You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH
Năm học:2021-2022

˗˗˗˗˗˗˗˗

BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN 3

MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Giảng viên: Xa Kiều Oanh


Lớp : HS44B-1. Nhóm:
STT Họ và tên Mã số sinh viên Lớp Phân công

1 Phạm Đoàn Diễm 1953801013168 HS44B-1 Làm bài, tham


Phúc gia thảo luận
và tổng hợp.
2 Phùng Đức Thắng 1953801013194 HS44B-1 Làm bài, tham
gia thảo luận
và tổng hợp.
3 Trần Minh Thành 1953801013199 HS44B-1 Làm bài, tham
gia thảo luận
và tổng hợp.
4 Phạm Thị Thảo 1953801013203 HS44B-1 Làm bài, tham
gia thảo luận
và tổng hợp.
5 Lê Thị Ngọc Thương 1953801013216 HS44B-1 Nhóm trưởng
Làm bài, tham
gia thảo luận
và tổng hợp.
BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN 3 THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN
I. Nhận định

1. Vụ án lao động có đương sự ở nước ngoài luôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
cấp tỉnh.

 Nhận định sai.


Vì tại thời điểm thụ lý vụ án mà đương sự ở nước ngoài có mặt ở Việt Nam thì vụ án lao
động thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, còn tại thời điểm thụ lý vụ án mà
đương sự ở nước ngoài không có mặt ở Việt Nam thì thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND cấp tỉnh.
CSPL: Khoản 1 Điều 7 NQ 03/2012/NQ- HĐTP
2. Không phải mọi tranh chấp giữa các thành viên công ty, giữa thành viên công ty với
ông ty với nhau đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân
sự.

 Nhận định đúng.


- Thẩm quyền của Tòa án về giải quyết tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty được
quy định tại khoản 4 điều 30 BLTTDS 2015: 

“Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc,
tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của
công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” và được giải quyết theo thủ tục chung về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.

- Bên cạnh đó, để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án trong các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại, trước hết Toà án phải xác định tranh chấp phải thuộc thẩm quyền giải
quyết của hệ thống TAND hay thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. Cơ sở
để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án và trọng
tài là thoả thuận trọng tài giữa các bên.

=> Nếu các bên đương sự đã có thỏa thuận trọng tài hợp lệ thì việc giải quyết tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Tòa án
3. Tòa án chỉ giải quyết việc xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ khi
có tranh chấp.

 Nhận định sai.


Bên cạnh thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về hôn nhân và gia đình cụ thể thể việc
xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ được quy định tại khoản 10 Điều 29 BLTTDS
2015 thì yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ thuộc thảm quyền giải quyết
của Tòa án. Như vậy, Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha mẹ cho con hoặc
con cho cha mẹ khi có tranh chấp hoặc không có tranh chấp.
Cơ sở pháp lý: Điều 28, Điều 29 BLTTDS
4. Trong mọi trường hợp, nguyên đơn chỉ có thể yêu cầu tòa án nơi mình cư trú, làm
việc, có trụ sở giải quyết tranh chấp khi đương sự đã có thỏa thuận với nhau bằng văn
bản.
 Nhận định sai.
- Vì căn cứ theo điểm c, d khoản 1 Điều 40 BLTTDS thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án
nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết tranh chấp ngay cả khi đương sự không có
thỏa thuận với nhau, trong các trường hợp sau:

+ Bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp
dưỡng.

+ Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

5.  Tòa án nơi bị đơn cư trú là Tòa án nơi bị đơn có hộ khẩu thường trú.
 Nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 và khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú
2006.

Theo đó, nếu bị đơn là cá nhân thì nơi cư trú là nơi bị đơn có hộ khẩu thường trú hoặc tạm
trú. Vì vậy, trường hợp người bị kiện (bị đơn) vừa có nơi đăng ký thường trú, vừa có nơi tạm
trú thì người khởi kiện (nguyên đơn) có quyền lựa chọn để nộp đơn khởi kiện đến một trong
hai nơi Tòa án mà bị đơn cư trú (thường trú hoặc tạm trú) để yêu cầu Tòa án giải quyết.

