You are on page 1of 47

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM


KHOA NGỮ VĂN


HÌNH TƯỢNG
CON NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY
NHÓM 8
Học phần: Văn học hiện đại Việt Nam III
Giảng viên: TS. Phạm Thị Thuỳ Trang

TP.HCM, ngày 21 tháng 10 năm 2020


BẢNG PHÂN CÔNG

GHI
STT MSSV HỌ TÊN NHIỆM VỤ
CHÚ
Kha Khánh Duy Phân tích “Cánh đồng bất 100%
1 44.01.606.061
(Nhóm trưởng) tận”, tiểu mục 1.1-1.3
Phân tích “Sắm vai” và 100%
2 44.01.606.076 Trần Thị Thu Hiền “Mẹ con chị Hằng”, tiểu
mục 3.3, tổng hợp Word
Phân tích “Không có vua” 100%
3 44.01.606.083 Phan Ngọc Hương
và “Chảy đi sông ơi”
100%
4 44.01.606.072 Trần Thị Ngọc Hân Tiểu mục 3.1, 3.2

Nguyễn Thị Sao Mai Phân tích “Huyền thoại phố 100%
5 42.01.606.002
Anh phường”
MỤC LỤC
Chương 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM SAU NĂM
1975............................................................................................................1
1.1. Một thời kì đổi mới trong văn học.......................................................1
1.2. Những chuyển biến về mặt xã hội, văn hoá và tư tưởng.....................2
1.3. Sự đổi mới về văn học.........................................................................4
1.4. Về các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Ngọc Tư và một số tác phẩm......................................................................5
1.4.1. Tác giả Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Sắm vai” và “Mẹ con
chị Hằng”....................................................................................................5
1.4.2. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm “Chảy đi sông ơi”,
“Không có Vua” và “Huyền thoại phố”......................................................7
1.4.3. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư với tác phẩm “Cánh đồng bất tận”.........9
Chương 2. BIỂU HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI ĐỜI
THƯỜNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975.....................12
2.1. Truyện ngắn “Sắm vai” và “Mẹ con chị Hằng” của Nguyễn Minh
Châu..........................................................................................................12
2.2. Truyện ngắn “Chảy đi sông ơi”, “Đời thế mà vui” và “Huyền thoại
phố phường” của Nguyễn Huy Thiệp.......................................................20
2.3. Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.................28
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
ĐỜI THƯỜNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975.............32
3.1. Đặc điểm nội dung hình tượng..........................................................32
3.1.1. Con người đa nhân cách.................................................................32
3.1.2. Con người với chiều sâu nội tâm, tự nhận thức..............................33
3.1.3. Con người đứng trước nguy cơ tha hoá..........................................34
3.1.4. Con người trên hành trình kiếm tìm...............................................36
3.2. Đặc điẻm nghệ thuật hình tượng.......................................................37
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả nội tâm............................................................37
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách.......................................................37
3.3. Lý giải đặc điểm chung.....................................................................38
3.3.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội................................................................38
3.3.2. Đặc điểm văn học giai đoạn sau năn 1975 đến nay........................40
TỔNG KẾT.............................................................................................42
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................43
1

Chương 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT


NAM SAU NĂM 1975
1.1. Một thời kì đổi mới trong văn học
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước kéo dài hơn 30 năm đã đi
qua, từng lớp người đã không tiếc thân mình ngã xuống vì độc lập tự do
của dân tộc. Công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã kết
thúc bằng thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm
1975. Đất nước thống nhất hai miền đã mở ra nhiều cơ hội để phát triển
song cũng đương đầu với rất nhiều khó khăn bởi nước ta còn nghèo lại
vừa trải qua sự tàn phá nặng nề của chiến tranh. Chiến tranh đã tàn phá
hầu hết các tuyến đường giao thông trọng điểm giữa hai miền Nam Bắc,
nhiều thôn xóm, làng mạc bị thiêu rụi. Chất độc hóa học điôxin và lượng
lớn bom đạn mà Mĩ gieo xuống Việt Nam đã để lại những di chứng vô
cùng thương tâm cho thế hệ sau. Môi trường bị tàn phá nặng nề, ruộng
đất không thể cày cấy khiến đời sống nhân dân lâm vào cực khổ. Hơn 20
năm đất nước bị chia cắt, không những con người bị chia cắt mà về mặt
kinh tế, văn hóa, đời sống của nhân dân cũng có nhiều cách biệt. Nền
kinh tế dậm chân tại chỗ, đời sống nhân dân còn nhiều lạc hậu của một
đất nước mới giành được quyền tự chủ còn non yếu.
Cùng với những khó khăn chồng chất về mặt kinh tế mà ta phải
gánh trên vai, thì chính sách cấm vận, cô lập Việt Nam của thế lực thù
địch chẳng khác nào như sợi gông xiềng cổ. Đất nước trên cơ bản đã
được thống nhất nhưng tiếng súng vẫn nổ vang trên bầu trời, máu dân ta
vẫn đổ ở chiến trường biên giới và Campuchia. Tình hình đó đã đẩy cục
diện đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng ở đầu những năm 80. Tuy
nhiên với sức sống mạnh mẽ và ý chí kiên cường, bền bỉ của một dân tộc
trải qua hàng nghìn năm xây dựng đã một lần nữa vực dậy tình hình đất
nước.
2

Đường lối đổi mới đất nước được đưa vào áp dụng, xé khỏi vỏ bọc
cũ để giải thoát chính mình đã đưa kinh tế Việt Nam dần có những bước
khởi săc đáng kể. Sự suy thoái kinh tế được chặn lại và nền kinh tế bước
đầu có sự tăng trưởng với tốc độ ngày càng cao, ổn định. Đổi mới đất
nước đồng nghĩa Việt Nam đã mở cửa chấp nhận sự giao lưu, trao đổi
trên nhiều bình diện như kinh tế, thương mại, chính trị, văn hóa với các
nước trong khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó nước ta đã có nhiều sự
chuyển biến và thay đổi tích cực. Tuy còn nhiều thách thức, nguy cơ tiềm
ẩn song ánh sáng nơi con đường thay đổi vận mệnh đất nước là không thể
chối bỏ. Đường lối đổi mới đất nước là con đường mà Đảng và nhân dân
ta lúc bấy giờ quyết chọn và đặt niềm tin để đưa đất nước đi lên thoát
khỏi những khó khăn.
1.2. Những chuyển biến về mặt xã hội, văn hoá và tư
tưởng
Đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, nền kinh tể đóng cửa
thời bao cấp nay đã chuyển sang nền kinh tế thị trường theo cơ chế xã hội
chủ nghĩa. Các mối quan hệ chính trị trước đây chỉ tập trung hầu hết vào
các nước xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là Liên Xô nay được nhân rộng ra
toàn thế giới. Hội nhập toàn diện đã giúp Việt Nam có nhiều thay đổi
đáng mừng trên toàn bộ mặt xã hội. Nông thôn trước đây chủ yếu là nơi
sản xuất và chi viện lương thực, nhu yếu phẩm cần thiết cho chiến trường
thì nay đã trở thành nơi phát triển kinh tế. Ruộng đất được giao đến tay
người dân, mỗi người dân lao động sẽ được thoát ra khỏi sự ràng buộc
trước đây làm chủ chính mình. Thành thị trước đây tuy là nơi tập trung
nhiều thương nhân buôn bán vô cùng tấp nập nhưng lại không có vai trò
thật sự quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Dân cư sống chủ yếu ở
đây là công nhân, viên chức và cán bộ. Hơn nữa là trong thời kì chiến
tranh rất nhiều hộ dân ở thành thị phải tản cư về quê tránh địch nên không
thể tham gia trực tập vào việc phát triển kinh tế tập trung. Sau khi hòa
3

bình được lập lai, vì nhiều lí do khác nhau mà hơn 2 triệu dân Việt Nam
lại sang định cư ở nước ngoài, hình thành những cộng đồng dân cư ở
nhiều nước trên thế giới.
Những năm 80, 90 của thế kỉ trước cho đến tận ngày nay xã hội và
con người Việt Nam đã trải qua không ít đớn đau trong việc đi tìm và xây
dựng lại hình ảnh của chính mình. Trong quá trình đi tìm lại bản thân ,
chúng ta đã vấp phải không ít sai lầm, thất bại tuy nhiên ý thức cá nhân
với mọi nhu cầu của con người nay được đặt sau lợi ích chung của tập
thể, một phần nhân cách bên trong con người đã thức tỉnh trở lại. Hòa
bình trở lại, con người trở về với cuộc sống đời thường – cái đời thường
phồn tạp, lấm lem, muôn vẻ tốt xấu pha trộn lẫn nhau. Trong đó, cuộc
sống của cá nhân được thu hẹp đến mức tối thiểu để nhường chỗ cho đời
sống tập thể, tất cả vì lợi ích chung của cộng đồng, của đất nước. Trong
tình hình ấy đời sống văn hóa – tư tưởng cũng có nhiều diện mạo và diễn
biến khá phức tạp, thậm chí đã rơi vào khủng hoảng ở một bộ phận nào
đó. Sự phê phán của những hạn chế, bất cập trong cuộc sống một thời đã
trở một thái độ chống đối, quay lưng và cắt sạch những giá trị truyền
thống tốt đẹp.
Trong khi đó không ít người trong xã hội vào tình thế tiến thoái
lưỡng nan, nếu giữ mãi những quan niệm cũ thì sẽ trở thành kẻ lỗi thời,
lạc hậu. Họ chẳng những không theo kịp sự phát triển của thời đại mà còn
ngăn cản sự hình thành và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc mở
cửa của kinh tế thị trường đa làm một bộ phận người dân dần trở nên có
tâm lí thực dụng, chỉ ham muốn hưởng thụ xa hoa vật chất, tôn sùng chủ
nghĩa hướng ngoại, du nhập văn hóa tây phương một cách quá đà mà
thiếu sự chắt lọc. Người dân cho rằng văn hóa tây phương là tân tiến văn
minh, trong khi những truyền thống tốt đẹp của nước ta không biết tự bao
giờ lại trở nên diêm dúa, quê mùa không theo kịp thời đại. Bộ máy quản
lí nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả, công việc bị đình trị, tệ nạn
4

tham ô chiếm của công thành của riêng không được khắc phục và giải
quyết hiệu quả. Tất cả đã trở thành những thách thức mà dân tộc đã nhất
định phải vượt qua nếu muốn vững bước trên con đường phát triển đất
nước.
1.3. Sự đổi mới về văn học
Văn học Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ từ năm
1945 đến năm 1975 đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh cao cả của một nền
văn học cách mạng dân tộc. Nền văn học ở đây không chỉ là ngòi bút để
viết, để sáng tạo mà còn là thứ vũ khí chiến đấu ngoan cường, hỗ trợ đắc
lực cho công cuộc giải phóng đất nước. Một nền văn học phục vụ vì nhân
dân, vì tổ quốc, đồng bào ta. Nền văn học của 30 năm ấy là một giai đoạn
mang hơi thở đặc thù, có những đóng góp rất riêng cho tiến trình văn học
dân tộc. Đặc điểm của giai đoạn này còn tiếp tục chi phối nền văn học ở
nửa cuối thập niên 70 và nửa đầu thập niên 80 của thế kỉ trước.
Với những bước chuyển mình về mặt tư tưởng, văn hóa và xã hội
với nhiều yêu cầu thay đổi về quan niệm nhìn nhận, thưởng thức, thẩm
mĩ, đòi hỏi văn học giai đoạn này phải thay đổi lớp áo mới thời đại. Cuộc
kháng chiến chống Mĩ lịch sử của dân tộc vẫn là đề tài thu hút được nhiều
ngòi bút sáng tạo, tuy nhiên nó lại không còn là mảnh đất màu mỡ mà
nhà văn, nhà thơ có thể thỏa chí tung hoành. Vì vậy mà dù chọn đề tài
này, nhiều ngòi bút đã không muốn cũng không thể viết về chiến tranh
rập khuôn như cách viết trước đây được. Nhiều câu hỏi được đặt ra là nay
dân tộc ta đã được độc lập tự do vậy các nhà văn, nhà thơ nay sẽ lại viết
gì? Viết về con người hay sự kiện? Các bài thơ như Bán vàng của
Nguyễn Duy (1984) hay Cảnh Điền Viên trong Di cảo thơ của Chế Lan
Viên đã gây được sự chú ý lớn trong dư luận, không chỉ phản ánh về một
giai đoạn đời sống đầy khó khăn sau chiến tranh mà có còn thể hiện góc
nhìn cuộc sống thực thế, cay đắng trong cái tôi cá nhân của tác giả. Sự
đòi hỏi văn học phải tiếp cận và nói lên sự thật toàn diện của đời sống đã
5

