You are on page 1of 19

SỰ HÔ HẤP TẾ BÀO

Tế bào cần rất nhiều năng lượng để duy trì sự sống: từ việc sao chép, sửa chửa
các cấu trúc di truyền trong nhiễm sắc thể; tạo mới các thành phần cấu tạo
trong tế bào, lấy thức ăn vào, thải chất bả ra, giử cho độ pH và nồng độ ion
được cân bằng... Nếu năng lượng không được cung cấp các phản ứng không thể
xảy ra được và sự sống của tế bào sẽ ngừng lại. Thật ra, tất cả năng lượng cung
cấp cho sự sống ngày nay là từ mặt trời, được cây hấp thu và qua quá trình
quang hợp tạo ra hợp chất hữu cơ giàu năng lượng. Hầu hết các sinh vật không
quang hợp lấy năng lượng bằng cách tiêu hóa các sinh vật quang hợp được và
những sinh vật khác. Trong tế bào, sự hô hấp tạo ra năng lượng để cung cấp
cho tất cả các hoạt động của tế bào.

I. ÐẠI CƯƠNG

1. Sự tiến dưỡng và thoái dưỡng

Trong tế bào, năng lượng được dự trử trong các hợp chất được tổng hợp do quá
trình quang hợp. Năng lượng này được giải phóng qua quá trình hô hấp hiếu khí,
trong đó glucoz được chuyển hóa qua nhiều sản phẩm trung gian để đến sản
phẩm cuối cùng là CO2 và H2O. Năng lượng tự do được tạo ra trong quá trình
này được sử dụng như là nguồn năng lượng cho những phản ứng khác xảy ra
trong tế bào.

Tất cả các phản ứng này được gọi là sự biến dưỡng của tế bào (cellular
****bolism) và thường được chia thành hai giai đoạn: sự tiến dưỡng (anabolism)
là quá trình những chất hữu cơ phức tạp được tổng hợp từ những phân tử đơn
giản hơn, và sự thoái dưỡng (catabolism) là quá trình trong đó cơ thể sống lấy
năng lượng từ thức ăn bằng cách phân cắt những phân tử hữu cơ phức tạp
thành những phân tử đơn giản hơn. Sự hô hấp hiếu khí (aerobic respiration) là
một kiểu thoái dưỡng chính xảy ra trong tế bào.

2. Ty thể

Ty thể là bào quan tham gia vào sự hô hấp hiếu khí. Dưới kính hiển vi điện tử,
mỗi ty thể được bao bọc bởi hai màng, màng ngoài và màng trong chia ty thể ra
làm hai ngăn: ngăn ngoài là khoảng giữa của hai màng, ngăn trong từ màng
trong trở vào. Màng trong là những crista, nên bề mặt tiếp xúc tăng rất nhiều
(Hình 8, chương 1). Màng ngoài thấm được những phân tử nhỏ, nhưng màng
trong thì không thấm. Trên màng trong có các protein kênh, kênh đóng mở, bơm
để điều tiết chọn lọc những phân tử đi ra và đi vào ngăn trong. Màng trong cũng
chứa những protein của chuỗi dẫn truyền điện tử tương tự như chuỗi dẫn truyền
điện tử trên màng thylakoid của lục lạp. Vì thật ra, sự hô hấp giống như sự
quang hợp cũng bao gồm những phản ứng oxy hóa khử.

II. SỰ HÔ HẤP CARBOHYDRAT

Những carbohydrat phức tạp như tinh bột ở thực vật và glycogen ở động vật đều
được thủy phân thành những phân tử glucoz trước khi đi vào quá trình hô hấp.
Sự hô hấp hoàn toàn một hợp chất giàu năng lượng như glucoz trải qua một
chuỗi dài những phản ứng, trong đó có những phản ứng xảy ra không cần sự
hiện diện của oxy và có những chuỗi phản ứng lệ thuộc vào oxy.

1. Ðường phân (glycolysis) (giai đoạn I) (Hình 1)


Hình 1. Các phản ứng chính của đường phân

Ðường phân là giai đoạn đầu tiên của quá trình hô hấp glucoz xảy ra không cần
sự hiện diện của O2. Ðường phân xảy ra trong dịch tế bào chất của tất cả tế bào
sống, và là chuỗi phản ứng đã xảy ra ở những sinh vật đầu tiên khi mà trái đất
còn chưa có O2.

