You are on page 1of 115

CHUYÊN ĐỀ 1:

KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VÀ VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

I.KIẾN THỨC ĐỌC HIỂU CƠ BẢN


1.Phương thức biểu đạt

TT PTBĐ Nhiệm vụ Phạm vi sử dụng


1 Tự sự Kể lại sự việc, diễn biến Chủ yếu dùng trong các văn bản tự sự:
sự việc truyện, kí, phóng sự; có dùng trong thơ
và các văn bản khác nhưng ít.
2 Miêu tả Tái hiện trạng thái của Dùng trong cả thơ và văn xuôi
sự vật, hiện tượng; màu
sắc, hình dáng, hoạt
động…
3 Biểu cảm Bộc lộ tình cảm, cảm -Dùng trong nhiều loại văn bản nhưng
xúc thường là phương thức biểu đạt chính
trong văn bản thơ
4 Nghị luận Bàn bạc, bày tỏ quan -Chủ yếu dùng trong văn bản chính luận
điểm, cách nhìn nhận (bàn đến các vấn đề lịch sử, chính trị,
đánh giá về vấn đề nào văn hoá, xã hội, tư tưởng…)
đó
5 Thuyết minh Trình bày, giới thiệu -Chủ yếu dùng trong văn bản khoa học
những đặc điểm cơ bản
của sự vật hiện tượng
(cung cấp kiến thức về
đối tượng ấy)
6 Hành chính-công vụ Trình bày yêu cầu, đề -Dùng trong văn bản hành chính : đơn,
đạt nguyện vọng nghị định, thông tư, chỉ thị…

2. Thể thơ

Thể thơ Cách nhận diện Nhiệm vụ


Lục bát Câu trên 6, câu dưới 8 Phải đếm số tiếng
Song thất lục bát 2 câu bảy chữ đi liền với 1 cặp 6/8 trong các dòng thơ
Năm chữ /ngũ ngôn Mỗi dòng thơ đều có 5 tiếng
Bảy chữ/thất ngôn Mỗi dòng thơ đều có 7 tiếng
Tự do Số tiếng trong các dòng thơ không bằng nhau,
không theo quy luật
Hỗn hợp… Kết hợp 2,3 thể thơ trong 1 bài thơ

1
Năm học 2021-2022
II. LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI: VIẾT ĐOẠN VĂN 200 CHỮ
a.Dạng 1:

b.Dạng 2:

2
Năm học 2021-2022
CHUYÊN ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

I.CÁC DẠNG BÀI THƯỜNG GẶP


1. Phân tích, cảm nhận về một đoạn thơ/bài thơ:
BỔ CỤC NỘI DUNG CẨN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu bài thơ, đoạn thơ
- Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có ).
Thân bài 1. Giới thiệu: 1. Giới thiệu:
- Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị đoạn thơ.
2. Phân tích, cảm 2. Phân tích, cảm nhận:
nhận: - Làm rõ nội dung và nghệ thuật. Chủ yếu sử dụng thao tác phân tích,
chứng minh.
(- Đặc biệt, dành sự quan tâm cho: hình ảnh thơ, chi tiết, hình tượng, thể
thơ, nhịp thơ, giọng điệu của đoạn thơ, ngôn ngữ, thanh điệu, biện pháp tu
từ...)
Lưu ý: Nếu đoạn thơ nằm ở vị trí giữa hoặc cuối bài thơ thì phải tóm gọn
nội dung các đoạn đứng trước. Dùng lời dẫn chuyển vào đoạn cần nghị
luận.
3. Bình luận, đánh giá 3. Bình luận, đánh giá chung:
chung: - Nhận xét, đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Đánh giá chung: Đoạn thơ góp phần làm nên thành công cho bài thơ, cho
sự nghiệp sáng tác của tác giả và cho nền văn học Việt Nam.
Cảm nhận riêng của bản thân.

3
Năm học 2021-2022
2. Phân tích, cảm nhận về một trích văn xuôi:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tác phẩm, đoạn trích cần phân tích
- Dan dắt vào vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có ).
Thân bài 1. Giới thiệu: 1. Giới thiệu:
- Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị đoạn trích.

2. Phân tích, cảm


nhận:
2. Phân tích, cảm nhận:
- Làm rõ nội dung vạ nghệ thuật. Chủ yếu sử dụng thao tác phân tích, chứng
minh.
(- Đặc biệt, dành sự quan tâm cho: sự kiện, sự việc, hình tượng nhân vật,
ngôn ngữ...)
Lưu ý: Nếu đoạn văn nằm ở vị trí giữa hoặc cuối bài thì phải tóm gọn nội
dung đoạn trước. Dùng lời dẫn chuyển vào đoạn cần nghị luận.
3. Bình luận, đánh giá 3. Bình luận, đánh giá chung:
chung: - Nhận xét, đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:


- Đánh giá chung: Đoạn hích góp phần làm nên thành công cho tác phẩm,
cho sự nghiệp sáng tác của tác giả và cho nền văn học Việt Nam.
- Cảm nhận riêng của bản thân.

4
Năm học 2021-2022
3. Nghị luận về tình huống truyện:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tên tác giả, tên tác phẩm
- Dẫn dắt vào vấn đề.
- Nêu tình huống của truyện.
1. Giới thiệu: 1. Giới thiệu:
Thân bài - Tác giả:
+ Vị trí.
+ Phong cách sáng tác
-Tác phẩm:
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
+ Giá trị của tác phẩm.

2. Ý khái quát: 2. Lý luận về tình huống truyện:


- Tình huống truyện là gì?
+ Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể
loại.
+ Tình huống truyện chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự
kiện đặc biệt, khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư
tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
3. Phân tích, chứng 3. Phân tích tình huống:
minh: Làm rõ mọi khía cạnh nội dung và nghệ thuật của tình huống truyện.
+ Tình huống l....ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm.
+ Tình huống 2...ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm.
4. Bình luận: - Ý nghĩa của tính huống truyện:
+ Góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng tác giả.
+ Khắc họa tính cách nhân vật.
+ Hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
“Giá trị: nó góp phần phản ánh giá trị hiện thực và thể hiện giá trị nhân
đạo của tác phẩm.
- Có thể liên hệ, so sánh với các tình huống truyện khác.
Kết bài: Tạo đi điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định tình huống truyện góp phần làm nên thành công của tác
phẩm.
- Cảm nhận riêng của bản thân.

5
Năm học 2021-2022
4. Nghị luận về nhân vật văn học:
BỐ CỤC NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Mở bài - Giới thiệu tên tác giả, tác phấrn
- Giới thiệu nhân vật.
- Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận

Thân bài 1. Giới thiệu: 1. Giới thiệu:


Tác giả:
+ Vị trí
+ Phong cách sáng tác
- Tác phẩm
+ Vị trí tác phẩm.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.

+ Giá trị của tác phẩm.

2. Phân tích, chứng 2. Phân tích, chứng minh:


minh: Tùy vào nhân vật mà phân tích theo những nội dung sau:
- Lai lịch - xuất thân.
- Ngoại hình.
- Tài năng.
- Tâm lý - tính cách - Phẩm chất
- Suy nghĩ - hành động.
3. Bình luận: Đánh giá, nhận xét chung :
- Vai trò của nhân vật: góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng tác
giả.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật -> tài năng tác giả.
Kết bài: Tạo điểm nhấn kết thúc:
- Khẳng định về nhân vật.
- Cảm nhận riêng của bản thân.

6
Năm học 2021-2022
II.CÁC VĂN BẢN CỤ THỂ
TÂY TIẾN
I.KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả.
- Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc
- Thơ ông hấp dẫn bởi một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, nhất là khi ông viết
về người lính và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây
Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó
cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và
chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị
khác. Tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội) nhớ về đơn vị cũ
ông viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
2.2. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ
Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của
đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng
cũng rất trữ tình, thơ mộng.
2.3. Nghệ thuật
+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng
+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt
+ Kết hợp chất nhạc và họa.
2.4. Chủ đề:
Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi
rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính
Tây Tiến anh dũng, hào hoa.
II.LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Phân tích 1 đoạn bài thơ Tây Tiến
Mở Bài:
Cách 1: Quang dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp. Ông được mệnh danh là 1 nghệ sĩ đa tài, nhưng được biết đến nhiều
hơn với tư cách một nhà thơ. Thơ ông phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa, nhất là khi ông
viết về người lính và xứ Đoài Sơn Tây của mình. “ Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy.
Khám phá bài thơ, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của những
người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà trữ tình. Vẻ đẹp ấy được khắc
họa rõ nét ngay trong đoạn thơ đầu.(trích thơ)
7
Năm học 2021-2022
Cách 2: Khám phá kho tàng văn học VN, bạn đọc có thể dễ dàng nhận thấy hình tượng người lính
từ lâu đã chiếm được nhiều cảm tình và tốn không ít giấy mực của các nhà văn nhà thơ. Trong
những năm kháng chiến, dưới ngòi bút của các nghệ sĩ hình ảnh ấy lại càng đẹp hơn bao giờ hết.
Chúng ta đã từng gặp cái nét chân chất mộc mạc của người lính qua “Đồng chí” của Chính Hữu,
cái tinh nghịch tươi vui trong “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng khi đến với
“Tây Tiến” của Quang Dũng ta lại nhận ra ở họ một vẻ hào hùng, hào hoa rất đỗi “Hà Thành”.
Lính Tây Tiến hiện lên đẹp đẽ trên cái khung nền thiên nhiên miền Tây vô cùng hùng vĩ, dữ dội. Vẻ
đẹp ấy đc khắc họa rõ nét ngay từ đoạn thơ đầu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…………………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Thân Bài:
1.Khái quát:
"Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, giữa những ngày đầu vô
cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên
Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn
núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp
với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ
nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng.Cuối mùa xuân 1947 Quang Dũng
gia nhập binh đoàn TT với vai trò là đại đội trưởng. Năm 1948 sau khi hoàn thành nhiệm vụ, QD
được điều đi đơn vị khác nhận nhiệm vụ mới. Ngồi tại làng Phù Lưu Chanh, nhớ đơn vị cũ và miền
Tây QD đã làm bài thơ này. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau này khi in trong tập “Mây
đầu ô” tác giả đổi lại là Tây Tiến.
2.Phân tích:
a. 2 câu đầu:
Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng dành cho đồng đội và mảnh đất miền
Tây yêu dấu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ rừng nhớ núi nhớ chơi vơi”
Bài thơ mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết. Trong tiếng gọi ấy đã có hai cái tên được gọi ra:
“Sông Mã và Tây Tiến”. Sông Mã là dòng sông chảy qua nhiều tỉnh phía Bắc nước ta và kết thúc ở
Thanh Hóa. Có thể coi sông Mã là biểu tượng của địa bàn hành quân, biểu tượng của thiên nhiên
miền Tây. Nơi đó có những chàng trai Tây Tiến đã đổ mồ hôi, xương máu, đồng thời là nơi họ có
chung với nhau một vùng trời kỉ niệm tươi đẹp và vĩnh hằng. Có lẽ vì thế mà khi chia xa, sông Mã
và Tây Tiến luôn hiện hữu trong kí ức của người về. Thán từ “ơi” ở cuối câu thứ nhất kết hợp với từ
láy “chơi vơi” trong câu thứ hai đã tạo nên một sự vang vọng. Nỗi nhớ vốn vô hình, vô dạng, nhờ
việc sử dụng từ láy “chơi vơi” mà Quang Dũng đã trạng thái hóa được nỗi nhớ. Nỗi nhớ như hiện
hình và đang lan tỏa khắp không gian, thời gian, vì không kìm lòng được mà nhà thơ đã dùng đến từ
“nhớ chơi vơi” để bộc bạch.
b) 10 câu tiếp:
Sau tiếng gọi tha thiết ấy, bức tranh thiên nhiên miền Tây đã được vẽ ra đậm chất tạo hình:
8
Năm học 2021-2022
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Dù chưa một lần lên với miền Tây nhưng chỉ cần nghe đến những cái tên như: Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông…người đọc cũng đã hình dung ra một vùng đất xa xôi, hẻo lánh. Một đoạn
thơ ngắn nhưng Quang Dũng đã sử dụng kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ nhằm vẽ ra con đường
hành quân gian khổ. Người đọc đã dễ dàng nhận ra điệp từ “dốc, ngàn thước”. Trước mắt người đọc
là bức tranh rừng núi hiểm trở hết dốc này đến dốc khác khác, trùng trùng, điệp điệp. Cái hiểm trở ấy
được tô đậm hơn nhờ nghệ thuật đối : Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống . Câu thơ như bẻ ra
làm đôi, khắc họa 2 vùng địa hình đối lập nhau của thiên nhiên miền Tây Bắc: đứng ở dưới nhìn lên
núi cao chót vót, đứng từ trên nhìn xuống vực sâu thăm thẳm. Địa hình ấy chính là một thử thách đối
với lòng kiên nhẫn, sự dũng cảm của những chàng trai vốn xuất thân từ mảnh đất Hà thành. Hiểm trở
là thế, heo hút là thế, vậy mà qua cái nhìn của người lính nó lại trở nên rất thơ: “Heo hút cồn mây
súng ngửi trời”. Vì hành quân qua đèo dốc, dốc cao có lúc tưởng như cả người cả súng chạm tới
mây trời. Đó là khó khăn chứ đâu phải chuyện đùa. Vậy mà Quang Dũng lại hạ bút viết “súng ngửi
trời”. Hình ảnh nhân hóa ấy làm ta liên tưởng đến “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu, hay
hình ảnh “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Hóa ra người
lính trong mọi thời đại đều có một điểm chung là tinh thần lạc quan, yêu đời, hóm hỉnh.
Quang Dũng đã vẽ lên một bức tranh bằng thơ mà ở đó cả thiên nhiên và người lính đều hài
hòa. Thiên nhiên hùng vĩ, con người mạnh mẽ với những bước chân hành quân không mệt mỏi. Ta
ngỡ như người lính Tây Tiến đang bước lên đèo cao trong bản hành khúc nhẹ nhàng của một nghệ sĩ
nào đó. Tính nhạc được tạo ra bởi sự kết hợp giữa những câu thơ nhiều thanh trắc với một câu toàn
thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.Sau những chặng đường dài trên con đường hành
quân khúc khuỷu, gập gềnh, họ đã có những khoảnh khắc ngắn ngủi, hiếm hoi được dừng chân, nghỉ
ngơi, phóng tầm mắt ra xa ngắm màn mưa rừng của xứ sở Pha Luông. Khoảnh khắc ấy thật đẹp!
Không chỉ phải đối mặt với khó khăn về địa hình, người lính Tây Tiến còn phải đối mặt với
khó khăn về thời tiết, khí hậu và thú dữ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Mưa rừng, thác núi hiện lên trên phim ảnh và hội họa là những tác phẩm nghệ thuật mà có
thể khiến bất kì người xem nào cũng bị hút hồn. Nhưng khi ta thật sự sống với nó, đối mặt với nó ta
mới cảm nhận được sự hung dữ, ghê rợn. Nên nhớ rằng, những ngưới lính Tây Tiến phần đông là
học sinh, sinh viên Hà Nội. Trước đấy không lâu họ chưa biết đến đồng ruộng, núi rừng chỉ quen với
đèn sách, phố phường, nay lại phải đối mặt, chắc chắn không ít chàng lính trẻ ấy đã khóc thét lên vì
sợ hãi trong những ngày đầu tiên ăn rừng, ngủ rừng. Tiếng thác giữa rừng sâu vọng lại nghe như
tiếng gầm rú của 1 loài thủy quái.

9
Năm học 2021-2022
Khó khăn là thế nhưng người lính Tây Tiến vẫn giữ được một tinh thần lạc quan hóm hỉnh,
hài hước “cọp trêu người”.. Trong suốt chặng đường dài hành quân mệt mỏi, có không ít chàng trai
đã ngã xuống:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Có người cho rằng cái gục đầu kia là những giây phút nghỉ ngơi để lấy lại sức, sau đó họ lại
tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng có người lại cho rằng hình ảnh thơ là một cách diễn đạt giây phút hi
sinh nhẹ nhàng của những chàng trai Tây Tiến. Cuộc hành quân qua nhiều đèo dốc đã lấy đi nhiều
sức lực khiến không ít chàng trai Tây Tiến đã phải bỏ cuộc. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn tái
hiện được tinh thần đầy “chất lính” của người lính Tây Tiến.
c) Hai câu kết:
Khổ thơ kết thúc bằng 2 câu thơ có âm điệu nhẹ nhàng sâu lắng:
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảm xúc đọng lại không phải là sự mệt mỏi, chán chường mà là cảm giác êm ái khó tả. Hình ảnh
cơm nếp đầu mùa với hương thơm ngào ngạt do chính những người dân vùng biên giới chuẩn bị làm
những chàng trai Tây Tiến không khỏi xúc động. Bữa cơm không chỉ ấn tượng bởi hương cơm nếp
mà còn ấm ấp tình quân dân. Chính tình cảm ấy đã xua tan đi bao mệt mỏi, giúp Tây Tiến có những
giây phút thực sự lắng đọng.
Bao nhiêu lãng mạn gửi vào những chữ "nhớ ôi Tây Tiến...", "Mai Châu mùa em ...". Đó là
những chữ đã để lại trong tâm hồn người lính những vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp mang
đậm tình người với "cơm lên khói" và "mùa em thơm nếp xôi". Lòng người Tây Tiến nhớ mãi "mùa
em", mùa những người lính Tây Tiến gặp em giữa khung cảnh hạnh phúc của xóm làng. Hương nếp
xôi cũng từ mùa em mà thơm mãi trong tâm hồn người lính.
Đánh giá
Dẫu 14 dòng thơ mở đầu chủ yếu là khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm
trở thì cũng phải thấy QDũng muốn từ thiên nhiên ấy mà làm nổi bật hình ảnh những người lính
Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan
đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Đây là những câu thơ có sức tạo hình
hết sức độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng
nghệ thuật vừa bám sát hiện thực lại có sự bay bổng trong sức tưởng tượng của người đọc bởi chất
lãng mạn ấy của hồn thơ Quang Dũng.
Kết Bài:
Hơn 70 năm đã đi qua kể từ khi bài thơ Tây Tiến ra đời nhưng mỗi lần đọc lại người đọc
vẫn hình dung ra trước mắt hình ảnh một đoàn quân đang hùng dũng tiến vào chiến trường, từng
bước chân hành quân dũng mãnh trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ tráng lệ, màu áo hoà lẫn với màu
cỏ cây núi rừng. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung không chỉ ghi nhận tài năng nghệ thuật mà
còn giúp người đọc cảm nhận được tình yêu tha thiết của Quang Dũng dành cho đồng đội Tậy Tiến
và mảnh đất miền Tây yêu dấu. Chính tài năng và tình cảm chân thành ấy đã làm nên sức sống lâu
bền cho bài thơ nói riêng, thơ Quang Dũng nói chung trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

10
Năm học 2021-2022
Đề 2:
Em hãy Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng để thấy được tình gắn bó đoàn kết
giữa quân và dân ta trong cuộc chiến tranh chống Pháp?
I .Mở bài
Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài , có hồn thơ phóng khoáng , hồn hậu , lãng mạn
và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình .Tây Tiến là bài
thơ xuất sắc nhất , tiêu biểu cho đời thơ , phong cách sáng tác của ông. Bằng bút pháp lãng mạn , sự
sáng tạo về hình ảnh , ngôn ngữ , giọng điệu bài thơ đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả
về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ , mĩ lệ . Có thể nói ,
tinh hoa của hồn thơ Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ miêu tả cảnh đêm liên hoan và
cảnh mộng mơ trên những con sông miền Tây .
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
………………………………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
II. Thân bài .
1.Giới thiệu
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “ Mây đầu ô” ( xuất bản năm 1986 ) nhưng trước đó
đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc . Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại
làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị
khác . Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo
vệ biên giới Việt Lào , đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam.
Địa bàn hoạt động của đoàn quânTây Tiến khá rộng ; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà
Nội , có nhiều học sinh , sinh viên , trong đó có Quang Dũng . Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh
gian khổ , thiếu thốn , bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng . Hoạt
động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52 . Lúc đầu , nhà
thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến , nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến . Bài thơ được sáng tác
dựa trên nỗi nhớ , hồi ức , kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ . Thế nên toàn bài thơ là một nỗi
nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn . Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ , dữ dội , hoang sơ . Đoạn
2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng . Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến . Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến
và miền Tây . Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang
Dũng . Với tài năng và tâm hồn ấy , Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây
Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn , đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây
hùng vĩ , dữ dội , mĩ lệ .
2. Phân tích khổ 2
Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao,
mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và
những buổi chiều êm ả. Kí ức đẹp ấy được nhà thơ ghi lại trong đoạn thơ thứ hai:

11
Năm học 2021-2022
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương
đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng . Từ “bừng lên” kết hợp
với hình ảnh
“đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi , cả doanh trại bừng sáng , lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn
nghệ bắt đầu . Tiếng reo “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng , ngạc nhiên , say mê ,
vui sướng của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy, bất ngờ của các cô sơn nữ . Các cô gái ấy
chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội. Họ mang vẻ đẹp e thẹn , tình tứ , mềm mại , duyên dáng
trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“ man điệu”) đã hút hồn các chàng trai Tây Tiến. Không khí
của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực , réo rắt khiến cho cả con người và cảnh
vật như bốc men say. Thoáng chốc họ bỗng trở thành những thi sĩ với tâm hồn lãng mạn. Đây cũng
chính là vẻ đẹp hào hoa , tinh tế của Quang Dũng .
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông nước miền
Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo :
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa .”
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Những hình ảnh “chiều sương ấy” , “hồn
lau” , “ bến bờ” , “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy” , “có nhớ” mở ra một khung
cảnh buổi chiều sương trong kí ức . Sương mờ giăng mắc khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại.
Trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại , uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc
mộc. Những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước. Cảnh như có hồn, có sự thiêng
liêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại . Qua những nét vẽ hư ảo trên , ta như thấy
trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm , tinh tế ,
lãng mạn , tài hoa , vô cùng yêu mến , gắn bó với mảnh đất miền Tây- tâm hồn Quang Dũng . Đồng
thời ta cũng cảm nhận được sự rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp .
Đánh giá:
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên , con người miền tây với vẻ đẹp
mĩ lệ , thơ mộng , trữ tình .Chất nhạc , chất hoạ , chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong
đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại , tinh tế ,
uyển chuyển . Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể
bài thơ .
III . Kết bài :
Hơn 70 năm đã đi qua kể từ khi bài thơ Tây Tiến ra đời nhưng mỗi lần đọc lại người đọc
vẫn hình dung ra những ánh mắt, nụ cười tươi tắn đáng yêu mà không kém phần tinh nghịch, lém
lỉnh của những chàng trai Tây Tiến khi có cơ hội được hoà mình vào với lời ca tiếng hát cùng nhân
dân. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung không chỉ ghi nhận tài năng nghệ thuật mà còn giúp
12
Năm học 2021-2022
người đọc cảm nhận được tình yêu tha thiết của Quang Dũng dành cho đồng đội Tậy Tiến và mảnh
đất miền Tây yêu dấu. Chính tài năng và tình cảm chân thành ấy đã làm nên sức sống lâu bền cho
bài thơ nói riêng, thơ Quang Dũng nói chung trong lòng bạn đọc bao thế hệ.
ĐỀ 3: Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………………………………………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Mở bài :
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ, thơ ca Việt Nam đã phát triển mạnh
mẽ và thu được một số thành tựu đáng tự hào. Trong số đó người ta không thể quên cái tên Quang
Dũng với bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công hình ảnh người lính - nhân vật trung
tâm của cuộc kháng chiến. Khổ thơ thứ 3 của bài thơ là minh chứng rõ ràng nhất . Đoạn thơ đã xây
dựng thành công bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………………………………………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Thân bài
1. Khái quát:
"Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947,giữa những ngày đầu vô
cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên
Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn
núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp
với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ
nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng.Cuối mùa xuân 1947 Quang Dũng
gia nhập binh đoàn TT với vai trò là đại đội trưởng. Năm 1948 sau khi hoàn thành nhiệm vụ, QD
được điều đi đơn vị khác nhận nhiệm vụ mới. Ngồi tại làng Phù Lưu Chanh, nhớ đơn vị cũ và miề
Tây QD đã làm bài thơ này. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là Tây Tiến.
2. Phân tích:
a. 4 câu thơ đầu.
Trong dòng hoài niệm của mình, nhà thơ QD cũng không thể nào quên được chân dung của
đồng đội. Dưới ngòi bút của ông, người lính Tây Tiến đã được vẽ ra mộc mạc, giản dị:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái nhìn của nhà thơ hướng vào 3 chi tiết trên khuôn mặt người lính, mỗi một chi tiết đều có
tiếng nói riêng . Ấn tượng nhất là hình ảnh đoàn quân Tây Tiến với cái đầu “không mọc tóc”. Có
nhiều lí do , có thể vì muốn thuận tiện trong sinh hoạt giữa chốn rừng thiêng nước độc, hoặc để
thuận tiện trong quá trình chiến đấu giáp lá cà với giặc, lính Tây Tiến đã tự cạo trọc đầu. Nhưng
cũng có thể những cái đầu trọc ấy là hậu quả của cơn sốt rét rừng . Vì thường xuyên hành quân
trong rừng thiêng nước độc, họ bị những cơn sốt rét rừng hành hạ nên tóc không mọc được, da xanh
13
Năm học 2021-2022
xao như màu lá . Đó là 1 thực tế thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh. Chưa chết vì bom đạn đã phải
chết vì ốm đau bệnh tật .
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ
hơn.Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo.
Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:"Anh với tôi biết từng cơn ớn
lạnh, sốt run người vầng tráng ướt mồ hôi". Thế nhưng nhờ có cách nói "Tây tiến đoàn binh không
mọc tóc", Quang Dũng đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động . Đoàn quân “đầu trọc” hiện lên
thật hào hùng. Với cái đầu trọc và nước da xanh như lá, vẻ bề ngoài của Tây Tiến hiện lên có vẻ
yếu ớt, tiều tụy. Nhưng đối lập với vẻ ngoài ấy, bên trong tâm hồn người lính là 1 khí phách ngang
tàng, ngạo nghễ “dữ oai hùm”. Ba tiếng "dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh,
khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống như một cái
hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ, người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ,
trở thành người anh hùng. Hình ảnh “mắt trừng” phần nào đó cũng tô đậm thêm vẻ oai hùng ấy. Đó
là ánh mắt sục sôi lòng căm hận đối với kẻ thù.
Trong bài thơ cũng có một cái tên thành thị, hoa lệ được nhắc đến : Hà Nội. Nhưng đó
không phải là một cái mốc có thật trên đường hành quân của Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc
của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm“đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ diễn
tả tinh tế, chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ Thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều
thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên,
cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc
chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày chiến tranh
gian lao của đời mình.
b. 4 câu thơ sau
Khí phách ngang tàng của những chàng trai Tây Tiến không chỉ được thể hiện trên khuôn mặt
mà còn được thể hiện trong tinh thần, thái độ của họ khi đối mặt với cái chết, hi sinh:
" Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Hàng loạt các từ Hán Việt đã được sử dụng trong đoạn thơ: “biên cương , viễn xứ, mồ, chiến
trường, độc hành”…tạo ra một không khí trang trọng linh thiêng cho buổi ra đi. Rất nhiều các chàng
trai trẻ của binh đoàn Tây Tiến đã ngã xuống và nằm lại nơi rừng hoang biên giới, lạnh lẽo xa xôi
của Tổ quốc . Có một hiện thực khốc liệt và đau lòng đã được Quang Dũng nhắc đến : họ hi sinh
nhưng đến cả manh chiếu bọc thân cũng không có . Đồng đội phải khâm liệm các anh bằng những
tấm áo thường ngày vẫn mặc, hoặc bằng những tấm áo dù . Vậy nhưng, dưới con mắt và ngòi bút
của Quang Dũng những, tấm áo ấy lại trở thành những tấm chiến bào trang trọng . Những chàng trai
Tây Tiến hiện lên như những dũng tướng, mạnh mẽ oai phong lúc ra trận, can trường lẫm liệt lúc hi
sinh. Cái chết với họ "nhẹ tựa lông hồng " . Cách nói giảm trong hình ảnh thơ “anh về đất” đã lột tả
được tinh thần quả cảm ấy . Có lẽ vì họ nuôi trong mình lí tưởng cao cả : sống, chiến đấu, hi sinh vì
quê hương đất nước. Bởi thế không có gì lạ khi Quang Dũng hạ bút viết

