You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LỊCH SỬ

MÔN HỌC: LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN HIỆN ĐẠI

ĐỀ TÀI
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA MAHAMA GANDHI

MÃ HỌC PHẦN: 2121HIST172203

Nhóm sinh viên thực hiện:


ST
HỌ VÀ TÊN MSSV
T
1 Lâm Võ Thị Thuỷ Tiên 47.01.408.138
2 Đạo Thị Tiến 47.01.608.
3 Đặng Công Tịnh 47.01.608.142
4 Nguyễn Anh Thư 47.01.608.131
5 Huỳnh Thái 47.01.608.
6 Lương Thị Cẩm Thuý 47.01.608.

GV hướng dẫn: Th.S Trần Thị Ngọc Hân


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 7 VÀ BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

NHIỆM
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
VỤ

Tổng hợp
nội dung, hình
1 Lâm Võ Thị Thuỷ Tiên 47.01.408.138 thức bài tiểu luận;
hỗ trợ nội dung
powerpoint.

Nội dung
2 Đạo Thị Tiến 47.01.608. phần hoàn cảnh,
nguyên nhân

Nội dung và
47.01.608.14
3 Đặng Công Tịnh hình thức
2
powerpoint.

Nội dung
4 Nguyễn Anh Thư 47.01.608.131 phần tiểu sử của
Gandi.

Nội dung
5 Huỳnh Thái 47.01.608. diễn biến phong
trào đấu tranh.

Nội dung
phần kết quả, ý
6 Lương Thị Cẩm Thuý 47.01.608.
nghĩa của phong
trào.
Mục lục

MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1................................................................................................................................................... 4
SƠ NÉT VỀ TIỂU SỬ CỦA MAHATMA GANDHI................................................................................................ 4
1.1. GIỚI THIỆU VỀ MOHANDAS.........................................................................................................................4
1.2. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI MOHANDAS GANDHI................................................................................................4
1.3. DI SẢN:.................................................................................................................................................6
CHƯƠNG 2................................................................................................................................................... 7
HOÀN CẢNH, TÌNH HÌNH TẠI ẤN ĐỘ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH CỦA GANDHI............................................7
2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ.......................................................................................................................................7
2.1.1. VỀ CHÍNH TRỊ..............................................................................................................................................7
2.1.2. VỀ VĂN HOÁ, XÃ HỘI VÀ KINH TẾ...................................................................................................................7
2.2. ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA GANDHI................................................................................................................10
CHƯƠNG 3................................................................................................................................................. 12
CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA GANDHI.........................12
3.1. CUỘC ĐẤU TRANH TRONG NHỮNG NĂM 1918 – 1922.......................................................................................12
3.2. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ TRONG NHỮNG NĂM 1924 – 1929.......................................................13
3.3. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ TRONG NHỮNG NĂM 1929 – 1939......................................................13
3.4. ẤN ĐỘ TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)..........................................................14
CHƯƠNG 4................................................................................................................................................. 16
KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA PHONG TRÀO.................................................................................................... 16
4.1. KẾT QUẢ ( THẮNG LỢI, ẤN ĐỘ GIÀNH ĐỘC LẬP).................................................................................................16
4.2. Ý NGHĨA..................................................................................................................................................... 16
KẾT LUẬN................................................................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................. 18
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:

Ngày nay, cả nhân loại chúng ta đề ra sức phản đối chiến tranh, ủng hộ việc
giải quyết các tranh chấp trên cơ sở hoà bình và cùng hợp tác phát triển. Trong những
năm chiến tranh diễn ra trên thế giới, đã có rất nhiều tang thuơng xảy ra do các cuộc
xung đột và chạy đua vũ trang. Hầu hết các phong trào chống lại sự đô hộ, đàn áp bất
công đều sử dụng bạo lực mới có thể đi đến kết quả thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên,
Ấn Độ lại là một quốc gia có cách đấu tranh đặc biệt được lãnh đạo bởi một con người
tài năng – đó là ông Mohandas Gandhi. Ông còn được người dân nơi đây gọi với cái
tên thân thương “vị cha già của dân tộc”.

Trong thế kỷ XX, thế kỷ có nhiều binh lửa, nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và
chết người đã xảy ra cho nhân loại. Nhưng thế kỷ XX cũng chứng kiến sự kiện, hay
đúng hơn phong trào đấu tranh hoàn toàn không sử dụng bạo lực hay khí giới để giành
độc lập cho dân tộc hoặc đòi quyền bình đẳng chủng tộc. Đó là phong trào đấu tranh
bất bạo động mà người đi tiên phong thành công và nổi tiếng nhất là lãnh tụ Mahatma
Gandhi của Ấn Độ. Trong lịch sử hiện đại, đấu tranh bất bạo động đã trở thành một
công cụ mạnh mẽ cho sự phản đối. Mahatma Gandhi đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bất
bạo động kéo dài hàng thập kỷ để chống lại sự đô hộ của Anh ở Ấn Độ và cuối cùng
giúp nước này giành độc lập vào năm 1947.

Chính vì những điều đặc biệt mà phong trào mang lại cũng như những ý nghĩa
và giá trị của nó vẫn còn ồn tại cho đến ngày nay, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã chọn
đề tài “Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Mahatma
Gandhi” để có thể hiểu rõ hơn về cách thức tiến hành phong trào đặc biệt này cũng
như những giá trị hoà bình mà không ai có thể chối bỏ được.

Do có phần hạn chế về kiến thức chuyên môn và nhiều yếu tố khác nên bài
nghiên cứu có thể có thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự góp ý, phản
hồi từ Quý Thầy/ Cô.

Xin trân trọng cảm ơn Quý Thầy/ Cô!


2. Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu về đề tài “Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh
đạo của Mahama Gandhi” trong bài tiểu luận dưới đây của chúng tôi nhằm các mục
đích sau:
- Khái quát tình hình tế giới lúc bấy giờ, nguyên nhân do đâu dẫn dến có phong trào
đấu tranh này.
- Giới thiệu sơ nét về người lãnh đạo phong trào – ông Mahama Gandhi.
- Phân tích diễn biến, từ đó nhận định về ý nghĩa của phong trào này đối với nhân
loại.
- Qua việc tìm hiểu về toàn bộ phong trào, chúng ta có thể hiểu hơn về ý chí con
người về công cuộc đấu tranh để bảo vệ nền độc lập thuộc về mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ dưới sự
lãnh đạo của Mahama Gandhi
- Phạm vi nghiên cứu: Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ
- Lãnh đạo: Mahama Gandhi

4. Phương pháp nghiên cứu:

Để hoàn thành bài tiểu luận này, nhóm nghiên cứu sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.

