You are on page 1of 116

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ LOAN

HO¹T §éNG C¤NG CHøNG TR£N §ÞA BµN TØNH B¾C GIANG -
THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ LOAN

HO¹T §éNG C¤NG CHøNG TR£N §ÞA BµN TØNH B¾C GIANG -
THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật


Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ HIỀN

HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Loan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CHỨNG ..... 7
1.1. Khái niệm, vai trò của công chứng trong quản lý hành chính
nhà nước .............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm công chứng ........................................................................ 7
1.1.2. Vai trò của công chứng trong quản lý hành chính nhà nước ............ 22
1.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động công chứng ................................... 22
1.2.1. Bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên .................. 22
1.2.2. Bảo đảm về kinh tế, xã hội ................................................................ 24
1.2.3. Bảo đảm về pháp lý ............................................................................ 25
1.3. Xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò điều chỉnh của
pháp luật............................................................................................ 27
1.3.1. Xã hội hóa hoạt động công chứng...................................................... 27
1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò của
pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa .... 32
1.3.3. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện
xã hội hóa ........................................................................................... 39
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG VÀ
HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG Ở TỈNH BẮC GIANG .............. 44
2.1. Thực trạng pháp luật về công chứng.............................................. 44
2.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng ........................................................................................ 45
2.1.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng ......... 52
2.1.3. Quy định của pháp luật về công tác quản lý nhà nước về công chứng ....... 55
2.1.4. Đánh giá chung thực trạng pháp luật về công chứng ......................... 60
2.2. Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang ................... 66
2.2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Bắc Giang có tác động đến hoạt
động công chứng ................................................................................ 66
2.2.2. Thực trạng về công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng ........ 69
2.2.3. Thực trạng, kết quả thực hiện các thủ tục công chứng ...................... 73
2.2.4. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về công chứng .................... 74
2.2.5. Đánh giá chung về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang ............ 81
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG
CHỨNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG
CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG ........................... 90
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng ............................. 90
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang........................................................................... 92
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng ........... 92
3.2.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền .................. 93
3.2.3. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật
trong lĩnh vực công chứng và văn bản liên quan đến công chứng
trên địa bàn tỉnh .................................................................................. 94
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ công chứng viên .......................................................................... 95
3.2.5. Củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác
quản lý nhà nước về công chứng........................................................ 96
3.2.6. Thành lập Hiệp hội công chứng, phát huy vai trò tự quản của tổ
chức xã hội nghề nghiệp về công chứng ............................................ 97
3.2.7. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung, chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức hành
nghề công chứng với các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất........... 97
3.2.8. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
hoạt động công chứng ........................................................................ 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng Tên bảng Trang


Bảng 2.1: Diện tích, dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế các huyện,
thành phố trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 69
Bảng 2.2: Số lượng tổ chức hành nghề công chứng và số công
chứng viên 72
Bảng 2.3: Số hợp đồng, giao dịch đã công chứng 74
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch dân sự ngày một
gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp, chính vì vậy đòi hỏi Nhà nước
phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý cũng như bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của nhà nước, tổ chức và của công dân khi tham gia giao dịch. Một
trong những biện pháp quản lý đối với các giao dịch dân sự, đó là hoạt động
công chứng. Công chứng đóng vai trò là thiết chế quản lý các hợp đồng, giao
dịch, chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của những văn bản, có giá trị thi
hành không chỉ đối với các bên giao kết, mà còn đối với các bên có liên quan
khác, qua đó, Nhà nước có thể kiểm tra, giám sát, điều tiết một cách khách
quan, công minh và hiệu quả các quan hệ xã hội thông qua những hợp đồng,
giao dịch này. Công chứng có thể coi là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm
bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí
cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp dân sự.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động công chứng, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về công
chứng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ:
Hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm vi của
công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mô
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ
chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng
bước xã hội hóa công việc này [3].
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhiều văn bản pháp luật về
công chứng được ban hành, trong đó phải kể đến Luật Công chứng được

1
Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, tiếp đến là Luật Công chứng
được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/6/2014 có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2015. Kể từ khi Luật Công chứng được ban hành, hoạt động công
chứng trong cả nước nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói
riêng đã có những chuyển biến mạnh mẽ, số lượng công chứng viên và tổ
chức hành nghề công chứng tăng lên rõ rệt, ngoài các Phòng công chứng do
Nhà nước thành lập còn có các Văn phòng công chứng do công chứng viên
thành lập. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt
động công chứng, việc tăng về số lượng công chứng viên và tổ chức hành
nghề công chứng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề, đó là sự phát triển “nóng”
của các tổ chức hành nghề công chứng, các Văn phòng công chứng phát triển
quá nhanh và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm, nơi có điều kiện kinh tế - xã
hội phát triển dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh; vấn đề kiểm soát hoạt
động của công chứng viên và chất lượng các văn bản công chứng v.v… Chính
vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động công chứng và đưa ra các giải
pháp nâng cao toàn diện chất lượng hoạt động công chứng là một yêu cầu cấp
thiết, trước mắt cũng như lâu dài.
Từ thực tiễn hoạt động công chứng ở địa phương, trên cơ sở nghiên cứu
lý luận về nhà nước và pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động công
chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp” làm luận
văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở địa phương nói riêng
và trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về công chứng nói chung đã được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Rất nhiều những tình

2
huống pháp lý cụ thể về công chứng được đề cập trong nhiều bài viết ở các
tạp chí chuyên ngành luật như tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, nhiều công trình
nghiên cứu, đề tài nghiên cứu , các bài viết đăng trên các tạp chí bàn luận về
vấn đề này, trong đó có thể kể đến các công trình khoa ho ̣c:
- Luận án tiến sỹ: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác
định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở nước ta hiện nay", của tác giả Đặng Văn Khanh, năm 2000;
- Luận văn thạc sỹ: "Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước đối
với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" của tác
giả Nguyễn Minh Hợi, năm 2009;
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt
động của công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay"
của tác giả Nguyễn Văn Cường, năm 2009;
- Luận văn: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động
công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Hữu Hùng,
năm 2010;
- Luận văn thạc sỹ: "Quá trình phát triển và phương hướng hoàn
thiện pháp luật công chứng ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Nhật
Quang, năm 2011;
- Luận văn: "Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay" của tác giả Nguyễn Phi Hà, năm 2011;
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và giải quyết vấn đề công
chứng ở nhiều góc độ khác nhau, có nhiều nội dung liên quan đến hoạt động
công chứng, song những nghiên cứu đó mới chỉ phân tích, đánh giá vấn đề
công chứng ở một số phương diện nhất định, hoặc ở một góc nhìn khác, chưa
có công trình nào nghiên cứu về công chứng một cách đầy đủ, đặc biệt là đối

3
với một địa bàn cụ thể như Bắc Giang. Mặc dù vậy, các công trình trên vẫn là
nguồn tài liệu quý giá, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu đề tài
“Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải
pháp” của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luâ ̣n văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luâ ̣n , thực tra ̣ng hoạt động về
công chứng ở tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng , giải
pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động công chứng , đáp ứng yêu cầ u nhiê ̣m vu ̣
trong giai đoạn mới của Bắc Giang nói riêng và của nước ta nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang – Thực trạng và giải pháp” nhằ m giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động công chứng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
hiê ̣n nay;
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực , hiê ̣u quả
quản lý hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản
lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ khi
Luật Công chứng có hiệu lực (ngày 01/01/2015) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luâ ̣n văn đươ ̣c nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghiã Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điể m của Đảng về nhà nước và pháp
luật, đồng thời dựa trên chủ trương của Nhà nước ta về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp.

4
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luâ ̣n văn đươ ̣c nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luâ ̣n của chủ nghiã
duy vâ ̣t biê ̣n chứng và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như
phương pháp so sánh , thống kê, phân tić h, tổ ng hơ ̣p, điều tra xã hô ̣i ho ̣c ... để
làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa ho ̣c của luâ ̣n văn
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về lý
luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang, luận văn có một
số đóng góp khoa học sau đây:
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động công chứng
trong điều kiện chúng ta đang đẩy mạnh xã hội hóa công chứng , thực hiện
mục tiêu cải cách tư pháp , cải cách hành chính , xây dựng nhà nước pháp
quyề n xã hội chủ nghĩa.
- Phân tić h thực tra ̣ng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang . Rút ra
những bài ho ̣c kinh nghiê ̣m để phá t huy những mă ̣t ma ̣nh , hạn chế những tồn
tại nhằm nâng cao hiệu lực , hiê ̣u quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực này.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc
Giang trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ một cách có hệ thống, khoa học các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động công
chứng, sự cần thiết và các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động công chứng.
- Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn có thể làm tài liê ̣u tham khảo trong
nghiên cứu và giảng da ̣y ta ̣i các cơ sở đào ta ̣o cử nhân luâ ̣t , cử nhân hành
chính, các trường, trung tâm đào ta ̣o, bồ i dưỡng cán bô ̣, công chức...
- Những kế t luâ ̣n và những giải pháp rút ra từ luâ ̣n văn có thể làm tài

5
liê ̣u tham khảo trong hoa ̣t đô ̣ng thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về
công chứng ở tỉnh Bắc Giang hiê ̣n nay.
- Luâ ̣n văn có thể sử du ̣ng làm tài liê ̣u tham k hảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan đế n công chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 07 tiết.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CHỨNG

1.1. Khái niệm, vai trò của công chứng trong quản lý hành chính
nhà nước
1.1.1. Khái niệm công chứng
Để tìm hiểu bản chất, vai trò, ý nghĩa của một vấn đề, trước tiên cần
xác định được khái niệm của vấn đề đó. Công chứng cũng vậy, việc xác định
rõ khái niệm và bản chất công chứng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
quan trọng, quyết định đến sự hình thành thể chế cho cơ chế hoạt động, mô
hình tổ chức và căn cứ vào đó khẳng định được phạm vi, nội dung công
chứng; đảm bảo phát huy vai trò công chứng và hiệu quả công chứng trong
đời sống xã hội.
Tìm hiểu về nguồn gốc công chứng cho thấy, công chứng là nghề sớm
xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép,
soạn thảo văn bản và làm chứng. Công chứng viên, theo tiếng Latinh là
“Notarius”. “Notarius” trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục
các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người
ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa
án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy
chuyển nhượng sở hữu.
Hiện nay, ở mỗi nước khác nhau, pháp luật cũng đưa ra những khái
niệm về công chứng khác nhau:
Tại Cộng hòa Pháp, các nhà làm luật không trực tiếp đưa ra khái niệm
về công chứng, thay vào đó, họ xây dựng khái niệm công chứng viên, chủ thể
thực hiện công chứng. Điều 1, Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về
Điều lệ Công chứng của nước Cộng hòa Pháp quy định:

7
Công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập các
hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đem lại
một tính xác thực, giống như các văn bản của các cơ quan công
quyền khác và để bảo đảm ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp
các bản sao văn bản công chứng [44].
Ở khái niệm này, quan niệm về công chứng được ghi nhận thông qua
nhiệm vụ của công chứng viên nhằm đáp ứng yêu cầu tối thiểu đối với một
văn bản công chứng (như ngày tháng tạo lập văn bản công chứng đó, như lưu
giữ và cấp bản sao văn bản công chứng). Qua đó, khái niệm khẳng định tính
công quyền của công chứng thông qua việc quy định chủ thể thực hiện là cá
nhân công chứng viên, đồng thời là viên chức công và quy định giá trị pháp lý
của văn bản công chứng tương đương với những văn bản do cơ quan công
quyền ban hành; mục đích của hoạt động công chứng là tính xác thực của các
hợp đồng và văn bản được công chứng.
Khái niệm công chứng viên của Cộng hòa Bê Nanh giống như khái
niệm công chứng viên của Cộng hòa Pháp, tuy nhiên có quy định bổ sung về
phạm vi điều chỉnh về không gian của khái niệm. Điều 1, Điều lệ Công chứng
nước Cộng hòa Bê Nanh được ban hành kèm theo Lệnh số 48/PR ngày
29/8/1968 nêu rõ: Trong phạm vi thẩm quyền của Tòa thượng thẩm
COTONU, công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập những
văn bản và hợp đồng mà qua đó các bên đương sự phải hoặc muốn tạo cho
chúng có tính xác thực như các văn bản của chính quyền và có trách nhiệm
bảo đảm đúng ngày tháng của các văn bản hợp đồng, lưu giữ và cấp cho
đương sự bản sao của các văn bản, hợp đồng đó [21].
Tương tự, khái niệm công chứng viên được ghi nhận trong pháp luật
của Cộng hòa Ba Lan. Khoản 1, Điều 1, Luật ngày 14/2/1991 của nước
Cộng hòa Ba Lan về công chứng cho rằng: "Công chứng viên được bổ

8
nhiệm để lập những văn bản mà trong đó các bên phải hoặc muốn đem lại
một tính đích thực" [20].
Ở Việt Nam, đến nay, về mặt lý luận, khái niệm công chứng chưa được
làm rõ, quan niệm về công chứng mới chỉ được thể hiện thông qua các văn
bản pháp lý về công chứng.
Thuật ngữ "công chứng" xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam trong Nghị
định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Cho đến nay, ở nước
ta khái niệm công chứng chưa được đưa ra dưới hình thức một nghiên cứu
khoa học pháp lý chính thức mà chỉ được nêu ra dưới hình thức các văn bản
quy phạm pháp luật. Ví dụ khái niệm công chứng lần đầu tiên được nêu tại
Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công
chứng, theo đó:
Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước,
nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn
bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện
đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng
hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ
chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc
giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa [4].
Tại Điều 1 Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng quy định:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các
hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ

9
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức),
góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa [39]..
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ.
Tại Điều 2 Luật Công chứng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua ngày 29/11/2006 xác định:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là
hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng [46].
Qua phân tích các quan niệm về công chứng đã được ghi nhận trong hệ
thống pháp luật ở Việt Nam, có thể thấy, hầu hết các khái niệm đều chứa
đựng những yếu tố: Chủ thể thực hiện công chứng, mục đích công chứng, giá
trị pháp lý của văn bản công chứng..., cụ thể:
Về chủ thể công chứng, có thể là cá nhân công chứng viên hoặc tổ
chức (cơ quan có thẩm quyền công chứng theo quy định của pháp luật). Cơ
quan có thẩm quyền công chứng có thể là đơn vị thực hiện công chứng
chuyên nghiệp (ví dụ, phòng công chứng nhà nước, văn phòng công chứng)
hay cũng có thể là đơn vị thực hiện công chứng (sau này còn được gọi dưới
cái tên chứng thực) một cách kiêm nhiệm như Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền. Tại Điều 24, Pháp lệnh Lãnh sự ngày 24/11/1990 của Hội đồng Nhà
nước quy định nhiệm vụ "thực hiện công chứng” [38] của cơ quan lãnh sự
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước ngoài và các Điều 19, Nghị
định số 45/HĐBT; Điều 16, Nghị định số 31/CP và Điều 25, Nghị định số
75/2000/NĐ-CP cũng quy định chức trách giải quyết yêu cầu công chứng cho

10
công dân Việt Nam tại nước ngoài của hệ thống cơ quan lãnh sự. Như vậy, cơ
quan lãnh sự, mặc dù không phải là một cơ quan công chứng chuyên trách
nhưng hoạt động của họ liên quan đến lĩnh vực bổ trợ tư pháp này vẫn được
gọi là "công chứng". Từ cách quy định chủ thể công chứng qua từng thời kỳ,
cho thấy chế định công chứng Việt Nam luôn ghi nhận yếu tố công quyền
trong hoạt động công chứng.
Về mục đích của công chứng, giống như các quốc gia khác, mục đích
của công chứng Việt Nam chính là tính "xác thực" của hợp đồng, giao dịch
hay sự kiện pháp lý mà nó đứng ra làm chứng. Tuy nhiên, cách quan niệm
như thế nào là "xác thực" trong hoạt động công chứng hiện vẫn chưa được
thống nhất và việc đồng nhất tính xác thực của hợp đồng, giao dịch với tính
xác thực của giấy tờ, tài liệu chưa được phân định rõ ràng theo mục đích thật
sự mà công chứng hướng đến. Bên cạnh đó, tại Luật Công chứng năm 2006,
lần đầu tiên ghi nhận mục đích của công chứng là việc chứng nhận tính "hợp
pháp". Có thể khẳng định, trong thời điểm hiện tại, xác nhận tính hợp pháp
của giao dịch, hợp đồng chính là một trong những mục đích hàng đầu của
công chứng nước ta. Sở dĩ có quy định trên là do đứng về mặt ngữ nghĩa, xác
thực và hợp pháp là hai phạm trù khác hẳn nhau. Trên cả bình diện lý luận và
thực tế, một sự việc "xác thực" không có nghĩa là sự việc đó hợp pháp. Quy
định này trong Luật Công chứng năm 2006 nhằm khẳng định dứt khoát, bên
cạnh tính "xác thực" thì tính "hợp pháp" của hợp đồng, giao dịch là mục đích
mà công chứng cần đạt được.
Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng, các văn bản công chứng
có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không
có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công
chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách
hàng, hạn chế mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra. Về phương diện nhà nước

11
cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý các giao dịch; từ
đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh
nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt
hơn các hoạt động giao dịch.
Như vậy, qua các giai đoạn khác nhau, khái niệm công chứng có một số
thay đổi nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm chính thức của Nhà
nước về bản chất công chứng, phản ánh kỹ thuật lập pháp của nước ta qua
từng thời kỳ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
Ngoài những khái niệm được ghi nhận trong hệ thống pháp luật như
nêu ở trên, các nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này cũng đưa ra nhiều
quan niệm công chứng khác nhau. Trong Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung
hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện
nay" [40], tác giả Đặng Văn Khanh đã nêu ra khái niệm công chứng như sau:
"Công chứng là việc công chứng viên, người có thẩm quyền công chứng tạo
lập ra những văn bản, hợp đồng mà đương sự phải hoặc muốn tạo cho chúng
có giá trị pháp lý như những văn bản của các cơ quan nhà nước thông qua
việc lập, chứng nhận và lưu giữ các văn bản, hợp đồng đó" [40, tr.33]; trong
khi đó theo tác giả Dương Khánh thì:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực của các hoạt động giao dịch và các sự kiện pháp lý khác theo
quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành đối với cá nhân, tổ
chức có liên quan, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là
vô hiệu [41, tr.169].

12
Về cơ bản, những khái niệm trên phần nào đã thể hiện, phản ánh rõ hơn
bản chất của công chứng, đặc biệt trong một số vấn đề cụ thể như chủ thể,
phạm vi công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng... và bước đầu
cung cấp cho chúng ta một cách nhìn, cách hiểu khái quát nhất về công
chứng. Tuy nhiên, ở chừng mực nào đó, những khái niệm này vẫn chưa phản
ánh hết phạm vi, bản chất cũng như đặc trưng của công chứng.
Luật Công chứng năm 2014 là văn bản pháp luật mới nhất đã đưa ra
một khái niệm công chứng trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm trong khái niệm
công chứng của các văn bản pháp luật trước đó và quan điểm của một số luật
gia nghiên cứu về lĩnh vực này, tại Điều 2 quy định:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng,
giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà
theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu công chứng [47].
Từ sự phân tích về những quan niệm khác nhau về công chứng và khái
niệm mới nhất về công chứng được nêu tại Luật Công chứng năm 2014, cho
thấy công chứng có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện công chứng là công chứng viên.
Tìm hiểu lịch sử phát triển công chứng ở nước ta kể từ khi Nghị định số
143/HĐBT ngày 22/11/1981 đến nay, nhận thức về chủ thể thực hiện công
chứng thể hiện qua các văn bản pháp luật có sự thay đổi rất lớn, từ việc không
quy định chủ thể thực hiện sau đó quan niệm chủ thể thực hiện công chứng là
tổ chức (tổ chức công chứng của nhà nước và UBND cấp huyện, cấp xã) và

13
hiện nay, chủ thể thực hiện công chứng được xác định là cá nhân công chứng
viên. Sự thay đổi này xuất phát từ mục tiêu chuyên môn hoá, chuyên nghiệp
hoá hoạt động công chứng như một loại hình nghề nghiệp, công chứng viên là
người được nhà nước cho phép hoạt động hành nghề công chứng đồng thời
chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình.
Thứ hai, mục đích của công chứng là chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của các hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Tính xác thực trong hoạt động công chứng không chỉ đơn thuần là mô
tả những gì đã diễn ra trên thực tế, mà nó còn bao gồm cả tính hợp pháp, mặc
dù được biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Nếu như đối với tính xác
thực ở cấp độ đơn giản thì tính hợp pháp thể hiện ở chỗ người yêu cầu công
chứng phải có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định và họ giao kết
hợp đồng, giao dịch trong trạng thái tinh thần minh mẫn, không chịu bất kỳ
một sự ép buộc nào và có đủ khả năng nhận thức về hành vi giao dịch của
mình. Ở cấp độ cao hơn, tính hợp pháp thể hiện ở chỗ nội dung giao kết phải
được xây dựng dựa trên những giấy tờ, tài liệu đáng tin cậy, nội dung thoả
thuận của các bên phải phù hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với
đạo đức xã hội.
Thứ ba, công chứng có chức năng bổ trợ tư pháp
Chức năng này thể hiện ở chỗ, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ
và giá trị thực hiện. Văn bản công chứng do công chứng viên lập theo trình tự,
thể thức bắt buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng
cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao
dịch. Văn bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các
bên tham gia giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa
các bên, là căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng
các cam kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.

