Professional Documents
Culture Documents
Đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp enzyme vào cải tiến quy trình sản xuất
nước mắm”
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phạm Khánh Phương
Cơ quan chủ trì đề tài: Trung tâm GDTX và Đào tạo cán bộ tỉnh Quảng Nin
Người biên soạn: ThS Phạm Khánh Phương
CN. Vương Thị Hiền
Nước sản xuất Tên gọi Điều kiện và thời gian lên men
Nhật Bản ShottsuruUwo – shoyu Tỷ lệ 5 : 1 = Cá : Muối + gạo lên men và koji (3 : 1) Thời
gian lên men : 6 tháng
Nước (30-
35%) Khuấy đảo + muối (4-5%); 2 -4 ngày
Chượp chín
Dịch nước
Chiết rút L2
mắm L1
Phối trộn
Bã phế thải
Nước mắm
thành phẩm
Hình 1: Sơ đồ quy trình chế biến nước mắm cổ truyền hiện nay (theo phương
pháp khuấy đảo) tại Công ty Cổ phần Thuỷ sản Cái Rồng
Chượp chín
Nước mắm
Chiết rút cốt
Phối
Nước muối Bã chượp
trộn
(25%)
Nước mắm
Chiết rút chiết
Kéo rút
Nước mắm
thành phẩm
Hình 2a: Quy trình sản xuất nước mắm cải tiến sử dụng enzyme
Chượp chín
Nước mắm
Chiết rút
cốt
Phối
Nước muối Bã chượp
trộn
Nước mắm
Chiết rút
chiết
Bã phế thải
Nước mắm
thành phẩm
Hình 2b: Quy trình sản xuất nước mắm cải tiến sử dụng enzyme
1. Nguyên liệu sản xuất, các nguồn cung cấp nguyên liệu.
Nguyên liệu là bước khởi đầu của quy trình sản xuất nước mắm nhưng lại
là yếu tố quyết định lớn đến chất lượng nước mắm thành phẩm.
+ Với quy trình sản xuất truyền thống: Nguyên liệu chính gồm cá + muối
+ Với quy trình sản xuất cải tiến đề xuất: Nguyên liệu chính gồm cá +
muối + enzyme.
1.1. Vài trò của cá
- Là nguyên liệu chính không thể thiếu trong sản xuất nước mắm.
- Cung cấp các men và hệ vi sinh vật có sẵn trong ruột cá để thủy phân
thịt cá thành nước mắm (từ các protein phức tạp đến protein đơn giản và cuối
cùng là các acid amin tự do)
- Tạo nên hương vị và màu đặc trưng riêng cho từng sản phẩm.
1.2. Vai trò của muối
- Là nguyên liệu chính không thể thiếu trong sản xuất nước mắm, tạo vị
mặn cần thiết cho nước mắm..
- Ức chế có hiệu quả những vi sinh vật gây thối rữa vốn phát triển mạnh
trên cá làm hư hỏng cá, muối giúp kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm.
1.3. Vài trò của enzyme
- Giúp thúc đẩy nhanh quá trình thủy phân protein cá, rút ngắn thời gian
chế biến nước mắm.
- Tăng độ đạm của nước mắm.
2. Tiêu chuẩn kỹ thuật của nguyên liệu
2.1. Tiêu chuẩn kỹ thuật của cá dùng làm nước mắm
- Cá dùng để chế biến là loại cá gầy có hàm lượng lipit thấp ( < 0,1%) là
tốt nhất, không sử dụng một số loại cá quá béo, có màu đen đậm, đỏ đậm toàn
thân như cá thu, cá ngừ,… vì trong thành phần của cơ thịt đỏ có chứa nhiều
axitamin histidin, đây là một tiền chất của amin histamin, một amin có khả năng
gây ngộ độc cao. Hàm lượng histamin > 20mg/100g thì gây ngộ độc, hàm lượng
nhỏ hơn thì gây đau đầu chóng mặt, nếu bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn 5oC thì
chỉ một lượng ít histamin được hình thành, nhưng nếu trong điều kiện nhiệt độ
[Sản xuất nước mắm sử dụng bổ sung enzyme] Page 7
2013
CNĐT: ThS. Phạm Khánh Phương Bản hướng dẫn kỹ thuật
15 – 20oC thì một lượng lớn histamin được tạo thành. Trong quá trình thủy phân
protein thịt cá, chuyển protein thành các phần tử nhỏ hơn có một số loài vi sinh
vật cũng có khả năng chuyển hóa histidin thành histamin.
- Nên sử dụng các loại cá có kích thước nhỏ vì như vậy sẻ không tốn nhân
công cho công đoạn xử lý nguyên liệu, đồng thời kích thước nhỏ diện tích bề
mặt cá tiếp xúc muối sẻ tăng lên làm cho quá trình thủy phân diễn ra nhanh
chóng.
- Tuyệt đối không dùng các loại cá có chứa độc tố để làm nguyên liệu chế
biến nước mắm như cá nóc, ... Trong cá nóc có độc tetrodotocxin, theo nghiên
cứu mới nhất của viện Hải Dương Học Nha Trang thì độc tố tetrodotocxin
không bị thủy phân trong quá trình chế biến nước mắm và không mất đi khả
năng gây đọc tố cho người sử dụng.
- Cá làm mắm phải sạch. không lẫn tạp chất, không được ươn thối, có thể
sử dụng cá ướp lạnh.
2.1. Tiêu chuẩn kỹ thuật của muối, nước muối dùng làm nước mắm.
- Muối phải khô, xốp, màu trắng đục.