được nhà phê bình Ngô Thảo nêu lên bằng một hình ảnh so sánh : “Một
nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật có khi lại là sự
giả dối”. Yêu cầu nhìn lại một nền văn học kháng chiến đã qua để nêu lên
những tiếng nói mạnh dạn, phản ánh thực trạng xã hội, tâm tư, tình cảm
của bộ phận văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Chiến tranh qua đi hòa bình lại vẫy gọi hình tượng những người lính tay
cầm súng, đầu gối lên đầu nay chỉ còn là hoài niệm. Trở về với cuộc sống
đời thường đòi hỏi văn nghệ sĩ phải biết hóa thân, nhớ về và ghi nhận
hình ảnh con người Việt nam trong cuộc sống đời thường. Đi sát, đi sâu
vào đời sống, vào ngõ cùng tâm hồn người dân bình thường để cảm nhận
niềm hân hoan sau chiến tranh, những nỗi cơ cực trong việc xây dựng lại
đời sống,...Cả quá trình ấy đòi hỏi người cầm bút phải chứng kiến, cảm
nhận và thấu hiểu để phản ánh thật rỏ ràng và chi tiết. Đó cũng là những
yêu cầu đổi mới trong văn học giai đoạn sau chiến tranh năm 1975 tiến
tới xây dựng đất nước hôm nay.
1.4. Về các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư và một số tác phẩm
1.4.1. Tác giả Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Sắm vai” và
“Mẹ con chị Hằng”
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) , quê gốc Nghệ An. Ông là nhà văn
quân đội, sáng tác trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Sau 1975, hiện thực cuộc sống đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận
toàn diện và thấu đáo hơn. Là một nhà văn có ý thức gắn bó với đời sống,
nhạy cảm với những thay đổi thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận
ra những vấn đề mới của Đất nước ngay thời điểm chuyển giao.
Ngòi bút nhà văn sau 1975 viết về chiến tranh đã hướng về những vấn
đề tổ chức lại đời sống, kinh tế trong thời kì mới, vấn đề giải quyết hậu
quả và hàn gắn vết thương chiến tranh, vấn đề chống lại những tiêu cực
nảy sinh mới trong cuộc sống mới,…
6

Từ những năm 80 của thế kỉ XX, sáng tác của Nguyễn Minh Châu
  

khẳng định ông luôn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Ông
là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu
khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự.
Trong thời kì nào Nguyễn Minh Châu đều sáng tác theo phương châm
“Đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn mỗi con người” và ông luôn có
cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu đối với con ngườI.
Ông có lối văn giản dị mà sâu sắc, thấm thía, nhiều dư vị, nhiều trải
nghiệm, chiêm nghiệm.
Các tác phẩm Nguyễn Minh Châu đã xuất bản gồm: Cửa sông
(1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính
(1972), Từ giã trẻ thơ (1974), Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi
nhà (1977), Những ngày lưu lạc (1981), Những người đi từ trong
rừng ra (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Đảo
đá kì lạ (1985), Bến quê (1985), Mảnh đất tình yêu (1987), Cỏ lau
(1989),…
“Sắm vai” nằm trong “Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”
(2006), thuộc chùm truyện ngắn viết về đề tài thế sự sau năm 1975 của
Nguyễn Minh Châu. Câu chuyện kể về anh nhà văn T - một người rất có
cá tính nghệ sĩ, anh T sống trong cùng một khu tập thể với nhân vật “tôi”.
Khu tập thể anh T sống có một nền nếp tới mức thái quá và kệch cỡm,
nhưng anh nhà văn này không hề bị ảnh hưởng mà vẫn sống theo phong
cách riêng mình: Xuề xoà, giản dị và say mê viết lách. Tới một ngày khi
cô vợ trẻ của anh nhà văn T từ nước ngoài trở về, để chiều lòng vợ anh
thay đổi tất cả mọi thứ: Tính cách, ngoại hình, thói quen và thậm chí cả
căn nhà. Gia đình anh như thể đang diễn một vở kịch vậy và anh trở
thành một con người hoàn toàn giả tạo. Nguyễn Minh Châu đem tới cho
người đọc câu chuyện mà sau khi đọc xong khiến độc giả phải trăn trở,
7

phải chiêm nghiệm về bản thể con người, về các mối quan hệ giữa người
với người và về cái gọi là hạnh phúc đích thực.
Truyện “Mẹ con chị Hằng” được in trong tập truyện ngắn “Mảnh
trăng cuối rừng” (1984), là truyện thứ hai của tập truyện. Truyện kể về
Hằng - vốn được mẹ chiều từ nhỏ, khi lớn lên, Hằng vẫn giữ mãi bản tính
nhõng nhẽo, vòi vĩnh mẹ. Đợt chị sinh đứa thứ hai, anh chồng làm bộ đội
phải vào căn cứ, thế là hai vợ chồng lại nhờ bà cụ già ra chăm cháu. Một
tiếng cảm ơn chẳng có đã đành, thay vào đó lại là những lời Hằng càm
ràm nồi cơm bà nấu, cái áo bà giặt, thằng cháu bà chăm. Thế mà cả hai lại
rất "hồn nhiên" coi đó là lẽ thường: chị Hằng vẫn "hồn nhiên" sai bảo,
còn người mẹ già vẫn "hồn nhiên" chịu đựng. Tình mẫu tử và một lối
sống trong xã hội mới, qua Mẹ con chị Hằng, một lần nữa Nguyễn Minh
Châu đã gợi lên nhiều suy nghĩ trong độc giả.
1.4.2. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm “Chảy đi sông
ơi”, “Không có Vua” và “Huyền thoại phố phường”
Cuộc đời Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 26 tháng 7 năm 1950. Quê ở
thôn Khương Hạ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Năm 1970 ông tốt nghiệp
khoa Sử trường Đại học Sư Phạm và sau đó lên Tây Bắc dạy học. Từ
1980, ông chuyển công tác về Bộ Giáo dục.
Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn
đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Năm 1996 ông cho ra mắt tiểu thuyết
đầu tay Tiểu Long Nữ được xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an nhân
dân.
Những tác phẩm của ông: Tướng về hưu, Những ngọn gió Hua Tát,
Con gái thủy thần, Như những ngọn gió, Thương cả cho đời bạc,
Mưa Nhã Nam, Suối nhỏ êm dịu (kịch), Mổ nhà văn (kịch), Tuổi hai
mươi yêu dấu (tiểu thuyết), Tiểu Long Nữ (tiểu thuyết), Giăng lưới bắt
chim, Gạ tình lấy điểm (tiểu thuyết), Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết
(tập truyện ngắn),…
8

Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về
nông thôn và những người dân lao động. Ông chuyên viết truyện ngắn
với đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ
tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và con người lao động.
Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp hội tụ rõ nét tính liên tục và tính
đứt đoạn của lịch sử văn học dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu văn học có
nhận định rằng, một mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên được diện
mạo của nền văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, nhưng một mình ông
lại có thể đào xới lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất văn học, tạo nên sức
bật khỏi ảnh hưởng văn học trước 1975; từ đó, đưa văn học Việt Nam sau
1975 đi xa và vững vàng hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc,
hòa nhập vào dòng văn học hiện đại của thế giới.
Truyện ngắn của ông vừa là sự tiếp nối, lưu giữ nguồn mạch văn học
dân gian dân tộc, cũng vừa tiếp thu tính hiện đại đã đánh dấu bước ngoặt
của văn học Việt Nam thời đổi mới.
“Không có vua” là một trong những truyện ngắn đầu tay của Nguyễn
Huy Thiệp được nhà văn viết từ những năm sống và làm việc tại Tây Bắc
được viết vào năm 1987 làm khuấy động giới văn chương trong và ngoài
nước. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống sinh hoạt thường ngày của gia
đình lão Kiền khi cô con dâu mới về – Sinh. Qua đó thấy được cái loạn
đáng báo động mà Nguyễn Huy Thiệp phơi bày. Đó là cái loạn các mối
quan hệ cha con, anh em, vợ chồng mà hiểu rộng ra là cái loạn trong của
xã hội con người trong nền kinh tế thị trường. Truyện không nhấn mạnh
đến đời sống tinh thần của nhân vật, không cho thấy được sự phát triển
tâm lý, tích cách mà ở đó chỉ là một “lát cắt” được lấy ra từ cuộc sống,
một bức tranh không chi tiết nhưng khái quát để người đọc chiêm
nghiệm.
“Chảy đi sông ơi” nằm trong tập truyện ngắn gồm 10 truyện được tác
giả Nguyễn Huy Thiệp sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1982 đến
9

năm 2004. Truyện mang đậm phong cách của Nguyễn Huy Thiệp. Câu
chuyện kể về một thiếu niên ưa nghe huyền thoại và thích phiêu lưu mạo
hiểm. Một hôm, cậu năn nỉ mấy tay dân chài lưu manh cho đi theo đánh
cá đêm trên sông. Không bắt được con cá nào, gã dân chài mê tín nghĩ
rằng cậu bé đi theo là điều xúi quẩy nên đã đẩy cậu xuống sông, ép cậu tự
bơi qua dòng nước xiết vào bờ. Cậu được chị Thắm lái đò cứu khỏi chết
đuối. Rời bỏ quê nhà, cậu lên thành phố học tập và lập nghiệp. Nhiều
năm sau, anh trở về thăm bến Cốc sông xưa, nghe dân chúng kể chị Thắm
đã chết đuối từ lâu. Bản thân chị đã cứu vớt nhiều người khỏi tay thủy
thần, nhưng đến lượt người trinh nữ nhân hậu này thì chẳng một ai ra tay
giúp đỡ.
“Huyền thoại phố phường” là câu chuyện về sức mạnh của đồng tiền
và phẩm giá con người. Mở đầu truyện là khung cảnh buổi tiệc của Thoa,
con gái bà Thiều. Cậu Phúc - em bà Thiều đã giới thiệu Hạnh trong bữa
tiệc. Hạnh thèm khát cuộc sống giàu có như nhà bà Thiều vì anh xuất
thân từ nông thôn. Phúc để động viên bạn đã tặng Hạnh và Thoa mỗi
người một tấm vé số. Bà Thiều bèn đem tấm vé số đó cá cược với bạn,
nếu trúng thì được cho 1 chi vàng, không trúng phải đưa bạn bè 1 chỉ. Bà
lấy nhẫn của Thoa làm tin nhưng ngờ đâu cô đã làm mất. Anh Hạnh tìm
thấy đươc chiếc nhẫn và được bà cảm kích lắm. Anh thấy vậy liền nảy ra
ý muốn làm tình nhân bà Thiều hòng cuỗm chiếc vé mà anh vẫn tưởng là
vé độc đắc, và quả nhiên anh thành công. Anh lấy được tấm vé của bà
Thiều và ném trả tấm vé số của mình lại, nhưng nực cười rằng tấm vé
trúng giải độc đắc lại là cái mà anh đã ném cho bà Thiều.
1.4.3. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm “Cánh đồng bất
tận”
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư sinh năm
1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một gia đình
nghèo.
10

Vốn là một học sinh giỏi văn của trường Phan Ngọc Hiển nhưng
Nguyễn Ngọc Tư chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành nhà văn. Những
năm tháng sống cùng ông ngoại, sớm lao vào công việc mưu sinh, có lẽ là
một trong những duyên cớ khiến Nguyễn Ngọc Tư bước chân vào thới
giới văn học. Năm lớp 9, gia đình Ngọc Tư xảy ra biến cố lớn: Ông nội
mất, điều kiện gia đình lại khó khăn nên nhà văn phải dừng việc học của
mình ở đây. Tuy nhiên, điều này không hề làm sức sáng tạo của nhà văn
dừng lại mà trái lại, càng trong khó khăn sức sáng tạo ấy càng trở nên
mãnh liệt và giàu giá trị. Nhờ sự động viên của cha, Nguyễn Ngọc Tư đã
viết những gì mà mình nghĩ, viết những gì mà cô đã trải qua. Sau ba
truyện ngắn được đăng trên Tạp chí văn nghệ Cà Mau, Nguyễn Ngọc Tư
đã được nhận làm văn thơ và học làm phóng viên báo tại đây. Ngoài đời,
Nguyễn Ngọc Tư là một người phụ nữ chân chất, hồn nhiên và rất có bản
lĩnh. Ngọc Tư lập gia đình với một người là thợ kim hoàn và đến nay đã
có hai bé trai. Hiện chị đang sống và làm việc tại Thành phố Cà Mau.
Độc giả cả nước biết đến Nguyễn Ngọc Tư khi cô đoạt giải I cuộc
thi “Văn học tuổi 20 lần thứ 2” của Hội Nhà văn TP.HCM với tập truyện
ngắn “Ngọn đèn không tắt” (2000). Cũng từ đó nhiều tập truyện của chị
liên tục được độc giả trong và ngoài nước ủng hộ như: Nước chảy mây
trôi (2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Giao thừa,…Và
đến tập truyện “Cánh đồng bất tận” (2005) thì có thể nói Nguyễn Ngọc
Tư đã thật sự khẳng định được tên tuổi và tài năng của mình trên văn đàn
Việt Nam. Đặc biệt với tác phẩm Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã
đạt giải thưởng ASEAN năm 2008 là phần thưởng xứng đáng cho những
đóng góp của chị với tác phẩm xuất sắc này.
“Cánh đồng bất tận” là tên một tập truyện ngắn phát hành năm
2005 của Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là tên một truyện trong tập
truyện ngắn đó được đăng báo lần đầu cùng năm.
11