5. Đóng góp của đề tài:

Việc nghiên cứu đề tài này giúp sinh viên có thêm hiểu biết sâu sắc hơn về tình
hình thế giới lúc bấy giờ nói chung và phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ nói
riêng. Từ đó, sinh viên có cái nhìn khách quan hơn về cuộc đấu tranh này cũng như
những giá trị hoà bình trong bất kì một thời đại nào.

6. Cấu trúc của đề tài:

Bài tiểu luận gồm: 4 chương, cụ thể:

Chương 1: Sơ nét về tiểu sử của Mahatma Gandhi


Chương 2: Hoàn cảnh, tình hình của Ấn Độ
Chương 3: Diễn biến của phong trào
Chương 4: Kết quả, ý nghĩa của phong trào

7. Danh mục hình ảnh:

STT HÌNH ẢNH TRANG


1 Hình 1.1. 4
2 Hình 1.2. 5
3 Hình 1.3. 6
4 Hình 2.1. 8
5 Hình 3.1. 15
NỘI DUNG BÀI TIỂU LUẬN

CHƯƠNG 1

SƠ NÉT VỀ TIỂU SỬ CỦA MAHATMA GANDHI

1.1. Giới thiệu về Mohandas

Tên thật của Mahatma Gandhi là Mohandas Gandhi với tên đầy đủ là Mohandas
Karamchand Gandhi hay các tên gọi khác như: Mahatma (Great Soul), Father of the Nation
(vị cha già của dân tộc), Bapu (“father”), Gandhiji. Ông được biết đến với vai trò lãnh đạo
nhân dân Ấn Độ trong các phong trào đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ. Gandhi sinh ngày
2 tháng 10 năm 1869 tại Porbandar - Ấn Độ và mất ngày 30 tháng 1 năm 1948 tại New Delhi
- Ấn Độ. Người nhà của ông gồm có cha và mẹ ông lần lượt là ông Karamchand và bà
Putlibai Gandhi. Kasturba Kapadia là vợ ông và hai người có với nhau 4 người con là Harilal
Gandhi, Manilal Gandhi, Ramdas Gandhi, Devdas Gandhi. Với học vấn là cử nhân luật tại
Inner Temple tại London, Anh, ông cũng có nhiều tác phẩm được xuất bản như Mohandas K.
Gandhi, Tự truyện: Câu chuyện về những thử nghiệm của tôi với sự thật , Trận chiến của tự
do. Trích dẫn đáng chú ý: "Thước đo thực sự của bất kỳ xã hội nào có thể được tìm thấy
trong cách nó đối xử với những thành viên dễ bị tổn thương nhất.",”Theo tôi hiểu, dân chủ là
trao cho kẻ yếu cơ hội công bằng với kẻ mạnh.”, “ Tự do là không đáng có nếu nó không bao
gồm quyền tự do được phạm sai lầm.”

1.2. Sơ lược về cuộc đời Mohandas Gandhi.

Hình 1.1.Chân dung vị “cha già dân tộc” dũng cảm - Mahatma Gandhi

Mohandas Gandhi sinh ngày 2 tháng 10 năm 1869 tại thành phố Porbandar (Ấn Độ) trong
một gia đình thuộc về Vaisya Varna, nghĩa là một đẳng cấp của những người cho vay tiền và
thương nhân. Anh là con thứ sáu trong gia đình. Gia đình khá giả, cho phép Mohandas có
được một nền giáo dục tốt. Theo luật lệ của tôn giáo của mình, Gandhi đã đính hôn vào năm
7 tuổi và vào năm 13 tuổi thì kết hôn. (“Tiểu sử ngắn Mahatma Gandhi”, n.d.)

Hình 1.2.Chân dung Gandhi và vợ (kết hôn khi mới 13 tuổi)

- Năm 1888, Gandhi được gia đình đưa sang Anh học luật bất chấp nguyện vọng của mình là
được học ngành y để giúp đỡ người nghèo. Lúc đó anh đã có một đứa con trai nhỏ. Trong
thời gian đào tạo, Mohandas bắt đầu làm quen với các sách thánh của Ấn Độ giáo, cũng như
với các tôn giáo thế giới khác.
- Gandhi cũng chấp nhận ăn chay và tham gia Hiệp hội ăn chay ở London do sự giới thiệu
của một đám đông tri thức. Trong lúc đó, ông cũng nghiên cứu về “Bhagavad Gita”, một sử
thi thiêng liêng với người theo đạo Hindu.
- Sau khi tốt nghiệp đại học ở London, Gandhi trở về nước, cố gắng hành nghề luật sư nhưng
lại thiếu kiến thức về luật pháp Ấn Độ và sự tự tin để trở thành người xét xử. Thay vào đó,
ông nhận một vụ án ở Nam Phi.
Gandhi lại rời gia đình và lên đường đến tỉnh Natal do Anh quản lý ở Nam Phi vào tháng 5
năm 1893. Chính tại Nam Phi, nơi được kiểm soát bởi Vương quốc Anh, lần đầu tiên
Gandhi gặp phải nạn phân biệt chủng tộc: ông bị buộc rời khỏi xe ngựa nơi người da trắng
cưỡi ngựa, ông bị đẩy ra khỏi vỉa hè một lần nữa dành cho người da trắng. Sau đó Mohandas
nhận ra rằng một thái độ như vậy ở đây là dành cho tất cả những người da màu. Gandhi bắt
đầu cuộc đấu tranh bảo vệ quyền của người Ấn Độ ở Nam Phi, nơi ông đã tiến hành trong 21
năm, cho đến khi ông đạt được thành công.
- Năm 1915, Gandhi về nước với vốn sống tích lũy được và trở thành người đứng đầu đảng
Quốc đại theo chủ nghĩa dân tộc.
- Năm 1918, Gandhi dẫn dắt người dân Ấn Độ trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Mặc dù,
ông trải qua nhiều đợt tù đày, bảo vệ chân lý trước sự trấn áp dã man của thực dân Anh. Ông
vẫn đứng vững và đã chiến thắng.
- Gandhi đã dùng phương pháp đấu tranh bất tuân dân sự, bất hợp tác với chính quyền thực
dân Anh, tạo ra phong trào đấu tranh bất bạo động rộng khắp cả Ấn Độ dưới hình thức nhiều
cuộc đình công, nghỉ việc để phản kháng. Mahatma Gandhi đã cống hiến hầu hết cuộc đời
của mình vào cống phản ánh mọi hình thức khủng bố bạo lực, gây ảnh hưởng đến các phong
trào đấu tranh bằng hòa bình, phi bạo lực ở Ấn Độ và cả quốc tế. Ông chính là một vị anh
hùng dân tộc có đóng góp vô cùng lớn vào thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập và
giúp Ấn Độ thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân Anh năm 1947.