14
Bên cạnh đó, công chứng là hoạt động gắn liền với bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch,
đồng thời bổ trợ cho các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp
nên được xếp vào nhóm chế định bổ trợ tư pháp. Theo quy định hiện hành,
việc sắp xếp chế định công chứng vào các chế định bổ trợ tư pháp là theo
Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020; Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tư pháp. Thông qua việc tạo điều kiện các hợp đồng, giao dịch diễn ra
thuận lợi, an toàn và phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, công
chứng góp phần hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước một cách thường xuyên,
liên tục, bảo đảm trật tự, kỷ cương và tuân thủ pháp luật trên các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động công chứng.
Thứ tư, hoạt động công chứng vừa mang tính công quyền, vừa mang
tính dịch vụ.
Tính công quyền thể hiện ở chỗ, công chứng viên thay mặt Nhà nước
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, đem lại cho
văn bản công chứng giá trị pháp lý đặc biệt, đó là: Giá trị thi hành và giá trị
chứng cứ. Văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao hơn hẳn những loại
chứng cứ khác, bởi nó mang dấu ấn của quyền lực công và được đảm bảo
bằng trách nhiệm đặc biệt của công chứng viên - người được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện chức năng công chứng.
Tính dịch vụ thể hiện ở chỗ, bằng hành vi công chứng, công chứng
viên đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa
tranh chấp có thể xảy ra giữa các bên. Điều đó cũng có nghĩa là công chứng
viên đã cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức khi
tham gia giao dịch.

15
Thứ năm, công chứng viên được hoạt động hành nghề công chứng
trong phạm vi pháp luật quy định
Nhìn một cách giản lược, hiện nay pháp luật công chứng xác định phạm
vi công chứng bằng hai phương pháp. Thứ nhất là liệt kê những hợp đồng, giao
dịch phải được công chứng, trong đó xác định cụ thể những trường hợp chỉ
được công chứng và trường hợp nào có thể lựa chọn giữa hình thức công chứng
và hình thức chứng thực. Thông thường, hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy
định phải công chứng được coi là những hợp đồng, giao dịch quan trọng, có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến an sinh xã hội. Xét dưới một giác độ nào đó, phương
pháp này mang nặng tính chất quản lý hành chính Nhà nước. Thứ hai, dựa trên
yêu cầu tự nguyện của đương sự. Khác với phương pháp thứ nhất, ở phương
pháp này, các hợp đồng, giao dịch không thuộc diện bắt buộc phải công chứng
mà người yêu cầu công chứng, với ý thức chủ động sử dụng pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, tự nguyện đề nghị công chứng
hợp đồng, giao dịch mà họ giao kết. Phạm vi công chứng xác định theo biện
pháp này tiêu biểu cho vai trò bổ trợ tư pháp của hoạt động công chứng với
nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp chứng cứ phục vụ công tác xét xử của các cơ
quan tài phán mà trước hết và chủ yếu là của Tòa án.
Ngoài ra, với một số đối tượng giao dịch đặc biệt như quyền sử dụng
đất, nhà ở… công chứng viên chỉ được thực hiện công chứng các hợp đồng,
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi đăng ký hành nghề công chứng.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu cho thấy công chứng có những chức năng
cơ bản sau đây:
Một là, chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản
Hay nói cụ thể hơn là hợp pháp hóa sự kiện, thỏa thuận của các bên thể
hiện trong hợp đồng, văn bản. Do hợp đồng, văn bản chỉ là phương tiện

16
chuyển tải các sự kiện, thỏa thuận nên chính những sự kiện, thỏa thuận mới là
cái đích mà hành vi hợp pháp hóa của công chứng viên hướng tới. Khi xảy ra
tranh chấp, để xác định chính xác ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp
đồng hay tạo lập văn bản, cơ quan tài phán phải trải qua quá trình xác minh,
điều tra với một trình tự, thủ tục không đơn giản nhằm làm sáng tỏ sự thật.
Đặc biệt, công việc này tạo ra áp lực rất lớn do số lượng tranh chấp ngày càng
nhiều, trong khi tính chất cũng ngày càng phức tạp. Nhằm ngăn ngừa vi phạm
pháp luật hay tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai, chế định công chứng
quy định chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản nhằm tạo ra cho chúng
một giá trị pháp lý tương đương với quyết định do cơ quan công quyền ban
hành. Điều đó có nghĩa những văn bản, hợp đồng công chứng cũng sẽ được
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước, giảm
thiểu tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết. Văn bản công chứng không
chỉ đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà
nó còn có giá trị thực hiện đối với bên thứ ba có liên quan. Điều này có nghĩa
giá trị pháp lý của văn bản, hợp đồng công chứng cao hơn hẳn văn bản, hợp
đồng cùng loại nhưng không được công chứng. Nguồn gốc giá trị pháp lý của
văn bản công chứng xuất phát từ quyền năng mà công chứng viên được pháp
luật giao phó cũng như tính chất công vụ của hoạt động công chứng.
Hai là, chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ
Có thể nói, đây là một trong những chức năng cơ bản nhất của công
chứng nói chung. Hiện nay hệ thống pháp luật của nước ta đang xếp công
chứng là chế định bổ trợ tư pháp, tức là công chứng ra đời, tồn tại nhằm phục
vụ cho công tác tài phán mà trước hết và chủ yếu là của cơ quan Tòa án. Ngay
tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác
công chứng, chức năng này đã được khẳng định qua việc quy định mục đích
của công chứng là "ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết

17
các tranh chấp được thuận lợi" [4]. Đây là một trong những nội dung thể hiện
trực tiếp nhất, cụ thể nhất chức năng tạo lập nguồn chứng cứ của công chứng.
Đặc biệt, chức năng tạo lập nguồn chứng cứ còn được thể hiện thông qua quy
định văn bản công chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên, có giá
trị chứng cứ. Điều 1, Nghị định số 45/HĐBT khẳng định: "Các hợp đồng và
giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ" [39]; trong khi "các hợp
đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa
án nhân dân tuyên bố là vô hiệu" [15] được ghi nhận tại Điều 1, Nghị định số
31/CP. Đến khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ra đời, giá trị chứng cứ của văn bản
công chứng được coi trọng hơn khi lần đầu tiên giá trị pháp lý trong đó có giá trị
chứng cứ của văn bản công chứng được quy định riêng tại một điều luật, cụ thể là
"văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp
được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị
định này hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu" [15, Điều 14, Khoản 2] và sau đây
là nội dung Luật Công chứng 2014: "Văn bản công chứng có giá trị chứng
cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng
minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu" [47, Điều 5, Khoản 2].
Ba là, chức năng tư vấn cho người yêu cầu công chứng và các bên
tham gia giao dịch
Chức năng này được thể hiện ở một số điều luật xác định công chứng
viên có nhiệm vụ hướng dẫn trình tự, thủ tục công chứng, giải thích quyền và
nghĩa vụ cho các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch.... Mục 2, Phần I,
Thông tư số 858/QLTPK nêu rõ:
Để tránh trường hợp do không hiểu pháp luật, đương sự tự
gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, khi thực hiện
các việc làm công chứng, công chứng viên phải giải thích cho

18
đương sự hiểu quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, đồng
thời phân tích cho họ hiểu hậu quả pháp lý của những việc làm
công chứng không thích hợp đó [5].
Nội dung tương tự cũng xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật về công chứng tại nước ta như Khoản 5, Điều 16, Nghị định số
45/HĐBT; Khoản 1 và Khoản 4, Điều 21, Nghị định số 31/CP; Khoản 2 và
Khoản 3, Điều 37, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Về phương diện từ ngữ,
việc công chứng viên thông báo hậu quả pháp lý, giải thích quyền và nghĩa
vụ... cho đương sự không phải là hành vi tư vấn theo đúng nghĩa của nó.
Nhưng trên thực tế, khi thực hiện "hướng dẫn" trình tự, thủ tục, "giải thích"
quyền và nghĩa vụ, “thông báo” hậu quả pháp lý... cho đương sự, công chứng
viên đã đảm đương công việc tư vấn thực thụ một cách miễn phí. Tuy nhiên,
công chứng viên chỉ giải đáp các thắc mắc có liên quan trực tiếp, nhằm phục vụ
giải quyết một yêu cầu công chứng đã được xác định mà không có trách nhiệm
phải tư vấn các vấn đề không liên quan đến một yêu cầu công chứng cụ thể.
Không chỉ tư vấn pháp luật một cách đơn thuần, công chứng viên còn
hướng dẫn đương sự áp dụng pháp luật. Căn cứ một yêu cầu công chứng cụ
thể, sau khi xem xét quy định hiện hành của pháp luật có liên quan, công chứng
viên tham gia góp ý nhằm giúp người yêu cầu công chứng chọn lựa một
phương thức áp dụng pháp luật đơn giản nhất, thuận tiện nhất, dễ thực hiện
nhất. Trong một số trường hợp cần thiết, công chứng viên còn đóng vai trò
trung gian giúp các bên tham gia giao dịch giải quyết bất đồng (nếu có), đưa ra
những phương án hợp lý và hợp pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của họ.
Khi tư vấn, công chứng viên phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp
luật cũng như không được phép nghiêng về quyền lợi của bất kỳ bên nào.
Trong mọi trường hợp, vai trò trung gian của công chứng viên bao giờ cũng
được đặt lên hàng đầu. Căn cứ vào quy định của pháp luật, công chứng viên

19
phải đưa ra giải pháp có lợi nhất cho đương sự. Thậm chí, nếu do vô tình hay
thiếu hiểu biết, quyền, lợi ích hợp pháp của một trong các bên tham gia giao
dịch bị thiệt hại thì công chứng viên có nghĩa vụ thông tin, cảnh báo cho những
cá nhân này biết trước hậu quả pháp lý của giao dịch, hợp đồng. Như vậy, với
tư cách người tư vấn, công chứng viên có nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho
người yêu cầu công chứng, khách hàng của mình và với tư cách một viên chức,
công chứng viên còn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Bốn là, chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ
Đây là chức năng quan trọng được ghi nhận trong pháp luật công chứng
của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu như chức năng tạo lập và xác nhận
nguồn chứng cứ là tiền đề thì chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ
chính là yếu tố quyết định bản chất bổ trợ tư pháp của công chứng. Có thể
khẳng định văn bản công chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên,
phương tiện ghi nhận trung thực, toàn vẹn ý chí của các bên tham gia giao
kết hợp đồng, giao dịch chính là nguồn chứng cứ chủ yếu được công chứng
viên lưu trữ. Chính vì lẽ đó, lưu trữ văn bản công chứng (và văn bản chứng
thực) đã được pháp luật công chứng của nước ta ghi nhận từ rất sớm. Điểm
10, Phần I, Thông tư số 858/QLTPK nêu rõ: "Các tài liệu công chứng phải
được bảo quản, lưu trữ tại cơ quan công chứng với đầy đủ hồ sơ kèm theo.
Việc lưu trữ, bảo vệ các tài liệu công chứng phải bảo đảm không hư hỏng,
mất mát và tiện sử dụng khi cần thiết" [5], trong khi Khoản 4, Điều 16, Nghị
định số 45/HĐBT quy định nhiệm vụ của công chứng viên "Lưu giữ các văn
bản công chứng" [39]; Điểm 2, Chỉ thị số 1106/CT-CC ngày 19/7/1994 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết 38/CP của Chính phủ
về cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công
dân và tổ chức trong lĩnh vực công chứng cũng khẳng định: "Tất cả các loại
hồ sơ, văn bản đã được công chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo

20
quản đầy đủ, chặt chẽ, lâu dài tại Phòng Công chứng nhà nước, nơi đã giải
quyết yêu cầu công chứng đó" [13]. Luật Công chứng năm 2014 đã dành hẳn
một chương (Chương V), bao gồm ba điều luật để quy định về "Lưu trữ hồ sơ
công chứng" [47]. Căn cứ vào nội dung các điều luật trên, chúng ta thấy lưu
trữ văn bản công chứng không chỉ là lưu trữ bản thân văn bản mà bao gồm cả
hồ sơ kèm theo. Những hồ sơ này có thể là bản chính, bản photocopy, bản sao
các loại tài liệu như căn cước của đương sự, giấy tờ chứng minh tư cách pháp
nhân của tổ chức và thẩm quyền của người đại diện, giấy chứng nhận sở hữu
chủ đối với tài sản là đối tượng của giao dịch, hợp đồng... Tuy nhiên, trong
một số trường hợp cụ thể, hồ sơ công chứng còn bao gồm cả ghi nhớ của công
chứng viên hoặc người yêu cầu công chứng về quá trình tạo lập văn bản công
chứng (ví dụ, quá trình hoàn tất một bản chúc thư), băng ghi âm, ảnh chụp...
Việc lưu trữ văn bản công chứng cùng hồ sơ đi kèm không chỉ là bảo
quản, giữ gìn văn bản, tài liệu ở trong trạng thái tốt nhất mà nó bao gồm cả tra
cứu, sử dụng những thông tin đang được lưu trữ ngay trong quá trình tác
nghiệp của công chứng viên. Đặc biệt, pháp luật quy định rất chi tiết, cụ thể
trình tự cũng như thẩm quyền khai thác thông tin, tài liệu công chứng của
cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Ví dụ, Khoản 3, Điều 54, Luật Công chứng năm
2014 quy định:
Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc
giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng
có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ
khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với
bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi
đang lưu trữ hồ sơ công chứng [51].

21
Như vậy, không phải bất kỳ ai cũng có quyền tiếp cận hoặc yêu cầu
cung cấp thông tin liên quan đến văn bản công chứng và hồ sơ, chỉ có một số
đối tượng xác định, với một trình tự, thủ tục nhất định được phép tiếp cận và
yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng cung cấp bản sao văn bản công chứng
cũng như các thông tin có liên quan.
1.1.2. Vai trò của công chứng trong quản lý hành chính nhà nước
Xuất phát từ những phân tích khái niệm công chứng nêu ở trên cho thấy,
tuy nội dung cụ thể có khác nhau nhưng vai trò của công chứng được quy định
trong các khái niệm thì không thay đổi, đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức ở trong nước cũng như ở nước ngoài, ngăn ngừa vi
phạm pháp luật đồng thời tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để đảm đương vai trò nêu trên, công chứng có hai chức năng cơ bản là
tạo lập và cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của cơ quan tài phán cũng
như thể hiện vai trò quản lý nhà nước đối với một số giao dịch nhất định
thông qua quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Tùy từng giai
đoạn, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được coi là chứng cứ thông
thường hay chứng cứ không cần phải chứng minh; chứng cứ đương nhiên hay
không còn giá trị chứng cứ khi bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Nếu như giá trị
chứng cứ là giá trị mang tính truyền thống thì giá trị thi hành của văn bản
công chứng lại không được pháp luật ghi nhận liên tục, giá trị thi hành của
văn bản công chứng thể hiện vai trò quản lý nhà nước của hoạt động này chỉ
được ghi nhận chính thức tại Thông tư số 574/QLTPK và Luật Công chứng.
Với vai trò là công cụ quản lý nhà nước, văn bản công chứng có giá trị thi
hành, không chỉ đối với các bên giao kết hợp đồng, giao dịch mà còn đối với
các bên có liên quan, ngay cả khi đó là một cơ quan nhà nước.
1.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động công chứng
1.2.1. Bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên
Chủ thể thực hiện công chứng chính là công chứng viên, vì vậy việc

22
bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên có tác động sâu rộng
đến chất lượng hoạt động công chứng.
Công chứng viên là người chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp
đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng, đảm bảo cho các
hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn
bản của cơ quan công quyền. Hành vi chứng nhận hợp đồng, giao dịch của
công chứng viên thực hiện trên cơ sở kiến thức pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp,
tư vấn giúp người yêu cầu công chứng thể hiện ý chí, nguyện vọng của họ
trong nội dung các hợp đồng giao dịch mà họ yêu cầu công chứng. Trên cơ sở
hợp đồng giao dịch đã được soạn thảo hoàn chỉnh, công chứng viên xác nhận
tích xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó bằng việc ghi lời
chứng của mình theo thể thức và nội dung pháp luật quy định. Do vậy, bảo
đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên chính là sự am hiểu sâu
sắc về pháp luật nhằm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính khách
quan, trung thực khi thực hiện chứng nhận các hợp đồng, giao dich, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng.
Ngoài vấn đề năng lực và nhận thức của công chứng viên, vấn đề về
“đạo đức hành nghề công chứng” đã được nêu trong Luật Công chứng năm
2006 là yếu tố đảm bảo chất lượng hoạt động công chứng. Trong xã hội nào
cũng tồn tại quan niệm về đạo đức. Đó là quan niệm của một xã hội, của
một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống,
đòi hỏi mỗi con người cần điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi
ích của cộng đồng xã hội. Ở khía cạnh khác, đạo đức là hệ thống các qui tắc,
chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con
người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình. Trong xã
hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đạo đức nghề nghiệp cần được đề cao hơn
nữa nhằm phát huy giá trị nhân văn của một chế độ xã hội tiến bộ. Để người

23
hành nghề có thể thực hiện công việc với chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và
phục vụ tốt nhất nhu cầu của nhân dân, thì đạo đức nghề nghiệp cần phải được
coi như một tiêu chuẩn quan trọng của người hành nghề. Hoạt động công
chứng là nghề mang tính chuyên nghiệp cao, vì vậy, càng cần phải chịu sự chi
phối bởi các quy định đạo đức hành nghề. Thực tế cho thấy, người hành nghề
công chứng nếu có đạo đức hành nghề thì sẽ tự giác tuân thủ pháp luật và có
trách nhiệm thật sự trước quyền lợi của người có yêu cầu công chứng và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngược lại, một khi người hành nghề
công chứng không thực hiện tốt đạo đức nghề nghiệp thì sẽ rất có thể vi phạm
các quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người có nhu
cầu công chứng. Giữa chấp hành pháp luật và thực hiện đạo đức hành nghề
công chứng có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
1.2.2. Bảo đảm về kinh tế, xã hội
Để thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, các yếu tố
về kinh tế, xã hội là điều kiện “cần” để thực hiện hoạt động công chứng. Bởi
lẽ, nếu như trước đây, nền kinh tế xã hội phát triển theo hướng tập trung quan
liêu bao cấp, các giao dịch dân sự giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân
với tổ chức rất ít khi diễn ra, đồng nghĩa với đó là sự “không đòi hỏi” đến
hoạt động công chứng. Từ khi nền kinh tế thị trường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các giao dịch dân sự diễn ra sôi động, tính chất ngày
một phức tạp, đòi hỏi hoạt động công chứng ngày một chuyên nghiệp và
chuyên sâu; Nhà nước cần thay đổi phương thức thực hiện và quản lý điều
hành đối với hoạt động công chứng.
Hiện nay, nước ta là nước đang phát triển, mức thu nhập của người dân
chưa đồng đều, đặc biệt, điều kiện kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa còn hạn chế nên nhu cầu sử dụng dịch vụ công chứng chưa cao,
điều này là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển nghề công chứng, số lượng tổ

24
chức hành nghề công chứng và công chứng viên sẽ có sự chênh lệch giữa các
địa bàn, vùng miền. Vì vậy, để đảm bảo hoạt động công chứng phát triển, rất
cần thiết đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội. Điều này một lần nữa
khẳng định, yếu tố kinh tế, xã hội có tác động không nhỏ đến định hướng phát
triển hoạt động công chứng.
1.2.3. Bảo đảm về pháp lý
Bên cạnh bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên; bảo
đảm về kinh tế, xã hội; việc bảo đảm về pháp lý có vai trò quyết định trong chất
lượng hoạt động công chứng. Để đảm bảo về mặt pháp lý, trước hết hệ thống
pháp luật về công chứng phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ và phù hợp với hệ
thống pháp luật có liên quan và sự phát triển ổn định, bền vững của nghề công
chứng. Cùng với đó phải đảm bảo về các nội dung cụ thể như sau:
Một là, bảo đảm quy định về hình thức công chứng, giá trị pháp lý của
việc công chứng; phạm vi công chứng: Ở nội dung này, pháp luật cần đảm
bảo hình thức công chứng là văn bản hay không cần bằng văn bản; khẳng
định giá trị pháp lý của việc công chứng đối với các bên hợp đồng, giao dịch
và công tác quản lý nhà nước. Đây chính vấn đề pháp luật công chứng cần
quy định rõ. Ví dụ, theo quy định tại Điều 5 Luật Công chứng 2014:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công
chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành
đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham
gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng
cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công

25
chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố
là vô hiệu…. [47].
Như vậy, hợp đồng, giao dịch khác đã được công chứng sẽ có hai giá
trị pháp lý cơ bản sau đây: i) Giá trị thi hành của văn bản công chứng. Theo
đó, những gì đã thoả thuận trong văn bản công chứng thì có hiệu lực bắt buộc
thi hành đối với các bên hợp đồng, giao dịch đồng thời đối với cả bên thứ ba;
ii) Giá trị chứng cứ không phải chứng minh trước Toà án. Vấn đề này đã được
quy định tại Điều 80 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 [48, tr.56]. Cơ sở
của quy định này là xuất phát từ việc thừa nhận chức năng của công chứng
viên về chứng nhận tính xác thực của các hợp động, giao dịch như đã nêu
trên. Tính xác thực do công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện
có trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa.
Việc xác định phạm vi công chứng tức là xác định những loại việc nào
thuộc thẩm quyền chứng nhận của các công chứng viên, người có thẩm quyền
công chứng, loại việc nào không thuộc thẩm quyền công chứng của họ, làm
cơ sở cho việc xác định trình tự, thủ tục thực hiện các loại việc thuộc thẩm
quyền công chứng đó. Khi đã xác định được trình tự, thủ tục thực hiện các
hành vi công chứng này, là cơ sở cho việc xác định giá trị pháp lý của văn bản
công chứng-sản phẩm của quá trình thực hiện hành vi công chứng.
Hai là, bảo đảm quy định về tổ chức hành nghề công chứng: Ở nội
dung này, pháp luật phải bảo đảm các vấn đề về: Hình thức tổ chức; quyền,
nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng; các mối quan hệ giữa tổ chức
hành nghề công chứng với người yêu cầu công chứng, với công chứng viên,
người lao động, người tập sự hành nghề công chứng và với các cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng; con dấu và tài
chính; thẩm quyền công chứng…
Ba là, bảo đảm quy định về trình tự, thủ tục công chứng: Nội dung này,
pháp luật về công chứng quy định các bước thực hiện, thành phần hồ sơ, thời

