You are on page 1of 9

Quyền về lối đi qua là một trong những quyền đối với bất động

sản liền kề và là một quyền năng đặc biệt quan trọng. Thực tế, bất kì
chủ thể nào cũng có nhu cầu sử dụng lối đi để thông thương ra đường
công cộng, phục vụ cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, quyền yêu cầu mở lối
của chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc khi không có hoặc không đủ lối
đi là một quyền dân sự rất thiết thực của người dân. Việc ghi nhận
quyền này thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, đề cao tình
làng nghĩa xóm theo tinh thần của dân tộc Việt Nam, đồng thời đảm
bảo cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền và
chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền.
BLDS 2015 đã có những sự thay đổi rõ rệt và tiến bộ về quy định
quyền đối với bất động sản liền kề, trong đó có quyền về lối đi. Hiện
nay các vụ án về liên quan đến lối đi trên bất động sản liền kề ngày
càng có xu hướng tăng vì nhu cầu sử dụng đất tăng lên trong khi diện
tích đất không đổi và các chủ sở hữu bất động sản có quan điểm khác
nhau, không tự thỏa thuận được khi một số quy định của BLDS chưa
quy định cụ thể. Để giải quyết các vụ án dân sự nói chung và vụ án về
mở lối đi trên bất động sản liền kề nói riêng, các Thẩm phán phải căn
cứ trên hồ sơ vụ án, nói cách khác là tập hợp các tài liệu, chứng cứ
được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà
án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng
dân sự quy định. Do đó việc xây dựng hồ sơ vụ án, xác minh thu thập
chứng cứ là nhiệm vụ hết sức quan trọng không thể thiếu được của
Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Căn cứ trên chứng
cứ thu thập được Thẩm phán có nhiệm vụ đánh giá toàn bộ chứng cứ
để giải quyết đúng đắn vụ án. Việc đánh giá chứng cứ có đúng đắn,
khách quan và toàn diện phụ thuộc vào việc thu thập chứng cứ có đầy
đủ, chính xác và đúng pháp luật.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc thu thập, đánh giá chứng cứ
trong vụ án dân sự và thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp về mở lối đi
trên bất động sản liền kề. Trong phạm vi bài viết này tác giả tập trung
đưa ra những “Kỹ năng xác minh, thu thập, đánh giá chứng cứ trong vụ
án tranh chấp về mở lối đi trên bất động sản liền kề”.
1 Khái niệm về chứng cứ và xác minh, thu thập, đánh giá chứng
cứ trong vụ án dân sự
Theo từ điển Tiếng Việt. Chứng cứ là: “Cái được dẫn ra để làm
căn cứ xác định điều gì đó là có thật” 1. Theo quy định tại Điều 93
BLTTDS năm 2015 quy định về chứng cứ trong vụ việc dân sự như
sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự, cơ quan tổ chức , cá nhân khác giao nộp, xuất trình tự cho Tòa án
trong quá trình tố tụng và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định
các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Từ khái niệm trên có thể khẳng định, chứng cứ trong tố tụng dân
sự phải bảo đảm 03 thuộc tính là tính khách quan (là những gì có thật);
1
Trang 192. Cuốn Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học – Nhà xuất bản Đà Nẵng, xuất bản năm 2002

