You are on page 1of 17

TÂY TIẾN

Quang Dũng
I. Kiến thức cơ bản
II. Một số đề vận dụng
Đề 1: Phân tích đoạn thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
BÀI LÀM
* Mở bài
Mỗi con người trong cuộc đời mình đều có một thời để nhớ, để thương. Với QD, những năm tháng
chiến đấu nơi núi rừng TB gian khổ nhưng vinh quang đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong niềm
thương nhớ của nhà thơ. Nhớ về TB, về một thời Tây Tiến, ngòi bút tài hoa qua tâm hồn lãng mạn của QD đã
viết lên một bài thơ hay, xứng đáng làm một bài ca không bao giờ quên về người lính, về cuộc k/c chống
Pháp hào hùng: bài “Tây Tiến”. Đoạn một bài thơ đã khái quát những đặc sắc về ND và NT của TP: BTTN
hùng vĩ, thơ mộng và h/ả người c/sĩ Tây Tiến dũng cảm, hào hoa qua ngòi bút lãng mạn của nhà thơ.
* Thân bài
- Khái quát ngắn gọn h/c s/tác
Đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên, HSSV Hà Nội trẻ trung,
hào hoa, lãng mạn, Quang Dũng từng là một đại đội trưởng của đoàn quân. Địa bàn hoạt/đ chủ yếu ở TBắc –
Lào, đây là vùng rừng núi hiểm trở, hùng vĩ nhưng cũng rất đẹp, nên thơ. Bthơ được stác vào năm 1948, khi
nthơ Quang Dũng rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ/n gắn bó một thời với Tây Tiến.
1. Hai câu đầu
Bài thơ được mở ra bằng nỗi nhớ trong lòng nhà thơ và vì thế nó được bắt đầu bằng một câu thơ như
một tiếng gọi cất lên từ đáy thẳm trái tim, gợi về một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng đến mức gần như không thể
kìm nén nổi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ về sông Mã, về rừng núi nơi những người lính Tây Tiến từng sống và chiến đấu, thực chất là
nhớ về đoàn quân Tây Tiến.
Cả hai câu thơ đều tạo cảm giác có 1 âm điệu bâng khuâng, thiết tha như tiếng gọi, nó càng tăng thêm
khi nthơ kết thúc bằng vần «ơi». Âm điệu vang vọng từ tiếng lòng đã gợi 1 nỗi nhớ tiếc khôn nguôi: «Tây
Tiến ơi». Nthơ như gọi về một vùng kỉ/n, gọi về những đồng đội đã từng chung ấm lạnh một thời, gọi lại
chính lòng mình.
Nỗi nhớ được gọi bằng tên: «nhớ chơi vơi». Nỗi nhớ k định hình, khó nắm bắt, hình như nó vừa bao la,
vừa rộng dài, lại vừa có chiều sâu, nó là sự tổng hợp của nhiều nỗi nhớ: vừa bâng khuâng, nôn nao, vừa cồn
cào, da diết … Nỗi nhớ k rõ ràng nhưng đầy ắp, lớn lao lúc nào cũng ở trong tâm trí. Điệp từ “ nhớ” càng tô
đậm thêm cảm xúc ấy.
Xưa nay có bao nhiêu áng thơ văn rất hay về nỗi nhớ nhưng nỗi “nhớ chơi vơi” thì hình như là một sáng
tạo độc đáo của QD. “Chơi vơi” là một từ láy, vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Nhưng nó là trạng thái của nỗi nhớ
hay của cảnh vật được nhớ? Nó là cái chông chênh hẫng hụt của kẻ đang phải xa lìa nơi mình gắn bó, hay là
cái chập trùng xa ngái của rừng núi miền Tây? Thật khó tách bạch. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã
trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong một chữa “chơi vơi” ấy. Và vì thế, nỗi nhớ bỗng có hình dáng như
bồng bềnh trong k/g bao la, trong thời gian xa thẳm, bâng khuâng lửng lơ mà lưu luyến vời vợi… gây cho
người đọc một ấn tượng rất thú vị.
2. 10 câu tiếp
Nhớ về rừng núi, về vùng kỉ/n của đoàn quân Tây Tiến, nthơ nhớ về:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Cảnh TN miền TB hiện lên ở những nơi xa lạ với những địa danh rất cụ thể: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu…, những địa danh “rất TBắc”, “rất Lào”. Ở những nơi đó, quanh năm sương
mù phủ dày, phủ lấp cả đoàn quân. Hình ảnh “sương lấp”, “đêm hơi” vừa tả thực, vừa lãng mạn sự khắc
nghiệt của TNTB. Tả về TN nhưng lại giúp cho người đọc thấy sự gian khổ và ý chí vượt khó khăn của
người lính Tây Tiến. Người lính hành quân trong đêm, sương mù che phủ nhưng lại cảm giác đi trong “đêm
hơi”, trong hương rừng. Đây là hai câu thơ mang đậm chất lãng mạn đã làm giảm đi sự khắc nghiệt, chỉ còn
lại là sự thi vị hóa cái đẹp.
Không chỉ có sương mù, nơi ấy còn có núi cao, vực sâu, có mưa rừng và sương núi:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chỉ bằng 4 câu thơ, QD đã vẽ ra một BT hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và
heo hút của núi rừng Tây Bắc. Ngòi bút của QD mô tả chân thực, sinh động đến mức những kỉ niệm về
khung cảnh núi đèo và về chặng đường hành quân cheo leo trên núi cao, bên vực thẳm, trong sương mù cứ
sống dậy trước mắt người đọc. Hàng loạt từ có tính chất tạo hình và các điệp từ điệp ngữ cùng với tiết tấu,
nhịp điệu, âm thanh đặc sắc đã diễn tả rất thành công sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu, heo hút, trùng điệp và độ
cao ngất trời của rừng núi miền Tây Tổ quốc.
Âm điệu của hầu hết các câu thơ trong đoạn thơ đều gấp, được tạo từ thanh trắc, diễn tả ấn tượng về sự
dữ dội của núi rừng Tây Bắc (sương lấp, heo hút, ngàn thước …), chúng bộc lộ vẻ gian nan, hiểm trở cũng
chính là những gian khổ, vất vả mà người lính phải vượt qua. Trong mỗi câu thơ như có cả những hơi thở
gấp, mệt nhọc của người chiến sĩ Tây Tiến trên chặng đường hành quân.
Câu «ngàn thước lên cao ngàn thước xuống»: câu thơ như bẻ làm đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống
gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm, chứa đựng bao hiểm nguy. Những
thách thức, gian lao của những chặng đường hành quân còn như được nhân lên gấp nhiều lần qua cách nói
nhân hoá ngộ nghĩnh, thú vị: «súng ngửi trời». Tất cả đều khiến cho người đọc có thể mường tượng một cách
rõ nét: độ cao. Hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
của núi đèo TB, vừa cho ta thấy sự trẻ trung, tinh nghịch của những người lính Tây Tiến.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây gợi nhớ đến mấy câu thơ trong TP “Chinh phụ ngâm”:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
Còn sự hoang vu, hiểm trở của nó lại gợi nhớ đến câu thơ của Lí Bạch: “Thục đạo chi nan, nan vu
thướng thanh thiên” (Thục đạo nan).
Độ dốc của núi, cái heo hút của con đường hành quân … đã tạo ấn tượng rõ rệt về sự vất vả, gian khó
của người lính trên đường hành quân, ta càng cảm nhận được sự phi thường của họ.
Đang từ những câu thơ trúc trắc, gân guốc, bất chợt đoạn thơ như ngưng lại trong một âm điệu nhẹ
nhàng, mênh mang của một câu thơ toàn vần bằng: «Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi», khiến đoạn thơ như
lắng lại, mênh mang.