Câu chuyện lấy bối cảnh về vùng sông nước miền Tây Nam bộ, nơi
có những con người thật thà, chân chất nhưng bất lực trước số phận
nghiệt ngã. Truyện được kể qua lời nhân vật Nương. Út Vũ vốn là một
chàng thợ mộc hiền lành. Một ngày nọ anh gặp một cô gái có “nụ cười
lấp lánh cả khúc sông” rồi phải lòng cô. Cả hai nên duyên vợ chồng, sống
trong căn nhà mái lá cạnh con sông Dài và có với nhau hai mặt con là
Nương, Điền. Dường như, cuộc sống bấp bênh trong mái lều tranh, khi
người ta phải vật vã với cái đói, cái nghèo không khiến cho cô vợ xinh
đẹp của Út Vũ hạnh phúc. Bị chính những đứa con của mình bắt gặp khi
đang ái ân với người đàn ông khác, mẹ Nương lặng lẽ bỏ đi để lại sự căm
hận và uất ức trong lòng ông Vũ. Ông đốt nhà, dắt hai đứa con đi chăn vịt
trên chiếc thuyền nhỏ từ cánh đồng này tới cánh đồng khác. Nương lớn
lên càng lớn càng giống mẹ, thế là bao nhiêu oán hận ông đều đổ hết lên
đầu hai đứa con và những người phụ nữ yêu ông. Nương và Điền khao
khát có được cuộc sống bình thường và tình thương gia đình. Nhưng sự
lạnh nhạt, thờ ơ của người cha cùng những việc ông làm đã khiến hai chị
em tắt hy vọng. Ba cha con sống cuộc đời phiêu bạt đi từ cánh đồng này
đến cánh đồng khác. Một lần tình cờ, hai chị em Nương và Điền giải cứu
cho cô gái điếm tên Sương khỏi bị đánh ghen, tra tấn từ những người
trong xóm. Sự xuất hiện của cô như hơi ấm len vào giữa cuộc đời lạnh
lẽo, thiếu tình thương của hai chị em. Sương hi sinh nhiều thứ vì cái gia
đình nhỏ bé ấy để chứng tỏ tình yêu của mình với Út Vũ, nhưng ông thì
khinh rẻ cái thân phận làm đĩ của cô gái trẻ. Tuyệt vọng, Sương bỏ đi.
Điền chạy theo tìm Sương để rồi mãi mãi không quay về nữa. Hai cha
con Sương lại tiếp tục lênh đênh trên chiếc ghe nhỏ. Lúc này, dường như
ông Út Vũ đã nguôi ngoai, tình thương của ông đã quay về với đứa con
gái nhỏ. Ông đã mua cho Nương một chiếc nhẫn vàng để làm của hồi
môn sau này lấychồng. Tưởng như hạnh phúc đã đong đầy thì một biến
cố bất ngờ xảy ra: Sương bị những tên du côn cướp vịt hãm hiếp trước sự
12

chứng kiến đầy bất lực của ông Út Vũ. Kết truyện là hình ảnh người cha
đắp tấm áo lên người cô con gái. Nương không biết mình có bị mang thai
hay không. Nhưng nếu có cô vẫn hy vọng sẽ dạy dỗ đứa con không cha
này có một cuộc sống tốt hơn.
Chương 2. BIỂU HIỆN HÌNH TƯỢNG CON
NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG TRONG VĂN HỌC VIỆT
NAM SAU 1975
2.1. Truyện ngắn “Sắm vai” và “Mẹ con chị Hằng” của
Nguyễn Minh Châu
Trước hết Anh nhà văn T. trong “Sắm vai” có một tâm hồn rất
đẹp - tâm hồn của một con người có cá tính không bị lu mờ trước cộng
đồng.
Anh nhà văn T. trong “Sắm vai” mặc dù phải sống trong sự dằn vặt
giữa cái anh nên là và hạnh phúc của gia đình, dẫu anh phải bỏ đi bản
thân nhưng ta không được phép quên rằng bản chất anh vẫn là một nhà
văn giàu chất riêng từ phong cách tới lối sống mà “tôi” đã khẳng định
ngay từ đầu truyện “anh đã cho tôi thấy hình ảnh một người nghệ sĩ chân
chính”, nhân vật nhà văn T. cũng từng là một nhà văn giàu cá tính “dám
tự tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả
những cái gì lấp lánh có thể lừa dối mình và người khác”. Dù sống trong
một khu tập thể có nền nếp thái quá, nhưng anh vẫn không bị ảnh hưởng
mà chỉ chăm chú viết những trang văn của riêng mình.
Khi cái “vở diễn” gia đình không thể tiếp tục được nữa, anh T. đã can
đảm giành lại những gì vốn là của bản thân mình “dứt khoát từ nay anh
sẽ không chịu “sắm vai” nữa!”
Lời anh T. thường nhắc nhở “tôi” dường như cũng là lời anh tự nhắc
nhở mình “sân khấu thường hay đánh lừa cậu, khiến cho cậu cứ nghĩ
mình là vua”, “cái thứ công việc chúa hay đánh lừa người ta”. Sự tự ý
13

thức bản thân cũng là một vẻ đẹp của con người trong văn học giai đoạn
này, nó cho thấy được chiều sâu cũng như thế giới nội tâm mỗi nhân vật,
mỗi nhân vật là một cảnh ngộ. Mỗi nhân vật mang trong mình một vẻ đẹp
riêng làm nên cá tính của nhân vật.
Những con người có được và có một cách mạnh mẽ cái khả năng tự
phanh phui mổ xẻ ý thức mình, lối sống của mình. Dù họ đang chìm
trong đau khổ, dằn vặt, thậm chí hiện diện trong bộ dạng một con bệnh
tâm thần (cô Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”), thì ta
vẫn thấy cái sức vóc khác thường, cái nỗ lực khác thường trong hành vi
tự phê phán của họ. Nói khác đi, ở kiểu truyện này, ngay khi phê phán cái
quan niệm tuyệt đối đòi hỏi phải có những “thánh nhân” trong đời
thường, thì hiển nhiên trong truyện vẫn lấp ló những bóng dáng thánh
nhân, những lý trí trong suốt sáng láng đang nhận thức các lẽ đời. Anh
nhà văn T. chính là một người “hoàn hảo” nếu ta nhìn nhận dưới ngòi bút
của Nguyễn Minh Châu khi anh có thể vừa chu toàn công việc vừa xây
dựng hạnh phúc gia đình mặc dù bằng sự giả tạo.
Cái vẻ bị cường điệu, bị nhấn mạnh thái quá ở các nhân vật của kiểu
truyện này chỉ tạo được sức thuyết phục nhờ tính chất “tầm cỡ” của tấn
kịch mà họ đang lâm vào, nhờ tầm hệ trọng, nghiêm trang của vấn đề đặt
ra, nhờ chiều sâu của sự phân tích mà phần nhiều là do tác giả kể chuyện
đảm nhận, hoặc nếu có trao cho nhân vật để nó tự nói lên thì tình hình
cũng không khác đi bao lăm (vì ở cách xử lý của Nguyễn Minh Châu
trong kiểu truyện này, giữa người kể chuyện và nhân vật tự nhận thức
không có khác biệt gì lớn về trình độ nhận thức).
Anh T còn là một con người bi kịch - bi kịch của sự nhận thức, của
cái tôi bị kìm hãm. Nhà văn T. từng là một con người đặc biệt, thế mà để
chiều theo ý thích của người vợ mới từ nước ngoài về, anh đã tự nguyện
lột xác từ cả vẻ bề ngoài đến cung cách sống. Con người anh trở nên tội
14

nghiệp và thảm hại làm sao! Những thay đổi tưởng chừng như vặt vãnh
nhưng sự trả giá lại là quá lớn, suýt nữa anh đã đánh mất chính mình.
Ngoại hình anh T tôi có thể nói đã “biến dạng” rất nhiều so với con
người nghệ sĩ xuề xoà trước đây: “hàm răng của anh bây giờ đều tăm tắp
và trắng”, “mấy cái áo sơ mi toàn là các màu trẻ cả”, “mái tóc của anh
trở nên đen như mun (…) lại còn lượn sóng trước trán” và cái dị dạng
nhất chính là khuôn mặt của anh khi đối mặt với vợ “như vừa bị chia ra:
một bên đầy suy nghĩ lơ đễnh của người nghệ sĩ sáng tạo, một phía bên
kia lại hết sức vui vẻ, trẻ trung như một người đang còn hoá tràn dở dang
chưa xong”, điệu cười thì “cười hết cỡ, lúc thì cười mỉm, lúc cười duyên,
lúc cười chua chát,…” - tất cả chỉ là sự giả tạo hết sức kệch cỡm. Con
người thật của anh nhà văn T. đã nhường chỗ cho anh T “trẻ trung”, anh
T “hạnh phúc” mất rồi!
Vốn là một người ưa giản dị thế nhưng kể từ khi vợ trở về môi trường
xung quanh anh hoàn toàn thay đổi: “gian buồng ấy (…) không còn lối
mà đi lại nữa”, “thứ nào cũng đầy màu sắc, cũng phát ra ánh sáng”,
“như cả một cái chợ phiên vậy!”
Anh hành động mọi thứ đều trở nên khác thường, như một con rối
chịu sự giật dây của người vợ: Thương làm sao “một con người quyết
đoán trong việc xử lý các hành động” mà trước ngày vợ về anh lại không
thể quyết định có nên đưa con đi theo hay không. Một con người giản dị
phóng khoáng và được “tôi” kính trọng nay đứng trước cô vợ trẻ lại
“vụng về, lóng ngóng”. Anh nghe răm rắp mọi lời vợ dặn từ việc lau chùi
xe, tới nếp sống cũng phải “trẻ hoá”, “Tây hoá” theo vợ của mình. Đỉnh
điểm có lẽ là cái “trò chơi” giận hờn “C. giận T. lắm”, anh phải hùa theo
dù rằng đối với anh nó thật nhạt nhẽo.
Đấy chính là bi kịch làm người, bi kịch của sự giằng co giữa một bên
là bản thân mình và một bên là hoàn cảnh - gia đình anh. Tất cả tạo nên
một tấn bi - hài kịch. Bi kịch không được là chính mình nhưng cũng hài
15

hước làm sao cái “trẻ hoá” kệch cỡm, cái vẻ ngoài “trẻ trung” mất tự
nhiên của anh.
Nhân vật xưng tôi xuất hiện trong vai trò là một nhà văn chứng kiến
và kể lại câu chuyện, nhưng khác với trước, nhân vật tôi không còn giữ
khoảng cách từ xa với tâm thế ngưỡng mộ tôn kính, không đứng từ ngoài
để nhân danh cộng đồng mà phán xét hay ca ngợi mà xuất hiện trong
quan hệ bình đẳng, gần gũi với nhân vật. Nó thể hiện quan điể Nguyễn
minh Châu sau 1975: Hướng về cuộc sống đời thường, nhìn con người ở
thời hiện tại đang vận động sinh thành, “con người không bao giờ trùng
khớp với bản thân mình”
Chất giễu nhạt trong “Sắm vai” thể hiện qua lời của nhân vật người kể
chuyện khi quan sát nếp sống công thức đã thành thói quen của những
người trong khu tập thể. Giọng giễu nhại rõ rệt khi miêu tả tình thế oái
ăm của anh nhà văn T., bắt đầu bằng việc anh thức dậy cùng mọi người,
rồi tới việc anh thay đổi ngoại hình - tất cả cho thấy một con người hoàn
tạo vừa kệch cỡm mà cũng đáng thương biết mấy.
Ngoài việc dành nhiều thời gian để miêu tả quá trình trẻ hoá và cách
sống rất Tây của đôi vợ chồng T., phần lớn lời kể của chủ thể trần thuật
tập trung vào việc dẫn dắt người đọc đi theo tình tiết của cốt truyện một
cách có chủ đích. Nhà văn T là một người vốn sống nghiêm túc, chán
ghét mọi điều phù phiếm và muốn sống hết mình với nghề nghiệp, sau đó
được đẩy lên đến cao trảo khi anh T tự nguyện đánh mất chính mình với
sự trẻ hoá kệch cỡm, mất tự nhiên. Điểm nút được cởi ra với việc anh
quyết định trở về với những gì vốn dĩ thuộc về anh T.
Cuối cùng, anh nhà văn T là con người trong chiều sâu tự nhận
thức. Trở về với cuộc sống, con người phải đối mặt với những nỗi lo: Có
thể là cơm áo gạo tiền, cũng có thể là những trăn trở trước sự đổi mới quá
mức đột ngột, nỗi giằng xé giữa cái ta và cái tôi,… Tất cả đem lại cho văn
học tính chất “tự vấn” với những tư tưởng, triết lý sống và thôi thúc con
16

người đi tìm lại bản thể mình. Con người giai đoạn này được văn học
nhìn nhận dưới góc độ xã hội luôn gắn với các mối quan hệ giữa người
với người. Đây chính là điều làm nên đời sống tinh thần hết sức phong
phú nhưng cũng không kém phần phức tạp của đời sống nội tâm con
người giai đoạn này.

Hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đều dựng trên những
tấn kịch nhận thức, đều nhấn vào sự phân biệt giữa chủ quan và khách
quan, đều đề nghị lấy sự phân tích của lý trí tỉnh táo để phân biệt. Như
anh T tự nguyện đánh mất chính mình với sự trẻ hoá kệch cỡm, mất tự
nhiên. Điểm nút được cởi ra với việc anh quyết định trở về với những gì
vốn dĩ thuộc về anh T.
Trong quá trình anh T. thay đổi chính bản thân T. cũng biết điều đó,
bằng chứng là mặc dù ở trong căn nhà “của mình” anh chỉ luôn “ngửa lên
ngắm trần nhà, là nơi duy nhất không thể bày biện đồ đạc”. Anh tự vấn
bản thân mình và có lẽ không dám phá đi cái “hạnh phúc” giả tạo đang
hiện hữu đó. Gia đình anh đang “hạnh phúc” ít nhất là trong mắt những
kẻ đang ở khu tập thể. Tâm hồn anh nó luôn khao khát được bộc lộ, được
trở về nhưng đứng trước “hạnh phúc” gia đình, đứng trước người vợ trẻ
Tây hoá của anh nó đành chùn bước.
Anh còn tự giễu chính mình là đang đóng một “vai diễn lố bịch” và
thậm chí yêu cầu “tôi” đặt tên tác phẩm của mình là “Người sắm vai”.
Và thật may, cuối cùng anh chọn lấy lại những gì thuộc về mình, những
gì là hạnh phúc thực sự “dứt khoát từ nay anh sẽ không chịu “sắm vai”
nữa!”. Anh thật dũng cảm khi dám chọn lựa phá vỡ hạnh phúc giả tạo để
tiến tới một hạnh phúc thật sự.
Gia đinh anh có hạnh phúc, tất nhiên! Nhìn người vợ vui vẻ chúng ta
cũng thấy điều đó. Nhưng “hạnh phúc” ấy trả giá bằng sự đánh mất bản
thân T liệu có đáng giá chăng. Gia đình không phải sàn diễn và hạnh phúc
17

cũng không thể kéo dài nếu xây dựng từ sự giả tạo. Đối với người vợ thì
anh T là gì và đối với anh T người vợ có ý nghĩa như thế nào. Đó là
những gì mà tác giả đã gợi mở ở kết truyện. Cuộc sống đời thường, con
người trong các mối quan hệ không hề đơn giản chính - tà mà nó đa diện
và nhiều chiều. Chính vì vậy mà con người nội tâm thời kì này luôn
không ngừng tự vấn và chiêm nghiệm để rồi rút ra một bài học tất yếu:
Như anh T chọn lấy lại bản thể, như nhân vật chị Hằng giữa mối quan hệ
chồng chéo mẹ - con, - vợ chồng,… Tất cả đều không có câu trả lời đúng
sai cho mọi hành động và lối sống của các nhân vật.
Còn đối với chị Hằng, chị cũng là một con người thể hiện chiều sâu
tự nhân thức - Nhưng sự nhận thức không đến từ chính nhân vật như
Anh nhà văn T. nữa mà đến từ độc giả thông qua quan sát và chiêm
nghiệm cách đối xử có phần bất hiếu của chị Hằngvới bà Huân - mẹ
mình.
Không rõ có phải là do ít nhiều nhận thấy cái nguy cơ “thiếu tự
nhiên” của lối dựng truyện để nhân vật tự ý thức hay không mà cũng từ
khá sớm, Nguyễn Minh Châu đã tìm đến một lối dựng truyện khác, “tự
nhiên” hơn. Ở đây, nhà văn vẫn đưa ra những tình huống có những vấn
đề của nhận thức, nhưng hoạt động nhận thức chỉ diễn ra ở nhà văn và ở
người đọc truyện, còn các nhân vật thì vẫn cứ nhìn nhận, cư xử như họ
vốn có, với tất cả những định kiến và thiên hướng, thiện cảm và ác cảm
của riêng họ. Đây là trường hợp của truyện ngắn “Mẹ con chị Hằng”.
Nét tính cách trái khoáy của Hằng trước hết được người kể nhắc đến
qua đoạn đối thoại giữa các nhân vật, sau đó được thể hiện trực tiếp qua
lời kể khách quan của chủ thể trần thuật “Cái tính ấy vừa là nét chung
của trẻ con lại vừa là tính riêng của chị thậm chí đến bây giờ chị Hằng
vẫn không bỏ được cái tính nhõng nhẽo thích làm nũng và bắt nạt mẹ” và
cuối cùng thì được kết lại trong chính cách hành xử của chị đối với mẹ
trong những ngày cuối thai nghén: “Em khéo chiều bà thì bà ở lâu hơn,
18

chứ như lần trước (…)”, thậm chí khi thằng Hùng nó mắng bà ngoại nó
“đĩ bà!” mẹ nó cũng chỉ mắng qua một câu rồi lại thôi. Khi biết áo của
chồng bị lấy đi chị chưa suy nghĩ gì đã quở trách và quy trách nhiệm cho
mẹ một cách rất nặng lời mặc dù mới nãy hai mẹ con vẫn còn rù rì tâm
sự. Lúc đi làm về thấy con khóc chưa tra rõ đầu cua tai nheo chị đã giằng
lấy con và quát mẹ “Lúc nào mẹ cũng “Tau có biết chi mô?” kết quả là
biết được do thằng Hùng trêu em, nồi nếp cháy chị lại cáu gắt với bà
Huân nhưng chẳng phải bà Huân vì chị Hằng gọi lên nhà mới làm cháy
nồi cơm nếp đấy sao. Lúc Quyền đánh điện thì chị lại giãy nảy không
muốn mẹ đi và nghĩ là con Quyền nó chẳng có việc gì mặc dầu Quyền
vừa sẩy thai cần mẹ ra thăm nom, thật khó để phân biệt chị thật sự là
đang lo lắng cho mẹ hay đó chỉ là sự ích kỉ và uy quyền.
Tính cách không biết chiều mẹ của Hằng cũng mỗi lúc một tăng lên
đến đỉnh điểm khi Hằng không còn kiềm nén, che giấu được nữa mà đã to
tiếng ay gắt với bà cụ Huân. “Khốn nỗi là bà cụ vụng quá cơ. Người đâu
mà có người vụng đến thế cơ chứ. Mà còn luộm thuộm nữa (…) Mà lại
còn bảo thủ, làm sai bảo cho mà không chịu tiếp thu. Bảo ban cái gì cũng
“nỏ biết chi mô” thì làm sao mà bổ khuyết cho lần sau được.”
Khi mâu thuyễn chưa được giải quyết, sự việc bất ngờ xảy đến cắt
ngang: Cái Quyền đánh điện nhờ bà cụ ra gặp mình, làm cuộc xung đột
chùng xuống trong nỗi lo toan của hai người. Bà cụ Huân lại phải tất tả
chuẩn bị rời Hằng mà đến chăm lo cho một đứa con khác. Câu chuyện kết
thúc nhưng mối xung đột vẫn còn để ngỏ.
Cái cách hành xử quá mức hồn nhiên của chị Hằng với bà Huân đã vô
tình đày đoạ, vô tình làm khổ bà. Bất cứ chuyện xấu gì xảy ra chị đều quy
trách nhiệm về cho bà Huân với những hành động và lời nói có phần xúc
phạm, tất cả vì chị có ác cảm với bà. Chị chưa từng nghĩ rằng mình cũng
là một phần nguyên nhân trong những chuyện ấy. Chị Hằng cũng đã từng
nhận ra được điều ấy nhưng rồi ngựa quen đường cũ, chỉ một chốc sau
19

thôi chị lại đay nghiến mẹ mình vì nồi cơm nếp cháy. Chị có thể là một
người vợ, người mẹ tốt nhưng với tư cách là một người con thì không hề.
Bà Huân cũng vậy, bà cũng cứ chịu đựng tất cả như nó vốn là vậy “bà
cụ vẫn tưởng đang bị con gái giận, cho nên cứ ngồi dưới bếp, không dám
lên nhà trên”, bà yêu con mình và chỉ nghĩ đơn giản đó là tính cách của
con mình. Bản chất của một người làm mẹ luôn yêu thương con vô điều
kiện và bỏ qua mọi khuyết điểm.
Tất cả mọi thứ đều diễn ra rất tự nhiên, bà Huân lên chăm con cho
Hằng, Hằng cáu gắt mẹ, bà Huân lại chịu đựng. Cách cư xử của Hằng với
bà mẹ thực chất là gì? − cả Hằng lẫn bà mẹ đều chưa một lần tự hỏi và trả
lời rành mạch. Hằng cứ việc đòi mẹ ở mãi với mình, để đỡ đần việc cửa
nhà, con cái, và rồi nữa, để thường ngày cứ tiếp tục la mắng hạch sách
mẹ. “Cái vạch ngăn cách giữa tính nhõng nhẽo, làm nũng và hay bắt nạt
mẹ của một đứa con gái và thói quen tỏ ra uy quyền của một người đàn
bà chủ nhà thật là mơ hồ, rất khó nhận thấy, đến nỗi người ta thường dễ
lẫn lộn, thường dễ tự lừa dối và tự lừa phỉnh mình” − suốt truyện, chỉ có
cái lý trí phân tích ấy là còn tỉnh thức, nhưng nó là lời của người kể
chuyện, tức là tác giả. Còn cô Hằng thì vẫn cứ hồn nhiên cư xử như cũ,
bà mẹ vẫn cứ hồn nhiên chịu đựng như cũ. Đây chính là sự éo le mà trong
“Đứa ăn cắp” Nguyễn Minh Châu đã viết “Đôi lúc con người ta trở nên
tàn ác một cách rất hồn nhiên”.
Cái “hồn nhiên”, “thành thực” của họ có khi chỉ là thường tình vô hại,
nhưng có khi lại chứa đựng tai họa, tội ác. Chị Hằng hình như vẫn rất yên
tâm sống trong những chuẩn mực, những khuôn hành vi ứng xử, những
thói quen gần như vô ý thức, không hiểu và không cần hiểu các hành vi
của mình có ý nghĩa gì, có thể dẫn tới những hậu quả nào, tốt hay xấu,
cho những ai. Nhà văn không bắt họ phải làm cái việc quá sức họ là tự
nhận thức về các hành vi của mình. Ông chỉ đề nghị mọi người hãy nhận
ra tính chất nguy hại của lối sống thông tục đó, bắt đầu từ việc nhận ra
20

“những cái luật không bao giờ được viết thành văn” − mà nhà văn nhiều
lần nói đến trong nhiều truyện ngắn khác (Giao thừa, Khách ở quê ra).
“Mẹ con chị Hằng” là cái nhìn khách quan nhưng không kém phần
nghiêm khắc của tác giả khi đề cập đến vấn đề giáo dục con cái cũng như
cách ứng xử đứng đắn của người con đối với bậc sinh thành. Chị Hằng vì
có ác cảm với bà Huân nên luôn hạch sách bà, thằng Hùng cũng vậy: Bất
cứ khi nào không vừa ý nó lại chửi “đĩ mẹ!”, “đĩ bà!”.
Cách chị Hằng đối xử với mẹ cũng gây nên băn khoăn chuyện Mẹ
con chị Hằng có phổ biến trong xã hội hiện tại? Nếu đã phổ biến vậy thì
vấn đề đạo đức và nhân cách trong quan hệ ứng xử giữa nhữn người thân
trong gia đình rốt cuộc sẽ như thế nào trong sự vận động không ngừng
của cuộc sống sắp tới? Từ đó sự hoài nghi, lo âu thấp thoáng của tác giả
đã tăng thêm phần đối thoại với người đọc cho câu chuyện.
2.2. Truyện ngắn “Chảy đi sông ơi”, “Đời thế mà vui” và
“Huyền thoại phố” của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp nhìn thẳng vào sự thật, viết về cái hôm nay ngổn
ngang bề bộn, màu đỏ với màu đen đầy rẫy với rất nhiều những con
người bẩn thỉu, ti tiện, cái xấu, cái ác trong một mảnh đất khô cằn ngột
ngạt, tù đọng. Nói như một nhân vật trong truyện “Chảy đi sông ơi”:
“Con người ta tăm tối lắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm con
đường”. Con người bị ném vào cuộc đời rồi bị biết bao tai biến, “biết
bao” tha nhân ràng buộc như không một lối thoát. Nhưng rồi họ lại được
đánh thức bởi những bản năng để tự mở đường ra đi và dũng cảm nhận
lấy trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Ở những con người phàm
tục ấy bị tha hóa bởi bao nhiêu lực lượng xã hội xa lạ với mình và dường
như không tránh né được, vẫn le lói một tình thương. Họ thầm lặng đi tới
cái tốt và cũng là cái đẹp.
Con người với vẻ đẹp tâm hồn không bị mất đi trong “Chảy đi sông
ơi” được thể hiện rõ nhất thông qua những người phụ nữ, họ có một tấm
21