- Nước muối (dùng để phá bã) phải là nước muối được đun sôi có nồng độ
chất khô phù hợp với yêu cầu.
- Phải đảm bảo muối loại 1 và khi mua về phải lưu trữ ít nhất 3 tháng mới
đem sử dụng (muối cũ để lâu giúp tránh vị chát cho nước mắm).
Thành phần hóa học của muối.
* Enzyme Alcalase:
Là một loại enzyme thuỷ phân protein được tách chiết từ Bacillus
lichenifomis có trọng lượng phân tử 27300. Chúng có khả năng phân cắt các liên
kết peptide nội phân tử (endopeptidase) để chuyển phân tử protein thành các
đoạn peptide. Nhiệt độ tối ưu cho Alcalase từ 55oC đến 70oC, pH tối ưu là 6,5-
8,5. Enzyme alcalase có tính chịu muối kém. (Enzyme sẽ hoạt động kém khi
hàm lượng muối tương đương 5% khối lượng cá).
* Enzyme Flavourzyme:
Là một phức hợp enzyme thuỷ phân protein được tách chiết từ nấm
Aspergillus oryzae, có cả hai hoạt tính phân cắt nội và ngoại phân tử protein
(endopeptidase và exopeptidase) để chuyển hoá protein đến tận đơn vị cuối cùng
là acid amin. Nhiệt độ tối ưu cho Flavourzyme hoạt động là khoảng xung quanh
50oC, pH tối ưu từ 5,0 -7,0 và có khả năng chịu mặn tốt. (Enzyme sẽ hoạt động
kém khi hàm lượng muối tương đương 20% khối lượng cá).
3. Phân loại nguyên liệu
Phân loại là phân chia nguyên liệu thành các loại (hạng) dựa trên những
tiêu chuẩn đã định trước. Việc phân loại nguyên liệu rất quan trọng, nó giúp ta
xác định được giá của nguyên liệu, lựa chọn được phương pháp chế biến phù
hợp, thu được sản phẩm theo nhu cầu của nhà sản xuất.
Có 4 cách phân loại cá (phân loại theo độ đạm (protid), theo chất béo
(lipid), theo tập tính sinh sống và theo giá trị sử dụng để làm nước mắm). Trong
nghề mắm, thường người ta phân loại cá làm 2 loại là cá nổi và cá đáy. Mặt khác
người ta còn phân loại cá theo mức độ tươi, ươn để có cách chế biến phù hợp.
* Phân theo loại cá (cá nổi và cá đáy)
- Cá nổi gồm các loại cá như cá nục, cá trích, cá cơm, … Đây là các loại
cá sống ở tầng nước trên và tầng nước giữa, chúng thường di chuyển theo từng
đàn lớn nên khi đánh bắt thường là được cùng một loại cá. Hơn nữa cá nổi
thường rất sạch, nội tạng và mang cá ít bùn đất.
- Cá đáy gòm các loại cá như cá giò, cá mối, cá chai, thờn bơn,… Đây là
các loại cá sống ở tầng nước sát đáy, nên khi đánh bắt dễ lẫn các loài khác như
sò, ốc, rong rêu… (gọi chung là cá tạp). Loại cá này thường có lớp vảy cứng bên
ngoài và bên trong nội tạng và mang cá thường có nhiều bùn đất.
* Phân loại theo mức độ tươi, ươn.
- Cá tươi có vảy cá sáng, cơ thịt cá còn săn, chắc, mùi tanh nhẹ, mắt cá
trong, bề mặt ít nhớt.
- Cá bắt đầu ươn thì vảy cá hơi đục dễ bong tróc khỏi thân, cơ thịt cá
mềm, mùi tanh, mắt cá hơi đục, bề mặt có nhờn tiết ra tương đối.
- Cá ươn mềm, vỡ bụng, mùi tanh, hôi, mắt cá hoàn toàn đục và có màu
đỏ, nhớt cá tiết ra sền sệt và có màu hơi hồng.
- Cá thối thì cá mềm nhũn, lườn cá tướp ra, mùi tanh, nồng, nhớt cá tiết ra
sền sệt màu nâu xám, xóc khối cá có hiện tượng sủi bọt. Cá loại này không thể
chế biến mắm.
4. Cách bảo quản nguyên liệu và ảnh hưởng của nguyên liệu đến chất
lượng sản phẩm
4.1 Cách bảo quản nguyên liệu.
* Đối với cá: Cá là nguyên liệu thủy sản tươi sống nên quá trình hư hỏng
phụ thuộc lớn vào quá trình vận chuyển, điều kiện và phương thức bảo quản.
- Vận chuyển: Nên sử dụng thùng, chậu, xô để vận chuyển (giảm mất
nước do cá tiết ra).
- Điều kiện bảo quản và cách quản lý nguyên liệu:
+ Tối ưu nhất là bảo quản bằng nước đá, có thể kết hợp nước đá + muối.
+ Bảo quản bằng muối (5-7% muối ăn)
+ Quản lý nguyên liệu theo nguyên tắc nhập trước xuất trước
Tuyệt đối không sử dụng các phụ gia cấm hoặc hóa chất trong quá trình
bảo quản.
* Với muối: để nơi khô ráo, tùy theo tình hình sản xuất, mùa vụ và giá
muối để có phương án mua, vận chuyển và bảo quản.
4.2. Ảnh hưởng của nguyên liệu đến chất lượng sản phẩm
* Với cá.
Những loài cá khác nhau, thành phần hóa học và cấu trúc cũng khác nhau,
nhất là hệ enzym trong cá vì vậy tạo ra loại nước mắm có chất lượng khác nhau.