Đó là cảnh của những chiều hành quân, dừng chân trên đỉnh núi, người lính Tây Tiến phóng tầm mắt
nhìn ra xa, qua một k/gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng
bềnh trong mây khói mênh mang. Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo cảm giác thoáng đãng, êm ả vừa diễn tả rất tài
tình khoảng k/g bao la cứ trải ra bát ngát trước mắt người lính.
Chỉ 6 câu thơ thôi, miền biên giới phía Tây Tổ q trong cuộc hành quân Tây Tiến được Quang Dũng nhớ
tới sao mà dữ dội, nó ác liệt cũng k kém gì những cuộc chạm trán thực sự với quân thù.
Ngay trong mạch cảm xúc ấy, QD đã nhớ về đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Ở đây, QD đã nhắc tới một sự thật: đó là những hi/s của những người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ của nhà
thơ hướng về những đồng đội đã hi/s trên chặng đường hành quân. Có thương tiếc song không ủy mị, bi thảm
mà chỉ gợi cho ta thấm thía những gian lao vất vả của người lính Tây Tiến bởi cách nói của QD thật nhẹ
nhàng. Người lính ấy không gục ngã xuống mà chỉ là “không bước nữa”, nghỉ ngơi một chút trong một dáng
vẻ hết sức vô tư “bỏ quên đời”.
Chất bi tráng ấy được tăng thêm bởi âm thanh mạnh mẽ, dữ dội của bản hoà tấu «thác gầm thét» và
«cọp trêu người»:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Âm thanh tiếng thác đổ ào ạt, tiếng cọp gầm bí hiểm giữa rừng khuya tạo thành tiếng vọng dữ dội tương
xứng với khu rừng bạt ngàn, sâu thẳm. Khúc trường ca dữ dội khủng khiếp ngàn đời được tấu lên trong mọi
thời gian, kết thành một chuỗi mênh mang vô tận qua “chiều chiều”, “đêm đêm”. Ánh chiều đổ xuống huyền
bí, rồi bóng đêm trùm lên tăng vẻ hoang vu, bí mật. Cái oai linh, cái dữ dội đó tô đậm thêm những gian nan
của người lính TT trên đường hành quân.
3. Hai câu cuối
Hai câu cuối có sự chuyển đổi mạch thơ bất ngờ: từ dữ dội, ý thơ đã trở nên mềm mại, êm dịu trong nỗi
nhớ về một hương vị đặc biệt «hương nếp»:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Từ “nhớ ôi” thật đặc biệt. Không phải là “ôi nhớ” (lối nói cảm thán quen thuộc), không phải “nhớ ôi là
nhớ” (thật thà, khẩu ngữ), cũng không phải là “nhớ ơi” (như tiếng gọi hướng ra ngoài)... “Nhớ ôi” là tiếng
kêu hướng vào mình. Ta nghe rõ trong lời thơ một sự nhớ nhung bất chợt cồn lên, kẻ nhớ không thể cầm lòng
đã vỡ oà ra thành tiếng kêu than. Buột miệng ra mà dư ba, súc tích. Lạ thay là ngôn ngữ thơ! Đoàn binh TT
đã không còn, nhưng nỗi nhớ kia còn gieo được những bồi hồi một thuở vào lòng bao thế hệ, TT cứ sống mãi
trong nỗi nhớ và bằng nỗi nhớ như thế.
Câu thơ sau “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, 6 thanh bằng để nảy một từ «nếp» làm cho câu thơ
đọng lại rất lâu trong tâm tưởng. Bởi “hương nếp” là một thứ hương vị đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, gợi
nhớ ngay tới t/cảm ấm nồng tình nghĩa quân dân. CLViên khi nhớ về mảnh đất miền Tây này cũng viết:
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu)
Câu thơ không chỉ tái hiện kỉ niệm và còn thể hiện đ/s tâm hồn của người lính. Những t/cảm đó là động
lực giúp người lính vượt qua những khó khăn trên chặng đường hành quân.
- Khái quát: Đoạn thơ đầu bao trùm là nỗi nhớ, nỗi nhớ sâu về một vùng đất miền sơn cước đầy những
gian nan, hiểm trở, dữ dội. Nỗi nhớ được thể hiện bằng những hình ảnh tự nhiên, hết sức độc đáo, đặc sắc và
cách bố trí mạch thơ vừa lạ, vừa tự nhiên hài hòa. Tả cảnh TNTB khắc nghiệt, hiểm trở chính là cách để ngợi
ca bản lĩnh, khí phách anh hùng của đoàn quân Tây Tiến.
* Kết luận
Qua BTTN TB hùng vĩ, thơ mộng được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa, QD đã làm sống dậy
một thời chinh chiến gian khổ, khắc họa h/ả người vệ quốc quân dũng cảm, anh hùng trong cuộc k/c chống
Pháp thần thánh của dt. Cùng với toàn bài thơ, đoạn thơ là khúc ca hùng tráng về người lính Tây Tiến, khúc
ca hào hùng của môt thời khói lửa oanh liệt để làm nên chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
BÀI LÀM
* Mở bài
QD (1921-1988) là một nghệ sĩ nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc và ở lĩnh vực
nào ông cũng có thành tựu đáng kể. Nhưng QD trước hết là một nhà thơ, một hồn thơ tràn trề cảm hứng lãng
mạn. Người đọc có thể bắt gặp trong thơ ông một cái tôi trữ tình hào hoa, thanh lịch, giàu chất mộng mơ,
lãng mạn. Hồn thơ đôn hậu và rất mực hồn nhiên của QD có khả năng cảm nhận và diễn tả một cách tinh tế,
tài hoa vẻ đẹp của TN và của tình người. Bài thơ «Tây Tiến» và đoạn thứ hai của bài thơ hết sức tiêu biểu
cho hồn thơ ấy.
* Thân bài
Bthơ được stác vào năm 1948, khi nthơ Quang Dũng rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ/n gắn bó một
thời với Tây Tiến. TP được chia làm 4 phần. Phần một là hình ảnh TN Tây Bắc vừa hoang sơ, hùng vĩ vừa dữ
dội, khắc nghiệt; phần 2 là vẻ đẹp nên thơ của TN và tình người ây Bắc; phần 3 hình tượng người lính Tây
Tiến; phần 4 là thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Mạch liên kết giữa các đoạn thơ là mạch cảm xúc, tâm
trạng của nthơ. Những kỉ/n liên tục hiện về như những đợt sóng nối tiếp nhau, qua ngòi bút tinh tế và tài hoa
của QD, những kỉ/n ấy thật sống động khiến cho người đọc có cảm tưởng sống cùng nthơ trong những hồi
tưởng ấy.
Đoạn 2 của bài thơ là bức tranh đẹp đầy chất thơ và họa về thiên nhiên, con người Tây Bắc qua sự cảm
nhận của người lính Tây Tiến. Gồm 2 khổ, mỗi khổ tái hiện một vẻ đẹp của TB qua kỉ niệm của nhà thơ: vẻ
đẹp thơ mộng của con văn hóa, con người TB và cảnh thiên nhiên, sông nước TB vừa thực vừa mộng, hoang
vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đoạn thơ vẫn là sự tiếp tục của nỗi nhớ, là sự hồi tưởng của nthơ nhưng nó đã đưa người đọc vào một
TG khác. Không phải là sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc mà là vẻ mĩ lệ, duyên dáng và chất tươi mát của nó.
Người đọc như lạc vào một thế giới của ánh sáng, vũ điệu, âm thanh, một thế giới vừa thực, vừa hư đầy
mộng và thơ.