26
hạn công chứng đối với một số loại giao dịch, hợp đồng bắt buộc phải công
chứng như giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản
trên đất; di chúc; giao dịch liên quan đến bất động sản…
Bốn là, bảo đảm quy định về quản lý nhà nước về công chứng: Pháp
luật về công chứng cần có những quy định có liên quan đến quản lý nhà nước
về công chứng như: Tổ chức thi hành; nội dung quản lý; chủ thể, thẩm quyền
quản lý; vấn đề thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công chứng; khen
thưởng, xử lý vi phạm; chế độ thông tin, báo cáo, lưu trữ; tổ chức xã hội nghề
nghiệp công chứng; văn bản công chứng vô hiệu …
Đáp ứng được các yếu tố như trên, hoạt động công chứng chắc chắn sẽ
có bước chuyển biến tích cực, đột phát, đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn
đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng.
1.3. Xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò điều chỉnh của
pháp luật
1.3.1. Xã hội hóa hoạt động công chứng
Nhà nước với hai chức năng cơ bản đó là chức năng giai cấp và chức
năng xã hội, biểu hiện tập trung ở việc tổ chức và quản lý xã hội. Nhà nước tổ
chức thực hiện những hoạt động chung vì sự tồn tại xã hội, chăm lo tới công việc
chung của toàn xã hội, cuộc sống cộng đồng, phục vụ xã hội, trong giới hạn nào
đó phải thỏa mãn một số nhu cầu chung dưới sự quản lý của mình. Ở những Nhà
nước tiến bộ, dân chủ chú trọng tới việc tổ chức đời sống xã hội, cộng đồng
nhiều hơn. Song song với nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhà nước thực hiện cung ứng một số dịch vụ công nhằm phục
vụ các lợi ích thiết yếu, bảo đảm quyền cơ bản của tổ chức, công dân.
Chức năng quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết
đời sống kinh tế-xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật,
chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát. Chức năng

27
phục vụ bao gồm các hoạt động nhằm phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức (cung ứng dịch vụ công).
Việc thực hiện quản lý nhà nước là theo nhu cầu của bản thân bộ máy nhà nước
nhằm đảm bảo trật tự, ổn định, công bằng xã hội; còn việc cung ứng dịch vụ
công có thể phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước. Tuy nhiên, hai chức năng
này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Ph. Ăng-ghen, “Ở khắp nơi, chức năng
xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo
dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó” [39, tr.253].
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ
bản, thiết yếu của người dân vì lợi ích chung của xã hội, do Nhà
nước chịu trách nhiệm trước xã hội ( trực tiếp đảm nhận hay ủy
quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm đảm bảo
hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội [38, tr.217].
Dịch vụ công gồm ba loại: Dịch vụ hành chính, dịch vụ sự nghiệp và
dịch vụ công ích.
Dịch vụ hành chính là các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
để giải quyết các công việc của các tổ chức và công dân theo thẩm quyền.
Phạm vi dịch vụ hành chính trong khu vực hành chính nhà nước bao gồm các
hoạt động bảo đảm quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và
công dân như cấp các giấy phép (giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép xây
dựng…), cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực ( chứng minh thư, hộ khẩu,
xác nhận hộ tịch…), thu các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước…
Dịch vụ sự nghiệp là các dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản về phát
triển cá nhân của con người. Dịch vụ sự nghiệp chủ yếu là các hàng hóa phi
hiện vật (các dịch vụ giáo dục, y tế, lao động việc làm, an sinh xã hội…), do
các tổ chức chuyên ngành có chuyên môn sâu cung cấp. Một bộ phận dịch vụ
sự nghiệp có thu tiền người sử dụng theo mức thu do Nhà nước điều tiết.

28
Dịch vụ công ích là các hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ có tính
chất kinh tế (cung cấp nước sạch, cung cấp điện, thoát nước, vận tải công
cộng, vệ sinh môi trường…) đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho đời sống
của người dân, tạo ra cơ sở hạ tầng cơ bản cho sản xuất và sinh hoạt của các
tổ chức và dân cư.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội, sự gia tăng dân
số và chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, các mối quan hệ xã hội
ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, nhu cầu sử dụng dịch vụ công ngày càng
đòi hỏi cao về chất lượng cung ứng. Nhà nước - để đảm bảo thực hiện tốt chức
năng xã hội của mình nhưng vẫn đảm bảo tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả thì việc huy động nguồn lực to lớn từ xã hội tham gia vào
việc cung ứng các dịch vụ công là hết sức cần thiết nhằm giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách nhà nước và áp lực cho bộ máy nhà nước. Việc huy động nguồn
lực xã hội cũng đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh khắc phục tình trạng
nhà nước “độc quyền”, “hành chính” hóa các dịch vụ công; chất lượng dịch vụ
theo đó mà nâng cao. Đây chính là việc xã hội hóa dịch vụ công, theo đó, Nhà
nước chuyển giao một số chức năng cho khu vực ngoài Nhà nước đảm nhận,
Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, điều tiết và kiểm soát.
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình huy động, tổ chức sự
tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt
động cung ứng dịch vụ công cộng trên cơ sở phát huy sáng tạo và
khả năng đóng góp của mỗi người [43, tr.54].
Có thể hiểu xã hội hóa theo một cách khác, đó là:
Quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế
tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã
hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, phục vụ cho mục đích phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước [41, tr.106].

29
Việc chuyển giao các dịch vụ công cho tư nhân, các tổ chức phi nhà
nước cung ứng thực chất là quá trình “phi nhà nước hóa”, hay xã hội hóa dịch
vụ công, với mục tiêu hoàn thiện bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà
nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh, nâng cao
chất lượng dịch vụ, đáp ứng sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Ở
một số nước trên thế giới, việc xã hội hóa dịch vụ công đã trở thành một xu
hướng tất yếu. Phạm vi các dịch vụ công được xã hội hóa ngày càng rộng rãi
theo nguyên tắc “cái gì các chủ thể khác có thể đảm đương được thì Nhà nước
không tham gia”, Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, điều tiết và kiểm soát
để các chủ thể khác thực hiện một cách thuận lợi, hiệu quả.
Xã hội hóa dịch vụ công được tiến hành khi Nhà nước nhận thấy những
lĩnh vực có thể để cho xã hội tự thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn; thu
hẹp phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với các quá trình xã hội. Xã hội hóa
cũng có thể diễn ra khi việc can thiệp quá sâu của Nhà nước dẫn đến các hiệu
quả tiêu cực, không đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội. Xã hội hóa nhằm
phát huy hình thức tự quản xã hội, kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của
các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, chủ
động, năng động của xã hội, làm cho Nhà nước gần với xã hội hơn.
Ở Việt Nam, xã hội hóa dịch vụ công là một chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong những năm qua, Nhà nước
ta đã thực hiện chủ trương từng bước mở rộng phạm vi xã hội hóa trên nhiều
lĩnh vực như: Y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, giao thông vận tải… và gần
đây, ở lĩnh vực công chứng, quá trình xã hội hóa đang được thực hiện một
cách mạnh mẽ.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, hệ thống công
chứng nhà nước đã tồn tại và đạt được những thành quả nhất định, tuy nhiên,

30
khi nền kinh tế vận hành sang nền kinh tế thị trường, hệ thống công chứng
nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và không còn phù hợp. Quan niệm
về công chứng theo đó cũng được đổi mới, xác định công chứng là một nghề
tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước; là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá
nhân của công chứng viên; tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực
để công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, trách nhiệm trong hoạt
động của mình; giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước và chức năng cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng; tăng thu ngân sách từ nguồn thu của
tổ chức hành nghề công chứng, đồng thời tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức,
nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu công chứng của xã
hội trong nền kinh tế thị trường. Những ưu điểm của mô hình công chứng tự
do là không thể phủ nhận, đây là mô hình phản ánh đúng bản chất công
chứng, phát huy vai trò của công chứng trong đời sống xã hội. Vấn đề xã hội
hóa được đặt ra như một giải pháp hiệu quả cho việc cải cách công chứng đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Khi xem xét công chứng là một dịch vụ công, ta có thể hiểu: Xã hội hoá
công chứng là quá trình Nhà nước chuyển hóa, đổi mới phương thức quản lý,
phương thức tổ chức hoạt động công chứng, tiến tới chuyển giao việc công
chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả
công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Với sự chuyển giao công chứng cho các tổ chức, cá nhân thì công
chứng được coi là một nghề, chủ thể thực hiện việc công chứng được xác định
là công chứng viên, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ
công chứng chuyển cho các tổ chức, cá nhân phi nhà nước bằng cách cho
phép thành lập các tổ chức hành nghề công chứng. Người thành lập tổ chức
hành nghề công chứng sẽ tự chịu trách nhiệm bố trí cơ sở vật chất, con người
và các điều kiện khác để hoạt động và chịu trách nhiệm dân sự đối với khách

31
hàng về việc thực hiện công chứng của mình. Nhà nước chỉ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về nghề công chứng, không phải gánh vác nguồn ngân
sách dành cho việc xây dựng trụ sở, điều kiện vật chất và con người để phục
vụ hoạt động công chứng trước nhu cầu công chứng ngày càng nhiều của xã
hội. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt chức năng phục vụ xã hội của mình
trong việc cung ứng dịch vụ công chứng, khi chuyển giao cho các tổ chức, cá
nhân, Nhà nước đồng thời phải tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
nghề công chứng, đổi mới phương thức, cơ chế quản lý bằng cách xây dựng
pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do
kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng;
định hướng, hoạch định việc phát triển nghề công chứng trong từng giai đoạn
cụ thể, đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước như: Thanh tra,
kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ việc bổ nhiệm công chứng viên, thành lập
tổ chức hành nghề công chứng, quản lý hoạt động của công chứng viên và tổ
chức hành nghề công chứng... Trong quá trình xã hội hoá công chứng, song
song với việc đẩy mạnh xã hội hóa là việc tăng cường năng lực quản lý nhà
nước theo kịp với yêu cầu của quá trình xã hội hóa. Bởi vậy, phải xác định xã
hội hoá công chứng là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự
phát triển kinh tế-xã hội, trình độ dân trí, quá trình dân chủ hoá mọi mặt đời
sống xã hội…đảm bảo hoạt động công chứng phát triển bền vững, đúng với
định hướng của Nhà nước.
1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò của
pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa
1.3.2.1. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng
Từ những nhận thức về xã hội hóa hoạt động công chứng, có thể định
nghĩa pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng như sau:

32
Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng là hệ thống các quy
phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ trong quá trình Nhà nước chuyển giao việc công chứng cho các tổ chức, cá
nhân phi nhà nước thực hiện và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các
biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước.
Trong quá trình xã hội hóa công chứng, các mối quan hệ trong hoạt
động công chứng cũng thay đổi, các mối quan hệ đa dạng hơn, bản chất, chủ
thể của quan hệ cũng thay đổi theo trong tư cách là một nghề tự do. Trước
đây, khi việc công chứng chỉ do Nhà nước thực hiện và đảm bảo các điều kiện
để trực tiếp cung ứng cho các tổ chức, cá nhân thì các quan hệ công chứng nói
chung chỉ được thiết lập giữa tổ chức, cá nhân với Nhà nước mà đại diện là cơ
quan nhà nước có chức năng thực hiện việc công chứng; người thực hiện việc
công chứng chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước theo quan hệ công vụ và
không phải chịu trách nhiệm với khách hàng về hành vi công chứng của mình.
Trong điều kiện hoạt động công chứng được xã hội hóa, Nhà nước chỉ giữ vai
trò quản lý bằng chính sách, bằng pháp luật, xuất hiện thêm nhiều chủ thể, các
quan hệ công chứng đa dạng và phức tạp hơn đó là quan hệ giữa Nhà nước và
các tổ chức hành nghề công chứng, Nhà nước với công chứng viên, Nhà nước
với người yêu cầu công chứng; quan hệ giữa tổ chức hành nghề công chứng
và khách hàng, tổ chức hành nghề công chứng với công chứng viên, người lao
động; quan hệ giữa công chứng viên và khách hàng…. đòi hỏi Nhà nước phải
xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh các quan hệ trên,
trật tự hóa, củng cố và phát triển các quan hệ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững
chắc cho định hướng xã hội hóa công chứng nhằm đạt được mục đích nâng
cao chất lượng, hiệu quả phục vụ của hoạt động công chứng, quản lý nhà
nước về công chứng. Theo đó, trong nội dung pháp luật công chứng khẳng
định công chứng là một nghề, xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các

33
chủ thể trong hoạt động công chứng, thiết lập các biện pháp quản lý nhà nước
phù hợp với quá trình xã hội hóa nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật
trong đời sống xã hội. Đồng thời, xây dựng pháp luật về công chứng để làm
cơ sở đồng bộ hóa hệ thống pháp luật có liên quan đến chế định công chứng
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong hệ thống pháp luật về công chứng ở nước ta, nội dung xã hội hóa
công chứng đã được thể hiện rất rõ tại các quy định về tổ chức hành nghề
công chứng, công chứng viên, thẩm quyền công chứng, phí công chứng, chế
độ tài chính cũng như quản lý nhà nước về công chứng.
Thứ nhất, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện rõ
ràng trong quy định về tổ chức hành nghề công chứng. Ngay trong tên gọi đã
thể hiện sự thay đổi. Điều 18 Luật Công chứng 2014 quy định nguyên tắc
thành lập tổ chức hành nghề công chứng, hình thức tổ chức hành nghề công
chứng gồm: Phòng công chứng và các Văn phòng công chứng. Trong đó, Văn
phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh
theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí, thù lao công chứng
và các nguồn thu hợp pháp khác. Đây chính là biểu hiện cụ thể, sinh động của
chủ trương xã hội hóa công chứng. Với hình thức Văn phòng công chứng và
trao quyền tự chủ về tổ chức, hoạt động cho Văn phòng công chứng, đã
khuyến khích nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động công chứng, khuyến
khích sự phát triển của mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp,
nâng cao tính cạnh tranh, tính phục vụ, xã hội sẽ được hưởng một dịch vụ
công chứng chất lượng, hiệu quả cao hơn. Hình thức tổ chức hành nghề công
chứng rất phù hợp với nền kinh tế thị trường, bản thân nó là kết quả tất yếu
của sự phù hợp giữa các quy định pháp luật và sự phát triển kinh tế.
Thứ hai, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong
các quy định về công chứng viên. Nếu như trước đây, chỉ có quy định công

34
chứng viên là viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước, thì đến nay, còn tồn
tại một loại hình công chứng viên làm việc trong Văn phòng công chứng.
Thứ ba, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong
quy định về việc mở rộng thẩm quyền địa hạt công chứng. Điều 23 Nghị định
số 75/2000/NĐ-CP quy định về thẩm quyền địa hạt của Phòng công chứng và
Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc công chứng, chứng thực hợp đồng,
giao dịch liên quan đến bất động sản như sau:
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thẩm quyền
địa hạt công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản
trong địa phương mình cho từng Phòng công chứng. "Địa hạt" là
một hoặc một số quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.2. Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã chứng thực hợp đồng, giao dịch
liên quan đến bất động sản trong phạm vi địa hạt của huyện, quận,
thị xã mình mà không thuộc thẩm quyền địa hạt của Phòng công
chứng quy định tại khoản 1 Điều này… [15, Điều 23].
Việc phân định thẩm quyền địa hạt nêu trên đã hạn chế phạm vi hoạt
động công chứng về bất động sản của các Phòng công chứng, đồng thời cũng
thể hiện việc chưa phân biệt rõ thẩm quyền về công chứng, chứng thực. Khắc
phục điều này, trong Điều 42 Luật Công chứng 2014 đã quy định phạm vi
công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản:
Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ
được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm
vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề
công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản
từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan
đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản [47].
Như vậy, thẩm quyền về địa hạt của các tổ chức hành nghề công

35
chứng đã được mở rộng, quy định này tạo sự thuận tiện cho người dân khi
có nhiều sự lựa chọn để thực hiện yêu cầu công chứng của mình. Người dân
ở quận, huyện này muốn công chứng hợp đồng, giao dịch bất động sản tại
quận, huyện khác cùng tỉnh, thành phố có thể công chứng ngay tại nơi mình
thường trú. Đối với những tỉnh, thành phố rộng, khoảng cách giữa các quận,
huyện, thị xã xa nhau thì điều này rất có ý nghĩa, tiết kiệm được thời gian,
công sức cũng như làm cho hệ thống công chứng gần dân hơn, khả năng đáp
ứng yêu cầu công chứng tốt hơn. Đây chính là mục tiêu của việc xã hội hóa
hoạt động công chứng.
Thứ tư, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong
quy định về phí công chứng. Trước đây, theo Thông tư liên tịch số
93/2001/TTLT-BTC-BTP ngày 21/11/2001 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp
hướng dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí, lệ phí công chứng, chứng
thực [10] thì Phòng công chứng được thu “lệ phí công chứng”. Hiện nay, theo
quy định mới, tổ chức hành nghề công chứng được thu “phí công chứng”.
Điều này được quy định tại Điều 66 Luật Công chứng 2014, Thông tư liên
tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính, Bộ Tư
pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công
chứng [11]. Sự khác nhau về tên gọi đã thể hiện rõ sự thay đổi về nội dung.
Theo Pháp lệnh về phí, lệ phí năm 2001 thì lệ phí được hiểu mang tính công
vụ, còn phí mang tính dịch vụ, được thu để bù đắp chi phí. Điều này thể hiện
sự chuyển mình của hệ thống công chứng từ cơ quan hành chính sự nghiệp
sang đơn vị cung ứng dịch vụ công. Bên cạnh đó, phí công chứng theo Thông
tư lên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP được quy định cao hơn nhiều với lệ
phí công chứng cũ. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc xác định mức thu
phí bù đắp được những chi phí phục vụ cho việc thực hiện dịch vụ công
chứng, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp, khắc phục được những
mặt hạn chế của chế độ thu lệ phí công chứng.

36
Ngoài ra, theo Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT-BTC-BTP, các
Phòng công chứng được tạm trích 15% đến 20% trên tổng số tiền lệ phí công
chứng thu được trước khi nộp ngân sách nhà nước. Số tiền tạm trích được sử
dụng vào các nội dung chi phục vụ công tác thu lệ phí và cũng được quy định
rõ cơ quan công chứng, chứng thực phải sử dụng đúng mục đích, có chứng từ
hợp pháp theo chế độ quy định và quyết toán năm nếu chưa sử dụng hết thì
phải nộp số còn lại vào ngân sách nhà nước theo quy định. Đây là quy định
chặt chẽ, thể hiện rõ tính hành chính nhà nước. Phòng công chứng do Nhà
nước thành lập ra và lệ phí công chứng phần lớn cũng nộp vào ngân sách nhà
nước. Cán bộ, viên chức, nhân viên Phòng công chứng chỉ được nhận tiền
lương, thù lao theo đúng giới hạn mà có thể không tương xứng với thời gian
cũng như cường độ lao động bỏ ra.
Hiện nay, theo Thông tư lên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP quy định
về quản lý, sử dụng phí công chứng mặc dù phí công chứng vẫn được xác định
là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước nhưng số tiền trích lại được tăng lên.
Đối với Văn phòng công chứng, phí công chứng chính là doanh thu, bị đánh
thuế doanh thu như đối với thu nhập của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp
danh. Quy định nêu trên nhằm giúp cho các Phòng công chứng có thể tự chủ về
tài chính từ đó độc lập về mặt tổ chức hoạt động, điều chỉnh nhân sự theo nhu
cầu thực tế cũng như có thể duy trì, phát triển hoạt động công chứng của mình.
Đây chính là một trong những ý nghĩa quan trọng của quá trình xã hội hóa.
Thứ năm, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện
trong quy định mới về chế độ tài chính áp dụng đối với Phòng công chứng. Các
Phòng công chứng chuyển đổi loại hình sang đơn vị sự nghiệp công lập và
được áp dụng chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu, được quy định tại
Điều 19 Luật Công chứng 2014: “Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng” [47]. Như vậy,

37
Phòng công chứng là đối tượng áp dụng của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25/4/2006 của Chính Phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập [16] (hiện nay là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công
lập). Điều 2 của Nghị định này quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công.
Việc ban hành các quy định nêu trên đánh dấu một bước chuyển mới về
mô hình tổ chức của các Phòng công chứng. Trong đó, Nhà nước trao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các Phòng công chứng trong việc tổ chức, sắp
xếp bộ máy, sử dụng lao động cũng như tự chủ một phần về tài chính. Quy
định này rõ ràng là một bước tiến của quá trình xã hội hóa, từng bước giảm
dần sự bao cấp của Nhà nước để hướng tới các phòng công chứng sẽ trở thành
các đơn vị tự chủ về mặt tài chính, tổ chức.
Thứ sáu, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong
quy định quản lý nhà nước về công chứng. Trước đây, Nghị định số
75/2000/NĐ-CP dành hẳn Chương II gồm 4 Điều: 17, 18, 19, 20 để quy định
về vấn đề này. Trong đó, có những quy định rất chi tiết, can thiệp sâu vào công
việc chuyên môn cũng như tổ chức bộ máy của các Phòng công chứng; quy
định và hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các sổ công chứng, sổ chứng thực;
quy định và hướng dẫn việc sử dụng mẫu hợp đồng, giao dịch, mẫu nội dung
lời chứng; Điều 19 quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền hạn: “Quyết
định thẩm quyền địa hạt cho từng Phòng công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng công chứng; định biên chế cho
từng Phòng công chứng”. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP còn quy định cụ thể
về tổ chức bộ máy của Phòng công chứng: “Phòng công chứng có trưởng