- Loại cá có kết cấu cơ thịt lỏng lẽo, mềm mại, ít vảy dễ chế biến hơn loại
cá cứng, chắc, nhiều vảy.
- Nếu cá có nhiều mỡ thì nước mắm có mùi ôi khét khó chịu, mùi chua
(do sự thủy phân chất béo thành acid béo và glycerid) hoặc khét do oxy hóa chất
béo.
- Cá nổi cho chất lượng sản phẩm tốt hơn cá đáy. Ví dụ cá sống ở tầng
nước mặt và giữa như cá thu, cá cơm, cá nục, cá mòi... cho chất lượng nước
mắm tốt nhất vì nó ăn được thức ăn ngon nên dinh dưỡng và thành phần đạm
cao. Cá sống ở tầng nước dưới và tầng đáy như cá phèn, cá mối cho nước mắm
có chất lượng kém vì thiếu thức ăn (ăn rong, rêu, bùn hoặc thực vật dưới đáy)
làm cho thịt cá thiếu dinh dưỡng và bụng cá có bùn đất ảnh hưởng đến màu sắc
nước chượp.
- Cá tươi chế biến chất lượng tốt hơn cá ươn.
- Cá càng tươi thì sản phẩm càng ngon và tốt nhất cả về hương vị và định
mức thu hồi sản phẩm nhưng giá cá tươi thường đắt nên hiệu quả kinh tế sẽ
không cao. Vì vậy thông thường các nhà sản xuất thường lựa chọn cá bắt đầu
ươn vì loại cá này vẫn cho sản phẩm có chất lượng tốt nếu chế biến đúng cách
và kịp thời, giá rẻ nên đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.
- Cá ươn thì chất lượng sản phẩm kém nhưng cũng có cách xử lý để nâng
cao chất lượng của sản phẩm lên nhờ trộn lẫn với lượng cá có chất lượng tốt hơn
vì vậy vẫn có thể sử dụng để làm nước mắm với tỷ lệ khoảng 30% so với hai
loại trên. Cá ươn thối thì không thể dùng để chế biến vì nước mắm thu được sẽ
nặng mùi, màu sẫm, vị đắng và có khi còn gây ngộ độc.
* Với muối
Nếu chưa có thời gian lưu trữ trong kho, dùng muối mới thường cho sản
phẩm có vị đắng\ chát. Vị chát của muối là do trong muối có MgCl2, CaCl2.
Trong muối thường tồn tại K +, nếu ăn phải lượng ít thì bị đau cuống họng, nếu
ăn phải lượng nhiều thì gây đau đầu, nôn mửa.
* Với enzyme: Sử dụng enzyme có nguồn gốc từ vi sinh vật, trực tiếp đưa
vào sản xuất, sử dụng chế phẩm enzyme protease từ nấm mốc Aspergillus
oryzae dưới dạng bột khô (enzyme Flavourzyme) và enzyme tách từ VK
Bacillus lichenifomis (enzyme Alcalase) giúp tăng phản ứng thủy phân protein
cá, rút ngắn thời gian sản xuất nước mắm, hàm lượng đạm thu được cao hơn.
5. Ảnh hưởng của các nhân tố khác đến quá trình sản xuất nước mắm
* pH: Mỗi hệ enzym có pH tối thích khác nhau, vì vậy phải xem loại
enzym nào nhiều nhất và đóng vai trò chủ yếu nhất trong quá trình sản xuất
nước mắm để tạo pH thích hợp cho enzym đó hoạt động. Qua thực nghiệm cho
[Sản xuất nước mắm sử dụng bổ sung enzyme] Page 12
2013
CNĐT: ThS. Phạm Khánh Phương Bản hướng dẫn kỹ thuật
thấy: pH môi trường tự nhiên từ 5,5-6,5 enzym tripsin và pepsin hoạt động
được, đồng thời ở pH này có tác dụng ức chế một phần vi khuẩn gây thối. Vì
vậy ở môi trường tự nhiên có pH thích hợp cho quá trình sản xuất nước mắm
hơn.
* Nhiệt độ
Nhiệt độ tăng vận tốc phản ứng tăng, đến một nhiệt độ nào đó sẽ không
tăng nữa và có thể giảm xuống do nhiệt độ cao làm cho hệ enzym serin-protease
mất hoạt tính. Quá trình thủy phân kém.
- Nhiệt độ 30 – 47 o C thích hợp cho quá trình chế biến chượp.
- Nhiệt độ 70 o C trở lên hầu hết các hệ enzym trong cá mất hoạt tính.
Nâng nhiệt độ của chượp lên bằng cách phơi nắng, nấu hoặc sử dụng tôn
nóng để che phân xưởng.
* Lượng muối
Yêu cầu của muối trong sản xuất nước mắm phải là loại muối ăn, càng
tinh khiết càng tốt, kết tinh hạt nhỏ có độ rắn cao, màu trắng óng ánh (không
vón cục, ẩm ướt, vị đắng chát).
- Nồng độ muối thấp có tác dụng thúc đẩy quá trình thủy phân protein
nhanh hơn, chượp mau chín.
- Nồng độ muối quá cao có tác dụng ức chế làm mất hoạt tính của enzym,
quá trình thủy phân chậm lại, thời gian thủy phân kéo dài (protein bị kết tủa bởi
muối trung tính bão hòa).
Để chế biến chượp nhanh cần xác định lượng muối cho vào trong chượp
là bao nhiêu và lượng muối này phải thõa mãn 2 điều kiện:
- Không mặn quá để tránh ức chế hoạt động của enzym.