14
Năm học 2021-2022
"chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hóa ra những chiến binh Tây Tiến không chỉ có lòng quả
cảm mà còn có một tâm hồn lãng mạn, đẹp đẽ. Tinh thần và vẻ đẹp ấy đã từng được Nguyễn Đình
Thi nhắc tới trong bài thơ Đất nước:
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Hình ảnh con sông Mã lại trở lại đầy yêu thương qua cách nói nhân hóa ở cuối đoạn thơ: "Sông Mã
gầm lên khúc độc hành". Mở đầu bài thơ cũng hiện lên hình ảnh ấy. Sự đồng hành giữa đầu và cuối
bài thơ gợi cho người đọc những liên tưởng độc đáo và đầy cảm xúc : đón các anh vào với chiến
trường là sông Mã, nay cũng chính dòng sông ấy tiễn đưa các anh về với đất mẹ yêu thương. "Khúc
độc hành" chính là tiếng hát , là sự vang vọng của hồn thiêng sông núi trước linh hồn của những
người con bất diệt.
Đánh giá:
Kết bài
Gần bảy mươi năm đã trôi qua kể từ khi bài thơ Tây Tiến ra đời, đất nước trong hiện tại đã
thống nhất và có nhiều sự đổi thay . Nhưng trong diện mạo mới, chúng ta không thể quên sự hi sinh
của biết bao chiến sĩ đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ quốc.Trong đó có những chiến binh của
binh đoàn Tây Tiến. Sự can trường dũng cảm của họ đã tạc thêm vào bức tượng đài bi tráng về
người lính Cụ Hồ những nét vẽ đầy ấn tượng.
ĐỀ 4:
Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của người lính Tây Tiến
(Tham khảo)
Trong vườn hoa thơ ca viết về người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều bông
hoa lạ mà đẹp. “Tây Tiến” là một trong những bông hoa viết về người lính mang một vẻ đẹp khác
với vẻ đẹp của người lính các bài thơ cùng thời. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến kiên dũng mà tình
tứ, cháy bỏng khát vọng lập công của một thời anh hùng rực lửa mà lại rất lãng mạn hào hùng, hào
hoa.
Tây Tiến ra đời vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp khi mà những chàng trai
“mang chí nam nhi thời loạn,” “xếp bút nghiên ra xa trường”. Họ coi gian nan là “nợ anh hùng phải
vay” nên sẵn sàng dấn thân đương đầu với mọi gian nan thử thách trong hàng binh trận mạc. Họ ra đi
bỏ lại sau lưng mình “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” , bỏ lại sau lưng “luống cày đất đỏ,
tiếng mõ đêm trường”, họ ra đi “lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm/ Áo vải chân không đi lùng
giặc đánh”. Họ là nam nhi thời loạn với vẻ đẹp của người thanh niên Việt Nam “trượng phu có chí
anh hùng”. Nhưng họ cũng là những con người mà khi “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” nên
bản thân họ chứa đựng hai vẻ đẹp hào hùng và hào hoa.
Hào hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào hoa là thuộc về
tình cảm lãng mạn. Hai nét hào hùng và hào hoa dường như đối lập nhau, hào hùng là ý chí là sức
mạnh là hào khí của một lớp thanh niên mang tinh thần thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Hào hoa lại là một tâm hồn mềm mại lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, “Nhạc về Viêng
Chăn xây hồn thơ”.
Viết về người lính trong chiến tranh văn học nói chung, thơ ca nói riêng chủ yếu chỉ đề cập
đến vẻ đẹp dũng cảm anh hùng mà ít khi bộc lộ vẻ đẹp lãng mạn tình tứ trong tâm hồn người lính,
15
Năm học 2021-2022
thực ra đây chính là một điểm thành công của Tây Tiến, chính nhờ có điểm thành công này mà vẻ
đẹp của người lính Tây Tiến mang sắc thái vừa riêng biệt vừa cùng với vẻ đẹp của người lính trong
các bài thơ khác. Đồng chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu… đã hoàn chỉnh về vẻ đẹp của
anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp hào hùng hào hoa của người lính Tây Tiến hiện lên qua cuộc sống chiến đấu vô cùng gian
khổ. Một cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến đầy gian nan thử thách. Núi cao, dốc đứng, thác
ghềnh,vực sâu… Có lúc như chìm vào thung lũng sương mù hay đỉnh núi cao chọc trời Tây
Bắc “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Có lúc đoàn quân rơi vào trận địa của núi non trùng
điệp:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử thách bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gẫy ý chí của
con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn thân, cứ dần vượt qua hiểm trở của lộ trình oai
linh của rừng thiêng núi độc. Sự rình mò của thú dữ, sự dãi dầu của thân xác. Rồi cái chết hiện ra,
người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hào hùng nhất mà cũng lãng mạn nhất có lẽ là lúc Quang Dũng khắc họa chân dung người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Chân dung ấy được khắc họa bởi hai nét vẽ chủ đạo: Bi và Tráng. Bi là bi thương. Tráng là hào
hùng. “Bi tráng” vừa đối lập mà cũng vừa thống nhất hài hòa, nghĩa là vừa đau thương vừa hào hùng
hay càng đau thương càng hào hùng. Bi thương ấy hiện lên qua ngoại hình người lính ốm đau, tiều
tụy, đầu trọc “không mọc tóc” , da dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Ma thiêng nước độc của
Tây Bắc thật khủng khiếp. Lam sơn chướng khí núi rừng và hậu quả của sốt rét rừng ác tính, của đói
rét, gian khổ đã bào mòn đi sức trẻ của những người lính. Sốt rét là một thực tế khắc nghiệt. Thơ ca
kháng chiến chống Pháp không ít những lần nhắc đến như thế:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
(Chính Hữu)
Sốt rét đến “Má anh vàng nghệ” (Tố Hữu), đến “Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/ Đâu còn tươi nữa
những ngày xanh” (Thôi Hữu)… Còn lính Tây Tiến sốt rét đến rụng hết tóc trông đến kỳ dị.
Đối lập với “bi” là “Tráng”. Nghệ thuật tương phản giữa cái bên trong trong (tinh thần) và cái bên
ngoài (ngoại hình) đã tạo nên vẻ đẹp của Tây Tiến. Đoàn quân ốm mà không yếu, bi mà vẫn hùng vì:
Hình ảnh “không mọc tóc” gợi cái ngang tàng, ngạo nghễ, coi thường gian khổ của chất lính trẻ luôn
16
Năm học 2021-2022
hóm hỉnh đùa vui. Từ “đoàn binh” mang nghĩa rộng hơn “đoàn quân” để chỉ sự đông đảo, hùng
mạnh. Ba từ “dữ oai hùm” là phi thường hóa người lính. Đó là những con người đang làm chủ tình
thế, áp đảo kẻ thù. Vì thế cái hùng lấn át cái bi, sức mạnh chiến đấu lấn át hoàn cảnh tạo nên một tập
thể có sức mạnh “thôn Ngưu đẩu”.
Hai câu thơ tiếp, người lính hiện lên bởi vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong mộng trong mơ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Vẻ đẹp Lãng mạn là vẻ đẹp tâm hồn vượt qua hiện thực gian khổ hướng tới niềm lạc quan. Ở đây,
trong gian khổ thiếu thốn nhưng người lính vẫn mộng mơ.
“Mắt trừng” là đôi mắt vừa có chí vừa có tình: “Chí” trong ý chí đánh giặc. Đôi mắt ấy đang
gửi về bên kia biên giới giấc mộng đánh giặc, mộng lập công, mộng hòa bình, mộng trở
về. “Tình” trong tình yêu quê hương, con người. Đôi mắt ấy gửi vào giấc mơ về Hà Nội “Đêm mơ
Hà Nội”. Hà Nội là quê hương của người lính cũng là thủ đô yêu dấu. Hà Nội của cả nước, của biết
bao vần thơ trong nỗi nhớ. Một Nguyễn Đình Thi xao xuyến với mùi hương cốm mới, một làn hơi
may rất mỏng, lá vàng rơi…
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Tướng Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc” với “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ
đất Thăng Long”.
Lính Tây Tiến ra đi thì mãi nhớ về một Hà Nội với “dáng kiều thơm”. Kiều thơm là chỉ bóng
dáng những người bạn gái đẹp, thanh lịch, dịu dàng. Còn là hình bóng trong mộng của Quang Dũng
(Theo lời kể của nhà thơ Vân Long thì người người yêu Quang Dũng dạo ấy có tên chữ lót là Kiều).
Từng một thời bài thơ Tây Tiến bị xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ trong hai câu thơ
này. Nhưng thời gian đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất lãng mạn chính là liều thuốc tinh
thần cho người lính vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt thời bấy giờ. Đó là lãng mạn cách mạng chứ
không phải là cái lãng mạn kiểu “mộng hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản như Hoài Thanh
và một số nhà phê bình từng nhận xét.
Giữa những ngày gian khổ các chiến sĩ Tây Tiến vẫn vui vẫn sống vẫn giữ nguyên cốt cách hào
hoa của mình, họ tổ chức những đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.
Cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh biến mất chỉ còn lại không gian tràn ngập ánh sáng chập
chờn hội đuốc hoa và tâm hồn người lính như bốc men say trong hội vui thắm thiết của tình quân
dân. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” bộc lộ tất cả cái ngỡ ngàng vui sướng cái đắm say của tâm
17
Năm học 2021-2022
hồn lại có cái hóm hỉnh, tinh nghịch của lính. Có thể hình dung những tâm hồn hào hoa ấy đang đắm
chìm trong vẻ đẹp của những bóng hồng Tây Bắc. Người lính như được chắp cánh bởi vẻ đẹp con
người và cảnh vật vùng Tây Bắc, như đang bay lên trong tiếng nhạc điệu khèn. Phải có một cái gì đó
thật lãng mạn đắm say trong tâm hồn Quang Dũng nên ông mới viết được những câu thơ hay đến
thế. Những chữ “xiêm áo”, “man điệu”, “khèn lên,” “nhạc về” gợi lên vẻ đẹp hư ảo, một vẻ đẹp vừa
gần vừa xa của một khung cảnh nơi xứ lạ phương xa, làm lòng người như đắm say, xốn xang hơn.
Đi suốt bài thơ ta gặp cái chất bốc tếu, cái ngang tàng kiêu bạc của người lính Tây Tiến rất rõ.
Vừa treo mình cùng hơi thở nặng nhọc trên các dốc núi cheo leo ta gặp ngay cụm từ “súng ngửi trời”
rất dí dỏm, rất lính. Thiên nhiên miền Tây dữ dội với núi cao, vực thẳm, thác gầm lùi lại phía sau
người lính. Vẻ đẹp tâm hồn lạc quan của người lính được nhân lên sánh ngang thiên nhiên hùng vĩ.
Đi suốt toàn bài thơ cái chất hào hùng của người lính hiện lên qua hiện thực gian khổ thiếu thốn tột
cùng “sương lấp,” “đoàn quân mỏi,” “dãi dầu”, “không bước nữa,” “bỏ quên đời” với ý chí dấn thân
thái độ kiên định sắt đá “chẳng tiếc đời xanh,” “không hẹn ước,” “chẳng về xuôi.”
Đến cái chết cũng thật Hào hùng hào hoa !
Nói đến người lính, nói đến chiến tranh không thể tránh khỏi cái chết. Cái chết vẫn là một mối đe
doạ, một sự thật đáng ngại và rất bi thảm, nhưng qua ngòi bút Quang Dũng ta lại thấy dược ý chí dấn
thân của người lính Tây Tiến, có thể nói ngay cái chết cũng rất đỗi hào hùng người lính Tây Tiến dù
có chết cũng “không rời vũ khí, không xa đội ngũ”.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Rồi những cái chết nơi rừng hoang biên giới “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nhưng câu thơ
thứ hai lại vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đúng là giọng điệu của
bậc trượng phu “Coi cái chết nhẹ như lông hồng” sáng ngời chí trai cường: “Chí làm trai dặm nghìn
da ngựa/Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”.
Hai câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
đã đẩy vẻ kiêu dũng lên cực điểm, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để tái tạo ở đây vẻ đẹp tráng sĩ
làm mờ đi thực trạng thiếu thốn , gợi được hào khí của chí trai thời loạn. Chữ “về” nói thái độ ngạo
nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết. Phong Lan trong “Bài thơ Tây Tiến – tượng đài bất tử về
người lính vô danh” đã nói về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua cái chết như sau: “Lý tưởng cách
mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất men say lãng mạn
ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.
Ngày nay đọc lại “Tây Tiến” của Quang Dũng, bỗng thấy nhớ đến nao lòng một thời kỳ lịch sử bi
tráng của dân tộc, một thời đại “Một đi không trở lại”. Các anh đã ngã xuống cho “lá cờ cách mạng
thêm đỏ thắm”, cho tượng đài tự do được tôn cao. Lịch sử sẽ mãi nhớ tên các anh những người anh
hùng bất tử.
Thế hệ thanh niên ngày nay sống trong thời bình cũng rất xứng đáng với thế hệ cha anh ngày ấy.
Họ trân trọng những giá trị lịch sử, biết yêu quý và giữ gìn những thành quả mà cha anh đã đổ xương
đổ máu để bảo vệ. Chính vì vậy, họ phát huy sức mạnh quyền làm chủ trong học tập trong lao động.
Phát huy sức mạnh tuổi trẻ để đưa đất nước Việt Nam ra tầm thế giới. Đội Robocon của ĐH Lạc
18
Năm học 2021-2022
Hồng luôn mang về giải sáng tạo trong các cuộc thi quốc tế. Các đội tuyển thể thao cờ vua, bóng đá,
cầu lông… đến các đội đi thi Olympic Toán, Vật Lý, Hóa Học đều giành giải cao mang lại vẻ vang
cho nước nhà. Đấy là hình ảnh đẹp cho sự vươn xa của trí tuệ Việt.
Thanh niên ngày nay cũng rất coi trọng lòng biết ơn, coi trọng giá trị nhân văn cao đẹp của dân
tộc ta “Uống nước nhớ nguồn”. Hình ảnh, đoàn người xếp hàng dài trước linh cữu đại tướng Võ
Nguyên Giáp, nhiều bạn trẻ không cầm được nước mắt trước sự ra đi của người là biểu tượng cho vẻ
đẹp về lòng tự cường, tự tôn dân tộc.
Bác Hồ nói “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy
lại kết thành một làn sóng sôi nổi”. Quả đúng như vậy, dân ta ở đây, mà trước hết là tuổi trẻ đã thể
hiện quyết tâm rực lửa ấy bằng những hành động có tính đoàn kết cao độ. Biểu hiện đó là hàng năm
có hàng ngàn thanh niên tình nguyện nhập ngũ tham gia vào công tác huấn luyện. Vào độ tháng
5.2014, khi Trung Quốc ngang ngược đặt giàn khoan HD – 981 vào thềm lục địa Việt Nam, hàng
triệu con người Việt Nam đã xuống đường tuần hành (trong đó chủ yếu là thanh niên). Họ đã hăng
say đấu tranh cho công lý, đấu tranh cho lẽ phải, đấu tranh cho chủ quyền. Đó là họ đang sống cho
xứng đáng với bao anh hùng đã ngã xuống trên mảnh đất này.
Thanh niên ngày nay họ cũng rất biết yêu thương, nghĩa tình, nhân ái. Họ sống quý trọng người
già, yêu thương em nhỏ. Họ biết sống hi sinh bản thân mình vì người khác và vì những điều lớn lao
cho cộng đồng cho xã hội. Một Nguyễn Hữu Ân chăm sóc mẹ bị bệnh ung thư, mẹ mất, nhận người
đàn bà bên cạnh giường bệnh của mẹ mình làm mẹ nuôi (người mẹ nuôi ấy cũng bị bệnh ung thư);
Nguyễn Văn Nam học sinh trường THPT Đô Lương 1 (Nghệ An) đã hi sinh sau khi cứu được 5 em
nhỏ khỏi bị chết đuối… Chừng ấy tấm gương đủ để thấy thanh niên ngày nay rất đáng tự hào.
Tuy nhiên, cũng công bằng mà nói, bên cạnh những thanh niên trở thành biểu tượng cao đẹp của
tuổi trẻ Việt Nam thì cũng không ít bạn trẻ lại trở thành điều ngược lại. Đáng phê phán và lên án
thay là một bộ phận giới trẻ bây giờ sống vô cảm, chỉ biết sống cho riêng mình, hưởng thụ cho chính
mình mà không thèm quan tâm đến mọi điều xung quanh. Họ làm ngơ trước ánh mắt van xin của
một cụ già đang cần một bàn tay dắt qua đường, họ lạnh lùng trước một em bé xin ăn đang đói lả, họ
phung phí ổ bánh mì vào thùng rác trong khi đây đó có bao người phải ăn cả giấy gói bánh còn dính
ít đồ thừa… Trong khi họ vung tiền vào quán Bar, vũ trường… thì còn đó bao em thơ chưa một lần
được có tấm áo lành lặn để đến trường. Đáng buồn thay.
“Tây Tiến” của Quang Dũng là bài thơ về một thế hệ thanh niên với lý tưởng “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh” – họ là những con người đã nguyện dâng hiến máu xương mình cho tổ quốc.
Thời gian đã đi qua, gió bụi thời gian có thể phù mờ bao huyền thoại nhưng tượng đài về người
chiến binh Tây Tiến năm xưa thì mãi mãi bất tử cùng thời gian. Càng trân trọng và yêu quý thế hệ
cha anh ngày ấy đã ngã xuống vì hòa bình, thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay phải quyết tâm sống
sao cho thật xứng đáng.

19
Năm học 2021-2022
VIỆT BẮC ( TỐ HỮU )
I.KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả.
Tố Hữu là nhắc đến một trong những nhà thơ có một vị trí đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam hiện
đại. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, nhà thơ luôn hướng tới
cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và con đường cách mạng luôn song hành với con đường
thơ ca
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Tháng 7 năm 1954 , Hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết , miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng .
Tháng 10 năm 1954 , các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ dời chiến khu VB về Hà Nội .
Cuộc chia tay lịch sử đã khơi nguồn cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc
2.2. Cảm hứng chủ đạo : ngợi ca nghĩa tình cách mạng thủy chung , son sắt giữa đồng bào chiến
khu với cán bộ kháng chiến , quân với dân , miền ngược với miền xuôi .
2.3. Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý
nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn
nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm
đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và
hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ
hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng,
kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên
trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ
gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng,
khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm
trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
II.LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Phân tích tâm trạng của kẻ ở và người đi trong 8 câu thơ đầu Việt Bắc
Bài làm
Cách 1: Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.Con đường thơ của ông
gắn liền với con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc. Thơ ông để lại dấu ấn trong lòng người
đọc với một phong cách mang đậm chất trữ tình chính trị .Việt Bắc là tác phẩm tiêu biểu cho phong
cách ấy. Bài thơ ra đời nhân một cuộc chia tay mang tính lịch sử giữa nhân dân Việt Bắc và những
cán bộ kháng chiến về xuôi sau mười lăm năm gắn bó. Tâm trạng lưu luyến lúc chia tay đã được
ông khắc họa đậm nét ở 8 dòng đầu:
20
Năm học 2021-2022
Cách 2: “Chia tay” là hai tiếng vừa bâng khuâng vừa đau nhói khi hai người vốn đã gắn bó
thân thiết. Chia tay nhau sau một thời gian dài gắn bó lại càng khiến người ta lưu luyến hơn. Có lẽ
vì thế mà đề tài li biệt đã khơi nguồn cảm hứng và chiếm một số lượng nhất định trong kho tàng thi
ca nhân loại. Ta đã từng lưu luyến với bước chân của Mạnh Hạo Nhiên trong “Tại lầu Hoàng Hạc
tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng”, ta cũng đã từng bịn rịn cùng người lữ khách trong “Tống
biệt hành” của Thâm Tâm. Đến thế kỉ 20, người đọc Việt Nam lại một lần nữa ngậm ngùi cùng Tố
Hữu khi đến với bài thơ Việt bắc. Bài thơ ra đời nhân một cuộc chia tay mang tính lịch sử giữa nhân
dân Việt Bắc và những cán bộ kháng chiến về xuôi sau mười lăm năm gắn bó. Tâm trạng lưu luyến
lúc chia tay đã được ông khắc họa đậm nét ở 8 dòng đầu:
Giữa núi rừng Việt Bắc, khung cảnh chia tay đã được tái hiện một cách đầy xúc động. Mở đầu
bài thơ là những câu thơ lục bát như một bài hát giao duyên:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
“Mình-ta” là cách xưng hô quen thuộc trong ca dao dân ca, gợi tình cảm thân mật, tha thiết. Với lối
xưng hô ấy, người về đã cất tiếng hỏi người ra đi. Điệp ngữ “có nhớ” kết hợp với câu hỏi tu từ đã
hướng vào hai băn khoăn của người ở lại. “Mười lăm năm ấy” gợi nhắc về quãng thời gian dài gắn
bó. “Cây, núi, sông, nguồn” lại gợi nhắc không gian nghĩa tình. Không gian và thời gian ấy đã trở
nên quá đỗi thiêng liêng với tất cả người ở và người về. Những câu hỏi ấy được thốt ra từ người ở lại
không nhằm mục đích chờ câu trả lời, mà như những lời gợi nhắc khéo léo.
Trước những tình cảm của người ở lại, người về xuôi đã đáp lời:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Thay vì trả lời trực tiếp những câu hỏi của người ở lại, người về xuôi đi bộc lộ tâm trạng của mình.
Tâm trạng ấy được thể hiện qua hàng loạt các từ láy: “Tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” . Đại từ
phiếm chỉ “ai” trong dòng thơ gợi ra nhiều cảm xúc, nhiều cách hiểu khác nhau. “Tiếng ai” ở đây
có thể là tiếng người ở lại cũng có thể là tiếng trò chuyện, tiếng hát, ở đâu đó vọng lại trong lúc chia
tay, gợi thương gợi nhớ cho người về.
Giữa khung cảnh núi rừng màu áo của những người dân Việt Bắc trở thành một điểm nhấn.
Màu áo ấy cũng trở nên quá đỗi thân thương đối với cán bộ kháng chiến nay phải về xuôi. Bao nhiêu
kỉ niệm, bao nhiêu ấn tượng dồn lại trong một thời điểm nhạy cảm khiến người về bối rối không nói
nên lời: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Không phải người về không có gì để nói mà ngược lại,
có quá nhiều điều muốn nói mà không biết bắt đầu từ đâu, diễn đạt như thế nào. Cảm xúc dồn nén
trở thành cảm xúc nghẹn ngào. Dấu ba chấm ở cuối đoạn thơ chính là một khoảng lặng mà ở đó kẻ ở
người về chỉ có cái nhìn nhau cũng đã hiểu lòng nhau.
Đoạn thơ chỉ có 8 câu nhưng đã tái hiện khung cảnh chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Có lẽ
không chỉ có riêng Tố Hữu mà với bất kì người cán bộ nào khi phải chia tay nơi mình gắn bó suốt 15

21
Năm học 2021-2022
năm cũng sẽ xúc động bồi hồi như thế. Đây là lý do vì sao mỗi lần đọc Việt Bắc người đọc lại có
chung một niềm rưng rưng khó tả.
Đề 2: phân tích đoạn thơ:
“Những đường Việt Bắc của ta
……………………………………
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Mở bài: Việt Bắc là bài thơ được Tố Hữu sáng tác sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết
thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ vang dội, chấn động thế giới. Có thể coi “Việt Bắc”
là một bản tổng kết về một giai đoạn lịch sử bằng thơ, tái hiện lại hiện thực đau thương và oanh liệt
của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam. Đoạn trích dưới đây là bức tranh sống động, hào hùng về khí thế tiến công như
vũ bão của quân dân ta:
“Những đường Việt Bắc của ta
……………………………………
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Thân bài:
Nhà thơ đã tập trung thể hiện không khí hào hùng trong giai đoạn thứ ba của cuộc kháng
chiến khi sức ta đã mạnh, người ta đã đông.Theo dòng hồi tưởng, nhà thơ dẫn dắt người đọc vào
khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian là núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tấp nập,
những hình ảnh, những âm thanh sôi nổi, dồn dập làm náo nức lòng người. Ánh sáng cách mạng đã
xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con
người Việt Bắc. Đoạn thơ mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, tràn đầy âm hưởng anh hùng ca. Giọng
điệu dìu dặt, du dương ở những đoạn thơ trước đến đây đã chuyển thành giọng điệu dồn dập, rắn rỏi
và phấn khích.
Tố Hữu miêu tả rất chân thực và sinh động khung cảnh chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến
dịch qua hình ảnh những con đường đêm đêm rầm rập bước chân của bộ dội, dân công, bập bùng
ánh sáng của lửa đuốc và ánh đèn pha của những đoàn xe ra trận.
Trong thời gian đó, ban ngày máy bay địch bắn phá dữ dội nhưng ban đêm thì chúng đành
bất lực. Màn đêm bao la đã mang lại ưu thế cho quân dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà thơ ca
kháng chiến có nhiều bài tả cảnh ban đêm: “Những đêm dài hành quân nung nấu, Bỗng bồn chồn
nhớ mắt người yêu” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi); “Đêm nay, rừng hoang sương muối, Nằm cạnh
bên nhau chờ giặc tới, Đầu súng trăng treo” (Đồng Chí – Chính Hữu). Trong đời sống bình thường,
ban đêm là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghỉ ngơi yên tĩnh của con người. Nhưng
trong chiến tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của những trận đánh, những chiến dịch lớn nối tiếp
nhau: “Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Hai từ “của ta” thể hiện
rõ ý thức làm chủ của người dân đối với đất nước, đồng thời thể hiện niềm tự hào về tính chất bất
khả xâm phạm của vùng căn cứ địa kháng chiến.
Trên các nẻo đường ra hỏa tuyến, bộ đội, dân công với súng đạn, gánh gồng, với khí thế
bừng bừng xung trận. Các từ tượng thanh và tượng hình như “rầm rập, điệp điệp, trùng trùng” được
sử dụng rất phù hợp diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi và sức mạnh như triều dâng, thác lũ
của quân dân ta. Hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” đặc tả quy mô lớn của các
22
Năm học 2021-2022
trận đánh chuẩn bị diễn ra. Tác giả đã thể hiện được sự thống nhất, hòa hợp giữa con người với thiên
nhiên trong một thời điểm lịch sử đặc biệt.
Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng, trong bức tranh kháng chiến bằng thơ này còn
có những nét vẽ theo chiều cao.“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một nét vẽ như thế. Ánh
sao trước hết là một hình ảnh thực; bên cạnh đó nó còn là hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng. Có thể
hiểu ánh sao như ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi đường dẫn lối cho
người chiên sĩ chiến đấu. Ba sự vật: ánh sao, mũi súng, mũ nan hợp thành một hình tượng khỏe
khoắn, vững chãi về mặt tạo hình, phản ánh tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như
tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của quân dân ta.
Tuy tả cảnh đêm Việt Bắc nhưng bức tranh không thiếu các chi tiết nói về ánh sáng. Bên
cạnh ánh sáng xanh của sao trời là ánh sáng đỏ của lửa đuốc, của “muôn tàn lửa bay”, của “đèn pha
bật sang”… Hai câu thơ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay” vẽ ra
một cảnh tượng rực rỡ và hừng hực khí thế bằng những nét bút gân guốc, mạnh mẽ. Cách nói thậm
xưng “bước chân nát đá” diễn tả rất ấn tượng sức mạnh đạp bằng mọi gian khó của những đoàn
người trên đường ra hỏa tuyến. Những bước chân dồn dập ấy đã làm cho núi rừng bừng thức. Màn
đêm “thăm thẳm sương dày” bị xua tan bởi ánh đèn pha, gợi liên tưởng đến chiến thắng đã gần kề
trước mặt. Hình ảnh so sánh trong câu: “Đèn pha bật sáng như ngày mai” lên thoạt nghe có vẻ
cường điệu nhưng phải so sánh nhu thế thì nhà thơ mới nói hết được niềm phấn chấn đang tràn ngập
lòng người trước sự lớn mạnh vượt bậc của quân đội ta khi cuộc kháng chiến đang bước vào giai
đoạn cuối cùng: giai đoạn tổng phản công giành thắng lợi:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng…
Tin thắng trận từ khắp các chiến trường trong cả nước dồn dập đổ về chiến khu Việt Bắc.
Những cụm từ “vui về, vui từ, vui lên” vừa tạo được không khí phấn chấn, rộn ràng vừa biểu đạt ý :
chiến khu Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng chiến và niềm vui thắng lợi từ khắp nơi dồn tụ
về đó, để rồi từ đó lại tỏa đi trăm ngả.Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của hàng loạt địa danh. Thơ ca
kháng chiến có nhiều bài nhắc đến tên của những địa phương gắn liền với các sự kiện lịch sử. Chẳng
hạn như bài Tây Tiến của Quang Dũng, bài Bên kia sống Đuống của Hoàng cầm… Nhưng cách đưa
địa danh vào thơ của Tố Hữu có khác. Nếu Quang Dũng chú ý tới những tên đất gợi ấn tượng về sự
xa xôi, hoang dã, heo hút và bí ẩn ; Hoàng Cầm chú ý tới những cái tên gợi lên những sắc màu
truyền thống của quê hương thì Tố Hữu lại quan tâm tới những địa danh lừng lẫy chiến công mà tên
gọi của chúng làm náo nức lòng người. Có thể nói ít khi thấy những địa danh bình thường mà lại
chan chứa chất sử, chất thơ và vang vọng trong lòng người đến như thế.
Kết bài: Đoạn thơ trên giàu chất sử thi, thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng những bức tranh
hoành tráng về lịch sử cách mạng của Tố Hữu bằng ngôn ngữ thơ ca. Đọc đoạn thơ, chúng ta tưởng
như đang được sống lại trong không khí sục sôi của một thời lửa đạn không thể nào quên – cái thời
của những sự kiện lớn lao và những niềm vui, niềm tin tưởng, tự hào cũng rất đỗi.

23
Năm học 2021-2022
Đề 3: Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
Bài làm
I.Mở bài:
Tố Hữu được xem là lá cờ đầu trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác
phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông viết về chính trị nhưng không khô khan, mà ngược lại, dễ đi
sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong
hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ được xem như lời tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này.
Đặc biệt người đọc chắc hẳn sẽ không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”:
“Ta về mình có nhớ ta
…………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
II.Thân bài
1.Giới thiệu chung
“Việt Bắc” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 , ngay sau khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp thắng lợi , các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà
Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt
Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó. Hoàn
cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động, bâng khuâng. Tố Hữu đã vận
dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống , sử dụng sáng tạo cặp đại từ nhân xưng mình-ta, lối
đối đáp quen thuộc của ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào, lời thơ đậm sắc thái dân gian để mở ra
bao nỗi niềm nhớ thương, bao kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng . Qua đó
nghĩa tình gắn bó thắm thiết thuỷ chung của những người kháng chiến với nhân dân, với Việt Bắc ,
với đất nước được bộc lộ một cách thấm thía, chân thành, cảm động.
Xuyên suốt bài thơ Việt Bắc là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu
dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt
gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt Bắc qua lời thơ Tố
Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người nặng tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối
đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.“
2. Phân tích đoạn thơ
a. 2 câu đầu:
Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phai về hình ảnh những người
dân hoà quyện với thiên nhiên , núi rừng tươi đẹp :
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, nhưng hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ chiều sâu tình
cảm . Điệp từ “ta” và “nhớ” khẳng định, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về thủ đô. Phép liệt
kê “những hoa cùng người” nêu lên đối tượng của nỗi nhớ . Đó là những gì tươi đẹp nhất của chiến
khu . “Hoa” là kết tinh hương sắc của thiên nhiên còn “người” là kết tinh vẻ đẹp của đời sống xã
hội . Xét cho cùng, người cũng là một loại hoa của đất. Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn lên vẻ
đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp .
24
Năm học 2021-2022
b.8 câu tiếp:
Những câu thơ tiếp theo tập trung tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến
khu.Cảnh và người hoà quyện, đan xen vào nhau , cứ câu thơ lục tả cảnh thì câu thơ bát tả người.
Mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng tạo thành một bức tranh tứ bình tràn ngập ánh sáng, màu sắc,
đường nét, âm thanh vui tươi, ấm áp .
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nhớ về mùa đông Việt Bắc, nhà thơ không nhớ về cái giá rét âm u mà lại nhớ tới những ngày
nắng đẹp rực rỡ. Biện pháp tiểu đối “rừng xanh” với “hoa chuối đỏ tươi” đã tái hiện một không gian
rừng núi mênh mông, bạt ngàn màu xanh tươi của cây cỏ, ẩn hiện trong sắc xanh sống động đó là
những bông chuối rừng ngời ngời sắc đỏ như những ngọn đuốc. Hai gam màu ấm nóng kết hợp với
nhau tạo cảm giác vui tươi, làm ấm cả không gian, tạo ấn tượng mạnh trong tâm hồn con
người.Trong núi rừng ấy, không chỉ có những bông hoa chuối đỏ tươi mà còn có những con người
vượt lên không gian, xuất hiện trên đỉnh đèo cao ở tư thế đầy kiêu hãnh, xuất hiện trong ánh sáng lấp
lánh của mặt trời phản chiếu vào chiếc dao đi rừng gài ngang lưng. Hình bóng con người lồng lộng
trong không gian, giữa núi và nắng, giữa trời và rừng xanh chính là kết tinh vẻ đẹp của núi rừng , là
điểm nhấn của núi rừng.
Nếu mùa đông, ta đi giữa màu xanh biếc của cây rừng, thì khi xuân về, Việt Bắc lại đưa
ta lạc vào một thế giới mộng mơ của hoa rừng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Động từ “nở” kết hợp với tính từ “trắng” đặt cạnh nhau vừa diễn tả bước đi của mùa xuân
vừa nhấn mạnh vào màu sắc của Việt Bắc ngày xuân. Mùa xuân đến đem theo sức sống mới, làm
cho từng cây mơ nở hoa trắng, rồi dần dần làm cho cả núi rừng tràn ngập sắc hoa trắng tinh khiết,
dịu dàng, thơ mộng. Màu trắng của hoa mơ lấn át các màu sắc khác làm cả khu rừng như toả sáng,
khiến cho lòng người không khỏi xao xuyến, bâng khuâng, nhung nhớ. Trên thực tế, VB khi vào
xuân không chỉ có hoa mơ trắng mà còn có hoa mận, hoa ban… cũng màu trắng. Nếu nhìn từ trên
cao, đó sẽ là một tấm thảm hoa mà không có nơi nào có thể có được. Và trên khung cảnh ấy, nhà thơ
đã nhớ đến những người đan nón. Hành động “chuốt từng sợi giang” là biểu hiện của sự cần mẫn,
khéo léo, tài hoa trong tâm hồn, tính cách người dân Việt Bắc . Họ nhẫn nại, tỉ mỉ trong từng cử chỉ
để tạo ra những sản phẩm đẹp cho đời. Câu thơ chứa đựng một thái độ trìu mến, thân thương, trân
trọng những người lao động của nhà thơ Tố Hữu .
Khác với bức tranh mùa đông và mùa xuân, mùa hè chiến khu lại hiện lên rộn rã trong
âm thanh và màu sắc không thể nào quên :
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Qua cách miêu tả của nhà thơ, tiếng ve râm ran như khúc nhạc rộn rã không chỉ làm cho núi
rừng vang động mà còn làm cho màu sắc cây lá biến đổi . Động từ “đổ vàng” đã diễn tả tài tình sự
thay màu đột ngột của rừng phách .Nên nhớ rằng, màu vàng ấy là màu của lá chứ không phải màu
của hoa phách. Khi tiếng ve vang lên báo hiệu hè đến, cả rừng phách xanh tươi bỗng chuyển thành
25
Năm học 2021-2022
màu vàng óng ả như được trộn bằng mật ong và nắng rừng ngọt ngào. Trong giàn nhạc và thảm lá
ấy, nhà thơ nhớ đến một người “em gái” . Hai từ “em gái” nghe mới thân thương làm sao! Nó chất
chứa bao tình cảm yêu mến của các anh chiến sĩ Cách mạng dành cho những cô em gái nhỏ hậu
phương. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp
khoẻ khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng, vui vẻ .
Nhớ về mùa thu , nhà thơ không thể nào quên ánh trăng :
“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu.
Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những con
người từng trải qua bao năm khốc liệt, gian khổ của chiến tranh. Ánh trăng ấy đã từng đi vào trong
thơ của Hồ Chí Minh với một vẻ đẹp đầy quyến rũ, mê hoặc:“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya) , hay :
“ Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Trong khu rừng thấm đẫm ánh vàng ấy bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng
người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc
cũng chính là tấm lòng của người về xuôi với chiến khu. Thế nên dường như ánh trăng cũng ngời
sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa hơn.
Như vậy, nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng VB với vẻ đẹp
vừa hiện thực vừa thơ mộng, thi vị, riêng biệt , độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của Tổ quốc.
Mỗi mùa mang một nét đặc trưng riêng. Gắn liền với cảnh là những con người lao động bình dị
nhưng chính họ đã góp phần to lớn tạo nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chỉ những người gắn bó
sâu nặng, coi VB là quê hương thân thiết mới có những xúc cảm, ấn tượng và nỗi nhớ da diết như
thế. Có một điều khác lạ mà nhiều người đọc băn khoăn là tại sao bộ tứ bình về cảnh và người VB
lại được tác giả tái hiện theo quy luật đông-xuân- hạ -thu mà không phải là xuân-hạ-thu- đông? Trở
lại với hoàn cảnh ra đời bài thơ, hẳn người đọc nhớ, cuộc chia tay giữa nhân dân VB và những cán
bộ kháng chiến diễn ra vào tháng 10/1954. Không những thế, những ngày đầu cán bộ lên với chiến
khu cũng lại là những ngày mùa đông năm 1946. Có lẽ vì thế mà khi chia xa, cái ấn tượng về mùa
đông VB hiện lên rõ nhất.
Nỗi nhớ VB còn được tác giả khắc sâu và mở rộng trong những đoạn thơ sau của tác phẩm.
Theo dòng hoài niệm, VB trong kháng chiến hiện lên vừa gian khổ vừa hào hùng với niềm tin vào
Đảng , vào Bác Hồ vĩ đại , với cảm hứng ngợi ca đất nước sâu sắc .
III. Kết bài .
Đoạn thơ chỉ có 10 dòng, với âm điệu ngọt ngào, từ ngữ trong sáng giản dị giàu sức gợi, in
đậm phong cách thơ Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với Việt Bắc. Qua nỗi nhớ,
niềm trân trọng tha thiết của nhà thơ, cảnh và người VB hiện lên thật gần gũi, chân thực mà thơ

26
Năm học 2021-2022
mộng, trữ tình. Thông qua tình cảm riêng của mình, Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ
với quê hương đất nước, đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta .

SÓNG ( Xuân Quỳnh)


I.KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả
- Thuộc trong số những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân
thành đằm thắm và luôn da diết khát vọng về hạnh phúc đời thường.
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác: tại biển đêm Diêm Điền ngày 29/12/1967
2.2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ
- Âm điệu bài thơ Sóng là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội
lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt
nhịp linh hoạt.
- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập
hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.
2.3. Nội dung trọng tâm.
- Khổ 1 :
+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những cung bậc
tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.
+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát
khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.
Khổ 2 :
+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một
khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.
+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của
nhân vật trữ tình trong bài thơ.
- Khổ 3, 4 :
+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi
là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên
cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.
+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự
bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.
- Khổ 5 :
+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức
một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.
+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi
nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu,
khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.
- Khổ 6, 7
27
Năm học 2021-2022
+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến,
bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.
+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi
nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong
trái tim người phụ nữ.
- Hai khổ cuối 8+9 :
+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô
chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô
hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm
thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ
về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải
là ngoại lệ.
+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được
đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn
năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình
chung của nhân loại, như con sóng hoà vào đại dương mênh mông, bất tận.
2.4. Nghệ thuật
- Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khổ linh
hoạt
-Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.
- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.
- Kết cấu song hành: sóng và em
2.5. Chủ đề
Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim người phụ
nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.
II. LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Phân tích hình tượng sóng
Mở bài :
Cách 1:
XQ là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mĩ. Bà la một người phụ nữ tài năng và giàu nghị lực.Thơ bà là tiếng nói của người phụ nữ nhiều
trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa đằm thắm chân thành và luôn da diết trong khát vọng hạnh
phúc bình dị,đời thường. “Sóng” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Khám phá bài thơ người đọc
nhận ra nhiều nét tương đồng giữa sóng và trái tim yêu của người con gái. Đây cũng là hình tượng
nghệ thuật đem đến thành công cho tác phẩm này.
Cách 2: Tình yêu luôn mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau cho con người . Từ bao đời
nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều thi sĩ đã mượn văn chương
để lý giải tình yêu, nhưng dường như không có câu trả lời nào hoàn chỉnh .Trong số những thi sĩ
ấy,ta không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, người nổi tiếng với bài thơ Sóng. "Sóng" là
nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp, tinh vi của tâm hồn người phụ nữ khi
nói về tình yêu của mình.
28
Năm học 2021-2022
Thân bài :
1. Khái quát:
Bài thơ ra đời năm 1967, sau chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh thăm 1 đơn vị pháo binh ở
Diêm Điền ,Thái Bình. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “Sóng”. Đó là một hình ảnh ẩn dụ của tâm
trạng người con gái đang yêu, là sự phân thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. Cùng với hình
tượng “Sóng” bài thơ còn có hình tượng "em". Hai nhân vật trữ tình này có lúc phân đôi ra để soi
chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc hòa nhập vào nhau tạo nên một âm vang.
2.Phân tích:
Sự âm vang, đồng điệu ấy được thể hiện ngay từ khổ thơ đầu:
"Dữ dội và dịu êm
...........................
Sóng tìm ra tận bể "
Với việc sử dụng 2 cặp từ trái nghĩa "dữ dội, dịu êm", "ồn ào, lặng lẽ" Xuân Quỳnh đã vẽ ra
trạng thái tự nhiên của con sóng giữa đại dương. Đó là con sóng lúc thì dữ dội, ồn ào có thể phá tan
tất cả trong những trận cuồng phong, nhưng lúc trời yên gió lặng thì sóng lại dịu êm lặng lẽ. Sóng là
vậy, luôn biến đổi muôn hình vạn trạng. Trạng thái của người con gái đang yêu cũng thế: vui đấy rồi
cũng chợt buồn đấy, có lúc dịu dàng như một thánh nữ , lúc lại dữ dằn "như sư tử Hà Đông".
Mượn trạng thái của sóng, nhà thơ đã diễn tả chân thực và tinh tế trạng thái của người con
gái đang yêu. Không chỉ tương đồng về trạng thái cảm xúc sóng và em còn có sự tương đồng trong
khát vọng tình yêu:
"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"
"Sóng-sông-bể " là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình của con sóng từ một không gian nhỏ
hẹp vươn tới một không gian rộng lớn hơn. Con sóng trong tự nhiên luôn khát khao được trở về với
biến để thỏa chí vẫy vùng. Trái tim của người con gái đang yêu cũng có sự tương đồng như vậy. Họ
luôn muốn tìm kiếm tình yêu lớn lao cao thượng, bao dung để vượt ra khỏi tình yêu ích kỉ, hẹp hòi.
Khát vọng tình yêu của người con gái còn được thể hiện trực tiếp trong khổ thơ thứ 2:
" Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ "
Thán từ “Ôi” đặt ở đầu khổ thơ như một tiếng trầm trồ của người con gái khi đứng trước sóng,
ngưỡng mộ trước sự trường tồn bất biến của sóng . "Ngày xưa -ngày sau-vẫn thế" đã khẳng định sức
sống vĩnh hằng của con sóng với đại dương. Người con gái đang yêu cũng ước gì tình yêu của mình
cũng trường tồn như thế với thời gian. Khát vọng ấy luôn luôn thường trực, hiện hữu trong “ngực
trẻ”.
Đứng trước biển nhân vật trữ tình không chỉ gửi gắm niềm khao khát mà còn có những suy
ngẫm, băn khoăn về cội nguồn của sóng và tình yêu:
" Trước muôn trùng sóng bể
Em ngĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
29
Năm học 2021-2022
Từ nơi nào sóng lên ?"
Hàng loạt câu hỏi được đặt ra kết hợp với điệp từ "em nghĩ " đã diễn tả những băn khoăn trăn trở
ấy. Tuy nhiên, không phải câu hỏi nào cũng có thế lí giải. Dựa vào kiến thức khoa học người ta có
thể lí giải cội nguồn của sóng (sóng bắt đầu từ gió ). Nhưng tình yêu bắt đầu từ đâu? Khi nào ta yêu
nhau? Vì sao ta yêu nhau ?.. là những câu hỏi không thể trả lời. Tình yêu là một thứ tình cảm đặc
biệt, xuất phát từ trái tim. Có khi người ta yêu nhau chỉ qua cái nhìn đầu tiên. Do vậy không có khoa
học nào có thể lí giải được trái tim tình yêu của người con gái. Trước XQ, đã có khá nhiều thi nhân
đi tìm câu trả lời “Tình yêu là gì?”. Trong số đó phải nhắc đến “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu.
Nhưng rồi ông cũng chỉ có thể kết “Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc đc yêu.
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu, người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết…”. Để rồi nhân vật
trữ tình "em " phải thốt lên "em cũng không biết nữa, khi nào ta yêu nhau?"
Mạnh mẽ là thế, dữ dội là thế, vậy mà cũng có lúc trái tim em yếu mềm, run rẩy, băn khoăn,
lo lắng. Chỉ có thể là người con gái trong cuộc Xuân Quỳnh mới có thể diễn tả chân thành những
cảm xúc như thế.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ , kể cả khi người ta bên cạnh nha u. Nỗi nhớ ấy được
Xuân Quỳnh diễn tả bằng khổ thơ dài hơn:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ con thức”
Nghệ thuật đối được sử dụng khéo léo, nhằm khẳng định không gian tồn tại của con sóng. Dù là
con sóng ngầm hay là con sóng nổi thì con sóng vẫn tuân theo quy luật tự nhiên đó là vỗ nhịp vào
bờ. Tác gải đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá nhằm nhân cách hoá đặc tính của con sóng "Ôi con sóng
nhớ bờ, Ngày đêm không ngủ được" . Nỗi nhớ bờ của con sóng triền miên không dứt, kéo dài suốt cả
ngày lẫn đêm. Xuân Quỳnh đã diễn tả quy luật sóng : dù con sóng dưới lòng sâu hay ở trên mặt nước
đều vỗ nhịp vào bờ. Trạng thái ấy được Xuân Quỳnh nhân hóa bằng động từ "nhớ ". Dường như
sóng không đủ nói hộ lòng mình, nữ thi sĩ phải giãi bày trực tiếp "lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ
còn thức". Cách nói phi lý “trong mơ còn thức” Nỗi nhớ thường trực cả
khi thức và ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết không thể
nào nguôi, nó cuồn cuộn dào dạt như những con sóng triền miên vô hạn. Nỗi nhớ đã chiếm toàn bộ
cõi lòng, trong tâm thức và tiềm thức của người con gái. Thế nên nỗi nhớ trong tình yêu đã được lấy
làm chuẩn cho những nỗi nhớ khác. Ví như Tố Hữu trong “Việt Bắc” đã từng viết "nhớ gì như nhớ
người yêu". Xuân Quỳnh đã diễn tả một tình yêu chân thành tự nhiên, tha thiết cháy bỏng . Tình yêu
ấy trở lên mãnh liệt hơn khi thi sĩ khẳng định sự thủy chung của mình:
" Dẫu xuôi phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương

30
Năm học 2021-2022
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Khác với những khổ thơ trước thi sĩ mượn sóng để nói mình thì ở khổ thơ này , người con gái ấy
đã giãi bày trực tiếp. Trái tim em hướng về anh như hoa hướng dương hướng về mặt trời. Người
con gái trong bài thơ luôn có xu hướng muốn khẳng định chắc chắn tình yêu của mình dành cho đối
phương. Tình yêu ấy vừa nồng nàn cháy bỏng mãnh liệt vừa rất dịu dàng, tế nhị.
Đi liền với những khao khát, nhật vật trữ tình không tránh khỏi những phút giây bâng
khuâng, suy ngẫm về tình yêu và cuộc đời:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Ở khổ thơ này, giọng thơ trầm hẳn xuống thể hiện những chiêm nghiệm của một phút lắng lòng.
Người con gái nhận ra sự hữu hạn của đời người: “Cuộc đời tuy dài thế năm tháng vẫn đi qua”.
Cuộc đời hữu hạn trong dòng đời vô hạn. Tình yêu, tuổi trẻ rồi cũng có thể biến tan. Gặp gỡ rồi chia
ly, hợp rồi tan là quy luật của tình yêu. Lo sợ trước quy luật ấy, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã trăn trở tìm
cách bất tử hóa tình yêu.
" Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
"Tan ra" là động từ diễn tả khát vọng được hòa nhập. “Trăm con sóng nhỏ” là hình ảnh biểu
tượng cho tình yêu nhỏ bé của các nhân. “Biển lớn” lại đại diện cho tình yêu lớn hơn đó là tình yêu
dân tộc. Nhân vật trữ tình khao khát hòa nhập tình yêu cá nhân của mình với tình yêu dân tộc, tình
yêu đất nước. Giữa những năm kháng chiến chống Mỹ, trong khi cả dân tộc đang gồng mình đánh
đuổi kẻ thù, thì những thanh niên như Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm không thể khư khư giữ lấy
tình yêu cá nhân của mình. Họ biết hòa tình yêu cá nhân của mình với tình yêu dân tộc. Chính nhà
thơ Tố Hữu trong một bài thơ cũng đã từng khẳng định :
"Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để yêu em
Em xấu hổ: Thế cũng nhiều anh nhỉ !
Hai đứa yêu nhau: hai người đồng chí
Nắm tay nhau cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay”
Đó là sự hy sinh, sự hòa nhập tuyệt vời của công dân yêu nước , chỉ có như vậy tình yêu của họ
mới không cô đơn, mới vĩnh hằng trước sóng gió cuộc đời.
Kết Bài :
Với thể thơ 5 chữ , nhịp thơ biến đổi linh hoạt, Xuân Quỳnh diễn tả thành công nhịp điệu của
31
Năm học 2021-2022
con sóng trên đại dương cũng như con sóng trong lòng người. Những nhịp điệu ấy vẫn luôn ngân
vang trong lòng người đọc bao thế hệ đã qua. Xuân Quỳnh có thể mất nhưng thơ ca tình yêu của bà
vẫn luôn sống với cuộc đời và lòng người...
Đề 2: Dàn ý Cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài Sóng của Xuân Quỳnh
Tham khảo dàn ý sau:
I. Mở bài
- Xuân Quỳnh là một nữ sĩ tài ba, nhạy cảm, luôn khát khao hạnh phúc đời thường, thơ chị luôn dạt
dào tình cả, lòng trắc ẩn nhân hậu của một trái tim nữ tính.
- Bài thơ Sóng là một trong những bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Nổi bật rong bài thơ là hai hình tượng “sóng” và “em”, đây là hai hình tượng có tính chất song
hành, lúc tách đôi nhưng lúc lại hòa nhập.
II. Thân bài
1. Bản tính và khát vọng của “sóng” và “em” (khổ 1, 2)
- Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ.
Ẩn sâu hình ảnh song là hình ảnh “em”, bản tính của sóng chính là tính khí của “em” trong tình
yêu.
- Con sóng không chấp nhận không gian “sông” chật hẹp, “không hiểu” nổi sóng nên quyết liệt “tìm
ra tận bể” khoáng đạt, để là chính mình. “Em” cũng vậy, cũng khát khao tìm được tình yêu để được
yêu thương và thấu hiểu, được là chính mình.
- Bản chất của sóng từ “ngày xưa” đến “ngày sau” vẫn không hề thay đổi (vừa dữ dội vừa dịu êm ...
luôn muốn tìm ra biển lớn). Đó cũng chính là khát vọng muôn đời của “em”: được sống trong tình
yêu bằng cả tuổi trẻ.
2. Những nỗi niềm của “em” về “sóng”, về tình yêu (khổ 3, 4)
- Đối diện với “muôn trùng sóng bể”, “em” đã có những suy tư, khát khao nhận thức bản thân,
người mình yêu, “biển lớn” tình yêu.
- “Em” băn khoăn về khởi nguồn của “sóng” rồi tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên, nhưng rồi tự
nhận thấy rằng khởi nguồn của sóng, thời đểm bắt đầu tình yêu thật bí ẩn. (Liên hệ câu thơ: “Làm
sao cắt nghĩa được tình yêu ...” trong bài Vì sao của Xuân Diệu).
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của “sóng” và “em”(khổ 5, 6, 7)
- “Sóng” nhớ đến bờ: nỗi nhớ bao trùm không gian (dưới lòng sâu – trên mặt nước), dằng dặc theo
thời gian (ngày - đêm), nhớ đến “không ngủ được”.
- “Sóng nhớ bờ” chính là “em” nhớ “anh”, nỗi nhớ của “em” cũng bao trùm không gian, thời gian,
thậm chí thường trực trong tiềm thức, trong suy nghĩ “cả trong mơ còn thức” (liên hệ nỗi nhớ trong
bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh).
- Dù “xuôi về phương bắc” hay “ngược về phương nam”, trải qua sóng gió cuộc đời thì lòng “em”
vẫn luôn hướng về “phương anh”. Đó là phẩm chất thủy chung son sắt của “em” trong tình yêu.
- Con sóng cũng táo bạo, chủ động và thủy chung như “em”, dù trôi dạt phương nào thì đích đến
cuối cùng vẫn là bờ.
4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu của “em”(khổ 8, 9)
- “Em” luôn trăn trở, lo âu, bất an về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của
tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.
32
Năm học 2021-2022
- Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể
vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng ... bay về xa.”
- Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn bởi vậy “em” khát khao được “tan ra”
“thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt,
vĩnh cửu.
- Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hai hình tượng:“sóng” được khám phá dựa trên sự tương đồng, hòa hợp với
“em”.Hình tượng “em” vừa mang nét truyền thống (thủy chung, dịu dàng) lại vừa mang nét hiện đại
(chủ động tìm tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo).
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng
bình dị, ...
- Bài thơ đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn, thủy chung. Từ đó cho thấy tình
yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con người.

33
Năm học 2021-2022
ÔN TẬP ĐẤT NƯỚC
I.KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả
- NKĐ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kì k/c chống Mĩ
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Trích trong Trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm hoàn thành tại chiến khu Trị Thiên năm
1971
- Viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam …. Chống đế quốc Mĩ xâm lược.
2.2. Vị trí: phần đầu chương V
2.3. Nội dung trọng tâm.
a. Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước
- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng
trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...
- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.
- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn
hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.
- Về không gian địa lý :
+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm).
+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất
Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ
“Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước
để lại…”).
- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ
đến hiện tại và tương lai.
+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).
+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có
một phần Đất Nước”)
+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ
mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).
- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi
người:
+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có
tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.

34
Năm học 2021-2022
+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà
còn thuộc về Đất nước.
+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.
b. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích
- Về địa lý: nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí
Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về
nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về
nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử
văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :
+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;
+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;
+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh
họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch
sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội;
tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung
lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy.
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến
“lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra
Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc
văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng
lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau
kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn
phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo
tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm
đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn
hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh
cho đến ngày toàn thắng.
2.4. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi tạo nên
thế giới nghệ thuật bay bổng diệu kì mà gần gũi thân thiết
- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt
- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
2.5. Chủ đề

35
Năm học 2021-2022
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy
tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người
nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư
tưởng “Đất Nước của Nhân dân”

II.LUYỆN ĐỀ:
Đề 1: Phân tích 9 câu đầu đoạn trích Đất Nước.
DÀN Ý:
Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với phong cách
thơ mang đậm chất trữ tình chính luận.
– “Đất Nước” được trích từ chương V, trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác trong thời kỳ chiến
trường Miền Nam vô cùng ác liệt. “Đất Nước” ra đời với mục đích khơi gợi tình yêu nước thẳm sâu,
kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình vào cuộc chiến của dân tộc.
Thân bài:
Luận điểm 1: Đất nước có từ bao giờ?
+ Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó vỡi mỗi con người, ở trong mỗi con người từ khi
phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
+ Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời thường của mỗi con
người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lí làm người qua các câu chuyện
cổ tích thấm đượm nghĩa tình.
Luận điểm 2: Quá trình hình thành đất nước?
+ Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu
cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.
+ Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương,
chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, nói lớn lên trong chiến tranh
nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.
+ Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc
nhở về tình cảm vợ cồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
+ Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý:“Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền
thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
+ Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”.
Dấu “…” cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý vẫn còn, vẫn nung nấu và
sục sôi.
=>Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán cảu người Việt Nam,
gắn liền với đời sóng gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành linh ồn dân tộc.
Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.
Kết bài:
36
Năm học 2021-2022
Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi chùng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi niềm, đã thể
hiện được tinh thần chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa, văn học dân gian: “Đất
Nước của nhân dân”. Vì vậy, đoạn thơ không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu.

BÀI LÀM CHI TIẾT:


Mở bài (cách 2):
Quê hương đất nước là nguồn cảm hứng bất tận đối với nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca. Khám
phá mảng đề tài này ta không thể quên những thi phẩm nổi tiếng như Quê Hương của Đỗ Trung
Quân, Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh, Quê hương của Giang Nam, hay, Đất Nước của
Nguyễn Đình Thi…Trong số đó đoạn trích Đất Nước (trích chương 5 Trường Ca Mặt Đường Khát
Vọng) của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận mới mẻ, độc đáo của thi nhân về Đất
Nước trên 3 phương diện : lịch sử, địa lý, văn hóa. Những cảm nhận mới mẻ ấy được thể hiện ngay
trong 9 dòng thơ mở đầu:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
……
Đất nước có từ ngày đó.”
Thân bài:
1.Khái quát:
– “Đất Nước” được trích từ chương V, trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác trong thời kỳ chiến
trường Miền Nam vô cùng ác liệt. “Đất Nước” ra đời với mục đích khơi gợi tình yêu nước thẳm sâu,
kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình
với cuộc chiến của dân tộc.
2. Phân tích:
a.Dòng thơ đầu:
Chín dòng thơ mở đầu được coi là sự khám phá độc đáo về lịch sử đất nước. Dòng thơ mở
đầu là một lời khẳng định:“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi . “Ta” ở đây có thể là chính nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm, cũng có thể hiểu là bất kì người con Việt Nam nào. Dòng thơ đã khẳng định
lịch sử lâu đời của Đất Nước. Khi mỗi người con Việt Nam được sinh ra thì Đất Nước đã được hình
thành và phát triển. Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong
mỗi con người từ khi phôi thai.
b.7 dòng tiếp:
Khác với cách định nghĩa của một nhà lịch sử hay một nhà khảo cổ học, Nguyễn Khoa Điềm
đã đi tìm lịch sử từ một góc nhìn mới mẻ. Trong cảm nhận của ông, Đất Nước được hình thành trong
những câu chuyện cổ mẹ thường hay kể. “Ngày xửa ngày xưa” là cụm từ thường mở đầu cho những
câu chuyện cổ tích, nó gợi ra một không gian xa xôi huyền thoại. Ở đó, Đất Nước gắn liền với ước
mơ “Ở hiền , gặp lành”, gắn liền với những người nông dân chân chất, thật thà, lương thiện .
Đất nước còn được hình thành từ tục ăn trầu mời trầu của người Việt: “Đất Nước bắt đầu với
miếng trầu bây giờ bà ăn”. Câu thơ gợi ta nhớ đến sự tích “Trầu cau” rất xúc động, lắng sâu tình
nghĩa . Ca dao Việt Nam có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “miếng trầu nên dâu nhà người”,
37
Năm học 2021-2022
hay, “yêu nhau cau sáu bổ ba , ghét nhau cau sáu bổ ra thành mười”. Miếng trầu, quả cau đã trở
thành biểu tượng của tình nghĩa thủy chung, biểu tượng cho sự gắn kết của người với người. Không
chỉ gắn liền với phong tục ăn trầu mời trầu , đất nước còn gắn liền với phong tục “Tóc mẹ thì bới
sau đầu”. Hình ảnh mái tóc dài của người phụ nữ Việt Nam đã trở thành nét đẹp văn hóa. Khi có gia
đình, mái tóc ấy đã được bối sau gáy có lẽ để gọn gàng, thuận tiện cho công việc chăm sóc thu vén
cho gia đình. Hình ảnh “tóc mẹ bới sau đầu” trở nên rất thân quen, để thương để nhớ cho những
người con xa xứ.
Dưới cái nhìn của một người con yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra sự hình thành
của đất nước còn gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta . Quá trình
ấy được cô đọng trong hình ảnh cây tre: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc”. Cây tre, lũy tre không chỉ gắn liền với hình ảnh những ngôi làng Việt cổ mà còn gắn liền với
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ai là người Việt Nam hẳn còn nhớ truyền thuyết
Thánh Gióng, người đã vươn mình lớn dậy trước lời kêu gọi chống giặc Ân. Vũ khí trong tay người
không gì khác chính là những cây tre gầy guộc mà sức mạnh phi thường . Trong bài thơ Tre Việt
Nam nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã từng ca ngợi :
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi…”
“Tre già măng mọc” cũng là truyền thông tốt đẹp của người Việt . Các thế hệ người dân Việt
Nam lần lượt tiếp nối và phát huy truyền thống yêu nước quý báu của cha ông. Cây tre cũng đã trở
thành biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng, bất khuất, trung hậu của những người con đất Việt.
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước còn gắn liền với truyền thống yêu thương
tình nghĩa của con người : “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ca dao Việt Nam có
câu :
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Gừng và muối vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt. Gừng có tính nóng
ấm, muối có vị mặn đằm. Những gia vị ấy đã trở thành biểu tượng cho tình cảm tốt đẹp giữa vợ với
chồng, giữa người với người trong xã hội: đó là sự thủy chung, mặn mà, ấm áp, yêu thương. Tình
cảm ấy làm nên nét đẹp riêng của dân tộc ta , nhân dân ta, những con người trọng tình trọng
nghĩa“Bán anh em xa mua láng giềng gần, một giọt máu đào hơn ao nước lã.”
Sự hình thành của Đất Nước còn gắn liền với nền văn minh lúa nước, gắn liền với hình ảnh
những người nông dân cần cù một nắng hai sương: “Hạt gạo phải 1 nắng 2 sương xay , giã , giần ,
sàng” . Câu thơ sử dụng đến 4 động từ diễn tả quá trình lao động làm lên hạt gạo. Việt Nam không
phải là nước duy nhất vươn lên từ nền nông nghiệp. Nhưng với xuất phát điểm thấp, nước ta cơ bản
vẫn còn chậm phát triển hơn so với các nước khác trong khu vực. Phải nhiều thế kỷ người nông dân
Việt Nam gắn liền với hình ảnh “Con trâu đi trước cái cày theo sau”. Mặc dù thế người đọc vẫn
cảm nhận được sự yêu thương trân trọng của tác giả dành cho nét đặc trưng văn hóa này của dân tộc.
Khác với định nghĩa của các nhà lịch sử các nhà khảo cổ học , Nguyễn Khoa Điềm đã đi tìm
lịch sử hình thành Đất Nước, cội nguồn Đất Nước từ trong tâm thức, từ trong những phong tục tốt
38
Năm học 2021-2022
đẹp của người Việt. Đất Nước trong cảm nhận của ông là những gì bình dị gần gũi thân thiết gắn bó
với đời sống hằng ngày của mỗi con người mỗi gia đình. Một Đất Nước được thêu dệt bằng chất liệu
văn hóa dân gian, để rồi từ đó ông đi đến một kết luận đầy xúc động: “Đất Nước có từ ngày đó”.
Dấu ba chấm (…) cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý vẫn còn, vẫn nung
nấu và sục sôi.

Kết bài: Với thể thơ tự do , hình ảnh, câu chữ mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày,
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận vừa gần gũi vừa rất thiêng liêng về
đất nước. Thời gian trôi đi có thể xóa nhòa nhiều thứ nhưng những gì thực sự có giá trị vẫn còn sống
mãi, đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một ví dụ điển hình.
Đề 2: : Phân tích đoạn thơ: “Trong anh và em….làm nên ĐN muôn đời”
Quê hương, đất nước là nguồn cảm hứng dồi dào bắt tận đối với nghệ thuật đặc biệt là thơ ca.
Khám phá kho tàn văn học Việt Nam. Người đọc không thể quên những thi phẩm đặc biệt thành câu
và mảng đề tài này nhớ quê hương của Đỗ Trung Quân, quê hương của Giang Nam, đất nước của
Nguyễn Đình Thi,... trong đó đoạn trích Đất Nước trích chương 5 trường ca đoạn đường khát vọng.
Đoạn trích thể hiện những cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước, từ đó thể hiện
những suy tư trăn trở về vai trò của thế hệ mình với đất nước. Nội dung ấy được thể hiện rõ trong
đoạn thơ trên.
Trường ca mặt đường khát vọng nói chung, đoạn trích Đất Nước nói riêng được Nguyễn
Khoa Điềm cho ra đời năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống
Mĩ của nhân dân ta bước vào giai đoạn ác liệt, quyết định đến sự thành bại. Trong thời điểm nhạy
cảm ấy tinh thần đấu tranh của nhân dân đặc biệt của tầng lớp thanh niên vô cùng quan trọng.
Nguyễn Khoa Điềm muốn thông qua những vần thơ để gửi tới thế hệ trẻ một thông điệp về đất nước,
về tình yêu tổ quốc.
Đoạn thơ được mở đầu bằng hai dòng thơ mang tính khẳng định:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần của Đất Nước”
“Anh và em” là những đại từ nhân xưng biểu tượng của thế hệ trẻ những năm chống Mĩ. Họ được
coi là lẽ sống, là lực lượng quyết định thắng lợi kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta. Nguyễn
Khoa Điềm cũng là một trong số đó. Ông nhận thức sâu sắc rằng trong mỗi con người Việt Nam lớn
lên đều có một phần đất nước. Quay trở lại với những dòng thơ đầu tiên, người đọc muốn hiểu rằng
một phần của đất nước đó chính là phong tục tập quán, những yêu thương nghĩa tình đậm sắc màu
văn hóa Việt Nam, đó chính là lời ru à ơi của bà, của mẹ, đó là mái tóc mẹ bới sâu đầu, đó là hình
ảnh là trầu, quả cau đằm thắm mặn mà... đất nước gản dị gần gũi mà thiêng liêng hiện hữu trong trái
tim cho mỗi con người Việt. Để rồi khi đi xa, trong nỗi nhớ của mỗi con người con xa xứ, làng quê,
những người thân luôn luôn hiện lên ấm ám
Không chỉ nhận thức được vai trò và sự hiện hữ của đất nước trong mỗi cá nhân mà nhà thơ
còn nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước, giữa cá nhân với cộng đồng dân tộc:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”

