You are on page 1of 5

 Starbucks

Hầu hết chúng ta đều có trải nghiệm ngồi tại một quán cà phê Starbucks thưởng thức một tách cà phê,
một ly espresso hay cappuccino, hoặc có thể là một loại cà phê pha chế sữa trứng đặc trưng hương vị địa
phương. Nhấm nháp đồ uống, nằm dài trên một trong nhiều chiếc ghế êm ái trong tiếng nhạc du dương
hay nghiền ngẫm những trang sách yêu thích. Đó quả là một trải nghiệm tuyệt vời!
Có thể dễ dàng nhận thấy hạt cà phê của Starbucks đến từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm Guatemala,
Sumatra, Brazil, Kenya, Mexico và Ethiopia. Tuy nhiên, chúng ta có lẽ không suy nghĩ nhiều về sự phức
tạp trong việc ra quyết định và sự phối hợp cần thiết của họ để đảm bảo rằng chúng ta, những vị khách
hàng, nhận được đồ uống mà chúng ta đang thưởng thức khi chúng ta ngồi trong quán cà phê? Trên thực
tế, để Starbucks có thể cung cấp một sản phẩm chất lượng cao, nhất quán và rộng rãi cho hơn 15.000 cửa
hàng trên 40 quốc gia, họ phải quản lý mạng lưới đối tác thương mại toàn cầu rộng lớn, từ những người
trồng cà phê đến các nhà máy rang, xay cà phê và đảm bảo sản phẩm luôn luôn sẵn có tại mỗi địa điểm
cửa hàng trên khắp thế giới, trong khi đó công ty vẫn phải duy trì hiệu quả quản lý cao nhất và giữ chi phí
ở mức hợp lý nhất. Vì vậy, có thể nói trong khi chúng ta, những vị khách hàng, ngồi trong quán cà phê
thưởng thức trải nghiệm tuyệt vời mang đến từ Starbucks, thì đằng sau đó - hậu trường là một công ty
đang quản trị một trong những chuỗi cung ứng toàn cầu lớn nhất thế giới.
Tại Starbucks, chuỗi cung ứng bắt đầu từ các nhà cung cấp hạt cà phê (trang trại cà phê), sau đó hạt cà
phê được lựa chọn, phân loại, đóng gói và vận chuyển đến các nhà máy rang xay cà phê (nhà sản xuất chế
biến nguyên liệu), tại đây hạt cà phê được chế biến, đóng gói và vận chuyển đến các nhà phân phối cà
phê, sau đó tiếp tục được vận chuyển đến các cửa hàng bán lẻ như quán cà phê Starbucks, cuối cùng,
chúng ta – những vị khách hàng sẽ tiêu dùng và thưởng thức những ly cà phê của họ.
 Apple
Một số doanh nghiệp tạo giá trị sản phẩm bằng cách phát triển chuỗi giá trị toàn cầu như Apple,
Samsung, Toyota, Unilever….Chúng ta cùng xem xét Apple đã tạo giá trị cho sản phẩm của mình thông
qua thiết lập chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào? Hoạt động R&D được đặt ở Mỹ trong khi hoạt động sản
xuất phần lớn ở Trung Quốc, sản phẩm hoàn thiện được bán trên phạm vi toàn cầu và Apple xây dựng
các trung tâm bảo hành và dịch vụ khách hàng tại hầu hết các thị trường trọng điểm.
 Dell
Tập đoàn máy tính Dell đã yêu cầu tất cả các nhà cung cấp đầu tiên của mình phải ở trong bán kính 15
phút ở bất cứ nơi nào xung quanh cơ sở sản xuất của Austin, Texas. Đây là một ví dụ về mạng lưới cung
cấp trung tâm và nói, với tiêu điểm ở giữa thiết kế.
Dòng luân chuyển tài chính: Dell Computer Corporation là một ví dụ - một công ty đã thu lợi nhiều từ
việc nén chặt chuỗi cung ứng. Dell cắt giảm lượng hàng tồn kho 50 lần mỗi năm, tức là khoảng một lần
mỗi tuần. Vì các đơn đặt hàng của họ được thực hiện trong bảy ngày, nên họ thường nhận được khoản
thanh toán trong bảy đến 10 ngày, điều này rất có lợi cho công ty trước khi Dell phải thanh toán cho các
nhà cung cấp đầu vào của mình, điều này đã giúp Dell đạt được lợi ích lớn về tài chính.
Tập đoàn máy tính Dell, đã chứng minh rằng việc giảm thời gian hoàn thành cùng với tùy chỉnh có thể là
một lợi thế cạnh tranh mà chuỗi cung ứng có thể cung cấp.
