba đã có cuộc đối thoại
với cái Gái - đứa cháu nội mà ông vổ cùng yêu quý nhưng trong cuộc đối thoại
này Trương Ba đã phải nhận thái độ gay gắt cùng sự căm ghét của cái Gái - vốn
chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, non nớt. Cái Gái chưa thể hiểu được những uẩn
khúc, éo le của cuộc đời. Hơn nữa, với bản chất hồn nhiên, trong sáng, thánh
thiện của trẻ thơ, nó không thể chấp nhận được sự xấu xa, thô lỗ, đê tiện. Bởi
vậy, không né tránh hay tế nhị, bóng gió như người vợ Trương Ba, cái Gái
không ngần ngại gọi Trương Bà là “lão đồ tể”, định danh đôi bàn tay của
Trương Ba là “đôi bàn tay giết lợn”, gọi đôi chân của Trương Ba là “to bè như
cái xẻng”. Trong cái nhìn của cái Gái, Trương Ba là hiện thân của sự thô lỗ:
“bàn tay giết lợn của ông làm gẫy tiệt cái chồi non, chân ôựg to bè như cái xẻng,
giẫm lên nát cả cây sâm quy mới ươm!” Không chi vậy, cái Gái còn nhìn thấy ở
Trương Ba sự độc ác, xấu xa khi 11Ó nghĩa ông cố tình lách rách cái diều của cu
Tị. Vói tất cả những cảm nhận đó, cái Gái đã đi đến một cách giải quyết rất non
nót là xua đuổi Trương Ba ra khỏi nhà.
- Đối thoại với cái Gái, tâm trạng, nỗi đau khổ của Trương Ba tiếp tục bị
dồn nén, bị kịch bị mồng bỏ, bi kịch không được thừa nhận mới thấp thoáng
trong cuộc đối thoại với người vợ đến đây đã trở nên rõ ràng với Ẹiột loạt những
câu phủ định quyết liệt của cái Gái: “Tôi không phải là cháu của ông!”, “ồng nội
tôi chết rồi!”, “Đừng vờ! ông xấu lắm, ác lắm!”. Nỗi đau khổ của Trương Ba đã
phát triển và nhân lên gấp bội bởi với Trương Ba, gia đình, vợ con chính là điều
quan trọng nhất của cuộc sống. Từ chỗ không tin, không chấp nhận về sự thay
đổi của minh, đến màn đối thoại này, qua một loạt những dẫn chứng của cái Gái,
Trương Ba đã buộc phải thừa nhận sự thay đổi của mình trong đau đớn, tuyệt
vọng. Điều đó cũng được tác giả khéo léo thể hiện qua những câu trả lời ấp úng,
đứt quãng của Trương Ba: “Gái, rồi lớn lên cháu sẽ hiểu.. .ồng đúng là ông nội
cháu...”, “ông không dè.. .đấy là.. .tại...”, “thế ư? Khổ quá...”
3.3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba vói chị con dâu:
So với người vợ đã già đầy nhẫn nhục, cam chịu; So vói đứa cháu gái còn
quá ngây thơ, non nớt, có thể nói chị con dâu của Trương Ba là người chín chấn,
sâu sắc, điềm đạm và cũng là người hiểu và thương Trương Ba nhất. Cô không
nhìn những thay đổi của cha bằng con mắt đầy sự hằn học như cái Gái mà bằng
sự thấu hiểu “Con biết bây giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm, hơn cả hôm thầy
mới từ nhà người hàng thịt trở về”. Bản thân tình thương của cô với người cha
chồng càng ngày càng lớn lên do cô hiểu tất cả những bất ổn, đau khồ của
Trương Ba khi sống trong thân xác hàng thịt, những gì Trương Ba tâm niệm, coi
trọng đến giờ được người con dâu nhắc lại như để bào chữa cho chính cha mình:
“Thầy bảo con: cái bên ngoài là khống đáng kể, chỉ có cái nhìn bên trong”
nhưng dù có thương và hiểu Trương Ba đến đâu, dù đã cố gắng tê nhị (LQV thê
hiện qua hình thức ngôn ngữ bằng những dấu ba chấm đầy ngập ngừng, do dự
trong lời thoại) thì cô cũng không thể phủ nhận được thực tế: “'Con cảm thấy,
đau đớn thấy, .. .mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như
lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa...” không xua đuổi như cái Gái, không tìm cách bỗ đi như người vợ, nghĩa là
người con dâu cố gắng không để Trương Ba vào tình thế khó xử nhưng cô lại
đặt ra cho cha mình cãu hỏi đau buốt, nhức nhối: “Làm.sao, làm sao giữ được
thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế
nào, thầy ơi?”