39
Năm học 2021-2022
Hình ảnh “câm tay” không chỉ thể hiện yêu thương ngọt ngào của những ngời yêu nhau, trong
trường hợp này đó là thể hiện sứ gắn kết giữa cá nhân với cá nhân. Sự gắn kết ấy tạo nên sức mạnh
của cộng đồng dâm tộc “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Trong cảm nhận của Nguyễn
Khoa Điềm sức mạnh của đất nước còn là sự kết tinh, gắn kết hài hòa giữa cá nhân với cộng đồng.
“Khi chúng ta cầm tay mọi người đất nước vẹn tròn to lớn”. Hai từ vẹn tròn to lớn thể hiện sự lớn
mạnh phát triển của đất nước. Trong kháng chiến cũng như trong thời bình, mỗi lớp thang phát triển
của đất nước đều ghi dấu những cống hiến của cá nhân cũng như sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Lịch sử đã chứng minh Việt Nam là dân tộc phát huy được sức mạnh ấy. Đất nước không chỉ là sự
hòa khuệ giữa cá nhân với cộng đồng và còn là sứ tiếp nối trong mạch ngầm từ quá khứ, hiện tại đến
tương lai:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Nếu cha ông đã chiến đấu hi sinh để giữ gìn độc lập tự do cho dân tộc thì Nguyễn Khoa Điềm mong
muốn thế hệ trẻ hiện đại sẽ phát huy được truyền thống ấy:
“Những ai đã khất
.................................
Dặn dò con cái chuyện mai sau”
Với Nguyễn Khoa Điềm, nhiệm vụ của mỗi người con đất Việt không chỉ là gìn giữ bảo vệ mà phải
xây dựng và phát triển đất nước. Khát vọng ấy được ông gửi gắm trong ước mơ về một ngày mai “
con ta lớn lên con sẽ mang đất nước đi xa”. Hình ảnh mang đất nước đi xa là hình ảnh mang ý nghĩa
biểu tượng khẳng định sự vươn mình lớn dậy của đất nước trong thời kì đổi mới, đúng với di nguyện
của Bác Hồ kính yêu. Hơn 40 năm sau ngày tắc phẩm ra đời, tròn 40 năm sau ngày đất nước thống
nhất, ước mơ của Nguyễn Khoa Điềm đã được thế hệ hôm nay hiện thực hóa. Việt Nam đã hội nhập
thế giới là một trong những nước có mức độ tăng trưởng kinh tế và bình ổn xã hội tốt nhất trong khu
vực.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò của đất nước trong cuộc đời mỗi con người, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã gửi tới thế hệ trẻ một thông điệp đồng ý nghĩa nhân văn:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
........................................
............................... muôn đời”
Đoạn thơ mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết sâu nắng “ Em ơi em”. Tiếng gọi ấy đã làm cho đoạn thơ
trở lên mềm mại chữ tình. Câu chuyện chính trị đã nhường chỗ cho câu chuyện tình yêu giữa anh và
em. Chỉ có điều trong lời thủ thỉ tâm tình, anh vẫn nói với em câu chuyện đất nước: “Đất Nước là
máu xương của mình”. Hình ảnh so sánh trong câu thơ đã khẳng định mối quan hệ mật thiết, hữu cơ
giữa cá nhân với tổ quốc dân tộc. Con người không thể sống thiếu “máu xương”, đất nước không thể
không tồn tại trong trái tim mỗi người dân. Điệp ngữ phải biết được lặp lại hai lần, là lời yêu cầu, là
lời hiệu triệu mà Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới những thanh niên yêu nước những năm kháng
chiến chống Mĩ. Sau lời hiệu triệu là hàng loạt các động từ: “Gắn bó, san sẻ, hóa thân”. Các động từ
được sắp xếp theo mức độ tăng dần. Đó là những hành động cụ thể thiết thực thể hiện lòng yêu
nước. Với Nguyễn Khoa Điềm, yêu nước không chỉ thể hiện qua lời nói, trong tư tưởng mà cần phải
40
Năm học 2021-2022
cụ thể hóa bằng hành động. Hành động thiết thực nhất trong những năm 70 chính là xuống đường
cấm súng bảo vệ tổ quốc.
Những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm không đơn giản là lời nhắn gửi đến thế hệ những
năm chống Mĩ, sâu sắc hơn, nó còn là lời tâm sự, là lời tự dặn lòng của chính ông. Hơn 40 năm đã
trôi qua nhưng ý nghĩa nhân văn trong thông điệp của Nguyễn Khoa Điềm vẫn còn nguyên giá trị
đối với thế hệ trẻ hôm nay.
Bằng lối thơ tự do, với ngôn từ hình ảnh gần gũi, giản dị, Nguyễn Khoa Điềm đã chuyển thể
thông điệp chính trị thành thông điệp tình yêu. Có lẽ đây cũng chính là lí do tạo nên sức sống lâu bền
cho đoạn trích Đất Nước nói riêng, tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm nói chung trong lòng bao thế hệ
bạn đọc.
Đề 3:Phân tích tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong chương “Đất nước” trích từ trường
ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Huế trong một gia đình trí thức cách mạng. Ông
là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chiến tranh chống Mĩ. Thơ Nguyễn
Khoa Điềm giàu chất suy tư, thể hiện một chiều sâu văn hóa, đặc trưng của thế hệ nhà thơ đã có một
hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường. Các tác phẩm chính của
ông: “Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974).
2. Giới thiệu vài nét về tác phẩm
Bài “Đất nước” trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, bản trường ca gồm
chín chương viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sống nơi thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ
bộ mặt mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, đã có ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trước tình thế
hiềm nghèo của đất nước, đã đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn
dân tộc.
II- Phân tích tư tưởng “Đất nước của nhân dân” thể hiện trong đoạn trích
1. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả chương thơ về
“Đất nước” và xâu chuỗi mọi cảm xúc hình ảnh thơ.
a. Điều này được biểu hiện trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân
gian từ ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích; từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng
ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Chúng tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức
quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hóa dân gian Việt Nam bền vững, độc đáo.
b. Từ đó, nhà thơ đi sâu thể hiện những cảm xúc, suy tưởng của mình về đất nước. Cảm
hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút bằng thơ nhưng vẫn có một hệ thống lập luận khá
chặt chẽ, rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên ba bình diện cơ bản gắn bó thống nhất:
trong chiều dài thời gian lịch sử, trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lí và cuối cùng là trong bề
dày văn hoá, tâm hồn, tính cách Việt Nam.
c. Chính nhờ đứng trên quan điểm “Đất nước của nhân dân”, thông qua chất liệu văn hóa
dân gian giàu chất thơ, kết hợp với lối tư duy bình luận hiện đại mà tác giả đã có những phát hiện
mới mẻ, có chiều sâu ở chính những hình ảnh, chất liệu quen thuộc.
41
Năm học 2021-2022
2. “Đất nước của nhân dân” được thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sử
a. Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu
như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà màu sắc dân gian:
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng gợi nhắc về sự tích trầu cau từ thời Hùng Vương dựng nước xa xưa,
về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân. Lịch sử đất nước được đọng lại trong từng
câu chuyện, hiện hình trong “miếng trầu bà ăn”, trong “cây tre đánh giặc”. Điều đó muốn nói lên
rằng đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân
dân trải qua bao thế hệ.
b. Vì vậy khi nghĩ về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không điểm
lại các triều đại hay các tên tuổi những anh hùng, những danh nhân như: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… mà nhấn mạnh đến muôn ngàn những
con người bình dị vô danh: “Có biết bao người con gái con trai… không ai nhớ mặt đặt tên…”
“Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân, họ không chỉ là bảo vệ đất nước mà còn
sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng…
Họ gánh theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”.
3. Đất nước ấy còn có một không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cả cộng đồng
a. Cùng với “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ khai
với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: “Đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở” - Một đất nước
đẹp đẽ thiêng liêng biết bao!
b. Nhưng “Đất nước” cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi
người dân: “Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm”. Và đất nước ấy cũng đã chứng kiến
những mối tình đầu của biết bao lứa đôi: “Đất nước là nơi ta hò hẹn… nhớ thầm”.
c. Từ quan niệm “Đất nước của nhân dân”, nhân dân làm nên đất nước, tác giả đã có một
phát hiện sâu sắc và thú vị: những thắng cảnh thiên nhiên đất nước không chỉ mang màu sắc gấm
vóc của non sông, mà chúng còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc, là sự “hóa thân”
của những cuộc đời bình dị vô danh diễn ra trong mọi thời gian, trong mọi không gian đất nước.
“Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta!”
4. Đất nước trong bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt Nam
a. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt Nam không được nói
đến qua các danh nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhậm… mà được thể
hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian - tiếng nói tâm hồn nhân dân trải qua từng
thời kỳ lịch sử.
b. Tác giả ca ngợi ba vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Đó là thật đắm say và
thuỷ chung trong tình yêu! Biết quý trọng tình nghĩa nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù.
5. Kết luận
a. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.
42
Năm học 2021-2022
b. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ kết hợp chặt chẽ với những suy nghĩ giàu chất trí
tuệ của tác giả đã làm nên nét đặc sắc đoạn thơ
c. Đó là một đóng góp riêng rất quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm
về đất nước của thơ ca hiện đại

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ ( NGUYỄN TUÂN)


I.KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân (1910- 1987) là 1 trong số những nhà văn xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại
VN. Ông đã góp phần không nhỏ cho quá trình hiện đại hoá văn hoá dân tộc mà trước hết là ở thể
loại : kí và tuỳ bút.
- Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc : thể hiện ở sự gắn bó đầy tự
hào với những giá trị văn hoá nghệ thuật cổ truyền của dân tộc.
- Ông là người rất mực tài hoa, uyên bác : suốt đời tìm tòi, học hỏi : trong sách vở, đời sống, tác
phẩm của ông rất giàu về tri thức thuộc nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quí trọng sự thật nghề nghiệp của mình: dường như ông sinh ra
để làm nghệ thuật, cuộc đời cầm bút của ông là một quá trình săn tìm và diễn tả cái đẹp.Với ông,
sang tạo văn chương cũng chính là quá trình đi tìm cái đẹp. Mỗi trang viết của NT luôn thể hiện 1
kiến thức phong phú, sâu sắc, 1 vốn sống rộng rãi . Nhân vật của ông dù là loại người nào thì cũng
phải là 1 nghệ sĩ trong lĩnh vực của nghệ thuật ngôn từ.
2.Tác phẩm:
– Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp
đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc.
Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
– Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả
tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã
được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ
mộng.
II.LUYỆN ĐỀ
ĐỀ 1: Phân tích hình tượng ông lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để làm rõ những nét
độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.
* HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm (thay cho Mở bài)
2. Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân,
được in trong tập “Sông Đà” (1960). Ở tuỳ bút này, ngoài hình tượng thiên nhiên sông Đà, hình
tượng người lái đò sông Đà cũng là một hình tượng đặc sắc mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.

43
Năm học 2021-2022
3. Những đặc điểm ngoại hình và lai lịch của người lái đò sông Đà đầy ấn tượng và hấp dẫn,
tất cả đã gợi cho ta cảm giác con người này như sinh ra từ sóng, thác hung dữ của sông Đà và là
“một linh hồn muôn thuở của sông nước”.
4. Ông lái đò là người rất mực mưu trí dũng cảm trong những cuộc vượt thác đầy hiểm nguy.
Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã đặt người lái đò vào những cuộc thử thách vô cùng
khốc liệt, tưởng như con người không thể nào vượt qua. Nhưng thật là kì diệu, người lái đò không
hề khuất phục, trái lại đã chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo, chính xác.
5. Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ: ông đã nắm vững quy luật tất yếu của sông Đà, nên trở
thành người làm chủ, lái con thuyền, lái con thuyền qua ghềnh thác hung dữ với “tay lái ra hoa”.
6. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: cách nhìn con người, thiên nhiên về
phẩm chất tài hoa nghệ sĩ; chủ nghĩa anh hùng không chỉ có nơi tuyến lửa, giáp mặt kẻ thù, mà còn
xuất hiện ngay trong cuộc sống bình thường. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đầy cá tính, rất tạo hình,
phù hợp với đối tượng; lối so sánh ví von, nhân hoá bất ngờ, hóm hỉnh tài hoa.
*BÀI LÀM CHI TIẾT
Mở bài:
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nhắc đến ông người đọc nhớ
đến một nhà văn tài hoa, uyên bác với khao khát tìm tòi và khám phá cái đẹp của con người và cuộc
sống. Tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy. Khám phá tác phẩm,
người đọc không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của con sông Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình
mà còn trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của ông lái đò. Đó là một người lái đò không chỉ trí dũng
tuyệt vời mà còn là một người nghệ sĩ rất mực tài hoa trong công việc lao động sông nước, trong
nghệ thuật leo thác vượt ghềnh của mình.
Thân bài
1.Khái quát : ( xem phần xuất xứ tác phẩm)
2.Phân tích cụ thể:
2.1.Nhân vật được nhà văn xây dựng như thế nào?
Ý 1: sự xuất hiện:
Ông đò được nhà văn cho xuất hiện ngay từ đầu thiên tùy bút trên một cái nền thiên nhiên
sông Đà vừa rộng lớn vừa đầy hiểm nguy. Ở đó ông đò phải đối mặt và đấu tranh dành dật sự sống
từ tay nó về tay mình. Cũng từ đó nhà văn để cho những phẩm chất tốt đẹp của ông được bộc lộ.
Ý2: Lai lịch:
Theo lời kể của nhà văn, ông đò khoảng 70 tuổi, là người gốc Lai Châu, làm nghề chở đò dọc
đã hơn 10 năm. Ông đã từng bỏ nghề nhưng mỗi lần ngừng tay chèo lại thấy nhớ sông nước cho nên
lại quay trở lại. Cái tên của ông cũng khiến người đọc suy nghĩ. Từ đầu đến cuối tác phẩm nhà văn
không gọi nhân vật bằng tên riêng mà gọi bằng một cái tên chung theo nghề nghiệp: ông lái đò, hay,
ông đò Lai Châu. Phải chăng vì nhà văn nghèo nàn về vốn từ? Dĩ nhiên là không phải. Dụng ý của
Nguyễn Tuân là muốn để ông hòa lẫn trong hàng trăm ngàn người lao động khác trên miền núi sông
này. Tất cả họ đều là những con người đáng ngợi ca.
Ý 3: chân dung ngoại hình
Có lẽ vì làm nghề lâu năm nên công việc chèo đò vượt thác đã hằn in cả vào vóc dáng của ông.
Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm,
44
Năm học 2021-2022
trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình
đặc biệt ấn tượng :“Tay ông lêu nghêu như con sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp
lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông. Nhãn giới
ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Người ta nói rằng làm
cái nghề lái đò trên sông hiểm ác, lắm thác nhiều ghềnh này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của
Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy
mươi tuổi, cái đầu bạc nhưng còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như
chất sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là “mình
đang đứng trước một chàng trai”…Đặc điểm ngoại hình đặc sắc ấy tự nó đã nói lên một cách đầy đủ
với độc giả: con người này như được sinh ra từ sóng, thác hung dữ của sông Đà và là “một linh hồn
muôn thuở của sông nước này”…
Ý4: phẩm chất
*Ông đò để lại ấn tượng mạnh cho người đọc trước hết là ở sự tài trí, dũng cảm trong những
chuyến vượt thác đầy hiểm nguy. Nhân vật người lái đò với những đặc điểm ngoại hình và lai lịch
có một không hai ấy, nếu xuất hiện trên khung cảnh sông nước êm đềm, phẳng lặng trong cuộc mưu
sinh, thì hẳn là không thể gây được một ấn tượng gì sâu sắc cho người đọc. Ở đây, Nguyễn Tuân đã
có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách khốc
liệt nhằm làm bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật. Nguyễn Tuân khẳng định: “ Ông muốn
ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên
một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà”. Nguyễn Tuân đã mô tả một cách chân thật, sinh động,
vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò rất hiên ngang, trí dũng trong
cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, dưới ngòi
bút Nguyễn Tuân diễn ra như một trận đánh dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử
thách ác liệt khác nhau. Sông Đà đã bày ra ba trùng vi thạch trận: “Lúc này, sông Đà reo lên như
đun sôi 100º, muốn hắt tung đi cái thuyền đóng vai một nắp ấm khổng lồ… Đá ở đây từ ngàn năm
vẫn mai phục trong lòng sông chỉ chờ dịp để vồ lấy con thuyền; Đá bày ra thạch trận trên sông với
những bom ke chìm và pháo đài nổi ; Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá…
phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng, thuỷ thủ ngay ở chân thác; Sóng nước như thể quân liều mạng ùa
vào mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám
lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la, não bạt…Cả luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Có lúc tưởng
như ông lái đò sẽ bị con thuỷ quái sông Đà vô cùng hung bạo nuốt chửng. Nhưng ông lái đò vẫn
không hề nao núng, trái lại, vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như
một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyền lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “phá cái
trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”, “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”. Cả những lúc bị thương “mặt méo lệch đi”, mặc cho luồng sóng “đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ
hiểm”,ông lái đò hai chân “vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”.
Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hoá khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ
thuật, thể dục thể thao, điện ảnh… của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thuỷ chiến
ác liệt giữa người lái đò và sóng, thác sông Đà.
* Người lái đò tài hoa tuyệt vời
45
Năm học 2021-2022
Ông lái đò còn là người tài hoa có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng thác sông Đà
rất khắc nghiệt. Chỉ cần người lái đò một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, nhỡ tay,
hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình. Nhưng sóng, thác sông Đà dù có hung dữ
đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò này. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật
chở đò rất kì diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc tất cả các quy luật tất
yếu của dòng sông Đà và nhờ thế mà người lái đò trở thành người tự do, người chiến thắng. Người
lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử mà
chủ động trong mọi tình huống. “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi của ải nước hiểm
trở này”. Lúc thì “Ông cưỡi lên con thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử”; lúc lại
“ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác”; lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi
nước” xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi
người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy.
Thật đẹp biết bao hình ảnh người lái đò sau những phút giây chiến đấu sống còn với thác nước
sông Đà đầy hung ác lại ung dung “Đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá
dầm xanh, anh vũ…chẳng ai bàn tán thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước
đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Có thể nói, sau cách mạng Tháng tám, Nguyễn Tuân đã hướng ngòi bút của mình đến những
con người lao động bình thường. Ông phát hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của con người lao động không
chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn cả trong những hoạt động khác nếu như
công việc của họ đạt tới trình độ điêu luyện; người lái đò là nhân vật điển hình cho những con người
ấy. Ông đã trở thành người nghệ sĩ tài hoa trong công việc lao động đầy hiểm nguy nhưng cũng vô
cùng cao cả của mình. Nguyễn Tuân gọi đó là “Cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí con người
Tây Bắc”. Cũng qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn xuất hiện trong cả cuộc sống lao động bình thường; Người
nghệ sĩ không chỉ có trong sáng tạo nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động khi họ thực
hiện công việc đó một cách tài hoa, dũng cảm nhất.
Kết bài:
Qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, độc giả chúng ta không chỉ thưởng thức một khung
cảnh thiên nhiên Tây Bắc hung bạo, dữ dằn nhưng trữ tình thơ mộng, mà còn được chiêm ngưỡng
một hình tượng người lái đò có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ song lại rất mực mưu trí dũng
cảm trong cuộc vượt thác đầy hiểm nguy. Qua đó, chúng ta còn được thưởng thức một kho từ vựng
mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình, cùng lối ví von so sánh mới lạ, tài hoa, bất ngờ, độc đáo của một ông
vua tuỳ bút- Nguyễn Tuân.
Đề 2: Phân tích hình tượng con sông Đà
Cách 1: Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại VN. Nhắc đến ông người đọc
nhớ đến một nhà văn tài hao uyên bác với khao khát tìm tòi và khám phá cái đẹp của con người và
cuộc sống. Tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy. Khám phá tác
phẩm, người đọc không chỉ trầm trồ thán phục trước sự dũng cảm, tài hoa của ông lái đò mà còn
được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của con sông Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình.
Cách 2: Những dòng sông trên dải đát hình chữ S Việt Nam đã đi vào thơ văn như một biểu
tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Ta đã từng say đắm trước vẻ đẹp thơ mộng, cổ kính của
46
Năm học 2021-2022
sông Hương qua bài ký Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ta cũng đã
từng đứng trước cái mênh mông sóng nước của con sông Hồng qua thi phẩm Tràng giang của nhà
thơ Huy Cận. Và đến với tùy bút Người lái đò sông Đà, người đọc sẽ được Nguyễn Tuân đưa ngược
lên miền Tây Bắc để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của con sông Đà với tất cả sự hung bạo và trữ tình của
nó.
*Lai lịch ( vị trí địa lý): Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung
Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng
73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên
có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân "lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".
2.Tính cách, phẩm chất (vẻ đẹp của sông Đà)
a.Sông Đà hung bạo:
Qua quan sát và cảm nhận của nhà văn, sông Đà trước hết hiện lên với vẻ hung bạo, dữ dằn.
"Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao) và cái hung bạo ấy
còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc
lưu", một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường.
Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác nghềnh mà còn ở kết cấu bờ
sông "đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia…". Bằng nghệ thuật so sánh độc
đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng
nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái
khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Cũng như "quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông
Đà nào tóm được qua quãng đấy". Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con
sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. "Nước ở
đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những
cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực…Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người!
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! "Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Có lúc nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng "rất
đắt", Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên
trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn

47
Năm học 2021-2022
tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn
Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là "sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.
Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược,
hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này". Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn,
để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất
chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò
chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò
la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể
quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Vượt qua trùng vi thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: "Tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác
hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh
giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng
nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở
chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt.
Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong,
lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động
lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe
người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa".
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch
trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với
"diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm
mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà".
Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông
hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ
mộng, trữ tình: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân". Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó
đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
48
Năm học 2021-2022
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu", làm cho người đi rừng dài ngày "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng".
Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: "Cảnh ven
sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Cảnh sông Đà còn là "những nương ngô nhú lên
những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu
ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm". Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt
đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe
lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu", muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của
con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, "tịnh không một bóng người", "một nương ngô
nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa" mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với
hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được
mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ
ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên
cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà,
có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?". Ở đây dường như là con vật hỏi người hay
chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những
khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của "đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến" đánh thức
người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với
thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm
xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: "Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu
tình" của "một người tình nhân chưa quen biết". Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng
nước trôi lững lờ "như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang
lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi". Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó "trôi
những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên
dòng trên".
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái
hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông
Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình
nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.
Đề 3: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây
mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như
49
Năm học 2021-2022
da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về...”
(Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập 1, tr.191)
Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà qua đoạn văn trên. Từ đó nhận xét những đặc sắc trong nghệ
thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân.
GỢI Ý
* Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận.
* Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua đoạn trích:
Tác giả đã phát huy cao độ trí tưởng tượng phong phú cùng với những liên tưởng bất ngờ mà thú vị
để tái hiện hình ảnh Sông Đà:
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ
“con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
+ Vừa mới đây thôi sông Đà còn là nơi hội tụ của những dữ dằn, hung bạo; vậy mà trong
chốc lát sóng nước đã xèo xèo tan trong trí nhớ để hiện hình trước mắt người đọc trong một dáng vẻ
hoàn toàn khác lạ.
+ Mái tóc tuôn tài tuôn dài tưởng chừng như bất tận, nó trập trùng ẩn hiện giữa mây trời
Tây Bắc, nó bồng bềnh uốn lượn quanh co thướt tha duyên dáng… Mái tóc ấy như đang ôm lấy dáng
hình thanh tân trẻ trung gợi cảm đầy sức sống của người thiếu nữ Tây Bắc.
+ Màu trắng tinh khiết của hoa ban, màu đỏ rực rỡ của hoa gạo điểm vào suối tóc ấy khiến
nó thêm phần kiều diễm làm say lòng người. Tác giả dùng lối đảo trật tự câu “bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai” để nhấn mạnh thêm sức sống tràn căng của thiên nhiên Tây Bắc vào thời điểm giữa
mùa xuân, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của suối tóc Sông Đà.
+ Hình ảnh “cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” đã tạo nên cái sương khói hư ảo
như ẩn giấu đi gương mặt đẹp bí ẩn của người thiếu nữ càng làm tăng thêm sức hấp dẫn…
- Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi
đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so
sánh rất cụ thể:
+ Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh,
khác với màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô.
+ Mùa thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ”, như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa,
như màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội. Dường như nhà văn không phải đang miêu tả
một dòng sông mà miêu tả diện mạo một con người trong sự biến thiên của cuộc đời.
 sắc nước tuy biến ảo linh hoạt theo mùa, nhưng đều là thứ màu sắc gợi cảm, đầy ấn tượng.
 sông Đà mang gương mặt, dáng vóc và nhan sắc của một mĩ nhân, có sức gợi cảm, cuốn hút đến
vô cùng.
* Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn.
Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái
khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.

50
Năm học 2021-2022
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng tri thức
của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo
những kì công của tạo hóa.
*Đánh giá chung
- Nhân vật Sông Đà dưới ngòi bút sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và trữ
tình. Lúc hung bạo, con sông “mang diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con người.
Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời
của tạo hóa, trở một “mĩ nhân” đầy gợi cảm và hấp dẫn. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình
cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
Đề 4:
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích sau:
“Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa
vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch
đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên
tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái
đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào,
và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh,
mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền
xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà
rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết
lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng tiếng reo hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua
cái thuyền đã đánh trúng cái cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn
mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh
bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá
dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra
đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải
nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ
dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp
đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”
51
Năm học 2021-2022
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016,
tr.189, 190)
-Hết-
* MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, có phong cách độc đáo. Nhân vật của ông, dù ở lĩnh vực nào, cũng
luôn hiện lên trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
- “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm kết tinh những thành tựu nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau
Cách mạng, là đỉnh cao của thể tùy bút. Thông qua việc khắc họa thành công hình tượng người lái
đò sông Đà, nhà văn đã khẳng định, ngợi ca “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn những
người lao động ở Tây Bắc.
- Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò được thể hiện tập trung qua cuộc vượt thác (đoạn trích).
*TB:
* Khái quát chung: xuất xứ, hoàn cảnh…
* Cảm nhận về hình tượng người lái đò trong đoạn trích:
- Bối cảnh, tình huống xuất hiện nhân vật:
Nhà văn đã đặt nhân vật vào một cuộc vượt thác. Con sông Đà hung bạo, ác hiểm bày “trùng vi
thạch trận” ba vòng, dụ thuyền đối phương...
- Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của nhân vật:
+ Ở vòng vây thứ nhất: người lái đò hiện lên với bản lĩnh dũng cảm phi thường. Mặc dù bị sóng thác
đánh miếng đòn hiểm độc nhất nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương..., vẫn tỉnh táo chỉ huy con
thuyền sáu bơi chèo để giành chiến thắng.
+ Ở vòng vây thứ hai: : người lái đò hiện lên với trí nhớ siêu phàm, kinh nghiệm dày dạn và hết sức
tài hoa. Ông nhớ mặt từng hòn đá lòng sông và “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Từng
động tác lái đò của ông vô cùng chuẩn xác, dứt khoát, khéo léo và tài hoa: lái miết một đường chéo,
tránh, rảo, đè sấn, chặt đôi...
+ Ở vòng vây thứ ba: nhân vật hiện lên với sự tài hoa, khéo léo và sức mạnh thể lực đáng ngưỡng
mộ. Ông đã điều khiển con thuyền với tốc độ “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”; mọi
động tác của ông đều đạt tới sự chính xác tuyệt đối.
- Vẻ đẹp bình dị, khiêm tốn của nhân vật:
+ Sau cuộc chiến đấu ác liệt với sóng nước, ghềnh thác sông Đà, người lái đò lại trở về với những
sinh hoạt bình dị: đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ...
+ Dù là người chiến thắng giòn giã, nhưng người lái đò không có một lời bàn về chiến thắng vừa
qua.
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật:
+ Nhịp điệu câu văn mạnh mẽ như cao trào của một bản hùng ca
+ Cách kể chuyện hấp dẫn, đầy kịch tính
+ Ngôn ngữ điêu luyện, thể hiện sự uyên bác (huy động ngôn ngữ và kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đời sống).
* Đánh giá chung:
- Hình tượng người lái đò sông Đà đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: luôn
quan sát và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
52
Năm học 2021-2022
- Qua hình tượng người lái đò, nhà văn muốn khẳng định: người anh hùng không chỉ có trong chiến
đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
*KB: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích…

BÀI : AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


( Hoàng Phủ Ngọc Tường )
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh năm 1937 tại t.p Huế
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
- Văn phong: Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa được tổng hợp từ vốn kiến thức
sâu rộng về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, địa lí… (tr197)
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ
Huế.
II.LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông này”
Bài làm
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết
về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng

53
Năm học 2021-2022
biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi
lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.
Có lẽ vì đặc trung của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu
luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông
Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.
Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng
sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của
dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút.
Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca
của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn
xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu
hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc
mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng
nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.
Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man
dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi
lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng
khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguôn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp
của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm
mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của
cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.
Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng
ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông
hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu
Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu
chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”,
“trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên
ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.
Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản
quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời
gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời
nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong
trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.
Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm
thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.
Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội
họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹo cổ kính

54
Năm học 2021-2022
của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một
vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.
Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày.
Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ
quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng
nguyễn huệ…”
Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng
Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối
viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả
đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông hương hiện lên với tất cả vẻ
đẹp mà nó mang.
Đề 2: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc,
phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ
nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh
cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng
“vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của
Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn
giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông
đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm
xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm những ánh lửa thuyền
chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.
Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước,
khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô,
nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu
nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc
hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua
cũ để ra bể Ban-tích.(...) Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng
lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm
nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng
Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt
nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày,

55
Năm học 2021-2022
hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông này, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.
Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một “phiến trăng sầu”. Và từ đó những
bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ,
một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa
nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà
thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường, tr199- 200, Ngữ văn 12, tập
một,
Nhà xuất bản Giáo dục 2020)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về
ngòi bút trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
GỢI Ý:
I.Mở bài
II.Thân bài:
1.Khái quát TP
2. Phân tích, cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong đoạn trích
*Tâm trạng, dáng vẻ của sông Hương khi chạm ngõ thành phố, sắp gặp “người tình mong đợi”
+ “Sông Hương vui tươi hẳn lên” -> niềm vui của người con gái tìm đúng đường về, sắp gặp người tình
mong đợi suốt bao thế kỉ. Niềm vui hân hoan trào dâng, không dấu nổi, tràn bờ mà tạo nên cái màu xanh
biếc đầy sức sống của những biền bãi vùng ngoại ô Kim Long.
+ “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam- đông bắc” -> nhà văn đã nhìn thấy được trong
dáng chảy thẳng của dòng sông cái cảm giác “yên tâm” đầy tự tin của người con gái đã lựa chọn đúng con
đường tìm về với tình yêu.
+ “Giáp mặt thành phố... sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ.... đường cong ấy làm cho dòng sông
mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Dáng vẻ hữu hình của dòng sông được so
sánh với thái độ, cảm xúc vốn rất vô hình, trừu tượng trong tâm hồn của người con gái bắt đầu yêu. Ngòi
bút tài hoa và tâm hồn tinh tế của người nghệ sĩ đã bắt được khoảnh khắc thần tình ấy của người con gái
sông Hương để chắp bút viết nên một trong những câu văn đẹp nhất, tình nhất của bài bút kí.
*Vẻ đẹp của đôi bờ sông Hương:
+ Vẻ đẹp của một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông, với những xóm thuyền xúm xít, lập loè trong đêm
những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ. Chính sông Hương đã tạo nên hình ảnh về
những xóm thuyền chài với những bóng cây cổ thụ u sầm, lưu giữ ở đó không chỉ không gian sinh
tồn của biết bao người dân xứ Huế mà còn là nơi lưu giữ bản sắc văn hóa truyền thống xứ kinh kì ->
Làm nên vẻ đẹp trầm mặc, cổ xưa, in dấu thời gian rêu phong, khó tìm thấy ở những thành phố hiện
đại khác. (Phân tích, cảm nhận cụ thể)
* Sông Hương trong lòng thành phố:
+ Điệu chảy: chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh
+ Lý giải điệu chảy lặng tờ của sông Hương:

56
Năm học 2021-2022
++ Về mặt khoa học: những chi lưu và hai hòn đảo nhỏ trên sông làm giảm lưu tốc dòng nước -> nhà
văn đã có những tìm tòi, khảo cứu sâu sắc về sông Hương như một nhà khoa học.
++ Về mặt văn chương: nhà văn đã nhân cách hóa gọi đó là sự vấn vương của một nỗi lòng- nỗi lòng
người con gái mang tình yêu sâu nặng và chung thủy.
+ Vẻ đẹp của điệu chảy lặng tờ:
++ Làm nên vũ khúc tình tứ: điệu slow tình cảm sông Hương dành riêng cho Huế
++ Làm nên bức họa huyền ảo, mĩ lệ về sông Hương trong những đêm hoa đăng hội rằm tháng 7.
+ Mở rộng liên tưởng đến những dòng sông nổi tiếng trên thế giới để khẳng đinh điệu chảy lặng tờ
của sông Hương là một vẻ đẹp độc đáo, ấn tượng, khó quên. Từ đó khẳng định tình yêu sâu đậm và
niềm tự hào của nhà văn dành cho sông Hương.
* Sông Hương là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya- một sự liên tưởng bay bổng, lãng mạn để
khẳng định vai trò của sông Hương đối với âm nhạc Huế
+ Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đều được sinh thành và nuôi dưỡng trên mặt nước sông Hương
giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.
+ Có lẽ những câu thơ hay nhất Nguyễn Du viết về tiếng đàn của Thúy Kiều cũng được ra đời khi thi
nhân “lênh đênh trên quãng sông này”.
-> Sông Hương chính là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
3.Đánh giá nâng cao: Nhận xét về ngòi bút trữ tình của nhà văn
- Với tình yêu say đắm, thiết tha, vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử và văn hóa xứ Huế cùng
ngòi bút tài hoa đầy biến ảo trong những liên tưởng bất ngờ, thú vị, nhà văn đã làm sống dậy một
hình tượng thiên nhiên đẹp. Từ một dòng chảy vô tri trên thực địa, vào trang viết của Hoàng Phủ
Ngọc Tường sông Hương trở thành người con gái đẹp với phần tâm hồn sâu thẳm trong cuộc tìm
kiếm, đuổi bắt đầy hào hoa, đam mê: vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa dịu dàng nữ tính.
- Đoạn văn cũng là sự kết tinh và lắng đọng ngòi bút trữ tình thấm đẫm chất thơ của Hoàng Phủ
NgọcTường. Mỗi câu chữ viết ra đều đẫm cảm xúc, đó là tình yêu say đắm đến si mê nhà văn dành
cho Huế, cho sông Hương. Chính tình yêu ấy đã làm cho ngôn từ phải cất cánh đạt đến giàu có và
tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự đã mê hoặc hồn người bằng thứ ngôn ngữ mượt mà, giàu
hình ảnh, sóng sánh chất thơ, bằng lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

57
Năm học 2021-2022
VỢ CHỒNG A PHỦ ( TÔ HOÀI)
I.KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả: Tô Hoài (1920 – 2014)
- Là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại với số lượng tác phẩm đạt kỉ
lục (gần 200 đầu sách).
- Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất
nước ta, đặc biệt là vùng cao Tây Bắc.
-Truyện của ông hấp dẫn bởi lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, tự nhiên.
- Trước CM ông nổi tiếng với tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” nhưng thành công nhất của Tô Hoài
là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người đồng bào vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của
người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và
khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời:
– “Vợ chồng A Phủ” (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất
cứu mường) in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến
đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến
những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

