Professional Documents
Culture Documents
Bao - Cao - TN Quan
Bao - Cao - TN Quan
Hà Nội, 7/2023
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, công nghệ đo lường và điều khiển tự động đã mang lại
hiệu quả cao cho quá trình sản xuất, tạo ra sự khác biệt so với những năm trước. Nhờ sự
tiên tiến của máy móc, con người đã được giảm bớt gánh nặng lao động. Môn kỹ thuật đo
lường và điều khiển các quá trình thiết bị trong CNSH-CNTP đã cho em cơ hội thực hành
và làm quen với các thiết bị chuyên dụng trong ngành chế biến thực phẩm như: thiết bị cô
đặc chân không, máy nghiền, máy thanh trùng liên tục, … tại trung tâm thực hành B4.
Em cũng đã thực hiện được việc đo lường và điều khiển nhiệt độ môi chất lỏng và đo
lường độ ẩm không khí. Bài báo cáo này bao gồm 3 phần chính:
Phần 1: Khảo sát hệ thống tự động hóa các quá trình công nghệ, thiết lập sơ đồ
chức năng của hệ thống đo lường & điều khiển
Em mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của thầy và các bạn để hoàn thiện bài
báo cáo của mình. Em xin chân thành cảm ơn!
BÀI 1: THIẾT LẬP SƠ ĐỒ CHỨC NĂNG ĐO VÀ ĐIỀU KHIỂN THIẾT BỊ
TRONG SẢN XUẤT THỰC PHẨM
- Ngày thí nghiệm: 05/04/2023 – Thầy Nguyễn Ngọc Viễn
I. Mục đích thí nghiệm
Nâng cao kiến thức thực tiễn của sinh viên về môn học Kỹ thuật đo lường và lý
thuyết điều khiển tự động trong CNTP. Giúp sinh viên hiểu được nguyên lý cấu tạo một
số thiết bị đo lường phổ biến và một số hệ thống điều khiển trên thiết bị trong sản xuất
thực phẩm. Bên cạnh đó, sinh viên sẽ phân tích và hiểu được cách chọn vị trí đặt các thiết
bị đo lường để đảm bảo yêu cầu công nghệ. Củng cố và trang bị cho sinh viên khả năng
phân tích, thiết lập sơ đồ chức năng đo và điều khiển thiết bị/hệ thống trong thực tế.
II. Thực hành vẽ sơ đồ chức năng thiết bị thanh trùng băng tải
Nhận xét :
Trong sơ đồ chức năng của thiết bị vẫn còn nhiều cơ cấu điều khiển thủ công chưa
rất nhiều chưa có cơ cấu điều khiển tự động vì thế cần người giám sát và điều
khiển để vận hành, tốn nhân lực nhân công
BÀI 2. ĐO LƯỜNG VÀ ĐIỀU KHIỂN NHIỆT ĐỘ
Trong quá trình nghiên cứu và thiết kế hệ thống, tuỳ theo bài toán cụ thể người ta có thể
sử dụng mô hình đối tượng dưới dạng phương trình vi phân, hệ phương trình trạng thái,
dạng hàm truyền, hàm trọng lượng hoặc hàm quá độ của đối tượng. Do vậy, các bài toán
nhận dạng cũng thường nhằm vào mục đích mô hình hóa đối tượng dưới một trong bốn
dạng trên. Các dạng mô hình này dễ dàng chuyển đổi lẫn nhau nên chỉ cần tìm được một
trong các dạng đó. Để giải bài toán nhận dạng một cách đơn giản và hiệu quả, đồng thời
thuận tiện cho việc sử dụng sau này, cần chọn dạng mô hình thích hợp.
Đặc điểm và mô hình các đối tượng trong công nghiệp thực phẩm
Tính chất tính động học của đối tượng được thể hiện trên đặc tính tần số hoặc đặc
tính thời gian, trong đó, đặc tính quá độ (đáp ứng bước) phản ánh đầy đủ và trực quan các
đặc điểm động học của đối tượng.