6. Trong mọi trường hợp, nếu tranh chấp không liên quan đến bất động sản đều
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc.
 Nhận định sai.
- Trường hợp đối tượng tranh chấp không là bất động sản và nguyên đơn, bị đơn không có
thỏa thuận theo điểm b khoản 1 Điều 39 LTTDS 2015 hoặc nguyên đơn, người yêu cầu
không có quyền chọn Tòa án theo Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì trường hợp này
Tòa án nơi bị đơn cư trú sẽ có quyền giải quyết
7. Các tranh chấp về quốc tịch đều thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án
nhân dân.
Nhận định sai vì không phải mọi tranh chấp về quốc tịch đều thuộc thẩm quyền giải quyết
về dân sự của Tòa án nhân dân mà chỉ những tranh chấp về quốc tịch Việt Nam và giữa cá
nhân với cá nhân thì mới là những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.

Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 26 BLTTDS 2015.


8. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án cấp huyện luon do Chánh án Tòa án
nhân dân cấp tỉnh giải quyết.

 Nhận định sai.


Căn cứ theo khoản 3,4 Điều 41 LTTDS 2015

“Điều 41. Chuyển vụ việc dân sự cho Tòa án khác; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

3.Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc thẩm
quyền giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao thì do Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao giải quyết.

4. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc thẩm
quyền giải quyết theo lãnh thổ của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau do Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.”

Không phải lúc nào cũng tranh chấp giữa các Tòa án cấp huyện luôn do Chánh án Tòa án cấp
tỉnh, mà còn do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ
giải quyết.

9. Trong mọi trường hợp, Tòa án có quyền giải quyết tranh cấp vụ kiện ly hôn đều
thuộc thẩm quyền nơi cư trú; làm việc của bị đơn.
 Nhận định sai.
Vì: Căn cứ theo “ điểm h khoản 2 Điều 39 LTTDS 2015 :
h) Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa
thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;”

Thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết sẽ là Tòa án nơi một trong hai thuận tình ly hôn

- CSPL: điểm h khoản 2 Điều 39 LTTDS 2015


10. Việc nhập hoặc tách vụ án có thể diễn ra trước khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án
dân sự.
 Nhận định sai.
Hiện nay, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng không có quy định cụ thể là Tòa án được
quyền tách vụ án dân sự khi nào.
Nhiều chủ thể cho rằng, Tòa án chỉ được quyền tách vụ án dân sự trước khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Bởi vì thẩm quyền riêng biệt nhập hoặc tách vụ án dân sự là của Chánh
án. Nhưng cũng có những chủ thể cho rằng, tại phiên tòa có căn cứ để tách một yêu cầu trong
vụ án ra giải quyết thành một vụ án khác, nếu yêu cầu này chưa đảm bảo về mặt chứng cứ để
có thể xét xử thì Hội đồng xét xử, cũng có quyền quyết định tách vụ án dân sự. Chính bởi do
vậy, thời điểm quyết định tách vụ án dân sự là trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
hoặc tại phiên tòa.
Những vướng mắc nêu trên xuất phát từ nhận thực khác nhau trong thực tiễn giữa những
người tiến hành tố tụng. Thiết nghĩ, Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn hoặc giải đáp
nghiệp vụ về những vướng mắc trên, nhất là về thẩm quyền nhập hoặc tách vụ án dân sự, để
việc áp dụng pháp luật cho thống nhất.

Phần 2. Bài tập


Ngày 08/3/2012, ông Du Văn Đ (Cư trú tại 2 BAB, E, V3057, Australia) và Ông Trịnh
Quốc P (Cư trú tại đường 19E, khu phố 2, phường B, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ
Chi Minh) có ký Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số
06575 ngày 08/3/2012 tại Phòng công Cứng số 2 đối với nhà đất 926 (trệt) Đường Tr1,
Phường 7, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, giá chuyển nhượng là 14.500.000.000
đồng. Ông Đ đã nhận 10.500.000.000 đồng và đã giao toàn bộ giấy tờ cho ông Ph, số
tiền 4.000.000.000 đồng còn lại ông Ph sẽ giao sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng
theo quy định. Ông Ph đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Quận 5 cập
nhật sang tên đối với nhà đất trên vào ngày 14/3/2012 nhưng đến nay vẫn không chịu
trả cho ông Đ số tiền 4.000.000.000 đồng. Nay ông Đ khởi kiện ông Ph yêu cầu ông Ph
trả lại cho ông Đ số tiền 4.000.000.000 đồng còn lại và tiền lãi đối với số tiền trên theo
lãi suất cơ bản của Ngân hàng tính từ ngày 14/3/2012 đến khi xét xử sơ thẩm. Hỏi:

1. Xác định tư cách đương sự.


Căn cứ Khoản 2 Điều 68 BLTTDS 2015:

- Nguyên đơn: Ông Du Văn Đ, cư trú tại 2 BAB, E, V3057, Australia - là người khởi kiện vì
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

- Bị đơn: Ông Trịnh Quốc P, cư trú tại đường 19E, khu phố 2, phường B, quận Bình Thạnh,
tp HCM-bị ông Đ khởi kiện.

2. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp.


Ông Du Văn Đ và Ông Trịnh Quốc Ph có ký Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ở số 06575 tại Phòng công Cứng số 2 đối với nhà đất 926 (trệtgiá chuyển
nhượng là 14.500.000.000 đồng.

Ông Đ đã nhận 10.500.000.000 đồng và đã giao toàn bộ giấy tờ cho ông Ph. Ông Ph đã được
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Quận 5 cập nhật sang tên đối với nhà đất trên nhưng
đến nay vẫn không chịu trả cho ông Đ số tiền 4.000.000.000 đồng.

Ông Ph khởi kện yêu cầu ông Ph trả lại cho ông Đ số tiền 4.000.000.000 đồng còn lại và tiền
lãi đối với số tiền trên theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng tính từ ngày 14/3/2012 đến khi xét
xử sơ thẩm.

=> Vì vậy, căn cứ theo Khoản 3 Điều 26 BLTTDS 2015 ông Ph và ông Đ có tranh chấp về
dân sự, cụ thể là Hợp đồng dân sự về mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
về Điều khoản liên quan đến nghĩa vụ thanh toán (của ông Ph) theo như đã thỏa thuận trong
hợp đồng.

3. Xác định Tòa án có thẩm quyền.


- Việc tranh chấp giữa ông Đ và ông P là tranh chấp về hợp đồng dân sự, căn cứ theo quy
định tại Khoản 3 Điều 26 BLTTDS 2015 thì tranh chấp này sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.

- Nguyên đơn là ông Đ hiện đang cư trú và sinh sống tại nước ngoài, cụ thể là Australia thì
theo Điều 7 NQ 03/2012 NQ- HĐTP ông Đ là đương sự ở nước ngoài.

- Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 35 BLTTDS 2015 đối với vụ án mà đương sự ở
nước ngoài thì vụ án này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện
mà dựa theo quy định tại khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015 vụ án này sẽ thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Bên cạnh đó căn cứ theo điểm a Khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 ta sẽ chọn Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ án là nơi bị đơn cư trú, làm việc (ông P sinh sống và làm việc ở
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chi Minh)

=> Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này là Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh.

Phần 3. Phân tích án


- Đọc Bản án số: 356/2018/KDTM-ST
- Tóm tắt tình huống;
Nguyên đơn: Ông Trần Minh Hoàng- Đại diện Hộ Kinh doanh Cơ sở Hoa kiểng Bảy
Hương có địa chỉ ở Thuận An, Bình Dương.

Bị đơn: Công ty Cổ phần Tập đoàn Khang Thông, có địa chỉ ở Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Văn Tú.

Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu Hương.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Ngọc Luận và ông Nguyễn Vũ Lâm.

Nội dung:

Nguyên đơn và bị đơn có ký kết các hợp đồng số 29,41 và 46 về việc mua bán cây ăn trái,
cây kiểng và cây cảnh quan.