- Không nhạt quá để có đủ khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây
thối. Nồng độ muối tối thiểu để ngăn cản sự phát triển của các vi khuẩn có hại là
khoảng 15%. Protease trong cá đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thuỷ
phân protein. Tuy nhiên, ở nồng độ muối cao làm giảm hoạt tính của protease.
Vì thế ở các nước khác nhau có một phương pháp sản xuất nước mắm khác
nhau, tỷ lệ muối/ cá cũng khác nhau.
Tại bang California - Mỹ, S. TungKaWachara and J. W. Park năm 2001
đã nghiên cứu ảnh hưởng tương tác của muối và pH lên hoạt động của enzyme
trong nước mắm. Hai ông sử dụng cá đáy để làm mắm ở nồng độ muối 15% và
25% tại các pH khác nhau (2, 3, 5, 5.5, 6.5, 7.5, and 8.5); hoạt tính của enzyme
(cathepsin L, cathepsin B, chymotrypsin, and trypsin), mức độ thuỷ phân,
protein tổng số, protein hoà tan và hàm lượng Nitơ amin trong nước mắm được
các ông theo dõi, phân tích. Kết quả cho thấy hoạt tính của enzyme cathepsin B
và trypsin lớn hơn ở nồng độ muối 15%. Đối với chymotrypsin, tại pH 8.5 hoạt
tính cao hơn ở nồng độ muối 15%. Hoạt tính của enzyme cathepsin L cũng cao
hơn khi nồng đồ muối là 15% so với 25% tại pH 5.5, 6.5 và 8.5. Nồng độ
protein hoà tan và Nitơ amin cũng tăng dần khi nồng độ muối giảm và theo thời
gian lên men.
Tại Thái Lan, năm 2001, Asbjorn Gildberg & Chaufah Thongthai đã
nghiên cứu ảnh hưởng của việc giảm nồng độ muối và bổ sung vi khuẩn ưa
muối (Tetragenococcus halophilus) đến chất lượng và thành phần của nước
mắm cá trích. Kết quả cho thấy, cả quá trình thuỷ phân và hoạt tính của vi sinh
vật đều đạt cao nhất ở nồng độ muối thấp nhất.
Ở Việt Nam, năm 2006, công trình nghiên cứu của Lê Văn Việt Mẫn và
Trần Thị Ánh Tuyết - Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM cũng cho thấy
việc áp dụng bổ sung muối và chế phẩm protease nhiều lần vào chượp sẽ làm rút
ngắn đáng kể thời gian thuỷ phân protein cá trong chượp, và với nồng độ cao
của muối trong chượp (25%) đã làm giảm hoạt tính xúc tác của chế phẩm
enzyme protease.
* Diện tích tiếp xúc
Muốn phản ứng xảy ra nhanh phải có sự tiếp xúc tốt giữa enzym và cơ
chất. Các enzym trong cá tập trung nhiều ở nội tạng, nên để tăng tốc độ thủy
phân người ta tìm cách tăng diện tích tiếp xúc giữa enzym và thịt cá. Có thể
dùng các biện pháp:
- Phương pháp xay nhỏ cá:
+ Xay nhỏ cá diện tích tiếp xúc sẽ lớn nhưng protein dễ bị biến tính do tác
dụng cơ học.
+ Enzym phân tán nhưng phân tán rất rộng ra môi trường nước làm cho
nồng độ enzym loãng ra. Khi chượp chín đem kéo rút sẽ gặp hiện tượng tắt lù.
- Phương pháp đập dập: Cá đập dập sẽ giữ được hình dạng ban đầu, cơ
thịt bên trong bị mềm ra, tổ chức cơ thịt lỏng lẻo giúp enzym dễ ngấm vào trong
thịt. Cá đập dập xương cá không bị vỡ vụn, khi chượp chín kéo rút dễ dàng.
- Phương pháp cắt khúc: thịt cá vẫn còn chắc nên enzym khó ngấm vào
hơn phương pháp đập dập, protein ở mặt ngoài dễ bị biến tính do tiếp xúc với
dung dịch có nồng độ muối cao.
Như vậy để tăng diện tích tiếp xúc sử dụng phương pháp đập dập kết hợp
với đánh khuấy chượp là tốt nhất.
Sau khi lựa chọn nguyên liệu cho sản xuất, điều quan trọng nhất trong quá
trình chế biến chượp là việc muối cá như thế nào, số lượng bao nhiêu sao cho
không quá mặn (ức chế quá trình thủy phân protein thịt cá), không quá nhạt (vi
sinh vật gây hư hỏng phát triển mạnh). Mặt khác, bổ sung enzyme vào thời điểm
nào, số lượng bao nhiêu để đạt hiệu xuất cao nhất vừa tiết kiệm kinh phí cho sản
xuất. Quá trình tiến hành cụ thể như sau:
1. Phương pháp gài nén
Mục đích:
- Tạo điều kiện cho quá trình lên men yếm khí (quá trình chủ yếu tạo
hương nước mắm).
- Giúp tạo nên một lớp lọc tự nhiên để sau khi rút thu được nước mắm
thành phẩm trong suốt, vừa đỡ tốn công sức vừa giữ được hương của khối
chượp lâu dài.