1
tính liên quan (được dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản
đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự) và
tính hợp pháp (được giao nộp hoặc thu thập theo trình tự, thủ tục do
BLTTDS quy định). Như vậy, những gì được xác định là chứng cứ thì
chúng phải đảm bảo 03 thuộc tính của chứng cứ được nêu trên.
Về hoạt động thu thập chứng cứ, theo Từ điển tiếng Việt, thu thập
là "góp nhặt và tập hợp lại”. Cho nên, có thể hiểu “Thu thập chứng cứ là
việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân
sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự”.
Xác minh chứng cứ là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ do
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm kiểm tra, xác định tính
khách quan, xác thực tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ.
2 Khái niệm về bất động sản liền kề
Mặc dù BLDS không quy định một khái niệm cụ thể về bất động
sản liền kề, thế nhưng, theo từ điển Tiếng Việt phổ thông: “liền” là “Ở
kề, sát ngay, không cách”; “kề” là “Ở vào hoặc làm cho vị trí rất gần,
không còn hoặc coi như không có khoảng cách”. Tức là những bất
động sản ở ngay cạnh bên nhau có chung với nhau một ranh giới. Bất
động sản liền kề có thể được hiểu là những bất động sản có chung
nhau ranh giới. Theo cách định nghĩa của thuật ngữ pháp lý phổ thông,
đất liền kề là: “Khu đất liền nhau, tiếp nối nhau với khu đất đã được xác
định”.
Như vậy, bất động sản liền kề “được hiểu là bất động sản có sự
tiếp giáp nhau về ranh giới giữa các bất động sản”. Phải xác định được
bất động sản liền kề mới biết được bất động sản phải hạn chế quyền
để phục vụ cho một bất động sản khác.
Tuy nhiên, yếu tố liền kề không nên được hiểu theo một cách
máy móc, rập khuôn, “liền kề” được hiểu là bất động sản có chung ranh
giới như cách hiểu nêu trên. Bởi lẽ, trong quá trình khai thác, sử dụng
bất động sản bị vây bọc không chỉ cần đến sự nhượng quyền của bất
động sản có chung ranh giới mà còn có cả những bất động sản khác.
Đó là những bất động sản tiếp nối với bất động sản liền kề. Chúng ta
nhận thấy rằng, để một bất động sản bị vây bọc có thể thông thương
với đường công cộng cần phải có một lối đi. Lối đi này có thể không chỉ
đi xuyên qua một mà còn có thể qua nhiều bất động sản của nhiều chủ
sở hữu khác nhau. Trong khi đó, bất động sản bị vây bọc chỉ giáp ranh
với một bất động sản. Nghĩa là, sẽ có những bất động sản không liền
kề, nhưng vẫn phải hạn chế quyền để tạo lập lối đi. Bởi vì, từ bất động
sản bị vây bọc để có thể đi ra đến đường công cộng nhất thiết phải đi
qua những bất động sản này. Nếu quyền về lối đi chỉ được áp dụng
trên bất động sản liền kề thì sẽ gây ra khó khăn, bất cập, dẫn đến việc
áp dụng pháp luật không thống nhất trong thực tiễn. Thậm chí còn có
rất nhiều vụ án mà đồng nguyên đơn khởi kiện mở lối đi nhưng thực
chất không phải tất cả các nguyên đơn và bị đơn đều có bất động sản
liền kề. Nhưng khi xét xử Tòa án mặc nhiên xem như đủ điều kiện để

2
cho phép mở lối đi. Vì vậy thông qua thực tiễn xét xử, Tòa án đã “mở
rộng” thêm cách hiểu về yếu tố “liền kề”, đó là ngoài bất động sản liền
kề, trong quá trình sử dụng bất động sản bị vây bọc còn tác động lên
những bất động sản khác chính là những bất động sản xung quanh.
3 Những vấn đề về xác minh, thu thập, đánh giá chứng cứ trong
vụ án dân sự tranh chấp về mở lối đi trên bất động sản liền kề
3.1 Xác định chứng cứ cần phải thu thập
Xuất phát từ sự đa dạng và phức tạp của các tranh chấp dân
sự nên vấn đề cần chứng minh trong mỗi vụ tranh chấp là khác nhau.
Việc xác định vấn đề nào cần chứng minh và các chứng cứ liên quan
cần thiết phải thu thập sẽ phải căn cứ từ quy định pháp luật tương ứng
điều chỉnh vụ việc đó. Đối với các vụ án tranh chấp về mở lối đi trên bất
động sản liền kề, cần phải tìm hiểu các thông tin về điều kiện áp dụng
quyền về lối đi, căn cứ xác lập và chấm dứt về quyền lối đi, cụ thể như
sau:
* Điều kiện áp dụng quyền về lối đi
Theo Điều 254 BLDS 2015 về điều kiện được mở lối đi, trước
tiên là bất động sản phải bị vây bọc. BLDS 2015 không có giải thích
như thế nào là bị vây bọc. Tuy nhiên, ta có thể hiểu một bất động sản bị
vây bọc nghĩa là bị bao bọc bởi một hoặc nhiều bất động sản xung
quanh dẫn đến việc không thể trực tiếp thông thương với đường công
cộng hoặc lối thông thương quá nhỏ dẫn đến việc khai thác, sử dụng
bất động sản bị hạn chế.
Điều kiện thứ hai là không có hoặc không đủ lối đi ra đường công
cộng. Không có lối đi nghĩa là không có bất cứ một lối đi nào, chủ sở
hữu sẽ không thể thông thương với đường công cộng cũng như không
thể khai thác, sử dụng bất động sản của mình; không đủ lối đi nghĩa là
thực tế vẫn có lối đi nhưng do lối đi quá hẹp hoặc quá ngắn không đủ
để chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc có thể đi ra đến đường công
cộng, việc khai thác, sử dụng bất động sản bị hạn chế. Như vậy, trong
trường hợp chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc hoàn toàn dẫn đến
không có lối đi hoặc có lối đi nhưng không đủ gây khó khăn trong việc
khai thác, sử dụng bất động sản của mình thì có quyền yêu cầu chủ sở
hữu bất động sản vây bọc mở cho mình một lối đi.
Lối đi được mở phải thuận tiện và hợp lý. Việc mở lối đi phải xem
xét kĩ lưỡng điều kiện này để hạn chế thiệt hại đến mức thấp nhất cho
chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền. Khi mở lối đi phải tính đến
vị trí địa lý và đặc điểm của vị trí đó, lợi ích của bất động sản bị vây bọc
và khả năng gây thiệt hại cho bất động sản vây bọc. Lối đi phải được
mở như thế nào? Bên trái hay bên phải, phía ngoài hay phía trong, đi
thẳng hay đi vòng, chiều dài, chiều rộng, chiều cao là bao nhiêu, những
vấn đề này phải được các bên tính toán kĩ lưỡng, cụ thể và sau đó thỏa
thuận với nhau, đảm bảo cân bằng lợi ích và hài hòa trong mối quan hệ
giữa các chủ thể. BLDS 2015 chỉ quy định vị trí, giới hạn chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận
tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên, chứ không quy định