Nguyên đơn đã thực hiện theo hợp đồng 29 là 2.510.000.000 đồng, Bị đơn đã thanh toán
1.000.000.000 đồng, còn nợ 1.510.000.000 đồng theo biên bản thanh lý hợp đồng mua cây số
29/TLHĐMC.2011 ngày 30/3/2011

Nguyên đơn đã thực hiện theo hợp đồng 46 là 4.770.000.000 đồng, Bị đơn chưa thanh toán,
còn nợ 4.770.000.000 đồng theo biên bản nghiệm thu ngày 09/4/2012 và 810.000.000 đồng
theo biên bản nghiệm thu ngày 06/5/2013. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán
số tiền nợ của 3 hợp đồng trên trong đó có 810 triệu giá trị 89 cây Giáng Hương đạt tăng
thêm của hợp đồng 46 và yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán với số tiền trên từ thời điểm
nộp đơn kiện đến ngày vụ án đưa ra xét xử, sau đó nguyên đơn rút yêu cầu này. Bị đơn yêu
cầu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do đã hết thời hiệu khởi kiện. Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan thống nhất với yêu cầu của nguyên đơn.

Quyết định của HĐXX: Coi đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Hợp đồng 29 và 41 đã được các bên thực hiện xong và không tranh chấp về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ tại các điều khoản của các hợp đồng này nên Hội đồng xét xử không giải
quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Và xác định đây là tranh chấp phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, thương mại về việc đòi lại tài sản, không áp dụng thời hiệu với
tranh chấp này. Đối với hợp đồng số 46 xác định số cây còn sống là 441 cây có giá trị 3 tỷ
969 triệu đồng, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn
trả số tiền: 810.000.000 đồng là giá trị của 89 cây đạt (còn sống) tăng thêm theo biên bản
nghiệm thu ngày 06/5/2013 đối với hợp đồng 46. Do đó, TA quyết định chấp nhận một phần
yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 9 tỷ 230 triệu đồng của các
hợp đồng số 29, 41 và 46, chậm trả theo yêu cầu nguyên đơn thì bị đơn sẽ phải chịu thêm lãi
chậm trả. Đình chỉ xét xử với yêu cầu cầu lãi do chậm thanh toán mà nguyên đơn đã rút yêu
cầu.

Xác định vấn đề pháp lý có liên quan;

- Mâu thuẫn giữa biên bản nghiệm thu 1000 câu theo hợp đồng số 46 và tính xác thực của
hợp đồng.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp.

- Thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện.

-Thời hiệu khởi kiện vụ án.

- Trả lời các câu hỏi sau:

1. Hoạt động mua bán giữa hai bên chịu sự điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp
luật nào?
Hoạt động mua bán giữa hai bên chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại
- Vì chủ thể giao kết Hợp đồng là 2 thương nhân, 1 bên là chủ Hộ kinh doanh cây kiểng và
bên còn lại là công ty cổ phần ( khoản 1, Điều 6, Luật Thương mại 2005 quy định về thương
nhân có các đặc điểm:
Thứ nhất, các chủ thể pháp luật có thể trở thành hoặc được xem là thương nhân bao gồm cá
nhân và tổ chức kinh tế. Thứ hai, để trở thành hay được xem là thương nhân thì cá nhân hay
tổ chức kinh tế phải tiến hành hoạt động thương mại. Thứ ba, cá nhân hay tổ chức kinh tế
được xem là thương nhân chỉ khi tiến hành hoạt động thương mại một cách. Tính độc lập ở
đây là độc lập về mặt pháp lý. Thứ tư, các hoạt động thương mại mà cá nhân hay tổ chức đó
tiến hành phải có tính thường xuyên. Thứ năm, đặc điểm cuối cùng là để trở thành thương
nhân thì cá nhân phải đăng ký kinh doanh).
- Hợp đồng dưới hình thức văn bản
- Xác lập trên lãnh thổ Việt Nam
- Đây là hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.
CSPL: Điều 1, Điều 6 Luật thương mại 2005.

