Professional Documents
Culture Documents
Viêm khớp nhiễm trùng mạn tính
Viêm khớp nhiễm trùng mạn tính
Nhiễm lậu cầu lan tỏa (tổn thương ở da), lậu cầu
HÌNH ẢNH DO BÁC SĨ S. E. THOMPSON VÀ J. PLEDGER CUNG CẤP THÔNG QUA
THƯ VIỆN HÌNH ẢNH Y TẾ CÔNG CỘNG CỦA TRUNG TÂM KIỂM SOÁT VÀ
PHÒNG NGỪA DỊCH BỆNH.
Các triệu chứng của ổ nhiễm trùng niêm mạc nguyên phát (như viêm niệu đạo, viêm
cổ tử cung) có thể không xuất hiện.
Nghi ngờ viêm khớp nhiễm trùng ở những bệnh nhân viêm một khớp hoặc vài khớp
cấp tính và những bệnh nhân có các triệu chứng đặc trưng của viêm khớp nhiễm
trùng (ví dụ, viêm đa khớp di chuyển, viêm bao gân và các tổn thương da điển hình
do lậu cầu; đỏ da hoặc dấu hiệu khác của Bệnh Lyme).
Những bệnh nhân đang dùng liệu pháp ức chế miễn dịch (ví dụ, corticosteroid, thuốc
ức chế interleukin 6) với các yếu tố nguy cơ (ví dụ, viêm khớp dạng thấp), khớp giả,
hoặc nhiễm trùng ngoài khớp có thể lan truyền sang khớp (ví dụ, nhiễm lậu ở cơ quan
sinh dục, viêm phổi, vãng khuẩn huyết hay bất kỳ một nhiễm trùng kỵ khí nào) cũng
cần loại trừ viêm khớp nhiễm khuẩn ngay cả khi triệu chứng viêm một khớp hay nhiều
khớp là nhẹ.
Viêm khớp đại cương
Xét nghiệm dịch khớp là xét nghiệm nền tảng trong chẩn đoán nhiễm trùng khớp
cấp tính. Dịch khớp được đánh giá sơ bộ và được gửi đi làm xét nghiệm đếm và phân
tích tế bào, nhuộm Gram, nuôi cấy hiếu khí, kỵ khí và tìm các tinh thể. Dịch khớp có
mùi thối gợi ý nhiễm khuẩn kỵ khí. Dịch khớp nhiễm khuẩn cấp tính thường có số
lượng bạch cầu (WBC) > 20.000/mcL (đôi khi > 100.000/mcL) trong đó chứa > 95%
bạch cầu đa nhân. Số lượng bạch cầu ở viêm khớp nhiễm khuẩn không do vi khuẩn
lậu có xu hướng cao hơn viêm khớp nhiễm khuẩn do vi khuẩn lậu. Số lượng bạch cầu
có thể thấp hơn trong giai đoạn sớm hoặc do điều trị.
Nhuộm Gram chỉ phát hiện vi khuẩn từ 50 đến 75% các khớp bị nhiễm khuẩn cấp
tính, thường gặp nhất là tụ cầu. Nếu dương tính, nhuộm Gram giúp gợi ý, nhưng nuôi
cấy giúp xác định chẩn đoán.
Việc tìm thấy các tinh thể không loại trừ bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn phối hợp. Xét
nghiệm dịch khớp ban đầu thường không thể phân biệt được giữa viêm khớp nhiễm
khuẩn và các bệnh khớp viêm khác. Có sự trùng lặp đáng kể giữa số lượng tế bào
hoạt dịch trong dịch khớp của bệnh nhân mắc bệnh gút và nhiễm trùng. Nếu không
thể phân biệt dựa trên lâm sàng hoặc xét nghiệm dịch khớp, cần đặt ra chẩn đoán
viêm khớp nhiễm khuẩn trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Cấy dịch khớp vào các lọ cấy
máu kỵ khí có thể cải thiện việc phát hiện Kingella kingae.