38
phòng, phó trưởng phòng, công chứng viên, chuyên viên và các nhân viên
khác. Phòng công chứng phải có ít nhất 3 công chứng viên” [15, Điều 26].
Đây là phương thức quản lý mang nặng tính hành chính nhà nước theo
nguyên tắc mệnh lệnh tập trung. Phương thức quản lý này không còn phù hợp
khi xuất hiện Văn phòng công chứng - hình thức tổ chức hành nghề công
chứng không phải do Nhà nước thành lập ra. Vì vậy, Nhà nước đã đổi mới
phương thức quản lý mới. Điều này thể hiện tại Điều 70 Luật Công chứng
2014 quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các biện pháp phát triển tổ
chức hành nghề công chứng trên địa bàn phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
Quyết định thành lập Phòng công chứng, bảo đảm cơ sở vật chất và phương
tiện làm việc cho các Phòng công chứng; quyết định việc giải thể hoặc chuyển
đổi Phòng công chứng theo quy định của Luật này…. Bên cạnh đó, Luật
Công chứng cho phép các địa phương khi thành lập Phòng công chứng tự xác
định số lượng công chứng viên cần thiết, tùy theo yêu cầu trong từng giai
đoạn, mỗi phòng có thể có một hoặc nhiều công chứng viên. Đây là quy định
mang tính linh hoạt hơn so với quy định cũ.
Như vậy, Nhà nước chủ yếu quản lý về công chứng bằng các chính
sách, quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng và có sự
phân cấp, phân công rõ ràng trách nhiệm quản lý. Phương thức này nâng cao
khả năng quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô đồng thời tăng cường tính tự
chủ, tự quản của các tổ chức hành nghề công chứng. Đây chính là một biểu
hiện của việc xã hội hóa hoạt động công chứng.
1.3.3. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực
hiện xã hội hóa
Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các mối quan hệ phát

39
sinh trong tổ chức và hoạt động công chứng, được nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ
máy nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật công chứng gồm các quan hệ như:
Quan hệ quản lý nhà nước về công chứng; quan hệ hoạt động hành nghề công
chứng; quan hệ trong tổ chức công chứng …
Chủ thể của quan hệ pháp luật công chứng là: Các cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng; các tổ chức hành nghề
công chứng; công chứng viên và cá nhân, tổ chức có nhu cầu công chứng.
Khách thể của quan hệ pháp luật công chứng đó là: Sự an toàn pháp lý
cho các hợp đồng, giao dịch; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công
chứng, công chứng viên, các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quản lý
nhà nước về công chứng, tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng.
Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã
hội hóa thể hiện ở các nội dung sau :
Thứ nhất, pháp luật bảo đảm cho hoạt động về công chứng diễn ra
theo đúng ý chí, mong muốn của Nhà nước
Pháp luật về công chứng thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công chứng trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội dân sự trên tinh thần thượng
tôn pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích của công dân, xây
dựng môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của đất nước, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật nhằm quản lý hoạt
động công chứng đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn và theo đúng định
hướng đã đề ra. Một mặt các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực

40
hiện các quy định pháp luật trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn,
mặt khác các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo đảm hiệu lực của quy định
của pháp luật bằng hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công chứng.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá công chứng đã được đề ra trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là "Xây dựng mô hình quản lý nhà nước
về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích
hợp; có bước đi thích hợp để từng bước xã hội hoá công việc này" [3]. Trong
xây dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước không thể ôm tất cả, cơ quan nhà
nước chỉ làm những gì đích thực mình phải làm, còn lại Nhà nước phải trở thành
“bà đỡ” cho các hoạt động khác trên cơ sở ban hành chính sách pháp luật. Có thể
nói pháp luật về công chứng với chủ trương khuyến khích "xã hội hoá công
chứng" đánh dấu một bước phát triển của hoạt động công chứng, xoá bỏ độc
quyền của Nhà nước. Trong quá trình đó, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp
cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi Nhà
nước thực hiện, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người thực hiện quản lý.
Với việc truyền tải sự thay đổi căn bản đó, pháp luật đã đưa hoạt động
công chứng về đúng vị trí, chức năng của nó, phát huy tối đa vai trò đối với xã
hội, gánh vác trách nhiệm xã hội, chia sẻ gánh nặng với bộ máy Nhà nước với
tư cách là một đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng, bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng
Pháp luật về công chứng là phương tiện hữu hiệu để Nhà nước thực
hiện việc quản lý hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên, đồng thời nâng

41
cao vai trò tự quản của tổ chức hành nghề công chứng. Nhà nước thực hiện
việc quản lý hoạt động công chứng thông qua việc ban hành pháp luật và
chính sách nhằm tạo ra khuôn mẫu xử sự chung, quy định các biện pháp, các
chế tài xử lý các hành vi, vi phạm pháp luật về công chứng. Đồng thời Nhà
nước cũng căn cứ vào các quy tắc đó để xác định hành vi nào là phù hợp với
pháp luật, hành vi nào không phù hợp với pháp luật, từ đó có các biện pháp
xử lý thích hợp, phù hợp với ý chí, mong muốn của Nhà nước.
Thứ ba, pháp luật tạo ra hành lang pháp lý cho các hành vi của chủ
thể trong mối quan hệ công chứng, thông qua đó, pháp luật công chứng cũng
là phương tiện để các chủ thể bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của mình
Bằng việc ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động
công chứng, pháp luật về công chứng giúp các chủ thể nhận thức và nâng cao
ý thức pháp luật, điều chỉnh hành vi của mình, ứng xử phù hợp với quy định.
Ví dụ: Thông qua pháp luật về công chứng, Nhà nước đảm bảo cho công
chứng viên có đầy đủ điều kiện thực hiện mà không bị cản trở hoặc bị can
thiệp không đúng, không bị đe doạ, truy tố, hoặc bị xử lý bằng những biện
pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác. Bất kỳ một hành động nào do
công chứng viên thực hiện phù hợp với trình tự, thủ tục thực hiện công chứng
và tiêu chuẩn đạo đức của công chứng viên đã được pháp luật quy định đều
được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, pháp luật về công chứng đã trở thành
phương tiện hành nghề độc lập của công chứng viên, duy trì tính tự quản cao
trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Pháp luật về công chứng
cũng là phương tiện phát huy vai trò của công chứng viên trong các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội và đối với bản thân hệ thống chính trị, góp phần xây
dựng và tổ chức vận hành có hiệu lực, hiệu quả các thiết chế dân chủ của hệ
thống chính trị, làm cho các thiết chế ấy thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Thông qua hệ thống pháp luật về công chứng, các chủ thể phát huy dân

42
chủ, được bảo đảm thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động quản lý của
chủ thể quản lý nhà nước.
Thứ tư, pháp luật là cơ sở để tổ chức hệ thống cơ quan quản lý, phân
định thẩm quyền quản lý đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hoạt động
công chứng trên cả nước.
Thông qua hoạt động quản lý bằng pháp luật về công chứng của mình,
các chủ thể quản lý nhà nước sẽ điều chỉnh tổ chức và hoạt động quản lý phù
hợp với sự phát triển của hoạt động công chứng trong thực tiễn, qua đó hoàn
thiện về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý, đáp ứng được yêu cầu quản lý
hoạt động công chứng trong từng giai đoạn cụ thể.
Với vai trò, tầm quan trọng, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật
công chứng đồng bộ, thống nhất sẽ quyết định đến sự thành công của quá
trình xã hội hóa hoạt động công chứng.

43
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG
VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG Ở TỈNH BẮC GIANG

2.1. Thực trạng pháp luật về công chứng


Sau 8 năm triển khai thực hiện, không thể phủ nhận vai trò của Luật
Công chứng năm 2006 [46] trong việc cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa hoạt
động công chứng; tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các tổ chức hành nghề
công chứng và các quan hệ liên quan đến hoạt động công chứng, Luật Công
chứng năm 2006 đã bộc lộ những điểm bất cập, hạn chế cần sửa đổi, bổ sung.
Do vậy, ngày 20/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật Công chứng năm 2014 [47]. Luật công chứng năm 2014 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2015.
Để triển khai thi hành Luật Công chứng 2014, Chính phủ, Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó phải kể
đến Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng ; Thông tư số
06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng [7]; Thông tư số 04/2015/TT-
BTP ngày 15/4/2015 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn tập sự hành nghề công
chứng [40]; Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11/8/2015
của liên bộ Tài chính, Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên
lịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng [9]; Thông tư số
54/2015/TT-BTC ngày 21/4/2015 của Bộ Tài chính Quy định thu phí sát hạch
bổ nhiệm công chứng viên; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, cấp giấy đăng ký
hoạt động Văn phòng Công chứng [12].

44
Qua nghiên cứu quá trình triển khai thực hiện, có thể nhận thấy thực
trạng hệ thống pháp luật về công chứng như sau:
2.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng
2.1.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên
Hiện nay, khi thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động công chứng ở
nước ta đang tồn tại hai loại hình công chứng viên: công chứng viên làm việc
trong các Phòng Công chứng nhà nước thì họ là viên chức nhà nước và công
chứng viên làm việc trong các Văn phòng Công chứng thì họ không phải là
công chức hay viên chức nhà nước. Mặc dù có hai loại hình công chứng viên
làm việc ở hai loại tổ chức hành nghề công chứng khác nhau nhưng về điều
kiện bổ nhiệm, địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của họ trong hành nghề công
chứng hoàn toàn không khác nhau.
Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. So với Luật
Công chứng năm 2006 [46], Luật Công chứng năm 2014 [47] Luật công
chứng quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên. Nếu
như Luật Công chứng năm 2006 [46] quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm công
chứng viên là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử
nhân luật; có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan,
tổ chức; có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng (6 tháng);
đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng (12 tháng); có sức khoẻ bảo
đảm hành nghề công chứng (Điều 13, Luật Công chứng năm 2006) thì đối với
Luật Công chứng năm 2014 [47] ngoài các tiêu chuẩn tương tự như Luật
Công chứng năm 2006 [46] như phải có bằng cử nhân luật, có thời gian công
tác pháp luật từ năm năm trở lên thì người muốn được bổ nhiệm công chứng
viên phải qua thời gian đào tạo nghề công chứng là 12 tháng. Đối với những

45
trường hợp được miễn đào tạo nghề công chứng, Luật Công chứng 2006 [46]
không quy định phải qua khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và
được miễn tập sự hành nghề công chứng nhưng đến Luật Công chứng năm
2014 [47], các trường hợp này nếu muốn được bổ nhiệm công chứng viên
phải tham gia và hoàn thành khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng
trong thời gian 03 tháng; đồng thời vẫn phải tập sự hành nghề công chứng
trong thời gian 06 tháng.
Như vậy, so với quy định trước đây: “Công chứng viên là công chức do
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm…” tại Khoản 1 Điều 29 Nghị định số
75/2000/NĐ-CP thì rõ ràng nguồn công chứng viên đã được mở rộng hơn rất
nhiều. Công chứng viên không cần phải là công chức nhà nước, chỉ cần đáp
ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện luật định, do đó khắc phục được tình trạng
thiếu biên chế, thiếu kinh phí đào tạo, tạo điều kiện cho việc phát triển công
chứng viên nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình xã hội hóa.
Bên cạnh đó, Luật Công chứng năm 2014 [46] bổ sung quy định về bổ
nhiệm lại công chứng viên mà Luật Công chứng năm 2006 [46] không có quy
định. Quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, quyền, trách nhiệm nghề nghiệp và
trách nhiệm xã hội của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
công chứng viên, cụ thể: Luật Công chứng năm 2006 [46] quy định quyền của
công chứng viên là được lựa chọn nơi để hành nghề công chứng, trừ công
chứng viên của Phòng công chứng; đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng và một số
quyền khác được quy định trong Luật. Đồng thời Luật quy định công chứng
viên có các nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc hành nghề công chứng; tôn trọng và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; giữ bí mật về
nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; hành nghề tại một tổ chức

46
hành nghề công chứng. (Điều 22, Luật Công chứng năm 2006) [46]. Đến Luật
Công chứng năm 2014 [47] quy định công chứng viên có quyền được pháp
luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng; tham gia thành lập Văn phòng
công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công
chứng; được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của
Luật này; đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin,
tài liệu để thực hiện việc công chứng; được từ chối công chứng hợp đồng,
giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; các quyền khác
theo quy định của Luật công chứng 2014 [47] và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan. Công chứng viên có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc
hành nghề công chứng; hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng; tôn
trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; giải
thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ
chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công
chứng; giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu
cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; tham
gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp
luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình;
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà
mình là công chứng viên hợp danh; tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
công chứng viên; chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ
chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; các nghĩa vụ khác
theo quy định của Luật công chứng năm 2014 [47] và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan. Như vậy, rõ ràng so với Luật Công chứng năm
2006 [47], Luật Công chứng 2014 [47] quy định một cách cụ thể hơn, rõ ràng

47
hơn về địa vị pháp lý, quyền, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội
của công chứng viên.
Bên cạnh các nội dung trên, Luật công chứng 2014 cũng đã mở rộng
phạm vi công chứng: Bên cạnh nhiệm vụ chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của hợp đồng, giao dịch, Luật công chứng năm 2014 giao lại cho công
chứng viên quyền công chứng bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng
nước ngoài và ngược lại (Khoản 1 Điều 2), công chứng viên cũng được giao
nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn
bản; việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn
bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực (Điều 77).
2.1.1.2. Quy định pháp luật về các tổ chức hành nghề công chứng
Luật công chứng 2014 quy định 02 loại hình tổ chức hành nghề công
chứng là Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng. Việc thành lập các tổ
chức hành nghề công chứng phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển
tổ chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Khuyến
khích phát triển Văn phòng công chứng theo định hướng xã hội hóa, văn
phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của
Chính phủ còn Phòng công chứng chỉ được thành lập mới tại những địa bàn
chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng.
Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; là
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản
riêng. Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng.
Trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tên gọi của Phòng công chứng
bao gồm cụm từ “Phòng công chứng” kèm theo số thứ tự thành lập và tên của
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng được thành lập.

48
Phòng công chứng sử dụng con dấu không có hình quốc huy. Phòng công
chứng được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập.
Đối với Văn phòng công chứng, phải do hai công chứng viên trở lên
thành lập, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng
năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đối với loại hình
công ty hợp danh. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng
là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng
viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02
năm trở lên. Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn
phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của
một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công
chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống
lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Văn phòng công
chứng phải có trụ sở đáp ứng các điều kiện theo quy định. Văn phòng công
chứng có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài
chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn
thu hợp pháp khác. Văn phòng công chứng sử dụng con dấu không có hình
quốc huy. Văn phòng công chứng được thay đổi nội dung đăng ký hoạt động,
thay đổi thành viên hợp danh, chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập…
Được thành lập, tổ chức theo 02 mô hình khác nhau, tuy nhiên, Phòng
Công chứng và Văn phòng Công chứng đều có các quyền, nghĩa vụ cơ bản sau:
Điều 32. Quyền của tổ chức hành nghề công chứng
1. Ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng
viên quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 34 của Luật này và
các nhân viên làm việc cho tổ chức mình.
2. Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác.

49
3. Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của
cơ quan hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của
nhân dân.
4. Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công
chứng quy định tại Điều 62 của Luật này.
5. Các quyền khác theo quy định của Luật này và các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Điều 33. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
1. Quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình trong
việc tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
2. Chấp hành quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài
chính, thống kê.
3. Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ
quan hành chính nhà nước.
4. Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp
người yêu cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và
chi phí khác tại trụ sở của tổ chức mình.
5. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên của tổ chức mình theo quy định tại Điều 37 của Luật này và
bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 38 của Luật này.
6. Tiếp nhận, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý người tập sự
hành nghề công chứng trong quá trình tập sự tại tổ chức mình.
7. Tạo điều kiện cho công chứng viên của tổ chức mình tham
gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hằng năm.
8. Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra, cung cấp thông tin về hợp đồng,
giao dịch, bản dịch đã công chứng.

50
9. Lập sổ công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng.
10. Chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao
dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được
áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do
công chứng viên của tổ chức mình thực hiện công chứng để đưa
vào cơ sở dữ liệu công chứng quy định tại Điều 62 của Luật này.
11. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan [47].
Điểm mới của Luật Công chứng năm 2014 so với Luật Công chứng năm
2006 đó là quy định việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công
chứng, trong trường hợp không chuyển đổi được thì mới giải thể Phòng công
chứng. Quy định này nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động
công chứng; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước và công chứng viên, viên
chức, người lao động làm việc tại Phòng công chứng được chuyển đổi.
Phòng công chứng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định
chuyển đổi thành văn phòng công chứng theo đề nghị của Sở Tư pháp trong
các trường hợp: Các địa bàn cấp huyện đã thành lập đủ số tổ chức hành nghề
công chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và số lượng Văn phòng công chứng
nhiều hơn số lượng Phòng công chứng. Các địa bàn cấp huyện chưa thành lập
đủ số tổ chức hành nghề công chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhưng
có ít nhất 02 Văn phòng công chứng đã hoạt động ổn định từ 02 năm trở lên,
kể từ ngày đăng ký hoạt động.
Việc chuyển đổi được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc Văn phòng công
chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn
bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công

51
chứng đó. Bảo đảm chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức,
người lao động sau khi Phòng công chứng chấm dứt hoạt động theo quy định
của pháp luật về viên chức và pháp luật về lao động. Văn phòng công chứng
được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải ký hợp đồng lao
động với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng
đó, trừ trường hợp những người này không có nhu cầu tiếp tục làm việc tại
Văn phòng công chứng. Bảo đảm tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước đang do
Phòng công chứng quản lý, sử dụng được xử lý theo đúng quy định của pháp
luật, không bị thất thoát trong quá trình chuyển đổi.
2.1.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng
Luật Công chứng năm 2014 cơ bản kế thừa các quy định về trình tự, thủ
tục thực hiện công chứng trong Luật Công chứng năm 2006. Luật dành 01
Chương V quy định thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch. Trong đó
mục I, Chương V quy định về thủ tục chung về công chứng. Một số điểm lưu ý
trong mục này đó là Luật quy định phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch về
bất động sản: Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được
công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường
hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản
ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản.
Thời hạn công chứng được xác định kể từ ngày thụ lý hồ sơ yêu cầu
công chứng đến ngày trả kết quả công chứng. Thời gian xác minh, giám định
nội dung liên quan đến hợp đồng, giao dịch, niêm yết việc thụ lý công chứng
văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản, dịch giấy tờ,
văn bản không tính vào thời hạn công chứng. Thời hạn công chứng không quá
02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời
hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc.