Điểm đặc trưng của các đối tượng công nghiệp là có trễ vận tải và có quán tính
lớn. Trễ vận tải còn gọi là trễ tuyệt đối, trễ thời gian chết (dead time) …, đó là thời gian
kể từ thời điểm xuất hiện xung đầu vào đến khi đại lượng ra bắt đầu thay đổi so với giá trị
xác lập ban đầu.
Độ quán tính của đối tượng phản ánh tốc độ phản ứng của nó, kể từ khi đại lượng
ra đã bắt đầu thay đổi. Do có quán tính lớn và trễ vận tải nên hầu hết các đối tượng điều
khiển công nghiệp cũng như hệ thống điều khiển tương ứng là những bộ lọc tần số thấp.
Trong thực tế, các đối tượng tĩnh có khả năng thiết lập trạng thái cân bằng tương
ứng với độ lớn của xung đầu vào, nên có tên gọi là đối tượng “có tự cân bằng”. Các đối
tượng điều chỉnh nhiệt độ, áp suất, lưu lượng,… nói chung là những đối tượng có tự cân
bằng.
Sự phân tích đặc tính quá độ của các đối tượng có tự cân bằng trong thực tế cho
thấy rằng chúng có bốn dạng phổ biến.
Hình 1. Dạng đặc tính quá độ phổ biến của các đối tượng tự cân bằng
Trên hình 1 – a, đường cong quá độ thể hiện đặc điểm động học của một khâu
quán tính bậc nhất. Tốc độ biến thiên đại lượng ra của nó đạt giá trị lớn nhất tại thời điểm
xuất hiện xung đầu vào.
Trên hình 1 – b, đường cong quá độ có một điểm uốn tại tu (điểm dốc nhất) và có
hình dạng chữ S. Đó là dáng điệu của khâu quán tính bậc cao, bao gồm một số khâu quán
tính bậc nhất mắc nối tiếp. Độ quán tính của đối tượng loại này tương đương với tổng độ
quán tính của các khâu quán tính bậc nhất hợp thành.
Trên hình 1 – c, đường cong quá độ thể hiện đặc điểm của đối tượng quán tính bậc
nhất có trễ, tạo bởi khâu quán tính bậc nhất mắc nối tiếp với khâu trễ.
Trên hình 1 – d, đường cong quá độ có hình chữ S với một điểm uốn, nằm dịch về
bên phải một khoảng , kể từ gốc toạ độ. Đó là đặc tính quá độ của đối tượng quán tính
bậc cao có trễ, được hình thành bởi mạch mắc nối tiếp một số khâu quán tính bậc nhất và
một khâu trễ.
Tóm lại, đối tượng có tự cân bằng với các đặc tính quá độ trên hình 1, có thể biểu
diễn bởi một khâu quán tính bậc n mắc nối tiếp với một khâu trễ. Hàm truyền của chúng
có dạng:
K -τs
O cb ( s ) = ×e
( 1+ T 1 s )( 1+ T2 s ) … ( 1+ Tn s )
Trong đó
Bảng dữ liệu mẫu của thí nghiệm kiểm tra khả năng bám nhiệt độ đặt
35
30
25
20
y(t)
15
10
0
0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 2000
t(s)
ΔT T (xác đinh)
Từ hình vẽ :
Hằng số quán tính T = 588 -35 = 553s ( đoạn AC = hình chiếu AB lên Ox)
y (∞ )
Hệ số truyền: K = với uo là độ lớn của xung bậc thang đầu vào.
uo
37.5
K= = 39,43
0.951
Hình 2.1. Đầu đo nhiệt độ và độ ẩm tích hợp trên cùng một phiến
Các cảm biến đo độ ẩm theo phương pháp này có hai loại phổ biến:
Cảm biến đo có điện trở biến thiên theo độ ẩm hay còn được gọi là ẩm kế điện trở
có nguyên lý sau: điện trở của vật liệu cách điện sẽ xác định được độ ẩm của nó, mà độ
ẩm của vật liệu lại trực tiếp phụ thuộc vào độ ẩm của môi trường không khí bao quanh
nó. Mối quan hệ giữa điện trở với độ ẩm tương đối thường có dạng hàm mũ với hệ số mũ
âm như ở trên hình dưới đây (Hình 2.2).