58
Năm học 2021-2022
– “Vợ chồng A Phủ” gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài,
phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.
b. Tóm tắt truyện:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ,
đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình.
Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha
nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần
quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi
nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp
và trói đứng Mị trong buồng tối.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị
bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất
một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu,
nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt
dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
c.Ý nghĩa chủ đề:
Truyện “Vợ chồng A Phủ” đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã
hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về
nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách
mạng và cho họ một cuộc sống mới.
d.Đề tài: viết về vùng cao Tây Bắc.
II. LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Từ nội dung đoạn cuối truyện, em hãy viết đoạn văn khoảng 150 chữ trình bày suy nghĩ
của em về sức sống của con người trước lằn ranh sinh tử.
*Xác định đề:
-Dạng đề: nghị luận xã hội
-Vấn đề nghị luận: “sức sống của con người trước lằn ranh sinh tử”-> thuộc dạng nghị luận về một
vấn đề tư tưởng đạo lí. (Công thức: Giải+phân+bàn+rút)
*Lập dàn ý
1.Mở đoạn: dẫn dắt-> giới thiệu vấn đề nghị luận.
2.Thân đoạn:
2.1.Tóm tắt lại nội dung đoạn trích ở đề 2:
-Trong đoạn trích ở đề 2, ta thấy nhân vật Mị sau khi cắt dây cởi trói cứu A Phủ đã chạy trốn cùng A
Phủ. Cô đã vùng sức chạy, bằng mọi cách để trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hành động này diễn ra
bất ngờ nhưng khá dễ hiểu, bởi đây là lúc Mị đang cận kề cái chết, khát sống trong Mị lúc này trỗi
dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Từ hành động của Mị em suy nghĩ sâu sắc hơn về sức sống của con
người khi đứng trước lằn ranh sinh tử.
2.2. Giải thích:
- “Sức sống con người” là gì? Là khả năng tồn tại và phát triển của con người khi đối diện với những
hoàn cảnh khắc nghiệt.
59
Năm học 2021-2022
- “Lằn ranh sinh tử”: được hiểu là ranh giới giữa sư sống và cái chết.
-> Khi đứng giũa ranh giới sống chết sức mạnh của con người sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
2.3. Phân tích biểu hiện:
- Trong cuộc sống con người ta phải đứng trước những ranh giới nào? (Ranh giới giữa hạnh phúc và
bất hạnh, giữa được và mất, hơn và thua…). Trong đó ranh giới giữa sự sống và cái chết khiến con
người ta phải đấu tranh mạnh mẽ nhất.
- Có thể đó là khi con người ta mắc bệnh hiểm nghèo, gặp những tai nạn thương tâm, hay trong quá
trình chiến đấu với kẻ thù…
2.4.Bàn bạc, mở rộng:
-Vì sao khi cận kề cái chết sức sống của con người trở nên mãnh liệt?
->lấy dẫn chứng->ca ngợi
-Khi vượt qua được lằn ranh sinh tử con người ta sẽ được gì? Được sống, được ngắm nhìn thế giới,
được sống cùng những người ta yêu thương, được làm những điều mình muốn… Được khẳng định
được giá trị của mình…
- Làm thế nào để vượt qua ranh giới? Bằng ý chí, nghị lực, sự quyết tâm, lòng ham sống…
- Phê phán: một bộ phận những con người sống tiêu cực, coi thường mạng sống, không biết trân
trọng sức khoẻ và những gì mình đã và đang có: đầu độc cơ thể bằng chất kích thích, tham gia những
trò chơi mạo hiểu trêu đùa thần chết…-> những con người ích kỉ
2.5.Rút ra bài học:
3.Kết đoạn:
Đề 2: Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Mị trong những đêm tình mùa xuân.
*Mở bài:
Cách 1: giới thiệu tác giả Tô Hoài-> giới thiệu tác phẩm VCAP-> Nhân vật Mị
Cách 2: Giới thiệu đề tài vùng cao Tây Bắc (hoặc đề tài viết về người phụ nữ)
Cách 1: Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .
Tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động. “Vợ chồng A Phủ” là
truyện ngắn tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông. Khám phá tác phẩm, người đọc ko chỉ hiểu
biết thêm những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Mông mà còn hiểu hơn về cuộc đời, số
phận cũng như những nét đẹp tiềm ẩn bên trong tâm hồn những người dân Tây Bắc dưới ách thống
trị của TD Pháp. Mị là nhân vật điển hình cho những con người ấy. Đoạn trích sau đây là một trong
những đoạn trích hay nhất miêu tả thành công vẻ đẹp tâm hồn Mị trong những đêm tình mùa xuân.
II. Thân bài
1. Khái quát :
“Vợ chồng A Phủ” in trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Tập truyện được tặng giải nhất- giải
thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế dài 8
tháng của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đó là thời gian nhà văn cùng ăn ở,
cùng chiến đấu và sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông. Mảnh đất
và con người nơi đây đã mang đến hco ông những trải nghiệm thú vị về văn hoá, tập quán và con
người. Món nợ ân tình với vùng cao đã thôi thúc nhà văn Tô Hoài cho ra đời tập truyện này. Trong
đó, “Vợ chồng A Phủ” được coi là linh hồn của tập truyện.
2. Phân tích chi tiết
60
Năm học 2021-2022
a. Sự xuất hiện:
Tác phẩm mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn
hút độc giả :“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách
giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri:
cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc
nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một
sức mạnh tiềm tàng, khuôn mặt đó đã đặt ra trong lòng người đọc những câu hỏi, gợi sự tò mò vfa
cuốn hút người đọc vào thiên truyện.
b.Lai lịch: (gia cảnh của Mị trước và sau khi về làm dâu)
Mị vốn là một cô gái Mông xinh đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô thổi sáo
giỏi , “uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao
cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã
bao nhiêu lần hồi hộp trước âm thanh hò hẹn của người yêu.
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Mị
sinh ra trong một gia đình nghèo khó, có món nợ hôn nhân “truyền kiếp” với gia đình thống lý Pá
Tra. Và để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt
nợ trong nhà thống lí .
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh
nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con
trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái
nhà này thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về
tinh thần của Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, “kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng
bàn tay”, Mị ngồi trong đó trông ra “lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay
là nắng” . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với
cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây
đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống,
làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha . Nhưng
đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taị vật vờ .
Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một
cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết , nghĩa
là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng
nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi. Nhà văn đã hạ bút viết: “Sống lâu trong cái
khổ Mị quen khổ rồi”. Câu văn nhẹ nhàng mà chua xót biết bao.
c.Phẩm chất ( sức sống tiềm tàng trong Mị trong đêm tình mùa xuân)
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán (trước 1945 như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố…) chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn hiện thực cách
mạng bao giờ cũng phát hiện ra sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ.
61
Năm học 2021-2022
Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn
tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà Tô Hoài còn rất tinh tế khi khám
phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất
cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.
Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bằng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái
tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh
vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo đỏ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”.
Mùa xuân đến đã mang lại cho Hồng Ngài những màu sắc rực rỡ, đó là màu của cỏ gianh vàng ửng,
màu của váy áo. Bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài
vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi
chơi”. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi
sinh.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trái con gái
Ta đi tìm người yêu
Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu
đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong
lòng Mị, đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị. Tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng
trong con tim Mị. Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ
uống ực từng bát”. “Lén” nghĩa là đáng lí ra Mị không được phép. Nhưng giờ thì không cho Mị vẫn
uống. Cách uống rượu của Mị thật lạ, “uống ực từng bát”. Mị uống lấy được, uống như chưa bao
giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng
đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sáo tha thiết đã
nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy.
“Rồi say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước”. “Ngày
trước, Mị thổi sáo giỏi” “Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp và thổi sao.Mị uốn chiếc lá trên môi
thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê…” Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày
trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại “đột nhiên
vui sướng”, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong
ý nghĩ: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi
chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Lần đầu tiên, sau
chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhẫn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối,
Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên phận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức
say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. “Rượu đã tan lúc nào.
Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”. Cõi mộng,
cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.
Mãi sau, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ
bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra
khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồng,
62
Năm học 2021-2022
ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi
nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị
bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : “Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước
mắt úa ra”. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn
yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị. Khúc ca yêu nồng nàn ấy
đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị
phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi
thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt chưa từng có. “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn
một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng”. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam
chịu sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi địa ngục trần gian này. Mị
muốn thắp sáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang
rừng rực cháy. Thắp đèn xong, “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo”. Mị như
đang muốn “tô son điểm phấn”, làm đẹp bản thân mình trước khi hoà vào với không khí mùa xuân,
mùa yêu rạo rực ngoài kia. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn
toàn tự do, ngay trước mắt A Sử.
Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn.
A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn
tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A
Sử phải trói Mị như thế? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình
hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập
tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Có lẽ là cả 2 lí do. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép
chặt, những làn dây trói chặt không sao trói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không
sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô
nghĩa. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị
vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi”. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái
tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự
do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài sợi dây trói.
Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây trói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến
tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn
thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng yếu tố âm thanh
và khai thác vai trò của âm thanh trong toàn bộ diễn biến tâm trạng của Mị. Nếu có những âm
thanh mời gọi tha thiết gõ cửa trái tim và dắt Mị trốn khỏi thực tại để trở về với quá khứ thì cũng có
những âm thanh đã đánh thức Mị, đưa Mị từ qua khứ trở về với thực tại phũ phàng. Cả đêm ấy, Mị
lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết
nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh
tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.
3.Đánh giá: Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và
chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật
một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng
thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.
63
Năm học 2021-2022
Kết bài:
Gần 70 năm đã đi kể từ khi truyện ngắn VCAP ra đời nhưng mỗi lần lật lại từng trang truyện
người đọc vẫn thấy hình ảnh nhân vật Mị hiện lên chân thực và sinh động. Có thể khẳng định Mị là
nhân vật điển hình cho cuộc đời, số phận và sức sống bất diệt của những người lao động vùng cao
Tây Bắc khi sống dưới chế độ cai trị của bọn thực dân, bọn phong kiến miền núi những năm 50 của
thế kỉ 20. Đoạn trích ko chỉ ghi nhận tài năng miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế của Tô Hoài
mà còn cho thấy trái tim ấm áp yêu thương của ông dành cho con người nơi đây. Chính tài năng và
tình cảm chân thành ấy đã làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm VCAP nói riêng, văn của Tô Hoài
nói chung trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

ĐỀ 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ
để thấy được sức sống tiềm tàng của người dân lao động Tây Bắc. Từ đó nhận xét về tư tưởng
nhân đạo của nhà văn
*Mở bài: (Tương tự đề 2, chỉ thay câu cuối)
Cách 1: giới thiệu tác giả Tô Hoài-> giới thiệu tác phẩm VCAP-> Nhân vật Mị
Cách 2: Giới thiệu đề tài vùng cao Tây Bắc (hoặc đề tài viết về người phụ nữ)
Cách 1: Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .
Tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động. “Vợ chồng A Phủ” là
truyện ngắn tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông. Khám phá tác phẩm, người đọc ko chỉ hiểu
biết thêm những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Mông mà còn hiểu hơn về cuộc đời, số
phận cũng như những nét đẹp tiềm ẩn bên trong tâm hồn những người dân Tây Bắc dưới ách thống
trị của TD Pháp. Mị là nhân vật điển hình cho những con người ấy. Đoạn trích sau đây là một trong
những đoạn trích hay nhất miêu tả thành công vẻ đẹp tâm hồn Mị trong mùa đông cắt dây cởi trói
cứu A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ.
II. Thân bài
1. Khái quát : (Như đề 4)
“Vợ chồng A Phủ” in trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Tập truyện được tặng giải nhất- giải
thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế dài 8
tháng của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đó là thời gian nhà văn cùng ăn ở,
cùng chiến đấu và sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông. Mảnh đất

64
Năm học 2021-2022
và con người nơi đây đã mang đến cho ông những trải nghiệm thú vị về văn hoá, tập quán và con
người. Món nợ ân tình với vùng cao đã thôi thúc nhà văn Tô Hoài cho ra đời tập truyện này. Trong
đó, “Vợ chồng A Phủ” được coi là linh hồn của tập truyện.
2. Phân tích chi tiết
a.Sự xuất hiện: (Như đề 2)
Tác phẩm mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn
hút độc giả :“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách
giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri:
cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc
nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một
sức mạnh tiềm tàng, khuôn mặt đó đã đặt ra trong lòng người đọc những câu hỏi, gợi sự tò mò và
cuốn hút người đọc vào thiên truyện.
b.Lai lịch: (gia cảnh của Mị trước và sau khi về làm dâu) (Như đề 2)
Mị vốn là một cô gái Mông xinh đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô thổi sáo
giỏi , “uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao
cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã
bao nhiêu lần hồi hộp trước âm thanh hò hẹn của người yêu. (Tính cách của Mị trước khi làm dâu)
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Mị sinh ra
trong một gia đình nghèo khó, có món nợ hôn nhân “truyền kiếp” với gia đình thống lý Pá Tra. Và
để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong
nhà thống lí . (Gia cảnh)
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là
con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con
ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà này
thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần
của Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, “kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay”,
Mị ngồi trong đó trông ra “lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” .
Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời,
cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được
cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn
lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống . (Nỗi đau khổ của Mị
khi phải làm dâu gạt nợ)
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha . Nhưng
đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taị vật vờ .
Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một
cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết , nghĩa
là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng
nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi. Nhà văn đã hạ bút viết: “Sống lâu trong cái
65
Năm học 2021-2022
khổ Mị quen khổ rồi”. Câu văn nhẹ nhàng mà chua xót biết bao. (Sự biến đổi của Mị khi cam chịu
kiếp dâu gạt nợ)
c.Phẩm chất ( sức sống tiềm tàng trong Mị trong đêm mùa đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ)
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán (trước 1945 như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố…) chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn hiện thực cách
mạng bao giờ cũng phát hiện ra sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ.
Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn
tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà Tô Hoài còn rất tinh tế khi khám
phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất
cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Sức sống ấy đã từng hồi sinh khi khắp vùng Hồng Ngài
sống trong những ngày xuân rực rỡ. Tuy nhiên sự “nổi loạn” ấy đã sớm bị dập tắt bởi bàn tay thô
bạo của A Sử. Nó chỉ thực sự trở nên quyết liệt trong cái đêm mùa đông Mị cắt dây cởi trói cứu A
Phủ và chạy trốn cùng A Phủ, thoát khỏi kiếp nô lệ tôi đòi. (chuyển ý)
*Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông:
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có
thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị
ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công
cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng
đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người:
“Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ
hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa,
Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày
kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã. Nhưng ban
đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên
thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn
vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó
hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở
nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận
thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế
nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách
thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng
cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn Mị nữa
rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng,
“Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất
gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị
chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù
sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về
66
Năm học 2021-2022
thể xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị
đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm
phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị
nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ
trước đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức
về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của
mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ
xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này
chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải
chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý
muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt: Mị
băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất có thể Mị sẽ
phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn
hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc
làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi
thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng
không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị
nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A
Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn
ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây
chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà
đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái
với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý
niệm.
Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình
ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng
vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất
định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó,
cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ
cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm
qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do
mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm
nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất
thảy của niềm khao khát sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần
quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ
cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ chính là bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ
67
Năm học 2021-2022
đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử
dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất
ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng
vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ
đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo”
của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi suy nghĩ và tâm
tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải chăng “tình thương là một thứ năng
lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những
con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh
sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao
mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.
Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành
động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được thể
hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn
vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác
phẩm. Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó
đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự
cứu lấy bản thân mình.
Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi
nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho
số phận tủi cực, không lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy
cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị.
Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được
chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con
người có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm đặc
biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ đã cởi nút thắt cho bao nhiêu
tăm tối và cùng cực của con người, đó như một lời tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và
khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng
như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo
hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A
Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị
cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu)
GỢI Ý 2:
* MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
- Tác giả:
+ Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học Việt Nam hiện đại. Có quan
niệm nghệ thuật "vị nhân sinh" độc đáo.
- Tác phẩm:
+ Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách
thống trị của thực dân phong kiến.
68
Năm học 2021-2022
- Vấn đề nghị luận ( trích đoạn): Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm Giới thiệu hình
tượng nhân vật Mị và diễn biến tâm trạng, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ. Từ đó,
thấy được giá trị nhân đạo lớn lao được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích.
*TB:
* Khái quát chung về tác phẩm: Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, nhân vật Mị...
*Hoàn cảnh và tâm trạng Mị trước đêm cởi trói A Phủ:
- Cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn.Thời gian đọa đày biến
cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm.
- Những đêm tình mùa xuân về trên bản Mèo Hồng Ngài, khiến tâm hồn vốn đã chai sạn của Mị
dần dần được đánh thức, nhưng ngay khi sức sống tiềm tàng của Mị hồi sinh cũng là lúc sức sống ấy
một lần nữa bị A Sử dập tắt.
- Đêm mùa đông đến, lúc đầu Mị thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc
ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
- Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi
cao dài và buồn.
- Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết
héo.
* Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ:
- Ban đầu, trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm: Cô "thản nhiên thổi lửa hơ
tay". Phản ứng này của Mị cũng là điều hiển nhiên vì cảnh trói người đến chết như thế ở nhà thống lí
là chuyện bình thường. Vả lại, có lẽ "ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen khổ rồi" nên cái khổ của
người khác cũng thế thôi.
- Sau từ vô cảm đến đồng cảm:
Những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy,
dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ
về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
- Thương mình, thương người:
Mị nhận ra sự độc ác và bất công của cha con thống lí "Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng chỉ đêm mai
là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Từ cảnh ngộ của mình và những người đàn
bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó
thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết.
- Hành động cứu người: "Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ
biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây". Cuối cùng, sức mạnh của tình
thương cùng với niềm khát khao tự do trỗi dậy đã khiến Mị vượt qua nỗi sợ hãi để quyết định một
hành động táo bạo: Cắt dây trói cứu A Phủ.
- Hành động cứ người cũng là tự giải thoát cuộc đời mình: đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt
hoảng…; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ: "Mị đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ .... Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói:
- Ở đây chết mất.."
69
Năm học 2021-2022
-> Đây là hệ quả tất yếu sau những gì diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm
cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những gông xiềng của cả
cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và
khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
* Ý nghĩa việc miêu tả tâm trạng và hành động của Mị:
-Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí đã
tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
- Thể hiện giá trị nhân đạo: phát hiện và miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao
động bị áp bức trong xã hội cũ.
* Giá trị nhân đạo được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích:
- Tố cáo tội ác của cường quyền và thần quyền ở vùng núi cao Tây Bắc những năm trước cách mạng
đã bóc lột cả về thể chất và tâm hồn người lao động.
- Trân trọng khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động vùng cao.
- Nhà văn tin tưởng vào khát vọng ham sống mãnh liệt của con người sẽ giúp họ có niềm tin và sức
mạnh vượt qua nỗi sợ hãi cá nhân để hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ sẽ được đổi đời khi cách
mạng đến.
* Nhận xét, đánh giá đặc sắc nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình.
- Xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính.
- Ngôn ngữ sinh động, sáng tạo, giàu tính tạo hình.
- Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn.
*KB: Khẳng định giá trị nội dung và nghê thuật của tác phẩm, đoạn trích…
Đề 3; “Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt
ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp
và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một
mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà Mị từ từ bước
vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống
giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải
ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 7-8)
Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn văn bản trên. Từ đó nhận
xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài.
70
Năm học 2021-2022
GỢI Ý:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn
hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước và giọng
điệu trần thuật hóm hỉnh, sinh động, đặc biệt là tài năng xây dựng và khắc họa nhân vật, Tô Hoài đã
để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng bạn đọc cả trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945…..
+ Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này nhà văn đã có
dịp sống gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số ( Thái , Mường, Mông , Dao ..) nên đã để lại
nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi. Đều này thôi thúc Tô Hoài viết " Truyện
Tây Bắc" trong đó có Vợ chồng A Phủ. (1952). Truyện được giải nhất Truyện và kí Việt Nam năm
1954- 1955. Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.
.
- Đoạn trích “Ngày tết, Mị cũng uống rượu……. Em không yêu, quả pao rơi rồi.” là một phần diễn
biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó người đọc thấy được
đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài
Thân bài:
* Giới thiệu về nhân vật Mị
- Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái trẻ đẹp, hiếu thảo, lao động
giỏi, tự tin và khao khát sống tự do… Mị có những phẩm chất rất đáng tôn trọng và rất xứng đáng
được hưởng hạnh phúc.
- Làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị trở thành một nô lệ bị đọa đày, áp bức, bóc lột về thể xác
và bị đầu độc, áp chế về tinh thần. Vì bị tước hết mọi quyền sống nên Mị không còn ý niệm về thời
gian, thời gian của Mị chỉ được tính bằng công việc, sống như cái xác không hồn, (ngồi bên tảng đá
trơ lạnh, mặt Mị luôn cúi xuống buồn rười rượi, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa…). Thế giới
mà cô nhận thức được qua các ô cửa vuông bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng” “không biết là sương
hay là nắng”.
-Tiếng sáo và “những đêm tình mùa xuân” đánh thức sức sống tiềm tàng mãnh liệt và giấc mộng lứa
đôi một thời Mị đã từng khao khát. Cô nhớ quá khứ, sống trong quá khứ, quên đi thực tại phũ phàng
đầy cay đắng.
* Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích
- Hành động uống rượu bất thường và tâm trạng đắm chìm trong quá khứ, sống với quá khứ.
+ Hành động Mị “uống ực từng bát” rượu như đang nuốt tất cả những nỗi cay đắng, tủi cực vào
bên trong. Uống để quên nhưng lại nhớ, uống để trôi đi nhưng lại lắng đọng bao nhiêu cảm xúc.
“Ngày tết…. từng bát”
+ Tâm trạng đắm chìm trong quá khứ, sống với quá khứ, một quá khứ huy hoàng, rực rỡ:
“Nhưng lòng Mị……. đi theo Mị”
(Tài năng – Thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo; sắc đẹp - Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị;hương tình yêu nồng nàn)

71
Năm học 2021-2022
=>Âm thanh tiếng sáo và men rượu đã tác động rất lớn đến tâm trạng của nhân vật Mị, làm cho Mị
như ý thức được mình đang sống giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say; hạnh phúc và bi
kịch
- Hành động âm thầm lặng lẽ và tâm trạng phấn chấn, phơi phới, vui sướng đột ngột “Rượu đã
tan từ lúc nào…. Mị muốn đi chơi.”
+ Hành động: từ từ bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông… thể hiện sự
bất lực đầy ngan ngán, chán chường, tuyệt vọng.
+ Tâm trạng : thấy phơi phới, đột nhiên vui sướng, nhận ra mình còn trẻ và muốn đi chơi.. dấu hiệu
của sự hồi sinh trong tâm hồn của Mị.
- Ý nghĩ tiêu cực và sự đan xen giữa thực tại đầy cay đắng với khát vọng sống mãnh liệt
“Huống chi…. quả pao rơi rồi…”
+Nhận thức hoàn cảnh thực tại phủ phàng, caycđắng: hôn nhân không tình yêu “không có lòng với
nhau mà vẫn phải ở với nhau”
+ Ý nghĩ tiêu cực để thoát khỏi bất hạnh: ăn lá ngón tự tử
+Sống với âm thanh tiếng sáo
=>Mị khao khát tình yêu, tự do. Khao khát ấy chưa bao giờ bị dập tắt. Sức sống ấy như hòn than phủ
đầy tro bụi, có cơ hội sẽ bùng cháy mạnh mẽ.
* Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài: Nhà văn Tô Hoài xây dựng
nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện
ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo đặc biệt tâm trạng được miệu tả, lí giải cụ thể, hợp lí:
- Đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là phương diện miêu tả tâm lí.
- Đó là việc Tô Hoài xây dựng nhân vật theo kiểu con người phân lập: cô Mị ở hiện tại và cô Mị ở
quá khứ hòa chung vào nhau. Hai con người ấy đan xen, khi tách ra khi hòa vào một tạo nên một cô
Mị hết sức sinh động, mới lạ.
Kết bài:
- Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị: dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liêt. Sức sống và khát vọng của Mị trong đoạn trích
đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.
- Với nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và tài năng viết truyện ngắn độc đáo, ngôn
ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, thấm đẫm chất thơ, nhân vật Mị trong đoạn trích
nói riêng và trong tác phẩm nói chung đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một dấu ấn khó phai
mờ. Nhân vật Mị và Tác Phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã góp phần làm nên tên tuổi của Tô Hoài.

72
Năm học 2021-2022
VỢ NHẶT (KIM LÂN)

I.KIẾN THỨC CƠ BẢN


1.Tác giả:
- Kim Lân là cây bút chuyên về đề tài nông thôn.
- Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh nông thôn và người nông dân.
- Sáng tác của ông phản ánh một cách chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông
am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ.
2.Tác phẩm:
a. Xuất xứ
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách
mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần
cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
b.Tóm tắt
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư,
trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu
nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ
Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương
nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh
về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
73
Năm học 2021-2022
c. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt
thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn
hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh
Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ.
Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều
tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ
rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận
tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
3.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay
giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói
khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có
vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã
có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong
đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của

II.LUYỆN ĐỀ
Đề 1: phân tích nhân vật Tràng
Mở bài:
Kim Lân (1920-2007) là gương mặt tiêu biểu trong nền văn học hiện đại Việt Nam.Thế giới
nghệ thuật của ông là khung cảnh nông thôn và người nông dân Việt Nam. Ở đó thăm thẳm tình
thương và niềm cảm thông mà ông dành cho những người thấp cổ bé họng. “Vợ nhặt” là tác phẩm
tiêu biểu cho phong cánh nghệ thuật cũng như những tình cảm ấy của ông. Khám phá tác phẩm
người đọc không thể quên nhân vật trung tâm - một anh Tràng dở hơi thô kệch lại lấy vợ giữa lúc cái
đói cái chết cận kề. Thế nhưng đằng sau hành động ấy là biết bao thâm tình khiến người đọc yêu
mến anh.
TB:
1. Khái quát tác phẩm
2. Phân tích
* Sự xuất hiện:
Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét phác thảo, Kim Lân đã vẽ nên
bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm trong bóng đêm chết chóc, tăm tối, ảm đạm. Ở
đây thiếu vắng sự sống hoặc sự sống le lói như ngọn đèn trước gió. Hai lần nhà văn so sánh người
với ma. Người sống thì "lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám như những bóng ma" . Người
chết thì “như ngả rạ”, không một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại không thấy ba bốn
cái thây người nằm còng queo ở bên vệ đường. Mùi tử khí nồng nặc. Tác giả còn tô đậm bức tranh
74
Năm học 2021-2022
hơn nữa bởi hình ảnh của bầy quạ đen chờ chực để rỉa xác người chết. Cõi âm và cõi dương nhạt
nhòa. Tất cả đang đứng bên bờ vực của cái chết. Trên cái nền chết chóc ấy, một buổi chiều người ta
thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Đó là vợ Tràng. Điều không thể tin lại phải tin trong tác
phẩm của Kim Lân. Và cũng chính sự xuất hiện của Tràng làm cho câu chuyện về anh trở nên hấp
dẫn người đọc.
*Ngoại hình, lai lịch và số phận.
Tràng là một lao động nghèo, là một kẻ ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân
ngụ cư là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư không có ruộng đất, chỉ đi làm thuê
làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Gia
đình Tràng cũng không ngoại lệ. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì luôn "vắng teo, đứng
rúm ró trên một mảnh vườn mọc lốn nhốn những búi cỏ dại". Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị
coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch: cái đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm
bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước lại hay nói lầm bầm trong
miệng, thi thoảng ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Tràng hiện lên “như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo
hóa”. Chỉ cần từng ấy yếu tố đã đủ đẩy Tràng đến trước nguy cơ ế vợ. Ấy vậy mà Tràng lại bỗng
nhiên có vợ, "nhặt được vợ" đúng cái nạn đói khủng khiếp. Nhưng cũng chính tình huống ấy đã bộc
lộ những phẩm chất tốt đẹp ở Tràng.
*Phẩm chất:
a)Trước hết Tràng là một người lao động chăm chỉ, vui vẻ, lạc quan
- Giữa lúc cả làng đói khát, không kiếm được công ăn việc làm thì anh Tràng vẫn tìm được cho mình
một công việc, dù nó có vất vả.
- Mỗi chiều đi làm về anh thường đùa vui với lũ trẻ trong xóm ngụ cư.
- Công việc kéo xe bò thuê vô cùng vất vả nhưng anh vẫn hò hát một cách vui vẻ. Đây cũng là cái
duyên để Tràng gặp gỡ người “vợ nhặt”
b) Anh còn là một người có trái tim nhân hậu, hào phóng và chu đáo
+ Giữa lúc đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại
đây mà đẩy xe bò với anh nì". Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng
có ý chòng ghẹo cô nào. Cái đói đã đẩy người đàn bà ấy ra với hắn. Vì đùa vui nên Tràng đã không
giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái "cười
tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ chưa có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy". Nhà văn
KL đã rất nhân văn khi miêu tả cái liếc mắt của thị. Hôm sau gặp lại, đứng trước mặt Tràng là một
người đàn bà đói rách đến nỗi anh nhận không ra. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã
bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày
hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thị sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn "Điêu, người
thế mà điêu". Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được
rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng mời
người đàn bà kia ăn “Thị ngồi sà xuống,ăn một chặp bốn bát bánh đúc". Đó chính là lòng thương
một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.