lòng bao dung sẵn sàng mở ra thông cảm với mõi người, kể cả kẻ ác. Chị
Thắm trong “Chảy đi sông ơi” làm nghề chèo đò trên sông là người phụ
nữ ít học nhưng đôn hậu, dịu dàng, rất thấu hiểu ý nghĩa của cuộc đời, có
những hành động hết sức cao thượng. Khác hẳn với những con người ngu
muội, bất chấp với tục lệ ở làng chài “không cứu người chết đuối”, chị đã
giành lại sự sống cho những con người mà thủy thần muốn cướp đi, cứu
không biết bao nhiêu con người trên khúc sông. Lời nói và việc làm của
chị chứa chan tình yêu thương, xúc động lòng người. Chị cũng đã đưa
linh hồn nhân vật “tôi” thoát ra khỏi sự oán hận với người dân chài ngu
muội. Khi nghe chú bé trách bọn đánh cá đêm độc ác, ta nghĩ rằng chị sẽ
đồng tình với nhân vật, thậm chí còn hơn thế, vì chị hiểu rõ con người
sống trong vùng nước nghèo khó này. Song người đọc thật bất ngờ trước
câu trả lời của chị: “Đừng trách họ thế...Có ai thương họ đâu...Họ đói và
ngu muội lắm”. Một câu nói giản dị nhưng hé lộ bao nhiêu điều nhân bản.
Chị không trách những người dân chài mà còn hết sức cảm thông với họ
bởi chị hiểu: họ là những con người thiếu tình thương, cái đói, cái ác nảy
sinh trong lòng họ từ cái nghèo, tăm tối. Đó là tấm lòng bao dung hào
phóng với tất cả mọi người.
Con người trong văn học thời này thường bị cuốn vào vòng xoáy cuộc
đời, họ lao vào cuộc đời để rồi quên đi bản thân mình, cuối cùng họ nhận
ra rằng trong tay mình chẳng có gì cả và ám ảnh hơn là họ lại chìm trong
sự “cô đơn” để rồi đặt ra câu hỏi : Tôi là ai? Tôi Đang sống trong tình
trạng nào? Tôi hạnh phúc chăng? Có lẽ chính vì vậy nên những nhân vật
trong các truyện ngắn của ông luôn cô đơn “như một hành tinh, như một
ngọn gió”. Điển hình như nhân vật “tôi”, trong truyện ngắn “Chảy đi
sông ơi”.
Nhân vật “tôi” trong “Chảy đi sông ơi” có tâm trạng cô đơn và như thế
sau bao nhiêu năm anh rời xa quê hương, lãng quên đi những khát khao,
mơ ước tuổi thơ. Trước bến đò xưa, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ cảu hồi ức
22

xưa, anh không khỏi thảng thốt, bàng hoàng: “Tôi muốn gào lên chua xót.
Tôi bỗng thấy cuộc sống hiện giờ cảu tôi vô nghĩa xiết bao. Con trâu đen,
con trâu đen trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi”. Và chị Thắm cũng
là một người cô đơn. Chị sống cô đơn một mình trên con thuyền, bao
nhiêu năm chẳng có ai hỏi thăm. Chị đưa khách qua sông và cứu rất nhiều
người chết đuối, nhưng cuối cùng chị bị chết đuối mà không ai cứu “làm
cho nhân vật òa lên khóc nức nở. Xung quanh sông nước nhòe đi”. Viết
về những con người cô đơn phải chăng Nguyễn Huy Thiệp muốn con
người xích lại gần nhau, vượt qua mọi thù hằn ngăn cách để được sống
thực sự có ý nghĩa.
Ngoài ra, những nhân vật kiếm tìm bản thể khá phong phú, đa dạng cả
về tuổi tác lẫn địa vị xã hội còn xuất hiện khá nhiều trong văn học giai
đoạn này. Những con người kiếm tìm thường là những “người ra đi”, ra
đi trong cô đơn, tìm kiếm trong cô đơn và trở về trong cô đơn. Họ không
tại vị mà bất ổn, luôn di chuyển hướng ra trong một không gian rộng lớn
của thiên nhiên, của xã hội để tìm kiếm tự do, dân chủ, đi tìm cái đẹp,
những khát khao cho riêng mình. Trong hành trình ra đi, họ luôn mang
trong mình một khát khao, một niềm tin. Niềm tin và khát khao đó có thể
mạnh mẽ, mãnh liệt tới mức đôi khi họ bất chấp tất cả khó khăn gian khổ
để dấn thân vào những cuộc phiên lưu đó. Cuối hành trình tìm kiếm ấy
cũng có khi sự tìm kiếm của họ được đền đáp song cũng có khi là con số
không có nghĩa.
Nhân vật “tôi” trong Chảy đi sông ơi”, cuộc kiếm tìm truyền thuyết
huyễn hoặc về con trâu đen ở khúc sông, do những người đánh cá ban
đêm quả quyết đã nhìn thấy đã phải trải qua những khó khăn, vất vả. Từ
chỗ “mặc kệ sách vở và lời khuyên của mẹ”, vượt lên tột cùng của nỗi sợ
hải trong câu chuyện hoang đường, ghê rợn mà đám dân chài hay kể khi
nhân vật “tôi” xin đi theo, đó là “một cái đầu lâu của người chết! Tóc
xỏa rũ rượi vuống nghững sợi rong dài như gin đũa...Máu bết ở hai lỗ
23

Trong “Không có vua”, Nguyễn Huy Thiệp đã vẽ nên một bức tranh
xã hội “tôn tin trật tự” vừa siêu thực vừa hài hước, vừa cay nghiệt về bức
tranh gia đình đặc trưng thu nhỏ của 1 thứ trật tự xã hội thiếu sự gắn kết,
lỏng lẻo, chỉ “bằng mặt mà không bằng lòng” với sự ganh ghét, độ
kị,lòng vị kỉ to lớn của mình. Không ai thừa nhận 1 ông “vua” chính danh
uy quyền có đủ thẩm quyền chế ngự lòng ham muốn cao ngất của các
thành viên máu mủ, ruột rà trong gia đình. Trong quá trình nghiên cứu về
phân tích tác phẩm, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn “Không có vua”
hiện lên rõ những hình tượng con người trong đời sống.
Con người trong truyện ngắn Không có vua là con người đa dạng và đa
nhân cách, bên trong tính cách của họ tồn tại nhiều mâu thuẫn giữa thiện
và ác, giữa cao thượng và thấp hèn, hiểu biết và dốt nát,... và cuộc sống
trong “Không có vua” cũng như thế, có những cái xấu xa, ti tiện, nhưng
cũng có những cái khiến con người ấm lòng. Và điều này, có lẽ trí thức
Đoài là người hiểu nhất: “Cốc rượu này tôi dâng cuộc sống. Rượu vừa
ngọt vừa cay. Ai chấp nhận cuộc sống thì cầm lên cho. Cuộc sống dù khỉ
gió nhưng đẹp tuyệt vời’.
Trong thế giới Không có vua của gia đình lão Kiền, giữa lúc mọi giá trị
bị lật nhào, mọi tôn tri sụp đổ, người ta nhìn thấy ở bé Tốn – đứa trẻ thiểu
năng có một tâm hồn thánh thiện. Tốn “bị bệnh thần kinh, ngườ teo tóp,
dị dạng”. Khi được Khiêm giải phóng khỏi buồng cạnh nhà xí, Tốn
“chân tay mặt mũi đen nhẻm nhe răng cười” rồi “lết đôi chân què đi lên
nhà”, bị coi dị dạng vô tích sự trong gia đình. Người ta quen với hành
động cứ lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác của Tốn là xách nước
đi lau nhà. Nhưng phải chăng ở nhân vật lại tồn tại nguyên sơ tất cả bản
năng thiện của loài người khi loài người chưa được “văn minh hóa”. Tốn
“không chịu được bẩn”, “hay giúp đỡ Sinh, nó cư xử với Sinh bằng lòng
tốt vô bờ bến”. Những ý thích nhỏ nhặt của cô, nó thực hiện với lòng tận
tận tụy cầm thú. Nửa đêm, nếu Sinh buộc miệng “có ô mai thì thích” là
24

sẽ có ngay ô mai, làm cho Sinh an ủi phần nào trong gia đình đốn mạt đó.
Lúc nào Tốn cũng lau sàn. Khi bốn ông anh biểu quyết để bố chết thì Tốn
bật khóc hu hu. Và khi bệnh tình bố ngày càng nặng hơn, Tốn không lau
nhà nữa mà “suốt ngày ngồi thu mình trong cái buồng vẫn để than củi
cạnh nhà xí”. Đặt Tốn cạnh hai ông anh cử nhân Đoài và Khảm, ta thấy
nổi bật lên nhân cách của Tốn. Và nữa, lão Kiền, một người cha lúc nào
cũng cau có, luôn gây chuyện và chửi con những lời thậm tệ nhưn khi tắt
thở, trên môi lão “thấp thoáng nụ cười, trông rất hiền lành, trung hậu”.
Phải chăng, chỉ khi con người chết đi họ lại trở về với bản tính ban đầu
khi sinh ra.
Nhân cách cao đẹp của con người có thể cứu rỗi thế giới. Đọc “Không
có vua” ai không ngán ngẩm cho cái bệ rạc, đen tối của gia đình lão Kiền.
Nhưng một phút nào đó, hãy lắng lòng lại để nghe Sinh nói cảm tưởng về
cảnh ngộ của gia đình nhà chồng: “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn,
vừa chua xót nhưng thương lắm”, đã làm cho những nhân vật đang đứng
trước bờ vực tha hoá trở thành người hơn. Ba chữ “nhưng thương lắm”
thổi vào mảnh đất cằn cỗi nhà lão Kiền làn gió mát rượi của sự yêu
thương. Có thể nói những tấm lòng cao thượng, những nhân cách cao
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mở ra một niềm tin mãnh liệt
rằng cuộc đời dẫu còn nhiều đắng cay ngang trái nhưng có thể cải tạo
được. Chính những giây phút đau đớn, vật vã trong tâm hồn của mỗi con
ngời, hãy cứ tin rằng con đường chúng ta đi trong tương lai chắc chắn là
con đường tươi đẹp.
Mỗi người có một số phận khác nhau do xã hội đặt trên vai họ những
trách nhiệm khác nhau, do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau trong
đó có luật nhân quả. Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình. Bản chất con người là lòng nhân từ. Con người có thể bị tha hóa
nhưng ngay cả ở những con người ấy vẫn tìm ẩn lòng nhân ái. Con người
luôn vươn tới điều thiện. Nhưng điều thiện lại hiếm hoi. Trong cuộc hành
25

trình truy tìm điều thiện, con người thường chịu nhiều đau đớn. Cả nhân
cách và diều thiện chỉ có giá trị khi con người cùng vươn lên xây dựng
một cuộc sống phồn vinh. Ở đây, nhà văn muốn gởi gắm đến người đọc
dự mong mỏi con người hãy giữ gìn bản tính tốt đẹp của mình, hãy giữ
lấy nhân phẩm của mình và mọi người xung quanh.
Trước một xã hội bộn bề mà con người thậm chí phải đi tìm lại bản
thể, liệu rằng có chăng một tình yêu đích thực? Nguyễn Huy Thiệp đã trả
lời câu hỏi này trong “Không có vua”. Ta có thể cảm nhận được rằng
trong “Không có vua” hầu như không hề có một tình yêu đúng nghĩa, tất
cả chỉ là vụ lợi. Ở đó tình yêu bị biến thành vô nghĩa bên cạnh thế lực của
đồng tiền, người ta chỉ biết đến có tiền và không hề biết đến tình yêu.
Trong truyện “Không có vua”, Đoài muốn Khảm giới thiệu cô bạn học
cùng lớp cho mình vì nhà cô ấy giàu, là con ông chủ hiệu điện. Và Khảm
nhận lời mai mối cho anh cũng chỉ vì tiền, vì được chia phần trăm nếu vụ
mai mối thành công mà Đoài đã ghi cho mình trong tờ giấy giao kèo hẳn
hoi. “Ngủ được với Mỹ Trinh thưởng cái đồng hồ trị giá ba nghìn. Lấy
Mỹ Trinh, thưởng 5% của hồi môn. Ngày...tháng...năm... Nguyễn Sĩ
Đoài.”
Sự khát khoa tình dục cũng là cảm xúc tình yêu nhục thể ở con người.
Đối với nhân vật Đoài trong “Không có vua” chì xem phụ nữ là một thú
vui, một thử thách để khẳng định bản thân, đặc biệt đối với Sinh hơn cả
lão Kiền, Đoài cho thấy anh là người bất kính, khi gạ gẫm cả chị dâu của
mình. Trong tác phẩm có bốn lần Đoài dùng lời lẽ và hành động từ vu vơ,
mập mờ cho đến ra mặt, trơ trẽn để tiếp cận Sinh. Lần một: ‘Tình ơi tình,
mình ơi mình, tình hở hang lắm cho mình ngẩn ngơ”. Lần hai, Đoài đưa
tay chạm vào lưng Sinh Đoài bảo: “Người chị tôi cứ mền như bún”. Lần
ba: “Thiếu một tý tình thôi, Sinh cho tui xin một tý tình”. Lần bốn: “Sinh
còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu vừa hèn, lại yếu, bác sĩ bảo bị
26

lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con gái gì đâu?”, “Tối nay tôi vào
buồng Sinh nhé?”.
Viết về tình yêu và hạnh phúc cá nhân là một đòi hỏi chính đáng trong
đòi sống con người. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp miêu tả về tình yêu vối sự
đỗ vở bởi vì con người theo ông đã bị tha hóa do nhiều nguyên nhân
trong đó có lối sống thực dụng, sùng bái vật chất, lợi dụng đồng tiền.
Trước một xã hội hỗn loạn như vậy, con người dần bị tha hoá vì đồng
tiền, vì danh lợi và miếng cơm manh ánh, đó là trường hợp của chị Hạnh
trong “Huyền thoại phố phường”.
Hạnh là kiểu nhân vật luôn muốn được đổi đời: “Hạnh nhìn cuộc sống
của bọn người giàu có với nhiều khao khát, thèm muốn.”;“ Chao ôi, nếu y
có một căn nhà với đủ tiện nghi! Nếu y có tiền! Y không phải lo đến
chuyện sinh hoạt. Y sẽ làm việc, sẽ sáng tạo, có thể y thành một người
xuất chúng”. Là một người tài năng, chỉ tự học thôi mà đỗ được bằng đại
học. nhưng anh không lấy thế làm tự hào, vì với anh đã tài năng thì phải
thật sự giàu. Hạnh hiểu giàu có mới là điều kiện để thành đạt. Không có
đồng tiền, sự nghiệp lập thân chỉ là chuyện hão. Để làm được chuyện đó
Hạnh chỉ có thể “ Dè xẻn, tiết kiệm từng hào một”.
Nhưng sau khi tham gia tiệc sinh nhật của giới nhà giàu, Hạnh chợt
nhận ra căn bệnh buồn chán của họ và anh muốn kiếm lợi từ căn bệnh ấy:
“a ha! Hạnh tự nhủ, Y rất có thể nhồi hai tâm hồn ấy một ngọn lửa nhỏ
cho nó bùng lên. Hạnh có sức lực, y thừa tài năng để làm việc ấy. Biết
đâu điều ấy mang lại cho y nhưng cơ hội tốt.” Anh chợt nhớ tới tờ vé số
của Phúc tặng anh và Thoa và buổi đi lễ hôm nay. “ tất cả nghi lễ xoay
quanh chiếc vé số sống lại trong y”… “chiếc vé trúng giải độc đắc mất
thôi!”. Rồi trong đêm đó, anh chợt lóe lên suy nghĩ: “nếu ta đánh tráo
chiếc vé xổ số bất hạnh của ta với chiếc vé kia thì sẽ thế nào?”. Và rồi
anh đã tìm cách trở thành tình nhân của bà Thiều nhằm đánh tráo tờ vé số
bằng mọi giá.
27

Ban đầu Hạnh là một thanh niên sống có ý chí và tham vọng nhưng
trước sự bất công giữa những người thuộc tầng lớp thấp hèn và những kẻ
ăn chơi sa đọa của của giới nhà giàu anh đã bị tha hóa. Biến bản thân
thành một kẻ thực dụng, đê hèn. Thay vì cố gắng bằng năng lực vươn lên
thì anh chọn cách dựa vào may mắn và những chiêu trò trục lợi cho bản
thân. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn viết về những cái trớ trêu. Nhìn thẳng
vào sự thật ông vạch trần tâm lý thực dụng sâu trong vỏ bọc khát khao
vươn lên thoát nghèo của nhân vật
Ngoài ra, một nhân vật không thể không kể đến trong “Huyền thoại
phố” là bà Thiều. Bà Thiều là nhân vật điển hình của sự tha hóa về đạo
đức, nhân phẩm.
Mở đầu câu truyện là bữa tiệc sinh nhật của cái Thoa con gái bà Thiều
với sự góp mặt của giới nhà giàu. Và trong buổi tiệc ấy, bà Thiều nhắc lại
thuở nghèo khó của mình như một “cách làm sang quen thuộc của những
người thành đạt”. bà Thiều tưởng mọi người hưởng ứng câu chuyện của
mình một cách hào hứng nhưng trong lòng những vị khách ấy vang lên
tiếng cười mỉa mai, khinh thường “khách khứa đều hiểu việc biến đổi một
bà bán bún ốc thành triệu phú buôn vàng đâu chỉ đơn thuần là sự vận
động ý chí”. Mở đầu câu truyện tác giả đã cho thấy đằng sau buổi tiệc của
giới nhà giàu ấy là sự khoẽ, họ đến với nhau không phải để chúc mừng
mà vì lợi ích vật chất cá nhân. Trong buổi tiệc các bà buôn vàng đã hoạch
định xong chuyến đi lễ ngày rằm. Bà Thiều chợt nghĩ: “phải lấy tờ vé số
cậu Phúc cho con bé Thoa mang đi xin lộc”. không biết từ khi nào việc đi
đền chùa không còn là việc thiêng liêng, cầu bình an nữa mà đi lễ chùa
chính là đi trao đổi với thần linh: “bà chị xếp vào đấy bảy trăm nghìn tiền
âm phủ” “chị cứ nghe em, cầu thánh đổi tiền âm phủ thành tiền dương
thế là xong! Thánh thần bây giờ cũng song phẳng lắm”.
Bà luôn cho rằng lối sống phóng khoáng được du nhập từ phương Tây
mới là tân tiến: “bà Thiều nằm trên đi văng, mặc bộ đồ xoa mỏng dính”,
28

“bà Thiều lơ đãng lật một tập ảnh khỏa thân nước ngoài. Cách giải trí
này bà vẫn ngang nhiên phô ra với khách để chứng minh rằng đầu óc của
bà tự do tân tiến và ghét thói đạo đức giả cổ hủ lỗi thời.” Sau khi bị Hạnh
bức hiếp bà Thiều đã tự nhận ra sự lăng loàng, mất hết phẩm hạnh của
mình. Hình ảnh người mẹ đức cao vọng trọng trong mắt đứa con gái bà
đã chết, chết trong khoảnh khắc người mẹ trượt dài trong ham me dục
vọng. bà Thiều là kiểu người “luôn ý thức về phẩm giá” nhưng lại hư
hỏng, mất nết “ý thích mơn trớn và thích phiêu lưu háo hức sống dậy
trong bà”, “bà Thiều rên rỉ. Ý thức về phẩm giá khiến bà có những cử chỉ
chống cự yếu ớt”, “ bà Thiều nhắm mắt, hoàn toàn mất vẻ tự chủ”
Qua nhân vật bà Thiều, Nguyễn Huy Thiệp đã vẽ ra một thế giới vô
luân, thế giới của những người đang sống, sống đạo mạo lại là thế giới
của những kẻ đã chết, chết trong tâm hồn, sự phá hoại các giá trị đạo đức
Khi viết về con người Nguyễn Huy Thiệp đã xé toạc cái vỏ bọc của
con người ở chốn đông đúc ấy để viết về cái lõi tâm lý, cái tôi của con
người từ cao cả đến thấp hèn, từ phù du hảo huyền đến thông tục. đó là
những ao ước khát khao, những toan tính mưu mô,kể cả những ham
muốn bản năng. Nguyễn huy thiệp có một giọng văn rất lạnh lung nhưng
ẩn giấu phía sau nó lại là một lòng nhân ái sâu sa, trìu mến đối với con
người, những suy tư của ông về thiện và ác, sáng và tối, cao thượng và
thấp hèn, quỷ và người,… bên trong mỗi con người khiến chúng ta có thể
kết luận rằng nguyễn huy thiệp đã viết những truyện ngắn rất giản dị và
trung thực về con người, đúng với tinh thần đổi mới văn học lúc bấy giờ.
2.3. Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc

Các nhân vật xuất hiện trong truyện ngắn đều như những vị lữ khách
phương xa bước va vào nhau chỉ dừng lại đôi chút rồi thôi. Họ vốn dĩ chỉ
quá bận nhau một đoạn đường rồi vội chia tay nhau. Vì vậy mà sự yêu
thương trong truyện ngắn cùng vô cùng mong manh và chóng vánh. Nhân
29

vật Nương trong truyện là người con gái “đáng thương” cả đời này cô chỉ
có thể nhặt nhạnh, chấp vá những mảnh hạnh phúc dang dở. Nương đã
luôn khao khát yêu thương, khao khát sự chăm sóc dịu dàng đầy nữ tính.
Trên hành trình rày đây mai đó, Nương chới với bám víu lấy những bóng
dáng phụ nữ xa lạ, từ chị chủ nhà “Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ
nhà chính là hy vọng để chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một
người - cha - bình - thường” hy vọng tình yêu của người phụ nữ xóm Bàu
Sen sẽ cảm hóa được ông bố khắc nghiệt và sẽ lại có một cái gọi là mái
ấm cho đến người phụ nữ dưới mồ “Những ngày sau này, tôi một mình
trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền
kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan
chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không
chịu giấu tôi giùm cái”. Nương cứu Sương - cô gái có thân phận làm đĩ
của Sương và cưu mang cô, coi cô như người trong nhà. Cô không khinh
miệt ai bởi ngành nghề thấp kém hay suy tư về những người phụ nữ xa lạ
sẽ khiến cô khổ đau hay sung sướng. Trong suy nghĩ của trẻ nhỏ, có lẽ sự
gắn kết giữa những người bình thường sẽ kéo cái gia đình bất hạnh này ra
khỏi vũng lầy của thù hận. Sương dù tuổi đời chẳng hơn Nương, Điền là
bao nhưng Sương đã tỏ ra là người trưởng thành khi che chở, bảo vệ cho
chúng. Cô đau xót cho những mất mát của Điền và rưng rưng nước mắt
khi nghe kể về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của Nương. Những hành động ấy
khác chi đâu hình bóng của một người mẹ? Sâu trong tiềm thức của
Nương luôn nhớ về mẹ của mình dù có những kí ức đau thương. Không
còn tình yêu thương của me, Nương và Điền sống với một người cha
( tâm hồn của của con sói hoang) luôn mang trong mình hận thù đã đẩy
cuộc đời của hai đứa con thơ rơi vào ngục tối. Nương đau đớn khi nhìn
thấy người cha thay đổi một cách đáng sợ. “Cha đẩy chúng tôi trượt dài
vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó
để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn”. Sự cô đơn đến cùng cực của
30

nhân vật Nương và Điền thông qua chi tiết hai chị em hì hụi trồng và bảo
vệ mấy cây ô môi bởi “cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương,
che chở cho một sinh linh yếu ớt, nhỏ bé nào đó thật ngọt ngào”. Nương
không tìm thấy được sự yêu thương giữa người với người nhau nên cô
giao lưu với vịt để quên đi nỗi đau xót này. “Đắm đuối với loại ngôn ngữ
mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nhìn mình như những kẻ điên
(miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi - người). Chị em tôi học cách yêu
thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một - con -
người nào đó). Nhưng nhiều khi nhìn thằng Điền dõng tai coi mấy con vịt
nói cái gì, tôi giật mình, nuốt một họng đắng, tự hỏi đã đến nỗi này sao,
đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên chuyển qua chơi cùng vịt”. Sự bị
chối bỏ và khát vọng yêu thương đến cùng cực của cô. Sự sống của
Nương và Điền có khác gì mấy con vịt ngoài đồng kia, lầm lũi qua tháng
qua ngày sống dưới sự chăn dắt của người khác.
Nương luôn tìm kiếm hạnh phúc gia đình, một cuộc sống ổn định. Ước
muốn được quay lại cuộc sống bình thường, nơi có thể chạy nhảy, có thể
trồng một thứ cây gì đó, có ai đó để thương và được thương chứ không
phải mãi lênh đênh giữa dòng đời. Và dẫu có cố sức che giấu thì Nương
và Điền cũng không thể đè nén được sự thèm khát tình yêu thương và mái
ấm gia đình. Họ khao khát một cuộc sống bình thường với những sinh
hoạt bình thường với một người cha bình thường. Chúng thèm đượctrồng
thứ gì đó trước nhà, chúng thèm được có nhà, thèm có người để thương
nhớ, nhưng đời sống của hai chị em buộc phải kìm lòng không được yêu
thương ai để khỏi phải ngậm ngùi mà dứt áo ra đi. Đè nén và che giấu
cảm xúc là công việc hằng ngày của hai chị em, đó là một nỗi đau không
thể chia sẻ với đồng loại nên chúng kết bạn với lũ vịt để tạm quên nỗi
buồn của cõi người. Như là một ẩn dụ tuyệt vời về nỗi cô đơn và thèm
khát tình cảm của con người. Nguyễn Ngọc Tư đã để cho hai chị em nghe
được tiếng nói của bầy vịt và cảm nhận sự yêu thương vô tư của chúng
31

như một sự bù đắp bi đát chỉ càng làm chúng thêm đau khổ và tuyệt vọng
mà thôi. Hai chị em bị đày đọa sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất
lẫn tình yêu thương, đói khát đến cùng cực. Khiến chúng dường như ngày
càng xa lạ với thế giới loài người, mặc dù lúc nào cũng nhung nhớ. Công
việc chăn vịt thăm thẳm qua bao cánh đồng đối với hai chị em như một
chặng hành trình nhọc nhằn và đau khổ, những đứa trẻ méo mó vì thiếu
tình thương, vì thèm người và nhớ người. Vì chúng không thể mãi như
những chú vịt ngoài đồng ruộng, mãi rong ruổi qua những cánh đồng.
Chúng thèm khát có ai đó yêu thương, quan tâm và vỗ về nhưng tất cả
đều vô vọng nên chúng đành chấp nhận sống và giao tiếp cùng lũ vịt như
một lẽ khắc nghiệt mà cuộc sống này ban tặng. Và rồi cuối cùng sự khắc
nghiệt của cuộc đời lại tiếp tục rơi xuống số phận đáng thương của
Nương, Nương đã hứng chịu quả báo của người cha, cô bị bọn cướp vịt
cưỡng hiếp trước sự chứng kiến đau đớn bất lực của cha. Trong đau đớn ê
chề Nương vẫn hy vọng, ước mơ. “Đứa con gái thoáng nghĩ rớt nước
mắt…có thể mình sẽ sinh con… Đứa bé đó nhất định nó sẽ đặt tên là
Thương là Nhớ… Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường,
sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời…”. Nương không hận cha cô,
Nương không hận bọn cướp mà cô đã nghĩ sẽ tha thứ tất cả. Cô sẽ sống
một cuộc đời mới cùng với con cô, cô sẽ yêu thương đứa con này thật
nhiều. Cô sẽ làm cho nó những điều mà cả đời này cô chưa bao giờ được
nhận từ mẹ cô. Nương luôn biết cách tìm kiếm hạnh phúc từ những điều
mong manh, nhỏ nhặt nhất.
32