52
Đối với địa điểm công chứng, việc công chứng phải được thực hiện tại
trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp người yêu cầu
công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ,
tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể
đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng thì việc công chứng có thể được
thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Luật quy định chữ viết trong văn bản công chứng phải rõ ràng, dễ đọc,
không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, không được viết xen dòng, viết đè
dòng, không được tẩy xoá, không được để trống, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Thời điểm công chứng phải được ghi cả ngày, tháng, năm; có
thể ghi giờ, phút nếu người yêu cầu công chứng đề nghị hoặc công chứng
viên thấy cần thiết. Các con số phải được ghi cả bằng số và chữ, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Đối với quy định về lời chứng của công chứng viên, lời chứng của công
chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công
chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng
nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực
hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm
pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ trong hợp
đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của người tham gia hợp
đồng, giao dịch; trách nhiệm của công chứng viên đối với lời chứng; có chữ
ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Lời
chứng là một bộ phận cấu thành của văn bản công chứng (Điều 22, Thông tư
số 06/2015/TT-BTP).
Cùng với đó, Luật quy định về người yêu cầu công chứng, người làm
chứng, người phiên dịch. Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng
lực hành vi dân sự. Trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc

53
yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật
hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó. Người yêu cầu công chứng
phải xuất trình đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu
trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó. Trường hợp
người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký,
điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì
việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ
đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi
ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người
yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì
công chứng viên chỉ định. Trường hợp người yêu cầu công chứng không
thông thạo tiếng Việt thì họ phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải
là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thông thạo
tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng. Người phiên
dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc phiên dịch của mình.
Việc ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng, việc ghi trang, tờ trong
văn bản công chứng, sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng, công chứng
việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch cũng được quy định rõ
trong Luật.
Ngoài các quy định chung, mục 1, Chương V quy định cụ thể thủ tục
công chứng một số hợp đồng, giao dịch, công chứng bản dịch, nhận lưu giữ di
chúc như: công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản, công chứng hợp đồng
ủy quyền, công chứng di chúc, công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di
sản, công chứng văn bản khai nhận di sản, công chứng văn bản từ chối nhận
di sản, công chứng bản dịch…

54
2.1.3. Quy định của pháp luật về công tác quản lý nhà nước về công chứng
2.1.3.1. Về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng
Thứ nhất, Chính phủ: Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vừa là cơ quan chấp hành vừa là cơ quan điều hành cao nhất của nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản
lý nhà nước về mọi mặt đời sống xã hội. Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về công chứng, tuy nhiên Chính phủ chỉ là chủ thể mang tính đại diện
cao nhất, điều hành ở tầm vĩ mô bằng các chính sách, pháp luật, không trực
tiếp thực hiện các quyền cụ thể mà giao cho Bộ Tư pháp thực hiện.
Thứ hai, Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước
Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng có nhiệm vụ,
quyền hạn như: Xây dựng và trình Chính phủ chính sách phát triển công
chứng; ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về công chứng; quy định chương trình khung đào tạo
nghề công chứng; ban hành quy chế tập sự nghề công chứng; ban hành quy
tắc đạo đức nghề công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên; cấp
thẻ công chứng viên; hướng dẫn nghiệp vụ công chứng, tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật về công chứng, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng; tổng kết, báo cáo Chính phủ về công
chứng; quản lý về thực hiện hợp tác quốc tế về công chứng.
Như vậy, chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp về
công chứng đã được Chính phủ phân cấp, trao quyền bằng quy định tương đối
rõ ràng. Tuy nhiên, trên phương diện khoa học hành chính công, trong bối
cảnh "xã hội hoá" hoạt động cung ứng dịch vụ công, kết hợp với việc vận
dụng của mô hình "quản lý công mới" vào nền hành chính nước ta thì việc
quy định một số chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước cho Bộ Tư pháp phải
thực hiện như: quy định chương trình khung đào tạo nghề công chứng; Ban

55
hành quy chế tập sự nghề công chứng; ban hành quy tắc đạo đức nghề công
chứng; hướng dẫn nghiệp vụ công chứng, tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật về công chứng vẫn mang tính "bao cấp" của Nhà nước. Trong thời
gian tới nên đẩy nhanh việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng
và trao chức năng này cho nó, Nhà nước không can thiệp sâu vào các công
việc cụ thể này.
Thứ ba, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước về công chứng tại địa
phương và có các nhiệm vụ quyền hạn như: thực hiện các biện pháp phát triển
tổ chức hành nghề công chứng ở đại phương để đáp ứng nhu cầu công chứng
của cá nhân, tổ chức; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng; thành
lập, giải thể Phòng Công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng
phòng Phòng Công chứng; Quyết định thu hồi, cho phép thành lập Văn phòng
Công chứng; Tổ chức việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
của Văn phòng Công chứng; đảo đảm các cơ sở vật chất và phương tiện ban
đầu cho Phòng Công chứng; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết
khiếu nại tố cáo về công chứng; tổng hợp tình hình và thống kê về công
chứng trong địa phương gửi về Bộ Tư pháp.
Thứ tư, Sở Tư pháp: Sở Tư pháp là cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý nhà nước về công
chứng, có các nhiệm vụ:
Xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
phê duyệt đề án phát triển các tổ chức hành nghề công chứng tại địa phương
và tổ chức thực hiện đề án đó sau khi được phê duyệt; tiếp nhận xem xét,
kiểm tra hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng Công chứng trình Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định cho phép thành lập; yêu
cầu các tổ chức hành nghề công chứng báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động

56
theo quy định của pháp luật; tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương các biện pháp hỗ trợ phát triển tổ chức hành nghề công
chứng; thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ
chức, hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng theo quy định của
pháp luật hoặc theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
2.1.3.2. Quy định về các hoạt động quản lý nhà nước về công chứng
Thứ nhất, về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về
công chứng
Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ
trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng có trách nhiệm xây
dựng và trình Chính phủ chính sách phát triển công chứng; ban hành hoặc
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về công chứng; thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chủ động ban hành, tham mưu
Chính phủ ban hành, trình Quốc hội ban hành hệ thống các văn bản liên quan
đến hoạt động công chứng.
Thứ hai, về hoạt động tuyên truyền các văn bản về công chứng
Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trực tiếp là Sở Tư pháp) có
trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến về nội dung, tinh thần của Luật công
chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó nhấn mạnh những quy
định pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng tới cán bộ, nhân dân và
các đối tượng có liên quan trên địa bàn địa phương mình quản lý để mọi
người nhận thức chính xác, đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của việc xã hội hóa hoạt
động công chứng, từ đó, mỗi chủ thể sẽ tự quyết định hành vi của mình, tự
giác thực hiện.
Thứ ba, về chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
Thông tư số 06/2015/TT-BTP quy định cụ thể về bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm. Theo đó, thời gian tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công

57
chứng hàng năm tối thiểu là 03 ngày làm việc/năm (24 giờ/năm). Học viện Tư
pháp, Hội công chứng viên, trường hợp địa phương chưa thành lập Hội công
chứng viên thì Sở Tư pháp thực hiện bồi dưỡng là tổ chức thực hiện bồi dưỡng
nghiệp vụ công chứng. Hàng năm, tổ chức thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ công
chứng có trách nhiệm xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng.
Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm tập trung vào việc cập
nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các quy định pháp luật
khác có liên quan.Bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng hành nghề công chứng; cách
thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành nghề công chứng.
Thứ tư, về thực hiện chủ trương chuyển giao các hợp đồng, giao dịch
từ Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng
Luật công chứng quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng, trình
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành
nghề công chứng trong cả nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Tư pháp đã xây
dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày
10/02/2010 phê duyệt Đề án “Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020” [52]; Quyết định số
240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 ban hành tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức
hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 [53]. Trên cơ sở đó, ngày
29/12/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2104/QĐ-TTg
phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến
năm 2020” [54] trong đó xác định mục tiêu quy hoạch đến năm 2020, phát
triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp và phân bố hợp lý
gắn với địa bàn dân cư trên toàn quốc, đáp ứng đầy đủ nhu cầu công chứng
các hợp đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân trong xã hội, tăng cường tính an
toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch, bảo đảm các hợp đồng, giao dịch
liên quan hoặc có khả năng liên quan đến chuyển quyền sở hữu, quyền sử

58
dụng bất động sản đều phải được công chứng. Từ việc phát triển mạng lưới tổ
chức hành nghề công chứng sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh chuyển giao việc
chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
sang tổ chức hành nghề công chứng đối với những địa bàn cấp huyện có tổ
chức hành nghề công chứng đảm đương được nhiệm vụ chứng nhận hợp
đồng, giao dịch trên địa bàn theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày
19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất [17]. Tiến tới thực hiện việc
chuyển giao toàn bộ các hợp đồng, giao dịch do Ủy ban nhân dân cấp huyện,
cấp xã đang chứng thực liên quan hoặc có khả năng liên quan đến chuyển
quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản sang cho các tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện nhằm bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tăng cường quản
lý xã hội bằng pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, về sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quản lý
nhà nước bằng pháp luật về công chứng.
Sau mỗi khoảng thời gian thực hiện, các cơ quan quản lý nhà nước tiến
hành các hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện nhằm
tổng hợp, tiếp thu những phản biện, kiến nghị phù hợp để việc thực hiện pháp
luật về công chứng đạt hiệu quả cao hơn hoặc cung cấp thông tin cần thiết cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động công chứng.
Việc sơ kết, tổng kết, đánh giá công tác quản lý nhà nước đối với công
chứng nhằm đạt được những mục đích cơ bản sau:
- Nắm bắt thông tin, số liệu thực tế về tổ chức và hoạt động công
chứng, giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng nhiệm vụ trong
lĩnh vực này kịp thời xây dựng, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển trong thời gian tới.

59
- Đánh giá cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật đối với hiệu quả
về tổ chức và hoạt động công chứng của mỗi địa phương và trên cả nước.
Thứ sáu, về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động
công chứng
Công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm về công chứng là một khâu không thể thiếu trong quản lý nhà nước.
Thông qua kiểm tra, thanh tra, chủ thể quản lý sẽ kịp thời phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật để áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp nhằm khôi phục lại
tối đa trật tự quản lý bị xâm phạm; phát hiện những yếu kém, bất cập để đề ra
các biện pháp khắc phục, hoàn thiện thể chế, xây dựng các biện pháp nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong quá trình tổ chức
thực hiện… Kiểm tra việc thực hiện thể chế công chứng là một biện pháp
quan trọng để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về
công chứng, khắc phục và phòng ngừa những vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực này, gắn hoạt động thanh tra, kiểm tra là giải quyết khiếu nại tố cáo về
hoạt động công chứng.
Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện công
tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng. Qua thanh tra,
kiểm tra phát hiện vi phạm sẽ có biện pháp xử lý đối với công chứng viên, tổ
chức hành nghề công chứng vi phạm, đối với người có hành vi xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng;
đối với cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng bất hợp pháp; đối với người
yêu cầu công chứng có hành vi vi phạm.
2.1.4. Đánh giá chung thực trạng pháp luật về công chứng
2.1.4.1. Ưu điểm
Sự ra đời của Luật Công chứng năm 2006 đánh dấu bước chuyển biến
mạnh mẽ trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về công chứng. Lần

60
đầu tiên, các quan hệ công chứng được điều chỉnh trong văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao là “Luật”. Từ khi Luật Công chứng năm 2006 ra đời cho
đến nay là Luật Công chứng năm 2014, hệ thống pháp luật về công chứng dần
được củng cố, hoàn thiện. Hệ thống pháp luật công chứng đã khẳng định vai
trò là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu nhất đối với tổ chức và hoạt động
công chứng. Sự có mặt của các văn bản quản lý trong hoạt động của các cơ
quan quản lý có thể được hiểu như sự "tập trung quyền lực của nhà nước,
nhằm điều hành có hiệu quả nhất hoạt động quản lý bằng pháp luật". Nhà
nước đã có một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên
quan đến các tổ chức hành nghề công chứng và các hoạt động công chứng.
Các văn bản pháp luật, luật nội dung là khung pháp lý mà công chứng viên
phải tuân thủ để hợp đồng giao dịch công chứng có hiệu lực pháp luật.
Một trong những điểm đổi mới căn bản, quan trọng của Luật công
chứng là đã tách bạch và phân biệt rõ về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, đối
tượng và nguyên tắc hoạt động của công chứng so chứng thực. Theo đó, công
chứng từ chỗ bị hiểu như là một hoạt động mang tính chất thủ tục hành chính
đơn thuần thì nay được coi là một nghề, một ngành chuyên môn sâu đã tạo
điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng tập trung thực hiện đúng
chức năng của mình theo hướng chuyên nghiệp hóa; nhiệm vụ chứng nhận
hợp đồng, giao dịch giờ đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức hành
nghề công chứng. Giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội được nâng
cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo tiền đề quan trọng cho việc đưa hoạt
động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Các quy định về công chứng viên vừa siết chặt các quy định về điều kiện
bổ nhiệm công chứng viên vừa mở rộng đối tượng được bổ nhiệm công chứng
viên nhằm nâng cao số lượng, chất lượng hoạt động của công chứng viên.

61
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng theo quy định
của Luật công chứng, ngoài việc tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển mô
hình Phòng công chứng do Nhà nước thành lập, hoạt động theo cơ chế đơn vị
sự nghiệp công, việc phát triển các Văn phòng công chứng trong thời gian qua
tại một số địa phương đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công chứng của
nhân dân trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và tài lực của nhà
nước, không còn hiện tại ùn tắc, quá tải, “cò” công chứng. Việc cho phép
thành lập các Văn phòng công chứng (thay vì thành lập thêm các Phòng công
chứng) góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước,
tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều
người lao động, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần
nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ người dân của các công chứng viên.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức hành nghề công chứng phụ thuộc vào
chất lượng công chứng các văn bản, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác
trong hoạt động công chứng của mình, do đó đã khơi dậy tính chủ động, tích
cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Các
tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là tiêu
chí phục vụ hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh
trong hoạt động công chứng.
Quy định về trình tự, thủ tục công chứng đảm bảo rõ ràng, chặt chẽ, tạo
thuận lợi cho công chứng viên trong quá trình tác nghiệp.
Luật công chứng năm 2014 phân định trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước bằng pháp luật về công chứng phù hợp với nhiệm vụ được giao trong
các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Nhiệm vụ quản lý được
phân cấp phù hợp cho địa phương, tăng cường trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hoạt động công chứng trên địa bàn.

62
Việc xã hội hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân
trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào
việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở - lĩnh
vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận
công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho
các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu
“gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Thực tiễn đã chứng minh chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng
là chủ trương đúng đắn. Luật công chứng với chủ trương xã hội hóa đã được
nhân dân đồng tình, đón nhận. Sự hài lòng và thuận tiện của nhân dân về công
chứng chính là thước đo sự thành công của Luật công chứng.
2.1.4.2. Hạn chế
Hệ thống pháp luật về công chứng ngày càng được hoàn thiện song vẫn
còn nhiều bất cập khiến hoạt động công chứng vận hành chưa thông suốt, cụ thể:
Thứ nhất, việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hành
nghề công chứng: Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng năm 2014
đều không đề cập đến vấn đề chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hành
nghề công chứng, điều này gây khó khăn trong quá trình tổ chức áp dụng
pháp luật cho địa phương.
Thứ hai, Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể
về những trường hợp được phép công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề
công chứng. Pháp luật về công chứng quy định việc công chứng phải được
thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng nhằm bảo đảm tính
pháp lý chặt chẽ của văn bản công chứng. Tuy nhiên, Luật Công chứng năm
2014 cho phép có thể thực hiện công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề

63
đối với một số trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không
thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù
hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề
công chứng. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cho quy định "lý do chính đáng
khác". Lý do này chưa được giải thích cụ thể, dẫn đến cách hiểu sai về
nguyên tắc thực hiện công chứng là không nhất thiết phải ở tổ chức hành nghề
công chứng nên các văn phòng công chứng đã thực hiện số lượng lớn các việc
công chứng ngoài trụ sở với lý do là đương sự muốn giữ bí mật, đương sự
không muốn xếp hàng chờ đợi, đương sự muốn công chứng tại nhà... và sẵn
sàng trả khoản thù lao công chứng theo thỏa thuận với văn phòng công chứng.
Việc công chứng ngoài trụ sở một cách "dễ dàng" dẫn đến sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, làm giảm uy tín
của các tổ chức hành nghề công chứng. Ngược lại, các Phòng công chứng chỉ
thực hiện công chứng ngoài trụ sở khi khách hàng có giấy tờ chứng minh
thuộc trường hợp được công chứng ngoài trụ sở và có đơn yêu cầu công
chứng ngoài trụ sở kèm theo.
Thứ ba, một số quy định của Luật Công chứng vẫn còn chung chung
hoặc chưa dự liệu được hết một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn thi hành
như: về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; về trách nhiệm bồi
thường của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng; về xử lý vi
phạm trong hoạt động công chứng.
Thứ tư, các quy định liên quan đến vấn đề chuyển giao thẩm quyền
chứng thực hợp đồng, giao dịch cho tổ chức hành nghề công chứng, thẩm
quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, cấp xã công chứng trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật
Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật
Công chứng. Liên quan đến vấn đề này, Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày

64
29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo phải “đẩy mạnh chuyển giao
việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
sang tổ chức hành nghề công chứng”, đồng thời Bộ Tư pháp cũng ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo việc chuyển giao, tuy nhiên, ngày 22/10/2014 Bộ Tài
nguyên và Môi trường lại có văn bản số 4591/TNMT-PC trong đó yêu cầu Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành, tổ chức, cá nhân liên quan
tạo điều kiện cho người sử dụng đất được lựa chọn công chứng tại tổ chức
hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Thực
hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải về công
chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng
đất, ngày 29/6/2015, Bộ Tư pháp cũng đã có Công văn số 2271/BTP-BTTP
đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn Sở Tư pháp, các sở, ban, ngành,
tổ chức có liên quan thực hiện quy định thẩm quyền công chứng, chứng thực
hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo đúng quy
định của Luật đất đai năm 2013, đảm bảo người dân có quyền lựa chọn công
chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân
dân cấp xã. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Công văn số 2271/BTP-BTTP cũng nhấn
mạnh, đối với các địa bàn đã thực hiện việc chuyển giao chứng thực, hợp
đồng, văn bản từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang các tổ chức hành nghề công
chứng tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Nghị định số
88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã có quyết định chuyển giao xem xét những nơi
mà việc chuyển giao đã ổn định, tổ chức hành nghề công chứng hoạt động tốt,
đáp ứng được nhu cầu thì xem xét, quyết định giữ nguyên việc chuyển giao để
tránh gây xáo trộn, khó khăn cho người dân. Việc chỉ đạo thiếu thống nhất
như trên đã gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về

65
công chứng ở địa phương, làm ảnh hưởng đến sự tin tưởng của nhân dân vào
công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước.
Một số quy định pháp luật nội dung trong Bộ luật Dân sự và các văn
bản có liên quan chưa cụ thể cũng dẫn đến khó khăn trong hoạt động chuyên
môn, nghiệp cụ công chứng, ví dụ như: Quy định về hộ gia đình (cách thức
xác định các thành viên của hộ gia đình), quy định về tài sản hình thành trong
tương lai…
2.2. Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
2.2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Bắc Giang có tác động đến hoạt
động công chứng
2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang nằm ở toạ độ địa lý từ 21007’ đến 21037’ vĩ độ bắc; từ
105053’ đến 107002’ kinh độ đông; nằm chuyển tiếp giữa các tỉnh phía Đông
Bắc với các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội. Phía Nam giáp các
tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp tỉnh
Quảng Ninh; phía Tây giáp Thủ đô Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh có 9
huyện và thành phố Bắc Giang, trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện
vùng cao, với 230 xã, phường, thị trấn. Vị trí của tỉnh nằm trên hành lang kinh
tế Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cạnh tam giác kinh tế trọng
điểm phía Bắc (Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh) rất thuận lợi cho việc phát
triển và liên kết vùng. Thành phố Bắc Giang (thủ phủ của tỉnh) cách Thủ đô
Hà Nội 50km; cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan sang Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa 110 km; cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; cách cảng biển Hải Phòng
và cảng biển nước sâu Cái Lân - Quảng Ninh 130 km. Từ đây có thể dễ dàng
thông thương với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những đặc điểm do điều kiện tự nhiên mang lại có tác động nhất định
đến sự phát triển kinh - tế xã hội và đến hoạt động công chứng trên địa bàn

66
tỉnh. Với vị trí địa lý nằm cách thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội của cả nước không xa, khoảng 50 km, nên Bắc Giang có điều
kiện thuận lợi trong việc cử cán bộ, công chức tham gia các buổi tọa đàm,
thảo luận, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học hỏi, trao đổi kinh nghiệm;
thuận lợi cho việc cử công chức, viên chức hoặc các cá nhân tự tham gia các
lớp đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn công chứng viên, phát triển tổ chức hành
nghề công chứng.
2.2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là một tỉnh miền núi nhưng có cả vùng trung du, đồng bằng
xen kẽ. Lợi thế kinh tế của tỉnh là nông, lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ,
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Nông, lâm nghiệp đang có sự chuyển dịch
cơ cấu một cách tích cực. Tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng được ứng
dụng, nhất là việc đưa giống mới, phương pháp canh tác mới. Tốc độ tăng tỷ
trọng nông sản hàng hoá mỗi năm đều tăng. Những cây trồng có giá trị kinh tế
cao đã được phát triển, mở rộng ngày một nhanh hơn. Chăn nuôi theo phương
pháp công nghiệp cùng với nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục có những bước phát
triển rất khả quan. Dịch vụ nông nghiệp không ngừng phát triển đến tận các
thôn bản, xóm làng vùng cao, hẻo lánh. Thương mại dịch vụ phát triển nhanh
trong nền kinh tế thị trường, nhiều chợ nông thôn đã được khôi phục, mở rộng
hoặc nhanh chóng hình thành. Các thị trấn, thị tứ ngày càng sầm uất thêm.
Công nghiệp là ngành kinh tế có nhiều tiềm năng của tỉnh. Khu công nghiệp
Đình Trám rộng hơn 100 ha đã được các nhà đầu tư vào gần kín, ngoài ra còn
gần 10 cụm công nghiệp tại các huyện, thị xã đã và đang đi vào hoạt động
hoặc đang thiết kế quy hoạch hoàn chỉnh. Từ khi tỉnh có văn bản khuyến
khích ưu đãi đầu tư trên địa bàn, sau một năm đã có 114 nhà đầu tư đăng ký
với tổng số vốn hơn 1.187 tỷ đồng, trong đó 57 dự án đầu tư đã được chấp
thuận. Các làng nghề truyền thống ngày càng được khôi phục và phát triển

67
như: mây tre đan Tăng Tiến, tơ tằm Song Mai, bún Đa Mai, rượu làng Vân,
mì Chũ, bánh đa Kế…
Về điều kiện xã hội: Hiện Bắc Giang có dân số hơn 1,6 triệu người, có
trên 20 dân tộc, trong đó: Dân tộc kinh chiếm đa số (88%), còn lại các dân tộc
thiểu số khác chiếm 12%, gồm: Nùng (4,96%), Tày (2,57%), Sán dìu (1,77%),
Hoa (1,2%), Sán cháy (1,67%)... Lực lượng lao động có khoảng một triệu
người, chiếm 70 % dân số, đây là tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Cơ cấu nhân
lực theo trình độ chuyên môn kỹ thuật chuyển dịch theo hướng tích cực phù
hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, tỷ trọng người lao động chưa qua đào tạo
trong thành phần lao động tham gia các ngành kinh tế quốc dân giảm dần,
người lao động qua đào tạo các trình độ và đặc biệt là người lao động có trình
độ từ đại học trở lên tăng cao với tốc độ tương đối nhanh. Bắc Giang được
đánh giá là địa phương có hoạt động giáo dục phát triển vào loại khá trong cả
nước. Nằm trong vùng Kinh Bắc giàu truyền thống văn hoá, Bắc Giang được
đánh giá là địa danh có nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. Hai di sản
hát Quan họ và Ca trù trên địa bàn đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hoá Thế giới. Có 341 điểm di tích văn hoá được xếp hạng như: khu di tích lịch
sử Hoàng Hoa Thám, chùa Đức La, chùa Bổ Đà, khu di tích Đình chùa Tiên
Lục và cây Dã Hương ngàn năm tuổi, v.v. những điểm này rất hấp dẫn khách
tham quan và nghiên cứu. Hàng năm có hàng trăm lễ hội dân gian diễn ra trên
địa bàn, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Con người Bắc Giang hiền hậu,
mến khách, trọng nghĩa tình, luôn khát khao phát triển.
Kinh tế là yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng, trong mối quan hệ với kiến
trúc thượng tầng, kinh tế luôn giữ vai trò quyết định. Nằm trong mối quan hệ
đó, các yếu tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương cũng luôn có
sự tác động qua lại và ảnh hưởng lớn đến hoạt động công chứng. Sự ảnh
hưởng đó thể hiện ở chỗ: Để đẩy mạnh phát triển kinh tế, các cá nhân, tổ chức

