Professional Documents
Culture Documents
- Đỗ Hải Phong -
Ngày 22/6/1941, phát-xít Đức tấn công Liên Xô. Trong cuộc đụng đầu lịch sử vĩ
đại nhất và cũng khốc liệt nhất của thế kỷ XX này, Mikhail Sholokhov trở thành
một phóng viên chiến tranh.
Những bài ký, phóng sự chiến tranh của Sholokhov như Về hướng Smolensk, Trên
đường ra mặt trận, Những cuộc gặp gỡ đầu tiên, Những người Hồng quân... không
chỉ có tính kịp thời của thông tin mặt trận, mà còn khắc hoạ được nét ưu trội tinh
thần của những người Xô-viết trong sự tương phản với kẻ thù phát xít. Những nẻo
đường chiến tranh với cả sự thảm khốc cũng như hào hùng được Sholokhov khắc
họa hết sức tinh tế: những xác người vất vưởng bên những hố bom, mìn; một con
ngựa non vừa chết bên cạnh mẹ của nó còn đang run rẩy; một con mèo vàng với bộ
lông cháy sém đang lấy tay rửa mặt bên căn nhà cháy dở; hai con gà mái bới tìm
thức ăn trong vườn rau mọc đầy cỏ dại; đàn chim câu xao xác không muốn rời mái
nhà thờ đã bị phá huỷ; những người phụ nữ dắt díu đàn con nhặt nhạnh những gì
còn lại trên mảnh vụn của những ngôi nhà với những chiếc giường trẻ con cong
queo đen sạm; những nơi bọn Đức đi qua chỉ còn lại hoang tàn đổ nát, nhưng đây
đó bên dòng suối những người công binh lưng trần "mồ hôi loáng lên dưới nắng"
đang dựng lại những cây cầu, hương nhựa thông của vỏ bào cùng hơi mát từ dòng
suối quyện lại với nhau ngây ngất...
Nỗi đau chiến tranh khơi dậy lòng căm thù, tôi luyện lòng người, thúc giục con
người sống và chiến đấu. Ngày 22/6/1942, truyện ngắn Khoa học căm thù của
Sholokhov được đăng trên báo Sự thật. Một ngày sau nó được in lại trên báo Sao
đỏ, rồi được xuất bản riêng thành những cuốn sách nhỏ. Những cuốn sách đó có
một ảnh hưởng sâu rộng đến những người lính Xô-viết trên toàn mặt trận.
Khuynh hướng chính luận của truyện ngắn Khoa học căm thù được quyết định bởi
tính thời sự của nó. Tuy nhiên, đó không phải là tính chính luận khô khan mà là
hơi thở của chính cuộc sống những người lính Xô-viết trong chiến tranh.
Truyện ngắn Khoa học căm thù chủ yếu được kể từ lời "người trong cuộc", trung
uý Gherasimov.
Từ khi còn ở vùng quê Ural của mình người thợ máy Gherasimov biết về người
Đức qua những trang sách của các nhà văn kinh điển, qua những cỗ máy được làm
ra bởi những bàn tay thông minh và cẩn thận. Gherasimov "yêu mến và quen kính
trọng nhân dân Đức". ấy vậy mà chiến tranh bùng nổ, Gherasimov phải chia tay
với vợ, hai con nhỏ và ông bố tàn tật để lên đường chiến đấu với "bọn láng giềng
phản trắc". Trong những ngày đầu cuộc chiến Gherasimov vẫn còn quan tâm đối
xử tốt với tù binh Đức. Thế nhưng những cảnh khủng khiếp mà anh phải chứng
kiến và trải qua trên những nẻo đường chiến tranh không thể không dấy lên trong
anh lòng căm thù: "Những xóm làng bị đốt trụi, hàng trăm đàn bà, trẻ em, người
già bị bắn chết, những chiếc thây bất thành nhân dạng của các chiến sĩ hồng quân
bị bắt làm tù binh, những phụ nữ, thiếu nữ, em gái nhỏ bị chúng hãm hiếp và giết
hại một cách dã man..."