Hình 1.3. Triết lý Mahatma Gandhi


- Năm 1948, cuộc đời của cha đẻ của dân tộc hồi kết. Ngày 30/01/1948 (17 giờ), Gandhi đi
dạo bộ đến nhà Birla, nơi ông ở tại New Delhi để tham dự buổi cầu nguyện. Sau đó, một đám
đông vây quanh và bắn ba phát súng vào người ông. Kẻ sát nhân là người theo đạo Hindu
quá khích, hắn khai rằng giết Gandhi là do căm ghét ông đã vận động cho sự đoàn kết giữa
người theo đạo Hindu và đạo Hồi.
(Hà Thu, 2022)

1.3. Di sản:

Khái niệm biểu tình bất bạo động của Gandhi đã thu hút những người tổ chức
nhiều cuộc biểu tình và phong trào. Các nhà lãnh đạo dân quyền, đặc biệt là Martin
Luther King Jr. , đã áp dụng mô hình của Gandhi cho các cuộc đấu tranh của chính họ.
Nghiên cứu trong nửa sau của thế kỷ 20 đã xác định Gandhi như một nhà hòa giải
và hòa giải tuyệt vời, giải quyết xung đột giữa các chính trị gia ôn hòa lớn tuổi và cấp tiến
trẻ, những kẻ khủng bố chính trị và nghị sĩ, giới trí thức thành thị và quần chúng nông
thôn, người theo đạo Hindu và đạo Hồi, cũng như người Ấn Độ và người Anh. Ông là
chất xúc tác, nếu không muốn nói là người khởi xướng, của ba cuộc cách mạng lớn của
thế kỷ 20: các phong trào chống chủ nghĩa thực dân, phân biệt chủng tộc và bạo lực.
Những nỗ lực sâu sắc nhất của ông là về mặt tâm linh, nhưng không giống như
nhiều người da đỏ có khát vọng như vậy, ông đã không lui tới một hang động ở Himalaya
để thiền định. Đúng hơn, ông mang theo hang động của mình ở mọi nơi ông đến. Và, ông
đã để lại những suy nghĩ của mình cho hậu thế: Những tác phẩm sưu tầm của ông đã lên
tới 100 tập vào đầu thế kỷ 21.(“Tiểu sử của Mohandas Gandhi, Lãnh tụ Độc lập Ấn
Độ”,2019).

CHƯƠNG 2

HOÀN CẢNH, TÌNH HÌNH TẠI ẤN ĐỘ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH CỦA
GANDHI
2.1. Hoàn cảnh lịch sử

2.1.1. Về chính trị


Thời kì đầu Anh dùng công ti Đông Ấn thay mặt chính phủ Anh toàn quyền cai trị và
bóc lột Ấn Độ. Công ty Đông Ấn là một thứ "nhà nước trá hình trong một hội buôn". Năm
1773, Quốc hội Anh đã bổ nhiệm một viên toàn quyền người Anh trông coi Ấn Độ và từ
những năm 30 của thế ki XIX, chính phủ Anh đã dần khống chế công ti Đông Ấn và đến cuối
thế kỉ XIX thì nắm quyền cai trị trực tiếp Ấn Độ. Sự thống trị của người Anh đã biến triều
đại phong kiến Môgôn trở thành bù nhìn và quyền lực thực tế nằm trong tay viên toàn quyền
người Anh.

Người Anh đã triệt để lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, và các tiểu quốc để
thực hiện chính sách “chia đề trị". Với chính sách dùng người bản xứ đánh người bản xứ,
thực dân Anh đã chú trọng xây dựng lực lượng đội quân người Ấn. Từ 1746, Anh đã thành
lập đội quân người bản xứ Ấn độ đầu tiên và được gọi là “Xipay". Năm1830, đội quân này
lên tới 225000 người.
Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857- 1859), chính quyền Anh xoá bỏ hoàn toàn triều đại
phong kiến Môgôn, giải thể công ty Đông Ấn và trực tiếp cai trị Ân Độ. Thay mặt chính phủ
là một phó vương người Anh với một Hội đồng gồm 5 uỷ viên có chức năng như một chớnh
phủ. Ngày 1.1.1874, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là nữ hoàng Ấn Độ. Như vậy, Ấn Độ
chính thức trở thành một bộ phận trong để quốc Anh. Đề ngăn chặn người Ấn nổi dậy, thực
dân Anh cũng cho tổ chức lại quân đội với thanh phần và vai trò của người Anh trong quân
đội được tăng cường với tỉ lệ từ 1/6 lên 1/2 hoặc 1/3.
2.1.2. Về văn hoá, xã hội và kinh tế
Thực hiện nền văn hoá giáo dục ngu dân nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và bóp
chết nền văn hoá dân tộc Ấn Độ. Họ mở một số trường trung học với tiêu chí là “cải cách
giáo dục" nhưng thực chất là để đào tạo đội ngũ tay sai. Chỉ một số ít con em nhà giàu theo
học để phục vụ cho chính quyền Anh cũn lại đa số người dân Ấn Độ bị mù chữ. Chính phủ
Anh luôn duy trì sự phân chia đẳng cấp để gây mâu thuẫn giữa các tầng lớp giai cấp ở Ấn
Độ, khuyến khích những tập quán cổ xưa phản động của tôn giáo Ấn Độ và tích cực truyền
bá đạo Thiên Chúa vào Ấn Độ. Tất cả mọi hành vi chống đối lại đạo Thiên Chúa đề bị đàn
áp. Như vậy, với chính sách cai trị về văn hoá xã hội như vậy đã dẫn đến hậu quả đưa xã hội
Ấn Độ vào vòng ngu tối và tạo nên một tầng lớp tay sai đắc lực cho chúng để dễ bề cai trị.
Về kinh tế: Ngay từ khi đặt chốn lên Ấn Độ, công ty Đông Ấn đã tiến hành cướp bóc
và của cải ùn ùn chảy về Anh. "Theo tính toán của các nhà kinh tế Ấn Độ, từ 1757 đến 1870,
người Anh đã lấy đi của Ấn Độ một khối lượng tiền, của trị giá 38 triệu bảng Anh". Người
Anh đã bóc lột Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, công thương nghiệp...Cụ
thể:

a) Trong Nông nghiệp:


Người Anh đã đặt ra nhiều chính sách nhằm bóc lột tối đa. Đặc biệt là chính sách
Daminđa được áp dụng vĩnh viễn từ năm 1793. Với chế độ này, người thầu có quyền sử dụng
đất đai thu thuế cũng như đất đai công xã. Tình hình đó đã dẫn đến hậu quả thủ tiêu các quan
hệ ruộng đất và quyền thừa kế nuộng đất trong các công xã nông thôn Ấn Độ.
Các Daminda trở thành những địa chủ mới với quyền hành phong kiến trước kia.
Trong số thuế thu được thì phải nộp cho Anh đến 9/10 nên để có thêm cho mình các
Đaminda phải tăng cường bóc lột nhân dân.
Chính sách bóc lột của Anh đã dẫn đến hậu quả người nông dân Ấn độ ngày càng điều
đứng. Kết quả của sự bóc lột đó là 26 triệu người chết đói trong 25 năm cuối của thế kỉ XIX.

Hình 2.1. Minh chứng tố


cáo chế độ thuộc địa của thực dân Anh.

b) Trong công thương nghiệp:


Chính phủ Anh dùng mọi biện pháp để vơ vét bóc lột nguyên liệu tiền của phục vụ
cho nền công nghiệp Anh, biến Ấn độ thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho công nghiệp Anh.
Bông thô, lông cừu ở Ấn Độ nối nhau chảy về Anh giúp cho cuộc cách mạng công nghiệp ở
nước này, để rồi máy móc Anh lại biến nó thành vải đưa trở lại Ấn Độ. Ngành dệt vải có
tiếng của Ấn Độ đã bị bóp chết, hàng vạn thợ thủ công bị phá sản.

c) Tài chính
Tài chính của Ấn Độ cũng hoàn toàn lệ thuộc Anh. Ngân hàng Luôn Đôn cho Chính
phủ Anh ở Ấn Độ vay từ 4 triệu bảng lên 133 triệu trong nửa sau thế kỉ XIX. Số tiền đó thực
dân Anh tập trung vào đầu tư ở các linh vực cơ sở hạ tầng, xí nghiệp chế biến.. Năm 1848-
1849, Anh bắt đầu xây dựng hệ thống đường sắt và đường bộ. Xây dựng nhà máy dệt ở
Bombay, nhà máy đay ở Băng gan, ....Thực chất đây không phải là Anh đầu tư phát triển
công nghiệp Ân Độ mà mục đích chính là để tạo điều kiện vật chất nhằm mở rộng khai thác
nguồn tài nguyên giàu có của đất nước này. Chính sách khai thác của thực dân Anh đã làm
cho xã hội Ấn Độ có chuyển biến mạnh mẽ. Đó là sự phân hoá giai cấp trong xã hội ngày
căng sâu sắc, cơ cấu giai cấp thay đổi.
Bộ phận phong kiến cũ do chế độ Daminda của thực dân Anh đã cam tâm tình nguyện
làm tay sai cho thực dân Anh, là đồng minh và là chỗ dựa cho chính quyền thực dân. Nhưng
trong số đó cũng có một số bộ phận phong kiến do bị mất đất mất ruộng đã đứng dậy lãnh
đạo nhân dân đứng lên chống thực dân Anh. Nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội Ấn Độ mâu thuẫn sâu sắc với thực dân Anh bởi bị bóc lột nặng nề, đời sống điều đứng.
Họ muốn lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi thực dân xâm lược.
d) Các ngành khác
Chính sách đầu tư vào lĩnh vực khai thác công nghiệp của tư bản Anh đã dẫn đến đội
ngũ công nhân thuộc địa ngày càng đông đảo và sống tập trung. Các nhà máy càng nhiều số
công nhân càng tăng. Đầu thế kỉ XX, Ấn độ đã có tới 161.000 công nhân. Công nhân bị bóc
lột nặng nề và sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống chính quyền thực dân. Bên cạnh giai cấp
vô sản, ở Ấn Độ do chính sách đầu tư khai thác của Anh cũng làm xuất hiện thêm giai cấp
mới là tư sản. Tư sản Ấn Độ phần lớn xuất thân từ các địa chủ, người cho vay nặng lãi,
thương gia và các vương công. Giai cấp tư sản Ân Độ ra đời và trưởng thành trong hoàn cảnh
không mấy thuận lợi trừ tầng lớp đại tư sản công nghiệp ra đời từ những kẻ cho vay lời, tư
sản mại bản có găn bó chặt chẽ với bọn thực dân hay một bộ phận tư sản khác bỏ vốn kinh
doanh ruộng đất nên có liên hệ chặt chẽ với tầng lớp Daminda. Nói chung, giai cấp tư sản
Ấn Độ bị thực dân Anh chèn ép, họ muốn được tự do kinh doanh và phát triển văn hoá dân
tộc, họ bất bình với chính quyền thực dân. Giai cấp tiểu tư sản cũng nhanh chóng phát triển
do nhu cầu cai trị của thực dân. Tầng lớp này hướng về nền giáo dục phương Tây nên họ
nhanh chóng tiếp thu các giá trị tinh thần của phương Tây. Như vậy, với sự biến đổi của xã
hội Ấn Độ đã làm xuất hiện những mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn giữa tư sản Ấn Độ với vô sản
Ấn Độ, giữa tư sản Ấn Độ với tư sản Anh, giữa tiểu tư sản và chính quyền thực dân, giữa
nhân dân với địa chủ và chính quyền thực dân..và trước hết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Ấn Độ với đế quốc Anh. Mâu thuẫn này ngày căng phát triển và thành nguyên nhân bùng
nổ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Ân Độ.
e) Hậu quả

          Nền thống trị của Anh ở Ấn Độ, một mặt làm cho đời sống nhân dân ngày càng
trở nên bần cùng, song mặt khác, nó đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong xã hội Ấn Độ .
Kinh tế  tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào các cộng đồng, liên kết người dân Ấn Độ thành một
khối trong ý thức dân tộc, giai cấp tư sản Ấn Độ  ngày càng lớn mạnh, vươn lên lãnh đạo
cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc thông qua chính đảng của nó - Đảng Quốc Đại. Cuộc đấu
tranh của nhân dân Ấn Độ càng trở nên mạnh mẽ hơn kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất.

          Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Anh đã tìm mọi cách huy động
sức người, sức của của Ấn Độ nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc của chúng. Chúng
đã cướp đi của nhân dân Ấn Độ  36 triệu tấn trang thiết bị vật tư các loại, 5 triệu tấn lương
thực và 1,5 triệu người. Điều này làm cho đời sống người dân càng trở nên cùng cực. Trong
những năm 1918 -1919 hơn 12 triệu người Ấn Độ bị chết đói.

          Mặt khác, để bòi rút tối đa của cải ở Ấn Độ và giữ Ấn Độ trong trại thái an toàn,
thực dân Anh đã đưa ra những nhượng bộ chính trị và kinh tế cho tư sản Ấn Độ. Lợi dụng
hoàn cảnh này, tư sản Ấn Độ đã tăng cường sức mạnh trong những năm chiến tranh. Cùng
với quá trình đó số lượng công nhân Ấn Độ cũng tăng lên. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất số lượng công nhân chưa đến 1 triệu người, sau chiến tranh đã tăng lên 2,5 triệu người.

          Trong lúc những mâu thuẫn gay gắt của xã hội Ấn Độ đang diễn ra, cuộc Cách
mạng tháng Mười Nga nổ ra đã làm cho thực dân Anh lo sợ. Một mặt chúng tìm cách trấn áp
những người yêu nước bằng cách thông qua đạo luật Râulét vào tháng 3 năm 1919, mặt khác
chúng tìm cách thoả hiệp với các giai cấp tư sản và địa chủ Ấn Độ bằng cách đưa ra cải cách
Môntagu - Tremmơsphod hòng ổn định cục diện chính trị ở Ấn Độ. Tuy nhiên, ở Ấn Độ đã
bùng nổ một phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất kể từ sau 1905, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Quốc Đại, theo đường lối của M.Ganđi.

2.2. Đường lối lãnh đạo của Gandhi


Mahatma Gandhi lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc của người dân Ấn
Độ để giành độc lập khỏi Anh và có tác động rất lớn đến các phong trào hòa bình
quốc tế.
Trở lại Nam Phi, Gandhi đã phát triển một chiến thuật đấu tranh bất bạo
động được gọi là Satyagraha, dựa trên các nguyên tắc của lòng can đảm, sự thật và
bất bạo động. Gandhi tin rằng cách để đạt được các mục tiêu chính trị và xã hội
quan trọng hơn nhiều so với kết quả. Satyagraha cũng thúc đẩy bất bạo động và bất
tuân dân sự là cách tốt nhất để giải quyết bất kỳ xung đột. (“Tiểu sử ngắn
Mahatma Gandhi”, n.d.)

Theo Gandhi, người Ấn Độ cần sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo lực, vì:”nếu
chúng ta đối xử với người Anh một cách công bằng và hợp lý, thì ngày giải phóng đất nước
Ấn Độ chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù nghịch, thì ngày đó chưa biết
đến bao giờ”, vả lại “bản ngã của con người là sự ôn hòa, mực thước” và “người Ấn Độ còn
nhiều sứ mệnh cao cả phải theo đuổi chứ đâu chỉ có mục đích trừng trị những kẻ độc ác trên
trái đất này”, hơn nữa “tôn giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để lòng
nhân lên trên lòng yêu nước của tôi”.

Bên cạnh tư tưởng bất bạo lực, Gandhi đã đề ra tư tưởng “bất hợp tác” và xem đó là
một trong những biện pháp đảm bảo sự thắng lợi của cuộc đấu tranh. Ông nói: “Ai giữ đất
Ấn trong tay người Anh? Chính là chúng ta, chúng ta thích sự tiện lợi của nền văn minh máy
móc người Anh mang đến. Chúng ta hám lợi mà buôn bán với họ”. Theo ông, ”người Ấn
không thể chống lại người Anh về phương diện này, mà còn hợp tác với họ về phương diện
kia”,”Tẩy chay hàng hóa của người Anh chưa đủ, mà còn tẩy chay cả các học đường, các tòa
án, các công sở, tư sở, các huy chương khen tặng của người Anh; tóm lại, bất hợp tác trong
tất cả mọi ngành”. Bởi vì “phòng trào bất hợp tác không có tính cách đấu tranh như hội họp
và kích thích dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra đổ máu được”.

Để đảm bảo cho công cuộc giải phóng Ấn Độ theo đường lối “bất hợp tác trong bất
bạo lực”, Gandhi chủ trương tiến hành đoàn kết các lực lượng dân tộc. Ông luôn đấu tranh
cho sự hòa hợp dân tộc, đặc biệt là vấn đề đẳng cấp và tôn giáo.

Học thuyết của Gandhi về bất bạo lực thể hiện tính chất phức tạp và hai mặt trong lập
trường của tư sản Ấn Độ. Một mặt tư sản Ấn Độ muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào tư bản Anh
nên ban đầu huy động quần chúng đấu tranh, mặt khác tư sản Ấn Độ không muốn quyền lợi
của mình bị đe dọa nên họ đã hạn chế cuộc đấu tranh này trong phạm vi bất bạo lực. Tuy
nhiên, trong xã hội mà sự phân chia đẳng cấp và tôn giáo cùng với ách thống trị thực dân đã
làm mờ đi những mâu thuẫn về giai cấp thì đường lối của Gandhi đã dược chấp nhận. Ông là
người tiến hành “Tổng kết hệ thống quan điểm triết học và đường lối chính trị, xã hội tư sản
Ấn Độ” và được toàn thể nhân dân gọi bằng cái tên triều mến Mahatma (Great soul – tâm
hồn vĩ đại.
Chương 3

CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ DƯỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA GANDHI

3.1. Cuộc đấu tranh trong những năm 1918 – 1922

Trong những năm 1918 – 1922, nhân dân Ấn Độ đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh
chống thực dân Anh. Rất nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân đã diễn ra với hàng chục
ngàn người tham gia và kéo dài trong nhiều tháng liền và dần dần lan rộng ra khắp cả nước.
Từ các cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đã lan rộng và phát triển mạnh mẽ với sự
tham gia của nhiều tầng lớp khác nhau như cư dân thành thị và các khu vực nông thôn lân
cận. Ngày 30 tháng 3 năm 1919 và ngày 6 tháng 4 năm 1919 cư dân ở các thành phố đã tiến
hành hartan (hay còn gọi là hartal – có nghĩa là cửa hiệu. Đây là một hình thức bãi công đặc
biệt, đình chỉ tất cả mọi hoạt động). Ngoài ra, trong quá trình đấu tranh, tình đoàn kết của
người Ấn và người Hồi cũng dược thắt chặt hơn.