75
Năm học 2021-2022
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua cho thị một cái thúng con, lại còn đãi thị một bữa cơm no
nê trước khi dẫn thị về. Những hành động ấy diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết
định lấy vợ.
+ Anh còn bỏ ra hai hào mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c) Không những thế, ở Tràng luôn cháy bỏng một khát vọng tình yêu, hạnh phúc gia đình.
+ Rủ “thị” cùng về: ban đầu chỉ là “đùa” vì Tràng không nghĩ rằng người đàn bà kia sẽ đồng ý.
Nhưng lời “rủ rê” ấy thực chất xuất phát từ một tia hy vọng rất mong manh về hạnh phúc.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên
xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầuTràng lo sợ về cái đói và cái chết "mới đầu
anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo
bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người
và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi "Chậc kệ!". Chỉ một từ "kệ"
thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho hạnh phúc của
mình.Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn
lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì
tình yêu, người kia vì miếng ăn.
Nói tóm lại là họ “liều”, nhưng cái “liều” kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là
người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái
chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng. Phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim
Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn
đói ?
+ Trên đường về, vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy
vênh vênh tự đắc” . Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai
nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh
diện.
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua nhà cửa, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn
bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá
khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết
định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”,
căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi->
Hạnh phúc vì đc mẹ đồng tình, chúc phúc
-Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
+ Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn
đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu
tiên đó là một cảm giác dễ chịu "Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra".
Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe
tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
76
Năm học 2021-2022
lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng".
+ Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm
đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang
lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay.
Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để
cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và
trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... ( giá trị nhân đạo, tác giả mở ra con
đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là chỉ có đi theo cách mạng
mới giải phóng được cho họ)
=>Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với
Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng
hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe
dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt
Kết luận: Qua sự biến đổi tâm trạng thấy được vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đó là tình
thương niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai và thấy được tình cảm
nhân đạo cuả nhà văn dành cho người lao động nghèo khổ.
Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Anh là nhân
vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn
luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Kim Lân đã
khá thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã mô tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc.
Ông đã đi sâu vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật
Tràng nói riêng, để phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những
con người nghèo khổ về một cuộc sống hạnh phúc
Kết bài:

Đề 2: Nêu cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ


Kim Lân (1920-2007) là gương mặt tiêu biểu trong nền văn học hiện đại việt nam. Thế giới
nghệ thuật của ông là khung cảnh nông thôn và người nông dân việt nam. Ở đó thăm thẳm tình
thương và niềm Cảm thông mà ông dành cho những người thấp cổ bé họng. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu
biểu cho phong cánh nghệ thuật cũng như những tình cảm ấy của ông. Khám phá tác phẩm người
đọc không chỉ ấn tượng về nhân vật Tràng mà còn súc động trước tình cảm của một bà mẹ nghèo là
bà cụ Tứ. Mặc dù xã hội hơn những Tràng nhưng bà cụ Tứ khiến người đọc không thể quên được
đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lang thang đi vào, bà lão vừa đi
vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Chỉ từng ấy chữ thôi Kim Lân đã giúp người đọc hình dung
ra trước mắt mình hình ảnh người đàn bà già nua ốm yếu, bệnh tật, nhiều lo toan vất vả.
Ngược dòng thiên chuyện, ai cũng biết bà cụ Tứ chỉ có lại đứa con trai duy nhất là Tràng.
Chồng bà đã chết. Đứa con gái tên là Đục cũng đã thất lạc sau nhiều lần chạy đói. Cơ ngơi của hai
mẹ con hiện ra dưới ngòi bút của Kim Lân cũng thật là thảm hại. “ Cái nhà vắng teo dựng dóm dó
trên mảnh vườn mọc lổ nhổm những búi cỏ dại”. Nhìn cơ ngơi ấy ai cũng phải xót xa. Đó là nh ững
77
Năm học 2021-2022
hình ảnh minh chứng cho một cuộc đời đau khổ, túng thiếu, nghèo đói. không phải riêng gì gia đình
bà cụ Tứ, cả xóm ngụ cư, cả Miền Bắc Nước ta lúc bấy giờ đều đang đứng trước nạn đói khủng
khiếp cuối năm 1944 đầu năm 1945. Tình cảnh ấy đã được Bác Hồ ghi lại trong tuyên ngôn độc lập
như 1 nỗi đau chung của dân tộc cuối năm 1944 đầu 1945 từ Quảng Trị trở ra bắc kì hơn hai triệu
đồng bào ta chết đói.
Trong Hình ảnh bi đát đấy con trai bà cụ Tứ bỗng dưng dẫn về một người đàn bà giới thiệu đó
là mình : “ Nhà tôi mới dẫn về làm bạn với tôi đó u ạ ! Chúng tôi không phải duyên phải kiếp với
nhau chẳng qua nó cũng là cái số cả ...” . Trước lời giới thiệu đầy vẻ nghiêm túc và chân thành của
Tràng, bà hiểu rằng con trai mình không hề đùa. Người đàn bà nghèo khổ ấy đột ngột bị đẩy vào thế
bỗng nhiên có con dâu, bông nhiên trở thành mẹ chồng. trong một vài dây, người mẹ ấy đã kịp suy
nghĩ và nhận ra vẫn đề: “ bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ
sự, vừa ai oán vừa sót thương cho số kiếp con mình” “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc trong nhà ăn lên làm nổi, nhưng mong sinh con đẻ cái mở mặt mở mày. Con mình thì....”.
Trong dấu ba chấm dồn nén biết bao cảm xúc. Bà đang ngầm so sánh đám cưới con mình với đám
cưới con nhà người. Người xưa có câu: “ tậu trâu, lấy vợ làm nhà” trong ba việc ấy thật khó thay.
Thế mà hôn sự của con bà lại diễn ra chóng vánh, không thưa hỏi, không lễ nghi, không có một mâm
cỗ cưới. lễ dẫn dâu của Tràng thay vì có tiếng nhạc lại là tiếng quạ kêu thảm thiết tiếng khóc từ
những nhà có người chết đói ; thay vì bó hoa, có ánh đèn rực rỡ , lễ dẫn của chàng lại đi giữa không
gian u ám của xóm ngụ cư, đi giữa cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi cây của xác người. Chỉ hình
dung thế thôi ruột gan của người mẹ ấy cũng đã tan nát rồi. Thương con bà bao nhiêu bà trách mình
bấy nhiêu. Thế nhưng bà cụ tứ đã nén dòng nước mắt để động viên các con : “ Nhà ta thì nghèo con
ạ vợ chồng mày liệu mà bảo nhau làm ăn . Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là mừng rồi. Năm nay
thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này thương quá ... ’’. Mỗi lời bà cụ nói ra đều thấm thía tình
thương con vô bờ. Nỗi lo lớn nhất của bà cụ chính là sự mong manh trong hạnh phúc của các con khi
đang đứng trước bờ vực của sự sống của cái chết . Bà cụ không nói ra thành lời nhưng trong suy
nghĩ đầy lo âu. Bà lão nghĩ đến ông lão nghĩ đến đứa con gái út bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài
dằng dặc này của mình. “ Vợ chồng chúng mày lấy nhau , cuộc đời chúng mày liệu có hơn bố mẹ
trước kia hay không ? ’’
Ở bà cụ Tứ người ta không chỉ nhận ra tình cảm tình thương con mà còn nhận ra lòng trắc
ẩn sự bao dung đối với những người khốn khó. Lòng trắc ẩn đấy thể hiện trong thái độ của bà cụ tứ
với nàng dâu mới . Nếu vào vị thế của người phụ nữ khác người ta có thể đã hằn học thậm chí còn tỏ
ra khinh thường với người con dâu. Nhưng bà cụ tứ sau một vài giây ngạc nhiên, người mẹ ấy đã kịp
tĩnh tâm để nói với nàng dâu lời động viên an ủi : “ Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau
, U cũng mừng lòng ’’. Bà còn tạo không khí gần gũi thân mật : “ Con ngồi xuống đây , ngồi xuống
đây cho đỡ mỏi chân ’’. Bà cụ tứ hiểu rằng phải khốn khổ đến cỡ nào , người phụ nữ ấy mới theo
không con bà về làm vợ. Giữa cái cảnh người chết như ngả rạ , việc một người phụ nữ bỏ hết sĩ diện
để theo không người đàn ông xa lạ đáng thương hơn là đáng ghét . Biết thế nên bà cụ tứ không hề
oán trách trong thâm tâm của bà còn biết ơn người phụ nữ ấy : “ Người ta có gặp bao nhiêu khó khăn
đói khổ này người ta mới đến lấy con mình mà con mình mới có được vợ...’’. Ẩn sâu trong lòng,
thương con chính là lòng trắc ẩn mà bà dành cho những người khổ hơn mình.
Với cái nhìn nhân đạo, nhà văn kim lân không chỉ to ra đồng cảm trước tình cảnh thê thảm
78
Năm học 2021-2022
của nhân dân việt nam trước cách mạng mà còn phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn uổn khúc sau vẻ nam nũ
của họ. Đó chính là niềm lạc quan yêu đời luôn hướng tới tương lai tươi sáng . Hơn ai hết bà cụ tứ
lườm trước được những khó khăn mà mẹ con bà phải đối mặt : “ Không biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau trong cơn đói khát này không ’’. Lòng đầy lo lắng cho tương lai của các con nhưng bà cụ tứ
đã kìm nén nỗi buồn , giấu đi những dòng nước mắt : “ Bà lão ngoảnh vội ra ngoài . Bà lão không
dám để con dâu nhìn thấy bà lão khóc. Trong buổi sáng đêm tân hôn của các con, người mẹ nghèo
khổ ấy đã dậy từ rất sớm cùng với nàng dâu quét nhà , thu dọn sạch sẽ sân vườn . có lẽ ai cũng mong
điều tốt đẹp sẽ đến : “ Hình như ai lấy đều có suy nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ nề nếp
thì cuộc đời họ có thể khác đi , làm ăn có thể khấm khá hơn ’’. Niềm lạc quan được thể hiện trong
bữa ăn sau ngày cưới . Bà cụ tứ nói toàn chuyện vui toàn chuyện sung sướng về sau này . “ Tao tính
rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá . ngoảnh đi ngoảnh lại có ngay một đàn gà
cho mà xem... ’’Câu chuyện về sự sinh sôi này nở của đàn gà gửi gắm bao nhiêu ước mong về hạnh
phúc, sự no đủ. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn kim Lân để chi tiết này vào phần cuối truyện.
bản thân Kim Lân cũng hi vọng vào một cuộc đời mới sẽ đến với những người dân khốn khổ ấy.
Bà cụ Tứ được coi là nhân vật điển hình cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt
Nam truyền thống: chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu lòng chắc ẩn, và luôn biết
hướng tới tương lai. Để xây dựng thành công nhân vật ấy nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống bất
ngờ bỗng nhiên có con dâu, để từ đó phẩm chất của nhân vật được bộc lộ. Kim Lân cũng đã lựa chọn
được những chi tiết đắt giá làm nổi bật tình thương con của bà cụ Tứ
Đã có biết bao nhiêu người mẹ Việt Nam được tái hiện ngay trong văn học. Nhưng bà cụ Tứ
trong tác phẩm “ Vợ Nhặt” của Kim Lân vẫn mang một nét riêng không lẫn với bất kì bà mẹ nào.
Thế hệ người đọc hôm nay vẫn luôn dành cho kim Lân những tình cảm yêu mến. ta cũng không
quên một Kim Lân thân hình gầy gò ốm yếu nhưng tâm hồn, tình cảm bao la dành cho người lao
động. Có lẽ đó là những lí do làm lên sức sống lâu bền của tác phẩm vợ nhặt

Đề 3:“Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói
và hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung
quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét
tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươn mươn niên ở một
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy
ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối
với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm
che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới
thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy
ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.30)
Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng được nhà văn Kim Lân thể hiện trong đoạn trích trên. Từ
đó, nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Kim Lân.
79
Năm học 2021-2022
-Hết-
GỢI Ý:
* MB: Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm “Vợ nhặt”, nêu vấn đề chính: diễn biến tâm trạng của
nhân vật Tràng và nhận xét về tình huống truyện,
* TB:
**Khái quát sơ lược về tác phẩm, giới thiệu nhân vật Tràng.
**Tâm trạng Tràng vui sướng hạnh phú trong buổi sáng sau khi có vợ:
- Cảm nhận sự thay đổi của khung cảnh
- Niềm vui sướng khi có vợ mà Tràng cứ ngỡ là còn trong giấc mơ nhưng niềm sung sướng đang
tràn ngập trong lòng Tràng.
- Tràng quan sát mọi thứ xung quanh có nhiều thay đổi khác lạ.
- Tràng thấy cảm động yêu thương gia đình từ những điều đơn giản.
- Tràng thấy nên người và có bổn phận trách nhiệm với gia đình.
* Những đặc sắc nghệ thuật: lối kể hóm hỉnh, chân thành; ngôn ngữ mộc mạc gần với đời sống
người nộng dân; diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế sau sắc,...
**Cách xây dựng tình huống truyện của Kim Lân:
- Nhà văn chọn tình huống Tràng nhặt vợ tạo nên sự bất ngờ và kịch tính éo le và độc đáo tác động
đến các nhân vật.
- Tràng là người có ngoại hình xấu, thô kệch; nhà nghèo lại có người đàn bà theo không về làm vợ.
+ Việc Tràng có vợ tạo nên sự bất ngờ khiến anh còn không thể tin được vào việc đã xảy ra. Từ đó
Tràng đã trưởng thành, nên người và biết gắn bó với gia đình.
- Tình huống truyện có ý nghĩa làm nổi bật chủ đề và khai thác tâm lí nhân vật. nhà văn đã tạo nên
kết cấu chặt chẽ cho các sự việc, chi tiết xoay quanh tình huống. Đồng thời tác giả khẳng định giá trị
nhân đạo sâu sắc qua ngòi bút tài ba.
*KB: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích… nghê thuật xây dựng
nhân vật Tràng và nhận xét về tình huống truyện của Kim Lân.
Đề 4: Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của Tràng, người vợ nhặt và
bà cụ tứ trong vợ nhặt của Kim Lân
Nạn đói năm 1945 mà thực dân Pháp gây ra cho chúng ta thật sự rất nặng nề, nạn đói năm ấy
không chỉ là vấn đề được nhắc đến trong lịch sử, trong các vấn đề xã hội lúc bấy giờ mà nó còn được
nhắc đến trong văn học. Tác phẩm tiêu biểu nói về nạn đói năm ấy chính là truyện ngắn Vợ Nhặt của
Kim Lân – một nhà văn của làng quê. Kim Lân không chỉ thành công trong việc xây dựng thành
công nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng mà ông còn thành công với việc miêu tả nạn đói năm
1945 trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Đặc biệt tác giả không chỉ nói lên nạn đói ấy mà còn khắc họa
những tác động của nạn đói lên nhân vât của mình mà cụ thể ở đây là Tràng, người vợ nhặt và bà cụ
Tứ. trong nạn đói ấy con người Việt Nam vẫn lấp lánh vẻ đẹp của tình người và niềm tin vào cuộc
sống.
Nạn đói năm 1945 được nhà văn Kim Lân miêu tả thật đau thương, nhưng chính cái hoàn
cảnh đau thương ấy mới thấy được những vẻ đẹp của người dân Việt Nam ta. cái đói đã tìm đến xóm
ngụ cư của mẹ con Tràng. Buổi sáng ra đường đã thấy mấy cái xác bốc mùi hôi thối, có những người
80
Năm học 2021-2022
đói nằm dài trên đường trưa về thì họ đã chết. Hôm nào chẳng vậy phải đến ba bốn cái thây nằm trên
đường. trên cao những tiếng quạ kêu thật thảm thiết. Có thể nói tử thần đang bủa vây nơi đây.
Trước hết là vẻ đẹp tình người trong các nhân vật trong truyện, người đầu tiên cần nhắc đến
là anh Tràng. Anh cùng với mẹ già ở một xóm ngụ cư mà người dân ngụ cư thì thường bị người ta
khinh ghét. Tràng có một ngoại hình vô xùng xấu xí anh có đôi mắt gà gà, lưng to như lưng gấu.
Anh làm nghề kéo xe thuê, anh thường kéo xe gạo lên tỉnh, có đợt anh đang kéo thấy mấy cô ả ngồi
chơi với nhau nhặt nhạnh những hạt lúa hạt thóc vãi trên đường. Anh ngẫu hứng hò lên một câu:
“ có ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Không ngờ những cô gái kia đã đáp lại Tràng, họ đẩy một cô gái ra chỗ anh và cười tít. Chuyện cũng
bắt đầu từ đấy, Tràng hứa thế nhưng anh cũng có hơn cô gái đó là bao. Sau chuyện ấy có lần anh
đang ngồi uống nước thì thị chạy đến trông thị khác lắm. cái mặt gầy sọp lại nhìn như cái lưỡi cày.
Thị như hiện thân của cái đói. Thế rồi thị đòi ăn kêu Tràng hôm trước nói dối, thị ăn liền bốn bát
bánh đúc. Anh Tràng tưởng thế mà hào phóng quá. Nhưng thật sự mà nói trông thị như thế Tràng
cũng không nỡ từ chối, đó chính là cái tình thương của anh Tràng dành cho Thị. Thị ăn xong theo
anh về nhà Tràng, tràng nghĩ bây giờ đến thân mình còn chưa lo xong lại còn đèo bòng nhưng anh
vẫn tặc lưỡi mà đưa Thị về nhà mình. Người trong xóm ngụ cư ai nhìn thấy cũng lo cho anh Tràng
nhưng biết làm sao được dẫu nạn đói hoành hành nhưng tình thương người của Tràng đã không thể
bỏ mặc người phụ nữ kia được, thế là anh đã có vợ rồi, một người vợ nhặt ngoài đường. Thế đấy
trong nạn đói con người bị coi như cỏ rác có thể nhặt mà mang về được.
Vẻ đẹp tình người còn thể hiện rõ trong người vợ nhặt kia, Thị xuất hiện thật xấu và ghê
gớm. Kim Lân cho Thị với một vẻ như hiện thân của cái đói, gầy gò “ mặt nhu lưỡi cày”. Cái đói kia
chính là nguyên nhân làm cho Thị trở nên chỏng lỏn và mất đi vẻ duyên dáng ấy. nghe anh Tràng tán
gẫu thì tin ngay chạy ton ton ra đây xe bò với anh này. Gặp lại anh Thị chẳng ngại gì nữa mặc cho
không nhận ra mình Thị nhận lại để quen, rồi xà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong còn
lấy đũa quẹt ngang miệng. có lẽ Thị đói quá nên không còn để ý được sự tế nhị dịu dàng của một cô
gái nữa. Thị chẳng biết đi đâu nữa Thị theo Tràng về nhà, Thị nghĩ mình sẽ được sung sướng.
Nhưng khi về nhà Tràng thì mới vỡ lẽ ra, những điều Thị mơ tưởng thực sự không giống thực tại
trước mắt. Mặt Thị sầm lại nhưng Thị lại chấp nhận và quyết định ở lại cùng chán. Đó cũng là một
tình người đáng quý không thấy người sang bắt quàng làm họ không thấy nghèo khó mà nỡ bỏ người
ta ra đi.
Về phần bà cụ Tứ, bà là một người mẹ cao cả và giàu đức hi sinh. Đã ở cái tuổi xế bóng
chiều nhưng bà vẫn phải đi làm kiếm ít tiền để đối mặt với nạn đói. Khi trở về bà thấy hành động của
anh Tràng thấy bà linh cảm có điều gì đó. Khi vào trong sân nhìn vào nhà thấy người đàn bà nọ, cụ
Tứ giật mình rồi ngạc nhiên tự hỏi chính mình không biết phải con cái Đục không. Nhưng không khi
hiểu rõ sự tình cụ chỉ biết quay mặt đi dấu những hàng nước mắt của mình. Cụ nghĩ tới cảnh đói mà
nhà lại thêm một miệng ăn nhưng dù sao như thế thì con cụ cũng có vợ. tình thương người trong cụ
dâng lên, cụ thương con trai, cụ thương cả con dâu nữa. Cụ nhìn người đàn bà mân mê vạt áo đã rách
bươm mà lấy làm thương xót. Cụ chỉ biết nói “ thôi chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì
u cũng mừng”. tình thương của cụ thể hiện rất rõ khi cụ chấp nhận Thị và khuyên răn họ rằng không
ai nghèo ba họ khôn ai khó ba đời, chỉ cần qua cái đợt này thì chúng mày cũng yên bề gia thất. Cụ
81
Năm học 2021-2022
không những thương con, nhân hậu, có hậu mà còn khuyên nhủ con hướng các con mình đến một
tương lại sáng lạng hơn.
Và như thế ba con người ấy trong nạn đói thương lấy nhau, thông cảm cho nhau và cùng
nhau vượt qua nạn đói. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ thật sự không có rượu nồng ấm, ngày cưới
không có nồi đồng chén ngọc, mâm xôi con lớn béo, vò rượu tâm. Tất cả chỉ là những tiếng khóc của
những nhà có người chết và tiếng quạ kêu.
Không chỉ đẹp về tình thương người họ còn lấp lánh một niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Niềm tin ấy được thể hiện ở buổi sáng hôm sau. Khi mọi người thức dậy buổi sáng hôm ấy khác với
những buổi sáng thường ngày. Thức dậy chẳng ai bảo ai mỗi người một tay làm việc nhà, Tràng dậy
sau cùng thấy nhà của hôm nay tươm tất sạch sẽ quá. Cái áng khô cong đã được kéo nước đầy ắp,
người vợ của anh đang phụ mẹ chồng quét dọn nhà cửa xong lại nhổ những búi cỏ trong vườn. Tràng
cảm thấy anh phải có trách nhiệm và gia đình nhỏ của mình rồi. bữa sáng được dọn ra đó là niêu
cháo lõng bõng nước nhưng họ vẫn ăn rất vui vẻ. Trong lúc ăn cụ Tứ còn nói chuyện tương lại với
hai con. Cụ tính chỗ vườn kia sẽ nuôi một đàn gà, họ nói chuyện về tương lai với một niềm tin đổi
đời. Đang vui thì cháo hết, bà cụ Tứ mang lên một nồi chè khoản, hai vợ chồng Tràng háo hức
nhưng khi ăn miếng “chè” thì Thị phải nuốt cố vì nó quá chát. Khổ đến mức phải ăn cả cám nhưng
có những nhà cám không có mà ăn. Thế rồi tiếng trống giục thuế kêu lên, Thị kể về những người
cướp xe thóc của giặc đầy đê và mang theo lá cờ đỏ sao vàng. Từ lúc đó trong đầu Tràng cứ phấp
phới lá cờ đỏ sao vàng ấy. Có lẽ đó là con đường mà Tràng đang dần dần giác ngộ đi tới. Nhà văn
Kim Lân đã mở một con đường tương lai mới cho nhân vật của mình.
Qua đây có thể khẳng định ngay cả trong nạn đói nhân dân ta vẫn cứ yêu thương đùm bọc
lấy nhau, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc họ không thôi nhìn về tương lai
với một niềm tin đổi đời và thật sự ở cuối tác phẩm đã lóe sáng một con đường đổi đời mới làm tác
giả muốn nhắc đến. hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như thể hiện quy luật đến với cách mạng của những
người dân Việt Nam.

RỪNG XÀ NU
ĐỀ 1: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CÂY XÀ NU
Nguyễn Trung Thành là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà văn trưởng
thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ của dân tộc. Ông là nhà văn sống gắn bó với
mảnh đất và con người Tây Nguyên, được đánh giá là một trong những nhà văn viết thành công nhất
về mảnh đất này. Tác phẩm của ông mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. “Rừng
xà nu” là một trong số tác phẩm tiêu biểu ấy. Khám phá tác phẩm người đọc không chỉ ngưỡng mộ
trước vẻ đẹp kiên cường bất khuất của những người dân Tây Nguyên mà còn được đắm chìm trong
không khí yên bình giữa những cánh rừng xà nu bạt ngàn. Cây xà nu đã trở thành một hình tượng
nghệ thuật đẹp đẽ dưới ngòi bút đẹp đẽ của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Trung Thành lựa chọn cây xà nu làm hình
tượng nghệ thuật. Theo lời kể của nhà văn, năm 1962 trên đường vào nam công tác khi đến địa phận
Thừa Thiên Huế, hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn với vè đẹp thanh tao nho nhã lại hết sức

82
Năm học 2021-2022
mạnh mẽ đã gây ấn tượng mạnh cho ông. Năm 1965 khi có ý định viết một tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp
của những con người Tây Nguyên ông đã nghĩ ngay đến loài cây này.
Xà nu được miêu tả ngay từ đầu truyện ngắn, được lặp đi lặp lại nhiêu lần. Nhà văn đã mở
đầu truyện ngắn bằng hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn và kết truyện cũng bằng hình ảnh
ấy như một vĩ thanh cứ xa dần mờ dần: “Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những
rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Xà nu đã tạo nên kết cấu trùng điệp, để lại ấn tượng mạnh
mẽ trong lòng người đọc
Xà nu là cây thuộc họ thông, thân thẳng, nhựa và gỗ đều có giá trị mọc nhiều ở Tây Nguyên.
Đây là loại cây có sức sinh sôi nảy nở khỏe: “Cạnh một cây xà nu mới gục ngã đã có bốn, năm cây
con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đó cũng là loại cây ham ánh
sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm mỡ
màng”. Cây xà nu có mặt trong hầu hết những sinh hoạt đời thường của người dân Xô Man: Củi xà
nu cháy trong bếp của mỗi gia đình, khói xà nu hun bảng đen cho trẻ con học chữ, xà nu làm máng
nước, dưới những tán cây xà nu người ta yêu nhau hẹn hò và rồi khi trở về với đất mẹ người dân Xô
Man cũng được che chở bởi những tán cây xà nu.
Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn một thời điểm rất đặc biệt để tái hiện hình ảnh cây xà nu.
Đó là khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Tây Nguyên bước vào giai đoạn cam go ác liệt.
Bom đạn của bọn Mĩ đã giội xuống những cánh rừng xà nu: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có
cây nào không bị thương, có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận
bão. Ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần
bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Cũng như nhân dân Xô Man, những cây xà nu
kia cũng đang gánh trên mình nó bao nhiêu thương tích, đớn đau. Bom đạn của Mĩ không chỉ gieo
rắc nỗi đau cho con người mà con tàn phá vẻ đẹp và sự yên bình vốn có của thiên nhiên. Những vết
thương trên cây xà nu có thể coi là minh chứng, ghi dấu tội ác của Mĩ-Ngụy.
Vượt qua đau thương mất mát loài cây ấy vẫn sống một cách kiên cường, thách thức mưa
bom bão đạn . “Cách một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây non mọc lên ngon xanh rờn
hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời: “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của
chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã
ngã”. Xà nu đã trở thành một biểu tượng cho tinh thần bất khuất của nhân dân Xô Man nói riêng
nhân dân Tây Nguyên nói chung. Không những thế, xà nu còn biểu tượng cho tinh thần đoàn kết,
đồng tâm hợp sức của nhân dân Tây Nguyên. Xà nu không sống riêng lẻ mà sống thành rừng, thành
đồi. Những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời có thể khiến cho bất cứ ai cũng phải
nao lòng. Cũng chính những cánh rừng xà nu ấy đã trở thành lá chắn bao bọc chở che cho những
người dân Xô Man. “Cứ thế hai, ba năm nay rừng xà nu ưỡn tâm ngực lớn của mình ra che chở cho
làng”.
Không chỉ có mặt trong những sinh hoạt đời thường xà nu còn tham gia vào những sự kiện
trong đại của dân làng Xô Man. Ngày cụ Mết cùng thanh niên trong làng nổi dậy, trên tay họ sáng
rực những bó đuốc xà nu. Đống lửa lớn đốt bằng củi xà nu ở giữa sân nhà ưng cũng đã soi rõ xác
mười tên lính ngụy. Mười ngón tay Tnú bị giặc thiêu đốt cũng bằng chính nhựa xà nu. Xà nu không
chỉ biểu tượng cho những đau thương mất mát mà còn biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách
83
Năm học 2021-2022
mạng của nhân dân Tây Nguyên. Sức sống của xà nu cũng chính là sức sống của con người, đau
thương của xà nu la đau thương của con người. Xà nu vươn tới đón bắt ánh nắng mặt trời cũng giống
như người dân Tây Nguyên, người dân Việt Nam luôn khát khao vươn tới tự do. Mỗi một thế hệ cây
xà nu là một biểu tượng cho một thế hệ con người.
Cây xà nu dưới ngòi bút cúa Nguyễn Trung Thành không chỉ là hiện thân cho vẻ đẹp của thiên
nhiên mà còn là hiện thân sống động của nhân dân Tây Nguyên. Để tô đậm vẻ đẹp của cây xà nu,
nhà văn luôn đặt nó vào trong sự đối sánh với vẻ đẹp của con người Tây Nguyên bất khuất kiên
cường. Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn được những thời khắc đẹp để từ đó tái hiện, tô đậm phẩm
chất của cây xà nu. Có hai khoảnh khắc tiêu biểu: đó là khi xà nu hứng chịu bom đạn của kẻ thù. Mĩ
dội lên mình nó những đau thương nhưng từ bên trong xà nu tiết ra một thứ nhựa mà bất kì ai cũng
bị mê hoặc. Thời điểm thứ hai là khi rừng xà nu ngập tràn trong nắng mới nó dường như quên đi hết
những đau thương mất mát để phô ra tất cả những vẻ đẹp cảu mình :“lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ
nhựa cây bay ra thơm mỡ màng”.
Hình ảnh rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn Nguyên Ngọc. Đó là
loài cây điểm tô thêm những vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Bên cạnh sắc vàng dịu dàng tình tứ
của loài hoa giã quỳ, người ta còn thấy vẻ đẹp mạnh mẽ thanh tao của xà nũ mỗi lần đến với Tây
Nguyên. Có lẽ vì những lẽ trên mà người ta nói Nguyễn Trung Thành là một trong những nàh văn
viết thành công nhất về mảnh đất này
Đề 2: Phân tích đoạn văn đầu và đoạn văn cuối truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung
Thành.
GỢI Ý
Đoạn đầu và cuối truyện đều miêu tả về cây xà nu và rừng xà nu. Hình ảnh này vừa cụ thể, vừa
mang ý nghĩa tượng trưng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Có thể triển khai thân bài như sau.
A. Với những tình tiết đặc sắc, tác giả đã miêu tả được hình ảnh rừng xà nu vừa cụ thể vừa
mang ý nghĩa tượng trưng
1. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt
ngang nứa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ởchỗ vết thương, nhựa ứa ra (...) rồi dần dần bầm
lại, đen và đãquyện lại
hành từng cục máu lán là hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá bởi đạn đại bác của Mĩ. Đây cũng chính là
một hiện thực khắc nghiệt trong cuộc chiến tranh. Giặc Mĩ điên cuồng bắn phá thiên nhiên và con
người. Với Tnú, với dân làng Xô Man, với người Tây Nguyên, đó là món nợ phải trả bằng máu.
2. Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu cũng là sức sống bất diệt của dân làng Xô Man, của con người
Tây Nguyên: Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới
ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.
- Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng...
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu mang ý nghĩa tượng trưng cho dân làng Xô Man luôn khao khát
vươn tới cuộc sống tự do, cuộc sống độc lập.
- Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người (...) Đạn đại bác không giết nổi chúng, những
vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng (...) thay thế những cây đã ngã.
Sự vươn lên mạnh mẽ của cây xà nu cũng chính là sự tiếp nối của các thế hệ trong cuộc đấu tranh

84
Năm học 2021-2022
một mất một còn với giặc Mĩ của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên (tiêu biểu là Dít, Bé
Heng...)
B. Hai đoạn văn tạo nên một kết cấu nhất quán trong tác phẩm. Mặc dù tác giả chỉ xen vào
trong truyện những đoạn miêu tả, nhưng cây xà nu - rừng xà nu là hình ảnh xuyên suốt tác
phẩm có ý nghĩa tượng trưng lớn.
1.Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng Xô Man, có thể nói đó là một phần cuộc sống của
họ. (Từ hình ảnh cụ Mết được miêu tả ngực căng như một cây xà nu lớn cho đến lũ trẻ mặt mũi lem
luốc khói xà nu, đến ánh lửa từ mấy cây xà nu Tnú soi cho Dít gằn gạo, xà nu xông đen tấm bảng để
Tnú và Mai học chữ, bọn giặc đốt cháy mười đầu ngón tay của Tnú cũng lại bằng nhựa cây xà nu. Vì
vậy thiên nhiên ởđây như hòa vào cuộc sống con người:... rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra
che chở cho làng.
2. Đoạn văn cuối truyện - hình ảnh rừng cây xà nu bị đạn đại bác chặt ngã được miêu tả,
được nhắc lại, kể cả hình ảnh:
Quanh đó vô sốnhững cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như
những mũi lê. Hình ảnh này làm người đọc liên tưởng tới lời cụ Mết: "Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa
lên! Tất cả người già người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo,
một cây mác,...". Nỗi đau, niềm căm thù sôi sục đã đánh thức họ. Họ không còn con đường nào khác
là phải đứng lên, nghe theo tiếng gọi của Đảng, để tự giải phóng mình. Hình ảnh những cây xà nu
nhọn hoắt như những mũi tên cùng với dân làng Xô Man và giáo mác, chông của họ là lời tuyên
chiến với kẻ thù, là lời thách thức sống chết với giặc.
3.Cùng với cách sắp xếp thời gian độc đáo trong truyện, việc xây dựng rất tài tình những
phẩm chất điển hình ở những nhân vật điển hình, hai đoạn văn miêu tả rừng xà nu ở đoạn đầu và
cuối tác phẩm đã tạo nên thành công của truyện ngắn này. Cũng thấy được nguyên nhân sâu xa bên
trong: đó chính là sự gắn bó, tình cảm thương yêu của nhà văn dành cho đồng bào Tây Nguyên...
ĐỀ 3: Phân tích nhân vật Tnú..

