Professional Documents
Culture Documents
Tay Tien - Qdung
Tay Tien - Qdung
Quang Dũng
I. Kiến thức cơ bản
II. Một số đề vận dụng
Đề 1: Phân tích đoạn thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
BÀI LÀM
* Mở bài
Mỗi con người trong cuộc đời mình đều có một thời để nhớ, để thương. Với QD, những năm tháng
chiến đấu nơi núi rừng TB gian khổ nhưng vinh quang đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong niềm
thương nhớ của nhà thơ. Nhớ về TB, về một thời Tây Tiến, ngòi bút tài hoa qua tâm hồn lãng mạn của QD đã
viết lên một bài thơ hay, xứng đáng làm một bài ca không bao giờ quên về người lính, về cuộc k/c chống
Pháp hào hùng: bài “Tây Tiến”. Đoạn một bài thơ đã khái quát những đặc sắc về ND và NT của TP: BTTN
hùng vĩ, thơ mộng và h/ả người c/sĩ Tây Tiến dũng cảm, hào hoa qua ngòi bút lãng mạn của nhà thơ.
* Thân bài
- Khái quát ngắn gọn h/c s/tác
Đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên, HSSV Hà Nội trẻ trung,
hào hoa, lãng mạn, Quang Dũng từng là một đại đội trưởng của đoàn quân. Địa bàn hoạt/đ chủ yếu ở TBắc –
Lào, đây là vùng rừng núi hiểm trở, hùng vĩ nhưng cũng rất đẹp, nên thơ. Bthơ được stác vào năm 1948, khi
nthơ Quang Dũng rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ/n gắn bó một thời với Tây Tiến.
1. Hai câu đầu
Bài thơ được mở ra bằng nỗi nhớ trong lòng nhà thơ và vì thế nó được bắt đầu bằng một câu thơ như
một tiếng gọi cất lên từ đáy thẳm trái tim, gợi về một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng đến mức gần như không thể
kìm nén nổi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ về sông Mã, về rừng núi nơi những người lính Tây Tiến từng sống và chiến đấu, thực chất là
nhớ về đoàn quân Tây Tiến.
Cả hai câu thơ đều tạo cảm giác có 1 âm điệu bâng khuâng, thiết tha như tiếng gọi, nó càng tăng thêm
khi nthơ kết thúc bằng vần «ơi». Âm điệu vang vọng từ tiếng lòng đã gợi 1 nỗi nhớ tiếc khôn nguôi: «Tây
Tiến ơi». Nthơ như gọi về một vùng kỉ/n, gọi về những đồng đội đã từng chung ấm lạnh một thời, gọi lại
chính lòng mình.
Nỗi nhớ được gọi bằng tên: «nhớ chơi vơi». Nỗi nhớ k định hình, khó nắm bắt, hình như nó vừa bao la,
vừa rộng dài, lại vừa có chiều sâu, nó là sự tổng hợp của nhiều nỗi nhớ: vừa bâng khuâng, nôn nao, vừa cồn
cào, da diết … Nỗi nhớ k rõ ràng nhưng đầy ắp, lớn lao lúc nào cũng ở trong tâm trí. Điệp từ “ nhớ” càng tô
đậm thêm cảm xúc ấy.
Xưa nay có bao nhiêu áng thơ văn rất hay về nỗi nhớ nhưng nỗi “nhớ chơi vơi” thì hình như là một sáng
tạo độc đáo của QD. “Chơi vơi” là một từ láy, vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Nhưng nó là trạng thái của nỗi nhớ
hay của cảnh vật được nhớ? Nó là cái chông chênh hẫng hụt của kẻ đang phải xa lìa nơi mình gắn bó, hay là
cái chập trùng xa ngái của rừng núi miền Tây? Thật khó tách bạch. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã
trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong một chữa “chơi vơi” ấy. Và vì thế, nỗi nhớ bỗng có hình dáng như
bồng bềnh trong k/g bao la, trong thời gian xa thẳm, bâng khuâng lửng lơ mà lưu luyến vời vợi… gây cho
người đọc một ấn tượng rất thú vị.