3
cụ thể như thế nào là thuận tiện và hợp lý? Lối đi được mở để phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày hay lối đi vừa phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hằng ngày vừa phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh?
Về vấn đề đền bù, chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền phải
đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Đứng trên phương diện là chủ sở hữu thì chủ
sở hữu chịu hưởng quyền có toàn quyền khai thác và sử dụng đối với
bất động sản của mình, tuy nhiên vì phải dành cho chủ sở hữu bất
động sản hưởng quyền một lối đi nên quyền khai thác, sử dụng bất
động sản của họ bị hạn chế. Theo quy định của BLDS 2015 thì đền bù
không phải là điều kiện mở lối đi mà chỉ là hệ quả của việc mở lối đi.
Việc chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền đền bù cho chủ sở hữu bất
động sản chịu hưởng quyền mang ý nghĩa hỗ trợ vật chất vì quyền sở
hữu bất động sản bị hạn chế.
Trường hợp bất động sản được phân chia do thừa kế, tặng cho,
mua bán… cho nhiều chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì họ phải
dành một lối đi cho người phía trong. Tuy nhiên có hai trường hợp: (1)
Sau khi phân chia vẫn còn diện tích để dành một lối đi; (2) Sau khi phân
chia không còn diện tích đất để mở lối đi, theo quy định của luật, lối đi
phải mở được xác định là đối với các bất động sản có cùng nguồn gốc,
như vậy, đối với các bất động sản liền kề khác thì như thế nào? Đối với
trường hợp này, nếu diện tích của các bất động sản được phân chia
quá nhỏ, không thể khai thác và sử dụng để mở lối đi thì có thể yêu cầu
mở lối đi qua các bất động sản liền kề khác hay không?
* Căn cứ xác lập quyền về lối đi
Quyền về lối đi là một trong những quyền đối với bất động sản
liền kề, nên căn cứ xác lập được quy định tại Điều 246 BLDS 2015 là
do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo di
chúc.
Vấn đề xác lập theo quy định của luật, tại khoản 1 Điều 254
BLDS 2015 có quy định “chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các
bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối
đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây
bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ”. Điều này
nghĩa là chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc khi họ không có hoặc
không đủ lối đi ra đường công cộng có quyền yêu cầu được mở lối đi,
quyền này được xác lập trực tiếp theo quy định của luật.
Vấn đề xác lập theo thỏa thuận, luật cho phép chủ sở hữu bất
động sản bị vây bọc có quyền yêu cầu được mở lối đi, tuy nhiên mở lối
đi như thế nào, về vị trí, giới hạn chiều dài, chiều cao, chiều rộng của lối
đi thì phải do các bên thỏa thuận, chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc
không có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc mở lối đi
theo ý muốn của mình. Nếu các bên có tranh chấp thì có quyền yêu cầu
Tòa án hoặc cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền khác xác định.
Vấn đề xác lập theo di chúc. Di chúc là sự thể hiện ý chí đơn
phương của cá nhân. Nếu chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc để lại di