*MB: Nguyễn Trung Thành là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà văn trưởng thành trong 2
cuộc kháng chiến Mĩ và Pháp của dân tộc . Ông là nhà văn sống gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên
được đánh giá là 1 trong những nhà văn viết hay nhất về mảnh đất Tây Nguyên . Tác phẩm của ông
mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn . Rừng Xà Nu là tác phẩm tiêu biểu cho đặc
điểm ấy . Khám phá tác phẩm người đọc không chỉ chìm đắm trong không khí yên bình của những
cánh rừng xà nu bạt ngàn bất khuất của những con người Tây Nguyên . Tnú là người con tiêu biểu
cho tập thể những con người anh hùng ấy.
* T.Bài:
1. khái quát tác phẩm
Rừng Xà Nu được hoàn thành năm 1965 ra mắt lần đầu tiên tại tập chí văn nghệ Quân giải
phóng Trung Trung Bộ sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc . Đây là tác
phẩm nổi tiếng nhất trong số những tác phẩm của , Nguyễn Trung Thành viết trong những năm
kháng chiến chống đế quốc Mĩ . Theo lời kể của nhà văn năm 1962 trên đường vào Nam công tác ,
khi đi đến địa phận Thừa Thiên Huế , nhữn cánh rừng xà nu hiện ra với vẻ đẹp vừa thanh tao vừa
mạnh mẽ đã hấp dẫn nhà văn . Đến năm 1965 khi có ý định viết 1 câu truyện ca ngợi vẻ đẹp những
85
Năm học 2021-2022
con người Tây Nguyên ông đã nghĩ ngay đến loài cây này . Mỗi một cây xà nu là 1 biểu tượng đẹp
cho những con người Tây Nguyên anh dũng kiên cường . Tnú là 1 trong những cây xà nu đẹp nhất
rừng.
2. Sự xuất hiện:
Tnú xuất hiện ngay từ những từ những phần đầu tác phẩm trong hoàn cảnh sau 3 năm đi lực
lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng . Trong cái đêm ấy , câu truyện về cuộc đời Tnú đã
được kể lại thông qua giọng kể trầm hùng sâu lắng của cụ Mết giữa một đêm bên ngoài lấm tấm một
trận mưa đêm rì rào như gió nhẹ .
3. Số phận
Lần theo lời kể của cụ , người đọc cảm thấy xúc động , đồng cảm trước gia cảnh của Tnú :
“Nó đấy ! Nó là người Strá mình , cha mẹ nó chết sớm làng Xô Man này nuôi nó . Đời nó khổ ,
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Tnú đã lớn lên trong vòng tay yêu thương đùm bọc của
dân làng Xô Man nhưng những đau thương mất mát vẫn đeo đẳng cuộc đời anh . Lúc bé thiệt thòi
tình cảm của cha mẹ , lúc trưởng thành , khi hạnh phúc vừa mới chớm hé đã bị dập tắt bởi bàn tay
của bọn Mĩ ngụy . Vợ con đã bị sát hại ngay trước mắt anh . Chính đôi bàn tay anh cũng đã trở
thành miếng mồi ngon cho những trận tra tấn hành hạ dã man của Mĩ-Ngụy . Được đặt trong hoàn
cảnh đau thương mất mát , tính cách phẩm chất của nhân vật đã được bộ lộ một cách rõ nét.
4. Phẩm chất
Tnú để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc , trước hết là ở sự thông minh gan góc dũng
cảm. Từ bé đã tham gia nuôi giấu cán bộ Cách Mạng trong rừng . Cậu học chữ rất hay quên nhưng
làm liên lạc cho cán bộ Cách Mạng thì rất thông minh: “Không bao giờ nó đi đường mòn . Giặc vây
các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi lọt tất cả các vòng vây .
Qua sông nó không thích lựa chỗ nước êm , mà đi chỗ nước mạnh . Tnú biết rất rõ đó là những nơi
mà quân địch không ngờ tới . Nhưng rồi Tnú không thoát khỏi được họng súng của kẻ thù . Cậu bị
bắt bị tra trấn dã man nhưng không hề hé răng khai nửa lời . Khi giặc hỏi “cộng sản ở đâu?” Tnú
nghiến răng chỉ vào bụng nói một cách đanh thép : “Cộng sản ở đây này”. Sau 3 năm bị giam cầm
đánh đập hành hạ Tnú đã vượt ngục trở về. Con hổ con ngày nào giờ như có thêm sức mạnh. Hơn
lúc nào hết trong Tnú cũng sôi sục lòng căm thù sau khi chứng kiến cái chết của anh Xút , bà
Nhan.Tnú đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh mang về những xà lét đầy đá nhưng không phải đá
làm phấn như thuở bé mà để mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa. Giặc đã kéo đến làng Xô Man đúng
lúc đứa con trai đầu lòng của Mai và Tnú vừa ra đời. Hạnh phúc vừa mới chớm hé đã sớm bị kẻ thù
thiêu rụi.Tận mắt chứng kiến giặc tra tấn vợ con đến chết, không còn gì để mất, ở Tnú chỉ có ngọn
lửa căm thù đang rực cháy “ở giữa chỗ hai con mắt anh bây giờ là 2 cục lửa lớn” . Ngay cả cụ Mết
cũng không thể cản nổi bước chân của Tnú . Lòng căm thù đã mang đến cho anh sức mạnh “Anh
không nhớ mình đã làm gì, chỉ thấy thằng lính to béo đã nằm gục dưới đất” . Có lẽ cũng chính lòng
căm thù ấy đã giúp anh chịu đựng được ngọn lửa thiêu đốt 10 đầu ngón tay . Trong giây phút đau
đớn và tuyệt vọng nhất người chiến sĩ trẻ ấy vẫn không quên lời dạy của Anh Quyết: “Anh Quyết
nói người cộng sản không thèm kêu van”. Thế là Tnú một lần nữa anh lại nghiến răng chịu đựng . Ở
anh sáng nên lòng trung thành tuyệt đối với Đảng . Người ta không còn thấy rõ ngọn lửa trên 10 đầu
ngón tay Tnú , mà người ta thấy rõ 10 ngọn đuốc của lòng tin , của ánh sáng cách mạng .
Dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành, Tnú không chỉ được xây dựng với những phẩm
86
Năm học 2021-2022
chất của một người anh hùng gan góc , dũng cảm , kiên trung , ở anh người ta còn thấy một
con người rất đỗi đời thường, dung dị với một trái tim nồng ấm yêu thương. Tất cả những tình
cảm ấy anh dành cho gia đình, quê hương. Đọc tác phẩm bất kì ai trong chúng ta không thể quên
được ánh mắt giận dữ của Tnú khi nhìn thấy vợ con mình bị hành hạ. Ánh mắt ấy không chỉ xuất
phát từ lòng căm thù mà còn trỗi dậy từ lòng yêu thương vô bờ bến mà Tnú dành cho Mai và đứa
con của mình . Anh lao vào bọn lính mặc kệ những hiểm nguy. “Hai cánh tay rộng lớn như 2 cánh
lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Cụ Mết trong lời kể của mình không hề nói Tnú khóc,
nhưng người đọc vẫn hình dung ra giọt nước mắt đau đớn, căm hận của Tnú khi anh không thể cứu
được vợ con mình. Người cha ấy cũng đã từng xé tấm dồ của mình ra để Mai may địu con. Hạnh
phúc thật ngắn ngủi nhưng người ta vẫn nhìn thấy rất rõ trái tim ấm áp mà Tnú dành cho gia đình .
Với quê hương , với làng Xô Man của mình Tnú cũng luôn trân trọng, nâng niu từng khoảnh
khắc. Ngày anh được trở về sau 3 năm đi lực lượng Tnú xúc động biết bao khi được dội lên mình
dòng nước mát của làng Xô Man. Ngày anh ra đi, điều khiến anh lưu luyến một phần vì ở đó mẹ con
Mai nhưng cũng một phần là bởi ở đó có hơi ấm của những con người trọng nghĩa, trọng tình, những
người bao bọc chở che nuôi dưỡng anh từ bé.Tnú chiến đấu một phần vì vợ con một phần vì muốn
bảo vệ buôn làng bảo vệ quê hương của mình.
Mang trên mình nhiều phẩm chất nhưng có lẽ điều khiến người người đọc ấn tượng
nhất chính là ý chí kiên cường. Cuộc đời nhiều đau thương mất mát nhưng đó cũng là thử thách để
Tnú tìm lại chính mình. Tạm gác lại nỗi đau trước cái chết của vợ con, Tnú lại lên đường . Anh đã
chiến đấu một cách ngoan cường, dũng cảm. Đôi bàn tay tàn tật của anh đã khiến kẻ thù phải khiếp
sợ. Một thằng chỉ huy đã bị bóp cổ chết bởi chính đôi bản tay tàn tật ấy.
Có thể nói Tnú tiêu biểu cho phẩm chất của thế hệ thanh niên Tây Nguyên đã và đang trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc. Thế hệ của anh đủ tài, đủ sức để tiếp
nối và phát huy công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của thế hệ cha anh đi trước như cụ Mết.Tnú
chính là niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam.
Nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Trung Thành chính là việc
nhà văn đã đặt nhân vật trong một hoàn cảnh éo le để thử thách lòng kiên trung và ý chí kiên cường .
Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn và xây dựng được những chi tiết đắt giá. Trong đó có đôi bàn tay
Tnú hình ảnh ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm như một điểm nhấn nó vừa là biểu
tượng của lòng yêu thương vừa là nhân chứng sống ghi dấu tội ác của kẻ thù.
*KB : Có thể nói Rừng xà nu là một thành công nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ . Nếu trong “Đất nước đứng lên” anh hùng Núp đã trở thành biểu tượng cho
vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên thời kì kháng chiến chống Pháp, thì đến lượt mình , Tnú cũng đã
làm tròn vai trò của một tấm gương tiêu biểu cho phẩm chất Tây Nguyên trong kháng chiến chống
Mĩ. Tác phẩm ra đời cách chúng ta đã hơn nửa thế kỉ nhưng người đọc vẫn nhớ đến như một sự ghi
nhận những nỗ lực của nhà văn Nguyễn Trung Thành trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.

87
Năm học 2021-2022
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ( Nguyễn Minh Châu)
I. Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989):
- Là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới” (Theo nhận
định của Nguyên Ngọc)
- Quá trình sáng tác được chia làm 2 giai đoạn.
+Trước 1975, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi.
+ Sau 1975, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong
đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh.
Điểm thống nhất trong quá trình sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đó là quá trình “đi tìm
hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người”
2. Tác phẩm:
88
Năm học 2021-2022
-Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đười 8 – 1983, rút từ tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
(1987).
-Thể loại : Truyện ngắn; ngôi kể thứ nhất, đặt vào nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng – người chứng
kiến và tham gia vào câu chuyện.
- Bố cục đoạn trích:
+ Phùng chớp được cảnh đẹp trời cho: chiếc thuyền lưới vó đang từ ngoài biển chèo thẳng vào bờ
trong buổi sớm mai sương mù.
+ Ngay, sau đó Phùng lại chứng kiến cảnh bạo hành dã man của gia đình thuyền chài.
+ Câu chuyện với người đàn bà thuyền chài ở toà án huỵện.
+ Đoạn kết: suy nghĩ của Phùng về bức ảnh lịch và ngưòi đàn bà vùng biển. I
- Cũng có thể chia gọn 2 đoạn như SGV:
1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
2. Câu chuyện của người đàn bà vùng biển.
II.Luyện đề:
Đề 1: Cho đoạn trích sau: “Chắc chắn họ không trông thấy tôi…vứt chiếc máy ảnh xuống đất
chạy nhào tới” (trích trang 71-72 SGK 12 tập 2)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Phùng từ đó nhận xét về sự chuyển biến
nhận thức của người nghệ sĩ này.
*Mở Bài:
Nguyễn Minh Châu là 1 trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Nhắc đến ông, mọi người nhớ đến "Người mở đường tinh anh và tài năng nhất" của văn học
Việt Nam. Quá trình sáng tạo của ông là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người.
"Chiếc thuyền ngoài xa" là 1 trong những thành quả nghệ thuật đáng chú ý nhất của Nguyễn Minh
Châu sau 1975. Tác phẩm không chỉ phản ánh những góc khuất của xã hội mà còn thể hiện được quá
trình chuyển biến nhận thức của nghệ sĩ thông qua nhân vật Phùng. Đoạn trích sau đây là đoạn trích
tiêu biểu, miêu tả thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật Phùng, từ đó cho thấy sự chuyển biến
nhận thức của nhân vật.
*Thân Bài:
1.Khái quát TP
- CTNX là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu sau 1975
- TP ra đời tháng 8/1983. Đây là những năm đất nước bước vào quá trình đổi mới toàn diện, văn học
cũng chuyển mình theo hướng đổi mới. Đổi mới cách viết, đổi mới tư duy nghệ thuật và quan niệm
thẩm mĩ. Trong quá trình ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu là người đóng vai trò tiên phong.
2.Giới thiệu chung về nhân vật Phùng
- Phùng là 1 nghệ sĩ nhiếp ảnh
- Trước khi bước vào con đường nghệ thuật anh đã từng là 1 người lính, chứng kiến biết bao đau
thương của nhân dân, do tội ác của giặc Mĩ gây ra. Nếu như trong chiến tranh anh đã cầm vũ khí để
chống lại các xấu, cái ác, trường trị kẻ thù. Thì hiện tại anh đang từng ngày từng giờ lưu giữ khoảng
khắc đẹp nhất của thiên nhiên cuộc sống. Phùng được cấp trên giao nhiệm vụ chụp bổ sung 1 tấm
ảnh nghệ thuật có cảnh biển vào buổi sáng bình minh. Anh quyết định về một bãi biển của miền

89
Năm học 2021-2022
Trung - chiến trường xưa nơi anh từng chiến đấu. Tại đây anh đã gặp lại 1 người bạn chiến đấu năm
xưa. Giờ đang là chánh án toà án huyện.
- Cũng trong chuyến đi này, anh cũng đã bất ngờ chứng kiến 2 cảnh tượng. Cảnh tượng thứ nhất là
một bức tranh thiên nhiên vào buổi sáng bình minh. Cảnh tượng thứ 2 lại vô cùng trớ trêu, cay đắng
đó là cảnh bạo lực trong gia đình làng chài. Cảnh tượng ấy diễn ra ngay trước những quan sát của
Phùng. Đoạn trích trên miêu tả lại phát hiện thứ 2 của nhân vật.
3.Diễn biến tâm trạng
a.Chân dung vợ chồng người đàn bà hàng chài:
- Chân dung người đàn bà qua quan sát của Phùng: đó là 1 người đàn bà chạc ngoài 40, thân
hình cao lớn thô kệch, mặt rỗ tái ngắt. Nửa thân dưới ướt sũng, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá.
- Chân dung người đàn ông : có "tấm lưng rộng và cong như 1 chiếc thuyền.Mái tóc tổ quạ, chân
đi chữ bát. Hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.”
=) Dù có những nét khác biệt nhưng cả 2 đều toát lên vẻ kham khổ của người lao động nghèo.
- Sẽ chẳng có gì đáng nói và trăn trở nếu như họ cứ tiếp tục làm công việc của mình. Và biết đâu họ
đã xuất hiện trong ống kính, của nghệ sĩ Phùng với những góc hình đẹp nhất. Thế nhưng sự việc bất
ngờ đã xảy ra ngay khi vừa lên bờ. Lão đàn ông đánh vợ 1 cách dã man bằng 1 chiếc thắt lưng của
lính nguỵ ngày xưa. Mỗi nhát quất xuống lại kèm theo 1 lời nguyền rủa "Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết đi cho ông nhờ".
- Điều khiến Phùng khó hiểu là thái độ cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà. Khi đối diện với đòn
roi "Chị không hề kêu 1 tiếng, không chống trả, càng không tìm cách chạy trốn".
- Lạ lùng hơn nữa, sau khi sự việc xảy ra chỉ ít phút. Cả hai lại quay trở về thuyền như chưa hề có
việc gì xảy ra.
b.Diễn biến tâm trạng của Phùng khi chứng kiến
- Đứng trước 1 tình huống bạo lực diễn ra quá nhanh, Phùng không dấu nổi những cung bậc cảm
xúc, thái độ.
- Điều thú vị là ở chỗ Nguyễn Minh Châu chỉ dành 1 đoạn văn rất ngắn để miêu tả diễn biến tâm
trạng của nhân vật Phùng.
-Theo lời kể của chính nhân vật Phùng, chứng kiến cảnh tượng ấy. Anh đã “kinh ngạc đến mức
trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.”
- Nguyên nhân Phùng kinh ngạc: phản ứng của Phùng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể sự
việc xảy ra quá nhanh khiến Phùng không kịp suy nghĩ nhìn nhận. Cũng có thể do cảnh tượng ban
nãy khi chiếc thuyền đang ở ngoài xa. Vẻ lung linh huyền ảo của 1 bãi biển sáng bình minh đã hoàn
toàn biến mất thay vào đó là cảnh tượng trớ trêu, cay đắng, tủi thân. Phải chăng còn 1 lí do sâu xa
hơn nữa liên quan đến xuất thân của nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn NMC xây dựng
nghệ sĩ Phùng vốn là 1 người lính trong chiến tranh, anh đã từng cầm vũ khí đánh đuổi kẻ thù tiêu
diệt kẻ thù, cái xấu, cái ác. Có lẽ anh nghĩ rằng chiến tranh kết thúc đồng nghĩa với việc cái xấu, cái
ác bị tiêu diệt cuộc đời chỉ còn lại những điều tốt đẹp. Cảnh bạo lực nhất 1 gáo nước lạnh dội lên đầu
anh khiến anh tỉnh ngộ và nhận ra nhiều điều. Sau những phút chết lặng anh Phùng đã có phản ứng
"Tôi đã vất chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới ".
Ai cũng biết chiếc máy ảnh là vật bất li thân và vô cùng quý giá đối với người nghệ sĩ nhiếp
ảnh. Quý giá hơn nữa, chỉ mới đây thôi trong cuốn phim ấy đã lưu giữ những khung cảnh toàn bích
90
Năm học 2021-2022
mà tạo hoá ban tặng cho anh. Thế mà anh đã vất chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới với mong
muốn giải cứu người đàn bà khỏi đòn roi. Trên cương vị là 1 người đàn ông có học thức, có hiểu
biết, anh không chấp nhận những hành vi hành hạ, lăng mạ, sỉ nhục người phụ nữ. H ành động của
anh có ý nghĩa như sự bênh vực, bảo vệ kẻ yếu-điều anh đã từng làm trong chiến tranh. Điều đó thật
đáng quý.
=) Nguyễn Minh Châu chỉ dành 1 đoạn văn ngắn miêu tả tâm trạng của nghệ sĩ Phùng nhưng đó là
đoạn văn đạt đến độ súc tích cao vừa diễn tả tâm trạng vừa diễn tả hành động giúp người đọc hiểu
hơn về bản chất con người nghệ sĩ Phùng.
4.Quá trình chuyển biến của nghệ sĩ Phùng
- Như trên đã nói chuyến đi công tác đã đem đến cho Phùng 2 phát hiện hoàn toàn đối lập nhau. Phát
hiện thứ nhất là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng yên bình đẹp như một bức tranh mực tàu đem
đến cho anh cảm giác hạnh phúc nghẹn ngào, bối rối. Phát hiện thứ 2 lại khiến anh đau nhói, từ sự
thay đổi tâm trạng, thái độ người đọc có thể nhận ra sự chuyển biến nhận thức của nghệ sĩ Phùng.
- Có lẽ anh đã nhận ra rằng cuộc đời không đẹp như là mơ, không phải là một bức tranh thơ mộng.
Vén bức màn lên ta sẽ thấy đằng sau đó là những góc khuất những mặt tối, chứa đựng biết bao điều
xấu xa, nghịch lí mà nếu chỉ đứng ở xa ta sẽ không bao giờ thấy được.
- Với vai trò của 1 nghệ sĩ, Phùng hiểu hơn ai hết thiên chức của người nghệ sĩ là phản ánh đời sống,
vì đời sống mà phục vụ. Do vậy người nghệ sĩ phải tiếp cận cuộc sống với cự li gần, với cái nhìn đa
chiều toàn diện. Có như vậy mới tạo ra được sản phẩm nghệ thuật thực sự có giá trị.
5.Đánh giá
- Có thể nói nghệ sĩ Phùng là hiện thân của nhà văn NMC. Miêu tả thành công quá trình diễn biến
tâm trạng và nhận thức của nhân vật Phùng, NMC đã gửi đến những thông điệp có ý nghĩa.
*Kết Bài
Gần 40 năm đã trôi qua kể từ khi truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" ra đời, đất nước hiện
nay đã thực sự thay da đổi thịt nhưng những vấn đề xã hội được NMC đặt ra trong tác phẩm thì vẫn
còn nguyên những giá trị thời sự của nó. Đoạn trích không chỉ ghi nhận tài năng mà còn cho thấy cái
nhìn sâu sắc của NMC về nghệ thuật và cuộc đời. Chính những giá trị ấy đã làm nên sức sống lâu
bền cho truyện ngắn "CTNX" nói riêng, văn NMC nói chung trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

Đề 2:
“Trong phút chốc ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà đầy lúng túng, đầy sợ sệt
nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ
nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu xí, trong phố không ai
lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về
đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ
đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã
đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
91
Năm học 2021-2022
- Lão ta hồi bảy lăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính-bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách
mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ?- Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được
với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! Đẩu và tôi cùng lúc thốt lên.”…
( Trích Chiếc Thuyền Ngoài Xa của Nguyễn Minh Châu- Ngữ Văn, tập hai, NXBGD
2017).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó bình luận ngắn
gọn về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
GỢI Ý

92
Năm học 2021-2022
1. Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, đoạn
trích, nhân vật người đàn bà hàng chài.
2. Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Ngoại hình xấu xí:
+ một đứa con gái xấu,
+ rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa.
->Không ai lấy, có mang với người con trai hay đến mua bả về đan lưới
 làm nổi bật thân phận đáng thương của người đàn bà
- Số phận bất hạnh:
+ Nghèo khổ : Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả
nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
+ Đông con: Giá tôi đẻ ít đi, nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền
lại chật.
+ Bị bạo hành: Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uống rượu…Giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…
 Khốn khổ, bất hạnh, không có sự che chở yêu thương
- Phẩm chất:
+ Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
 con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình ->chi tiết cho thấy người phụ nữ có vốn sống, hiểu
biết cuộc đời sâu sắc
 Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng
đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! ->Người đàn bà quê mùa, thất học đã
chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước
+ Nhân hậu, vị tha, hi sinh vì con
 Với chồng: Thấu hiểu nỗi khổ của chồng: Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh -
>người đàn bà hiểu chồng đánh mình không phải vì ghét mà vì cuộc sống mưu sinh đè nặng, vì
hoàn cảnh sống tối tăm nên người chồng đánh vợ như 1 cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng;
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật ->tự nhận lỗi về mình: coi
mình là 1 nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ
 Với con: Sợ con bị tổn thương nên xin chồng lên bờ đánh
 Đằng sau cái vẻ lam lũ, cam chịu là tình thương vô bờ bến dành cho chồng, con – hình ảnh
tiêu biểu người phụ nữ Việt Nam
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật đặt trong cuộc đối thoại giữa Phùng, Đẩu; Ngôn ngữ
đối thoại sinh động; Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa….
1. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
- Nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống.
- Nhà văn phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng , con người.

93
Năm học 2021-2022
Đề 3: Phân tích sự biến đổi trong nhận thức của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng về người đàn
bà hàng chài
Dàn bài tham khảo
1. Đặt vấn đề: Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1980:
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn nổi tiếng thời chống Mĩ cứu nước.
+ Đề tài sáng tác chủ yếu của ông trước 1980 là đề tài về chiến tranh với nhân vật trung tâm là hình
tượng người lính thời chống Mĩ anh dũng hay những cô thanh niên xung phong gan dạ, dũng cảm,
sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt.
+ Quan điểm sáng tác của ông thời kì này là ca ngợi con người Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.
+ Điều này đã được thể hiện qua những tác phẩm mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn như
tiểu thuyết “Cửa sông” (1967), “Dấu chân người lính” (1970), tập truyện ngắn “Những vùng trời
khác nhau”(1970).
– Từ thập niên tám mươi của thế kỉ XX cho đến lúc mất (1989):
+ Ông đã chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và
triết lí nhân sinh trong xã hội.
+ Nhân vật trung tâm của thời kì này là những con người đời thường trong hành trình nhọc nhằn tìm
kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
+ Những tác phẩm của ông thời kì này như các tập truyện ngắn “Bến quê” (1985). “Chiếc thuyền
ngoài xa”(1987), “Cỏ lau” (1989).
+ Trong số đó, đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện rõ quan điểm sáng tác của
ông:Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn bó với cuộc đời và người nghệ sĩ không thể nhìn đời một
cách đơn giản, cần phải nhìn cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều.
2. Giải quyết vấn đề: Phân tích nhân vật để làm rõ quan điểm sáng tác trên:
a. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
* Phát hiện 1: Khung cảnh thiên nhiên vùng phá nước – một “cảnh đắt trời cho”
– Phùng – người chiến sĩ thời chống Mĩ cứu nước năm xưa- sau ngày thống nhất đất nước, anh đã
trở thành một người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, trưởng phòng đề nghị Phùng đi thực
tế chụp bổ sung một bức ảnh về đề tài này.
+ Sau cả tuần “phục kích” ngoài bờ biển, anh đã chụp được một bức ảnh thật ưng ý, đẹp như “một
bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”.
– Đó là cảnh một chiếc thuyền lưới vó ngoài khơi đang tiến vào bờ trong một buổi sáng mù sương có
pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
+ Vài bóng người lớn và trẻ em ngồi im phăng phắt như những pho tượng trên chiếc mui khum
khum.
+ Tất cả những hình ảnh ấy được nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai gọng vó như một cánh
dơi.
=> Đó là một vẻ đẹp “trời cho”, một vẻ đẹp “thật đơn giản và toàn bích”
– Phát hiện ấy làm cho người nghệ sĩ cảm thấy thật xúc động
+ “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” .
94
Năm học 2021-2022
+ Anh chợt nhận ra đó là cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
+ Điều đó cho thấy: Người nghệ sĩ chân chính luôn gắn bó với cuộc đời để tìm vẻ đẹp của nghệ thuật
và khi phát hiện được một nét đẹp về nghệ thuật, họ cảm thấy hạnh phúc tột đỉnh và cảm nhận
được “bản thân của cái đẹp chính là đạo đức”, cái đẹp chân chính có tác dụng thanh lọc tâm hồn.
b. Phát hiện thứ hai: Cuộc sống của gia đình hàng chài – một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa về số
phận con người.
– Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh thật bất ngờ và trớ trêu như một trò đùa quái ác của
cuộc sống.
– Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy lần lượt bước ra:
+ Một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi”, với những “đường nét thô kệch”, “rỗ mặt”, “khuôn
mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”, “cặp mắt nhìn xuống chân”, tay “buông
thõng xuống” ra vẻ nhẫn nhục, cam chịu.
+ Một người đàn ông đi sau, “lưng rộng và cong như một chiếc thuyền”, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi
chữ bát”, “hàng lông mày cháy nắng rủ xuống”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”.
+ Lão đàn ông đưa vợ lên bờ với dáng điệu “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rồi “rút trong người ra chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” và “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, vừa đánh “vừa thở hồng hộc, hai
hàm răng nghiến ken két”và nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
– Trước tình cảnh ấy, nghệ sĩ Phùng có thái độ kinh ngạc đến sững sờ, “cứ há mồm ra mà nhìn”, sau
đó“vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” để cứu người đàn bà.
+ Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác đã lao tới để bảo vệ mẹ nó.
+ Nó giật chiếc thắt lưng từ tay người cha rồi đánh trả lại ông để bảo vệ mẹ nó.
+ Người cha đã dùng hết sức lực của mình tát nó “ngã dúi xuống cát” rồi lẳng lặng trở về thuyền.
– Ba hôm sau, cảnh người đàn ông đánh vợ lại tái diễn.
+ Không thể kìm nén được nữa, Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động ác
độc.
+ Người đàn ông đã đánh Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện để điều trị.
c. Tại tòa án huyện, câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đem đến những thay đổi trong nhận
thức của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng:
– Theo quan điểm của Đẩu và Phùng, muốn giải quyết được những cảnh bạo hành trong gia đình của
người đàn bà hàng chài chỉ có một cách tốt nhất là chị phải bỏ người chồng vũ phu tàn bạo ấy.
– Vì vậy, họ đã mời người đàn bà lên tòa án để giải quyết
+ Nhưng chánh án Đẩu đã tỏ ra giận dữ khi nghe người đàn bà yêu cầu: “Quý tòa bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
+ Còn nghệ sĩ Phùng, khi nghe câu nói của người đàn bà, anh cảm thấy “ngột ngạt”, khó thở vì quá
bất ngờ trước quyết định của chị.
– Tuy nhiên, qua những lời giãi bày rất chân tình của người đàn bà hàng chài, Đẩu và Phùng đã “vỡ
ra”nhiều điều mà trước đây họ chưa hề biết về chị :
+ Các anh đã nhận ra đằng sau cái vẻ cam chịu, nhịn nhục, đáng thương của người đàn bà hàng chài
là cả một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị. Chị nói: “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống
95
Năm học 2021-2022
cho con chứ không thể sống cho mình”.
+ Các anh cũng nhận ra lí do chị không thể bỏ người chồng vũ phu và độc ác đó thật có lí. Điều đó
chứng tỏ chị là một người phụ nữ sâu sắc và từng trải: Chị đã cho các anh biết:
“đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba,
để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa”
+ Chị còn cho các anh biết thêm: trong đau khổ triền miên chị vẫn có được những niềm hạnh phúc
nhỏ nhoi. Chị nói:
“Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”
– Sau buổi nói chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, nhận thức của Đẩu và Phùng có
nhiều thay đổi:
+ Với Đẩu, anh đã vỡ ra nhiều nghịch lí của cuộc sống: lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, luật
pháp là cần thiết nhưng phải đi vào đời sống, muốn con người thoát khỏi cảnh đau khổ cần phải có
những giải pháp thiết thực chứ không phải li dị.
+ Với Phùng, anh nhận ra một điều vô cùng thấm thía của một người nghệ sĩ làm nghệ thuật, đó là:
*Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi “nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc
đời”.Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui
buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
Chính vì vậy mà Phùng đã xông ra buộc người đàn ông chấm dứt hành động độc ác với người vợ của
hắn. Anh đã suy nghĩ rất nhiều về gia đình người đàn bà hàng chài, đã cùng với Đẩu tìm cách giải
quyết những bất công ngang trái trong gia đình của chị.
*Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người
trong mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều thì mới phản ánh đúng về con người và cuộc sống.
3. Kết thúc vấn đề:
– “Chiếc thuyền ngoài xa” là một hình ảnh ẩn dụ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ
thuật phải gắn bó với cuộc đời, phải đi sâu vào cuộc đời chứ không thể nhìn nó một cách hời hợt bên
ngoài, hay nhìn nó “ngoài xa”. Ở xa thì nhìn thấy nó rất đẹp, nhưng khi đến gần, hoặc đi sâu vào bên
trong mới phát hiện biết bao điều oái oăm, ngang trái.
– Từ đó, tác giả muốn gởi gắm quan điểm nghệ thuật của mình: người nghệ sĩ không thể nhìn đời
một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều.

96
Năm học 2021-2022
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ( HỒ CHÍ MINH )
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hoàn cảnh ra đời
- Trên thế giới: Cuộc đại chiến lần thứ hai đang ở giai đoạn kết thúc. Hồng quân
Liên Xô đã tấn công vào tận sào huyệt của phát xít Đức. Ở phương Đông phát xít Nhật đã đầu hàng
vô điều kiện đồng minh.
- Trong nước: Cả nước nổi dậy giành chính quyền. Ngày 26/8 Bác Hồ từ chiến
khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang – Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo
bản Tuyên ngôn Độc lập. Và Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình
– Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở
ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.
2. Thể loại: Nghị luận chính trị xã hội(chính luận;tuyên ngôn)
3. Mục đích
Tuyên bố nền độc lập của dân tộc. Ngăn chặn âm mưu xâm lược của các nước thực dân, đế quốc.
4.Nội dung và nghệ thuật
1- Đoạn I:.... Không ai chối cãi được
Đặt vấn đề:Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập
a. Nội dung:
- Khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi.
- Hồ Chí Minh đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền
của Mỹ và bản Tuyên ngôn Dân quyền của Cách mạng Pháp, trước hết là khẳng định Nhân quyền và
Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, một lý tưởng và quyền bình đẳng, quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
- Đặt ngang hàng 3 cuộc cách mạng, 3 nền độc lập, 3 bản Tuyên ngôn lên một
hàng, đã nối quá khứ với hiện tại, đưa cách mạng VN vào dòng chảy của cách mạng thế giới.
b. Nghệ thuật:
- Cách đặt vấn đề rất đặc sắc, lập luận khôn khéo và kiên quyết
- Cách trích dẫn khéo léo của một nhà hoạt động chính trị, một nhà chính luận có tầm vóc và tài
năng.
- Thủ pháp: “gậy ông đập lưng ông”
2. Đoạn II: Thế mà....Dân chủ Cộng hòa
Giải quyết vấn đề: Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp, khẳng định sự thật
nhân dân VN đã làm CMT8 thành công, giành độc lập tự do cho đất nước.
a. Nội dung
- Tố cáo toàn diện và sâu sắc những tội ác tày trời của thực dân Pháp.
Vạch trần bộ mặt xảo quyệt, tham lam, giả dối của thực dân Pháp lợi dụng lá cờ
tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
97
Năm học 2021-2022
Năm tội ác chính trị: 1 – tước đoạt tự do dân chủ, 2 – luật pháp dã man, chia để
trị, 3 – chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4 – ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu
dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất
cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà
tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói
năm 1945.
Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực nhân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán
nước ta 2 lần cho Nhật”. Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn
nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải
thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng đồng minh. Nhân
dân đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm
dứt và xóa bỏ,trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:
b Nghệ thuật
- Dẫn chứng lịch sử- thực tiễn đanh thép, cách lập luận theo lối liệt kê, trùng điệp, tăng cấp, những
hình ảnh ẩn dụ- tượng trưng, giọng điệu sôi sục căm hờn và đau xót.
-Cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ
với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3. Đoạn III: Kết thúc vấn đề:
Lời tuyên bố Độc lập và khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của
Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam.
a. Nội dung
- Tuyên bố dứt khoát, triệt để: thoát li hẳn mọi ràng buộc trước đây, xóa bỏ tất cả, xóa bỏ hết những
hiệp định bất công, bất bình đẳng mà chính quyền nhà Nguyễn đã kí với Pháp.
- Khẳng định ý chí và sức mạnh quyết tâm của cả dân tộc đoàn kết một lòng
chống lại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.
- Tuyên bố với nhân dân tiến bộ thế giới: công nhận quyền độc lập của VN
- Khẳng định chắc nịch và đanh thép, ý chí thống nhất cao của toàn thể dân tộc
VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền độc lập ấy.
b. Nghệ thuật
- Lập luận vững chắc, chặt chẽ chính xác về ngôn từ.
5. Giá trị của bản TNĐL
1. Về lịch sử: Là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong
kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên mới độc lập.
2.Về văn học: TNĐL là bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ,
đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phúc, áng văn bất hủ.