Glucoz là một hợp chất bền vững, ít có xu hướng phân cắt ra thành những chất
đơn giản hơn, do đó tế bào muốn lấy năng lượng từ glucoz trước tiên phải đầu
tư cho nó một ít năng lượng để hoạt hóa phân tử. Do đó, giai đoạn đầu của
đường phân là cung cấp ATP cho phân tử glucoz (Hình 1). Trong các phản ứng
chuẩn bị hai phân tử ATP gắn gốc phosphat cuối cùng của nó vào phân tử
glucoz.

Trong phản ứng này hexokinaz xúc tác chuyển một gốc phosphat vào glucoz.
Phản ứng kế tiếp là phản ứng chuyển đổi glucoz-6-phosphat thành fructoz-6-
phosphat.

Sau khi tạo ra sản phẩm trong bước (2), một phân tử ATP nữa được tiêu thụ để
thêm một gốc phosphat nữa vào phân tử.

Kế tiếp fructoz-1,6-bisphosphat bị cắt đôi ở giữa C thứ ba và C thứ tư tạo ra hai


chất 3C tương tự nhau trong bước (4). Một chất là PGAL (phosphoglyceraldehyd)
và một chất trung gian thường chuyển đổi ngay thành PGAL trong bước (5).
PGAL là một đường trung gian 3C, là chìa khóa trung gian trong cả quá trình
đường phân và quang hợp

Ðến giai đoạn này quá trình đường phân đã sử dụng 2 phân tử ATP.
Phản ứng kế tiếp, hơi phức tạp hơn, bắt đầu để dẫn đến sự thành lập ATP mới,
thật sự là hai phản ứng. Phản ứng đầu là một phản ứng oxy hóa khử: hai điện tử
và một ion H+ được lấy từ mỗi phân tử PGAL (như vậy phân tử này bị oxy hóa)
bởi phân tử nhận điện tử nicotinamid adenin dinucleotid, hay NAD+, chất này bị
khử. NAD+ rất gần với NADP+ tìm thấy trong lục lạp. Trong trường hợp này sản
phẩm trung gian là NADH thay vì là NADPH.
Phản ứng thứ hai là sự phosphoryl hóa PGAL. Năng lượng được giải phóng từ sự
oxy hóa PGAL được dùng để gắn một gốc phosphat vô cơ P vào PGAL, gốc
phosphat được gắn vào bằng một cầu nối giàu năng lượng.

Trong phản ứng kế tiếp, gốc phosphat mới được chuyển vào ADP để tạo ra ATP.
Trong quá trình này, một gốc phosphat giàu năng lượng được chuyển vào một
cơ chất ADP để tạo thành ATP, phản ứng này được gọi là phosphoryl hóa ở mức
cơ chất (substrate-level phosphorylation). Sản phẩm 3C là PGA, một chất trung
gian trong chu trình Calvin-Benson, một lần nữa cho thấy sự tương quan giữa
hai quá trình:

Ở giai đoạn này, tế bào thu lại được 2 phân tử ATP đã dùng cho sự phosphoryl
hóa glucoz trong lúc bắt đầu đường phân. Năng lượng đầu tư ban đầu đã được
trả lại. Qua phản ứng kế tiếp, cuối cùng là nước được tách ra từ PGA, và sau đó
gốc phosphat được chuyển đổi và được gắn lại bởi cầu nối giàu năng lượng:

Sau phản ứng sắp xếp lại trong bước (9) gốc phosphat được chuyển vào ADP
theo sự phosphoryl hóa ở mức cơ chất để thành lập ATP, kết quả tạo ra hai phân
tử ATP và hai phân tử acidpyruvic:

Vì hai phân tử ATP sử dụng trong bước (1 và 3) đã được lấy lại trong bước (7),
nên hai phân tử ATP này là được tổng hợp thêm cho tế bào
Các điểm quan trọng cần chú ý trong sự đường phân là:
- Mỗi phân tử glucoz (C6 H12O6) bị phân tách thành hai phân tử acid pyruvic
(C3H4O3).
- Hai phân tử ATP sử dụng trong lúc đầu của quá trình, sau đó có bốn phân tử
được tạo ra, như vậy tế bào còn được hai phân tử này.
- Hai phân tử NADH được thành lập.
- Vì không sử dụng oxy, quá trình có thể xảy ra dù có sự hiện diện của O2 hay
không.
- Các phản ứng của đường phân xảy ra trong dịch tế bào chất của tế bào, bên
ngoài ty thể.