Khắc họa nỗi đau chiến tranh, ngòi bút của Sholokhov có lúc như sưng tấy lên
nghiệt ngã đến đau xót. Nhức nhối mãi trong lòng người đọc cũng như trong lòng
người chiến sĩ Gherasimov hình ảnh cô bé mười một tuổi bị bọn phát xít lôi ra
vườn rau hãm hiếp rồi giết chết "trên những cây khoai tây nát bét... xung quanh là
những quyển vở và sách giáo khoa đẫm máu vương vãi... mặt em bị băm vằm
trông rất khủng khiếp, tay em còn nắm chặt chiếc cặp học sinh mở tung"; rồi cảnh:
"Trên những cành cây mọc ở bờ khe, treo lủng lẳng những thân hình đẫm máu
không chân không tay bị lột gần hết da... ở dưới đáy khe có tám người bị giết chất
thành một đống... một đống thịt lớn bị chặt vụn..."
Có lẽ ít có nhà văn nào viết về chiến tranh nghiệt ngã đến như Sholokhov, nhưng
cũng ít có nhà văn nào miêu tả được ý chí, nghị lực, sự quật cường của những con
người bình dị trong chiến tranh thành công như Sholokhov. Khi rơi vào tay quân
Đức Gherasimov trong lúc bị thương đã gượng đứng lên vì "không thể nằm như
vậy mà chết". Bị bọn Đức đánh đập, hành hạ, Gherasimov không cho phép mình
gục ngã mà gắng gượng tự nhủ: "tôi vẫn bước đi và như thế có nghĩa là tôi vẫn còn
sống và có thể hành động được". Mọi cực hình trong trại tập trung của phát xít
không bẻ gãy được ý chí của Gherasimov, không cướp đi được tấm thẻ Đảng mà
anh gìn giữ nâng niu. Gherasimov gắng sống, gắng gượng chịu đựng tất cả với
quyết tâm: "Tôi cần phải trở lại đội ngũ những chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc". Và cuối
cùng người chiến sĩ Xô-viết ấy đã trốn được về với những người đồng đội của
mình.
Gherasimov trở về với đội ngũ với lòng căm thù nung nấu nhói đau không chịu nổi
mỗi lần anh nhìn thấy một tên phát xít nào còn sống. Câu chuyện của "người trung
uý mới ba mươi hai tuổi mà đã trải bao thử thách khủng khiếp, nhưng vẫn khoẻ
mạnh cứng rắn như một cây sồi" ấy thể hiện sức mạnh tinh thần của cả đất nước
Xô-viết đang sục sôi ý chí biến căm thù thành hành động. Khoa học căm thù thực
chất là khoa học yêu thương đối với mảnh đất và những con người đang bị giày
xéo dưới gót giày quân phát xít.
Truyện ngắn Khoa học căm thù được những người lính Xô-viết chuyền tay nhau
trong mỗi chiến hào, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu thời sự trước mắt, mà còn là
bản phác thảo đầu tiên cho kiệt tác Số phận con người.
Tháng Năm năm 1943, trên báo Sự thật bắt đầu đăng một số chương của tiểu
thuyết Họ chiến đấu vì Tổ quốc của Sholokhov. Một số chương tiếp theo của cuốn
tiểu thuyết được đăng tải trên báo và tạp chí vào những năm 1944, 1949, 1954,
1959, 1969. Cuốn tiểu thuyết không được hoàn thành vì nhiều lý do khác nhau,
nhưng với những chương đã được công bố tác phẩm này của Sholokhov đã thể
hiện rõ ý tưởng kỳ vĩ của nhà văn.
Vào mùa xuân năm 1946, mùa xuân đầu tiên sau chiến tranh, trong một chuyến
công tác qua thôn Volokhovsky thuộc trấn Elanskaya, tại một bến phà, Sholokhov
làm quen với một người lái xe đi cùng một cậu bé. Người lái xe kể cho nhà văn
nghe về cuộc đời chìm nổi của mình. Câu chuyện đặc biệt làm cho nhà văn xúc
động và dự định sẽ viết một truyện ngắn về người lái xe ấy. Tuy nhiên, phải mười
năm sau ý tưởng ấy mới trở thành hiện thực.