Khổ một của đoạn thơ miêu tả khung cảnh của doanh trại trong đêm liên hoan văn nghệ rực sáng, tưng
bừng, có sự góp mặt của đồng bào địa phương đến dự. Từ «bừng» thể hiện sự thay đổi đột ngột về ánh sáng,
màu sắc và âm thanh, gợi đến một vẻ đẹp khác lạ so với thường ngày ở doanh trại, khiến ta liên tưởng đến
một ngày hội. Cả doanh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng
lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả
nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Đêm liên hoan hiện lên trong hồi ức QD có nhiều nét lạ, mang đậm màu sắc xứ lạ. Nét lạ từ trang phục
(xiêm áo), nhạc cụ (khèn) đến âm điệu (man điệu) và dáng vẻ (e ấp). Nó lại mang không khí lung linh huyền
ảo của ánh đuốc bập bùng giữa núi rừng Tây Bắc. Trung tâm của BT cảnh ấy là một thiếu nữ dân tộc với
những vũ điệu lạ có một sức cuốn hút đvới người lính. Hai từ «Kìa em» thể hiện cái nhìn vừa ngạc nhiên đến
ngỡ ngàng, vừa say mê, vui sướng trước vẻ đẹp lạ mà tình tứ. Những chữ «xiêm áo», «khèn» «man điệu»…
gợi lên trong ta cảm giác về một vẻ đẹp vừa mới lạ, vừa huyền ảo, xa xôi và có cái gì đó bí ẩn của một khung
cảnh nơi đất lạ, trời xa. Hồn thơ lmạn của QD có lẽ cũng nảy sinh cảm hứng từ chính vẻ đẹp ấy.
Âm thanh của tiếng khèn, tiếng nhạc đưa họ về với chiến thắng nơi Viên Chăn. Họ tưởng đến ngày
chiến thắng, mơ đến tương lai và rạo rực với khao khát được sống trong cảnh thanh bình.
Chỉ bằng 4 câu thơ mà QD đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét, vừa đa
dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ khác thường, QD
không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa, phong tục độc đáo của đồng bào miền núi mà còn
cho ta thấy tình quân dân đằm thắm, keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, k/c gian khổ mà
vẫn vui tươi của người lính Tây Tiến.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất thì cảnh sông nước
TB lại gợi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo. Ở đây một lần nữa càng khẳng định
rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giàu mộng mơ của người lính. TN ở nơi vốn chỉ có “bản sương giăng, đèo mây
phủ”, khi chiều về, vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mù choàng lên như một tấm áo,
khiến cảnh vật như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh TB hiện về trong tâm trí TG làm cho giọng thơ
của ông cất lên như một lời tự hỏi “có nhớ”, “có thấy” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy
lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió, trong cây, chúng như xôn xao
một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Châu Mộc là một nơi rất cao ở Sơn La, nơi quanh năm sương mù bao phủ, gợi một k/g lặng tờ chìm
trong màn sương đem đến cho cảnh vật nơi đây một vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng. Hai thanh trắc đi liền “có
thấy” tạo ra một bước nhấn, góp phần khiến câu thơ trở thành câu hỏi diễn tả tâm trạng của nhà thơ xao
xuyến đến bâng khuâng khi hoài niệm về cảnh chiều sương Châu Mộc.
“Nẻo” là lối đi, đường đi. “Nẻo bến bờ” là khắp mọi nơi, khắp không gian bến sông bờ suối bao trùm.
Cây lau trở thành linh hồn, cảnh sắc của TN Châu Mộc. Câu thơ của QD gợi cho ta nhớ đến những câu thơ
của Chế Lan Viên:
Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới)
Những làn lau trong k/g bạt ngàn, khiến cảnh TB hiện lên hoang sơ như thời tiền sử. Ngòi bút tài hoa
của QD k chỉ tả mà còn gợi. Cảnh vật TN xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn, phảng phất trong gió, trong
cây. Ông k chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của TN mà còn lên cái phần thiêng của cảnh vật.
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính và huyền thoại ấy, hiện lên dáng
đứng đẹp, hiên ngang, hùng dũng của các chàng trai, cô gái Thái trên con thuyền độc mộc lao trên sóng
nước:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đúng là “thi trung hữu họa”. Ngòi bút tinh tế của QD chỉ phác họa một vài nét mà không chỉ gợi được
cái “hồn” của ngàn lau, cái dáng đứng đẹp của người chèo đò, cả cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa”
của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ.
Hai từ “nhớ” và “thấy” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng thật tinh tế. Dường như hồn
thiêng của những bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt TG, còn dáng mềm mại của người chèo thuyền và
bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đn này. Không
có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì không thể bắt rất nhạy cảm những hình ảnh giàu hình sắc của thiên
nhiên như thế.
Những câu thơ như một bức tranh thủy mặc với nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại tài hoa đã truyền
được cái hồn của cảnh vật. Bức tranh về cảnh và con người TB hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm
đắm say lòng người đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta còn thấy được tâm hồn lạc quan yêu đời, lãng mạn, mộng
mơ của TG nói riêng, của người lính Tây Tiến nói chung trong những năm tháng không thể nào quên của
cuộc k/c chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.
Đoạn thơ đã thực sự phơi mở tâm hồn của những người lính Tây Tiến. Họ hân hoan trong gian khó, vui
tươi và trẻ trung, tâm hồn người lính như được xây đắp bằng nhạc, bằng thơ, bằng hoa. Nếu k có chất thơ ấy,
cđ sẽ mất đi ý/n, có chất thơ ấy, gian khổ ấy sẽ trở thành hào hùng.
* Kết bài
Đọc toàn đoạn thơ, ta như lạc vào TG của cái đẹp, TG của cõi mơ, của âm nhạc. Câu thơ cứ ngân nga
như tiếng hát, nhạc điệu cất lên từ tâm hồn ngây ngất say mê. Chất thơ, chất nhạc hoà quyện vào nhau đến
mức khó tách bạch. XDiệu từng nói rằng: «Đọc đoạn thơ, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng».
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
* Mở bài
Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp đậu cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Đó không phải là cảm xúc của riêng nhà thơ Giang Nam, mà là ấn tượng, là những rung động khó quên
của độc giả khi đọc “Tây Tiến” của QD. Tâm hồn lãng mạn, chất tài hoa đã kết tinh nơi ngòi bút QD để tạo
nên những vần thơ hay và đặc sắc về người lính cho thơ ca k/c chống Pháp. Cả bài thơ đã gieo vào lòng
người đọc những tình cảm đẹp, những ấn tượng khó phai mờ. Đoạn thứ 3 của bài thơ rung động trái tim
người đọc nhiều cảm xúc nhất bởi đây là khúc ca hào hùng, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến.
* Thân bài
Bthơ được stác vào năm 1948, khi nthơ Quang Dũng rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ/n gắn bó một
thời với Tây Tiến. TP được chia làm 4 phần. Phần một là hình ảnh TN Tây Bắc vừa hoang sơ, hùng vĩ vừa dữ
dội, khắc nghiệt; phần 2 là vẻ đẹp nên thơ của TN và tình người ây Bắc; phần 3 hình tượng người lính Tây
Tiến; phần 4 là thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Mạch liên kết giữa các đoạn thơ là mạch cảm xúc, tâm
trạng của nthơ. Những kỉ/n liên tục hiện về như những đợt sóng nối tiếp nhau, qua ngòi bút tinh tế và tài hoa
của QD, những kỉ/n ấy thật sống động khiến cho người đọc có cảm tưởng sống cùng nthơ trong những hồi
tưởng ấy.
Trên cái nền vừa hùng vĩ vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, hình tượng tập thể người lính Tây Tiến
hiện lên với một vẻ đẹp đầy tính bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhớ về Tây Tiến, trong hồi ức của QD hiện ra một thực tế khắc nghiệt mà người lính Tây Tiến phải trải
qua và chịu đựng: đó là căn bệnh sốt rét rừng. Căn bệnh ấy làm cho tóc họ rụng hết, không mọc được nữa và
da xanh như màu lá rừng. Viết về người lính, nhiều nhà thơ đã nói về căn bệnh này:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người, vàng trán đẫm mồ hôi
(Chính Hữu)
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
(Tố Hữu)
Nhưng cách diễn đạt của QD đã làm nổi bật được nỗi gian khổ của người lính và gây ấn tượng mạnh mẽ
cho người đọc. Biết bao nhiêu khốc liệt được chứa đựng trong hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu
lá” ấy. Chỉ tồn tại trong hoàn cảnh ấy thôi cũng đã là một chiến công phi thường rồi.