68
phải tăng cường các hoạt động giao dịch về các mặt dân sự, kinh tế, thương
mại..., từ đó phát sinh ra các hợp đồng, giao dịch cần phải công chứng. Ngược
lại, việc tăng cường các hoạt động giao lưu kinh tế sẽ tạo đà thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Thực tế trong những năm gần đây, cùng với sự tăng
trưởng về kinh tế, các quan hệ xã hội của cá nhân, cơ quan, tổ chức trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang cũng được mở rộng. Số lượng hợp đồng, giao dịch được
công chứng cũng tăng theo từng năm. Điều đó chứng tỏ rằng, kinh tế xã hội
phát triển thì số lượng việc công chứng cũng tăng và việc công chứng tăng
cũng góp phần tích cực vào sự phát triển của các hoạt động kinh tế, xã hội.
Bảng 2.1: Diện tích, dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế các huyện, thành
phố trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội
(%)
Diện
Tên đơn vị hành Dân số Giai Dự kiến
TT tích
chính cấp huyện (người) đoạn giai đoạn Dự kiến đến
(km2)
2005 - 2011 - năm 2020
2010 2015
01 Huyện Sơn Động 844 67.000 11 14 16
02 Huyện Lục Ngạn 1017 210.000 16,9 14,6 15,4
03 Huyện Lục Nam 597 210.000 10,5 15 16
04 Huyện Yên Thế 303 92.000 9,12 14 - 15 12,5
05 HuyệnTân Yên 204 170.000 12 11 - 12 15
06 Huyện Lạng Giang 240 190.000 12,5 14 - 15 14 - 15
07 Huyện Yên Dũng 213 166.000 15,05 17,93 16,66
08 Huyện Việt Yên 170 160.110 13,7 15,4 17,8
09 Huyện Hiệp Hoà 201 210.000 10 12 13,5
10 Thành phố Bắc Giang 66 145.249 15,7 17,5 - 18 Trên 18,5
Toàn tỉnh Bắc Giang 3.855 1.620.359 9 11-12 12
(Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.)
2.2.2. Thực trạng về công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng
Trong thời gian qua, hoạt động công chứng trên cả nước nói chung và
địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng đã có những bước phát triển, đóng góp tích

69
cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ
hơn vị trí, vai trò quan trọng của công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về công chứng của tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là công cụ đắc lực phục vụ
quản lý nhà nước có hiệu quả, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp
phần tích cực vào việc phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng và đội ngũ
công chứng viên là kết quả nổi bật nhất của việc thực hiện Luật Công chứng
từ năm 2007 đến nay. Trước khi Luật Công chứng ra đời, trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang chỉ có 02 Phòng Công chứng. Thực hiện chủ trương xã hội hóa
công chứng, tỉnh đã có nhiều biện pháp khuyến khích nhằm thúc đẩy sự phát
triển của các tổ chức hành nghề công chứng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có
13 tổ chức hành nghề công chứng (gồm 02 Phòng công chứng và 11 Văn
phòng công chứng). Có 07/10 huyện, thành phố đã có tổ chức hành nghề công
chứng là thành phố Bắc Giang (06 tổ chức, gồm Phòng công chứng số 1 và 05
Văn phòng công chứng), huyện Lục Ngạn (02 tổ chức, gồm Phòng công
chứng số 2 và 01 Văn phòng công chứng), huyện Lục Nam (01 Văn phòng
công chứng), huyện Tân Yên (01 Văn phòng công chứng), huyện Việt Yên
(01 Văn phòng công chứng), huyện Hiệp Hoà (01 Văn phòng công chứng),
huyện Lạng Giang (01 Văn phòng công chứng).
Cùng với việc phát triển về số lượng, các Văn phòng công chứng đã
chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ. Tại trụ
sở các Văn phòng công chứng đều thực hiện việc niêm yết các danh mục, quy
định hồ sơ yêu cầu công chứng và công khai, minh bạch mức thu phí công
chứng để khách hàng có thể thực hiện giao dịch dễ dàng. Các tổ chức hành
nghề công chứng có đội ngũ chuyên viên giúp việc được đào tạo bài bản, có

70
trình độ cử nhân chuyên ngành luật, vì vậy việc công chứng các giao dịch,
hợp đồng được thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng có tính
chuyên nghiệp cao, đảm bảo tính chính xác, tuân thủ pháp luật, hồ sơ văn bản
công chứng được lưu giữ khoa học, đầy đủ. Thông qua quá trình tác nghiệp,
các tổ chức hành nghề công chứng đã tích cực tuyên truyền, tư vấn cho cá
nhân, tổ chức những quy định của pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức
tuân thủ pháp luật cho người dân. Nhìn chung, hoạt động của các tổ chức
hành nghề công chứng đã đáp ứng được nhu cầu công chứng của các cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, quy mô tổ chức và hoạt động công
chứng cũng từng bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp.
Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trong thời gian qua
đã từng bước hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa công chứng, việc phát triển
đúng lộ trình được phê duyệt đã giảm áp lực lên bộ máy chính quyền cơ sở,
tạo điều kiện cho người dân có thêm sự lựa chọn trong việc thực hiện yêu cầu
công chứng, tính an toàn pháp lý trong các hợp đồng, giao dịch được đảm bảo
cao hơn.
Về đội ngũ công chứng viên, trước khi Luật Công chứng năm 2006 có
hiệu lực, tỉnh Bắc Giang có 06 công chứng viên. Để chuẩn bị cho việc phát
triển đội ngũ công chứng viên đáp ứng yêu cầu xã hội hóa công chứng, Ủy ban
nhân dân tỉnh đã thực hiện các biện pháp tăng cường đội ngũ công chứng viên
như cử cán bộ tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ công chứng, khuyến khích, tạo
điều kiện cho những người thuộc đối tượng được miễn đào tạo, đề nghị bổ
nhiệm công chứng viên theo quy định. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 27 công
chứng viên, trong đó có 06 công chứng viên hoạt động tại các Phòng công
chứng số 1 và số 2; 21 công chứng viên hoạt động tại các Văn phòng công
chứng, mỗi Văn phòng công chứng có từ 01 đến 03 công chứng viên. Trong số
27 công chứng viên thì có 15 người đã qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp

71
vụ công chứng, 12 người thuộc diện được miễn đào tạo nghề công chứng theo
quy định tại Điều 15 Luật Công chứng năm 2006; những công chứng viên này
là các thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên và luật sư, sau khi nghỉ công tác
hoặc thôi làm luật sư chuyển sang hoạt động hành nghề công chứng và được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Với những điều kiện như trên và những biện
pháp khuyến khích phát triển đội ngũ công chứng viên của tỉnh đã góp phần
nâng cao số lượng đội ngũ công chứng viên, đáp ứng yêu cầu của tổ chức, cá
nhân ở những địa bàn có tổ chức hành nghề công chứng.

Bả ng 2.2: Số lư ợ ng tổ chứ c hành nghề công chứ ng và số

công chứ ng viên


Tổ chức hành nghề công chứng
Đơn vị hành chính cấp Số lượng công
Tên tổ chức hành nghề Năm thành
huyện chứng viên
công chứng lập
Huyện Sơn Động Chưa có
Huyện Lục Ngạn PCC số 2 2005 03
VPCC Lục Ngạn 2012 01
Huyện Lục Nam VPCC Lục Nam 2012 02
Huyện Yên Thế Chưa có
HuyệnTân Yên VPCC Tư Khoa 2012 02
Huyện Lạng Giang VPCC Quang Minh 2012 02
Huyện Yên Dũng Chưa có
Huyện Việt Yên VPCC Hòa Tiến 2012 03
Huyện Hiệp Hoà VPCC Hiệp Hòa 2011 02
PCC số 1 1990 03
VPCC Minh Khai 2009 02
T.P Bắc Giang VPCC Thiên Long 2009 02
VPCC Xương Giang 2009 01
VPCC Tân Thành 2010 02
VPCC Đ&T 2011 02

72
Tổng số 02 PCC và 11 VPCC 27

(Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang.)


2.2.3. Thực trạng, kết quả thực hiện các thủ tục công chứng
Tính từ khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực (ngày 01/7/2007)
đến hết tháng tháng 12/2014, các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn
tỉnh đã công chứng 105.429 hợp đồng, giao dịch; thu phí 19.943.967.000
đồng; nộp ngân sách nhà nước 4.547.017.000 đồng.
Với sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng trải đều trên
các địa bàn, việc công chứng của tổ chức, công dân được thực hiện nhanh
chóng, thuận lợi hơn. Các văn phòng công chứng với nhiệm vụ thực hiện dịch
vụ hành chính công đã tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch
vụ, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức. Nếu
như trước đây, việc xác nhận các hợp đồng, giao dịch chủ yếu do UBND cấp
xã thực hiện, với số lượng cán bộ ít, trình độ còn hạn chế, tính chuyên nghiệp
không cao, thì nay việc xác nhận do công chứng viên, những người được đào
tạo bài bản, thực hiện hoạt động công chứng một cách chuyên nghiệp, do vậy
chất lượng của việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch được nâng lên, quyền, nghĩa vụ của người tham gia hợp đồng giao
dịch được bảo đảm hơn.

73
Bảng 2.3: Số hợp đồng, giao dịch đã công chứng
Số lượng hợp
Đơn vị hành chính Tên tổ chức hành nghề công
TT cấp huyện chứng
đồng, giao dịch đã
công chứng
1. Huyện Sơn Động Chưa có
2. Huyện Lục Ngạn PCC số 2 9.718
VPCC Lục Ngạn 2.206
3. Huyện Lục Nam VPCC Lục Nam 1.576
4. Huyện Yên Thế Chưa có
5. HuyệnTân Yên VPCC Tư Khoa 2.052
6. Huyện Lạng Giang VPCC Quang Minh 1.609
7. Huyện Yên Dũng Chưa có
8. Huyện Việt Yên VPCC Hòa Tiến 1.670
9. Huyện Hiệp Hoà VPCC Hiệp Hòa 4.174
10. PCC số 1 29.147
VPCC Minh Khai 9.743
T.P Bắc Giang VPCC Thiên Long 10.612
VPCC Xương Giang 14.207
VPCC Tân Thành 6.759
VPCC Đ&T 11.956
Tổng số 105.429

(Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang)


2.2.4. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về công chứng
2.2.4.1. Công tác chỉ đạo, triển khai các văn bản pháp luật về công chứng
a) Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Công chứng và các
văn bản hướng dẫn thi hành
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động công chứng, sau khi
Luật Công chứng có hiệu lực, ngày 20/3/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
đã tổ chức Hội nghị triển khai thi hành Luật Công chứng đến đối tượng là lãnh
đạo các Sở, ngành cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các tổ

74
chức, cá nhân có liên quan, đồng thời chỉ đạo các cơ quan tích cực tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng những nội dung cơ
bản của Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng nhiều hình
thức phong phú, hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán
bộ, công chức, viên chức và nhân dân đối với hoạt động công chứng. Qua đó
Luật Công chứng đã được triển khai đồng bộ và sâu rộng đến các tầng lớp nhân
dân trên địa bàn tỉnh và được các cơ quan, tổ chức liên quan triển khai thực hiện
có hiệu quả, nhận thức của các cơ quan, tổ chức và nhân dân về ý nghĩa, vai trò
của hoạt động công chứng đã có sự chuyển biến tích cực.
b) Công tác ban hành các văn bản triển khai Luật Công chứng và văn
bản liên quan
Nhằm triển khai thi hành đồng bộ và hiệu quả pháp luật tại địa phương,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan
phối hợp triển khai sâu rộng các nội dung theo quy định của Luật Công chứng
và các văn bản hướng dẫn thi hành tại địa phương.
Theo đó, để chuẩn bị tiếp nhận việc chuyển giao chứng thực hợp đồng,
giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư
pháp lập kế hoạch và chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất và con người
cho các Phòng Công chứng; xây dựng trụ sở Phòng công chứng số 1; phối
hợp với Ủy ban nhân dân huyện Lục Ngạn bố trí nơi làm việc cho Phòng công
chứng số 2 ở vị trí thuận tiện và trang bị đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất để
đáp ứng đủ yêu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân.
Nhằm tạo cơ sở cho việc xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang, căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương, Ủy ban nhân dân
tỉnh ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 09/4/2009 phê duyệt Đề án
phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai
đoạn 2009-2020 làm cơ sở cho việc thành lập các tổ chức hành nghề công
chứng và từng bước chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy

75
ban nhân dân cấp huyện, cấp xã cho các tổ chức hành nghề công chứng. Mục
tiêu của Đề án là xây dựng và phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công
chứng mang tính ổn định và bền vững, đáp ứng yêu cầu xã hội hoá hoạt động
công chứng, đảm bảo sự phát triển hài hoà, hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu công
chứng của tổ chức, công dân, vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đối với
tổ chức và hoạt động công chứng, nâng cao chất lượng hoạt động công chứng,
bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp, an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp
phần tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Đến năm 2015 toàn tỉnh có 16 tổ chức hành nghề công chứng; đến
năm 2020 có 30 tổ chức hành nghề công chứng, mỗi huyện, thành phố thuộc
tỉnh và thị xã có ít nhất 02 tổ chức hành nghề công chứng. Kết hợp việc phát
triển tổ chức hành nghề công chứng với phát triển số lượng công chứng viên,
phát triển quy mô, nâng cao chất lượng tổ chức hành nghề công chứng.
Để đảm bảo Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang đến năm 2020 phù hợp với Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày
29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc
Giang đã chỉ đạo tổng kết thực hiện Đề án phát triển tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ban hành theo Quyết định số 27/QĐ-
UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng thời chỉ đạo rà soát, chỉnh sửa quy
hoạch của tỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm thực hiện tốt quy
định của Chính phủ về phát triển tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo sự
phát triển ổn định bền vững của các tổ chức hành nghề công chứng.
2.2.4.2. Một số kết quả trong hoạt động quản lý nhà nước về công chứng
a) Về xây dựng hệ thống cơ quan quản lý, người làm công tác quản lý
nhà nước bằng pháp luật về công chứng
Theo quy định của Luật Công chứng, cơ quan có thẩm quyền thực hiện
quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng ở địa phương là Ủy ban nhân

76
dân tỉnh và Sở Tư pháp. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh
thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng, theo các nội dung
trên và theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh.
Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan
như: Hội Đồng nhân dân thực hiện chức năng giám sát, Công an tỉnh, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh thực hiện chức năng tố tụng liên
quan đến hoạt động công chứng…
Về người làm công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công
chứng: Để tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp quản lý nhà nước bằng
pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh, ngày 19/10/2009 Sở Tư pháp Bắc
Giang đã thành lập Phòng Bổ trợ tư pháp. Phòng Bổ trợ tư pháp được thành
lập trên cơ sở chia tách từ Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp thuộc
Sở Tư pháp. Phòng Bổ trợ Tư pháp hiện có 03 biên chế gồm 01 Trưởng
phòng và 02 chuyên viên. Các công chức thuộc Phòng Bổ trợ tư pháp đều có
trình độ cử nhân luật, 02/03 công chức đã qua khóa bồi dưỡng nghiệp vụ công
chứng để có thể hiểu sâu về hoạt động công chứng và thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng. Bên cạnh đó, Thanh tra
Sở Tư pháp là đơn vị thanh tra chuyên ngành, giúp lãnh đạo Sở thực hiện
nhiệm vụ thanh tra lĩnh vực tư pháp, trong đó có hoạt động công chứng.
Thanh tra Sở Tư pháp hiện nay có 02 công chức đều là thanh tra viên.
b) Việc chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ là hoạt động
quan trọng trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng. Hàng năm,
Sở Tư pháp đều tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên,
đồng thời phối hợp với Học viên Tư pháp tổ chức cho các chuyên viên tham
gia các lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng. Trong hơn bảy năm từ khi Luật
Công chứng có hiệu lực đã tổ chức được 07 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, cử và

77
giới thiệu 30 lượt cán bộ, chuyên viên pháp luật tham gia lớp đào tạo nghiệp
vụ công chứng do Học viện Tư pháp tổ chức. Bên cạnh đó, định kỳ mỗi quý
một lần, Sở Tư pháp tổ chức giao ban với các tổ chức hành nghề công chứng
nhằm nắm bắt tình hình hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng,
phổ biến những thông tin, kiến thức, văn bản pháp luật mới, nắm bắt và kịp
thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng, đảm bảo hoạt
động công chứng tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, giao dịch. Trên cơ sở
nắm bắt thực tế hoạt động công chứng cũng như qua thanh tra, kiểm tra, Sở
Tư pháp cũng ban hành các văn bản hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp, giải
đáp những vướng mắc liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng.
c) Về thực hiện chủ trương chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ
ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng
Trên cơ sở tình hình phát triển các tổ chức hành nghề công chứng, Sở
Tư pháp đã chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định chuyển giao
việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
sang các tổ chức hành nghề công chứng theo nguyên tắc: ở đâu có tổ chức
hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề công chứng đảm đương được
nhiệm vụ công chứng thì thực hiện chuyển giao. Trên cơ sở đó, ngày
09/4/2009 Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND phê
duyệt Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định chuyển giao thẩm quyền
chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân thành phố Bắc Giang, Ủy
ban nhân dân huyện Lục Ngạn và toàn bộ các xã, phường trên địa bàn thành
phố Bắc Giang; 07 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Lục Ngạn, gồm: thị trấn
Chũ và các xã: Trù Hựu, Thanh Hải, Nghĩa Hồ, Hồng Giang, Quý Sơn,
Phượng Sơn sang các tổ chức hành nghề công chứng. Căn cứ tình hình phát

78
triển và khả năng đáp ứng nhu cầu công chứng của các tổ chức hành nghề
công chứng, ngày 03/7/2014 Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục ban hành Quyết
định số 404/QĐ-UBND và ngày 28/8/2014 ban hành Quyết định số 567/QĐ-
UBND về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng, chứng thực, theo đó việc
chứng thực hợp đồng, giao dịch của Ủy ban nhân dân các huyện Việt Yên,
Lạng Giang, Lục Nam và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn: Nếnh, Bích Sơn,
Trung Sơn, Quang Châu (huyện Việt Yên); Vôi, Phi Mô, Yên Mỹ (huyện
Lạng Giang); Đồi Ngô, Tiên Hưng, Chu Điện (huyện Lục Nam) được chuyển
sang cho các tổ chức hành nghề công chứng. Để đảm bảo hoạt động công
chứng diễn ra ổn định, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân, việc chuyển
giao thẩm quyền công chứng, chứng thực thực hiện trên nguyên tắc chỉ
chuyển giao đối với những địa bàn cấp huyện có ít nhất 02 tổ chức hành nghề
công chứng, hoặc tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn có ít nhất 02
công chứng viên, như vậy việc thực hiện công chứng sẽ đảm bảo tuân thủ quy
định và theo lộ trình phù hợp với tình hình của địa phương, đảm bảo quyền
lợi của người có nhu cầu công chứng. Đối với những địa bàn còn lại, cá nhân,
tổ chức có nhu cầu công chứng có quyền lựa chọn chứng thực tại Ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc công chứng tại các tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh.
Để đảm bảo cho việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực từ Ủy ban nhân
dân cấp huyện, cấp xã cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đối với
địa bàn các huyện còn lại, Ủy ban nhân dân tỉnh cũng chỉ đạo các Văn phòng
công chứng tiếp tục kiện toàn tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị
làm việc đạt mức tối thiểu theo quy định tại Nghị định số 04/2012/NĐ-CP của
Chính phủ, mỗi Văn phòng công chứng có ít nhất 02 công chứng viên trở lên.
d) Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng

Thanh tra và kiểm tra là những hoạt động thiết yếu, thường xuyên của

79
công tác quản lý Nhà nước, ở đâu có quản lý thì ở đó có thanh tra, kiểm tra.
Đối với hoạt động công chứng, công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai
thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm, góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Với trách nhiệm là cơ quan
chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt
động công chứng, hàng năm, Sở Tư pháp đều xây dựng các kế hoạch thanh
tra, kiểm tra, đảm bảo 100% các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn
tỉnh đều được thanh tra, kiểm tra. Yêu cầu về thanh tra, kiểm tra được xác
định tập trung vào các nội dung như: việc đảm bảo các điều kiện về trụ sở, cơ
sở vật chất cho hoạt động công chứng; việc bố trí nhân sự, thực hiện các quy
định của pháp luật về lao động đối với người lao động của tổ chức hành nghề
công chứng; việc niêm yết và tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, phí
công chứng; việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước...
Từ năm 2007 đến nay, Sở Tư pháp đã tổ chức 45 đợt thanh tra, kiểm tra
đối với tổ chức hành nghề công chứng. Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy, nhìn
chung các Văn phòng công chứng đã có trụ sở, cơ sở vật chất đảm bảo cho
việc thực hiện công chứng; thực hiện mở sổ sách tài chính - kế toán, đăng ký
mã số thuế, sử dụng hóa đơn tài chính và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà
nước theo quy định của pháp luật. Các Văn phòng công chứng đã được hoàn
thiện về tổ chức, bộ máy, cũng như đầu tư cơ sở vật chất và giải quyết một
lượng lớn các yêu cầu công chứng của công dân, tổ chức. Đội ngũ nhân viên
của các Văn phòng công chứng cơ bản đều có trình độ chuyên môn phù hợp,
được tuyển chọn và sử dụng trên cơ sở hiệu quả làm việc thực tế. Trình tự,
thủ tục thực hiện công chứng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì hoạt động công chứng cũng
còn những tồn tại, hạn chế như: việc thực hiện công chứng ngoài trụ sở không
đúng đối tượng theo quy định của pháp luật; một số trường hợp công chứng