Sholokhov đã phải nghiền ngẫm rất lâu để cuối cùng có thể đặt bút viết liền một
mạch và hoàn thành truyện ngắn chỉ trong mấy ngày cuối năm 1956. Truyện
ngắn Số phận con người được in trên báo Sự thật vào số ra ngày 31/12/1956 và
ngày 1/1/1957.
Số phận con người của Sholokhov chinh phục người đọc bằng sự giản dị và hàm
súc của nó. Tác phẩm được xây dựng theo một kết cấu truyền thống - kết cấu
"truyện trong truyện". Tuy nhiên, loại kết cấu có từ thuở sơ khai của các loại hình
tự sự này được tác giả sử dụng với một hiệu quả nghệ thuật đặc biệt: câu chuyện
được kể lại tự nhiên như chính cuộc sống đồng thời được soi sáng từ cả điểm nhìn
bên trong lẫn điểm nhìn bên ngoài, kết hợp được cả tính bi kịch, tính sử thi với tính
trữ tình.
Thời điểm kể của câu chuyện là mùa xuân năm 1946, mùa xuân đầu tiên sau cuộc
chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của dân tộc Nga chống phát-xít Đức (1941 - 1945). Ở
đầu truyện ngắn, người kể chuyện - tác giả khoan khoái tận hưởng không khí mùa
xuân hòa bình đầu tiên "rất mực hiền hòa và kiên quyết" đến với vùng thượng lưu
sông Đông sau khi vượt qua một chặng đường khó đi và chèo một chiếc thuyền nát
qua sông Elanka bị nước lũ tràn bờ "rộng đến một cây số", phải chờ người bạn
đồng hành đi chuyến sau sang. Mạch kể chậm rãi, hình ảnh mùa xuân với "làn gió
ấm" tháng ba, "những bãi cát bên tả ngạn sông Đông đã lồ lộ ra sạch bóng tinh
tươm", "sông ngòi thảo nguyên phá vỡ băng, cuồn cuộn chảy", "bầu không khí ban
mai mát mẻ xông lên nồng nặc và ngây ngất mùi mồ hôi ngựa và mùi nhựa" quen
thuộc của cuộc sống lao động hòa với "mùi hương muôn thuở thanh xuân, thoang
thoảng của đất vừa thoát khỏi cảnh tuyết phủ", hình ảnh "xóm quê trải dài tít tắp"
dưới ánh "mặt trời chói chang như giữa tháng năm", "những đám mây trắng căng
phồng, đang lững lờ trôi trên nền trời xanh nhạt" – tất cả nhấn mạnh dòng chảy bất
tận của cuộc sống. Chủ đề "con người và số phận" trong văn học từ thời Cổ đại vốn
là một chủ đề mang tính bi kịch, ở Sholokhov nó lại bắt đầu được triển khai theo
phong cách sử thi.
Trên bờ sông, người kể chuyện gặp một người đàn ông dắt tay một em bé chừng
năm, sáu tuổi. Người đàn ông có đôi bàn tay "to lớn đen sạm", "to lớn sần sùi" và
cặp mắt "như bị phủ tro, chan chứa một nỗi buồn thê thảm chết chóc", còn đứa bé
có đôi bàn tay "bé bỏng hồng hồng lạnh buốt" và "cặp mắt trong xanh như da trời".
Sự tương phản giữa hai con người của hai thế hệ thể hiện qua những hình ảnh có ý
nghĩa biểu trưng phổ biến trong mối quan hệ giữa con người với số phận. Người
đàn ông, vốn làm nghề lái xe (cái nghề luôn phải vững tay lái trên một con đường),
tưởng người kể chuyện-tác giả cũng là lái xe nên thân mật dừng lại bắt chuyện và
tâm sự về cuộc đời mình. Người đàn ông ấy tên là Andrey Sokolov[1].