Tuy nhiên, người lính ốm mà không yếu. Họ vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ hào hùng của mình qua hình
ảnh “dữ oai hùm”. Với bút pháp lãng mạn, TG đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa
hình thức có phần xanh xao tiều tụy vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong. Biết bao oai
phong, lẫm liệt trong hình ảnh “dữ oai hùm”, gợi tới sức mạnh của vị chúa sơn lâm ngang dọc chốn rừng
thiêng. Có thể nói, người lính Tây Tiến trong khó khăn, thiếu thốn, trong ốm đâu bệnh tật vẫn bộc lộ phẩm
chất hào hùng và rất đẹp.
Nhưng có lẽ người lính Tây Tiến còn đẹp hơn trong một phương diện khác của đời sống nội tâm. Đằng
sau cái vẻ “dữ oai hùm” còn ẩn giấu những tâm hồn, những trái tim giàu khát khao yêu thương, giàu lãng
mạn mộng mơ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đã có một thời, người ta quan niệm rằng h/a thơ này k hợp với h/c mà người lính đang phải cđấu. Nó có
thể làm cho họ uỷ mị, k mạnh mẽ trong ý chí cđấu. Nhưng có lẽ ở h/a này QD muốn bộc lộ tâm niệm của
mình: những chàng trai hào hoa của đất Hà thành ra đi theo tiếng gọi của non sông nhưng họ đâu phải là
những người khổng lồ k tim, họ có tyêu đvới Tổ q, qh thì làm sao lại k mang theo hành trang của mình hình
bóng người thân yêu. Bởi t/yêu của người lính hết sức phong phú. Chính một chút lmạn đó đã nuôi dưỡng
tâm hồn họ trong h/c cđấu gian khổ, hi/s. Thiếu hình bóng này, dẫu chỉ là trong mơ, thì hẳn diện mạo người
lính TT sẽ không trọn vẹn. (Thế mới hay, anh hùng và mĩ nữ có mối quan hệ mật thiết biết nhường nào). Sau
này, trong bài “Đất nước”, NĐThi cũng viết:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Vì những tình yêu đó, người lính Tây Tiến đã ra đi chiến đấu với một tư thế, khí phách tuyệt đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
QD đã trực tiếp nói đến những hi/s mất mát (sự hiếm hoi của thơ ca k/c), không phải một mà rất nhiều:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Câu thơ gợi cho ta cảm giác có cái gì bi thảm bởi những nấm mồ nằm rải
rác ở một vùng rừng núi hoang vu, heo hút nơi miền viễn xứ, gợi ta nhớ đến những câu thơ trong “CPN”:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn
(Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm)
Câu thơ gợi không khí thật ảm đạm, thê lương. Nhưng đến câu “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
thì ý thơ đã được nâng lên thành bi tráng, bi hùng. Chất bi hùng ấy toát lên từ âm điệu câu thơ gợi lên một
thái độ, t/cảm thất dứt khoát, mạnh mẽ. Vì lí tưởng ĐLTD cao quý, người chiến sĩ Tây Tiến sẵn sàng hi sinh
một cách thanh thản, không hề luyến tiếc “đời xanh”. Lí tưởng cao đẹp đó thật đáng khâm phục. «Đời xanh»
là quãng đời đẹp nhất, đáng quý nhất vậy mà họ chẳng tiếc vì tyêu đvới Tổ q này. Tầm vóc lớn lao, khí phách
của toàn dtộc nói chung và tư thế hào hùng của người lính TT nói riêng đã được diễn tả một cách dứt khoát,
chan chứa nhiệt huyết cao đẹp. Kẻ làm trai thời loạn mang hoài bão lớn nên ra đi không hẹn ngày về. Hai câu
thơ mang nét cổ kính, phảng phất dáng dấp những tráng sĩ nơi chiến trường từng một thời chiếm lĩnh văn
chương trung đại: “Sa trường da ngựa bọc thây”, “Một đi không trở lại”, xem cái chết ‘nhẹ tựa lông hồng”.
Những chàng trai binh đoàn TT đã tiếp thu hình mẫu lí tưởng đó qua văn chương sách vở và hơn hết là nghe
theo tiếng gọi của non sông, họ đã dấn thân vào cuộc trường chinh với lòng y/n cháy bỏng cộng với tinh thần
lãng mạn sáng trong. Đó chính là phương châm, triết lí sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Với lẽ sống đó, người lính TT sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, kể cả hi/s. Cái
chết của “những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” được QD diễn tả bằng nét bút như văn chương cổ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Thật là một hình ảnh bi thương. Người lính hi/s, một manh chiếu bó lấy thi thể cũng không có, hình hài
được liệm bằng ngay tấm áo của mình, như lời tâm sự của QD: “Ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng
không có đủ manh chiếu liệm. Nói “Áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ
của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng”.
Tấm áo của người lính được gọi một cách trang trọng là “áo bào” phảng phất hình ảnh của tấm chiến
bào rực rỡ mà vua ban cho các danh tướng, các tráng sĩ ngày xưa ra trận. Cách nói trang trọng ấy đã giảm
phần thê lương của cái chết. Với cảm hứng lmạn, QD đã đem đến cho câu thơ 1 sắc thái mới và cũng làm bớt
đi cái bi thương của h/a người lính Tây Tiến hi/s. Cái bi thương được giảm nhẹ đi rất nhiều nhờ những từ
Hán Việt trang trọng, cổ kính (chiến trường, viễn xứ, biên cương …), nhờ cách nói giảm (về đất - trở về với
đất mẹ) và hơn hết là bị át đi bởi lí tưởng quên mình của các csĩ và cảm hứng lmạn của nthơ (manh chiếu –
áo bào) và rồi bị át hẳn đi bởi tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Người chiến sĩ đã thanh thản “về” trong lòng đất mẹ thiêng liêng, ấm áp, vĩnh hằng. Đất mẹ Tổ quốc
dang tay đón những đứa con yêu vào lòng. Biết bao yêu thương và trân trọng của đn, của đồng đội được chứa
đựng trong hình ảnh thơ đó.
Người chiến sĩ Tây Tiến ra đi vì lí tưởng đẹp nhất: vì ĐNND nên khi các anh ngã xuống, chính âm
nhạc của TN đã tấu lên khúc nhạc tiễn đưa các anh về cõi vĩnh hằng. Đoạn thơ kết thúc bằng tiếng gầm dữ
dội và đầy uất hận của d/s Mã. Đó cũng là khúc nhạc bi hùng của núi rừng TB nói lời vĩnh biệt, tiễn đưa
những “người không hẹn ước” từ mùa xuân năm ấy còn vọng mãi đến bây giờ.
Sông Mã ngày nay vẫn đêm ngày gầm thét để nhớ về các anh. TN, đn miền Tây, Tổ q, ND chưa bao giờ
quên công ơn của các anh!
Có 1 cảm nhận mãnh liệt khi đọc những câu thơ «Tây Tiến» là nthơ nói về sự thật bi thương nhưng k
nhấn chìm người đọc vào trong đó vì lời thơ được nâng đỡ bằng đôi cánh lmạn. Với tất cả những điều QD
bộc lộ trong ý thơ, h/a ảnh bộ đội cụ Hồ thật trọn vẹn trong tâm trí nthơ và bạn đọc.
Đoạn kết là sự trở lại một cách rõ nét nỗi nhớ của QD. Nhịp thơ chậm lại, giọng thơ buồn nhưng linh
hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng của đoàn quân Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
«Tây Tiến mùa xuân ấy» đã trở thành thời điểm một đi k trở lại song nthơ QD đã giúp nó sống mãi
trong lòng dân tộc.