 Bán hàng TMDT
Webvan, một công ty bán hàng tạp hóa trực tuyến, không thể cung cấp được dịch vụ giao hàng cạnh
tranh nên sớm bị rời khỏi thị trường. Trong khi Amazon.com thành công rực rỡ chủ yếu nhờ những cải
tiến trong việc quản lý hàng tồn kho và phân phối sản phẩm.
Thông qua sự kết hợp của trí thông minh nhân tạo, cảm biến, track & trace, và big data, trang web
Amazon có thể tự động phân tích hành vi mua sắm của người dùng ngay trong lúc họ đang mua hàng để
đưa ra những gợi ý về sản phẩm. Các thao tác tạo hóa đơn thanh toán cũng như hỗ trợ khách hàng cũng
hoàn toàn được tự động hóa.
 Máy bay Boeing
ví dụ về mạng lưới các nhà sản xuất tham gia vào chuỗi cung ứng của Boeing trong sản xuất dòng sản
phẩm Boeing 787, chiếc máy bay được gọi là Dreamliner, ra mắt thị trường máy bay thế giới năm 2009
(minh họa hình 2.5).

Hình 2.5. Chuỗi cung ứng toàn cầu của Boeing 787
Nguồn: International Association of Machinists, Boeing.
Theo thống kê của Boeing, có tới 45 công ty lớn đang tham gia xây dựng các bộ phận chính như thân
máy bay, động cơ, khung máy bay, vách ngăn và lốp xe của chiếc Dreamliner 787 trị giá 200 triệu USD.
Chiếc Dreamliner 787 được lắp ráp tại hai cơ sở của Boeing ở Everett, Washington và North Charleston,
S.C. Nhưng các bộ phận của nó đến từ khắp nơi trên thế giới. Khoảng 70% được cung cấp bởi các công
ty Mỹ và 30% được thuê ngoài.
Trong số các nhà cung cấp chính của Mỹ có Rockwell Collins (COL) có trụ sở tại Iowa, nơi sản xuất các
hệ thống điều khiển và liên lạc của Dreamliner; Spirit AeroSystems Holdings có trụ sở tại Kansas, nơi
cung cấp các bộ phận thân máy bay; General Electric (GE), nơi sản xuất các động cơ; và Honeywell
(HON), nơi cung cấp các hệ thống định vị và thiết bị điện tử điều khiển chuyến bay.
Nhiều nhà cung cấp khác của Dreamliner 787 có trụ sở ở nước ngoài tại các quốc gia bao gồm Nhật Bản,
Ý, Hàn Quốc, Đức, Vương quốc Anh, Thụy Điển và Pháp. Ví dụ, công ty Alenia Aeronautica của Ý chế
tạo thân máy bay trung tâm, công ty Pháp Messier-Dowty chế tạo hệ thống thiết bị hạ cánh của máy bay,
công ty Đức Diehl Luftfahrt Elektronik cung cấp đèn chiếu sáng cho cabin chính, công ty Saab Aerost
cấu trúc của Thụy Điển sản xuất cửa ra vào và công ty Nhật Bản Jamco các bộ phận cho nhà vệ sinh, nội
thất sàn bay và thuyền buồm. Công ty Thales của Pháp chế tạo hệ thống chuyển đổi năng lượng điện của
Dreamliner 787. Thales đã chọn GS Yuasa, một công ty Nhật Bản, vào năm 2005 để cung cấp cho hang
này pin lithium-ion của hệ thống.
 Wal mart
sự cải tiến trong phương thức vận chuyển đã giúp giảm chi phí vận chuyển, trong khi tốc độ giao hàng
tăng lên đáng kể đến nhiều địa điểm. Một trong những ví dụ nổi bật nhất về điều này là thành công của
Wal-Mart, phần lớn thành công của doanh nghiệp này có được là làm chủ chuỗi cung ứng của mình. Wal-
Mart rất thành công trong việc hợp tác với các nhà cung cấp của họ, sử dụng công nghệ mới nhất có sẵn
để thu thập và chuyển dữ liệu và thực hiện các kỹ thuật vận chuyển mới nhất.
Công nghệ: Wal-Mart sử dụng các vệ tinh thuộc sở hữu của công ty để tự động truyền dữ liệu điểm bán
đến các máy tính tại kho của mình để bổ sung.
 Toyota Honda
Lợi thế cạnh tranh của các công ty như Toyota và Honda so với các đối thủ cạnh tranh của họ trong
ngành công nghiệp ô tô đều đến từ các mối quan hệ hợp tác chiến lược mà họ đã phát triển được với các
nhà cung cấp của mình.