Nhân vật trung tâm tự kể về cuộc đời mình vận dụng cả hai điểm nhìn: điểm nhìn
"lúc đó" song hành với sự kiện và điểm nhìn "bây giờ" từ ý thức về những kết cục
của sự kiện. Hai điểm nhìn này bổ sung cho nhau để người đọc vừa có thể nhập
trực tiếp vào mạch kể, vừa có lúc gián cách với câu chuyện mà suy ngẫm. Câu
chuyện về cuộc đời Andrey Sokolov có thể chia làm ba giai đoạn lớn: trước chiến
tranh vệ quốc, trong và sau chiến tranh.
Andrey Sokolov sinh năm 1900 tại một làng thôn thuộc tỉnh Voronezh, trong thời
gian cách mạng và nội chiến từng phục vụ trong Hồng quân. Để nhân vật "sinh ra
cùng thế kỷ" nhấn mạnh cuộc sống của mình "cũng bình thường thôi", Sholokhov
muốn thông qua số phận của một người "bình thường" hướng tới khắc họa vận
động tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân loại trong cơn bão táp lịch sử của thế
kỷ XX.
"Năm hai mươi hai đói kém" Andrey trôi dạt tới Kuban làm thuê kiếm sống. Khi
trở về thì "bố mẹ và em gái đã chết đói hết". Đòn đầu tiên của "số phận" ấy đặt
nhân vật vào hoàn cảnh "tứ cố vô thân": số phận cướp đi của con người những
người thân yêu nhất, bắt con người phải cô độc một mình.
Andrey bỏ lên thành phố làm cho một hợp tác xã mộc, rồi làm thợ nguội. ít lâu sau
anh cùng cô gái "lớn lên trong trại mồ côi" Irina lập thành một gia đình. Người "tứ
cố vô thân" và cô gái "mồ côi" kết nối với nhau bằng tình yêu thương để chống
chọi với số phận. Irina hiền hậu, dịu dàng đã làm cho Andrey cảm thấy ấm lòng và
kiềm chế được cả thói rượu chè, chí thú làm ăn, lo toan cho cuộc sống. Câu chuyện
Andrey kể về thái độ thông cảm đầy thương yêu của vợ đối với lần anh say rượu
không chỉ là minh chứng cho sự hiền dịu của người vợ trong trường hợp cụ thể ấy
mà còn như nhấn mạnh sức mạnh của tình yêu thương, khả năng đồng cảm có thể
cải biến con người: Andrey thầm nhủ "Chả nhẽ ta lại nỡ phụ một tấm lòng tin cậy
như thế hay sao?" Motif rượu vừa như chất men say cuộc sống vừa có thể nhấn
chìm cuộc sống được đưa vào tác phẩm chính ở chi tiết này và sẽ được triển khai
xuyên suốt cả ba giai đoạn trong cuộc đời nhân vật.
Cuộc sống của Andrey và Irina dần dần đi vào ổn định như cuộc sống của hàng
triệu người dân Xô-viết khác. Họ có ba con: Anatoli giỏi toán, hai cháu gái Olga
và Nastia ngoan hiền. Andrey học lái xe và "ngồi sau tay lái thấy đời vui hơn"
(Nghề lái xe cũng sẽ gắn bó với Andrey suốt trong cả đoạn đời sau này). Gia đình
Andrey dành dụm được một ít tiền, dựng được một ngôi nhà nhỏ. "Mấy đứa con có
sữa ăn với cháo, trên đầu có mái nhà che nắng che mưa, giày dép đủ, áo quần đủ,
thế là mọi sự đều ổn cả". Con người dường như chỉ cần có vậy, song đúng vào lúc
hạnh phúc nhỏ nhoi được thiết lập, số phận phũ phàng cướp đi tất cả.