4
chúc thể hiện nội dung để cho người thừa kế của họ được hưởng
quyền về lối đi thì chủ sở hữu bất động sản vây bọc phải tôn trọng
quyền này của người thừa kế. Như vậy, quyền về lối đi của người thừa
kế đương nhiên được xác lập theo di chúc trong trường hợp này.
*. Căn cứ chấm dứt quyền về lối đi
Căn cứ chấm dứt quyền về lối đi được quy định tại Điều 256
BLDS 2015, đó là: (1) Trường hợp chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc
và bất động sản vây bọc là cùng một người; (2) Việc sử dụng, khai thác
lối đi không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền của chủ sở hữu
bất động sản bị vây bọc; (3) Theo thỏa thuận của các bên; (4) Trường
hợp khác theo quy định của luật.
* Hiệu lực của quyền về lối đi
Điều 247 BLDS 2015 quy định quyền về lối đi có hiệu lực đối với
mọi cá nhân, pháp nhân, và được chuyển giao khi bất động sản được
chuyển giao, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Theo đó,
mọi cá nhân, pháp nhân đều phải tôn trọng quyền về lối đi của chủ sở
hữu bất động sản bị vây bọc. Đồng thời, khi chủ sở hữu bất động sản bị
vây bọc có quyền về lối đi chuyển giao bất động sản của mình cho chủ
thể khác thì cũng phải chuyển giao cả quyền về lối đi cho chủ thể đó. Ví
dụ: A là chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc, có quyền về lối đi qua bất
động sản của B. Sau đó, A chuyển nhượng bất động sản của mình cho
C, đồng thời sẽ phải chuyển giao luôn quyền về lối đi cho C. Và B có
nghĩa vụ phải tôn trọng quyền về lối đi của C.
3.2 Việc thực hiện thu thập chứng cứ
Trong tố tụng dân sự, việc thu thập và cung cấp chứng cứ cho
Tòa án là nghĩa vụ chính của đương sự, do đương sự tự mình thực
hiện. Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng trong trường hợp
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu,
chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được, hoặc khi thấy cần
thiết cho việc giải quyết vụ án.
Theo nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều 6 BLTTDS thì
"Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định” và khoản 2 Điều 97 BLDS quy đinh xác
minh, thu thập chứng cứ như sau: “ 2. Trong các trường hợp do Bộ luật
này quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau
đây để thu thập tài liệu, chứng cứ: a) Lấy lời khai của đương sự, người
làm chứng; b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự
với người làm chứng; c) Trưng cầu giám định; d) Định giá tài sản; đ)
Xem xét, thẩm định tại chỗ; e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu,
chứng cứ; g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự; h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương
sự tại nơi cư trú; i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.”
Khi Thẩm phán thực hiện một hoặc một số biện pháp thu thập
chứng cứ cần nắm vững nguyên tắc được quy định trong BLTTDS, đó
là, thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự vừa là nghĩa vụ của

5
đương sự vừa là trách nhiệm của Tòa án. BLTTDS quy định đương sự
có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu
hoặc phản đối yêu cầu. Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi
đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập
được và có yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập. Với quy định này,
BLTTDS quy nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự và
giảm được những công việc cho Thẩm phán. Đồng thời bảo đảm được
tính minh bạch, khách quan, tránh việc Thẩm phán lạm dụng biện pháp
thu thập chứng cứ để thu thập chứng cứ có lợi cho một trong các bên
đương sự, từ đó ra phán quyết không đúng với bản chất của vụ án
đang giải quyết, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, Thẩm phán có thẩm quyền giải quyết vụ
án bằng tất cả các biện pháp thích hợp của mình. Từ đó, thẩm phán
quyết định phạm vi tài liệu, chứng cứ của vụ án, và biện pháp thu thập
chứng cứ.
Áp dụng được biện pháp thu thập chứng cứ nào cần thiết, phù
hợp, Thẩm phán cần xác định được hệ thống chứng cứ của vụ án (có
thể gọi là phát hiện chứng cứ). Căn cứ vào đối tượng chứng minh và
quy định của pháp luật nội dung để phát hiện hệ thống chứng cứ của vụ
án. Đối tượng chứng minh trong vụ án dân sự rất phức tạp, đặc biệt đối
với vụ án có nhiều đương sự, có nhiều loại yêu cầu, nhiều quan hệ
pháp luật tranh chấp. Sau khi xác định được hệ thống chứng cứ, Thẩm
phán phải có khả năng xác định được các chứng cứ cần thu thập bổ
sung. Xác định được các chứng cứ cần thu thập bổ sung cần lưu ý quy
định của BLTTDS về các tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
trong vụ án. Các chứng cứ cần thu thập bổ sung đang được cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào quản lý, lưu giữ và bằng cách nào để thu thập
chúng. Trong chuỗi các hoạt động đó thì việc xác định chứng cứ là hoạt
động đầu tiên có vai trò quan trọng, bởi chỉ có thể thu thập được chứng
cứ khi xác định được nó. Tùy thuộc từng loại tranh chấp, tính chất, bối
cảnh của từng vụ án mà Thẩm phán quyết định áp dụng từng biện pháp
hay tổng hợp nhiều biện pháp thu thập chứng cứ cũng như xác định
thời hạn phù hợp cho quá trình thu thập chứng cứ đó. Đây là hoạt động
tư duy của Thẩm phán, phản ánh năng lực của người Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự.
Để áp dụng có hiệu quả các biện pháp thu thập chứng cứ, Thẩm
phán cần phải thực hiện khoa học các hoạt động chuẩn bị cho việc thu
thập chứng cứ, đó chính là sắp xếp tài liệu, chứng cứ theo tệp hồ sơ
một cách hệ thống và tiến hành nghiên cứu, xác định các nội dung
như:
- Xác định yêu cầu và phạm vi yêu cầu (yêu cầu khởi kiện, phản
tố, độc lập) và căn cứ đưa ra yêu cầu của các đương sự, quan điểm và
căn cứ của bên đương sự kia.
- Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án.
- Tư cách đương sự.