Bên cạnh đó, các phong trào nông dân cũng diễn ra sôi nổi chống lại bọn địa chủ
phong kiến và đế quốc Anh. Có thể thấy rằng, đây là phong trào có sự tham gia của đông đảo
các tầng lớp, không chỉ có công nhân đến nông dân, thậm chí những người buôn bán hay
những người theo đạo đơn thuần cũng tham gia phong trào.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào trong những năm này, thực dân Anh
đã tiến hành đàn áp dã man. Cụ thể, vào ngày 13 tháng 4 năm 1919, quân đội đã xả súng vào
một đám đông đang biểu tình tại Amritsa, làm cho 2.000 người bị thương và gây ra cái chết
cho khoảng 1.000 người. Sự kiện này đã thúc đẩy tinh thần đấu tranh của người Ấn Độ, sau
đó, các phong trào đấu tranh cũng diễn ra mạnh mẽ hơn và lan rộng ra các thành phố khác
như Bombay, Cancuta, Pengiap,… Các cuộc vận động bất hợp tác được triển khai trong toàn
quốc. Do không còn có thể khống chế được nữa nên năm 1921, chính quyền thực dân Anh đã
bắt các nhà lãnh đạo nổi tiếng của Đảng Quốc đại trừ Gandhi. Tuy nhiên sau đó, phong trào
đấu tranh của quần chúng vẫn phát triển và đạt đến đỉnh cao. Quy mô của phong trào đã có
lúc đạt đến 200 cuộc bãi công với 1,5 triệu người tham gia trong nửa đầu năm 1920.

Đầu tháng 2 năm 1922, nhân dân Sauri – Saura đã phần nộ trước việc cảnh sát nổ súng
vào đoàn biểu tình nên đã tấn công đồn cảnh sát, giết chết 22 tên. Điều đó cho thấy rằng đây
đã là một hành động vượt ra khỏi phạm vi và tinh thần của phong trào cho Gandhi đề ra.
Trước tình hình đó, ngày 12 tháng 2 năm 1922, Gandhi đã triệu tập Hội nghị ban chấp hành
Đảng Quốc đại ở Bácđôli và quyết định đình chỉ phong trào “bất hợp tác”, thay vào đó là một
chương trình “Xây dựng” mang tính chất ôn hoà hơn. Quyết định này nhanh chóng làm cho
phong trào mất nhiệt nhanh chóng. Phải mất đến 6 năm, phong trào đấu tranh của nhân dân
đất nước này mới phát triển trở lại.
3.2. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1924 – 1929

Sau nghị quyết Bácđôli, thực dân Anh càng tăng cường những chính sách đàn áp
phong trào đấu tranh, tồi tệ hơn là tháng 3 năm 1922, Gandhi bị kết án 6 tháng tù giam. Cùng
với sự tăng cường đàn áp, thực dân Anh cũng đề ra các chính sách nhằm chia rẽ các dân tộc,
gây ra sự thù hằn giữa các tôn giáo, kích động để gây ra nhưngc cuộc xung đột giữa người
Ấn và người Hồi vào năm 1925 nhằm bẻ gãy tình đoàn kết mà họ đã xây dựng từ các phong
trào đấu tranh trước đó.
Do có nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng trong Đảng Quốc đại Ấn Độ bị bắt nên lúc bấy
giờ, uy tín của tổ chức này cũng bị giảm sút đáng kể trong quần chúng nhân dân. Đến năm
1924, số lượng đảng viên đã giảm đi rất nhiều. Trước tình hình đó, Đảng Quốc đại thực hiện
“chương trình xây dựng” do Gandhi đề ra, kêu gọi nhân dân tiếp tục tham gia sản xuất và
khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống, phòng chống các tệ nạn xã hội (thuốc
phiện, rượu). Đến năm 1925, hội những người kéo sợi do Gandhi đứng đầu với mục đích
truyền bá tư tưởng của ông trong nhân dân, góp phần đấu tranh bài trừ hàng hoá nước ngoài
nhằm giúp người lao động thoát khỏi sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào tuy có
phần kém sôi nổi hơn so với trước nhưng đây lại là sự chuẩn bị kĩ lưỡng về lực lượng cho các
cuộc đấu tranh sau này.

Từ đó, những nhóm cộng sản đầu tiên xuất hiện vào năm 1922, các nhóm này đã
chuyển sang hoạt động bí mật tại Ấn Độ và truyền bá các tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Năm 1923, nhóm những người cộng sản ở Bombay xuất bản tạo chí “Người xã hội
chủ nghĩa” . Trong quá trình đấu tranh của phong trào công nhân trong thời kì này, công
nhân Bombay đã dẫn đầu phong trào. Tính đến năm 1925, số người công nhân Bombay
chiếm 51% trong tổng số các cuộc bãi công trong toàn quốc. Cũng trong năm này, các cuộc
bãi công của công nhân đường xe lửa Tây Bắc Ấn Độ. Năm 1926, công nhân đường sắt
Bagan – Nátpua cũng tổ chức một cuộc bãi công. Từ năm 1927, phong trào đấu tranh của
nhân dân Ấn Độ đã lan rộng và sau đó, năm 1928, phong trào đã phát triển.Tiêu biểu có thể
kể đến là cuộc đấu tranh đòi giảm tô, giảm thuế của 8 vạn nông dân vùng Bắcđôli thuộc tính
Bombay. Các phong trào này phát triển đến mức nhiều trong nhiều cuộc, chính quyền thực
dân phải cử quân đội để đàn áp. Có thể thấy rằng, sau khi có sự chuẩn bị về tư tưởng thì các
phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Điều này đã có tác động rất lớn buộc
chính quyền thực dân phần nào phải xem xét nhượng bộ.