Tháng Sáu năm 1941, chiến tranh Vệ quốc bắt đầu. Andrey Sokolov lên đường ra
mặt trận. Nỗi đau chiến tranh được Sholokhov nhấn mạnh ngay từ cảnh số phận
chia lìa: cảnh gia đình tiễn người đàn ông ra mặt trận. Đó là nỗi đau của những đứa
trẻ: "Những đứa con từ nay vắng bố đứng cụm lại với nhau" với "đôi vai rung rung
như người bị lạnh", "không giữ được mấy giọt nước mắt", "muốn cười nhưng nụ
cười không hé ra được". Và đặc biệt là nỗi đau của người vợ tiễn chồng ra mặt
trận: "Suốt đêm, Irina gục đầu vào vai tôi, vai và ngực áo sơ mi của tôi đẫm nước
mắt không khô..."; "đôi môi sưng mọng lên vì nước mắt, làn tóc xõa tung dưới
khăn bịt đầu, mắt đục ngầu, đờ đẫn như người bị mất trí"; "bổ nhào vào ngực tôi,
hay tay bíu chặt lấy cổ tôi, toàn thân run lên như một thân cây sắp bị đẵn đổ"; "áp
sát vào người tôi như chiếc lá dính vào cành, chỉ run rẩy toàn thân không nói được
nửa lời"; "hai tay ôm lấy ngực, đôi môi trắng bệch như phấn, thầm thì điều gì đó,
nhìn tôi không chớp mắt và toàn thân ngả về phía trước như muốn đi ngược chiều,
cố cưỡng lại một luồng gió mạnh..." Linh cảm "không còn thấy lại nhau" của người
vợ và việc Andrey xô vợ ra rồi ân hận được miêu tả từ cả hai điểm nhìn "lúc đó" và
"bây giờ" vừa nhấn mạnh ý chí hướng tới sự sống của Andrey lúc lên đường, vừa
thể hiện nỗi đau chia lìa khủng khiếp.
Đánh giặc chưa được một năm, Andrey bị thương hai lần vào tay và chân. Trong
thời gian ấy, anh vẫn viết thư về nhà nói "mọi sự đều ổn cả", vì anh hiểu rằng "ở
hậu phương đám đàn bà và trẻ em bất hạnh có dễ chịu gì hơn đâu! Cả nước trông
đợi vào họ!", còn trên chiến trường "Anh là thằng đàn ông, anh là thằng lính, khi
cần thiết phải chịu hết, phải gánh hết". Chính tinh thần kết nối bằng sự thông cảm
và thấu hiểu của người lính ngoài tiền tuyến với "đám đàn bà trẻ con" ở hậu
phương ấy tạo nên sức mạnh để cộng đồng dân tộc, nhân loại chống chọi với thù
hận, chia lìa của chiến tranh phát-xít.
Cũng chính tinh thần kết nối ấy hội tụ trong ý chí của Andrey khi xung phong lái
xe vượt qua tuyến lửa tiếp đạn cho một đơn vị pháo, bất chấp hiểm nguy: "Đằng
kia các đồng chí có thể đang hy sinh, còn ở đây lẽ nào tôi lại chần chừ". Xe của
Andrey trúng phải đạn pháo, anh bị thương, lúc tỉnh dậy đã thấy mình ở trong vòng
vây quân địch. "Không muốn chết nằm", anh cố đứng dậy "lảo đảo, vật vờ như cây
dương trong cơn bão tố".
Bọn Đức bắt giải Andrey đi cùng đoàn tù binh đến một nhà thờ bị bom làm sạt mất
vòm, khóa trái cửa lại "như nhốt một đàn cừu trong chuồng tối", có người muốn
xin ra ngoài đi vệ sinh thì bị chúng xả súng bắn chết. Phát-xít Đức không chỉ lăng
nhục con người, chúng còn là những kẻ "không có Chúa". Tối hôm đó, Andrey
được một người bác sĩ quân y chữa cho khỏi bong gân và phải giết chết một kẻ
định phản bội đồng chí của mình. Motif đấu tranh Thiện – Ác ở ngay chính trong
nội bộ những người tù binh được nâng lên tầm vóc triết luận của Kinh thánh qua
đoạn độc thoại ngắn, dứt khoát, của nhân vật trung tâm không phải là trí thức,
không quen suy tưởng, thiên về hành động nhiều hơn: sau khi bóp chết kẻ phản
bội, Andrey "thấy người khó chịu ghê gớm, muốn đi rửa tay quá chừng, cứ như là
vừa mới bóp chết một loài rắn độc nào đó, chứ không phải một con người... Lần
đầu tiên trong đời, tôi đã giết người, mà đó lại là người mình... Nhưng sao hắn lại
là người mình được nhỉ? Hắn còn tồi tệ hơn người xa lạ nữa kia, hắn là thằng phản
bội..."