Tiến hành:
+ Trộn muối lần 1: Cá sau khi rửa sạch (nếu mua cá từ thuyền đánh bắt
ngoài khơi thì không cần rửa lại) đổ ra sân xi măng hoặc thúng tre sạch, chậu
nhựa sạch, cứ 100kg cá xóc đều với 3kg muối, xúc cá đổ vào ang hay chum đã
được rửa sạch sẽ, cứ một lớp cá cho một lớp enzyme (enzyme được bổ sung với
tỷ lệ 0,06% Alcalase + 0,06% Flavourzyme so với khối lượng cá), cuối cùng
phủ 1% muối so với khối lượng cá trong chượp lên trên bề mặt, vỗ nhẹ cho muối
chặt, sau khoảng 4 tiếng, bổ sung khoảng 5 % muối và trộn đều sao cho cá được
tiếp xúc đều với muối và enzyme, tiếp đó phủ 1 lớp muối (tương đương 3% so
với khối lượng cá trong bể chượp) lên trên bề mặt chượp, san muối trên mặt
khối chượp cho bằng (còn gọi là mặt muối) rồi trải cót (vỉ) lên trên mặt muối,
sau đó xếp các cây gài ém và đặt đá với khối lượng tương đương 25% khối
lượng chượp để đảm bảo cá không bị nổi nên, đậy kín như vậy và gài ém trong 2
ngày về mùa hè (3 ngày về mùa đông).
+ Bổ sung muối lần 2: Sau 2- 3 ngày gài ém, mở nắp lù để nước bổi trong
khối chượp chảy ra hết rồi hòa với 5% muối và đổ trở lại bể chượp, tiếp tục để
trong khoảng 2- 3 ngày; trong thời gian này, chúng ta vừa thực hiện náo đảo,
vừa giang phơi để quá trình thủy phân diễn ra nhanh hơn.
- Giang phơi: khi rút nước bổi khỏi bể chượp, đồng thời ta mở hết các tấm
đậy nắp để phơi nắng, mục đích tận dụng nhiệt độ của mặt trời làm tăng nhiệt độ
cho khối chượp.
- Náo đảo: là thao tác chuyển nước đã rút ra giang phơi đổ trở lại bể.
Đối với bể chượp ngoài trời: Nước bổi rút ra đem phơi nắng 3- 4 giờ sau
được chuyển trở lại vào bể chượp, rồi lại mở nước khác trong bể chượp ra tiếp
tục giang phơi, tùy thuộc vào ngày nắng nhiều hay ít mà nhà sản xuất có thể rút
nước bổi ra, giang phơi rồi đổ vào bể chượp từ 3-4 lần, đến chiều thì đậy nắp bể
chượp lại.
Đối với bể chượp trong nhà: Nước bổi được được phơi từ sáng đến 4-5
giờ chiều thì đổ toàn bộ trở lại bể chượp, song song với đó mở lỗ lù cho nước
bổi nguội phía dưới bể chượp chảy ra, nước bổi ấm phía trên sẽ xâm nhập vào
khối chượp làm nhiệt độ khối chượp dần tăng lên. Lượng nước bổi mới chảy ra
để ngày hôm sau phơi và tiếp tục thực hiện như trên.
+ Bổ sung muối lần 3: Sau khi bổ sung muối lần 2 được 2- 4 ngày (tùy
thuộc vào thời tiết mùa hè hay đông), tiến hành rút nước bổi trong khối chượp ra
và hòa với khoảng 5% muối rồi đổ trở lại bể chượp, tiếp tục thực hiện thao tác
náo đảo và giang phơi hàng ngày như vậy trong thời gian 2 – 3 ngày sau đó ta
rút nước bổi, kiểm tra độ mặn (Be) và tiếp tục bổ sung thêm muối sao cho lượng
muối đạt 25% khối lượng cá trong bể chượp.
Trong quá trình lên men và thủy phân cá, thường xuyên theo dõi, kiểm tra
kỹ thuật và thực hiện thường xuyên 2 thao tác (náo đảo và giang phơi) để quá
trình chế biến diễn ra nhanh hơn, sản phẩm thu được có chất lượng tốt hơn.
Thường 1-2 tháng đầu, cần náo đảo và giang phơi hàng ngày, sau 2 tháng có thể
giảm còn 1-2 lần/tuần cho đến khi chượp chín (sau 4- 8 tháng tùy thuộc vào mùa
hè, mùa đông). Xác định thời điểm chượp chín bằng phương pháp hóa học và
cảm quan (phương pháp nhiệt hoặc phương pháp chấn động). Khi chượp chín,
tiến hành kéo rút nước mắm. Nước mắm thành phẩm thu được có hương vị thơm
ngon, đặc mùi mắm, trong, màu sắc vàng đẹp, nếm có vị ngọt hậu ở cuống lưỡi.
2. Phương pháp đánh khuấy
a) Cho muối lần 1 :
Cá sau khi rửa sạch (nếu mua cá từ thuyền đánh bắt ngoài khơi thì không
cần rửa lại) đổ ra sân xi măng hoặc thúng tre sạch, cứ 100kg cá xóc đều với 3kg
muối, xúc cá đổ vào ang hay chum đã được rửa sạch sẽ, cứ một lớp cá cho một
lớp enzyme (tỷ lệ kết hợp 2 loại enzyme 0,06% Alcalase + 0,06% Flavourzyme),
cuối cùng phủ 1-2% muối so với khối lượng cá trong chượp lên trên bề mặt, vỗ
nhẹ cho muối chặt, sau khoảng 4 tiếng, cho tiếp 3% muối vào trộn đều và phủ
tiếp 1 lớp muối (tương đương 3-4% so với khối lượng cá trong bể chượp) lên
trên bề mặt chượp rồi đậy kín như vậy trong 2 ngày về mùa hè (4 ngày về mùa
đông). Trong khoảng thời gian để ủ 2 -4 ngày, cần theo dõi thường xuyên để
phát hiện thời điểm “cá đòi muối” để cho muối lần 2 cho kịp thời.