6
- Các vấn đề cần phải chứng minh của vụ án, đặc biệt là các tình
tiết, sự kiện mới xuất hiện, điểm mấu chốt nào cần làm rõ để có thể giải
quyết được vụ án.
- Nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự.
- Các vấn đề đã chứng minh được, vấn đề chưa chứng minh
được và các chứng cứ cần thu thập bổ sung để hoàn thiện hồ sơ vụ án.
- Văn bản quy phạm pháp luật áp dụng.
Sau khi xác định được chính xác, đầy đủ các nội dung trên để
việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ phù hợp, Thẩm phán
cần tiến hành các công việc sau:
- Tạo điều kiện cho các bên đương sự được biết chứng cứ do
đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập để họ có thể trả lời
về các chứng cứ đó (được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng
cứ).
- Tạo điều kiện để các bên thống nhất về các tình tiết của vụ án.
- Xác định danh mục các tình tiết mà các bên còn tranh chấp.
Thực hiện tốt các công việc chuẩn bị cho việc thu thập chứng cứ,
sẽ tạo tiền đề và hiệu quả cho hoạt động áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ của Thẩm phán. BLTTDS quy định Tòa án tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định.
Thủ tục thu thập chứng cứ được quy định cụ thể từ các Điều 98 đến
105 và các điều luật tương ứng khác của BLTTDS. Thẩm phán được tự
mình tiến hành một hoặc một số biện pháp sau để thu thập chứng
cứ: lấy lời khai của đương sự; lấy lời khai người làm chứng khi xét thấy
cần thiết; đối chất khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các
đương sự, người làm chứng xem xét thẩm định tại chỗ; định giá tài sản
trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế hoặc giảm mức đóng án phí; ủy thác thu thập chứng cứ, xác minh
tài liệu, chứng cứ Luật còn quy định điều kiện để Thẩm phán được tiến
hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ khi đương sự
không thể tự mình thu thập được và có yêu cầu như: lấy lời khai người
làm chứng; đối chất; trưng cầu giám định; định giá tài sản, yêu
cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá; yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
Trong quá trình xây dựng hồ sơ vụ án, nếu có yêu cầu áp dụng,
thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự,
Thẩm phán phải xem xét các căn cứ của yêu cầu đồng thời còn phải
thu thập các chứng cứ chứng minh để từ đó quyết định chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu. Trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung,
hủy bỏ Biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được thực hiện theo đúng
quy định của BLTTDS.
Hoạt động xây dựng hồ sơ vụ án đòi hỏi thẩm phán phải giải
quyết tất cả các vấn đề, các tình huống xảy ra liên quan đến vụ án. Việc
xuất hiện các tình huống về tố tụng hay nội dung có thể dẫn đến các
quyết định tố tụng hoặc hành vi tố tụng, đòi hỏi Thẩm phán phải xử lý