2. Sự lên men (fermentation) (Hình 2)

Trong đường phân, hai phân tử NAD+ được khử thành NADH. Chức năng của
phân tử NAD+ trong tế bào là vận chuyển điện tử, trao đổi ion H+ và điện tử
giữa chất này và chất khác. Do đó, NAD+ chỉ là một chất tạm thời tải ion H+ và
điện tử, sau khi chuyển ion H+ và điện tử cho chất khác thì nó trở lại làm chất
tải tiếp tục. Nếu NADH được thành lập không nhanh chóng loại bỏ ion H+ và
điện tử thì NAD+ trong tế bào sẽ thiếu; khi đó bước (6) trong đường phân không
thể xảy ra và quá trình đường phân tạm dừng lại. Như vậy, sự oxy hóa NADH
thành NAD+ là cần thiết cho quá trình đường phân tiếp tục.
Trong hầu hết tế bào, nếu có O2, nó sẽ là chất nhận điện tử cuối cùng từ NADH.
Nhưng dưới điều kiện yếm khí, không có O2 để nhận hydro và điện tử thì acid
pyruvic được tạo ra trong quá trình đường phân sẽ nhận hydro và điện tử từ
NADH, quá trình này được gọi là sự lên men.
Hình 2. Các phản ứng chính của sự lên men

Sự biến dưỡng acid pyruvic trong sự lên men thay đổi theo cơ thể sinh vật (Hình
2). Ở tế bào động vật và nhiều vi sinh vật sự khử acid pyruvic tạo ra acid lactic:

Ở hầu hết tế bào thực vật và men (yeast), sản phẩm lên men là rượu ethyl và
CO2, quá trình này được áp dụng trong sản xuất:
Vì vậy, trong điều kiện yếm khí, NAD+ như con thoi đi qua đi lại giữa bước (6)
và bước (11), lấy hydro và điện tử để tạo ra NADH trong bước (6) và trả lại
hydro và điện tử trong bước (11). Sự lên men là sự nối tiếp của quá trình đường
phân, bằng cách này glucoz được biến đổi thành rượu hay thành acid lactic dưới
điều kiện yếm khí, và tên gọi tùy thuộc vào tên của loại sản phẩm cuối cùng. Dù
sản phẩm cuối cùng là chất nào thì sự lên men chỉ lấy được một phần năng
lượng rất nhỏ từ glucoz, các sản phẩm của quá trình lên men là các chất còn
chứa rất nhiều năng lượng tự do.

Sự lên men của những tế bào men và những vi sinh vật được ứng dụng trong
nhiều kỷ nghệ quan trọng như làm bánh mì, pho ma, da ua, sản xuất rượu và
các loại thức uống có rượu; một số sản phẩm khác được tạo ra từ các vi sinh vật
khác như mùi đặc trưng của pho ma Thụy sỉ là do sản phẩm lên men là acid
proprionic.

3. Sự oxy hóa pyruvic acid (giai đoạn II)

Nếu có sự hiện diện của O2, thì O2 là chất nhận điện tử cuối cùng từ NADH, do
đó acid pyruvic sẽ được đưa vào ty thể và ở đây sẽ được tiếp tục biến dưỡng và
đồng thời tạo ra nhiều ATP mới.
Acid pyruvic trong dịch tế bào chất được chuyển vào ngăn trong của ty thể. Qua
một chuỗi phản ứng phức tạp, acid pyruvic bị oxy hóa thành CO2 và một gốc
acetyl 2C, chất này gắn với một coenzim được gọi là coenzim A (CoA) tạo ra chất
acetyl-CoA. Khi acid pyruvic được oxy hóa, điện tử và ion H+ bị lấy đi, và một
lần nữa NAD+ là chất nhận điện tử và ion H+ để tạo ra NADH. Chuỗi phản ứng
phức tạp này có thể được tóm tắt trong phương trình sau:

Cuối giai đoạn II, 2 trong 6C trong glucoz ban đầu được giải phóng ra dưới dạng
CO2.
4. Chu trình Krebs (giai đoạn III)

Kế tiếp acetyl-CoA đi vào một chuỗi phản ứng của một chu trình gọi là chu trình
Krebs (do nhà khoa học người Anh, Hans Krebs, được giải thưởng Nobel nhờ làm
sáng tỏ được chu trình này) hay chu trình acid citric. Những điểm chính trong
chu trình được trình bày trong hình 3. Mỗi phân tử acetyl-CoA được tạo ra từ
phân tử glucoz ban đầu kết hợp với một hợp chất 4C, acid oxaloacetic, đã hiện
diện trong tế bào để tạo ra một hợp chất 6C mới là acid citric. Trong các phản
ứng tiếp theo, 2C bị mất đi dưới dạng CO2, như vậy hợp chất chỉ còn 4C và được
biến đổi để trở lại chất 4C ban đầu và chu trình lại tiếp tục. Vì mỗi phân tử
glucoz tạo ra hai phân tử acetyl CoA, nên có hai vòng acid citric xảy ra và tổng
cộng là có 4C được giải phóng dưới dạng CO2; cộng thêm 2C được giải phóng
dưới dạng CO2 trong giai đoạn II, như vậy tất cả là 6C của phân tử glucoz ban
đầu.

Hình 3. Sơ đồ của chu trình Krebs

Trong một vòng của chu trình (Hình 3), một phân tử ATP được tổng hợp (bởi sự
phosphoryl hóa ở mức cơ chất) và 8 điện tử và 8 ion H+ được lấy đi bởi chất
nhận điện tử. 6 điện tử và 6 hydro được dùng để khử 3 phân tử NAD+ (tạo ra 3
phân tử NADH và 3 ion H+) và 2 điện tử và 2 hydro được nhận bởi hợp chất FAD
(tạo ra FADH2). Vì sự oxy hóa một phân tử glucoz trải qua hai vòng chu trình
Krebs nên tổng cộng có 2 ATP và 8 phân tử chất khử (6 phân tử NADH và 2
FADH2) (Hình 5.4).

5. Sự trao đổi năng lượng và điều hòa trong quá trình hô hấp (giai đoạn IV)
Chỉ có tổng cộng là 4 phân tử ATP mới được lợi ra (2 trong đường phân và 2
trong chu trình Krebs). Năng lượng còn lại được dự trử trong hai chất khử giàu
năng lượng là NADH và FADH2, tổng cộng có tất cả 12 phân tử được tổng hợp
trong suốt quá trình oxy hóa glucoz: 2 phân tử NADH trong đường phân, 2 phân
tử NADH trong quá trình oxy hóa acid pyruvic thành acetyl-CoA, 6 phân tử NADH
và 2 phân tử FADH2 trong chu trình Krebs.

ATP được tổng hợp bằng cách nào? Dưới điều kiện hiếu khí, NADH chuyển điện
tử đến O2 và sinh ra NAD+. Nói một cách khác, O2 là chất nhận điện tử và
hydro cuối cùng để tạo thành nước:

Hình 4. Tóm tắt các sản phẩm trong ba giai đoạn I, II và III

Tuy nhiên, không phải NADH chuyển điện tử đến O2 một cách trực tiếp. Ðiện tử
từ NADH được chuyển qua một chuỗi dẫn truyền điện tử, cuối chuỗi là phân tử
O2 (Hình 5). Các phân tử tải điện tử thường được gọi là chuỗi hô hấp
(respiration chain) gắn trên màng trong của ty thể (tương tự sự dẫn truyền điện
tử trong chuỗi quang hợp trong lục lạp) tạo ra một gradient hóa điện, được dùng
để tổng hợp ATP từ ADP và phosphat vô cơ. Quá trình này được gọi là sự
phosphoryl hóa chuyển điện tử (electron-transport phosphorylation) hay sự
phosphoryl oxy hóa (oxydative phosphorylation), bao gồm cả sự hóa thẩm thấu
(chemiosmotic) của sự dẫn truyền điện tử và sự tổng hợp ATP. Protein dẫn
truyền điện tử trong hô hấp là thành phần chính trong cho quá trình phosphoryl
oxy hóa, tạo ra hầu hết ATP sinh ra do sự oxy hóa glucoz. Sự phosphoryl oxy
hóa tương tự sự quang phosphoryl hóa, sử dụng dòng điện tử được chuyển
trong chuỗi dẫn truyền điện tử để bơm ion H+ qua màng, kết quả là sinh ra một
gradient hóa điện được dùng để tổng hợp ATP.

Trong sự hô hấp có hai cách để tạo ra ATP: thứ nhất là sự phosphoryl hóa ở
mức cơ chất, trong đó một gốc phosphat được chuyển từ một hợp chất cao năng
lượng vào ADP và thứ hai là sự phosphoryl oxy hóa, trong đó năng lượng trong
gradient hóa điện H+ được khai thác để tổng hợp ATP.
Hình 5. Chuỗi dẫn truyền điện tử hô hấp

Sự tổng hợp ATP trong ty thể tương tự sự tổng hợp ATP trong lục lạp. Những
phân tử dẫn truyền điện tử sắp xếp thành 4 phức hợp protein, gắn trên màng
trong của ty thể (Hình 5). Chất tải điện tử cơ động như phân tử protein Q và
cytochrom c (Q là một coenzim hòa tan trong lipid và có thể di chuyển xuyên
qua màng, cytochrome c (cyt.c) là protein tan trong nước nằm ở mặt ngoài của
màng trong của ty thể) chuyển điện tử từ phức hợp này sang phức hợp khác.
NADH được tạo ra trong giai đoạn II và III chuyển 2 điện tử và 1 ion H+ của
chúng vào phức hợp I và cùng lúc bị oxy hóa thành NAD+. Các điện tử được tải
từ chất tải này sang một chất tải khác theo một trình tự đặc biệt để cuối cùng
đến O2 (Hình 5). Ðiều này cho thấy vì sao phải cần có O2 trong sự hô hấp hiếu
khí. Không có O2 nhận điện tử, chuỗi điện tử không hoạt động và NAD+ cần
thiết cho giai đoạn II và III không được tạo ra từ NADH. Khi O2 nhận điện tử, nó
cũng nhận luôn ion H+ từ chất cơ bản để tạo ra nước, một trong những sản
phẩm cuối cùng của sự thoái dưỡng glucoz.

Các nghiên cứu cho thấy chỉ có điện tử được tải qua chuỗi dẫn truyền điện tử,
ion H+ không đi cùng. Tuy vậy, 3 trong 4 phức hợp bơm ion H+ từ ngăn trong
xuyên qua màng trong để ra ngoài. Kết quả là nồng độ ion H+ ở ngăn ngoài gia
tăng, ngăn trong giảm xuống, và bên ngoài của màng trong trở nên có điện tích
dương hơn so với bên trong và sinh ra gradient hóa điện xuyên màng.
Năng lượng của gradient hóa điện này được dùng để tổng hợp ATP từ ADP và
phosphat vô cơ. Những phức hợp protein đặc biệt, được gọi là ATP synthetaz,
được gắn vào bên trong của màng trong của ty thể, tương tự như trên màng
thylakoid. Những phức hợp này vừa là kênh ion H+ cho ion H+ trở vào ngăn
trong vừa là một enzim để xúc tác sự tổng hợp ATP. Vì ion H+đi từ nơi có nồng
độ cao đến nơi có nồng độ thấp qua ATP synthetaz nên năng lượng được giải
phóng và ATP được tổng hợp. ATP được tổng hợp trong chất cơ bản sẽ được
protein tải qua màng ty thể để vào trong dịch tế bào chất.