80
hợp đồng, giao dịch chưa tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục công chứng;
thu phí và thu lao công chứng không đúng quy định; thực hiện công chứng
trong trường hợp nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật…
Trên cơ sở kết quả thanh tra, kiểm tra, Sở Tư pháp Bắc Giang đã thu
hồi giấy đăng ký hoạt động đối với 01 văn phòng công chứng, tiến hành xử
phạt vi phạm hành chính đối với một số văn phòng công chứng có vi phạm
theo quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với tổ chức hành nghề công
chứng. Với những kết quả đã đạt được, công tác thanh tra, kiểm tra đã góp
phần chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo
cho hoạt động này tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch.
2.2.5. Đánh giá chung về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
2.2.5.1. Ưu điểm
Để các văn bản pháp luật về công chứng có thể đến được với người dân,
công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi
hành đã được triển khai mạnh mẽ. Cùng với các văn bản pháp luật của các cơ
quan có thẩm quyền ở Trung ương, tỉnh Bắc Giang cũng ban hành nhiều văn bản
nhằm triển khai thi hành Luật Công chứng. Đặc biệt Đề án phát triển tổ chức
hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2009 - 2020 và các quyết định
chuyển giao thẩm quyền chứng thực từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang
tổ chức hành nghề công chứng đã là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực
hiện chủ trương xã hội hóa công chứng, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương
phát triển tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên.
Xã hội hóa hoạt động công chứng cơ bản đã được tích cực triển khai
thực hiện tại địa phương. Mô hình Phòng công chứng do Nhà nước thành lập,
hoạt động vẫn được tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển, hoạt động theo cơ

81
chế đơn vị sự nghiệp công, việc phát triển Văn phòng công chứng do công
chứng viên thành lập được đẩy mạnh, đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu
công chứng của nhân dân, trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và
tài lực của nhà nước, hiện tượng ùn tắc, quá tải, “cò” công chứng không còn.
Việc cho phép thành lập các Văn phòng công chứng góp phần giảm bớt gánh
nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách cho địa
phương, giải quyết công việc cho nhiều lao động, đồng thời tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ
người dân của các công chứng viên.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức hành nghề công chứng phụ
thuộc vào chất lượng công chứng văn bản, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính
xác trong hoạt động công chứng của mình, do đó đã khơi dậy tính chủ động,
tích cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ.
Các tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là
tiêu chí hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh trong
hoạt động công chứng.
Hoạt động công chứng được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa.
Hoạt động công chứng có tác động tích cực đến kinh tế - xã hội. Những kết
quả bước đầu thu được từ chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đã tạo
bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp. Việc xã hội
hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực
hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa
tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở - lĩnh vực vốn phức tạp và
tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Với việc xã hội hóa, công chứng trở thành
lá chắn hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết

82
kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu gánh nặng pháp lý cho Tòa án
trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Kết quả hoạt động công chứng trong thời gian vừa qua đã khẳng định
rõ vai trò của công chứng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp công
dân, tổ chức góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng, giao dịch, công chứng đã góp phần tích cực vào việc quản lý các
hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp
luật, tạo sự ổn định cho các hoạt động giao dịch, hạn chế tối đa hậu quả
đáng tiếc và không đáng có xảy ra trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh
các quan hệ xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định trong
giao lưu dân sự, đồng thời bảo đảm cho các tranh chấp phát sinh có cơ sở
pháp lý để giải quyết theo hướng tích cực và tạo lối ra an toàn cho các
tranh chấp đó. Các cơ quan xét xử lấy đó làm cơ sở pháp lý để giải quyết
vụ tranh chấp được an toàn, nhanh chóng.
Thực tiễn triển khai xã hội hóa hoạt động công chứng đã chứng minh
tính đúng đắn của chủ trương này. Hệ thống pháp luật về xã hội hóa hoạt
động công chứng đã bước đầu biểu hiện tính phù hợp, được đồng tình, đón
nhận, thước đo của sự phù hợp này chính là mức độ hài lòng của người dân,
sự đóng góp vào quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, sự phát triển
kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Những kết quả nêu trên thể hiện sự tích cực, chủ động của các chủ thể
pháp luật công chứng trong đó có các cơ quan quản lý nhà nước, công chứng
viên, tổ chức hành nghề công chứng và đông đảo tổ chức, cá nhân trong việc
triển khai thực hiện pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng. Đồng thời
cũng thể hiện sự phù hợp tương đối của hệ thống văn bản pháp luật hiện hành
về xã hội hóa hoạt động công chứng và thực tiễn ở địa phương.

83
* Nguyên nhân của ưu điểm
- Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động công chứng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, trong thời gian qua, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, đồng thời quan tâm xây dựng
và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động công
chứng. Trước hết phải kể đến đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày ngày 02
tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 trong đó đã chỉ rõ: Hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm
vi của công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mô hình
quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ
chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội
hóa hoạt động công chứng. Thể chế hóa định hướng nêu trên, ngày
29/11/2006 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật công chứng là văn bản pháp
lý cao nhất điều chỉnh hoạt động công chứng. Và để triển khai thi hành Luật
Công chứng, Chính phủ, các cơ quan ngang bộ đã ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Luật Công chứng. Với sự định hướng của Đảng
và việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công chứng nêu trên là một trong
những nguyên nhân quan trọng mang đến cho hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung những chuyển biến mạnh mẽ, tạo
cơ sở cho sự phát triển của tổ chức và hoạt động công chứng.
- Sự tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc
triển khai Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng là một
yếu tố đảm bảo sự triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật
về công chứng. Ngay sau khi Luật công chứng được ban hành, Ủy ban nhân
dân tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện, đồng thời đẩy mạnh việc tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức của chính quyền và nhân dân đối với hoạt động công chứng. Với

84
các biện pháp khuyến khích phù hợp đã góp phần phát triển số lượng các tổ
chức hành nghề công chứng và đội ngũ công chứng viên. Hoạt động thanh tra,
kiểm tra được đẩy mạnh góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động công chứng,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
2.2.5.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, hoạt động công chứng trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
- Về tổ chức hành nghề công chứng
Việc triển khai thi hành pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng
chưa đồng bộ, có tình trạng phát triển nhanh, nóng về số lượng Văn phòng
công chứng, cá biệt ở thành phố Bắc Giang phát triển 06 tổ chức hành nghề
công chứng trên một địa bàn cấp huyện. Ngược lại, một số địa phương lại
chưa phát triển được Văn phòng công chứng. Nhìn chung, nhận thức về xã
hội hóa công chứng gắn với quản lý việc thành lập, phát triển tổ chức hành
nghề công chứng theo quy hoạch còn bất cập. Hiện nay sự phân bố các tổ
chức hành nghề công chứng tại một số địa bàn còn chưa đồng đều, các Văn
phòng công chứng chủ yếu phát triển ở các đô thị hoặc nơi có điều kiện kinh
tế - xã hội phát triển, trong khi đó các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát
triển thì số lượng tổ chức hành nghề công chứng rất ít. Điều này chưa thực sự
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các hợp
đồng, giao dịch.
Hoạt động của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu tính chuyên
nghiệp, chưa có sự liên kết trong hành nghề, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu
cầu, trình độ quản lý còn bất cập. Tình trạng “cạnh tranh” không lành mạnh
giữa các Văn phòng công chứng diễn biến phức tạp. Hiện tượng không tuân
thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn xảy ra.
Một số Văn phòng công chứng bố trí điểm tiếp nhận hồ sơ công chứng ở các

85
địa bàn ngoài trụ sở tổ chức mình để tiếp nhận yêu cầu công chứng, không
niêm yết lịch làm việc, thu phí công chứng, thù lao công chứng cao hơn quy
định, thu phí không ghi biên lai, hóa đơn hoặc thu cao hơn nhưng khi ghi hóa
đơn chỉ ghi lại phần trăm phí và thù lao công chứng cho người yêu cầu công
chứng để thu hút người này sử dụng dịch vụ công chứng của tổ chức mình,
đầu tư vốn vào các Văn phòng công chứng khác…Điều này ảnh hưởng đến uy
tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động công chứng.
- Về đội ngũ công chứng viên
Hiện nay, ở địa phương số lượng công chứng viên còn thiếu, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển tổ chức hành nghề công chứng do không có
nguồn để bổ nhiệm khiến chủ trương xã hội hóa chậm được thực hiện. Việc
bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chứng viên đã được bổ nhiệm chưa
được thực hiện thường xuyên, dẫn đến chất lượng của một bộ phận công
chứng viên đang hành nghề chưa theo kịp yêu cầu công việc.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chứng viên còn nhiều bất cập,
hạn chế, bên cạnh các công chứng viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có
tâm với nghề, còn nhiều công chứng viên hạn chế về năng lực chuyên môn,
kỹ năng hành nghề, chưa tuân thủ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng,
thậm chí một số công chứng viên có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp
như quảng cáo hoạt động dịch vụ công chứng vượt ra ngoài quy định của
pháp luật, thiếu sự hợp tác trong chia sẻ thông tin công chứng…
- Về việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch
từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng thì đến
năm 2020, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang được phát triển tối đa 20 tổ chức hành
nghề công chứng, trong đó, tại thành phố Bắc Giang là 05 tổ chức, các huyện
còn lại có từ 01 đến 02 tổ chức và phân bổ tại trung tâm các huyện. Việc phân bổ
như vậy không thuận tiện cho người dân vì phải đi lại xa hơn trong khi tổ chức

86
hành nghề công chứng chỉ có 01 công chứng viên thực hiện công chứng nên
không đáp ứng được nhu cầu công chứng ngày càng nhiều của người dân.
Nhận thức về chủ trương chuyển giao của một số cơ quan, tổ chức, cá
nhân còn hạn chế, do đó, việc chuyển giao ở địa phương tiến hành chậm, có
địa phương cho rằng việc “chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng,
giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng…” là trái với Luật Đất đai,
Luật Nhà ở, không thuận tiện cho nhân dân (do nhân dân phải đi lại xa và phí
công chứng cao hơn lệ phí chứng thực…).
Một số huyện chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt
về công tác chuyển giao nên còn hiện tượng phối hợp chưa tốt, gây khó khăn
cho người dân.
- Về công tác quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động công chứng
Việc cho phép thành lập, đăng ký hoạt động các Văn phòng công chứng
chưa được thực hiện một cách bài bản, chưa tạo ra được cơ chế khuyến khích
các tổ chức hành nghề công chứng tập trung đầu tư cơ sở vật chất, con người
ngay từ ban đầu để đáp ứng nhiệm vụ.
Chưa xây dựng được cơ chế phối hợp nghiệp vụ và chia sẻ thông tin
giữa các tổ chức hành nghề công chứng và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất về tài sản giao dịch; chưa tạo được cơ chế liên thông giữa các tổ chức
hành nghề công chứng, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm,
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và nhà khi thực hiện các thủ tục hành
chính đối với các giao dịch về bất động sản. Điều này dễ dẫn đến tình trạng
rủi ro trong hoạt động công chứng như: Một số tài sản giao dịch nhiều lần
được công chứng ở nhiều tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Sự phối
hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về công chứng với các cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở, các cơ quan, tổ chức hữu quan chưa chặt chẽ dẫn đến việc quản lý nhà
nước thiếu thông tin và hiệu quả chưa cao.

87
Công tác kiểm tra, thanh tra về tình hình tổ chức, hoạt động công chứng
còn chưa chặt chẽ, thường xuyên nên dẫn đến việc tháo gỡ vướng mắc, khó
khăn, phát hiện, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng đôi khi còn chưa hiệu quả.
- Về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên
Việc thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên chưa
được thực hiện.
* Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
Như đã phân tích ở trên, do hệ thống pháp luật về công chứng ngày
càng được hoàn thiện song vẫn còn nhiều bất cập khiến hoạt động công chứng
vận hành chưa thông suốt. Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức hành
nghề công chứng và các công chứng viên đôi khi còn lúng túng trong việc
triển khai thi hành quy định của pháp luật về công chứng.
- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về công
chứng, về vai trò của công chứng còn chưa đi vào chiều sâu nên chưa thực sự
phát huy hiệu quả cao nhất, chưa ngấm, thấm sâu vào nhận thức của đông đảo
cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, nhận thức về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; về
bản chất của hoạt động công chứng; về chủ trương tách bạch giữa công chứng
và chứng thực của bộ phận cơ quan, cán bộ quản lý nhà nước bằng pháp luật
về công chứng, của người dân còn chưa đầy đủ. Thời gian qua đã xuất hiện
tâm lý phân biệt công chứng giữa Phòng công chứng và Văn phòng công
chứng. Tại một số nơi, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất từ chối cung
cấp thông tin địa chính cho Văn phòng công chứng; Ủy ban nhân dân cấp xã
không phối hợp với Văn phòng công chứng trong việc niêm yết văn bản liên
quan đến việc công chứng các giao dịch về thừa kế. Thậm chí còn một số

88
quan điểm cho rằng không cần thiết phải quy hoạch tổ chức hành nghề công
chứng khi tiến hành xã hội hóa hoạt động công chứng…
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra tuy đạt được một số kết quả nhất
định, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình xã hội hóa hoạt động
công chứng. Công tác theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo
quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp công chứng chưa thực sự hiệu quả,
việc phát hiện, xử lý vi phạm còn chưa kịp thời, chưa nghiêm minh.
Thứ tư, công tác hướng dẫn trong việc thi hành, áp dụng pháp luật về
công chứng chưa kịp thời nên cơ sở còn lúng túng trong quá trình thực hiện.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng còn
lỏng lẻo, một số cơ quan quản lý nhà nước chưa phát huy hết trách nhiệm
trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước bằng pháp luật về công
chứng; chưa xác lập được những giải pháp mang tính chiến lược nhằm đảm
bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Vai trò của Sở Tư pháp chưa được phát huy
đúng tầm. Một số địa phương chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm trong
việc quản lý hoạt động công chứng tại địa bàn. Một bộ phận cán bộ làm công
tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng còn yếu kém về năng lực
chuyên môn và đạo đức dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong quản lý nhà nước
bằng pháp luật về công chứng.
Thứ sáu, chất lượng công chứng viên còn nhiều bất cập, hạn chế. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các công chứng viên chưa được thực
hiện thường xuyên cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ công
chứng viện chưa thực sự bảo đảm.
Thứ bảy, một số Văn phòng công chứng còn chạy theo lợi nhuận nên thực
hiện công chứng chưa theo đúng quy định của pháp luật gây nên một số rủi ro
trong hoạt động công chứng làm ảnh hưởng đến uy tín của nghề công chứng.

89
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng


Với những hạn chế trong thực trạng hệ thống phát luật về công chứng
đã được chỉ ra, trong thời gian tới, hệ thống pháp luật về công chứng cần tiếp
tục nghiên cứu để hoàn thiện, đó là:
Thứ nhất, cần có hướng dẫn việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện
của tổ chức hành nghề công chứng trong Luật Công chứng năm 2014 nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho người có nhu cầu công chứng nhất là khi trên địa
bàn một huyện chỉ có 01 tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở tại trung
tâm huyện, mà từ các xã đến trung tâm huyện có khi đến mấy chục ki-lô-mét.
Thứ hai, cần quy định cụ thể hơn những trường hợp được phép công
chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề công chứng; quy định cụ thể hơn cụm từ
"lý do chính đáng khác" theo hướng "việc công chứng ngoài trụ sở chỉ áp dụng
trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại
được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do
chính đáng khác như trong trường hợp khẩn cấp, bị đe dọa tính mạng hoặc vì
lý do ốm đau mà không thể đến trụ sở tổ chức hành nghề công chứng".
Thứ ba, cụ thể hóa một số quy định của Luật Công chứng về khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động công chứng; về trách nhiệm bồi thường của công
chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng; về xử lý vi phạm trong hoạt động
công chứng.
Thứ tư, Đảm bảo sự đồng bộ các quy định liên quan đến công chứng
trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi

90
hành như về thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà
ở của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Đảm bảo nhất quán quan điểm, chủ
trương, chỉ đạo chuyển giao công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến
đất đai cho các tổ chức hành nghề công chứng.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về công chứng thì một số vấn đề
khác liên quan đến nội dung công chứng cũng cần được sửa đổi, bổ sung, như
chế định hộ gia đình, vấn đề chi trả hoa hồng công chứng cho các tổ chức có
liên quan như ngân hàng …
Về vấn đề hộ gia đình: Hộ gia đình cũng là một chủ thể tham gia các
quan hệ hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa định
nghĩa rõ ràng khái niệm như thế nào là hộ gia đình mà chỉ nêu một cách
chung chung: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng
góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định
là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này” (Điều 103).
Hiện nay, cách xác định phổ biến về thành viên hộ gia đình là căn cứ
vào sổ hộ khẩu. Tuy nhiên việc lấy sổ hộ khẩu để xác định thành viên hộ gia
đình cũng là việc bất đắc dĩ, bởi ngoài sổ hộ khẩu ra không có loại giấy tờ nào
thể hiện đầy đủ hơn, bởi thực tế, ngay cả khái niệm về hộ gia đình cũng chưa
rõ ràng. Tuy nhiên, gia đình không phải là một chủ thể bất biến mà luôn chưa
đựng những yếu tố biến động như tử, biệt, sinh, ly… Chính vì vậy, cần cụ thể
hóa khái niệm hộ gia đình để làm cơ sở xác định rõ những chủ thể có thể tham
gia vào quan hệ hợp đồng, giao dịch, tránh rủi ro cho công chứng viên.
Về vấn đề chi trả hoa hồng công chứng cho các tổ chức có liên quan
như ngân hàng. Hiện nay, xuất hiện việc các tổ chức ngân hàng chỉ định các
tổ chức, cá nhân thế chấp, vay tiền của ngân hàng đến các tổ chức hành nghề
công chứng để chứng các hợp đồng, giao dịch. Theo đó, các tổ chức hành

91
nghề công chứng phải ký hợp đồng và trả hoa hồng cho các ngân hàng này.
Đây là việc phổ biến và các văn phòng công chứng cũng muốn lôi kéo khách
hàng bằng cách tăng tỷ lệ phần trăm trích lại cho các tổ chức, cá nhân. Tuy
nhiên, chính hiện tượng này đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
văn phòng công chứng và có sự bất bình đẳng xảy ra giữa hai loại hình là Văn
phòng công chứng và Phòng công chứng, bởi Phòng công chứng là đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, phí công chứng thu được thuộc ngân sách nhà nước do
vậy không có việc trích tỷ lệ phần trăm cho tổ chức, người yêu cầu công
chứng. Do vậy, cần có quy định cụ thể về việc cho phép hay không cho phép
chi trả hoa hồng công chứng cho các tổ chức có liên quan như ngân hàng
nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong việc thực hiện công chứng giữa hai loại
hình tổ chức hành nghề công chứng này.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật có tác động tích cực đến việc tổ chức,
thực hiện pháp luật trên cơ sở giúp người dân có hiểu biết pháp luật và có ý
thức chấp hành pháp luật. Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về công chứng đã được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện.
Tuy nhiên, sự hiểu biết của người dân về pháp luật công chứng, về các vấn đề
liên quan đến nội dung công chứng vẫn còn hạn chế, đặc biệt là người dân ở
miên núi, vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, nhận thức của cấp ủy, chính quyền
một số nơi về chủ trương xã hội hóa công chứng chưa đầy đủ, chính vì vậy
làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng.
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng cần phải
thực hiện phù hợp với từng đối tượng về cả nội dung và hình thức phổ biến.
* Tuyên truyền miệng: Đây là hình thức người nói trực tiếp nói với

92
người nghe về những nội dung, những quy định của pháp luật về công chứng.
Để tuyên truyền miệng đạt kết quả cao, cần phải chuẩn bị nội dung thiết thực,
ngắn gọn, phù hợp với đối tượng nghe, cách nói cuốn hút người nghe.
Phát động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về công chứng: có thể tổ
chức thi viết. Vấn đáp luật công chứng, hái hoa dân chủ qua hình thức sân
khấu hóa, hoặc tìm hiểu pháp luật về công chứng thông qua hoạt động tại các
thôn, các cụm dân cư… cho đông đảo nhân dân được tham gia.
* Tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí, Đài
truyền hình, Đài phát thanh là ba phương tiện thông tin đại chúng phục vụ đắc
lực cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về công chứng.
Đưa tin thời sự, các bài viết phản ánh tình hình cũng như hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng, công chứng viên, các vụ vi phạm pháp luật về
công chứng, các quyền và lợi ích của các cá nhân khi xác lập hợp đồng, giao
dịch có xác nhận của công chứng viên… Mở các chuyên mục thi tìm hiểu, đố
vui về pháp luật công chứng.
* Hội thảo chuyên đề: Tổ chức các hội thảo chuyên đề để nghiên cứu,
trao đổi để tìm ra các giải pháp đảm bảo chấp hành đúng qui định về công
chứng cũng như nâng cao năng lực của các công chứng viên.
Bên cạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật luật truyền thống
như tuyên truyền miệng pháp luật; biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền
pháp luật, giáo dục pháp luật trong trường học; phổ biến giáo dục thông qua các
công tác hòa giải cơ sở, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua các hình thức
tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí, tư vấn pháp luật miễn phí…
3.2.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động công chứng, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
công chứng là biện pháp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hoạt
động công chứng.