Sau cuộc đối thoại với người con dâu, nỗi đau khổ vốn đã chất chồng trong
tâm trạng Trương Ba từ hai cuộc đối thoại trước đã bị dồn nén để đẩy lên đến
đỉnh điếm. Tâm trạng này trước hết là do logic tâm lý: trong gia đình Trương Ba
có 3 người Trương Ba yêu quý nhất 1| vợ, đứa cháu gái và cô con dâu. Nỗi đau
khố khi phải sống trong thân xác hàng thịt khiến Trương Ba tìm đến người thân
như tìm thấy chốn nương tựa nhưng trong cả hai cuộc đối thoại với người vợ và
đứa cháu gái, Trương Ba đã phải đau đớn chấp nhận bi kịch không được người
thân thừa nhận. Bởi vậy, theo logic tâm lý, người con dâu cính là điểm dựa cuối
cùng, là chỗ bấu víu, là tất cả hy vọng của Trương Ba. Nhung khi cô con dâu
khẳng định: “Mỗi ngày thầy một đối khác dần” thì toàn bộ hy vọng của Trương
Ba đã mất, nỗi đau đớn được nhân lên gấp bội khi nó chìm sâu trong vực thẳm
của sự tuyệt vọng. Ngoài ra, nỗi đau khố của Trương Ba được đấỵ lên cực điểm
còn do lời của cô con dâu. Đẻ không chà sát, khoogệ khoét sâu thêm vào những
đau đớn của cha, nô con dâu không nhắc đến những biểu hiện cụ thể trong sự
thay đổi theo chiều hướng xấu đi của Trương Ba như người vợ và cái Gái mà chỉ
nói một cách chung chung, khái quát: “Tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi”.
Nhưng chính sự gượng nhẹ, tế nhị ấy lại ở một người chín chắn sâu sắc đã khiến
Trương Ba cay’đắng nhận ra và chấp nhận sự thật: sự thay đối của mình không
còn là một vài biểu hiện nhở lẻ bề ngoài mà đã là sự thay đổi toàn diện về bản
chất, từ tâm hồn đến tính cách. Tâm trạng: đau đớn đến cùng cực của Trương Ba
theo cách riêng của thể loại kịch nớt’ đã đượbLQM' nắm bắt và thể hiện qua
thần thái bên ngoài: Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng đá”, thần thái nậy đã
cho thấy cao trào trong bi kịch của Trương Ba, bởi ở đây nỗi đau không thể giải
tỏa ra bên ngoài qua hành động ngôn ngữ như trước mà đã dồn nén ở bện trong
để đẩy Trương Ba vảo trạng thải cam lặng, hay đúng hơn là chết lặng..
3.3. Ý nghĩa:
Màn đối thoại giữa Trương Ba vói người thân tuy không căng thẳng, gay
cấn, quyết liệt như màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt, cũng chỉ có
dung lượng ngắn gọn song lại có ý nghĩa rất quan trọng đối vói số phận của
nhân vật cũng như hướng phát triển của vỡ kịch. Trước hết, màn đối thoại này
mang ý nghĩa rất lớn về mặt nhận thức: Đối với Trương Ba, tâm trạng đau khổ,
xót xa của nhũng người thân yêu chính là tấm gương trung thực nhất, sáng rõ
nhất đế Trương Ba soi vào đó và nhận ra sự méo mó, biến dạng của bản thân
mình. Từ chỗ hoài nghi, không chấp nhận, Trương Ba đã phải cay đắng thừa
nhận thực tế: mình đang mỗi ngày đổi khác dần, mất mát dần.
Từ nỗi đau khổ của 3 người thân trong gia đình Trương Ba là người vợ,
đứa cháu gái và cô con dâu, LQV đã cho thấy một điều vô cùng sâu sắc: việc
không được sống là mình không chỉ đem đến đau khổ, bất hạnh cho chính bản
thân mình mà còn cho tất cả những người xung quanh trong tác phẩm, nhà văn
đã khéo léo để 3 người thân của Trương Ba để 3 lứa tuổi khác, 3 tính cách khác,
3 lối suy nghĩ và cách hành xử khác nhưng có một sự thật không thể chối cãi là
dù đúng ở vị trí thế nào, tất cả người thân của Trương Ba cuối cùng đều phải rơi
nước mắt, đó là giọt nước mắt tủi phận của người vợ, là giọt nước mắt tức tưởi
của đứa cháu gái và giọt nước mắt xót thương nhưng bất lực của cô con dâu. Ba
nhân vật với ba lứa tuổi, tính cách khác đã có sức khái quát rất cao để cho thấy
việc sống chắp vá “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không đem đến
hạnh phúc, sung sướng cho bất cứ ai mà cái giá của nó là những mất mát, đổi
thay, tan vỡ và đau đớn.