b) Cho muối lần 2 :
2 ngày về mùa hè, 3-4 ngày về mùa đông, khi phát hiện thấy bụng cá vỡ,
lườn cá tướp ra, cá dâng lên và bốc mùi chua nhẹ lẫn mùi tanh, thoang thoảng
mùi tanh, thoang thoảng mùi thối, cho cào vào đánh khuấy thấy sủi bọt, (đó là
hiện tượng cá đòi muối) khi ấy cần phải cho muối kịp thời. Lần này cho thêm 5
% muối, đánh khuấy thật kỹ cho muối tan hết, enzyme bổ sung từ ngoài vào sẽ
được trộn đều và tiếp xúc tốt với cá. Trong thời gian từ 2 – 4 ngày (tùy vào thời
tiết, mùa vụ), thường xuyên mở nắp chượp để phơi nắng và đánh đảo chượp từ 1
-2 lần/ngày, đến chiều khi gần hết nắng ta đậy nắp chượp lại.
Hằng ngày phơi nắng dùng cào đánh khuấy kỹ, cá ngấm muối nặng và
dần chìm xuống. Đợt cho muối này rất quan trọng vì vậy cần phải cho muối
đúng lúc. Nếu cho muối quá sớm sẽ làm hạn chế tác dụng của enzym, thịt cá rắn
lại, lâu phân giải và làm chậm quá trình chín của chượp. Nếu cho muối muộn
quá tác dụng phân giải sẽ chuyển qua tác dụng phân huỷ làm chượp xông mùi
hôi thối, ngả màu xám rối đen và bị hỏng.
c) Cho muối lần 3:
Tính từ ngày cho muối lần 2 là 2-5 ngày (tùy thuộc vào mùa vụ), phần lớn
cá đã ngấm muối và chìm xuống, còn một số cá mình dày và to vẫn chưa ngấm
đủ muối lại nổi lên hoặc lơ lửng gần mặt nước, xông mùi chua nhưng đã bắt đầu
có mùi thơm của nước mắm. Khi ấy cần cho thêm 5-8% muối nữa và đánh đều
cho muối tan hết vào chượp.
d) Cho muối lần 4:
Sau khi cho muối đợt 3 xong, sau 1 -2 ngày cho nốt lượng muối còn lại
cho đủ 25% muối so với khối lượng cá trong dụng cụ chứa. Sau khi cho muối
lần cuối cùng, mỗi buổi sáng phải đem phơi nắng và đánh khuấy 1 lần trong suốt
tháng đầu (20-30 ngày tùy thuộc vào mùa vụ). Khi cá đã ngấm đủ muối, nát đều
và chìm xuống, nước nổi lên màu vàng, trong và bắt đầu có mùi mắm, khi đó
chượp đã “đứng mặt đầu”.
- TH1: Khi cá đã “đứng mặt đầu”, giảm việc đánh khuấy, hàng ngày mở
nắp phơi nắng và đánh khuấy 2 – 3 lần/1 tuần trong tháng thứ 2, cuối tháng thứ
2, sang tháng thứ 3, thứ 4 thì 1 – 2 tuần đánh khuấy 1 lần hoặc ít hơn. Khi thịt cá
đã nát thành bột chìm xuống, nước trong, hương thơm, màu sắc vàng rơm đến
vàng đậm cánh dán (tùy thuộc vào cá) tức là chượp đã chín. Xác định thời điểm
chượp chín bằng phương pháp nhiệt hoặc phương pháp chấn động. Khi chượp
chín (sau 4-8 tháng tùy thuộc vào mùa hè, mùa đông), tiến hành lọc thô thu dịch
nước mắm cốt rồi đem ủ và chan qua bã chượp truyền thống (cứ 30 lít dịch nước
mắm cốt bổ sung enzyme ủ với 10kg bã chượp truyền thống) để tăng hương vị
cho nước mắm.
- TH2: Khi cá đã “đứng mặt đầu”, phối trộn với chượp truyền thống đã
lên men trong khoảng 5 -6 tháng (cứ 2-3 chượp bổ sung enzyme phối trộn với 2
chượp truyền thống). Hàng ngày mở nắp phơi nắng và đánh khuấy 2 lần/1 tuần
trong suốt tháng thứ 2, sang tháng thứ 3, thứ 4 thì 1 – 2 tuần đánh khuấy 1 lần
hoặc ít hơn. Khi thịt cá đã nát thành bột chìm xuống, nước trong, hương thơm,
màu sắc vàng rơm đến vàng đậm cánh dán (tùy thuộc vào cá) tức là chượp đã
chín. Xác định thời điểm chượp chín bằng phương pháp hóa học và cảm quan
(phương pháp nhiệt hoặc phương pháp chấn động). Khi chượp chín (sau 4-7
tháng tùy thuộc vào mùa hè, mùa đông), tiến hành kéo rút nước mắm. Nước
mắm thành phẩm thu được có hương vị thơm ngon, đặc mùi mắm, trong, màu
sắc vàng đẹp, nếm có vị ngọt hậu ở cuống lưỡi.
Trong quá trình muối cá, chượp xấu, chượp tốt, chín nhanh hay chín
chậm, ngoài ảnh hưởng của phẩm chất cá ra còn tùy thuộc vào sự chăm sóc,
đánh khuấy của công nhân, vào thời tiết, mùa vụ và cách muối cá… Cá cho
muối đúng liều lượng, đúng kỳ hạn, chăm sóc đánh khuấy hàng ngày, phơi nắng
được nhiều chượp sẽ tốt và nhanh chín. Ngược lại, muối cho chưa đúng liều
lượng, không đúng kỳ hạn, ít đánh khuấy thì chượp lâu chín và dễ bị hư thối.