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HÌNH


TƯỢNG CON NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
3.1. Đặc điểm nội dung hình tượng
3.1.1. Con người đa nhân cách
Thế giới nội tâm tình cảm của con người trong văn học vô cùng đa
dạng, phong phú. Phương diện tình cảm được thể hiện nhiều chiều, nhiều
mặt khác nhau. Con người có thể sống trong tình yêu, hạnh phúc ngập
tràn, nhưng cũng có thể ngụp lặn chơi vơi trong muôn vàn hiện thực éo
le, lênh đênh trên con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực.
Có những nhân vật đem tình cảm đánh đổi với vật chất, biến những giá
trị tinh thần cao cả và đẹp đẽ trở thành thứ tình cảm thực dụng. Nhân vật
Đoài trong tác phẩm “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp chính là
một ví dụ điển hình, anh xem tình cảm và những người phụ nữ như một
trò đùa, tình yêu đối với anh vô cùng nhàm chán và dễ dàng có được.
Đích đến của nhân vật này không phải là tìm kiếm và khát khao tình yêu,
mà là một loại tình cảm thực dụng, gắn liền với đồng tiền, vật chất, không
những thế còn phảng phất những bản năng dục vọng tầm thường. Nhân
vật Khảm vì đồng tiền mà lu mờ lí trí, nghe theo lời của Đoài chinh phục
một cô gái nhưng mục đích chỉ là thể hiện bản thân, đổi lại bằng vật chất.
Vậy mới thấy thế giới tình cảm của những nhân vật trong văn học vô
cùng phong phú, nhiều màu sắc. Không chỉ là những mối tình đẹp lung
linh như một thước phim lãng mạn, mà còn là những mặt trái, những
nhập nhằng xoay quanh vấn đề này. Tình cảm đôi khi là một thứ gì đó lớn
lao, thiêng liêng với nhân vật này, nhưng cũng có thể là trò chơi, trò tiêu
khiển của nhân vật khác. Màu sắc tính cách của các nhân vật được thể
hiện vô cùng sặc sỡ, hình tượng con người đời thường thể hiện qua đời
sống tình cảm cũng vì vậy mà đa dạng hơn.
33

3.1.2. Con người với chiều sâu nội tâm, tự nhận thức
Cuộc sống bộn bề, đầy thách thức đôi khi cuốn chúng ta ra khỏi những
định hướng nhận thức cá nhân ban đầu, rơi vào một mớ hỗn độn không
lối thoát. Các nhân vật trong những truyện ngắn sau đây cũng hiện lên
một khoảnh khắc như một ví dụ cho thấy con người đời thường trong văn
học cũng rơi vào trạng thái mất phương hướng, có những nhân vật phải
dành thời gian chiêm nghiệm lại bản thân.
Nhân vật anh nhà văn T. trong “Sắm vai” chính là một minh chứng
cho sự dằn vặt nội tâm, lầm đường lạc lối trong việc tìm ra cái tôi bấy lâu
bị chôn vùi và sống trong hạnh phúc gia đình giả tạo. Anh từng là một
con người đặc biệt “dám tự tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp
vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả những cái gì lấp lánh có thể lừa dối mình và
người khác”, nhưng rồi chiều theo ý thích của người vợ mà anh thay đổi
bản thân mình, sống như đang diễn một vở kịch dưới vai một nhân vật
khác không phải anh. Anh gượng ép mình khoác lên mình một ngoại hình
khác, một lối sống lối suy nghĩ khác. Qúa trình anh nhà văn đấu tranh tư
tưởng, tự nhận thức và tìm lại bản thể của mình chính là những nét đặc
sắc trong chiều sâu nội tâm của nhân vật. Anh nhà văn T. đã phải đấu
tranh để chọn hoặc là bản thân hoặc là gia đình yên ấm. Cuối cùng anh đã
tự cởi bỏ lớp áo mà anh gọi là “vai diễn lố bịch”, giải thoát cho bản thân
và trở về làm chính mình. Nhân vật có chiều sâu nội tâm và sự đấu tranh
trong nhận thức để có thể tìm lại được bản thể đúng của mình.
Hay nhân vật chị Hằng trong tác phẩm “Mẹ con chị Hằng” của nhà
văn Nguyễn Minh Châu, ta thấy được những đức tính “hồn nhiên”, “vô
tư” của chị khiến cho chúng ta phải tự nhận thức. Nguyễn Minh Châu đã
để các hành động của nhân vật tuôn ra theo cảm xúc và cái tôi cá nhân,
hết sức tự nhiên và quán tính. Tính cách khó chiều của nhân vật chị Hằng
đã được nhà văn thể hiện rõ nét ra bằng hành động và lời nói. Có lúc, chị
cũng tự nhận thức được là bản thân quá đáng nhưng rồi khi dòng suy nghĩ
34

hối hận bị cắt đứt bởi những đứa con thì tất cả lại đâu vào đấy khiến cho
bà cụ Huân và thậm chí suýt nữa cô em ruột Quyền đau khổ một cách rất
hồn nhiên. Con người vẫn cứ mãi đồng bóng như thế, đây là một sự nguy
hiểm mà nhà văn muốn cảnh báo. Con người thật khó để mà hiểu rõ biết
nhường nào.
Hay những nhân vật trong truyện ngắn “Không có vua” của Nguyễn
Huy Thiệp là những con người có nội tâm phức tạp, bên trong họ tồn tại
những mâu thuẩn giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thượng và thấp
hèn,...Đằng sau những giây phút rối loạn, lộn xộn cũng là những phút
ngẫm nghĩ, trong cùng một con người như nhân vật Đoài vừa có thể có
một nét suy đồi đạo đức khi đem tình cảm cân đo với vật chất, tình dục,
thì cũng có những nét thiện “Cốc rượu này tôi dâng cuộc sống. Rượu vừa
ngọt vừa cay. Ai chấp nhận cuộc sống thì cầm lên cho. Cuộc sống dù khỉ
gió nhưng đẹp tuyệt vời”.
Trong truyện ngắn “Huyền thoại phố” phường của Nguyễn Huy Thiệp,
nhân vật bà Thiều sau những hành động và lời nói không xứng đáng với
vị thế của mình, bà đã thức tỉnh và nhìn nhận lại sự đốn mạt, lăng loàng
ngay trong chính mình của ngày trước. Vượt qua những ý nghĩ, phong
cách sống lẳng lơ, lúc đó trong bà chỉ còn tồn đọng lại sự thất vọng và tủi
nhục. Bà ngụp lặn giữa ý thức thức tỉnh bản thân về phẩm giá của mình
nhưng đã quá muộn khi hình ảnh một người mẹ không còn mẫu mực mà
trượt dài trong sự ham mê dục vọng. Lúc này, bà chỉ còn cách chống cự
yếu ớt, nửa tỉnh nửa mê khi mọi thứ đã rồi.
3.1.3. Con người đứng trước nguy cơ tha hoá
Trong xã hội có phần rối ren, náo loạn, con người nhiều lúc mạnh mẽ
vẫn giữ được chính mình những lại có những người vô tình thích nghi mà
để bị ảnh hưởng tiêu cực, tha hóa về nhân cách và đạo đức.
Nhân vật Đoài và nhân vật Khảm trong tác phẩm “Không có vua”
chính là một ví dụ. Vì hai chữ vật chất mà bán rẻ lương tri của mình,
35

Đoài thì năm lần bảy lượt có ý chiếm đoạt, loạn luân với chị dâu của
mình: Lần một: ‘Tình ơi tình, mình ơi mình, tình hở hang lắm cho mình
ngẩn ngơ”. Lần hai, Đoài đưa tay chạm vào lưng Sinh Đoài bảo: “Người
chị tôi cứ mền như bún”. Lần ba: “Thiếu một tý tình thôi, Sinh cho tui xin
một tý tình”. Lần bốn: “Sinh còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu
vừa hèn, lại yếu, bác sĩ bảo bị lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con gái
gì đâu?”, “Tối nay tôi vào buồng Sinh nhé?”. Còn nhân vật Khảm, cũng
bị đồng tiền làm cho lu mờ mà nghe theo lời Đoài chinh phục một cô gái,
với một cái giá “không tưởng” mà Đoài đưa ra trong giấy cam kết coi như
tiền đánh đổi liêm sỉ của bản thân:“Ngủ được với Mỹ Trinh thưởng cái
đồng hồ trị giá ba nghìn. Lấy Mỹ Trinh, thưởng 5% của hồi môn.
Ngày...tháng...năm... Nguyễn Sĩ Đoài.”
Hay nhân vật Hạnh trong “Huyền thoại phố phường”, chỉ vì đam mê
làm giàu, ước mong đổi đời mà biến mình thành một kẻ thực dụng, vô
đạo đức. Anh chọn cách cố gắng trở thành tình nhân của bà Thiều để từng
bước gia nhập vào cuộc sống giàu sang của giới thượng lưu và trục lợi
cho bản thân, điều đó đã đi ngược lại với đạo lý và thuần phong mỹ tục
của xã hội. Còn nhân vật bà Thiều, bà cho là lối suy nghĩ phóng khoáng,
thoáng đãng của phương Tây mới thể hiện được mình là người tiến bộ,
văn minh. Bằng những hành động không giống ai như “mặc bộ đồ xoa
mỏng dính” hay “lật một tập ảnh khỏa thân nước ngoài”, bà phô ra hết
cho quan khách để chứng minh sự tân tiến trong lối sống của mình. Chính
thói đua đòi, tiếp thu những cái không phù hợp với mình biến bà trở
thành một con người lẳng lơ, tha hóa về phẩm cách và cuối cùng sa lầy
vào dục vọng.
Con người đời thường trong những truyện ngắn trên chính là sản phẩm
lỗi sau khi bị hoàn cảnh xã hội tác động. Họ bị những giá trị tầm thường
của cuộc sống làm cho biến tướng về suy nghĩ và hành động, đối với họ
không biết là đáng thương hay là đáng trách.
36

3.1.4. Con người trên hành trình kiếm tìm


Nhân vật Nương trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” chính là mẫu
nhân vật dành cả đời để tìm kiếm hạnh phúc đích thực, tìm kiếm ý nghia
của cuộc sống đủ đầy tình cảm. Không có sự yêu thương của mẹ, lớn lên
và nhìn thấy sự thay đổi tiêu cực của cha đã khiến nhân vật bị ám ảnh với
sự thiếu thốn tình cảm. Cô dành phần nhiều thời gian của mình để tìm
kiếm giá trị đích thực của cuộc sống tới từ chính những tình cảm của mọi
người xung quanh. Cô chỉ mong có một gia đình bình thường, một chỗ
dựa tinh thần để tự do bay lượn. Cô lấy chị chủ nhà để làm hy vọng trở về
với một cuộc sống bình thường, bám víu vào tình cảm của người khác để
mong tìm được sự chở che, sự quan tâm. Cô không tìm thấy tình yêu
thương giữa người với người nên đành đi giao lưu với vịt. Chính những
tình cảnh éo le đã khiến cô trở nên khát khao tình yêu, luôn luôn tìm kiếm
hạnh phúc trong cuộc sống.
Hay nhân vật chị Thắm trong truyện ngắn “Chảy đi sông ơi” của
Nguyễn Huy Thiệp, chị là một người có tấm lòng cao thượng, một tâm
hồn đẹp. Chị là một người lái đò, năm lần bảy lượt cứu rất nhiều người
thoát khỏi những con sóng dữ, hướng tới một mẫu hình cao thượng. Cuối
cùng, chị chết đuối mà không một ai cứu giúp như chị đã từng làm với
họ. Ấy thế mà chị vẫn bao dung, chị bảo đừng trách người dân, họ ngu
muội, họ không biết gì. Nhân vật tôi trong tác phẩm cũng chua xót thay
cho số phận của chị Thắm, trên con đường đơn độc mà chị đã đi để tìm
thấy giá trị tốt đẹp của cuộc đời thể hiện qua cách mà chị không ngại khó
cứu vô số người khỏi lưỡi hái tử thần. Để rồi cũng chính trên con đường
đó mà chị đơn độc ra đi, tồn tại ở đâu tình cảm giữa người với người hay
chỉ là sự thờ ơ, lạnh nhạt rồi đổ lỗi cho hoàn cảnh? Đó cũng chính là câu
hỏi tác giả đặt ra.
Những nhân vật trên không bị ảnh hưởng tiêu cực của hoàn cảnh, số
phận, họ luôn luôn tìm thấy sự hạnh phúc trên con đường tìm kiếm những
37