* Kết bài
Bthơ «Tây Tiến» thể hiện một ngòi bút tài hoa, thi sĩ QD đã xd được một tượng đài bất tử về người lính
Tây Tiến dũng cảm, hào hoa, cao đẹp bằng những chất liệu tuyệt vời của thơ, của âm nhạc, của hội hoạ và
trên cái nền cảm hứng lmạn, bi tráng.
Bthơ là tiếng lòng của QD nhớ về đồng đội, song nó k chỉ dừng lại ở đó. Nó đã đem tới cho người đọc
nhiều thế hệ sau h/a người lính Tây Tiến đẹp đẽ, cao cả, lung linh ngời sáng với cả hào khí dtộc. Đồng thời
tái hiện lại vẻ đẹp của miền TBắc Tổq: dữ dội mà hết sức nên thơ.
III. THAM KHẢO
Đề 4: Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
GỢI Ý
Có như là một thời, hai chữ “lãng mạn” thường gợi cho ta về một cái gì có hại, mang ý nghĩa tiêu cực,
mềm yếu, không lành mạnh... Thực ra thì lmạn cũng có dăm bảy đường. Lãng mạn như trong “Tây Tiến” của
QD là lmạn CM, lmạn anh hùng. Nó làm cho đn thêm tráng lệ, kì vĩ, con người thêm sang trọng, hào hoa.
Có thể nói, c/s tinh thần của mỗi con người hay cộng đồng dtộc sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và nhàm chán
biết bao nếu thiếu đi những ước mơ bay bổng, thiếu đi trí tưởng tượng phong phú, diệu kì... Lmạn hiểu theo
nghĩa đúng đắn, chắp cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả và sự hoàn
thiện mà hiện thực c/s còn chưa đạt tới. Chất lmạn trong bài thơ “Tây Tiến” chính là cảm hứng bay bổng của
nthơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con người TBắc. Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ
một hthực gian khổ và đầy khốc liệt, khó khăn. Chính vì thế, chất lmạn của bthơ càng đáng trân trọng, nâng
niu. Nói đúng hơn, chính nhờ chất lmạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi vất vả, gian
lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lmạn trong “Tây Tiến” xh dường như để lấy lại “thăng bằng” cho cảnh vật
và tâm hồn của con người. Vì thế, bên cạnh một thiên nhiên hiểm trở, dữ dằn, những núi đá cheo leo, những
cảnh rừng thiêng nước độc... ta lại thấy một thiên nhiên thơ mộng đến say người, một TBắc đẹp như tranh
thuỷ mặc. Nỗi nhớ Tây Tiến trong lòng nthơ cứ “chơi vơi” giữa hai gam màu ấy. Còn gì dữ dội và hiểm trở
hơn những cảnh:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Còn gì hoang dại và âm u, rùng rợn hơn tiếng thác gào và tiếng cọp gầm:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhưng liền đó lại là những cảnh rất đỗi nên thơ, nên hoạ. Đó là chiều sương Châu Mộc, là “hồn lau”
thấp thoáng “nẻo bến bờ”, là dáng mảnh mai, mềm mại mà rất đỗi hiên ngang của con người trên con thuyền
độc mộc lao trên sóng nước:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Rõ ràng TNTB ở đây được cảm nhận với một vẻ độc đáo: vừa hùng vĩ, dữ dội; vừa tươi tắn, thơ mộng.
Mà không chỉ TN, chất lmạn bay bổng còn thể hiện rõ khi TG khắc hoạ chân dung người lính TT hiện lên
trên cái nền hùng vĩ mà mĩ lệ ấy của núi rừng TB. Vẫn là sự đối chọi để “cân bằng” giữa một bên là hiện
thực khắc nghiệt, là c/s đầy gian nan và lám hy sinh mất mát, với một bên là c/s tươi đẹp và đầy chất thơ.
Này đây là những vất vả, gian lao của cđ người lính TT:
- Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
- Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Rồi hình ảnh của cả đoàn binh “không mọc tóc” với nước da “xanh màu lá” là kết quả của những tận sốt
rét triền miên. Những nấm mồ nằm “rải rác” khắp vùng biên cương và cảnh người lính ngã xuống không
manh chiếu liệm... đủ nói lên tất cả gian khổ cùng cực của cuộc cđ mà người lính TT phải gánh chịu. Nhưng
nếu chỉ có thế, sức mạnh của hthực sẽ đè nát ý chí và tâm hồn người csĩ. Chính cảm hứng lmạn đã truyền
niềm tin đến những người lính khiến các anh sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong cái gian khổ, khắc nghiệt trên, bỗng thoảng hương “nếp xôi”
của đồng bào Mai Châu. Ta nao nao, say người trong đêm lửa trại giữa “hội đuốc hoa” khi bắt gặp trong mơ
h/ả “e ấp” của các thiếu nữ dtộc trong áo xiêm lộng lẫy và tiếng khèn “man điệu” hoang dại của núi rừng...
Nhiều khi sự cân bằng, đối chọi giữa hai sắc màu - hiện thực và lmạn - thể hiện ngay trong từng câu
thơ. Ta vừa thấy rợn người, trên độ cao ngàn thước chênh vênh “ngàn thước lên cao”, bên bờ vực thẳm
“ngàn thước xuống” đã lại thấy lòng thanh thản, lâng lâng ngắm nhìn nhà ai thấp thoáng, bồng bềnh trong
mây khói giữa lưng chừng núi, sau cơn mưa. Vừa thấy hiện lên trước mắt hình ảnh:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
rất hiện thực, đã lại chuyển sang h/ả đầy chất thơ:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Câu thơ lung linh huyền ảo với hàng loạt thanh bằng (6/7 tiếng) đã ảo hoá hiện thực. Người đọc chỉ cảm
nhận được có một cái gì đó nhẹ nhàng, bâng khuâng, chơi vơi như nỗi nhớ, bảng lảng như sương chiều, xua
tan đi cái mệt mỏi của đoàn quân. Cũng như thế, ở câu trên, ta vừa thấy sự uất hận của người lính TT gửi vào
ánh “mắt trừng” bảo vệ miền biên giới thì sau đó lại mơ về “HN dáng kiều thơm” – 1 câu thơ cũng chủ đạo là
thành bằng (5/7 tiếng).
Tính chất lmạn của bthơ còn thể hiện ở một phương diện khác. Đó là chất bi tráng. Dường như vẫn là
một cặp đối chọi nhau. Bi mà không luỵ, buồn đau mà hùng tráng, mất mát hi sinh mà vẫn lạc quan. Không
bi sao được trước những gian nan đến ghê người, những cơn sốt rét, nước da xanh màu lá và tóc rụng không
mọc lại được, không bi sao được trước những mất mất hi/s “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”... Tuy nhiên, bi
mà không luỵ, bi mà hùng tráng, mạnh mẽ, “quân xanh màu lá” mà vẫn “dữ oai hùm”. Ngay trong một dòng
thơ, ta đã thấy rõ t/chất này: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Gian khổ, thiếu thốn đến thế là cùng: chết
không có chiếu để chôn. Nhưng người lính cho dù là cái chết thê thảm nhất cũng thể cướp đi được vẻ đẹp hào
hùng oai phong và sang trọng trong tâm tưởng họ, nghĩ mình là những tráng sĩ thời xưa ngã xuống trên chiến
trường trong áo bào đỏ thắm. Một câu thơ lmạn hoá cái chết. Một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung.
Giọng thơ muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất, phù hợp với nỗi tiếc thương. Nhưng hạ thấp là để cuối cùng
vút lên bản nhạc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương của con người như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả
núi rừng của d/s Mã. Ai bảo lmạn như thế là tiêu cực, là yếu mềm? Thực chất, chính lmạn của bthơ đã nâng
được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang ‘dãi dầu không bước nữa”, xoá tan đi bao nhọc
nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi hiểm nguy và lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững
bước đi lên... Chất lmạn ấy là sức mạnh và vẻ đẹp của người lính TT.