Các xét nghiệm máu, như cấy máu, công thức máu và tốc độ máu lắng (hoặc protein
phản ứng C) thường được thu thập. Tuy nhiên, kết quả bình thường cũng không loại
trừ tình trạng nhiễm trùng. Ngoài ra, số lượng bạch cầu, tốc độ máu lắng hoặc protein
phản ứng C có thể tăng ở các trường hợp viêm khớp không do nhiễm trùng (bao gồm
cả bệnh gout). Nồng độ urat huyết thanh không nên dùng để chẩn đoán hoặc loại trừ
bệnh gút vì nó có thể bình thường hoặc thậm chí là thấp trong bệnh gút, và có thể
cao, mặc dù không liên quan đến bệnh gút, với bệnh nhiễm trùng cấp tính do vi
khuẩn.
Xét nghiệm phân tử (ví dụ, chuỗi phản ứng polymerase) có thể được sử dụng để
phát hiện trực tiếp các vi sinh vật trong mẫu bệnh phẩm. Vi khuẩn lậu có thể được
phát hiện bằng phản ứng khuếch đại axit nucleic (NAAT) từ mẫu bệnh phẩm tại cổ tử
cung, niệu đạo, hầu họng hay trực tràng. Một số vi khuẩn khó nuôi cấy, chẳng hạn
như Mycobacterium tuberculosis và Tropheryma whipplei, có thể được phát hiện trực
tiếp trong dịch khớp bằng NAAT.
X-quang thường quy khớp có thương tổn không giúp cho việc chẩn đoán nhiễm
khuẩn cấp tính nhưng đôi khi có thể loại trừ các bệnh khác (như gãy xương). Các
biểu hiện ở giai đoạn sớm của viêm khớp nhiễm khuẩn cấp tính có thể gặp như sưng
tấy phần mềm và các dấu hiệu của tràn dịch khớp. Sau 10 đến 14 ngày, nếu không
được điều trị bệnh có thể gây phá hủy cấu trúc, gây hẹp khe khớp (phản ánh sự hủy
hoại sụn) và sự bào mòn hoặc phù tủy xương dưới sụn. Nhìn thấy hình ảnh khí trong
ổ khớp gợi ý nhiễm khuẩn do Escherichia coli hoặc các vi khuẩn kỵ khí.
MRI Viêm khớp cổ tay do lậu cầu
MRI được chỉ định trong trường hợp thăm khám và hút dịch khớp khó thực hiện (như
các khớp cột sống). MRI hoặc siêu âm giúp xác định tình trạng tràn dịch khớp hoặc
các khối áp xe để thể hút hoặc dẫn lưu giúp chẩn đoán và điều trị. MRI có thể có dấu
hiệu gợi ý sớm của viêm tủy xương kết hợp. Chụp xạ hình xương với technetium-99m
có thể âm tính giả trong viêm khớp nhiễm khuẩn. Ngoài ra, vì chúng cho thấy tình
trạng tăng hấp thu và tăng lưu lượng máu trong màng hoạt dịch khớp viêm và trong
hoạt động chuyển hóa của xương, nên có thể gây dương tính giả trong trường hợp
viêm khớp không do nhiễm khuẩn như trong bệnh gút. Chụp xạ hình xương và MRI
không phân biệt được viêm khớp nhiễm khuẩn với viêm khớp do tinh thể.
Viêm khớp do lậu cầu
Nếu nghi ngờ viêm khớp do vi khuẩn lậu thì mẫu máu và dịch khớp nên được nuôi
cấy ngay trên thạch sôcôla không chọn lọc, các mẫu bệnh phẩm từ niệu đạo, nội mạc
cổ tử cung, trực tràng và họng nên được nuôi cấy trên môi trường Thayer-Martin chọn
lọc. Các xét nghiệm dựa trên axit nucleic thường được dùng để chẩn đoán lậu cầu
đường sinh dục cũng được thực hiện trên dịch khớp trong các phòng xét nghiệm
chuyên khoa. Tiến hành nuôi cấy bệnh phẩm đường sinh dục hoặc xét nghiệm DNA.
Nuôi cấy máu có thể dương tính trong tuần đầu và có thể giúp cho chẩn đoán vi sinh
vật.