Ý nghĩa quan trọng nhất của màn đối thoại này chính là sau màn đối thoại
mâu thuẫn kịch đã đẩy lên đến đỉnh điểm, không thể trì hoãn mà buộc phải giải
quyết. Những đau đớn, khổ sở, dằn vặt trong bản thân, tâm trạng Trương Ba vốn
đã trở nên nhức nhối trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, nay được cộng dồn
thêm bằng những giọt nước mắt, bằng đau khổ bi kịch của người thân nên bị dồn
nén cao độ. Với bản chất người nông dân hiền lành, nhân hậu đầy tình yêu
thương vợ con, Trương Ba chỉ có thể kìm nén và chịu đựng nỗi đaụ của bản thân
chứ không thể chấp nhận nhìn người thân đau đớn, khổ sở vì sự thay đổi của
ông. Những lời đối thoại của người vợ, đứa cháu gái và cô con dâu thực sự là
một chất xúc tác vô cùng mạnh mẽ để từ trạng thái phân vân, đắn đo lựa chọn
Trương Ba đã đi đến quyết định dứt khoát là từ bỏ sự sống của bản thân để chấm
dứt toàn bộ đau khổ cho người thân. Điều này thể hiện rất rõ qua lời thoại vô
cùng quan trọng của Trương Ba ở cuối màn đối thoại. Đến đây, Trương Ba
không còn tìm cách phủ nhận, chối bỏ vai trò, tầm ảnh hưởng của xác hàng thịt
mà đã thừa nhận: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ”.
Nhung thừa nhận sự thật không phải để thỏa hiệp, để quy phục, để bần thần
nhập lại thân xác hàng thịt như màn đối thoại trước mà là để dứt khoát thoát ra
khỏi sự chi phối và sức mạnh ghê gớm của xác hàng thịt. Một loạt câu hỏi dồn
dập: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày? Khuất phục mày và tự đánh mất
mình?...Nhưng có thật là không còn cách nào khác?” Cùng một loạt những phủ
định từ: “không cần đến cái đời sổng do mày mang lại! không cần!” đã thể hiện
thái độ cương quyết, mạnh mẽ đã phải ưải một thế giới nội tâm đầy bão tố với
tất cả những cố gắng để giành giật lại phần người từ đôi bàn tay của con quỷ bản
năng. Sau lời độc thoại này Trương Ba đã dũng cảm từ bỏ sự sống của bản thân
để giải quyết bi kịch cho mình và những người xung quanh, quyết định đố đã
khiến cho mâu thuẫn kịch được giải quyết, đồng thời sẽ khiển cho số phận nhân
vật đặt đến cái hũu hạn, nhưng sẽ là cái hữu hạn trong sạch, cao cả, tốt đẹp.
4. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích:
Khái quát: Sau màn đối thoại với người thân, tức là sau khi mâu thuẫn
được đẩy lên đỉnh điểm, Trưong Ba đã châm hương gọi Đế Thích và có một
màn đối thoại dài với nhân vật này. Hành động của Trương Ba là hoàn toàn hợp
lý bởi vì tuy không phải là người trực tiếp gây nên cái chết của Trương Ba
nhưng Đế Thích chính là tác giả nghĩ ra việc lắp ghép hồn Trương Ba - da hàng
thịt. Bởi vậy, không ai khác mà chính nhân vật này sẽ phải thay đổi, hóa giải
những bất ổn, vênh lệch mà Trương Ba đã tạo ra. Màn đối thoại giữa Trương Ba
và Đế Thích đóng vai trò giải quyết mâu thuẫn, cởi nút cho câu truyện để tạo
nên cái kết cho nhân vật Trương Ba cũng như cho vở kịch.