Chất lmạn trong bài thơ “TT” nói riêng và ở QD nói chung thực ra cũng là chất người, là cá tính của
nthơ - một thanh niên trí thức rất mực hào hoa và lmạn. Đã đành đó còn là chuyện của cái tài nữa, phải tài
hoa lắm mới có được những câu thơ như thế. Nhưng đúng như một nhà phê bình đã nói: “Xét đến cùng cũng
chỉ có lòng chân thật tuyệt đối với cảnh, chân thật với người và nhất là với chính lòng mình mới có thể tạo ra
được những câu thơ vừa giản dị, mộc mạc, vừa táo bạo, mới lạ như thế”. Có lẽ cái gốc lớn nhất của tài năng
QD là ở đó chăng? – “Chân thực rất mực với lòng mình”!
- VĂN MẪU -
Đề 5: Vẻ đẹp của hình tượng người lính TT trong bài “Tây Tiến” của QD
GỢI Ý
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Trong ctr, hình tượng người
lính là nvật trung tâm của VH, là nguồn thi hứng làm xúc động bao nthơ, để lại không ít thi phẩm có giá trị:
Cá nước, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên... (THữu), Đồng chí (Chính Hữu), Bao giờ trở lại (Hoàng Trung
Thông), Dáng đứng VN (Lê Anh Xuân), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (PTDuật)... trong đó, không thể
không kể đến “Tây Tiến” của QD. Đọc bthơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và sự hi/s bi tráng
của người lính TT.
Mùa xuân năm 1947, QD ra nhập đoàn quân TT - đvị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu
hao lực lượng địch, vừa bảo vệ vùng biên giới phía Tây của Tổ quốc. Cuối năm 1948, QD rời TT đi nhận
nhiệm vụ khác. Một ngày ở Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ da diết về TT, về những kỉ niệm với đồng đội
xưa, QD đã xúc động viết bài thơ này.
“TT” là sự cảm nhận về vẻ đẹp của người lính cụ Hồ có gốc gác HN. Theo lời kêu gọi của Tổ quốc, họ
từ biệt một góc phố, một mái trường, một “dáng kiều thơm” để lên đường ra mặt trận. Họ lên đường theo
tiếng gọi của non sông và của chí làm trai “nhất khứ bất phục hoàn” tiếp thu từ văn chương cổ. Trong tâm
hồn họ vừa có chí làm trai, lại vừa có lí tưởng của thời đại “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đó chính là
sức mạnh giúp người lính vượt qua chặng đường gian khổ, chiến trường ảm đạm và cả cái chết luôn rình rập
để lạc quan phơi phới “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Vẻ đẹp nổi bật của những người lính TT chính là
lòng yêu nước, lòng dũng cảm, quyết tâm lên đường chiến đấu, không ngại gian khổ, hi/s. Điều đáng nói là
vẻ đẹp ấy không chỉ hiện lên qua cuộc cđấu ác liệt trên chiến trường mà chính là qua những khó khăn gian
khổ mà hằng ngày đoàn binh TT phải đối mặt. Dốc thăm thẳm, núi heo hút, mưa tầm tã không ngăn được
bước chân người lính trong cuộc vạn lí trường chinh:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Chỉ bằng 4 câu thơ, QD đã vẽ ra một BT hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và
heo hút của núi rừng Tây Bắc. Ngòi bút của QD mô tả chân thực, sinh động đến mức những kỉ niệm về
khung cảnh núi đèo và về chặng đường hành quân cheo leo trên núi cao, bên vực thẳm, trong sương mù cứ
sống dậy trước mắt người đọc. Hàng loạt từ có tính chất tạo hình và các điệp từ điệp ngữ cùng với tiết tấu,
nhịp điệu, âm thanh đặc sắc đã diễn tả rất thành công sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu, heo hút, trùng điệp và độ
cao ngất trời của rừng núi miền Tây Tổ quốc.
Âm điệu của hầu hết các câu thơ trong đoạn thơ đều gấp, được tạo từ thanh trắc, diễn tả ấn tượng về sự
dữ dội của núi rừng Tây Bắc (sương lấp, heo hút, ngàn thước …), chúng bộc lộ vẻ gian nan, hiểm trở cũng
chính là những gian khổ, vất vả mà người lính phải vượt qua. Trong mỗi câu thơ như có cả những hơi thở
gấp, mệt nhọc của người chiến sĩ Tây Tiến trên chặng đường hành quân. Độ dốc của núi, cái heo hút của con
đường hành quân … đã tạo ấn tượng rõ rệt về sự vất vả, gian khó của người lính trên đường hành quân, ta
càng cảm nhận được sự phi thường của họ.
Gian khổ là thế mà họ vẫn đùa vui, tếu táo, tinh nghịch. Ba từ “súng ngửi trời” vừa cho người đọc cảm
nhận rất rõ về độ cao vừa thấy được sự trẻ trung, lạc quan trong tâm hồn người lính. Thái độ lạc quan, dũng
cảm, coi thường hiểm nguy ấy còn hiện lên trong dáng vẻ “bỏ quên đời” của các anh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
H/ả này là một thực tế của cuộc hành quân - một khoảnh khắc chân thực mà QD ghi lại: bao ngày hành
quân, binh đoàn TT phải trải qua cái đói, rét và những vất vả gian lao trên con đường hành quân hiểm trở đã
khiến nhiều người lính kiệt sức, không thể “bước nữa”, đành “nằm lại” miền “viễn xứ” để đồng đội tiếp tục
cuộc hành trình. Họ ra đi trong tư thế thật nhẹ nhàng, thanh thản, vô tư “Gục lên súng mũ, bỏ quên đời”.
Kiên cường trong khó khăn gian khổ, những người lính TT còn là những con người rất mực tài hoa,
lmạn, tâm hồn của họ dễ dàng xao xuyến, rung động trước TN và con người TBắc:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Ở những nơi đó, quanh năm sương mù phủ dày, phủ lấp cả đoàn quân. Hình ảnh “sương lấp”, “đêm
hơi” vừa tả thực, vừa lãng mạn sự khắc nghiệt của TNTB. Tả về TN nhưng lại giúp cho người đọc thấy sự
gian khổ và ý chí vượt khó khăn của người lính Tây Tiến. Người lính hành quân trong đêm, sương mù che
phủ nhưng lại cảm thấy “hoa về” trong mùi hương, cảm giác đi trong “đêm hơi”, trong hương rừng. Đây là
hai câu thơ mang đậm chất lãng mạn đã làm giảm đi sự khắc nghiệt, chỉ còn lại là sự thi vị hóa cái đẹp.
Ai nói rằng lính tráng chỉ biết trận mạc, xông pha, ai nói rằng người lính chỉ có ý chí thép để đương đầu
với hiện thực máu lửa, đạn bom? Nhiều lúc họ cũng lmạn, bay bổng như những người nsĩ vậy. Họ nhớ và
mến những cái đẹp bình dị của c/s như mùi thơm của “nếp xôi”, ấm tình người TBắc:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Tâm hồn lmạn của người lính TT hiện lên đẹp nhất, tập trung nhất ở khổ thơ thứ 2. Đoạn thơ vẫn là sự
tiếp tục của nỗi nhớ, là sự hồi tưởng của nthơ nhưng nó đã đưa người đọc vào một TG khác. Không phải là
sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc mà là vẻ mĩ lệ, duyên dáng và chất tươi mát của nó. Người đọc như lạc vào
một thế giới của ánh sáng, vũ điệu, âm thanh, một thế giới vừa thực, vừa hư đầy mộng và thơ.