Đầu năm 2010, Toyota đã thu hồi hơn tám triệu xe tại Hoa Kỳ, Châu Âu và Trung Quốc vì các vấn đề
liên quan tới chân ga. Việc sản xuất tại Hoa Kỳ đã bị đình chỉ đối với tám mẫu xe hơi, bao gồm cả
Camry, chiếc xe bán chạy nhất tại thị trường Hoa Kỳ, và doanh số tại hầu hết các đại lý của Toyota đã bị
đình trệ. Đối với một công ty được biết đến với các khuyết điểm bằng không, điều này thực sự có ảnh
hưởng rất lớn. Tập đoàn ô tô Toyota đã là biểu tượng của phong trào chất lượng và được coi là người dẫn
đầu xu thế trong ngành công nghiệp ô tô. Toyota đổ lỗi cho một trong những nhà cung cấp của mình, một
công ty sản xuất bàn đạp ga. Với mối quan hệ chặt chẽ mà Toyota có với các nhà cung cấp của mình, làm
thế nào một lỗi lớn như vậy có thể vượt qua họ?
Cung cấp cho Toyota là mong muốn của rất nhiều nhà cung cấp phụ tùng xe hơi bởi rất khó khăn để các
nhà cung cấp có được hợp đồng của hãng này. Các nhà cung cấp được lựa chọn thường được theo dõi rất
cẩn thận và được khen thưởng với lòng trung thành. Toyota cũng được biết là công ty tham gia rất sâu về
kỹ thuật trong sản xuất các bộ phận bởi các công ty bên ngoài. Các nhà cung cấp sản xuất linh kiện oto
theo thông số kỹ thuật chính xác được đặt hàng bởi Toyota, nhưng hãng này thường không tham gia thử
nghiệm sản phẩm. Giữa những năm 2000 và 2008, Toyota đã tăng gấp đôi doanh số và khả năng duy trì
chất lượng trong thời gian tăng trưởng nhanh như vậy là một thách thức. Để theo kịp với áp lực chi phí
công ty yêu cầu các nhà cung cấp cắt giảm chi phí sản xuất linh kiện. Một giám đốc điều hành tại một
nhà cung cấp lớn của Hoa Kỳ nói rằng Toyota yêu cầu công ty của ông cần phải làm cho mỗi thế hệ linh
kiện rẻ hơn 10%. Sự tăng trưởng nhanh chóng trong một ngành công nghiệp cạnh tranh như vậy có thể đã
cho thấy chất lượng của những chiếc xe Toyota.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà cung cấp và người mua, như đã thấy giữa Toyota và các nhà cung cấp,
khiến cho việc xác định nguồn gốc thực sự của vấn đề chất lượng khi chúng xảy ra. Lỗi có thể là do nhà
cung cấp sản xuất bộ phận, hoặc với các bộ phận cấu thành mà nhà cung cấp lấy từ nhà cung cấp của
chính họ. Tình huống thứ hai xảy ra vài năm trước đó khi nhà sản xuất đồ chơi Mattel phải thu hồi đồ
chơi do sử dụng sơn chì được cung ứng bởi nhà cung cấp mà nhà cung cấp của họ tại Trung Quốc. Một
nguồn khác của vấn đề chất lượng có thể là các thông số cụ thể do nhà sản xuất xác định. Mặc dù mối
quan hệ chặt chẽ giữa nhà cung cấp và người mua là cần thiết để doanh nghiệp có thể phản ứng nhanh
chóng trên thị trường cạnh tranh ngày nay, nhưng nó cho thấy tầm quan trọng và phức tạp của chức năng
tìm nguồn cung ứng (purchasing). Mua các bộ phận không chỉ đơn thuần là về giá thấp nhất. Đó là về
việc xây dựng các mối quan hệ lâu dài và giúp đỡ nhau vượt qua thời gian thử thách.
 Ngành công nghiệp ô tô
Ngành công nghiệp ô tô thế giới được xem là một trong những ngành có mức độ toàn cầu hóa lớn nhất.
Công nghiệp ô tô từ lâu đã được biết đến là một ngành có quy mô lớn và cũng được coi là ngành siêu lợi
nhuận. Tổng giá trị hàng hóa do ngành công nghiệp này tạo ra đã đạt tới những con số khổng lồ. Sản
phẩm của nó được phân phối trên khắp thế giới và nó được sự chi phối bởi một số ít các công ty có sự
ảnh hưởng tới toàn thế giới.