4.1. Diễn bỉến:
Ngay mở đầu màn đối thoại Trương Ba đã đề xuất nguyện vọng, mong
muốn của mình một cách rõ ràng với Đế Thích: “ông Đế Thích ạ, tôi không thể
tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa”. Lý do mà Trương Ba đưa ra được
LQV cỗ đúc trong một lời thoại có vai trò đặc biệt quan trọng, có thể coi là chìa
khóa cho toàn bộ nội dung tư tưởng của vở kịch: “Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
+ Lời thoại này trước hết cho thấy một bữởc trưởng thành, một bước ngoặt
quan trọng trong nhận thức của Trương Ba. Từ chỗ phủ nhận một cách quyết
liệt: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, khổng có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng,
không có cảm xúc!”, từ chỗ cực đoan “Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có
cái bên trong mới là quan trọng” Trương Ba đã đi đến một nhận thức vô cùng
sáng rõ “Không thể bên trong một đẳng, bên ngoài một nẻo được”. Như vậy, từ
chỗ đánh giá phiến diện về thân xác người, Trương Ba đã có cái nhìn đúng đắn,
đó là cuộc sống tốt đẹp của người chỉ có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai
đời sống của thể xác và tâm hồn. Nhận thức tưởng chừng như đơn giản đó của
Trương Ba đã phải đánh đổi bằng rất nhiều đau khổ, nước mắt cùa chính bản
thân ông và người thân nên nó là một nhận thức vô cùng quý giá. Và có thế nói
đó cũng chính là thông điệp quan trọng nhất mà LQV muốn chuyển tải đến
người đọc qua vở kịch.
Khao khát mãnh liệt, cháy bỏng “Được là tôi toàn vẹn” của Trương Ba
còn cho thấy nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Nhân vật đã không còn chấp
nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai khiến mà
muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.
Khao khát đó đã làm sáng lên nhẵn cách tốt đẹp, cao cả của Trương Ba.
+ Tuy nhiên, để được sống là mình lại là một điều không hề dễ dàng, nó
đòi hỏi Trương Ba phải chấp nhận từ bỏ trò chơi tâm hồn, nghĩa là không thể
làm'điều xấu đế thỏa mãn những dục vọng thấp hèn, rồi sau đó lại đổ lỗi cho
xác hàng thịt. Điều đó cho thấy, để được sống là mình còn đồng nghĩa với việc
phải tự chịu trách nhiệm với hành động, suy nghĩ của bản thân. Trên thực tế
việc sống kiểu hồn Trương Ba - xác hàng thịt chỉ là một hư cấu, còn phần lớn là
do người bị ép buộc hoặc cố tạo cho mình một vỏ bọc. Bởi vậy, dám tự chịu
trách nhiệm để được sống là mình đòi hỏi mỗi người không chỉ có nhận thức,
khao khát mà còn cần bản lĩnh và lòng dũng cảm.
—> Chỉ với một lời thoại ngắn gọn của Trương Ba, LQV đã. dồn nén ruột
triết lý vô cùng sâu sắc đến vói sự sống của mỗi người. Đặt trong hoàn cảnh ra
đòi của. tác phim, là những năm 80 của thế kỷ XX, khi Việt Nam vừa. bước ra
khỏi chiến tranh, khi thật - giả, trắng - đen, tốt - xấu, đúng - sai còn lẫn lộn, khi
xã hội phần lớn là “dân chạy chợ” như nhận định trong tác phẩm của LQV thì
việc được sống là. mình thực sự là một đòi hỏi bức thiết và quan trọng mà LQV
là một trong những người tiên phong đặt ra với thời đại mình.
Đế Thích bác bỏ đề nghị, yêu cầu của Trương Ba bằng việc đưa ra một
hình tượng mang tính chất phổ biến đó là: không chỉ mình Trương Ba mà rất
nhiều người không được sống là mình, ngay cả những người ở vị trí tối cao, nắm
trong tay mọi quyền lực như Ngọc Hoàng cũng không được sống là mình. Lời
nói của Đế Thích đã chỉ ra một bi kịch mang tính nhân loại về việc số đông
người không được sống là mình. Ở đó LQV đã mạnh dạn chỉ ra một sự thật xót
xa trong xã hội nói riêng và nhân loại nói chung, vì việc người vì địa vị ham
muốn, quyền lực danh vọng mà đánh mất mình. Khi đưa ra dẫn chứng là Ngọc
Hoàng, LQV đã thể hiện rất rõ tư tưởng “giải thiêng thần thánh”, thần thánh
không còn được đặt ở vị trí tối cao để mọi người phải ngưỡng vọng mà được đặt
trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với người, nghĩa là có đầy đủ tốt - xấu, đúng -
sai, tì vết.