Bọn Đức tiếp tục giải đoàn tù binh về phía Tây, phía đất Đức. Một lần chúng sai
Andrey đào huyệt chôn những người chết vì dịch tả. Nhân lúc chúng sơ hở, Andrey
"nhằm thẳng phía mặt trời mọc" bỏ trốn. Được bốn ngày, khi tạm trốn "trong đám
kiều mạch" thì bọn Đức đuổi tới. Chúng suỵt chó cắn Andrey "da thịt tả tơi từng
mảnh" rồi nhốt vào "xà lim riêng" một tháng. Nhưng Andrey "vẫn cứ sống... và
vẫn còn sống". Khát vọng sống để còn có một ngày kết nối được với "quân mình"
giúp cho con người đứng vững dù có bị đẩy vào hoàn cảnh biệt lập đến đâu chăng
nữa.
Hai năm, Andrey chuyển hết từ trại tập trung này sang trại tập trung khác trên "nửa
đất Đức". Dọc đường đoàn tù binh bị rơi rụng đi nhiều, người thì chết do không đủ
sức đi tiếp, người thì bị bọn Đức bắn chết, sang đến trại B-14, một trại tập trung
trên đất Đức, đoàn người chỉ còn lại 57 trên tổng số 142 người lúc trước. Tại trại
tập trung này, bọn Đức bắt mỗi tù nhân phải đào mỗi ngày mỗi người bốn thước
khối đá, Andrey nói đùa rằng "một khối cũng thừa để xây mồ". Có kẻ ton hót với
tên trưởng trại khét tiếng tàn ác Müller. Hắn cho gọi Andrey lên và bày ra một trò
tiêu khiển: thử xem Andrey, lâu ngày nhịn đói có còn uống rượu được như một con
người hay không. Song bọn Đức đã không thể biến được Andrey "thành súc vật".
Với "phẩm chất Nga và niềm kiêu hãnh của mình", Sokolov đã chứng tỏ dũng khí
của một người Nga "không chịu nghẹn họng vì miếng ăn chúng thí cho". Không bẻ
gãy được ý chí của Andrey, Müller tha chết cho anh và thưởng cho anh "khúc bánh
mì không to lắm và một miếng thịt mỡ". Khi còn chưa thoát hoàn toàn khỏi vòng
nguy hiểm, suy nghĩ đầu tiên của Andrey là nghĩ về những người cùng cảnh ngộ:
"Hắn mà cho mình một phát vào đầu thì không mang được mấy món này về cho
anh em". Về đến phòng giam, những thứ "chiến lợi phẩm ấy" được "chia đều cho
tất cả" và "ai cũng hài lòng". Chính tinh thần sẻ chia, khả năng nghĩ đến người
khác với tình yêu thương ấy đã làm nên sức mạnh tập thể dẫn những người Nga
đến chiến thắng. Lúc đó là vào năm 1944, chính vào lúc quân Nga thắng trận
Stalingrad và bắt đầu phản công. Thử thách cao trào đối với nhân vật trung tâm
ứng với bước ngoặt quyết định trong cuộc chiến chung của cả dân tộc, nhân loại.
Mặt trận tiến dần về phía tây, tinh thần quân Đức ngày một trở nên rệu rã. Bọn
Đức bắt Andrey lái xe chở một tên thiếu tá kỹ sư. Trên đường phố bắt đầu xuất
hiện nhiều tên Đức say rượu. Andrey nhân đó lấy được một bộ quần áo của một tên
hạ sĩ quan say rượu, chuốc rượu cho tên thiếu tá say mèm, lấy cặp tài liệu của hắn
và lái xe vượt chiến tuyến về với quân Nga. Trong thời gian nghỉ phép, Andrey
nhận được tin từ quê nhà: từ tháng Sáu 1942, một quả bom đã rơi trúng ngôi nhà
gần xưởng sản xuất máy bay của gia đình anh, vợ và hai con gái của anh đã mất
trong trận bom đó. Suốt trong thời gian bị bắt làm tù binh, đêm đêm Andrey thầm
nói chuyện với những người thân, hóa ra anh "toàn nói chuyện với những người đã
chết". Không phải vô tình, thời gian bị giam hãm của Andrey trùng với thời gian
anh mất vợ và các con gái. Mô hình cốt truyện "phục sinh từ cõi chết" cổ xưa sống
lại trong tác phẩm đặt lại vấn đề con người và số phận của Sholokhov, nó chuyển
vấn đề từ bình diện bi kịch sang bình diện sử thi.