Hình 6. Cơ chế của quá trình hô hấp


Các nghiên cứu cho thấy ít nhất phải có 2 ion H+ đi qua phức hợp ATP synthetaz
mới tạo ra được một phân tử ATP từ ADP. Vì mỗi cặp điện tử từ NADH được dẫn
truyền qua chuỗi điện tử bơm được khoảng 6 ion H+ đi ra ngăn ngoài (Hình6).
Sự oxy hóa một phân tử NADH cho ra khoảng 3 phân tử ATP. Tất cả 8 NADH
được sinh ra trong ty thể (2 từ sự oxy hóa acid pyruvic và 6 từ chu trình Krebs),
cho ra tổng cộng 24 phân tử ATP mới. Tuy nhiên, 2 điện tử từ FADH2 có ít năng
lượng hơn NADH; những điện tử này đi vào chuỗi điện tử ở phức hợp II (Hình6),
nên số ion H+ được bơm ra ít hơn; do đó sự oxy hóa hợp chất này chỉ cho 2
phân tử ATP (tổng cộng được 4 phân tử ATP cho 2 phân tử FADH2).
2 phân tử NADH được tạo ra trong quá trình đường phân ở trong dịch tế bào
chất và được chuyển vào bên trong ty thể nhờ một phân tử protein vận chuyển,
nhưng năng lượng bị mất đi trong quá trình này. Kết quả là điện tử được đi vào
chuỗi hô hấp cùng vị trí với nơi mà điện tử của FADH2 đi vào (Hình 6); do đó
cũng chỉ có 2 phân tử ATP được tạo ra cho mỗi phân tử NADH trong tế bào chất
(tổng cộng được 4 phân tử ATP cho 2 phân tử NADH).
Tóm lại, sự oxy hóa hoàn toàn một phân tử glucoz sinh ra 12 phân tử chất khử.
Khi các đôi điện tử của chúng đi vào chuỗi hô hấp, 8 phân tử sinh ra ATP nhiều
hơn, 3ATP cho mỗi phân tử NADH; 4 phân tử còn lại chỉ tạo được 2 phân tử ATP
cho mỗi phân tử FADH2 (Hình 5 và 6). Tổng cộng có 32 phân tử ATP được tạo ra
từ sự phosphoryl oxy hóa của chuỗi dẫn truyền điện tử. Như vậy, sự oxy hóa
hoàn toàn một phân tử glucoz cho ra CO2, nước và 36 phân tử ATP mới.
Hình 7. Tổng ATP được tạo ra do sự hô hấp một phân tử glucoz

Nếu tính theo tỷ lệ %, thì có khoảng 39% năng lượng tự do ban đầu trong phân
tử glucoz được giữ lại, 61% được giải phóng chủ yếu dưới dạng nhiệt. Chỉ có 2
trong số 36 phân tử ATP được tạo ra trong sự biến dưỡng yếm khí (ít hơn 6%),
34 phân tử còn lại được tạo ra do sự hô hấp hiếu khí (hơn 94%). Ðiều này cho
thấy tại sao oxy thiết yếu cho con người và hầu hết các sinh vật khác. Dù vậy,
trong cơ thể con người vẫn có các quá trình hô hấp yếm khí xảy ra nhất là trong
lúc hoạt động quá nhiều bằng thể lực; lúc này cơ cần rất nhiều năng lượng trong
khi O2 cung cấp không đủ. Kết quả là sự lên men tạo ra acid lactic làm mỏi cơ,
nhưng sau đó oxy được cung cấp bình thường trở lại thì acid lactic sẽ được
chuyển về gan và sẽ được biến dưỡng trở lại thành glucoz tại đây.
Trong 34 phân tử ATP được tổng hợp trong điều kiện hiếu khí có 32 phân tử là
được tổng hợp từ gradient ion H+ sinh ra bởi sự dẫn truyền điện tử. Cyanid và
một số các hợp chất độc khác có thể làm ảnh hưởng trên các protein của chuỗi,
do đó có thể làm ngừng sự dẫn truyền điện tử, hậu quả là các phản ứng của sự
hô hấp hiếu khí không thể xảy ra được, tế bào sẽ chết do không được cung cấp
đủ năng lượng.