2. 10 câu tiếp
Nhớ về rừng núi, về vùng kỉ/n của đoàn quân Tây Tiến, nthơ nhớ về:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Cảnh TN miền TB hiện lên ở những nơi xa lạ với những địa danh rất cụ thể: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu…, những địa danh “rất TBắc”, “rất Lào”. Ở những nơi đó, quanh năm sương
mù phủ dày, phủ lấp cả đoàn quân. Hình ảnh “sương lấp”, “đêm hơi” vừa tả thực, vừa lãng mạn sự khắc
nghiệt của TNTB. Tả về TN nhưng lại giúp cho người đọc thấy sự gian khổ và ý chí vượt khó khăn của
người lính Tây Tiến. Người lính hành quân trong đêm, sương mù che phủ nhưng lại cảm giác đi trong “đêm
hơi”, trong hương rừng. Đây là hai câu thơ mang đậm chất lãng mạn đã làm giảm đi sự khắc nghiệt, chỉ còn
lại là sự thi vị hóa cái đẹp.
Không chỉ có sương mù, nơi ấy còn có núi cao, vực sâu, có mưa rừng và sương núi:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chỉ bằng 4 câu thơ, QD đã vẽ ra một BT hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và
heo hút của núi rừng Tây Bắc. Ngòi bút của QD mô tả chân thực, sinh động đến mức những kỉ niệm về
khung cảnh núi đèo và về chặng đường hành quân cheo leo trên núi cao, bên vực thẳm, trong sương mù cứ
sống dậy trước mắt người đọc. Hàng loạt từ có tính chất tạo hình và các điệp từ điệp ngữ cùng với tiết tấu,
nhịp điệu, âm thanh đặc sắc đã diễn tả rất thành công sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu, heo hút, trùng điệp và độ
cao ngất trời của rừng núi miền Tây Tổ quốc.
Âm điệu của hầu hết các câu thơ trong đoạn thơ đều gấp, được tạo từ thanh trắc, diễn tả ấn tượng về sự
dữ dội của núi rừng Tây Bắc (sương lấp, heo hút, ngàn thước …), chúng bộc lộ vẻ gian nan, hiểm trở cũng
chính là những gian khổ, vất vả mà người lính phải vượt qua. Trong mỗi câu thơ như có cả những hơi thở
gấp, mệt nhọc của người chiến sĩ Tây Tiến trên chặng đường hành quân.
Câu «ngàn thước lên cao ngàn thước xuống»: câu thơ như bẻ làm đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống
gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm, chứa đựng bao hiểm nguy. Những
thách thức, gian lao của những chặng đường hành quân còn như được nhân lên gấp nhiều lần qua cách nói
nhân hoá ngộ nghĩnh, thú vị: «súng ngửi trời». Tất cả đều khiến cho người đọc có thể mường tượng một cách
rõ nét: độ cao. Hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
của núi đèo TB, vừa cho ta thấy sự trẻ trung, tinh nghịch của những người lính Tây Tiến.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây gợi nhớ đến mấy câu thơ trong TP “Chinh phụ ngâm”:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
Còn sự hoang vu, hiểm trở của nó lại gợi nhớ đến câu thơ của Lí Bạch: “Thục đạo chi nan, nan vu
thướng thanh thiên” (Thục đạo nan).
Độ dốc của núi, cái heo hút của con đường hành quân … đã tạo ấn tượng rõ rệt về sự vất vả, gian khó
của người lính trên đường hành quân, ta càng cảm nhận được sự phi thường của họ.
Đang từ những câu thơ trúc trắc, gân guốc, bất chợt đoạn thơ như ngưng lại trong một âm điệu nhẹ
nhàng, mênh mang của một câu thơ toàn vần bằng: «Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi», khiến đoạn thơ như
lắng lại, mênh mang.
Đó là cảnh của những chiều hành quân, dừng chân trên đỉnh núi, người lính Tây Tiến phóng tầm mắt
nhìn ra xa, qua một k/gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng
bềnh trong mây khói mênh mang. Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo cảm giác thoáng đãng, êm ả vừa diễn tả rất tài
tình khoảng k/g bao la cứ trải ra bát ngát trước mắt người lính.
Chỉ 6 câu thơ thôi, miền biên giới phía Tây Tổ q trong cuộc hành quân Tây Tiến được Quang Dũng nhớ
tới sao mà dữ dội, nó ác liệt cũng k kém gì những cuộc chạm trán thực sự với quân thù.