Đặc trưng của mối quan hệ là sự suy giảm nhanh chóng của điện trở khi độ ẩm vật
liệu tăng lên do độ ẩm không khí môi trường tăng lên.
Một vật liệu cách điện được sử dụng làm cảm biến đo độ ẩm phải tuân thủ những
yêu cầu cơ bản đã được nêu ra trên đây về độ nhạy, về tính nhất quán và về tính nhạy
cảm với sự thay đổi độ ẩm môi trường xung quanh. Cũng có thể sử dụng các chất hút ẩm
để làm cảm biến đo nhiệt độ theo nguyên lý điện dẫn. Bởi vì khi độ ẩm môi trường khí
quyển thay đổi thì độ ẩm mà nó hút được cũng thay đổi để đảm bảo sự cân bằng áp suất
hơi nước trong không khí và trên bề mặt chất hút ẩm, dẫn đến hệ số điện dẫn của chất hút
ẩm cũng thay đổi theo. Có thể sử dụng nguyên lý tạo sự cân bằng áp suất hơi nước trong
khí quyển và áp suất hơi nước bão hòa trên bề mặt chất hút ẩm bằng cách thay đổi nhiệt
độ của chất hút ẩm.
Hình 2.2. Quan hệ điện trở với độ ẩm tương đối
Hình 2.4. So sánh cấu tạo phân lớp của hai loại cảm biến
Hình 2.4 thể hiện sự khác biệt về mặt cấu tạo (lỗ trống và hình chữ U nối tiếp: cài răng
lược) của hai loại cảm biến đo độ ẩm.
Hai loại cảm biến này sẽ được trình bày chi tiết hơn trong nội dung dưới đây về
hình dạng, lắp đặt, cấu tạo theo yêu cầu đo cụ thể.
1.3. Đặc điểm hình dạng bên ngoài và lưu ý lắp đặt của cảm biến đo độ ẩm
theo phương pháp điện học
Xét ở góc độ lắp đặt cảm biến, hai loại cảm biến này có phương pháp lắp đặt khá
giống nhau với đặc trưng về tính chất tích hợp trên mạch điện tử và đưa ra tín hiệu chuẩn.
Các mạch điện tử cũng như đầu cảm biến thường được bảo vệ bằng vỏ nhựa.
Trong một số trường hợp, đầu cảm biến và mạch điện tử được tách ra với các yêu
cầu đo độ ẩm của môi trường có nhiệt độ cao hoặc có đặc trưng về hóa chất (ăn mòn)
hoặc yêu cầu lắp đặt (nhỏ gọn). Hình 2.5 dưới đây thể hiện đặc điểm của cảm biến có đầu
đo (phần tử nhạy cảm) tách rời (2 chân) hoặc tích hợp với mạch điện tử (4 chân).
Hình 2.6. Cảm biến đi kèm đầu bảo vệ dạng tròn (tiện lắp đặt)
với dây kéo dài (tiện đấu nối)
Hình 2.7. Cảm biến có hiển thị tại chỗ với dạng treo tường hoặc kết nối với quá trình
công nghệ quai đầu đo dạng tròn đi kèm hoặc tách
biệt với mạch xử lý tín hiệu (truyền xa hoặc không
truyền tín hiệu đi xa - điều khiển tại chỗ)
Việc lắp đặt các thiết bị đo nhiệt ẩm cần hết sức chú ý việc tiếp xúc trực tiếp đầu đo
với môi trường dầu nhớt, dịch đường, ... có thể làm đầu đo bị hỏng hoàn toàn. Trong các
trường hợp đầu đo kém nhạy, cần vệ sinh lại đầu đo và tách bụi ra khỏi bộ phận chống
bụi.