Thời tiết cũng ảnh hưởng đến quá trình chín của chượp. Về mùa đông chượp lâu
chín, thường từ 6 – 8 tháng. Về mùa hè chượp nhanh chín, từ 4 – 5 tháng. Bởi
thế trong quá trình chế biến, chượp cần phải được chăm sóc, đánh khuấy, theo
dõi thường xuyên.
Bảng: Đánh giá chất lượng và độ chín ngấu của chượp bằng cảm quan.
Chỉ tiêu Chượp sống Chượp chín tốt Chượp chín không tốt
cảm quan
Thịt cá Còn kết cấu chặt, cơ Tách khỏi xương Hình dáng không còn
thịt còn trương, chượp sống dễ dàng, chìm nguyên vẹn
nổi trên mặt nước và dưới nước
có bọt sủi trên bề mặt
Nước Đục Nổi lên trên cá Nhợt nhạt
Màu sắc Tùy theo từng loại cá Nước vàng rơm hay Nước nhợt nhạt, thịt
màu sắc khác nhau, vàng nâu, thịt đỏ hồng hồng xám hoặc trắng
thịt cá nhợt nhạt
Mùi hương Có mùi tanh của cá Thơm mùi nước mắm Thoang thoảng mùi
nước mắm có lẫn mùi
xác
Vị Xẳng, gắt, tanh Ngọt đạm, mặn Mặn chát
Trạng thái Nước, cái lẫn lộn, cá Nước mắm nổi lên Nhợt nhạt, cá nát ngấu
chưa dập nát nhiều trên, thịt tách khỏi
xương sống dễ dàng
Người ta bố trí thành hệ thống kéo rút liên hoàn, thông thường từ 5-6
thùng, theo sơ đồ sau:
- Lọc trong: cho khoảng 1 -2 kg bã chượp, sau đó cho nước mắm đã lọc
thô ở bước trên vào, khua đều, nước mắm ban đầu chảy ra còn đục sau mới
trong dần. Ta đổ nước mắm còn đục ngược lên rổ (5 -6 lần) cho đến khi nào thấy
nước mắm chảy ra trong thì bắt đầu lấy thành phẩm, lọc như vậy đến khi hết
nước mắm trong rổ thì thôi.
Giặt vải lọc trong 1 thùng nước muối, sau đó giặt lại bằng nước lã, phơi
khô để sử dụng cho lần sau.
Chú ý: Trường hợp không cho bã chượp thì tất cả các vải lọc trước khi
tiến hành lọc phải phết 1 lớp sơn cá (thịt cá nhuyễn của chượp chín) để đảm bảo
độ trong cho nước mắm.
+ Bã 1 và lọc lần 1
-Bã còn lại trên vải lọc sau khi lọc nước mắm cốt gọi là bã 1
- Bã 1 khi trút từ vải lọc ra được chứa trong dụng cụ chứa có sẵn nước
muối chín, sạch, có nồng độ bão hòa 24-25oBe, tỷ lệ nước muối/bã = 1/2,5
- Đánh khuấy cho bã tan đều trong nước muối. Giang phơi và đánh đảo bã
1 và nước muối từ 10 – 15 ngày để các chất dinh dưỡng từ bã 1 hòa tan vào
trong nước rồi tiến hành lọc bằng rổ lọc để thu hồi dịch đạm còn sót.
- Kiểm tra dịch nước mắm chiết ra rồi tiến hành lọc bằng rổ lọc giống như
trên. Nước mắm thu được lúc này gọi là nước mắm chiết 1, bã thu được gọi là
bã 2.
+ Bã 2 và lọc lần 2.
Bã 1 khi trút từ vải lọc ra được chứa trong dụng cụ chứa có sẵn nước
muối chín, sạch, có nồng độ bão hòa 24-26oBe, tỷ lệ nước muối/bã = ½.
Giang phơi và đánh đảo bã 1 và nước muối từ 10 – 15 ngày rồi tiến hành
lọc như các bước trên. Nước trong thu được sau lọc gọi là nước mắm chiết 2,
phần bã còn lại gọi là bã bỏ.
Bã bỏ thường được tận dụng đem bán tươi hoặc phơi khô để làm thức ăn
gia súc hay tưới ruộng, vườn.
Sau khi thu được các loại nước mắm qua các lần rút, ta tiến hành pha đấu
nước mắm để đạt nước mắm có độ đạm tùy theo yêu cầu của nhà sản xuất.
Chú ý: sau mỗi lần náo rút, ta dùng cuốc sạch để xới đảo bã chượp ở trong
thùng làm cho lớp bã khỏi chặt, lù không tắt và lượng đạm rút ra được kiệt hơn.
Bảo quản thực phẩm nhằm ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật, kéo dài
thời gian sử dụng của thực phẩm. Trong chế biến nước mắm, có một số phương
pháp bảo quản nước mắm và nguyên liệu như sau:
* Bảo quản ở nhiệt độ thấp
Làm lạnh: Vi sinh vật gây hư hỏng thực phẩm sinh sản chậm hơn ở nhiệt
độ thấp, do đó việc làm lạnh sẽ kéo dài thời gian sử dụng của thực phẩm. Chúng
ta thường sử dụng phương pháp này để bảo quản cá nguyên liệu
Đông lạnh: Vi sinh vật phát triển chậm ở nhiệt độ , 0oC. Nhiệt độ -18oC
vi sinh vật không phát triển nhưng vẫn tồn tại, vì chúng cần nước để phát triển
nhưng bị cất ở dạng đông lạnh nên nước dưới dạng đá, do vậy thực phẩm có thể
giữ được trong thời gian dài.