Tuy nhiên, lý lẽ mà Đế Thích đưa ra không thể thuỹếrphục được Trương
Ba bởi tất cả những lý lẽ mà Đế Thích đưa ra đều là để ngụy biện cho khát vọng
được sống của người, còn điều mà Trương Ba quan tâm khồng chỉ đơn giản là
được sống mà là sống như thế nào. Đến đây, Trương Ba đã có một lời thoại rất
quan trọng: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt, ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” Lời thoại
đã đưa ra haỉ vấn đề quan trọng, một là lòng tự trọng cần phải có trong quá trình
sống của mỗi người, điều đó sẽ quyết định việc người không sống nhờ vào tiền
bạc, của cải cũng như danh vị, nhân phẩm của người khác. Có như vậy mỗi
người mới không đi sau cái bóng của người khác để được sống là mình, vấn đề
thứ hai mà lời thoại đề cập đến chính là ý nghĩa của sự sống, ở đây LQV tiếp tục
đối thoại với từ tưởng đã mặc nhiên tồn tại, được thừa nhận trong đời sống cũng
như trong văn học từ ngàn năm nay để cho thấy ý nghĩa của sự sống không phải
do độ dài ngắn quyết định mà quan trọng là chất lượng của cuộc sống ấy như thế
nào. Văn học Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung đã truyền tải khát vọng
được trường sinh bất lão của người qua cái hình thức đầu thai, truyền kiếp, qua
sự mầu nhiệm của trái đào tiên hay viên linh đan, khát vọng đó của loài người là
chân chính và hoàn toàn đáng trân họng. Song, LQV đã chỉ ra được sống thôi
chưa đủ bởi cuộc sống kéo dài nhưng chỉ là cuộc sống nhựt nhạt, buồn tẻ thì
cuộc sống đó cũng không có mấy giá trị. Ý nghĩa của sự sống không do sự dài
ngắn quyết định mà quan họng là sống như thế nào và sống đề làm gì.
Để tiếp tục thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã phân biệt phần hồn trong
sáng, cao quý của Trương Ba với phần hồn tầm thường, thấp kém của anh hàng
thịt vì Đế Thích cho rằng chỉ có cái phần hồn trong sáng tốt đẹp của Trương Ba
mới đáng được sổng, đáng được tồn tại trên đời.
Nhưng lý lẽ này cũng không thể thuyết phục Trương Ba tiếp tục sống nhờ
trong thân xác hàng thịt bởi tất cả những trải nghiệm thực tế, những đau khổ,
mất mát, bi kịch từ khi sống trong thân xác anh hàng thịt đã khiến Trương Ba
thấm thìa hơn bao giờ hết. Hậu quả giữa việc vênh lệch, giữa hồn và xác đã giúp
ông thấu hiểu sâu sắc: “Tầm thường nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa
thuận được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau” nghĩa là Trương
Ba đã thấu hiểu: thà để phần hồn tầm thường của anh hàng thịt hòa hợp với thân
xác thô lỗ, dung tục của anh ta còn hơn con quái vật mang tên hồn Trương Ba -
da hàng thịt.
Để thoát khỏi cảnh giằng co với Đế Thích, Trương Ba đã đi đến hành động
dứt khoát quyết liệt: “Nếu ông không giúp tôi, tôi sẽ.. .tôi sẽ.. .nhảy xuống sông
hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt
cũng mất.. rõ ràng lời thoại này không đơn thuần chỉ là một lời đe dọa của
Trương Ba với Đế Thích mà nó cho thấy Trương Ba sẵn sàng đi đến hành động
cao nhất, quyết liệt nhất đó là tìm đến cái chết để từ bỏ sự tồn tại vô nghĩa của
mình.