Hình 8. So sánh sự tổng hợp ATP trong ty thể và lục lạp

Quá trình hóa thẩm thấu trong ty thể và lục lạp tương tự nhau. Tuy nhiên, có
một vài điểm khác biệt:

-Nguồn năng lượng cho dòng tải điện tử: ở lục lạp ánh sáng mặt trời cung cấp
năng lượng, ở ty thể năng lượng lấy từ thức ăn (Hình 8).

-Hướng bơm ion H+: trong thylakoid, ion H+ được bơm vào bên trong thylakoid,
ở ty thể ion H+được bơm ra khỏi màng trong, do đó nồng độ ion H+ bên trong
thylakoid cao hơn bên ngoài, trong khi ở ty thể nồng độ ion H+ ở ngăn ngoài
cao hơn ngăn trong (Hình 9).

-Ở lục lạp điện tử từ nước qua chuỗi dẫn truyền điện tử đến chất tải là NADP và
O2 được tạo ra; trong khi ở ty thể điện tử từ chất tải NADH và FADH2 qua chuỗi
dẫn truyền đến O2 và tạo thành nước.
Hình 9. So sánh sự hóa thẩm thấu ở ty thể và lục lạp

III. SỰ HÔ HẤP LIPID VÀ PROTEIN

1. Sự hô hấp lipid

Sự biến dưỡng của lipid bắt đầu bằng sự thủy giải chúng thành glycerol và
những acid béo. Sau đó, glycerol (một hợp chất 3C) được biến đổi thành PGAL
và được đưa vào lộ trình đường phân. Acid béo được chuyển vào ngăn trong của
ty thể, ở đây chúng được cắt ra thành acetyl-CoA và được đưa vào chu trình
Krebs. Vì lipid có thành phần của hydro cao hơn carbohydrat, nên sự oxy hóa
hoàn toàn cho năng lượng cao hơn tính trên đơn vị trọng lượng, một gram chất
béo thường cho năng lượng cao hơn hai lần so với một gram carbohydrat.

2. Sự hô hấp protein
Trước tiên, protein được thủy giải thành acid amin và sau đó được biến dưỡng
theo nhiều cách khác nhau. Sau khi gốc amino được tách ra, một số acid amin
được biến đổi thành acid pyruvic, một số khác thành acetyl-CoA và có thể thành
dạng này hay dạng khác của các hợp chất trong chu trình Krebs. Sự oxy hóa
hoàn toàn một gram protein cho năng lượng tương đương một gram
carbohydrat.
Những hợp chất như acid pyruvic, acetyl-CoA và các hợp chất trong chu trình
Krebs có thể được thoái dưỡng theo nhiều cách khác nhau. Không những chúng
là những chất giàu năng lượng được oxy hóa thành CO2 và H2O mà chúng còn
có vai trò trong tiến dưỡng để tổng hợp thành acid amin, đường và chất béo. Ðể
lấy năng lượng cần thiết, các chất có thể thay đổi hướng biến dưỡng trong các lộ
trình. Thí dụ, PGAL và acetyl-CoA trong sự oxy hóa carbohydrat có thể được
dùng để tổng hợp chất béo; tương tự nhiều acid amin có thể biến đổi thành
carbohydrat qua một số phản ứng trung gian trong các quá trình biến dưỡng của
chúng (Hình 10). Tuy nhiên, không phải tất cả đều có thể đi theo hai chiều. Ở tế
bào động vật đường có thể biến đổi thành chất béo, nhưng acid béo không thể
biến đổi thành đường, bởi vì phản ứng từ acid pyruvic thành acetyl-CoA không
thể đão ngược được. Ðiều này có liên quan đến chế độ ăn uống của con người.
Vì glucoz là nguồn năng lượng duy nhất cho tế bào não, do đó thức ăn phải cung
cấp đủ glucoz. Nếu mức glucoz trong máu xuống quá thấp, thì protein như
protein của cơ phải được sử dụng để oxy hóa và sau đó một số acid amin có thể
được biến đổi thành glucoz để cung cấp cho tế bào não. Do đó, chế độ ăn nhiều
chất béo, ít carbohydrat có thể gây nguy hiểm cho cơ thể con người.
Hình 10. Mối liên quan giữa sự biến dưỡng chất đường, chất béo và protein

You might also like