2. Việc các bên ký kết biên bản thanh lý hợp đồng có làm cho quan hệ hợp đồng chấm
dứt hay không?
Khái niệm thanh lý hợp đồng lần đầu tiên xuất hiện trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm
1989 (đã hết hiệu lực). Bộ luật Dân sự 2015 đang có hiệu lực thì không có quy định nào về
thanh lý hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vẫn hay
thường xuyên sử dụng chế định “thanh lý hợp đồng” để chấm dứt và giải phóng các quyền
và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng được giao kết.

Biên bản thanh lý hợp đồng về bản chất là văn bản chấm dứt việc thực hiện thỏa thuận
của hai bên được nêu trong hợp đồng. Trong đó các bên sẽ xác định mình đã thực hiện quyền
và nghĩa vụ theo hợp đồng đến đâu, trách nhiệm nào còn tồn đọng, hậu quả của việc đó là gì.
Khi xác định xong, những phần quyền và nghĩa vụ nào trong hợp đồng mà các bên đã thực
hiện và có thỏa thuận với nhau thì xem như chấm dứt, riêng đối với những phần quyền và
nghĩa vụ còn tồn đọng chưa thực hiện được thì vẫn còn hiệu lực.

=> Kể từ thời gian các bên đã ký vào biên bản thanh lý, quan hệ hợp đồng kinh tế đó coi như
đã được chấm dứt. Riêng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên được xác nhận trong biên bản
thanh lý vẫn có hiệu lực pháp luật cho đến khi các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình.

3. Phân biệt tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự, tranh chấp quyền sở hữu
tài sản và tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương mại.

Tiêu chí Tranh chấp yêu cầu Tranh chấp về Tranh chấp về hợp
thực hiện nghĩa vụ dân quyền sở hữu tài đồng kinh doanh
sự sản thương mại

Cơ sở pháp Khoản 3 điều 26 Khoản 2 điều 26 Điều 30 BLTTDS


lý BLTTDS 2015. BLTTDS 2015. 2015.

Loại tranh Tranh chấp về dân sự. Tranh chấp về dân Tranh chấp về kinh
chấp sự. doanh thương mại.

Chủ thể Tranh chấp phát sinh Tranh chấp phát sinh Tranh chấp giữa các
giữa các chủ thể của giữa các chủ thể của thương nhân có đăng
luật dân sự (cá nhân, luật dân sự (cá nhân, kí kinh doanh trong
pháp nhân) trong quan pháp nhân) trong hoạt động thương
hệ pháp luật dân sự quan hệ pháp luật mại, đầu tư, kinh
(nhân thân và tài sản). dân sự (nhân dân và doanh hoặc giữa cá
tài sản). nhân với thương nhân
trong các hoạt động
trên lựa chọn áp dụng
luật thương mại, luật
đầu tư.

Pháp luật Pháp luật dân sự. Pháp luật dân sự. Luật thương mại và
điều chỉnh các luật chuyên
ngành.

4. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên?
- Theo Khoản 1 Điều 30 BLTTDS thì quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là quan hệ
pháp luật tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại về thanh toán nghĩa
vụ theo hợp đồng (đòi lại tài sản)

5. Trách nhiệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp thuộc về chủ thể nào? Người
khởi kiện hay Tòa án?

Căn cứ tại điểm c khoản 2 Điều 203 BLTTDS

2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
Trách nhiệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp thuộc về Tòa án dựa trên nội dung đơn
khởi kiện của các đương sự.

6. Trường hợp quan hệ pháp luật tranh chấp mà người khởi kiện xác định khác với
quan hệ pháp luật tranh chấp do Tòa án xác định thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?

Khi có sự khác nhau về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa người khởi kiện và
Tòa án thì Tòa án cần xem xét lại căn cứ, cơ sở yêu cầu dựa trên đơn khởi kiện của đương sự
để xem xét lại cho chính xác.

7. Khi thời hiệu khởi kiện đã hết Tòa án có được quyền đình chỉ giải quyết vụ án
không? Tại sao?
Theo Khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015:
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên
hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra
bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ
trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Theo đó về cơ bản tất cả các vụ án đều còn thời hiệu khởi kiện nếu các đương sự không yêu
cầu Tòa án áp dụng thời hiệu (tức nếu hết thời hiệu khởi kiện nhưng các bên không có yêu
cầu tòa án áp dụng thì Tòa vẫn sẽ giải quyết vụ án bình thường). Còn trong trường hợp có
một hoặc các bên đương sự trong vụ án yêu cầu áp dụng thời hiệu thì nếu thời hiệu đã hết,
Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án.