3.3. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929 – 1939

Năm 1930, M. Gandhi đã yêu cầu thực dân Anh phải bỏ chính sách độc quyền về
muối. Chính quyền Anh đã bác bỏ và điều này khiến Gandhi phải phát động một chiến dịch
“phản kháng bất bạo lực” mới là “chiến dịch đi lấy muối” vào tháng 2 năm 1930. Tiếp đó,
những hành động phản đối mà Gandhi và những người ủng hộ ông là đã đi bộ 240m dọc bờ
biển. Tại đây, họ tự làm muối cho mình bằng cách múc nước biển lên và để nó bốc hơi.
Phong trào mang đậm tính hoà bình này còn được gọi là The Salt March. Sau đó, những cuộc
đấu tranh chống thuế muối lại diễn ra mạnh mẽ trên khắp đất nước Ấn Độ và được nhân dân
Ấn Độ hết sức ủng hộ. Điều này làm cho thực dân Anh hết sức lo sợ và đến tháng 5 năm
1930, có đến 60.000 người bị bắt trong đó có cả Gandhi.
Sự việc trên chỉ làm cho phong trào quần chúng ở Ấn Độ phát triển mạnh mẽ và quyết
liệt hơn. Trước sự páht triển mạnh mẽ của các phong trào, ngày 26 tháng 1 năm 1931, thực
dân Anh vội thả Gandhi và một số nhà lãnh đạo khác của Đảng Quốc Đại. Sau khi không đạt
được một kết quả nào từ “hội nghị bàn tròn” ở London nhằm thảo luận một bản dự thảo Hiến
pháp mới cho Ấn Độ , tháng 1 năm 1932, Gandhi về nước và tuyên bố phát động một phong
trào bất hợp tác mới trên toàn quốc. Đến cuối năm 1932 thì phong trào kết thúc do sự đàn áp
có quy mô từ phía chính quyền thực dân và quy mô của phong trào cũng không rộng lớn như
các phong trào năm 1930.

Từ đây, các phong trào công nhân Ấn Độ đã được củng cố qua các cuọc đấu tranh
trước. Các tổ chức cộng sản nhỏ cũng tăng cường các hoạt động chung và dần dần hợp nhất
với nhau, thành lập ra Đảng Cộng sản Ấn Độ và cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời
của Đảng vào tháng 11 năm 1933. Những hoạt động ban đầu của Đảng Cộng sản Ấn Độ đã
gặp rất nhiều khó khăn. Tháng 7 năm 1934, Đảng Cộng sản Ấn Độ bị đặt ngoài vòng pháp
luật và mãi đến năm 1943, Đảng mới có thể tiến hành Đại hội lần thứ nhất.

Năm 1933, Nghị viện Anh thông qua một đạo luật mới về việc cai trị Ấn Độ. Đến năm
1935, đạo luật này được công bố với nhân dân Ấn Độ với tên gọi là “Hiến pháp mới”. “Hiến
pháp mới” này đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong nhân dân Ấn Độ do đây là
một đạo luật không thừa nhận quyền tự trị của nhân dân Ấn Độ.

Phong trào phản đối bản "Hiến pháp nô dịch” đã đoàn kết được tất cả các lực lượng
chính trị thành một mặt trận thống nhất trên thực tế. Biểu hiện rõ nhất là cuộc mít tinh của
nhân dân Bombay để phản đối "Hiến pháp mới”, tổ chức ngày 7 tháng 2 năm 1935. Tháng 4
năm 1936, Đại hội Tổng nông hội toàn quốc họp tại Lắcnao, kết án "Hiến pháp mới” và kêu
gọi nông dân toàn quốc đoàn kết với các lực lượng tiến bộ đấu tranh chống thực dân. Tháng
5 năm 1936, tổng công hội  Ấn Độ  cũng tiến hành đại hội và ra Nghị quyết thành lập Mặt
trận dân tộc thống nhất, chủ trương hợp tác với Đảng Quốc Đại. Chính trong thời kỳ này
Đảng Cộng sản  Ấn Độ  đã tích cực tuyên truyền và tổ chức cho sự hình thành Mặt trận thống
nhất chống đế quốc. Do vậy phong trào công nhân  phát triển rất mạnh mẽ. Trong những năm
trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm ở  Ấn Độ  có gần 400 vụ đình công, thu hút từ
40 đến 50 vạn công nhân tham gia, trong số đó có khoảng 1/2 các cuộc đình công kết thúc
thắng lợi.

3.4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

          Tháng 9 năm 1939, chính phủ Anh tự ý tuyên bố Ấn Độ là một nước tham chiến
với Anh. Khắp cả nước nhân dân đấu tranh đòi thành lập một chính phủ quốc gia Ấn Độ.
Thực dân Anh đáp lại bằng cách đưa nửa triệu quân sang Ấn Độ.Tình hình Ấn Độ trở nên hết
sức căng thẳng . Chỉ tính riêng vùng Bengan đã có gần 4 triệu người chết đói. Và vì điều đó
mà Gandhi đã soạn ra bản thảo Quit India( Ngưng Ấn Độ) đòi Anh rút ra Ấn Độ lập tức.

      Năm 1940, các lãnh tụ Liên đoàn Hồi giáo đòi chia cắt Ấn Độ ra thành hai quốc
gia, một cho người Hồi giáo và một cho người theo Ấn Độ giáo. Được chính quyền thực dân
hậu thuẫn, Liên đoàn Hồi giáo ra sức lôi kéo đông đảo người Hồi về phía mình.
          Cũng như trong những năm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tư sản Ấn Độ lợi
dụng tình hình và phát triển nhanh chóng. Tháng 8 năm 1942, Đảng Quốc Đại một lần nữa
đòi thành lập chính phủ quốc gia Ấn Độ. Để đối phó, chính quyền thực dân tăng cường chính
sách đàn áp bằng vũ lực. Nhiều lãnh tụ Đảng Quốc đại bị bắt, trong đó có G.Ganđi, G.Nêru,
Abun Kalam Adát ... Sau đó sự phản đối của nhân dân cũng bị đàn áp dã man. Mặc dù vậy,
những lực lượng dân chủ và tiến bộ trong nước ngày càng lớn mạnh trong những năm chiến
tranh:Tổng Công hội toàn quốc đã củng cố được ảnh hưởng của mình trong giai cấp công
nhân; các tổ chức nông dan cũng không ngừng phát triển.

Năm 1942, Đảng Cộng sản Ấn Độ ra họat động công khai và sử dụng hình thức hợp
pháp để mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng. Năm 1943, Đảng Cộng sản Ấn Độ
đã tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức của giới trí thức tiến bộ cũng
xuất hiện và phát triển mạnh mẽ như: Hội liên hiệp sinh viên và học sinh toàn quốc,Hội các
nhà văn tiến bộ, Hội các nhà nghệ sỹ sân khấu...

      Có thể dễ dàng nhận thấy rằng phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong
những năm Chiến tranh thế giới thứ hai được tiến hành với mục tiêu chủ yếu là đòi thành lập
một chính phủ quốc gia ở Ấn Độ. Dù rằng những kết quả cụ thể còn bị hạn chế bởi các chính
sách của thực dân Anh cũng như sự rạn nứt trong quan hệ giữa Đảng Quốc Đại và Liên đoàn
Hội giáo, tuy nhiên đây là giai đoạn để nhân dân Ấn Độ chuẩn bị lực lượng để tiến sang một
giai đoạn mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong những năm 1945-1947. Và vào đúng ngày
15/08/1947 Ấn Độ chính thức được độc lập.