Niềm tự hào, niềm hy vọng cuối cùng của Andrey là Anatoli con trai của anh giờ
đã là một đại úy pháo binh đang chỉ huy một đơn vị tiến vào Berlin. Đúng ngày
9/5/1945, ngày chiến thắng phát-xít Đức, Andrey được tin con trai anh đã hy sinh
trong trận đánh cuối cùng. Andrey đã phải chôn "niềm vui sướng và niềm hy vọng
cuối cùng" của mình trên đất Đức với "những giọt nước mắt dường như đã khô lại
trong tim... làm tim đau buốt" như vậy. Kết thúc chiến tranh, số phận lại trả Andrey
"như người mất hồn" về tình huống "tứ cố vô thân" đơn độc, đau xót.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, Andrey Sokolov bỏ đến Uriupinsk lại tiếp tục làm lái xe.
Xê dịch không làm con người nguôi nổi nỗi đau, song nó tạo cảm giác về sự vận
động và hy vọng vào sự bắt đầu của một cuộc sống mới. Ở Uriupinsk, Andrey sống
cùng hai vợ chồng người đồng ngũ không con cũng là nạn nhân của chiến tranh. Bi
kịch khủng khiếp nhất của con người là bi kịch "không có người tiếp nối". Vì
buồn, Andrey uống rượu và "đã đi quá sâu vào cái tật nguy hại ấy", nhưng trong
quán giải khát, anh đã gặp cậu bé mồ côi "lem luốc, bụi bặm, ai cho gì ăn nấy"
Vania. Tiếng thở dài và ánh mắt của cậu bé "như con chim con non choẹt" không
người chăm sóc ấy làm Andrey rung động. "Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên
trong mắt", Andrey quyết định "không gì có thể chia cắt mình với nó được nữa",
anh nhận nó làm con. Hai con người côi cút, một già một trẻ, hoàn toàn xa lạ,
nương tựa vào nhau trong sự đùm bọc, yêu thương để tiếp tục chống chọi với số
phận. Song số phận vẫn chưa buông tha cho họ.
Ít lâu sau, Andrey lái xe vô tình đâm phải một con bò, vì vậy mà bị tịch thu bằng
lái. Hai bố con lại phải dắt díu nhau sang Kashary với hy vọng "làm thợ mộc
chừng nửa năm, rồi tỉnh họ cấp lại bằng lái xe mới". Vậy là "hai bố con cứ du lịch
khắp nước Nga".
Câu chuyện của Andrey đọng lại ở một nốt trầm đau xót: hầu như đêm nào anh
cũng "chiêm bao thấy những người thân đã quá cố... ở bên kia hàng rào dây thép
gai và chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai thì vợ con lại rời xa, cứ như là vụt
tan biến mất... ban đêm thức giấc thì cứ đầm đìa nước mắt".
Tuy nhiên, truyện ngắn không kết thúc ở nốt trầm bi kịch ấy. Cuối tác phẩm lại tái
hiện cảnh mùa xuân, dòng sông, con đường... Mạch kể chuyển về với âm hưởng sử
thi. Nhìn theo những con người "đã trở thành thân thiết" ấy, người kể chuyện - tác
giả không giữ được vai trò của một người nghe và kể lại khách quan nữa. Cảm
hứng trữ tình không nén được trào lên đầu ngọn bút:
"Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến
tranh thổi bạt tới những miền xa lạ... Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Tự
nhiên tôi muốn nghĩ rằng con người Nga đó là người có ý chí kiên cường không gì
bẻ gãy được, và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi đã lớn lên sẽ có thể đương
đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc
kêu gọi".