93
Đối với hoạt động công chứng ở địa phương, theo quy định của Luật
Công chứng, UBND tỉnh có trách nhiệm ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề
nghị thành lập Văn phòng công chứng; ban hành mức trần thù lao công chứng
tại địa phương. Tuy nhiên, đến nay, tại Bắc Giang mới đang dừng lại ở việc
xây dựng dự thảo và xin ý kiến các cơ quan liên quan. Do vậy, cần đẩy nhanh
tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật này để thống nhất áp
dụng tại địa phương.
3.2.3. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp
luật trong lĩnh vực công chứng và văn bản liên quan đến công chứng trên
địa bàn tỉnh
Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực
công chứng, chứng thực của tỉnh, trên cơ sở đó kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay
thế bằng những văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của pháp
luật về xã hội hóa hoạt động công chứng.
Thực hiện theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng
trên địa bàn tỉnh nhằm đánh giá thực trạng việc triển khai thực hiện các quy
định pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh, nắm bắt
những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi triển khai thi hành pháp luật về xã
hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở đó, đề xuất cơ
quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến công chứng như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… Trước
mắt, kiến nghị sửa đổi một số nội dung như: Một mặt tiếp tục kế thừa các quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên mà thời gian qua đã phát
huy tác dụng tích cực; một mặt sửa đổi, bổ sung những quy định không phù
hợp, thống nhất. Đồng thời, trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở…
và các văn bản có liên quan cần tiếp tục quy định bắt buộc phải công chứng
đối với các hợp đồng, giao dịch về chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp

94
vốn về bất động sản để đảm bảo an toàn cho các giao dịch. Các hợp đồng liên
quan đến chuyển dịch quyền sử dụng đất là những giao dịch rất quan trọng,
tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các bên, cần thiết phải qua công chứng để bảo
đảm an toàn về mặt pháp lý.
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đội ngũ công chứng viên
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên
nghiệp hoá. Công chứng viên không phải chỉ là người được đào tạo cơ bản về
luật pháp, về nghề công chứng, tinh thông nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm,
vốn sống mà còn phải có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp (trung thực, vô tư,
khách quan, liêm khiết, nhiệt tình, trách nhiệm...). Đồng thời, họ phải có kiến
thức về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối
với công chứng.
Trong số 27 công chứng viên của tỉnh Bắc Giang hiện nay thì có đến 12
công chứng viên thuộc diện được miễn đào tạo nghề công chứng. Đó là các
thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư sau khi nghỉ hưu hoặc thôi làm
luật sư chuyển sang làm công chứng viên… Điều này cũng có nghĩa là họ
không được đào tạo bài bản về nghiệp vụ công chứng , không được trang bị
những kỹ năng cần thiết về công chứng . Có thể nói , những đố i tươ ̣ng đươ ̣c
miễn đào ta ̣o và tâ ̣p sự nghề công chứng theo quy đinh
̣ trên là những người có
chức danh chuyên ngành , có học hàm, học vị, họ là những người có trình độ
pháp luật tương đối cao. Tuy nhiên, nghề công chứng là mô ̣t nghề đă ̣c thù , đòi
hỏi ngoài những kiến thức về pháp luâ ̣t và kiế n thức về xã hô ̣i còn đă ̣c biê ̣t
cầ n kỹ năng chuyên biê ̣t riêng về công chứng . Thực tế đã chứng minh những
trường hơ ̣p bổ nhiê ̣m công chứng viên đươ ̣c miễn đào ta ̣o và tâ ̣p sự nghề chưa
từng làm trong liñ h vực công chứng trong thời gian qua khi hành nghề gă ̣p rấ t
nhiề u lúng túng , điề u này sẽ dẫn đế n chấ t lươ ̣ng đô ̣i ngũ công chứng viên

95
không cao , và hệ quả kéo theo là các sản phẩm văn bản công chứng chất
lươ ̣ng thấp, đã có phát sinh những tranh chấ p dân sự trong mô ̣t số vu ̣ viê ̣c từ
hoạt động công chứng trong thời gian qua , hê ̣ quả này sẽ còn kéo dài bởi phát
sinh tranh chấ p từ các văn bản công chứng không chỉ xảy ra trong mô ̣t vài
năm mà còn phát sinh nhiề u năm sau đó . Luâ ̣t Công chứng không quy đinh
̣
viê ̣c ha ̣n chế đô ̣ tuổ i hành nghề công chứng , điề u này còn chưa phù hơ ̣p bởi
hoạt động công chứng ngoài đòi hỏi kỹ năng về nghiệp vụ , công chứng viên
còn cần có tư duy về nghiệp vụ sắc bén, đòi hỏi cầ n có sự tinh thông và “nha ̣y
cảm” trong nghề nghiệp . Nế u công chứng viên hành nghề cao tuổ i sẽ bi ̣ha ̣n
chế về sức khoẻ, không đáp ứng đươ ̣c các yêu cầ u trên.
Thực tế này đặt ra yêu cầu phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, trang bị
kiến thức, kỹ năng cho công chứng viên. Việc đào tạo, bồi dưỡng có thể thực
hiện bằng nhiều hình thức như: cử công chứng viên tham dự các lớp đào tạo,
tập huấn chuyên sâu về các lĩnh vực pháp luật do trung ương tổ chức; mở các
lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho công chứng viên; tổ chức các buổi giao ban giữa
các tổ chức hành nghề công chứng tạo điều kiện cho công chứng viên giao
lưu, trao đổi kinh nghiệm; mở chuyên mục thông tin về nghiệp vụ công chứng
trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp…
3.2.5. Củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ làm công
tác quản lý nhà nước về công chứng
Đầu tư thỏa đáng về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho đội ngũ cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng; tăng cường áp
dụng tin học hóa trong công tác quản lý tổ chức và hoạt động công chứng.
Theo đó, bố trí từ 01 đến 02 công chức thực hiện chuyên trách nhiệm vụ quản
lý nhà nước về hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh. Cử người làm công
tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng tham gia khoá đào tạo nghiệp
vụ công chứng do Học viện tư pháp tổ chức và các lớp đào tạo, tập huấn bồi

96
dưỡng kỹ năng nghiệp vụ. Trang bị đầy đủ máy tính và trang thiết bị phục vụ
hoạt động chuyên môn công chứng đảm bảo cho việc vận hành thường xuyên
cơ sở dữ liệu về hợp đồng, giao dịch công chứng.
3.2.6. Thành lập Hiệp hội công chứng, phát huy vai trò tự quản của
tổ chức xã hội nghề nghiệp về công chứng
Cần gấp rút ban hành văn bản cho phép thành lập hiệp hội công chứng
với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên và kèm theo
đó là tiến hành xây dựng quy chế hoạt động cho hiệp hội này. Hiệp hội công
chứng không chỉ là nơi đóng vai trò trung gian giải quyết qua con đường hòa
giải bất đồng nảy sinh giữa những đồng nghiệp, đưa ra các chỉ dẫn, khuyến
cáo trong quá trình tác nghiệp cho công chứng viên mà đây cũng chính là tổ
chức đại diện, bảo vệ quyền lợi của công chứng viên trong quan hệ với các cơ
quan, tổ chức khác. Tùy vào sự phát triển và lớn mạnh của tổ chức này, pháp
luật có thể cho phép tổ chức xã hội - nghề nghiệp công chứng tham gia một số
hoạt động quản lý nhất định như: Đào tạo, xem xét kỷ luật công chứng viên;
hay tiến hành kiểm tra, giám sát công chứng... Như vậy, ngoài việc củng cố
cơ chế quản lý công chứng mang tính quyền lực nhà nước, chúng ta cần
xây dựng bổ sung cơ chế tự quản hay còn gọi là quản lý công chứng mang
tính xã hội - nghề nghiệp. Hơn nữa, chúng ta cũng cần xác định rõ quyền hạn,
nhiệm vụ và mối quan hệ phối hợp trong công tác quản lý công chứng của hai
hệ thống cơ quan này.
3.2.7. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung, chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức
hành nghề công chứng với các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
Hiện nay việc công chứng hợp đồng, giao dịch có liên quan đến bất
động sản, cũng như một số lĩnh vực mang tính nhạy cảm có tình trạng khá lộn
xộn, thiếu sự gắn kết giữa các tổ chức hành nghề công chứng, thậm chí là sự
đối lập nhau trong hoạt động nghiệp vụ, thể hiện ở hiện tượng nơi này từ chối

97
vì có thông tin ngăn chặn giao dịch, giấy tờ không hợp lệ nhưng nơi kia lại
công chứng vì không được chia sẻ thông tin. Nghiêm trọng hơn là hiện tượng
một tài sản được công chứng ở nhiều tổ chức hành nghề công chứng với
những chủ thể khác nhau không phải là hiếm gặp. Chính thực trạng này đã tạo
điều kiện cho những công chứng viên hạn chế về trình độ nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp trục lợi, sự nghi ngại của người yêu cầu công chứng cũng
như các cơ quan hữu quan đối với các tổ chức hành nghề công chứng sau khi
xã hội hoá cũng vì thế mà không dễ gì thay đổi.
Hoạt động công chứng là một lĩnh vực rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực
như tư pháp, đất đai, xây dựng, nhà ở, dân sự, ngân hàng… có thể nói là hầu
hết các lĩnh vực. Vấn đề đặt ra nhiều người dân còn nhầm lẫn công chứng với
chứng thực, cơ quan nào thực hiện, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan như
thế nào? Qua một thời gian rất dài, nước ta tồn tại cơ chế xin cho, việc xếp
hàng dài tại Phòng Công chứng thì ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được.
Câu hỏi đặt ra, việc xã hội hóa công chứng, để công chứng được coi là một
loại hình dịch vụ công, trách nhiệm của công chứng viên tại các Văn phòng
Công chứng là giải thích để người dân khi tham gia vào các giao dịch có thể
hiểu được trách nhiệm và quyền lợi của mình đến đâu, đồng thời cần nâng cao
nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội về vai trò,
tầm quan trọng và lợi ích của hoạt động công chứng đối với việc phát triển
kinh tế xã hội và an toàn giao dịch bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức khi có yêu cầu công chứng.
Hiện nay, không riêng Bắc Giang, đa số các địa phương chưa xây dựng
được cơ sở dữ liệu về công chứng, chưa có sự kết nối, chia sẻ thông tin giữa
các tổ chức hành nghề công chứng với nhau và giữa các tổ chức hành nghề
công chứng với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất về tài sản giao dịch;
chưa tạo được cơ chế liên thông giữa tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan

98
thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất và nhà khi thực hiện các thủ tục hành chính đối với các giao dịch về bất
động sản. Điều này dẫn đến xảy ra tình trạng rủi ro trong hoạt động công
chứng như một tài sản giao dịch nhiều lần được công chứng ở nhiều tổ chức
hành nghề công chứng khác nhau.
Cơ sở dữ liệu về công chứng bao gồm các thông tin về nguồn gốc tài
sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin về biện pháp ngăn chặn
được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch được công
chứng. Để nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động công chứng trong thời
gian tới, Luật Công chứng năm 2014 đã bổ sung quy định các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương phải xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa
phương. Trong thời gian tới, Ủy ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo xây dựng Cơ
sở dữ liệu về công chứng của tỉnh Bắc Giang, trong đó bao gồm các thông tin
cần thiết như: các giao dịch, hợp đồng đã thực hiện công chứng trong phạm vi
địa phương, dữ liệu thông tin ngăn chặn về giao dịch bất động sản, thực hiện
các biện pháp liên thông giữa tổ chức hành nghề công chứng với cơ quan
đăng ký bất động sản và các cơ quan, tổ chức có liên quan để chia sẻ thông tin
về những hợp đồng, giao dịch về bất động sản đã công chứng; đồng thời, cần
ban hành Quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng trong phạm vi
của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động công chứng; bên
cạnh đó, tiến tới nối mạng toàn quốc để tăng cường tính chuyên nghiệp, hiệu
quả và an toàn của hoạt động công chứng.
3.2.8. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
hoạt động công chứng
Trước những biểu hiện phát triển không lành mạnh của hoạt động công
chứng trong thời gian qua, sự dễ dãi, tùy tiện của một bộ phận công chứng
viên trong hành nghề, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương cần tăng

99
cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhằm phát hiện và chấn chỉnh, xử lý
nghiêm các sai phạm. Đồng thời, hướng dẫn, định hướng các công chứng
viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của
Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Qua thanh tra sẽ rà soát, đánh giá được thực trạng về tổ chức, hoạt
động, nắm bắt được những bất cập, mâu thuẫn, khó khăn, vướng mắc về
nghiệp vụ cũng như phát hiện được những vi phạm pháp luật trong hoạt động,
từ đó có kết luận, kiến nghị cụ thể để cấp có thẩm quyền kịp thời xem xét, có
biện pháp chấn chỉnh về tổ chức, hoạt động; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, giải quyết kịp thời những vướng mắc về nghiệp vụ, xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, từng bước đưa công tác vào
nề nếp. Để đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý những vi
phạm trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang, trong công tác thanh tra, kiểm tra, Sở Tư pháp cần tham mưu giúp
UBND tỉnh thực hiện:
- Ban hành kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm, trong đó tập trung
tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo
tại tổ chức hành nghề công chứng đặc biệt là các Văn phòng Công chứng
trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện thanh tra chuyên ngành đối với các tổ chức hành nghề công
chứng, đồng thời kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra đối với các đơn vị
đã được thanh tra trong năm trước. Giám sát đối với các tổ chức hành nghề
công chứng, công chứng viên nghiêm túc kiểm điểm, rà soát, tự chấn chỉnh,
rút kinh nghiệm, chấm dứt ngay các hành vi sai phạm và tiến hành ngay các
biện pháp cần thiết để khắc phục những thiếu sót, vi phạm mà đoàn thanh tra
đã chỉ ra và gửi báo cáo kết quả về việc tự chấn chỉnh, khắc phục các sai
phạm về thanh tra để thanh tra có tài liệu tham khảo phục vụ cho việc kiểm
tra thực hiện kết luận thanh tra.

100
- Chỉ đạo giải quyết triệt để đối với khiếu nại, tố cáo về công chứng và
có biện pháp xử lý nghiêm khắc. Đối với những tổ chức hành nghề công
chứng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về công chứng thì
xem xét thu hồi giấy đăng ký hoạt động; những công chiện vi phạm có thể
xem xét đề nghị miễn nhiệm. Chỉ có thanh tra, kiểm tra sát sao và xử lý
nghiêm những vi phạm mới đảm bảo cho hoạt động công chứng tuân thủ
đúng pháp luật và bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước.
Thiết nghĩ, thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao
chất lượng hệ thống văn bản pháp luật về công chứng và chất lượng hoạt động
công chứng trên địa bàn cả nước nói chung và Bắc Giang nói riêng.

101
KẾT LUẬN

Mặc dù lịch sử ra đời và phát triển của pháp luật công chứng ở Việt
Nam chưa lâu, nhưng do Đảng và Nhà nước ta xác định được vai trò và tầm
quan trọng của hoạt động công chứng, đến nay, hệ thống pháp luật về công
chứng đã được xây dựng cơ bản đầy đủ, tạo cơ sở cho công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật về công chứng trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh
Bắc Giang nói riêng có những bước phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt
động công chứng, từng bước thực hiện mục tiêu xã hội hóa công chứng mà
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã đề ra. Song, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác
quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
cũng còn những tồn tại, hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh dựa trên cơ sở
các quy định của pháp luật và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương, đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển ổn định, bền vững,
đồng thời tạo tiền đề để tiến tới một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại
không riêng ở Bắc Giang mà ở tất cả các địa phương trên cả nước.
Dựa trên những phương pháp nghiên cứu khoa học và thực tiễn của
hoạt động công chứng nước ta nói chung, Bắc Giang nói riêng trong những
năm qua, tham khảo những quy định, mô hình hoạt động công chứng của một
số nước trên thế giới, luận văn muốn làm sáng tỏ những vẫn đề còn hạn chế
trong hệ thống pháp luật về công chứng, thực tiễn quản lý nhà nước bằng
pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, đưa đến cho những
người quan tâm đến lĩnh vực công chứng thấy sự phát triển của hệ thống công
chứng gắn chặt chẽ với vai trò quản lý của nhà nước đối với công chứng, đến
nay một mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng đã được hình thành và
triển khai rộng khắp trên toàn quốc, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về
chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá nhân, tổ chức.

102
Với những kiến thức được tiếp thu tại Trường Đại học Luật Hà Nội,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và các lớp tập huấn, bồi dưỡng khác,
cùng với những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động công chứng tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang, tác giả viết Luận
văn này với tất cả tâm huyết và trách nhiệm của một người công tác tại Sở Tư
pháp tỉnh Bắc Giang – cơ quan chuyên môn trực tiếp giúp Ủy ban nhân dân
tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, với
mong muốn góp một chút sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển
của ngành tư pháp, góp phần xây dựng quê hương Bắc Giang, phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên do kiến thức về cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài còn hạn chế nên
Luận văn chắc chắn sẽ còn những nhược điểm nhất định. Rất mong nhận
được sự tham gia đóng góp ý kiến, trao đổi, thảo luận của các thầy cô giáo,
các bạn và đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu này được hoàn thiện hơn./.

103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số


nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ/TW ngày 25/4/2005 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ
Tư pháp về công tác công chứng, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 hướng
dẫn thực hiện các việc công chứng, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2013), Quyết định số 1953/QĐ-BTP ngày 30/7/2013 ban
hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
hành nghề công chứng đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng,
Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 04/2015/TT-BTP ngày 15/4/2015
Hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính (2015), Thông tư liên tịch số
115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11/8/2015 của liên bộ Tài chính, Tư
pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên lịch số
08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ
thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng, Hà Nội.
10. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số
93/2001/TTLT-BTC-BTP ngày 21/11/2001 hướng dẫn chế độ thu, nộp và
quản lý sử dụng phí, lệ phí công chứng, chứng thực, Hà Nội.

104
11. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2012), Thông tư liên tịch số
08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ
thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng, Hà Nội.
12. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 54/2015/TT-BTC ngày 21/4/2015 Quy
định thu phí sát hạch bổ nhiệm công chứng viên; lệ phí cấp thẻ công
chứng viên, cấp giấy đăng ký hoạt động Văn phòng Công chứng, Hà Nội.
13. Chính phủ (1994), Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về
cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của
công dân và tổ chức trong lĩnh vực công chứng, Hà Nội.
14. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Hà Nội.
15. Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của
Chính phủ về công chứng, chứng thực, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 Quy
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
17. Chính phủ (2009), Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất, Hà Nội.
18. Chính phủ (2013), Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp, Hà Nội.
19. Chính phủ (2015), Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Công chứng, Hà Nội.
20. Cộng hòa Ba Lan (1991), Luật công chứng ngày 14/2/1991 của nước
Cộng hòa Ba Lan, Ba Lan.

105
21. Cộng hòa Bê Nanh (1968), Điều lệ Công chứng nước Cộng hòa Bê Nanh
được ban hành kèm theo Lệnh số 48/PR ngày 29/8/1968, Bê Nanh.
22. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2005), Luật Công chứng.
23. Nguyễn Văn Cường (2009), Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động
của công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng
1996 - 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
chấp hành trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2010), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII,
nhiệm kỳ 2010 - 2015, Bắc Giang.
31. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, Bắc Giang.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

106
33. Nguyễn Phi Hà (2011), Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Lê Kim Hoa (2003), Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
35. Lê Thị Phương Hoa (2005), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
36. Nguyễn Minh Hợi (2009), Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước
đối với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước,
Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
37. Phan Hải Hồ (2008), Phân cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng
thực qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Lãnh sự ngày 24/11/1990 của Hội
đồng Nhà nước quy định nhiệm vụ thực hiện công chứng, Hà Nội.
39. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991
của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng, Hà Nội.
40. Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
xác định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn
bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
41. Dương Khánh (2002), Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
42. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

107
43. Trần Ngọc Nga (1996), Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và
thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
44. Nước Cộng hòa Pháp (1945), Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về
Điều lệ Công chứng của nước Cộng hòa Pháp.
45. Nguyễn Nhật Quang (2011), Quá trình phát triển và phương hướng hoàn
thiện pháp luật công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Công
chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Công
chứng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
48. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2005, Hà Nội.
49. Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo số 226/BC-STP ngày
08/11/2013 về đánh giá tình hình, kết quả công tác tư pháp năm 2013;
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2014, Bắc Giang.
50. Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo số 255/BC-STP ngày
07/11/2014 về kết quả công tác tư pháp năm 2014; phương hướng,
nhiệm vụ năm 2015, Bắc Giang.
51. Trần Văn Toàn (2004), Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường theo mô hình công chứng Latinh, Luận văn thạc sĩ Luật, Cộng
hòa Pháp.
52. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày
10/02/2010 về việc phê duyệt Đề án xây dựng Quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

108
53. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày
17/02/2011 về việc ban hành Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành
nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.
54. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày
29/12/2012 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng đến năm 2020, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2009), Quyết định số 27/QĐ-UBND
ngày 09/4/2009 phê duyệt Đề án phát triển tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2020, Bắc Giang.
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2014), Quyết định số 404/QĐ-UBND
ngày 03/7/2014 về việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng,
giao dịch của UBND cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2014), Kế hoạch số 181/KH-UBND ngày
11/12/2014 về triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014, Bắc Giang.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2014), Kế hoạch số 06/KH-UBND
ngày 17/01/2014 về việc thực hiện “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức hành nghề công chứng đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, Bắc Giang.
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo số 08/BC-UBND ngày
17/01/2014 tổng kết thực hiện Quyết định số 27/QĐ-UBND của UBND
tỉnh phê duyệt Đề án “Phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2020” , Bắc Giang.

109

You might also like