Hình 3.1.
Chương 4

KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA PHONG TRÀO

4.1. Kết quả ( thắng lợi, Ấn Độ giành độc lập)

Năm 1945, Gandhi và những người theo ông bắt đầu phát biểu tại các cuộc mít tinh
và kêu gọi một cuộc chiến chống lại sự áp bức của Anh. Nhưng cuộc đấu tranh này chỉ bị
giới hạn bởi các hình thức phi bạo lực, Gandhi lên án bất kỳ biểu hiện xâm lược nào. Bằng ví
dụ cá nhân, ông đã chứng minh cho đồng bào rằng có thể giải quyết mọi vấn đề phức tạp một
cách hòa bình. Năm 1947 (sau 5 năm kiên trì), thực dân Anh sụp đổ trước quyết tâm sắt đá
dưới sự lãnh đạo của Gandhi và đảng Quốc đại, buộc phải thừa nhận nền độc lập cho Ấn Độ.
Gandhi đã dẫn dắt cuộc kháng chiến của nhân dân Ấn Độ giành được độc lập, thoát khỏi sự
thống trị của thực dân Anh tàn bạo, áp bực.

4.2. Ý nghĩa

- Tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ, thể hiện tinh thần
yêu nước chống giặc ngoại xâm, đánh dấu thời kì đấu tranh mới của nhân dân Ấn Độ.
- Hoà chung vào trào lưu dân tộc, dân chủ của nhiều nước Châu Á trong những năm
đầu thế kỷ XX, góp phần thức tỉnh các dân tộc khác ở châu Á tiến hành đấu tranh cách mạng
chống chủ nghĩa thực dân.
- Đánh dấu thời kì đấu tranh mới mang đậm ý thức dân tộc, lần đầu tiên giai cấp công
nhân Ấn Độ tham gia vào phong trào dân tộc.
- Phong trào diễn ra sôi động và lan rộng trong cả nước, liên kết được tất cả các lực
lượng chính trị thành một Mặt trận thống nhất trên thực tế.
- Góp phần thúc đẩy làn sóng đấu tranh chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ.
- Tạo tiền đề cho các phong trào đấu tranh dân chủ, cải cách xã hội sau này
- Góp phần thức tỉnh nhân dân Ấn Độ và hòa chung vào phong trào đấu tranh trên thế
giới.
KẾT LUẬN

Nội dung bài tiểu luận vừa rồi cho chúng ta một cái nhìn khái quát về tình hình
Ấn Độ lúc bấy giờ dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân anh trên nhiều lĩnh vực đời
sống. Đồng thời cũng cho ta một cái nhìn hoàn toàn mới với một cách thức đấu tranh
tuy nhẹ nhàng nhưng cũng rất kiên quyết cũng như sự hi sinh của Mahatma Ganhdi
đối với người dân và đất nước Ấn Độ khi ông đã lãnh đạo dân tộc này đi đến thắng lợi
cuối cùng đó là giành được độc lập bằng phương thức hoà bình. Mặc dù đã trải qua
nhiều năm và Ấn Độ cũng là một quốc gia phát triển trên thế giới (Theo nguồn Thông
tấn xã Việt Nam, báo Tuổi trẻ online) nhưng những giá trị cốt lõi của các cuộc đấu
tranh vì hoà bình của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo và đường lối của Gandhi chưa
bao giờ phai nhạt đi. Nền hoà bình chính là thứ quý giá nhất đối với mỗi quốc gia, dân
tộc.
Tóm lại, thông qua bài tiểu luận với đề tài “Phong trào đấu tranh của nhân
dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi”, ta có thể thấy rằng, để đạt
được một nền hoà bình, độc lập như Ấn Độ ngày nay không phải là một điều dễ dàng.
Nhiều cuộc đấu tranh đã diễn ra trong suốt nhiều năm liền cho thấy ý chí và khao khát
hoà bình của dân tộc này. Nhưng điểm đặc biệt ở các cuộc đấu tranh tại Ấn Độ mà
hầu như rất ít các dân tộc nào khác trên thế giới có thể làm được đó là sự kiên trì với
chủ trương “bất bạo lực” mà Gandhi đề ra. Cho thấy đây là một phương pháp vừa đấu
tranh, vừa kêu gọi các nước sử dụng phương pháp hoà bình nhằm giải quyết các xung
đột.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Thu, T.(2022, ngày 29 tháng 1). Tiểu sử Mahatma Gandhi: Vị cha già dân
tộc dũng cảm của người Ấn Độ. Truy xuất từ: https://sidoni.net/tieu-su-
mahatma-gandhi-vi-cha-gia-dan-toc-dung-cam-cua-nguoi-dan-an-do-
s12659.html
2. Tiểu sử ngắn Mahatma Gandhi. (n.d.). Truy xuất từ: vi.brieffacts.org/mahatma-
gandi-kratkaya-biografiya_default.htm

3. Tiểu sử của Mohandas Gandhi, Lãnh tụ Độc lập Ấn Độ. (2019). Truy xuất từ:
https://www.greelane.com/vi/nh%C3%A2n-v%C4%83n/l%E1%BB%8Bch-s
%E1%BB%AD--v%C4%83n-h%C3%B3a/mohandas-gandhi-1779849/

4. Vũ Ngọc Thanh. Đại học sư phạm Hà Nội. Ấn Độ - Cuộc Đấu Tranh giành độc
lập 1918-19445. Truy xuất từ:
http://dhsphn.edu.vn/directories/Science.aspx?
username=thanhvn&science=142
5. Báo Tuổi trẻ online. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam. (19/02/2020). Ấn Độ trở
thành nên kinh tế lớn thứ 5 thế giới. Truy xuất từ: https://tuoitre.vn/an-do-tro-
thanh-nen-kinh-te-lon-thu-5-the-gioi-20200219152059993.htm

6. Nguyễn Anh Thái. (2021). Lịch sử thế giới hiện đại. Hà Nội: NXB Giáo dục

7. Holt, Rinehart and Wisnon.(2005). World Histrory – the human journey.


Nationalist Movement Around the World (1898 – 1938) (pp. 758 – 760). A
Harcourt Education Company

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Lịch sử lớp 11. Hà Nội: NXB

You might also like