Nỗi đau bi kịch không dễ gì nguôi được, song cuộc sống vẫn tiếp tục dòng chảy
của nó và cái chính là phải nghĩ đến tương lai. Cần phải sống và "đừng để những
giọt nước mắt của mình làm tổn thương trái tim em bé".
Số phận của Andrey Sokolov là một số phận bi kịch, nhưng nó không bi kịch hơn
số phận của hàng ngàn, hàng triệu người dân Nga nửa đầu thế kỷ XX. Nỗi đau mất
những người ruột thịt, mất vợ con, mất đi cuộc sống bình yên và những cực hình
mà Andrey phải trải qua trong trại tập trung phát xít được miêu tả như nỗi đau
chung của con người Xô-viết, hay nhân loại trải qua cuộc chiến tranh thế giới
khủng khiếp.
Song Số phận con người không chỉ nói về nỗi đau chiến tranh mà còn nói về sức
mạnh của những con người Xô-viết bình dị trong chiến tranh đã trở thành những
anh hùng. Số phận con người còn là cuộc chiến đấu với số phận của con người nói
chung trong cơn bão táp lịch sử của thế kỷ XX. Đau thương không bẻ gãy được ý
chí và nghị lực sống của con người nhập cuộc.
Ngoài âm hưởng sử thi ở đầu và cuối tác phẩm, cần lưu ý rằng mỗi giai đoạn và sự
kiện dù nhỏ bé trong cuộc đời Andrey Sokolov ứng với một giai đoạn và sự kiện
lớn lao trong lịch sử dân tộc. Có lẽ vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã gọi Số phận
con người là "tiểu anh hùng ca" hay "sử thi ở thể loại nhỏ". Trong chiến tranh,
Andrey Sokolov không có những chiến công kỳ vĩ. Anh chỉ hành động như một
người lính Xô-viết "bình thường". Nhưng làm một người lính Xô-viết bình thường
mà vẫn giữ vững được nhân cách của mình trong hoàn cảnh khốc liệt ấy thực chất
đã phải là một anh hùng, là một cánh chim ưng trong bão tố: phải dũng cảm chiến
đấu, gánh hết, chịu hết, phải giữ vững được tinh thần và danh dự trong mọi hoàn
cảnh, phải biết sống và vượt qua mọi thử thách, đau thương, song quan trọng hơn
cả là phải luôn biết kết nối với người khác trong tình yêu thương: tình cảm gia
đình, tình yêu, tình tiền tuyến – hậu phương, tình đồng đội, tình cảm giữa những
người cùng cảnh ngộ, hay đơn giản chỉ là sự đồng cảm sẻ chia giữa những con
người hoàn toàn xa lạ với nhau - đó là vũ khí của con người nhập cuộc trong cuộc
chiến khốc liệt chống chọi với số phận nghiệt ngã.
Khả năng nghĩ đến người khác nằm sâu trong bản chất của những người Nga Xô-
viết đã giúp Andrey tìm lại được nguồn lực sống sau những mất mát tưởng như
không thể bù đắp được của mình. Nhận bé Vania côi cút làm con nuôi, Andrey tái
lập lại cuộc sống. Không phải vô tình Vania thường được Andrey so sánh với "con
chim sẻ nhỏ". Là một cánh chim ưng, Andrey chăm sóc cho "con chim sẻ nhỏ" ấy,
dìu dắt cho nó biết cất cánh bay. Cuộc sống của anh, tương lai của anh là ở đứa bé
mang cái tên tượng trưng cho người Nga - Ivan[2] - ấy.
M.Gorky từng miêu tả "sự ra đời của con người", M.Sholokhov nói tới "số phận
con người". Bi kịch trải nghiệm nhức nhối không kém nỗi đau sinh thành. Song
con người không bị chìm trong nỗi đau, con người tiếp tục sống và vận động, nói
như L.Tolstoy, "con người là dòng sông". Dòng sông không thể ngừng chảy.
[1] Họ "Sokolov" vốn có gốc từ "socol" trong tiếng Nga có nghĩa là "chim ưng".
[2] Ivan (gọi âu yếm là Vania) - tên gọi phổ biến mang ý nghĩa tượng trưng cho
người Nga.