Đến đây, mâu thuẫn kịch hoàn toàn đã có thể được giải quyết nhưng nếu
dừng lại ở đây, tác phẩm sẽ trở nên giản đơn, xuôi chiều. Để tăng tính phức tạp
cũng như chiều sâu cho tâm lý nhân vật- đây vốn không phải là thế mạnh của
thể loại kịch nói - đồng thời để tăng tính hấp đẫn cho vở kịch trước khi hạ màn,
LQV tiếp tục đặt nhân vật của mình vào một phép thử, đó là ngay lúc Trương Ba
sẵn sàng chết để từ bỏ sự tồn tại vô nghĩa của mình thì một cơ hội sống mới lại
được mở ra: cu Tị con trai chị Lụa bất ngờ chết, cơ hội được sống này hấp dẫn
hơn rất nhiều lần so với việc trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, bởi cu Tị
không phải người xa lạ mà là bạn thân của cái Gái và được cả gia đình Trưong
Ba yêu quý. Hơn nữa, cu Tị cũng không thô lỗ, xáo trá như anh hàng thịt mà là
đứa trẻ ngây thơ, trong sáng, có cả tương lai rất dài. Trước cơ hội sống này,
Trương Ba không thể quyết định ngay, LQV đã tạo ra khoảng lặng trong tâm lý
nhãn vật: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã...(ngồi xuống, nghĩ ngợi)”. Cách xử
lý khéo léo này của LQV đã bộc lộ một tâm lý rất người ở Trương Ba. Trương
Ba không phải thánh thần, ông cũng giống như tất cả mọi người mang trong
mình một khát khao mãnh liệt là được sống, được tồn tại trên cuộc đời. Bởi vậy,
khi có một cơ hội sống bày ra trước mắt, Trương Ba cũng muốn nắm lấy đế nối
dài sự sống hữu hạn của mình. Nhưng sau những giây phút trăn trở suy nghĩ, sau
khi lặng trên bề mặt nhưng thực chất là sự' rối bời phức tạp trong tâm trạng
Trương Ba đã nhận thấy vô vàn những bat on, rắc rối. Nêu tiếp tục sống nhờ
trong thân xác cu Tị: “Bao nhiên sự rắc rối, bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngoi,
xử sự như thế nào khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên 10”,
không'chỉ' nhìn thấy những bất ổn, rắc rối gắn với hoàn cảnh cụ thể của Trương
Ba, trong thời loại của nhân vật này LQV cồn khéo léo đan cài rất nhiều những
triết lý mà tất cả những ai muốn sống dài, sống lâu, muốn trẻ mãi đều phải giật
mình suy nghĩ: “Làm trẻ con 1 khống phải dễ!”, “Mình tôi giữa, đám người hậu
sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích chúng chẳng ưa. Tôi
sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách khứa đã về cả rồi, mình
vẫn dầm dề nán lại. Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng, hoặc sẽ trở nên thảm hại đáng ghét
như kẻ tham lam”. Tất cả những trải nghiệm sâu sắc cùng bản tính nhân hậu, vị
tha đã khiến Trương Ba từ chối cơ hội được sống, nhận về mình cái chết đế đem
đến sự sống và hạnh phúc cho mọi người.
Với quyết định này, Trương Ba đã tự viết nên cái kết có hậu cho cuộc đời
mình và cho những người xung quanh. Mặc dù sự sống của Trương Ba đã. sắp
đi đến hồi kết thúc nhưng Tí nong Ba đã tìm thấy lại được con người thật của
chính bản than mình: “lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi
bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản,
trong sáng như xưa...” Không chỉ phục sinh lại những giá trị tốt đẹp của bản
thân, Trương Ba còn trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân
bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý. Bởi yậy, mặc dù kết thúc tác phẩm, nhân
vật chính của vở kịch là Trương Ba chết nhưng người đọc không nhận thấy
không khí ảm đạm, thê lương đặc trưng của bi kịch mà lại là một không khí tươi
sáng, ấm áp, tràn ngập tiếng cười, niềm vui và hạnh phúc. Đó là cảnh: “vườn
cây rung rinh ánh sáng”, là tiếng đôi trẻ ríu rít chia cho nhau quả na do chính
Trương Ba trồng và những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại vẫn hiện hữu hàng
ngày trong suy nghĩ, tư tưởng của người thân: “Cho nó mọc thành cây mới, ông
nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi..Hình ảnh của
những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng cùng với những mầm non đang nhú mà LQV
dựng lên trong đoạn kết mang đầy ý nghĩa biểu tượng, đó chính là hình ảnh của
một tương lai tươi sáng, của sự hồi sinh, phát triển do chính lòng nhân hậu, đức
hi sinh vị tha cao cả của Trương Ba tạo thành.
4.2.Ý nghĩa
Khái quát: Cũng như hai màn đối thoại trước, bằng một thứ ngôn ngữ kịch
giàu kịch tính nhưng đậm đặc tính triết lý, LQV đã gửi gắm vào màn đối thoại
rất nhiều ý nghĩa sâu sắc quan trọng.
Cũng giống như màn đối thoại trước, màn thoại giữa Trương Ba và Đế
Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất của toàn bộ tác
phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa
bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như
Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để
nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng.
Người ta khổng thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình
khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc
bên trong.