Đối với bản án: (Trích trong bản án)

 Hợp đồng 29 và 41: Tòa án không đình chỉ giải quyết vụ án.
Các bên đã xác nhận với nhau về tài sản chưa trả, cụ thể là số tiền 1.510.000.000 và
3.751.000.000 đồng theo các biên bản thanh lý hợp đồng ngày 30/3/2011 và ngày 02/6/2011,
nay Nguyên đơn tranh chấp yêu cầu Bị đơn thực hiện nghĩa vụ do các bên đã thỏa thuận. Hội
đồng xét xử xác định đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại về
việc đòi lại tài sản. Căn cứ các quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội; khoản 1 Điều 4 của Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày
30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và điểm b khoản 2 Điều 23 của
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử không áp dụng thời hiệu đối với tranh chấp này.
Tại phiên tòa, phía Bị đơn thừa nhận nội dung của các biên bản thanh lý hợp đồng số 29 và
41 và không có chứng cứ chứng minh cho việc đã trả nợ cho Nguyên đơn theo hợp đồng 29
và 41. Do đó, cần buộc Bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình. Hội đồng xét xử có cơ sở chấp
nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc buộc Bị đơn trả cho Nguyên đơn tổng số tiền nợ của
hợp đồng 29 và 41 là: 5.261.000.000 (Năm tỉ hai trăm sáu mươi mốt triệu) đồng. Ý kiến của
Bị đơn và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn về việc đình chỉ giải quyết vụ
án vì lý do hết thời hiệu khởi kiện là không có căn cứ chấp nhận.

 Hợp đồng 46:


Có cơ sở xác định Bị đơn đã nhận số cây được giao theo hợp đồng 46 nhưng chưa thực hiện
nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn. Điều này đủ cơ sở khẳng định Bị đơn đã thừa nhận
nghĩa vụ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy,
áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Dân sự năm 2015 để tính lại thời
hiệu khởi kiện và xác định quan hệ tranh chấp đối với hợp đồng 46. Thời hiệu khởi kiện bắt
đầu lại kể từ ngày 28/11/2018, quan hệ tranh chấp theo hợp đồng 46 là: “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa”. Do đó, ý kiến của Bị đơn và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Bị đơn về việc đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do hết thời hiệu khởi kiện là không có
căn cứ chấp nhận.

 Tóm lại Tòa án sẽ không đình chỉ giải quyết vụ án khi không có yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên đối với bản án này bị đơn yêu cầu đình chỉ giải quyết vụ án vì đã hết thời hiệu
khởi kiện nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ của mình đối với Nguyên đơn vì thế mà Tòa án
không chấp nhận đình chỉ vụ án trong trường hợp này.

8. Việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có ảnh hưởng đến việc xác
định thời hiệu khởi kiện hay không?

- Trong vụ án nguyên đơn đã thay đổi yêu cầu khởi kiện từ “Tranh chấp hợp đồng MBHH”
sang khởi kiện “Tranh chấp đòi lại tài sản” và Tòa án nhận định quan hệ tranh chấp đòi lại
tài sản không áp dụng thời hiệu khởi kiện, do đó việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện
không ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện.

- Nếu nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu nhưng vẫn thuộc phạm vi khởi kiện ban đầu của
vụ án, không phát sinh quan hệ mới thì không ảnh hưởng xác định thời hiệu khởi kiện.

- Nếu thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện làm phát sinh quan hệ tranh chấp, vấn đề pháp lý
mới so với quan hệ khởi kiện ban đầu thì thời hiệu khởi kiện sẽ khác và sẽ ảnh hưởng đến
việc xác định thời hiệu khởi kiện.

=> Việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có thể ảnh hưởng đến việc xác định
thời hiệu khởi kiện.

You might also like