Khổ một của đoạn thơ miêu tả khung cảnh của doanh trại trong đêm liên hoan văn nghệ rực sáng, tưng
bừng, có sự góp mặt của đồng bào địa phương đến dự. Từ «bừng» thể hiện sự thay đổi đột ngột về ánh sáng,
màu sắc và âm thanh, gợi đến một vẻ đẹp khác lạ so với thường ngày ở doanh trại, khiến ta liên tưởng đến
một ngày hội. Cả doanh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng
lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả
nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Đêm liên hoan hiện lên trong hồi ức QD có nhiều nét lạ, mang đậm màu sắc xứ lạ. Nét lạ từ trang phục
(xiêm áo), nhạc cụ (khèn) đến âm điệu (man điệu) và dáng vẻ (e ấp). Nó lại mang không khí lung linh huyền
ảo của ánh đuốc bập bùng giữa núi rừng Tây Bắc. Trung tâm của BT cảnh ấy là một thiếu nữ dân tộc với
những vũ điệu lạ có một sức cuốn hút đvới người lính. Hai từ «Kìa em» thể hiện cái nhìn vừa ngạc nhiên đến
ngỡ ngàng, vừa say mê, vui sướng trước vẻ đẹp lạ mà tình tứ. Những chữ «xiêm áo», «khèn» «man điệu»…
gợi lên trong ta cảm giác về một vẻ đẹp vừa mới lạ, vừa huyền ảo, xa xôi và có cái gì đó bí ẩn của một khung
cảnh nơi đất lạ, trời xa. Hồn thơ lmạn của QD có lẽ cũng nảy sinh cảm hứng từ chính vẻ đẹp ấy.
Âm thanh của tiếng khèn, tiếng nhạc đưa họ về với chiến thắng nơi Viên Chăn. Họ tưởng đến ngày
chiến thắng, mơ đến tương lai và rạo rực với khao khát được sống trong cảnh thanh bình.
Chỉ bằng 4 câu thơ mà QD đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét, vừa đa
dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ khác thường, QD
không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa, phong tục độc đáo của đồng bào miền núi mà còn
cho ta thấy tình quân dân đằm thắm, keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, k/c gian khổ mà
vẫn vui tươi của người lính Tây Tiến.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất thì cảnh sông nước
TB lại gợi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo. Ở đây một lần nữa càng khẳng định
rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giàu mộng mơ của người lính. TN ở nơi vốn chỉ có “bản sương giăng, đèo mây
phủ”, khi chiều về, vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mù choàng lên như một tấm áo,
khiến cảnh vật như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh TB hiện về trong tâm trí TG làm cho giọng thơ
của ông cất lên như một lời tự hỏi “có nhớ”, “có thấy” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy
lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió, trong cây, chúng như xôn xao
một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Những làn lau trong k/g bạt ngàn, khiến cảnh TB hiện lên hoang sơ như thời tiền sử. Ngòi bút tài hoa
của QD k chỉ tả mà còn gợi. Cảnh vật TN xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn, phảng phất trong gió, trong
cây. Ông k chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của TN mà còn lên cái phần thiêng của cảnh vật.
Trong khung cảnh sông nước chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính và huyền thoại ấy hiện lên dáng
đứng đẹp, hiên ngang, h/dũng của các chàng trai, cô gái Thái trên con thuyền độc mộc lao trên sóng nước:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đúng là “thi trung hữu họa”. Ngòi bút tinh tế của QD chỉ phác họa một vài nét mà không chỉ gợi được
cái “hồn” của ngàn lau, cái dáng đứng đẹp của người chèo đò, cả cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa”
của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ.
Hai từ “nhớ” và “thấy” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng thật tinh tế. Dường như hồn
thiêng của những bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt TG, còn dáng mềm mại của người chèo thuyền và
bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đn này. Không
có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì không thể bắt rất nhạy cảm những hình ảnh giàu hình sắc của thiên
nhiên như thế.
Những câu thơ như một bức tranh thủy mặc với nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại tài hoa đã truyền
được cái hồn của cảnh vật. Bức tranh về cảnh và con người TB hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm
đắm say lòng người đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta còn thấy được tâm hồn lạc quan yêu đời, lãng mạn, mộng
mơ của TG nói riêng, của người lính Tây Tiến nói chung trong những năm tháng không thể nào quên của
cuộc k/c chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.
Đoạn thơ đã thực sự phơi mở tâm hồn của những người lính Tây Tiến. Họ hân hoan trong gian khó, vui
tươi và trẻ trung, tâm hồn người lính như được xây đắp bằng nhạc, bằng thơ, bằng hoa. Nếu k có chất thơ ấy,
cđ sẽ mất đi ý/n, có chất thơ ấy, gian khổ ấy sẽ trở thành hào hùng.
Ý chí nghị lực phi thường vượt qua gian khó cùng với tâm hồn hào hoa lãng mạn hoà vào nhau, bổ sung
cho nhau để làm nên vẻ đẹp độc đáo, rất riêng của người lính TT. Đây là điều mà ta ít gặp ở các bthơ viết về
người lính trong thơ ca đương thời. “Đồng chí” của Chính Hữu hay “Nhớ” của Hồng Nguyên là những cảm
nhận về anh bộ đội cụ Hồ xuất thân từ đồng ruộng - người ndân mặc áo lính. Theo lời kêu gọi của Tổ quốc,
họ từ biệt quê hương, từ biệt giếng nước gốc đa để lên đường chiến đấu. Bởi vậy, nổi lên ở họ là vẻ đẹp chân
quê, bình dị, rất đỗi mộc mạc:
- Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
(Đồng chí – Chính Hữu)
- Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ ngày chưa biết chữ
Quen nhau từ thuở một, hai
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Còn người lính TT xuất thân là những học sinh, sinh viên HN, ở họ, người đọc thấy được những giây
phút lmạn, mộng mơ của những chàng trai rất mực “Tràng An”:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tâm hồn họ thật phong phú, vừa có cả khí phách anh hùng, vừa có cả bóng dáng giai nhân. Họ là sự kết
tinh của vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, phong nhã.
Đọc TT, đọng lại trong tâm trí người đọc khi là những câu thơ khỏe khoắn, chắc nịch, khi lại là những
câu thơ êm ái, bồng bềnh. Đó là bởi QD đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng
mạn. Qua đó, h/ả người lính TT hiện lên chân thực trong khó khăn gian khổ, với tư thế hiên ngang bất chấp
hiểm nguy đồng thời cũng là những người nsĩ có tâm hồn phong phú, biết yêu và biết thưởng thức cái đẹp.
Sự kết hợp hai bút pháp trên cũng là chìa khoá thành côn gcho QD trong việc khắc hoạ hình tượng người lính
mang vẻ đẹp bi tráng. Bút pháp lãng mạn có khuynh hướng tô đậm cái phi thường và sử/d rộng rãi thủ pháp
đối lập để tác động mạnh mẽ vào cảm quan của người đọc. QD đặt người lính trên nền thiên nhiên hiểm trở,
khắc nghiệt mà hùng vĩ, mĩ lệ để tô đậm tư thế hiên ngang, oai phong lẫm liệt của họ. Trong khó khăn, gian
khổ, ông mtả người lính TT như những chiến binh thời xưa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ nhấn mạnh vào những nét đặc biệt, phi thường để khắc tạc vào tâm trí người đọc về đoàn
Tây Tiến. Cách diễn đạt của QD đã làm nổi bật được nỗi gian khổ của người lính và gây ấn tượng mạnh mẽ
cho người đọc. Biết bao nhiêu khốc liệt được chứa đựng trong hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu
lá” ấy. Chỉ tồn tại trong hoàn cảnh ấy thôi cũng đã là một chiến công phi thường rồi.
Tuy nhiên, người lính ốm mà không yếu. Họ vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ hào hùng của mình qua hình
ảnh “dữ oai hùm”. Với bút pháp lãng mạn, TG đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa
hình thức có phần xanh xao tiều tụy vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong. Biết bao oai
phong, lẫm liệt trong hình ảnh “dữ oai hùm”, gợi tới sức mạnh của vị chúa sơn lâm ngang dọc chốn rừng
thiêng. Có thể nói, người lính Tây Tiến trong khó khăn, thiếu thốn, trong ốm đâu bệnh tật vẫn bộc lộ phẩm
chất hào hùng và rất đẹp.