Đỉnh điểm phát triển của màn đối thoại này so với hai màn đối thoại trước
là LQV không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả
lời cho câu hỏi: sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Với cái kết của tác phẩm,
khi Trương Ba chết để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy
tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì câu hỏi:
sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng, một sự sống chỉ
thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết
vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người ximg quanh. Rõ
ràng ở đây LQV đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do
cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung
chung ưong ưuyện cổ dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của
mình. Hình tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun
xới, chăm lo cho hạnh phúc của người khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư
tưỏng của LQV dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn
thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Không chỉ đưa ra những ý nghĩa sâu sắc với sự sống ở mỗi người, vở kịch
và đặc biệt là màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích còn mang ý nghĩa thời
sự nóng hổi khi nó dám khoét sâu vào nhũng vấn đề nhức nhối của thời đại. Mặc
dù lây lại tích truyện của truyện cổ dân gian nhưng người đọc không thấy ở đó
cái không khí của “ngày xửa ngày xưa” mà thấy rõ bóng dáng của xã hội Việt
Nam những năm 80 của Thế kỉ XX.
+ Trước hết, LQV mạnh dạn bóc trần những thói tật, những ung nhọt của
những người cầm cân nảy mực trong xã hội: Ngọc Hoàng vì địa vị của mình mà
đôi khi không được sống là minh, Nam Tào, Bắc Đẩu là những vị quan lớn của
triều đình nhưng lại làm ăn tắc trách dẫn đến cái chết oan của nhiều người; Tây
Vương Mau đức cao vọng trọng cũng hành xử một cách đầy cảm tính, chỉ vì
tình cảm cá nhân là ghét đứa trẻ con mà bắt những đứa trẻ như cu Tị phải chết
oan; Tiên Đế Thích tốt bụng song nhiều lúc ngây thơ và cũng đầy cảm tính, ông
ta cho Trương Ba sống nhưng không phải vì lẽ sống của Trương Ba mà để
chứng tỏ mình là tiên cơ. Đằng sau những hư Cấu, những hình ảnh của thần tiên
là bộ mặt thực của nhiều người cầm cân nảy mực, nắm giữ những trọng trách
quan trọng trong xã hội. Người đọc thấy ở họ sự tùy tiện, vô trách nhiệm, cảm
tính, tắc trách và thái quá. Nhũng thói tật của những người cầm cân nảy mực
trong xã hội đã dược LQV thắng thắn chỉ ra và phê phán một cách nghiêm khắc.
+ Ngoài hình ảnh của những người có quyền lực, địa vị cào trong xã hội,
tính thời sự của màn đốỉ thoại này còn thể hiện ở hình ảnh chân thực, phức tạp,
bao quát của xã hội Việt Nam đầu nhũng năm 80. LQV đã cho thấy bước ra khỏi
chiến tranh, chết chóc nhưng xã hội Việt Nam vẫn chưa thực sự có được cái
bình yên, hạnh phúc như người ta thường tỏ vẻ. Khi vì mưu sinh, người phần
lớn đã biến thành “dãn chạy chợ” hám lợi, ti tiện, đầy thủ đoạn. Khi hệ thống cai
trị ở làng xã vẫn còn nhiễu nhương kiếm lọi, Khi vì những lợi ích trước mắt các
giá trị tinh thần truyền thống đang dần bị lấn át, mất mát và trở nên yếu ớt trước
những cái xô bồ, dung tục. Khi mà người còn đang thả nối cho xác thịt và dục
vọng sai khiến thì xã hội đó chưa thể bình yêu, hạnh phúc. Chỉ ra tất cả những
rối ren nằm trong mạch nguồn của cuộc sống không dễ gì thấy được, LQV vừa
thế hiện những trăn trở, nhức nhối của bản thân vừa cho thấy khát vọng về một
cuộc sống tốt dẹp hon.
+ Với một loạt những sai lầm ở cả tàm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả những người
nắm trong tay quyền lực hay quần chúng nhân dãn lao động, LỌV khổng chỉ chỉ
ra mà còn đưa ra hướng giải quyết cụ thể. Hướng giải quyết này được tác giả
lồng ghép trong một lời thoại của Trương Ba: “ Có nhiều cái sai không thể sửa
được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai
nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác”. Lời thoại này không chỉ đúng
với một hoàn cảnh cụ thể là sửa những sai lầm của Đe Thích và các quan thiên
đình bằng việc cho cu Tị và anh hàng thịt được sống lại còn Trương Ba được
chết theo đúng nguyện vọng của ông ta mà còn mang tính triết lí khái quát rất
cao. Nó cho thấy những sai lầm trong cuộc sống cần phải thẳng thắn thừa nhận
và tìm cách khắc phục chứ không phải tìm cách giấu đi hoặc chồng chất bằng
một loạt những sai lầm khác.