Ngay trong mạch cảm xúc ấy, QD đã nhớ về đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Ở đây, QD đã nhắc tới một sự thật: đó là những hi/s của những người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ của nhà
thơ hướng về những đồng đội đã hi/s trên chặng đường hành quân. Có thương tiếc song không ủy mị, bi thảm
mà chỉ gợi cho ta thấm thía những gian lao vất vả của người lính Tây Tiến bởi cách nói của QD thật nhẹ
nhàng. Người lính ấy không gục ngã xuống mà chỉ là “không bước nữa”, nghỉ ngơi một chút trong một dáng
vẻ hết sức vô tư “bỏ quên đời”.
Chất bi tráng ấy được tăng thêm bởi âm thanh mạnh mẽ, dữ dội của bản hoà tấu «thác gầm thét» và
«cọp trêu người»:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Âm thanh tiếng thác đổ ào ạt, tiếng cọp gầm bí hiểm giữa rừng khuya tạo thành tiếng vọng dữ dội tương
xứng với khu rừng bạt ngàn, sâu thẳm. Khúc trường ca dữ dội khủng khiếp ngàn đời được tấu lên trong mọi
thời gian, kết thành một chuỗi mênh mang vô tận qua “chiều chiều”, “đêm đêm”. Ánh chiều đổ xuống huyền
bí, rồi bóng đêm trùm lên tăng vẻ hoang vu, bí mật. Cái oai linh, cái dữ dội đó tô đậm thêm những gian nan
của người lính TT trên đường hành quân.
3. Hai câu cuối
Hai câu cuối có sự chuyển đổi mạch thơ bất ngờ: từ dữ dội, ý thơ đã trở nên mềm mại, êm dịu trong nỗi
nhớ về một hương vị đặc biệt «hương nếp»:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Từ “nhớ ôi” thật đặc biệt. Không phải là “ôi nhớ” (lối nói cảm thán quen thuộc), không phải “nhớ ôi là
nhớ” (thật thà, khẩu ngữ), cũng không phải là “nhớ ơi” (như tiếng gọi hướng ra ngoài)... “Nhớ ôi” là tiếng
kêu hướng vào mình. Ta nghe rõ trong lời thơ một sự nhớ nhung bất chợt cồn lên, kẻ nhớ không thể cầm lòng
đã vỡ oà ra thành tiếng kêu than. Buột miệng ra mà dư ba, súc tích. Lạ thay là ngôn ngữ thơ! Đoàn binh TT
đã không còn, nhưng nỗi nhớ kia còn gieo được những bồi hồi một thuở vào lòng bao thế hệ, TT cứ sống mãi
trong nỗi nhớ và bằng nỗi nhớ như thế.
Câu thơ sau “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, 6 thanh bằng để nảy một từ «nếp» làm cho câu thơ
đọng lại rất lâu trong tâm tưởng. Bởi “hương nếp” là một thứ hương vị đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, gợi
nhớ ngay tới t/cảm ấm nồng tình nghĩa quân dân. CLViên khi nhớ về mảnh đất miền Tây này cũng viết:
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu)
Câu thơ không chỉ tái hiện kỉ niệm và còn thể hiện đ/s tâm hồn của người lính. Những t/cảm đó là động
lực giúp người lính vượt qua những khó khăn trên chặng đường hành quân.
- Khái quát: Đoạn thơ đầu bao trùm là nỗi nhớ, nỗi nhớ sâu về một vùng đất miền sơn cước đầy những
gian nan, hiểm trở, dữ dội. Nỗi nhớ được thể hiện bằng những hình ảnh tự nhiên, hết sức độc đáo, đặc sắc và
cách bố trí mạch thơ vừa lạ, vừa tự nhiên hài hòa. Tả cảnh TNTB khắc nghiệt, hiểm trở chính là cách để ngợi
ca bản lĩnh, khí phách anh hùng của đoàn quân Tây Tiến.
* Kết luận
Qua BTTN TB hùng vĩ, thơ mộng được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa, QD đã làm sống dậy
một thời chinh chiến gian khổ, khắc họa h/ả người vệ quốc quân dũng cảm, anh hùng trong cuộc k/c chống
Pháp thần thánh của dt. Cùng với toàn bài thơ, đoạn thơ là khúc ca hùng tráng về người lính Tây Tiến, khúc
ca hào hùng của môt thời khói lửa oanh liệt để làm nên chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