7
linh hoạt nhưng chuẩn xác, đúng pháp luật, bảo đảm được các nguyên
tắc của BLTDS.
3.3 Việc sử dụng, đánh giá chứng cứ
Trong trường hợp đã thu thập được chứng cứ thì việc sử dụng
các chứng cứ đó một cách có hiệu quả, đòi hỏi người tiến hành tố tụng
phải có những kỹ năng nhất định về phân tích, lập luận vấn đề pháp lý.
Căn cứ quy định tại Điều 108 BLTTDS, việc đánh giá chứng cứ phải
khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác và Tòa án phải đánh giá
từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp
pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể như thế nào là “lối đi
thuận tiện, hợp lý” và “lối đi không đủ”, tạo cơ sở để các bên thỏa thuận
được với nhau về giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi,
hạn chế phát sinh tranh chấp hoặc nếu có tranh chấp xảy ra thì Thẩm
phán cũng có đủ căn cứ pháp lý để xác định theo yêu cầu của đương
sự, tránh trường hợp xác định theo ý chí chủ quan, ảnh hưởng đến
quyền sở hữu của các bên. Đồng thời, cần quy định cụ thể căn cứ xác
định lối đi không đủ cho từng khu vực: thành thị và nông thôn, đồng
bằng và miền núi.
Thứ hai, cần quy định cụ thể phương thức đền bù, mức đền bù,
thời hạn đền bù và chế tài nếu không thực hiện việc đền bù. Về
phương thức đền bù, có thể đền bù bằng tiền hay bằng hiện vật. Về
thời hạn đền bù, tác giả kiến nghị quy định sau khi mở lối đi thì chủ sở
hữu bất động sản hưởng quyền sẽ đền bù cho chủ sở hữu bất động
sản chịu hưởng quyền, tránh tình trạng đền bù trước nhưng sau đó lối
đi lại không được mở. Về chế tài, nên quy định những chế tài cụ thể để
áp dụng trong trường hợp chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền
không thực hiện đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng
quyền, nhằm ràng buộc nghĩa vụ của chủ sở hữu bất động sản hưởng
quyền và có cơ sở xử lý khi họ không đền bù, bảo đảm quyền lợi của
bên có bất động sản chịu hưởng quyền.
Thứ ba, cần quy định cụ thể thời hạn hợp lý mà chủ sở hữu bất
động sản chịu hưởng quyền phải thông báo cho chủ sở hữu bất động
sản hưởng quyền trong trường hợp có thay đổi về việc thực hiện quyền
là trong khoảng thời gian bao lâu, bằng một con số cụ thể để nâng cao
trách nhiệm của bên có bất động sản chịu hưởng quyền và tạo điều
kiện thuận lợi cho bên có bất động sản hưởng quyền tìm cách thức
thay thế, đảm bảo việc thực hiện quyền được liên tục.
Thứ tư, cần quy định cụ thể chế tài về trách nhiệm của chủ sở
hữu bất động sản chịu hưởng quyền trong trường hợp không thông báo
trước cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền nếu có thay đổi về
việc thực hiện quyền, nhằm tăng khả năng thi hành của quy định này.
- Cần phải nâng cao hơn nữa năng lực xét xử của Thẩm phán
bởi lẽ trong khi chờ đợi hướng dẫn của pháp luật đối với các vướng
mắc nêu trên. Một khi thực tế phát sinh tranh chấp liên quan đến những

8
vấn đề này, đặt ra yêu cầu rất lớn cho các Thẩm phán trực tiếp tham
gia xét xử những tranh chấp quyền về lối đi qua đó chính là cần phải
giải thích, lập luận cũng như đánh giá đúng, chính xác về những vấn đề
nêu trên để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp.
5. Kết luận:
Quyền về lối đi qua là một quyền năng đặc biệt quan trọng. Thực
tế, bất kì chủ thể nào cũng có nhu cầu sử dụng lối đi để thông thương
ra đường công cộng, phục vụ cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, quyền yêu
cầu mở lối của chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc khi không có hoặc
không đủ lối đi là một quyền dân sự rất thiết thực của người dân. BLDS
2015 đã có những sự thay đổi rõ rệt và tiến bộ về quy định quyền đối
với bất động sản liền kề, trong đó có quyền về lối đi. Tuy nhiên, vẫn có
một số điểm bất cập còn tồn tại, gây khó khăn cho các bên chủ thể
cũng như việc xử lý, giải quyết tranh chấp trên thực tế của Tòa án và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Vì vậy, những vấn đề bất
cập cần được sửa đổi bằng những quy định cụ thể hơn để khắc phục
những vướng mắc nhằm có những hướng giải quyết thấu đáo cho các
tranh chấp phát sinh.

You might also like