—» Quan niệm nghệ thuật về người của LQV:
Văn học là nhân học, bởi vậy xét đến cùng người luôn là đối tượng phản
ánh trung tâm của văn học dù ở thời đại nào, quốc gia nào trong tiến trình phát
triển của. một nền văn học, mỗi giai đoạn thời kỳ sẽ đem đến những biến đổi,
thay đối trong cách nhìn nhận, đánh giá người hay nối khác đi, đặt trong quan
niệm nghệ thuật về người và đời vào đầu những năm 80, sau một khoảng thời
gian 30 năm văn học Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt (hoàn cảnh
chiến tranh), hồn Trương Ba da hàng thịt của LQV là một trong những tác phẩm
tiên phong thể hiện rõ những thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá người so
với những giai đoạn trước. Quan niệm nghệ thuật về người của LQY được thể
hiện ở 3 điểm cơ bản:
+ Quan niệm trung tâm sáng rõ và nhất quán từ đầu đến cuối của tác phẩm
của LQV là người cần phải có sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài, giữa linh
hồn và thể xác. Quan niệm này vừa khác hẳn với quan niệm siêu hình cực đoan
trước đây khi chỉ đề cao phần hồn khi chỉ đề cao phần hồn của người, vừa là sự
đổi mới mạnh mẽ so với văn học 1945 - 1975 bởi khi đòi hỏi người phải hài hòa
giữa linh hồn và thể xác, giữa bên trong với bên ngoài nghĩa là người phải được
đánh giá bằng “cái tôi toàn vẹn” của bản ửiân mình chứ không phải bằng giai
cấp, bằng thái độ chính trị, bằng lập trường tư tưởng văn học thời chiến.
+ Với tất cả hình ảnh của anh hàng thịt, của Trương Ba hay của các cơ
quan thiên đình, LQV còn cho thấy một cái nhìn vô cùng mới mẻ và nhân văn
của mình trong nhìn nhận, đánh giá người. Tất cả các nhân vật đều được tác giả
xây dựng theo hướng bất toàn, không hoàn hảo, nghĩa là mang đầy đủ trong
mình những tốt - xấu, đúng - sai. Bên cạnh cái cao thượng, tốt đẹp còn có cả
những ảo tưởng, sai lầm, ngộ nhận. Nhìn nhận đánh giá người (và cả thần thánh)
như vậy không có nghĩa LQV đang hạ thấp và rẻ rúng giá trị người mà nhà văn
đòi hỏi người đọc nhìn nhận một cách công bằng và nhân văn hơn. Đồng thời,
đó là tiêu chí quan trọng để người khổng phải gồng mình sống giả dối mà người
được sống thực với bản thân mình.
+ Cũng trong tác phẩm này, LQV còn đề xuất một cái nhìn biện chứng
trong việc nhìn nhận tính cách, số phận của người, trong đó người với tính cách
và số phận không tồn tại độc lập, riêng rẽ như hằng số bất biến mà nằm trong sự
va đập, tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống, môi trường sống có thể ảnh
hưởng rõ rệt đến tính cách và số phận người. Thấy rõ điều đó nhưng LQV vẫn
đặt ra một niềm tin rất lớn vào bản lĩnh và sức mạnh người. Bởi vậy, tác giả đã
để cho Trương Ba thoát ra khỏi sự chi phối của cái tầm thường, dung tục để giữ
được phần trong sáng, tốt đẹp.
—» Quan niệm đúng đắn, mới mẻ, sâu sắc.
Nghệ thuật của đoạn trích:
+ Nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch: chặt chẽ, logic, hợp lý. Các chi tiết,
hành động kịch nối tiếp nhau, đấy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh cao, tạo nên kịch
tính vô cùng căng thẳng, hấp dẫn.
+ Nghệ thuật diễn tả tâm lý nhân vật: dù đầy không phải là ứiế mạnh của
thể loại lậch nói nhưng thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật, tâm lý của
nhân vật (đặc biệt là Trương Ba) vẫn được thể hiện một cách rõ nét với sự phức
tạp, tinh tế chứ không giải đơn, xuồi chiều.
+ Ngôn ngữ kịch: giản dị, sáng rõ, đặc biệt rất giàu tính triết lý.

You might also like