2.Mô tả thiết bị thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm
Tương tự như cảm nhiệt độ, các cảm biến đo độ ẩm trong công nghiệp có kết cấu
chống ẩm và thoát nước thường được kết nối tới các bộ điều khiển công nghiệp có hệ số
bảo vệ công nghiệp (IP) nhất định (ví dụ IP65, IP67 ...).
Thiết bị thí nghiệm có hình dáng và cấu tạo của đầu đo tương tự hình 2.6 và hệ
thống hiển thị và điều khiển tại chỗ tương tự trên hình 2.7.
Hình 2.8. Hình ảnh mô tả đầu đo và bộ hiển thị - điều khiển
độ ẩm trong BTN
Sinh viên thực hiện thí nghiệm sẽ lấy dữ liệu về nhiệt độ (t: oC) và độ ẩm tương đối
(φ: %) của không khí tại các điểm đo và so sánh sự thay đổi của lượng chứa ẩm (d: g
ẩm/kg KKK) trong các trường hợp khác nhau.
3.Kết quả thí nghiệm
- Các giá trị đo được biến thiên không có quy luật, do trong quá trình đo còn nhiều ảnh
hưởng như thao tác, sai số thiết bị, cách đo, cũng như các yếu tố khách quan khác của
môi trường
3.1. Số liệu
Thời
t1 (oC) φ1 (%) d1 (g/kg) t2 (oC) φ2 (%) d2 (g/kg) Δd= |d2-d1|
gian
Áp suất bão hòa tương ứng với nhiệt độ tính theo công thức:
4026.42
pbh = exp(12 - ) (bar)
235.5+t
φ 0. p bh/100
Lượng chứa ẩm d (g ẩm/kg kk): d = 621* Với: p = 1.013 bar
p−φ 0. p bh/100
2
(g/kg)
1.5
∆d
0.5
0
0 10 20 30 40 50 60 70
Thời gian (phút))
Đồ thị độ ẩm tương đối theo nhiệt độ
85
80
Độ ẩm tương đối (%)
75
70
65
60
30.5 31 31.5 32 32.5 33 33.5 34 34.5 35 35.5
φ1
Nhiệt độ (độ C)
φ2
26
25
Hàm ẩm (g/kg)
24
23
22
21
20
30.5 31 31.5 32 32.5 33 33.5 34 34.5 35 35.5
d1 Nhiệt độ (độ C)
d2
- Đồ thị miêu tả sự tương quan giữa độ ẩm tương đối, nhiệt độ và lượng ẩm.
+ Biến thiên hàm ẩm trước và sau buồng sấy dao động nhỏ thường trong khoảng nhỏ hơn
0.3, tuy nhiên có sự thay đổi lớn ở khoảng 40-50℃ tăng lên gần đến 1.
+ Khi nhiệt độ tăng thì độ ẩm tương đối giảm. Lượng ẩm biến thiên lúc tăng lúc giảm,
nhưng xét tổng thể chung vẫn giảm;
+ Hàm ẩm của tác nhân sấy (khí nóng) có xu hướng tăng dần nhưng không đều có lúc
tăng, có lúc giảm và có sự tăng lớn từ khoảng nhiệt độ 34.5 - 35℃ rồi lại theo xu hướng
cũ.
+ Các giá trị đo được biến thiên không có quy luật, do trong quá trình đo còn nhiều ảnh
hưởng từ bên trong và cả môi trường bên ngoài
+ Các khoảng đột biến trong đồ thị có thể do sai số từ thiết bị cách đo hoặc cũng có thể
là do thao tác sai trong lúc làm