giá trị đích thực của cuộc sống, đơn giản như tình yêu thương, sự chăm
sóc hay sự quan tâm trợ giúp giữa những con người với nhau. Họ luôn
giữ cho mình một tâm hồn đẹp, hướng tới những điều đẹp đẽ trong muôn
vàng gian truân của cuộc sống, đáng trân trọng và ngợi ca.
3.2. Đặc điẻm nghệ thuật hình tượng
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả nội tâm
Cách những nhà văn xây dựng cho nhân vật của mình một thế giới nội
tâm vô cùng phong phú đã định hình hình tượng con người trong tác
phẩm của họ. Dưới ngòi bút tài tình, các nhà văn đã miêu tả nội tâm nhân
vật một cách chi tiết và sống động nhất. Có thể là sự giằng xé giữa bản
thân và hoàn cảnh như anh nhà văn T. trong “Sắm vai”, sự mập mờ
trong tư tưởng thiện ác của các nhân vật trong “Không có vua” hay sự
đấu tranh dữ dội và giá trị đạo đức và nhân phẩm của nhân vật bà Thiều
trong “Huyền thoại phố phường”.
Bút pháp miêu tả nội tâm của các nhà văn vô cùng chi tiết và dễ hiểu,
bằng những đoạn độc thoại nội tâm hay những chùm ý nghĩ sâu sắc của
các nhân vật, các nhà văn đã lột tả được sự đa dạng và phong phú trong
thế giới nội tâm nhân vật, biểu hiện những mâu thuẫn bên trong nhận
thức của mỗi nhân vật. Từ đó liên kết xây dựng lên hình tượng con người
đời thường trong các tác phẩm với nhiều màu sắc phong phú.
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách
Bằng cách xây dựng những tính cách khác nhau, nhiều sắc thái và cấp
độ, các nhà văn đã khắc họa tính cách nhân vật để từ đó liên kết tạo nên
hình tượng con người hoàn chỉnh trong mỗi tác phẩm.
Tính cách yếu đuối, bất lực trước số phận của nhân vật Nương trong
Cánh đồng bất tận đã góp phần làm nên một con người lúc nào cũng
mong mỏi, tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống.
38

Hay sự nhu nhược, có phút yếu lòng mà suýt đánh mất chính mình,
tưởng chừng như sẽ phải đóng mãi cái vai dị hợm cả đời của anh nhà
văn T.
Với những hành động quá đáng, những lời nói vô ý tứ cộng với tính
cách thất thường mà tác giả xây dựng cho chị Hằng trong tác phẩm “Mẹ
con chị Hằng” góp phần làm nên một con người thoái hóa đạo đức, dùng
những từ ngữ thô tục và thái độ bất cần để đối xử với mẹ mình.
Hoặc cách mà Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng tính cách cho nhân vật
Đoài trong “Không có vua”, nhân vật bà Thiều và nhân vật Hạnh trong
“Huyền thoại phố phường”. Họ đều là những con người có sự ngông
trong cách suy nghĩ và hành động, có phần bất chấp và bất cần trước
những đạo lý của xã hội mà hướng đến cho nhân vật một hình tượng tha
hóa, biến tướng về đạo đức và nhân phẩm.
Cũng là Nguyễn Huy Thiệp nhưng trong “Chảy đi sông ơi”, ông đã
hình thành cho nhân vật chị Thắm một tính cách đẹp đẽ, thể hiện qua sự
dũng cảm, cao thượng và tấm lòng bao dung của chị trước sự hời hợt của
những người xung quanh. Từ đó hướng đến hình tượng con người nhân
từ, vị tha và có những đức tính tốt đẹp, những phẩm chất đáng trân quý.
3.3. Lý giải đặc điểm chung
3.3.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội
Ngày 30/4/1975 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã
két thúc toàn thắng. Đất nước thu về một mối, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế mở rộng ( quan hệ với 97 nước trên thế giới). Đất nước
bước vào thời kỳ mới. Đại hội lần thứ tư, 5,6, 7, 8 được tiến hành định
kỳ, mỗi nhiệm kỳ đại hội đều đặt ra cho đất nước những nhiệm vụ mới.
Sau giải phóng Miền Nam đất nước chuyển mình sang cải tạo về kinh tế
đất nước nền văn học dân tộc tưởng như cứ thế “ thừa thắng xông lên”
giành những thành tựu rực rỡ hơn. Những người cầm bút có sự hụt hẫng,
một sự lệch pha “ giữa người sáng tác và công chúng của mình”. Nguyên
39

Ngọc ghi lại những tâm trạng của mình “ Trong khi các nhà văn chúng ta
say xưa, bây giờ hoà bình vốn sống tích luỹ bao nhiêu năm bao năm như
“ cá tức trứng” muốn đẻ lắm rồi, thì giờ thừa nứa ra đó, bom đạn cũng
thẳng hết rồi, vật chất cũng khốn đốn hơn nhiều, tha hồ mà viết, viết cho
hết cho đã ...” thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất máu thịt giữa công
chúng và văn học đột nhiên, lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi,người đọc
mới hôm qua mặn mà thế, bỗng dưng bây giờ quay lại với anh “ Bởi vì
thời thế đã thay đổi, mà văn học vẫn viết theo quá trình cũ.”
Đặc biệt đại hội đảng lần thứ VI ( 1986), Nghị quyết về mới nền văn
học là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước. Đặc
biệt từ nghị quyết VI của đảng luôn luôn đặt cho văn học nghệ thuật một
nhiệm vụ mới quan trọng đó là: “ Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng
tạo cuả văn học nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy
hiệu quả của lao động nghệ thuật”. Văn nghệ phải biết cổ vũ cái tốt phê
phán cái sấu, chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của
đảng. Công cuộc đổi mới đã đáp ứng đúng nguyện vọng của các nhà văn
và độc giả cũng như quy luật phát triển khách quan của lịch sử, và nó trở
thành phong trào mạnh mẽ. Năm 1976 Thái Bá Lợi viết “Hai người trở
lại trung đoàn”, năm 1979 Nguyên Trọng Oánh viết “ Đất trắng”,
Nguyễn Khải viết “ Cha và con” từ đầu những năm 1980 tình hình sôi nổi
hơn. Nguyễn Mạnh Tuấn viết : “ Những khoảng cách còn lại, Đứng trước
biển, Cù lao tràm”, Ma Văn Kháng viết “ Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng
trong vườn”, Nguyễn Minh Châu viết “ Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành”, “Bến quê” Lê Lựu viết “Thời xa vắng” Nguyễn Khải viết “Thời
gian của người”.
Như vậy hoàn cảnh lịch sử mới đã tạo nên một nền văn học có những
thay đổi rõ nét có chiều sâu, phát triển theo hướng đổi mới, dân chủ phát
triển mạnh mẽ gây được sự chú ý của dư luận.
40

3.3.2. Đặc điểm văn học giai đoạn sau năn 1975 đến nay
Văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng đồng
mà cũng có thể và cần phải là phát ngôn của mỗi cá nhân. Không chỉ kinh
nghiệm cộng đồng mới được coi trọng mà cũng cần đến kinh nghiệm cá
nhân để làm giàu thêm cho nhận thức của mỗi người và toàn xã hội.
Trong một nền văn học hướng tới tinh thần dân chủ, đòi hỏi và có thể
thừa nhận tư tưởng riêng, cái nhìn riêng của mỗi người thì người viết dù
rất tin và muốn bênh vực cho những tín niệm của mình cũng không thể
không biết đến những tư tưởng và quan niệm khác. Mối quan hệ giữa nhà
văn và bạn đọc cũng thay đổi theo hướng dân chủ hóa, bình đẳng hơn để
người đọc thực sự được tôn trọng, được quyền làm chủ. Nhà văn không
cũng là người độc quyền ban bố, phán truyền các chân lý không thể bàn
cãi, bởi nó là tư tưởng chung, là mục tiêu cao cả của cả cộng đồng (nhưng
cũng chính vì thế mà rất ít khi tư tưởng trong tác phẩm là tư tưởng riêng
của nhà văn).
Cùng với những thay đổi trong quan niệm về nhà văn thì quan niệm về
hiện thực như là đối tượng phản ánh, khám phá của văn học cũng được
mở rộng và mang tính toàn diện. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách
mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà đó cũng là hiện thực
của đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa sự,
phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời
sống. Hiện thực đó cũng là đời sống cá nhân của mỗi con người với
những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng mọi mặt, cả
hạnh phúc và bi kịch. Hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã
mở ra những không gian vô tận cho văn học thỏa sức chiếm lĩnh, khám
phá, khai vì.
Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài
và chủ đề mới, làm đổi thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng
đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng
41

triết học và hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con
người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái
đích cuối cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước
đo giá trị của mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử. Con
người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa
chiều của mọi mối quan hệ: Con người xã hội, con người với lịch sử, con
người của gia đình gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với
những người khác với chính mình… Con người cũng được văn học khám
phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời
sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả
và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong
tính nhân loại phổ quát.
Xu hướng dân chủ hóa và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đưa tới sự
phát triển phong phú, sôi nổi đa dạng của văn học từ sau năm 1975, đặc
biệt là từ thời kỳ đổi mới của đất nước. Sự đa dạng và phong phú được
thể hiện trên nhiều bình diện của văn học: đa dạng về đề tài, phong phú
về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong cách
và khuynh hướng thẩm mỹ. Quả thực khu vườn văn học ngày nay là một
cảnh tượng rất đa sắc màu, hương vị, nhiều dáng vẻ thậm chí có cả những
hiện tượng kỳ dị, lạ lùng.
42

TỔNG KẾT
Hoà bình lập lại cùng với sự cởi trói tư tưởng cho văn học của Đảng,
giai đoạn sau năm 1975 tới nay là một giai đoạn hết sức năng động với sự
đa dạng từ đề tài, nội dung tới nghệ thuật thể hiện. Đặc biệt con người với
chiều sâu tâm hồn là cảm hứng chủ đạo của văn học nói chung và truyện
ngắn nói riêng từ sau năm 1975 tới nay.
Con người đời thường giai đoạn này mang một sự phức tạp riêng của
nó với chiều sâu của nhận thức, với sự rối rắm chồng chéo trong quan hệ
giữa người với người. Con người dần được nhìn nhận ở phương diện đa
chiều và không còn có thể đưa ra phán xét được đúng sai chính - tà nữa.
Tất cả đòi hỏi ở độc giả sự chiêm nghiệm về giá trị đạo đức, giá trị nhân
sinh trong những nhân vật văn học này.
43

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đoàn Thị Huệ. (2010). Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu : Luận văn thạc sĩ Văn học chuyên ngành Lý luận
văn học. TP.HCM: ĐHSP TP. HCM.
2. Đồng Nguyễn Minh Hằng. (8/ 2015). Đặc điểm ngôn ngữ người trần
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (tr. 103-108), Tạp chí
ngôn ngữ và đời sống số 238
3. Đinh Thị Kiều Oanh. (2017). Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nhìn từ cấu trúc trần thuật. TP.HCM: ĐHSP TP.HCM.
4. Hoàng Kim Oanh. (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
TP.HCM: ĐHSP TP.HCM.
5. Hồ Tấn Nguyên Minh. Nỗi suy tư về con người trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh số 02/2013. TP.HCM: ĐHSP TP. HCM.
6. Nguyễn Huy Thiệp. (2001). Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp: Truyện
ngắn. Hà Nội: NXB Phụ nữ.
7. Nguyễn Minh Châu. (2006). Nguyễn Minh Châu: Tuyển tập truyện
ngắn. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
8. Nguyễn Minh Châu. (1984). Mảnh trăng cuối rừng. Hà Nội: NXB
Văn học Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Tư. (2017). Cánh đồng bất tận: Tập truyện ngắn (Tái
bản lần thứ 40). TP.HCM: NXB Trẻ.
10. Nguyễn Thành Ngọc Bảo. (2008). Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư. TP.HCM: ĐHSP TP. HCM.
11. Nguyễn Văn Công. (2011). Những chuyển biến về tư tưởng và bút
pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 : Luận văn
Thạc sĩ Văn học chuyên ngành Văn học Việt Nam. TP.HCM: ĐHSP
TP. HCM.
44

12. Nguyễn Văn Long. (16/12/2012). Một số vấn đề cơ bản trong nghiên
cứu văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975. Truy cập ngày:
20/10/2020. Truy xuất từ: https://phebinhvanhoc.com.vn/mot-so-van-
de-co-ban-trong-nghien-cuu-lich-su-van-hoc-viet-nam-giai-doan-tu-
sau-1975/
13. Lại Nguyên Ân. (07/05/2012). Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
những năm 1980. Truy cập ngày 20/10/2020. Truy xuất từ:
https://phebinhvanhoc.com.vn/truyen-ngan-nguyen-minh-chau-
nhung-nam-1980/
14. Trương Thị Ngọc Cẩm (2013). Quan niệm về con người trong sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp (khảo sát truyện ngắn). TP.HCM: ĐHSP
TP.HCM.

You might also like