Hình 2.7: Bản đồ sản xuất xe hơi toàn cầu của Toyota năm 2018
Nguồn: Báo cáo kinh doanh Toyota năm 2018
Ngành công nghiệp ô tô bị chi phối bởi các tập đoàn đa quốc gia có quy mô hoạt động toàn cầu, nắm giữ
công nghệ, thị trường phân phối và quản trị toàn bộ chuỗi cung ứng. Hơn nữa, sản xuất 1 chiếc ô tô yêu
cầu khoảng 20.000 đến 30.000 chi tiết linh phụ kiện. Trên thực tế, không một hãng nào lại tự lựa chọn
việc sản xuất trọn vẹn một chiếc xe mà có hàng trăm, hàng nghìn doanh nghiệp cùng tham gia thì mới sản
xuất được sản phẩm. Quá trình sản xuất ô tô trên thế giới đã cho thấy một bức tranh khái quát về quá
trình sản xuất trọn vẹn một chiếc xe phải có sự hội tụ của cả một chuỗi giá trị khổng lồ đến từ nhiều
doanh nghiệp khác nhau, nhiều quốc gia khác nhau. Tính đến cuối 12/2017, Toyota đã có 51 nhà máy sản
xuất xe hơi tại 28 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xe hơi Toyota được bán tại hơn 170 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên toàn cầu.
Ngành công công nghiệp điện tử thế giới cũng được xem là một trong những ngành có mức độ toàn cầu
hóa nhanh và mạnh nhất thế giới. Chỉ nhìn vào ngành công nghiệp sản xuất máy tính (PC) thế giới cũng
có thể thấy tiến trình toàn cầu hóa của ngành này diễn ra mạnh mẽ như thế nào. Tháng 8/1981 hãng IBM
cho ra đời chiếc máy tính PC đầu tiên. Chúng được nhanh chóng ưa chuộng và hoạt động sản xuất PC
ngày càng mở rộng, IBM đã tiến hành thuê ngoài một số các công đoạn sản xuấ PC cho các doanh nghiệp
khác ở Mỹ, và hoạt động này nhanh chóng lan rộng ra khắp toàn cầu cùng với sự gia tăng của toàn cầu
hóa. Trong những năm 2000, có thể thấy một số quốc gia nổi lên mạnh mẽ trong ngành công nghiệp này
như Đài Loan, Trung Quốc, Singapore. Hoạt động sản xuất PC ngày càng được đưa ra khỏi nhóm các
nước phát triển công nghệ như Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu. Mạng lưới sản xuất toàn cầu máy tính PC
ngày càng phát triển mạnh mẽ và đem lại lợi nhuận khổng lồ với mức tăng trưởng hàng năm khoảng 16%
và mức tăng trưởng doanh thu hàng năm khoảng 200%, Đài Loan là một ví dụ điển hình. Sự phát triển
của ngành này gắn liền với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và truyển thông (ICT) thế giới.
 Ngành sản xuất máy bay
Trong ngành sản xuất máy bay thế giới, Boeing được biết đến là một trong những ví dụ điển hình cho
hoạt động thuê ngoài mang tính toàn cầu. Boeing phụ thuộc khá nhiều vào các nhà cung ứng quốc tế
trong việc sản xuất sản phẩm máy bay hoàn chỉnh. Năm 2012 Boeing đã chi tới 36 tỉ đô la cho hơn
17.000 nhà cung cấp ở 52 quốc gia. Việc thuê ngoài các công ty sản xuất các cấu phần linh kiện của chiếc
máy bay đã đã giúp cho hãng này đạt được một mức siêu lợi nhuận và cao hơn rất nhiều so với việc tự
sản xuất. Khi chuỗi cung ứng phát triển thì chuyện làm ăn sẽ trở nên dễ dàng hơn với Boeing và cũng có
lợi cho những nhà cung ứng tạo ra lợi nhuận riêng cho họ,một sự hợp tác cùng phát triển làm cho môi
trường làm việc của không chỉ Boeing mà cả các công ty cung ứng được hiệu quả cao.
 Ngành giày da: NIKE => thuê ngoài cả việc sản xuất; cho phép khách hàng thiết kế sản phẩm của
chính họ qua mạng
Ngày nay, sản phẩm của Nike được sản xuất tại trên 765 nhà máy, với lượng nhân công 1.005.134 nhân
công đặt tại 43 quốc gia. Nike chỉ có khoảng hơn 20.000 nhân công trực tiếp, đa số làm việc tại Mỹ; còn
lại chủ yếu làm việc tại các nhà máy ở nước ngoài. Nike cũng đã mở rộng dãy sản phẩm của mình qua
thời gian. Thông qua đảm bảo thực hiện các đơn hàng lớn bằng cách bố trí nhân viên của mình tại
các nhà máy mới để theo dõi chất lượng sản phẩm và quá trình sản xuất, Nike có khả năng giúp các nhà
cung ứng của mình thiết lập một mạng lưới các nhà máy sản xuất giày khắp Đông Nam Á. Hầu hết các
nhà máy sản xuất của NIKE đặt tại các nước đang phát triển, phần nhiều nằm tại Châu Á và Nam Mỹ.

Hình 2.8: Mạng lưới sản xuất toàn cầu của NIKE năm 2018
Nguồn: Báo cáo kinh doanh NIKE năm 2018

You might also like