* Bảo quản bằng hóa chất
Một số hóa chất gây độc hại, làm bất hoạt vi sinh vật có thể được thêm
vào thực phẩm với một lượng rất nhỏ để kéo dài thời gian sử dụng. Những hóa
chất này có thể gây độc cho người ở liều lượng lớn hơn, vì vậy cần có những
quy định về sử phụ gia thực phẩm. Những nguyên tắc khi sử dụng phụ gia thực
phẩm:
- Sử dụng hóa chất càng ít càng tốt
- Không vượt quá giới hạn cho phép
- Tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định
- Đảm bảo hóa chất được trộn đều trong sản phẩm
- Bảo quản hóa chất trong điều kiện vệ sinh
- Chỉ sử dụng những loại hóa chất dành cho thực phẩm. Hóa chất công
nghiệp là không tinh khiết.
- Chỉ sử dụng những hóa chất được cho phép
Natri (kali) benzoat: có dạng bột màu trắng và tác động có hiệu quả đến
nấm men hơn là nấm mốc. Nồng độ giới hạn sử dụng là 1000 ppm (0,1%) và
nhìn chung đây là chất bảo quản tốt. Nồng độ sử dụng đối với nước mắm là
0,03-0,07%.
Natri (kali) sorbet: là chất bột màu trắng và có tác dụng ức chế hoạt động
của nấm men, nấm mốc và vi khuẩn. Chúng tác dụng hiệu quả trên dải pH rộng.
Nồng độ sử dụng trong nước mắm là 0,03-0,08%.
* Bảo quản bằng sự phối trộn thêm các thành phần trong nguyên liệu
Muối: Là cách có thể sử dụng để chế biến nước mắm. Ở nồng độ muối
cao, các tế bào vi khuẩn bị co và khô lại. Vi sinh vật chỉ có thể phát triển rất
chậm trên những thực phẩm mặn. Ở nồng độ lớn hơn 16%, vi sinh vật không thể
phát triển được.
* Đóng chai
Sau khi pha đấu nước mắm để đạt được nước mắm thành phẩm có độ đạm
theo yêu cầu, tiến hành đóng chai. Tùy theo nhu cầu sản xuất có thể đóng chai
với kích cỡ khác nhau, từ 0,5 đến 1 lít. Tốt nhất là nước mắm nên được đóng
trong chai thủy tinh, chai nhựa PET. Quá trình chiết nước mắm vào chai đến giai
đoạn đóng gói bao bì phải được kiểm soát và theo dõi chặt chẽ.
+ Chu trình kiểm soát quá trình chế biến
So sánh
1. Chượp chua
- Hiện tượng: chượp bốc mùi chua, màu xám đượm mùi tanh hôi khó
chịu.
- Nguyên nhân
+ Chua vì mặn đầu: do lượng muối lúc đầu quá nhiều, lượng muối này
ngấm vào lớp thịt cá phía bên ngoài, bên trong và nội tạng chưa kịp ngấm muối
làm cho thịt cá bị nhạt muối, xảy ra quá trình phân giải sinh ra nhiều acid bay
hơi phức tạp như: glycogen, glucose bị phân giải yếm khí tạo ra acid lactic.Các
chất này phân giải hiếu khí tạo acid acetic, acid butyric. Ngoài ra các chất béo bị
thủy phân tạo glycerin và acid béo hoặc chất đạm khử amin thành acid béo.
+ Chua vì nhạt đầu: cá nhạt muối không đủ sức kiềm hãm sự phát triển
của vi sinh vật, phân giải tạo nhiều acid bay hơi phức tạp làm phát sinh mùi
chua, tanh thối nhanh chóng chuyển sang hư thối.
- Cách phòng chữa
+ Cần phải cho muối đều và đủ.
+ Náo đảo, phơi nắng và kéo rút qua bã chượp tốt.
+ Dùng rượu chuyển các acid sang dạng ester có mùi thơm hoặc trung hòa
bằng NaHCO3.
+ Dùng thính để hấp phụ mùi.
+ Chua vì mặn đầu tiến hành cho thêm nước lã vào trong chượp và tiến
hành chế biến chượp tiếp theo.
2. Chượp đen
- Hiện tượng: nước bị xám đen, cá nhợt nhạt và ở mức độ cao hơn nữa là
cá bị đen.
- Nguyên nhân
+ Do cá có bùn đất tạp chất không những ở mang, nhớt bên ngoài mà
ngay ở nội tạng của cá.
+ Do các sắc tố có trong da, thịt và nội tạng của cá như: Lutein,
astaxanthin, taraxantin và những dẫn xuất khác như: sepiamelanin có trong mực.
+ Do sự phân hủy của các chất khác.
+ Do trộn muối không đều gây ngưng tụ nhóm amin và nhóm aldehyde.
Chủ yếu do muối quá nhạt hoặc sau khi cá đòi muối ta không kịp thời cho
muối vào. Khi đó các vi sinh vật hoạt động phân hủy các chất có đạm chủ yếu là
các acid amin thành các sản vật cấp thấp làm cho chượp bị thối.
Vd:
Bảng 1: Yêu cầu cảm quan của nước mắm (theo TCVN 5107 : 2003)