98
Năm học 2021-2022
II.ĐỀ LUYỆN TẬP
ĐỀ 1: Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh viết :
“Hỡi đồng bào cả nước ,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” .
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có
nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống ,
quyền sung sướng và quyền tự do .
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi” .
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” .
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh )
Anh ( chị ) hãy phân tích giá trị nổi bật của đoạn văn trên ở hai phương diện nội dung tư
tưởng và nghệ thuật lập luận .
GỢI Ý TRẢ LỜI:
a. Mở bài :
- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục
vạn đồng bào .
- Bản Tuyên ngôn Độc lập vừa là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn vừa là một áng văn chính luận
ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
b. Thân bài :
- Phân tích giá trị nội dung tư tưởng
Đoạn văn khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của dân tộc ta
cũng như các dân tộc khác trên thế giới .
Hồ Chí Minh đồng tình với những tư tưởng tiến bộ của các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và
Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba bản Tuyên ngôn của nước Việt
Nam, Mỹ, Pháp nhằm quốc tế hoá vấn đề độc lập của dân tộc ta.
Đoạn văn muốn gợi lại niềm tự hào cao cả của lịch sử dân tộc Việt Nam về các triều đại: Đinh, Lý,
Trần, cùng sánh vai với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên đã được Nguyễn Trãi ghi trong
Bình Ngô Đại Cáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm chuẩn bị phê phán bản chất phản động của thực dân Pháp đi ngược lại
tư tưởng tiến bộ của tổ tiên họ đã 80 năm qua chúng đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta .
- Phân tích giá trị nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh đã dẫn chứng chính xác, từ ý tưởng lời văn hai bản Tuyên ngôn Độc lập
của Mỹ và Pháp để tạo cơ sở pháp lý, dùng lời nói của đối phương để so sánh, phản bác âm mưu và
hành động trái với công lý của chúng, dùng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”
99
Năm học 2021-2022
+ Đoạn văn dùng lý lẽ đanh thép, tư duy lý luận sáng tạo “suy rộng ra” , đưa vấn đề độc
lập của dân tộc Việt Nam thành vấn đề tiêu biểu cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới .
+ Lập luận của đoạn văn chặt chẽ bằng cách sử dụng nhiều câu văn khẳng định để phủ
định những nội dung phản động của hai đế quốc Mỹ và Pháp .
+ Lời văn mạnh mẽ, trong sáng dễ hiểu làm tăng thêm sức thuyết phục bằng lý lẽ của đoạn
văn .
c. Kết bài : Tóm lại, qua phân tích đoạn văn ta thấy được giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng và
nghệ thuật lập luận khéo léo của Hồ Chí Minh . Có thể nói đây là một trong những đoạn văn chính
luận mẫu mực, ngắn gọn súc tích, vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn chương bền vững .
Với những gi trị đó, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định một chân lý lớn về dân tộc “Không có gì
quý hơn độc lập tự do” với cảm hứng trang trọng, giọng văn tha thiết hùng tráng. Chính Hồ Chí
Minh cũng “thấy sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn làm báo của mình.
ĐỀ 2: “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được đánh giá là một văn kiện lịch sử vô giá, một
áng văn chính luận mẫu mực. Anh/ chị hãy phân tích bản Tuyên ngôn để làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý TRẢ LỜI:
I. MỞ BÀI:
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta thừa cơ
vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Bản “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn
chính luận hào hùng, mẫu mực; một áng văn tràn đầy tâm huyết, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự
do của Người và của cả dân tộc. Nó có sức mạnh thuyết phục to lớn, làm rung động hàng triệu trái
tim yêu nước Việt Nam.
II. THÂN BÀI:
A. “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử vô giá:
- Trong bối cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời mang một ý
nghĩa lịch sử to lớn, nó là một văn kiện trọng đại, là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Nó đánh
dấu sự chấm dứt, sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến, khép lại một thời kì lịch sử
tăm tối, nô lệ hàng trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, mở ra một kỉ nguyên mới - độc lập
tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
- Mặt khác, với nội dung khái quát sâu sắc, trang trọng cùng tầm vóc của tư tưởng, tầm văn hóa
lớn, bản Tuyên ngôn ra đời đã khẳng định được vị thế bình đẳng, lập trường chính nghĩa của dân tộc
Việt Nam trên trường quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX; đồng thời,
đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân đế quốc, vạch trần dã tâm quay trở lại xâm lược cùng bản
chất tàn bạo của chúng trước dư luận quốc tế.
B. “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, đặc sắc:
- “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn mà còn là một văn bản
chính luận đặc sắc, nối tiếp tự nhiên các “áng hùng văn” trong quá khứ và có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất chính luận với chất văn chương.

100
Năm học 2021-2022
- Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở hệ thống lập luận chặt chẽ,
lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực và văn phong sắc sảo, giàu tính thẩm mĩ của Hồ Chí Minh. Điều
đó trước hết được thể hiện ở:
1. Cách nêu vấn đề và khẳng định chân lí khách quan của vấn đề:
* Vì sao mở đầu bản Tuyên ngôn, Người lại viện dẫn hai trích đoạn trong hai bản Tuyên ngôn
của nước Mĩ và Pháp? Mục đích và ý nghĩa của việc trích dẫn đó là gì?
- Mục đích của việc trích dẫn: Người nhằm nêu lên vấn đề Nhân quyền, Dân quyền - quyền của
con người và quyền của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Người dẫn:
“Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
(Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mĩ).
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp, 1791).
+ Từ những “lời bất hủ” của hai nước, Người “suy rộng ra” câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả mọi
người sinh ra trên trái đất đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền
mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
+ Hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp - thế kỉ XVIII – là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu
buổi bình minh của cuộc cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến và có công lao nêu lên thành
nguyên tắc pháp lí, quyền cơ bản của con người thì không có lí gì những quyền ấy chỉ thuộc về hai
nước.
=> Vì vậy, Người đã lấy hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại để mở đầu cho bản
Tuyên ngôn của nước Việt Nam, để khẳng định quyền của người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trước
nhân dân thế giới. “Suy rộng ra”, đó là chân lí khách quan, là lẽ phải, không ai chối cãi được.’
- Cách viện dẫn của Người mang lại ý nghĩa rất sâu sắc: vừa khôn khéo, vừa kiên quyết, vừa sáng
tạo.
+ Khôn khéo, kiên quyết ở chỗ: lấy “gậy ông đập lưng ông”. Người vừa tỏ ra tôn trọng những
danh ngôn bất hủ của họ, vừa nhắc nhở họ đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá
cờ “tự do, bác ái” mà họ đã giương cao trong các cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc họ.
+ Khôn khéo và sáng tọ ở chỗ: Người viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới có nghĩa là
Người đã đặt ba cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của ba nước ngang hàng nhau; ba nền độc lập và
ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau.
Đó là mạch ngầm văn bản khiến cho bất cứ ai tinh tế trong nhận định phải giật mình vì sự thâm
thúy, sâu sắc của Người. Trong bản Tuyên ngôn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi khi xưa,
người anh hùng đã khẳng định chủ quyền độc lập của mỗi quốc gia: Đinh, Lí, Trần ... cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên... mỗi bên xưng đế một phương, thật rạch ròi, rõ ràng và đối xứng. Đó là chân
lí bất khả xâm phạm của mỗi nước.
Trong bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh cũng vậy, Người đặt quyền của ba nước là ngang hàng
nhau là thể hiện niềm tự tôn, tự hào dân tộc, khẳng định vị thế của một đất nước đầy kiêu hãnh trước
thế giới.
Đó là hành động cách mạng táo bạo, tài tình trong xử thế chính trị của Người.
101
Năm học 2021-2022
+ Sáng tạo ở chỗ: Người đã nâng vấn đề Nhân quyền, Dân quyền lên tầm vóc cao hơn, rộng hơn.
Từ quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc của cá nhân lên thành vấn đề quyền của các dân tộc: “suy
rộng ra... Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do...”
Cụm từ “Suy rộng ra” thật thông minh, chặt chẽ, đanh thép như: “Một phát súng lệnh khởi đầu
cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa thế giới” (Nguyễn Đăng Mạnh), là đòn đánh phủ đầu vào âm
mưu tái chiếm của Pháp và sự can thiệp của các thế lực vào nền độc lập, tự chủ của Việt Nam; đồng
thời, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.
Nhà xuất bản Sự thật năm 1967 cũng viết: “Cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người
đã nhìn quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đề có
quyền quyết định lấy vận mệnh của riêng mình.”
=> Cách viện dẫn bằng những danh ngôn bất hủ, nổi tiếng của hai cường quốc, đó là hành động táo
bạo, là tài nghệ sáng suốt của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra những lí lẽ ngắn gọn, sắc sảo, “lạt
mềm buộc chặt”; những bằng chứng; những chân lí không ai chối cãi được.
Tất cả kết tinh từ tầm tư tưởng, văn hóa lớn của Hồ Chí Minh nói riêng và của nhiều thế kỉ đấu
tranh vì độc lập, tự do, vì Nhân quyền, Dân quyền của dân tộc và của cả nhân loại nói chung. Có thể
nói đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn tiêu biểu cho vẻ đẹp văn chương chính luận mẫu mực.
2. Cách tác giả luận tội kẻ thù:
- Người lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với Đông Dương.
+ Người vạch trần bản chất lợi dụng lá cờ “tự do, bác ái” để cướp nước ta, áp bức đồng bào ta
của bọn chúng. Đó là hành động phi nghĩa, phi nhân đạo.
+ Người tố cáo những hành động:
. Bóc lột về kinh tế: chúng bóc lột nhân ta đến tận xương tủy, cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng; đặt ra trăm thứ thuế khóa nặng nề cho
nông dân; không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên; công nhân bị bóc lột tàn nhẫn...
. Đàn áp về chính trị: chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do nào, chúng
thi hành những luật pháp dã man, chia để trị, chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu...
. Nô dịch về văn hóa: chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thi hành chính sách ngu dân,
dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm suy nhược giống nòi của ta...
. Tội ác chúng gây ra ở mọi mặt đời sống, ở mọi đối tượng nông dân, công nhân, thợ thủ công.
Kết quả là bọn chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp “từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng
bào ta bị chết đói”
+ Người nhắc đi nhắc lại bằng các điệp ngữ và các động từ mạnh chỉ hành động tội ác khác nhau
của chúng: chúng thi hành.., chúng lập ra..., chúng chém giết..., chúng tắm..., chúng ràng buộc...,
chúng dùng..., chúng độc quyền..., chúng đặt ra..., chúng không cho..., chúng bóc lột...
+ Kết hợp với giọng điệu đanh thép liên hoàn, trùng điệp làm nổi bật lên tội ác chồng chất của
giặc.
- Người vạch trần bản chất hèn nhát, xảo trá, vô liêm xỉ của thực dân Pháp. Thực dân Pháp đã
từng huênh hoang “bảo hộ”, “khai hóa văn minh” cho nước ta, Người chứng minh:

102
Năm học 2021-2022
+ Mùa thu năm 1940: Nhật xâm lược nước ta thì Pháp quỳ gối đầu hàng, Pháp đã bỏ chạy, đầu
hàng, kết quả là trong 5 năm, Pháp bán nước ta hai lần cho Nhật. Vậy là “bảo hộ” hay hèn nhát? Là
có công hay có tội?
+ Người khẳng định: chúng ta lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Sự thật là từ
năm 1940 ta là thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhật đầu hàng Đồng minh, ta nổi dậy
giành chính quyền: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Ta đánh đổ chúng dựng lên chế
độ Dân chủ Cộng hòa.
Người láy đi láy lại hai chữ “sự thật...”, “sự thật là...”, “sự thật là...”, vì không có lí lẽ nào có
sức thuyết phục cao hơn là lí lẽ của sự thật. Sự thật còn là những bằng chứng xác đáng không ai có
thể bác bỏ được.
- Bản Tuyên ngôn ca ngợi cuộc đấu tranh chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của dân tộc ta. Người
đưa ra những mặt đối lập làm nổi bật bản chất giữa ta và địch:
+ Khi phát xít Nhật vào Đông Dương thì Pháp đầu hàng, trong khi đó thì ta tiến hành kháng Nhật.
+ Trong khi thực dân Pháp đầu hàng Nhật và không hợp tác với ta mà ngược lại còn khủng bố, giết
chết số đông tù chính trị của ta ở Yên Bái và Cao Bằng.
+ Khi người Pháp thua chạy, ta đã “giúp, cứu, bảo vệ” tính mạng và tài sản cho họ. Như vậy thì
ai đã bảo hộ cho ai? Những hành động ấy chẳng phải đã chứng minh bản chất vô nhân đạo, hèn
nhát của chúng và tinh thần chính nghĩa, thái độ khoan hồng, nhân đạo của ta?
=> Với cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, Người đã vạch rõ tội ác bản
chất tàn bạo, hèn nhát, huênh hoang của giặc; đồng thời ca ngợi tinh thần chính nghĩa, anh dũng,
nhân đạo của nhân dân ta.
3. Tuyên ngôn của bản Tuyên ngôn:
- Người đã sử dụng câu văn chỉ có chín chữ mà tóm lược đầy đủ các sự kiện: “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Người đã dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và vô cùng
oanh liệt của dân tộc, đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đánh đổ chế độ quân
chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như một tất yếu lịch sử. Đó
cũng chính là lời tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam độc lập.
- Tất cả các sự kiện trên là “sự thật” nên Người đã ràng buộc các nước Đồng minh phải công
nhận nền độc lập của Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những
nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn”, “quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”. Đó là cách nói “lạt mềm buộc chặt”, đánh vào
lòng tự trọng của họ và buộc họ phảo ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
- Người còn tuyên bố thoát li, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt
Nam.
- Người khẳng định quyền độc lập của một dân tộc đã phải đổi bằng xương máu của mình “Dân
tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
- Người còn cảnh báo đối với kẻ thù: để bảo vệ thành quả thì dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo về, giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
=> Lời kết như sấm truyền cảnh báo cho kẻ thù từ ngàn xưa vọng về tinh thần bất khả xâm phạm
của dân tộc: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư”

103
Năm học 2021-2022
4. “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn sắc sảo mà giàu tính thẩm mĩ, có sức thuyết phục, lay
động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam:
- Khi luận tội kẻ thù, Người thể hiện thái độ căm phẫn “chúng lập ra ... chúng thẳng tay...”
- Người xót thương khi nói đến nỗi đau của dân tộc “Chúng chém giết ... tắm các cuộc khởi nghĩa
của ta trong những bể máu... nòi giống ta suy nhược... dân ta nghèo, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu
điều...”.
- Tình cảm tha thiết, mãnh liệt; thái độ kiên quyết khi Người nói đến quyền được hưởng độc lập,
tự do của dân tộc cũng như quyết tâm đến cùng bảo vệ nền độc lập ấy: “Sự thật là... sự thật là...
chúng tôi tin rằng... quyết không thể... một dân tộc... một dân tộc, dân tộc đó...”. Điệp ngữ được
nhấn đi nhấn lại toát lên khát vọng, ý chí mãnh liệt của Người cũng như của cả dân tộc Việt Nam.
- Giọng điệu khi nồng nàn, tha thiết, khi xót xa thương cảm, khi hừng hực căm thù, khi hào sảng
khích lệ. Tất cả tạo nên “áng hùng văn” của thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
III. KẾT BÀI:
“Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí Minh, Người đã thể
hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm được đánh giá là văn bản chính luận
mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, thấu tình đạt lí. Câu văn gọn gàng, trong
sáng một cách kì lạ, có sức lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn
độc lập” rất xứng đáng là áng văn muôn đời.

104
Năm học 2021-2022
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT- LƯU QUANG VŨ

I.KIẾN THỨC CHUNG


1. Tác gíả:
-LQV thông minh và vô cùng sắc sảo, ông là một người nghệ sĩ đa tài, ngoài làm thơ, viết kịch
ông còn có khả năng vẽ tranh…
-LQV đến với kịch sau khi đến với thơ nhưng những khát khao đau đáu của người cha cùng tài năng
thiên bẩm của LQV khi vừa bước chân lên sân khấu kịch nói đã trở thành “người khổng lồ không có
địch thủ”, thành “trái núi không thể vượt qua” trong vòng khoảng 20 năm. LQV đã gánh trên vai
mình nền kịch nói của cả hai miền Bắc Nam, ông đã sáng tác trên 50 vở kịch, được các đoàn kịch
nói trên khắp cả nước đặt hàng và mời dựng vở diễn.
-Đề tài: Kịch của LQV có thể chia thành hai mảng đề tài lớn:
+ Khai thác các tích truyện dân gian (hồn trương ba da hàng thịt, nàng Xita...)
+ Lấy chất liệu từ hiện thực công cuộc đổi mới đất nước trong nhũng năm 80 (T ô i v à c h ú n g t a ,
nếu anh không đốt lửa)
-Đặc điểm: Dù đi vào mảng đề tài nào, kịch của LQV đều mang một số đặc điếm cơ bản.
+ Tươi - động - chất hiện thực (dù lấy bối cảnh từ các truyện dân gian)
+ Nóng - bỏng - tính thời sự (LQV mạnh dạn để cập đến những vấn đề nhạy cảm, nhũng thói hư tật
xấu trong xã hội: quan liêu, tham ô...
+ Rất giàu tính triết lý (vấn đề LQV đề cập trong các vở kịch của mình không chỉ đúng với một vài
hoàn cảnh, một vài trường hợp mà bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát để đúng với mọi thời đại).
Đó là lý do mà hơn hai thập kỷ đã đi qua và chắc chắn là còn mãi về sau này khi đọc và
nghiên cứu tư tưởng của LQV người ta vẫn thấy bất ngờ, mói mẻ. Đó là lý do để có nhà phê bình đã
khẳng định chắc nịch: “LQV không bị cũ bởi thời gian”.
- Vị trí, ý nghĩa: Đối với thể loại .kịch nói - thể loại mối được du nhập và phát triển ở Việt
Nam trong thế kỷ XX, LQV là ngươi có công rất lớn trong việc phát triển, hoàn thiện và đưa thể loại
này lên đến đỉnh cao. Ông được coi là nhà soạn kịch lớn nhất, tài năng nhất của Việt Nam trong thế
kỷ XX, được mệnh danh là Môlie của Việt Nam. Việc LQV đột ngột qua đời được coi là một lỗ hổng
không thế lấp đầy với những đóng góp to lớn của mình. LQV đã được nhận giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 2 năm 2000.
2, Tác phẩm:
Thời điểm sáng tác: 1981 đến 1984 được công diễn.
105
Năm học 2021-2022
- Cốt truyện: (SGK-209)
- Nhận xét: Dễ nhận thấy, vở kịch “Hồn trương ba, da hàng thịt” của LQV mượn tích truyện
“Hồn trương ba, da hàng thịt” trong dân gian nhưng “Hồn trương ba da. hàng thịt” của LQV không
phải là sự mô phỏng, sạo chép hay một cái bóng của tích truyện dân gian mà đó chỉ là một cách độc
đáo để LQV lật lại vấn đề, đối thoại lại với dân gian, thậm chí giễu nhại lại với dân gian. Có thể
thấy, điểm kết thúc của truyện dân gian (hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt sống hạnh phúc với
gia đình, vợ con) chính là điểm khởi đầu để LQV triển khai toàn bộ vở kịch của mình. Lướt qua rất
nhanh những chi tiết, sự kiện của truyện dân gian đó là Trương Ba hiền lành, chăm chỉ ra sao, bị chết
oan như thế nào, sống lại trong thân xác anh hàng thịt để LQV coppy vào việc hồn Trương Ba sống
trong thân xác anh hàng thịt, khác hẳn với cái nhìn ngây thơ, lãng mạn và có phần ảo tưởng của tác
giả dân gian, LQV đã khai thác tất cả những bất ổn, đào sâu vào những đau khổ, bất hạnh của nhân
vật Trương Ba khi phải sống trong xác hàng thịt. Vở kịch của LQV thể hiện tính đối thoại rất rõ với
dân gian:
II.LUYỆN ĐỀ
ĐỀ 1 : Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
của Lưu Quang Vũ.
1. Mở bài
– Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể loại : thơ,
văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học
nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội
trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.
– Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch
2. Thân bài
a. Giới thiệu chung
– Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
– Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở
kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân gian.
b. Phân tích
– Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba
+ Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa
tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết.
+ Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba
ngày càng thay đổi. Bi kịch của sự oan trái
– Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái
ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn,
tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…
+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu
bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để
trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi” .Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ : con người không thể chỉ sống
106
Năm học 2021-2022
bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.
– Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình
+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người. +
Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.
+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự
tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó,
Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.
+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba. à
Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.
– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. + Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. à Bi kịch sống
nhờ vào thân xác người khác – Trương Ba trước cái chết của cu Tị
+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định
dứt khoát.
+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người. à Giải thoát bi
kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.
c. Đánh giá
– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.
– Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm
hồn trong một con người.
– Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.
3. Kết luận
– Đánh giá chung về nhân vật.
– Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

ĐỀ 2 Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, có một lời thoại quan trọng “Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Anh/chị hãy phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt để làm
sáng tỏ lời thoại trên.
Gợi ý cách làm bài
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Tác phẩm có rất nhiều lời thoại mang tính triết lý, trong đó lời nói của Trương Ba “Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn” đã gợi lên tình huống éo le
của nhân vật.
2. Thân bài
a. Giới thiệu chung
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay trong kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam. Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện này để viết thành vở kịch nói cùng tên vào năm 1981 và
được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.

107
Năm học 2021-2022
– Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt.
– Lời thoại trên là lời của Hồn Trương Ba nói với Đế Thích, có ý nghĩa triết lý về sự thống nhất, hài
hòa giữa hồn và xác trong một con người.
b. Phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt
+ Tình huống éo le, bi đát – Nguyên nhân dẫn đến tình huống éo le : việc gạch tên chết người vô
trách nhiệm của quan nhà trời và “thiện ý sửa sai” của Đế Thích. – Nỗi khổ của Hồn Trương Ba khi
phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt : vợ con nghi ngờ, xa lánh ; do sự xui khiến của thân xác hàng
thịt, Hồn Trương Ba có những hành vi, cử chỉ thô lỗ, vụng về.
– Hồn Trương Ba cương quyết không sống trong xác anh hàng thịt. Khát vọng giải thoát khỏi thân
xác người khác khiến Hồn Trương Ba gọi Đế Thích lên để nói rõ bi kịch sống nhờ, sống không đúng
mình.
+ Ý nghĩa của lời thoại
– Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn Trương Ba đã có một
thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc. Nhưng hóa ra hạnh phúc ở đời không phải
là được sống mà sống như thế nào.
– Bức thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi qua bi kịch của Trương Ba: con người phải
được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn trong sạch như thân xác được
khỏe mạnh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, đấy mới là hạnh phúc.
c. Đánh giá
– Tình huống éo le của vở kịch là nét đặc sắc tạo nên sự khác biệt giữa truyện dân gian và vở kịch.
– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm sống giàu giá trị nhân văn.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời thoại của
nhân vật sinh động có tầm khái quát cao.
3. Kết luận
– Lời thoại của Trương Ba “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được
là tôi trọn vẹn” là một câu nói giàu tính triết lý, cũng lại là bi kịch cho số phận của một con người.
– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

ĐỀ 3 Kịch Lưu Quang Vũ giàu giá trị nhân văn. Anh/chị hãy phân tích đoạn trích cảnh VII
Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong sách giáo khoa để làm rõ điều đó.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Giới thiệu vấn đề nghị luận : giá trị nhân văn
2. Thân bài
a. Giới thiệu chung (Tham khảo một số đề trên)
b. Giải nghĩa giá trị nhân văn:
Giá trị nhân văn của một tác phẩm là sự lột tả mâu thuẫn tâm lý của các nhân vật trong đời sống, hay
chính mâu thuẫn trong từng con người, trong cái trong sáng có sự sa ngạ, lầm lạc và trong ánh sáng
có bóng tối. Nó là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa đẹp và xấu, giữa hy vọng và tuyệt vọng của

108
Năm học 2021-2022
con người.
c. Phân tích
– Hoàn cảnh trớ trêu của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ thân xác anh hàng thịt.
– Nỗi đau đớn giày vò của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ, sồng khác mình, qua các chi tiết : +
Lời dẫn kịch : ngồi ôm đầu một hồi lâu, bịt tai lại, như tuyệt vọng, bần thần nhập lại xác anh hàng
thịt,…
+ Lời của nhân vật : Ta… ta đã bão là mày im đi, Trời,…
+ Lời độc thoại nội tâm : Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải là của ta ạ… à Ý nghĩa nhân
văn của tác phẩm :
– Ý nghĩa nhân văn của vở kịch là ở chỗ Lưu Quang Vũ đã khẳng định, tôn trọng cái cá thể, khẳng
định vị trí, vai trò của cá nhân trong xã hội. Qua lời thoại đầy chất triết lý, nhà văn gửi bức thông
điệp kêu gọi con người như sống chính mình. “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, câu nói đơn giản của
nhân vật Hồn Trương Ba chính là chìa khóa mở ra giá trị nhân văn của tác phẩm. – Ý nghĩa nhân
văn của vở kịch còn là ở chỗ nhà văn đã đấu tranh cho sự hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách con người. Để
cho nhân vật Hồn Trương Ba khước từ cuộc sống vay mượn thân xác người khác, Lưu Quang Vũ đã
mở hướng cho nhân vật vươn tới một lẽ sống đích thực, dẫu thân xác có trở về hư vô.
d. Đánh giá
– Cảnh VII, của vở kịch giàu giá trị nhân văn :
+ Cần tạo cho con người có được sự hài hòa giữa hai mặt tinh thần và vật chất ; không được kỳ thị
những đòi hỏi vật chất của con người ; cần tôn trọng quyền tự do cá nhân ; cần biết rút kinh nghiệm
về những sai lầm để hướng tới tương lai. – Giá trị nhân văn mà Lưu Quang Vũ đặt ra đến nay vẫn
còn nguyên vẹn và vẫn còn mang tính thời sự.
3. Kết luận
– Khẳng định giá trị của tác phẩm (nội dung, nghệ thuật).
– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ.

Đề 4: Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn trích sau. Từ
đó, nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của Lưu Quang Vũ được thể hiện trong
đoạn trích.
Hồn Trương Ba: (ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không! Tôi không muốn
sống như thế này mãi! (nhìn chân tay thân thể) Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi,
chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!
(Trên sân khấu, hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt và hiện lờ mờ trong dáng nhân
vật Trương Ba thật. Thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên chõng và lúc này chỉ còn là thân xác)
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông
không tách ra khỏi được tôi đâu, dù tôi chỉ là thân xác..
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng
nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…

109
Năm học 2021-2022
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn
bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn
cao khiết của ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư
tưởng không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú nào cũng thèm
được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà tôi…Khi ông
đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại.. Đêm hôm đó suýt nữa thì…
Hồn Trương Ba: Im đi, đấy là mày chứ, chân tay mày hơi thở của mày…
Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ? Tôi chỉ trách là sao
đêm hôm ấy, ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của… Này nhưng ta nên thành thật với nhau một chút:
Chẳng nhẽ ông không xao xuyến chút gì à? Hà hà, cái món tiết canh cổ hủ, khấu đuôi và đủ các thứ
thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc được sao? Để thoả mãn tôi, chẳng nhẽ ông không
tham dự vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời đi!
Hồn Trương Ba: Ta...ta... đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta đã hoà
với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà
còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
Hồn Trương Ba: (bịt tai lại)Ta không muốn nghe mày nữa!
Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu! Mà
đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông toé
máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi! Ha ha..
Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi..
(buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi là cái
bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. ông nhìn ngắm trời đất cây
cối người thân…Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi…
Khi muốn hành hạ tâm hồn con người. Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách
như các ông là hay vin vào có tâm hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn, để rồi bỏ bê cho
thân xác họ mãi khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi
có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?
Hồn Trương Ba: Nhưng…nhưng..
Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có ông nặng lời với tôi,
chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì thầm) Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn.
Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?
Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông. Nghĩa là những
lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì
110
Năm học 2021-2022
hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều gì xấu ông cứ đổ tội cho tôi, để
ông được thanh thản. Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm
sĩ diện. hà hà…miễn là.. ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!
Hồn Trương Ba: Lí lẽ của anh thật ti tiện!
Xác hàng thịt: Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc
lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ! Đã bảo chúng ta tuy hai mà
một mà!
Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời! Xác hàng thịt (an ủi) Ông đừng nên tự dằn vặt làm gì!
Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng cãi cọ nhau nữa. Chằng còn
cách nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về
với tôi này!
(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu nhân vật Trương Ba biến
đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ bên chõng…)
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019)
GỢI Ý:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích
* Cuộc đối thoại giữa hồn và xác:
- Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:
+ Sau khi được sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn TB gặp rất nhiều phiền toái và bản thân TB
cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông. Những
điều đó làm TB vô cùng đau khổ.
+ Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước cái chỗ ở
không phải của mình, HTB khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ: “Ta chỉ muốn dời xa mi tức
khắc!”.
- Diễn biến cuộc đối thoại:
+ HTB và XHT tranh luận về sức mạnh của thể xác (Tư tưởng hồn – xác độc lập):
++Hồn TB: Tức tối, phẫn nộ và khinh bỉ thể xác. Phủ nhận sức mạnh của thể xác “không có
tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui mù”, “không có tư tưởng, không có cảm xúc”, cho rằng
những nhu cầu của xác thịt là thấp hèn. Khẳng định một cách đầy tin tưởng và tự hào về sự “trong
sạch” trong tâm hồn mình.
++Xác hàng thịt: Mỉa mai, giễu cợt, gọi HTB là cái “linh hồn mờ nhạt...khốn khổ”. Tự tin trước
sức mạnh ghê gớm của mình, át cả linh hồn cao khiết của TB. Đưa ra dẫn chứng cụ thể, giàu sức
thuyết phục để kđịnh sức mạnh của mình, khiến TB bối rồi.
+ HTB và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thể xác (tư tưởng hồn – xác là một, xác chi
phối hồn):
++ Xác hàng thịt: Khẳng định mình là “cái bình để chứa đựng linh hồn”. Tự hào về vai trò của
thể xác trong việc thoả mãn những nhu cầu của linh hồn. Phê phán, chế giễu sự coi thường của linh
hồn trước những nhu cầu của thể xác và đấu tranh co những nhu cầu chính đáng của mình. Ve vuốt,
đề nghị HTB trở về sống hoà hợp với mình.

111
Năm học 2021-2022
=> Chủ động đặt nhiều câu hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt -> trở thành kẻ thắng thế, buộc Trương
Ba phải quy phục mình.
++ Hồn TB: Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác bối rối, lúng
túng, không thể phản bác những ý kiến đó. Chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt
vọng.
=> HTB bị động, kháng cự yếu ớt, đuối lí, tuyệt vọng -> trở thành người thua cuộc.
- Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giưã cái phàm
tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai
dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính
cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động
bên trong.
+ Ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù
hợp với tính cách nhân vật.
- Khái niệm: triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con
người, là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của con người và
cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người. Bên cạnh đó nhân sinh
quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối các hoạt động của con người trong đời
sống. Nói vắn tắt thì nó là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta.
- Biểu hiện của triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích:
+ Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng
trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác.
+ Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác
vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể
xác.
+ Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận,
chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
- Đánh giá:
+ Cuộc đối thoại thể hiện bi kịch của nhân vật HTB: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến. Tâm trạng
đau khổ, giằng xé trước cuộc sống trái tự nhiên.
+ Phẩm chất cao đẹp: luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự
tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để vươn tới những
giá trị tinh thần cao quý.

Đề 5 :
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không
thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
112
Năm học 2021-2022
toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên
ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính
người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều
thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong
bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống
như thế nào thì ông chẳng cần biết!
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 149)
Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình bày suy nghĩ
của anh/chị về vấn đề: con người cần được sống là chính mình.
GỢI Ý:
I. Mở bài:
 Tác giả Lưu Quang Vũ (một nhà soạn kịch tài năng, một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
trường những năm tám mươi của thế kỉ XX)
 Hoàn cảnh sáng tác Hồn trương ba, da hàng thịt (ra đời năm 1981)
 Đưa ra nhận xét chung về màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích
II. Thân bài:
a. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:
 Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng thịt, Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với chính mình và
với người thân, bị người thân nghi ngờ, xa lánh.
 Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước cái chỗ ở
không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ: “Ta chỉ muốn
rời xa mi tức khắc!”.
b. Diễn biến cuộc đối thoại:
- Trương Ba nêu rõ nguyện vọng muốn được là mình toàn vẹn. Đế Thích không thể thỏa mãn được ý
muốn của Trương Ba vì xác của Trương Ba đã tan rữa trong bùn đất; Đế Thích khuyên Trương Ba
nên chấp nhận hoàn cảnh thực tại vì thế giới vốn không toàn vẹn.

- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích; trình bày quan niệm của mình về ý nghĩa của
cuộc sống và dứt khoát xin trả lại thân xác cho anh hàng thịt.

- Đế Thích muốn sửa sai bằng một giải pháp khác là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị và đưa
ra những lí lẽ để thuyết phục Trương Ba. Trương Ba tưởng tượng thấy bao nhiêu rắc rối khi phải
sống nhờ trong thể xác cu Tị.

- Trương Ba kiên quyết từ chối tái sinh trong thân thể non nớt của cu Tị, không chấp nhận cảnh sống
giả tạo; kêu gọi Đế Thích sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là cho cu Tị được sống lại. Đế Thích
cuối cùng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba, làm phép cho anh hàng thịt, cu Tị sống lại và
Trương Ba thì chết hẳn.

113
Năm học 2021-2022
*Ý nghĩa của triết lý “hãy sống là chính mình” mà tác Lưu Quang Vũ muốn thể hiện

 Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hoà giữa việc chăm
lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của
thể xác.
 Một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không
chăm lo cho đời sống tâm hồn.
=> Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là
hạnh phúc thật sự của con người.

*Triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại:

 Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều
đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hòa giữa linh hồn
và thể xác
 .Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người,
mặt khác ông vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật
chất và những nhu cầu của thể xác.
 Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số
phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện
nhân cách
III. Kết bài:
Lưu Quang Vũ đã thể hiện những tình huống truyện độc đáo, qua những mâu thuẫn sâu sắc xuất hiện
mà khắc họa rõ nét khát vọng sống là chính mình của nhân vật Hồn Trương Ba.

114
Năm học 2021-2022
CHÚC CÁC EM ÔN ĐẠT HIỆU QUẢ VÀ GẶT HÁI QUẢ NGỌT
TRONG KÌ THI TỐT NGHIỆP 2022!

115
Năm học 2021-2022

You might also like