Nuôi cấy dịch khớp từ các khớp bị viêm mủ rõ thường dương tính và chất dịch từ các
tổn thương da có thể dương tính. Ngay cả khi tất cả các mẫu bệnh phẩm nuôi cấy
đều âm tính, nhiễm khuẩn do lậu cầu vẫn được nghĩ đến dựa trên các tiêu chuẩn lâm
sàng nếu nghi ngờ nhiễm trùng do lậu cầu. Đáp ứng lâm sàng với kháng sinh (dự kiến
trong vòng 5 đến 7 ngày) có thể giúp khẳng định chẩn đoán bệnh lậu.
Ceftriaxone đường tĩnh mạch tiếp tục dùng đến ít nhất 24 giờ sau khi các triệu chứng
và dấu hiệu được giải quyết, sau đó dùng cefixime 400 mg uống 2 lần/ngày trong 7
ngày nếu vi khuẩn được chứng minh là nhạy cảm. Hội chẩn với chuyên khoa truyền
nhiễm nếu bệnh nhân không đáp ứng với phác đồ này hoặc không thể dung nạp với
cephalosporin. Trong những trường hợp này, các phác đồ thay thế có thể bao gồm
azithromycin phối hợp với gemifloxacin hoặc gentamicin. Ciprofloxacin 750 mg uống 2
lần/ngày có thể sử dụng khi vi khuẩn khu trú và nhạy cảm. Trường hợp nhiễm khuẩn
sinh dục phối hợp với C. trachomatis sẽ được điều trị đầy đủ với liều khởi đầu của
azithromycin.
Trường hợp nhuộm Gram nghi ngờ nhiễm khuẩn Gram dương không do
lậu ở người lớn, hoặc nếu không nhìn thấy vi khuẩn nào, thì điều trị bằng:
Penicillin bán tổng hợp (ví dụ, nafcillin 2 g truyền tĩnh mạch mỗi 4 giờ)
Cephalosporin (ví dụ, cefazolin 2 g truyền tĩnh mạch mỗi 8 giờ)
Vancomycin 1 g đường tĩnh mạch, 12 giờ một lần
Tuy nhiên, do tình trạng kháng methicillin hiện nay phổ biến ở S. aureus mắc phải
trong cộng đồng, nên đối với những bệnh nhân có cầu khuẩn gram dương thành đám
trên nhuộm gram hoặc nhuộm gram âm khi nghi ngờ S. aureus, vancomycin là lựa
chọn theo kinh nghiệm.
Trường hợp nghi ngờ nhiễm khuẩn Gram âm (như ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch
hoặc có bệnh phối hợp nghiêm trọng, tiêm chích ma túy, có nhiễm khuẩn gần đây đã
dùng kháng sinh hoặc bệnh nhân có catheter thông mạch máu), điều trị theo kinh
nghiệm bao gồm truyền tĩnh mạch cephalosporin thế hệ ba có hoạt tính kháng
pseudomonas (ví dụ như ceftazidime 2 g truyền tĩnh mạch mỗi 8 giờ), nếu nhiễm
trùng nặng, phối hợp với một aminoglycosid.
Trẻ sơ sinh nên bắt đầu điều trị với kháng sinh phổ rộng trên cả gram dương
(nafcillin, vancomycin) và gram âm (như gentamicin hoặc cephalosporin thế hệ 3 như
cefotaxime).
Trẻ em > 3 tháng nên bắt đầu điều trị tương tự như người lớn.
Sử dụng kháng sinh đường truyền cho đến khi triệu chứng lâm sàng cải thiện (thường
là 2 đến 4 tuần), kháng sinh đường uống nên dùng liều cao từ 2 đến 6 tuần tùy theo
đáp ứng lâm sàng.
Viêm khớp do virus và viêm khớp thứ phát sau vết cắn
Điều trị hỗ trợ trong trường hợp viêm khớp do virus.
Vết thương do cắn được điều trị bằng kháng sinh và phẫu thuật dẫn lưu mủ khi cần
thiết