- Hành vi trái kỷ luật lao động là điều kiện cần để áp dụng trách nhiệm kỷ luật lao động. - Về mặt nội dung, hành vi trái kỷ luật lao động thể hiện ở việc người lao động không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ chấp hành kỷ luật lao động, bao gồm kỷ luật về thời gian, về công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong đơn vị. - Về mặt hình thức, hành vi trái kỷ luật thể hiện ở hành vi trái trái với nội quy lao động. Hành vi trái kỷ luật lao động có thể là việc thực hiện một hành động bị nội quy lao động cấm hoặc việc không thực hiện một hành động mà nội quy lao động buộc phải thưc hiện. Chính vì vậy người sử dụng lao động phải hết sức cẩn trọng trong việc soạn thảo nội quy lao động, đặc biệt trong việc dự liệu các hành vi vi phạm kỷ luật lao động, để tránh tình trạng không thể xử lý các sai phạm của người lao động trên thực tế. - Điều 126 BLLĐ 2012 quy định về một số trường hợp người sử dụng lao động được quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, chẳng hạn như người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh,…. Tuy nhiên quy định này hoàn toàn không có ý nghĩa rằng chỉ cần người lao động phạm vào một trong các hành vi đó thì người sử dụng lao động có quyền sa thải người lao động bất kể hành vi đó có được ghi nhận trong nội quy lao động hay không. Theo quy định pháp luật hiện hành nội quy lao động là hình thức pháp lý duy nhất của các quy định về kỷ luật lao động. Hơn nữa Điều 128 BLLĐ 2012 cũng đã chứng minh người sử dụng lao động chỉ được phép truy cứu trách nhiệm của người lao động về những vi phạm đã được liệt kê trong nội quy lao động. - Người sử dụng lao động phải có căn cứ rõ ràng trong nội quy lao động thì mới được xử lý người lao động. Có những hành vi mà do tính chất nghiêm trọng của nó người lao động có nghĩa vụ phải biết và không được thực hiện, bất kể hành vi đó có được quy định rõ trong nội quy lao động hay không. Những hành vi liệt kê tại Khoản 1 Điều 126 BLLĐ 2012 là những hành vi như vậy. Hơn nữa, những hành vi như vậy không đơn thuần là hành vi vi phạm kỷ luật lao động chúng còn vi phạm nghiệm trọng những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ lao động là thiện chí, hợp tác và tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Khi xác định hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động, người sử dụng lao động phải chỉ rõ nghĩa vụ vi phạm : thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm… làm căn cứ để xử lý kỷ luật lao động một cách chính xác, khách quan. Lỗi: - Trong khoa học pháp lý lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Người lao động có hành vi trái kỷ luật lao động bị coi là có lỗi khi hành vi đó là kết quả của quá trình nhận thức và tự quyết định của họ trong điều kiện có thể lựa chọn hành vi xử sự khác phù hợp với các quy định của kỷ luật lao động. Pháp luật đòi hỏi người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động khi xử lý vi phạm kỷ luật lao động. Lỗi là điều kiện đủ để áp dụng trách nhiệm kỷ luật đối với người lao động. Lỗi là yếu tố bắt buộc của vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm kỷ luật lao động nói riêng, do vậy thiếu yếu tố lỗi của người lao động vi phạm kỷ luật lao động thì người sử dụng lao động không thể tiến hành xử lý kỷ luật lao động đối với họ. - Khoa học pháp lý chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý cẩu thả hoặc vô ý vì quá tự tin.