Nhưng có lẽ người lính Tây Tiến còn đẹp hơn trong một phương diện khác của đời sống nội tâm. Đằng
sau cái vẻ “dữ oai hùm” còn ẩn giấu những tâm hồn, những trái tim giàu khát khao yêu thương, giàu lãng
mạn mộng mơ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đã có một thời, người ta quan niệm rằng h/a thơ này k hợp với h/c mà người lính đang phải cđấu. Nó có
thể làm cho họ uỷ mị, k mạnh mẽ trong ý chí cđấu. Nhưng có lẽ ở h/a này QD muốn bộc lộ tâm niệm của
mình: những chàng trai hào hoa của đất Hà thành ra đi theo tiếng gọi của non sông nhưng họ đâu phải là
những người khổng lồ k tim, họ có tyêu đvới Tổ q, qh thì làm sao lại k mang theo hành trang của mình hình
bóng người thân yêu. Bởi t/yêu của người lính hết sức phong phú. Chính một chút lmạn đó đã nuôi dưỡng
tâm hồn họ trong h/c cđấu gian khổ, hi/s. Thiếu hình bóng này, dẫu chỉ là trong mơ, thì hẳn diện mạo người
lính TT sẽ không trọn vẹn. (Thế mới hay, anh hùng và mĩ nữ có mối quan hệ mật thiết biết nhường nào).Sau
này, trong bài “Đất nước”, NĐThi cũng viết:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Vì những tình yêu đó, người lính Tây Tiến đã ra đi chiến đấu với một tư thế, khí phách tuyệt đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
QD đã trực tiếp nói đến những hi/s mất mát (sự hiếm hoi của thơ ca k/c), không phải một mà rất nhiều:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Câu thơ gợi cho ta cảm giác có cái gì bi thảm bởi những nấm mồ nằm rải
rác ở một vùng rừng núi hoang vu, heo hút nơi miền viễn xứ gợi ta nhớ đến những câu thơ trong “CPN”:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn
(Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm)
Câu thơ gợi không khí thật ảm đạm, thê lương. Nhưng đến câu “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
thì ý thơ đã được nâng lên thành bi tráng, bi hùng. Chất bi hùng ấy toát lên từ âm điệu câu thơ gợi lên một
thái độ, t/cảm thật dứt khoát, mạnh mẽ. Vì lí tưởng ĐLTD cao quý, người chiến sĩ Tây Tiến sẵn sàng hi sinh
một cách thanh thản, không hề luyến tiếc “đời xanh”. Lí tưởng cao đẹp đó thật đáng khâm phục. «Đời xanh»
là quãng đời đẹp nhất, đáng quý nhất vậy mà họ chẳng tiếc vì tyêu đvới Tổ q này. Tầm vóc lớn lao, khí phách
của toàn dtộc nói chung và tư thế hào hùng của người lính TT nói riêng đã được diễn tả một cách dứt khoát,
chan chứa nhiệt huyết cao đẹp. Kẻ làm trai thời loạn mang hoài bão lớn nên ra đi không hẹn ngày về. Hai câu
thơ mang nét cổ kính, phảng phất dáng dấp những tráng sĩ nơi chiến trường từng một thời chiếm lĩnh văn
chương trung đại: “Sa trường da ngựa bọc thây”, “Một đi không trở lại”, xem cái chết ‘nhẹ tựa lông hồng”.
Những chàng trai binh đoàn TT đã tiếp thu hình mẫu lí tưởng đó qua văn chương sách vở và hơn hết là nghe
theo tiếng gọi của non sông, họ đã dấn thân vào cuộc trường chinh với lòng yêu nước cháy bỏng cộng với
tinh thần lãng mạn sáng trong. Đó chính là phương châm, triết lí sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Với lẽ sống đó, người lính TT sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, kể cả
hi/s. Cái chết của “những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” được QD diễn tả bằng nét bút như văn/c cổ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Thật là một hình ảnh bi thương. Người lính hi/s, một manh chiếu bó lấy thi thể cũng không có, hình hài
được liệm bằng ngay tấm áo của mình, như lời tâm sự của QD: “Ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng
không có đủ manh chiếu liệm. Nói “Áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ
của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng”.
Tấm áo của người lính được gọi một cách trang trọng là “áo bào” phảng phất hình ảnh của tấm chiến
bào rực rỡ mà vua ban cho các danh tướng, các tráng sĩ ngày xưa ra trận. Cách nói trang trọng ấy đã giảm
phần thê lương của cái chết. Với cảm hứng lmạn, QD đã đem đến cho câu thơ 1 sắc thái mới và cũng làm bớt
đi cái bi thương của h/a người lính Tây Tiến hi/s. Cái bi thương được giảm nhẹ đi rất nhiều nhờ những từ
Hán Việt trang trọng, cổ kính (chiến trường, viễn xứ, biên cương …), nhờ cách nói giảm (về đất - trở về với
đất mẹ) và hơn hết là bị át đi bởi lí tưởng quên mình của các csĩ và cảm hứng lmạn của nthơ (manh chiếu –
áo bào) và rồi bị át hẳn đi bởi tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Người chiến sĩ đã thanh thản “về” trong lòng đất mẹ thiêng liêng, ấm áp, vĩnh hằng. Đất mẹ Tổ quốc
dang tay đón những đứa con yêu vào lòng. Biết bao yêu thương và trân trọng của đn, của đồng đội được chứa
đựng trong hình ảnh thơ đó.
Người chiến sĩ Tây Tiến ra đi vì lí tưởng đẹp nhất: vì ĐNND nên khi các anh ngã xuống, chính âm
nhạc của TN đã tấu lên khúc nhạc tiễn đưa các anh về cõi vĩnh hằng. Đoạn thơ kết thúc bằng tiếng gầm dữ
dội và đầy uất hận của d/s Mã. Đó cũng là khúc nhạc bi hùng của núi rừng TB nói lời vĩnh biệt, tiễn đưa
những “người không hẹn ước” từ mùa xuân năm ấy còn vọng mãi đến bây giờ.
Sông Mã ngày nay vẫn đêm ngày gầm thét để nhớ về các anh. TN, đn miền Tây, Tổ q, ND chưa bao giờ
quên công ơn của các anh!
Có 1 cảm nhận mãnh liệt khi đọc những câu thơ «Tây Tiến» là nthơ nói về sự thật bi thương nhưng k
nhấn chìm người đọc vào trong đó vì lời thơ được nâng đỡ bằng đôi cánh lmạn. Với tất cả những điều QD
bộc lộ trong ý thơ, h/a ảnh bộ đội cụ Hồ thật trọn vẹn trong tâm trí nthơ và bạn đọc.
Bài thơ “TT” đã góp phần khắc hoạ vẻ đẹp của người lính cụ Hồ với giọng điệu và bút pháp riêng. Nếu
xếp “TT” cạnh “Đồng chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên), “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu)... ta sẽ thấy hình
ảnh người lính trong thơ ca kháng Pháp thật đẹp, đa dạng và phong phú biết bao. Bên cạnh những câu thơ
giản dị nghiêng về cảm hứng hiện thực, những câu thơ viết về người lính TT tràn đầy cảm hứng lmạn, với
hình tượng và ngôn ngữ thơ bay bổng, gây ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Có được điều ấy là vì:
“Hồi đó, tôi chả có chút lí luận gì về thơ cả. Tấm lòng cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy... Bthơ “Tây
Tiến” có cái hào khí lmạn của một thời, gắn với l/sử kchiến anh dũng của dtộc...” (QD). Thì ra, chính sự
chân thành của nthơ, chính những cảm xúc tự đáy lòng đã viết nên những vần thơ đầy ấn tượng về người lính
và để hình tượng người lính TT trở thành bất tử.

You might also like