You are on page 1of 16

Họ và tên: Lâm Tiên

Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính (H468)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN


MÔN : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ,
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu 1: Trình bày vị trí, chức năng của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta
hiện nay?
* Khái niệm chính trị:
- Chính trị là phạm vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm XH, dân tộc, các quốc
gia trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước.
* Định nghĩa hệ thống chính trị:
- Hệ thống chính trị là tổng thể các lực lượng chính trị bao gồm Đảng cộng sản, Nhà nước, các tổ
chức chính trị - XH hoạt động theo một cơ chế nhất định, nhằm bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân
dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* Đặc điểm hệ thống chính trị:
- Thứ nhất: Từ thống trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo.
- Thứ hai: Bản chất của hệ thống chính trị XHCN thể hiện bản chất giai cấp công nhân, là giai cấp
tiên tiến, cách mạng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dân tộc.
- Thứ ba: Bản chất dân chủ thể hiện việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân.
- Thứ tư: Lợi ích căn bản là thống nhất giữa hai giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ tri
thức và nhân dân.
1. Vị trí, chức năng và cơ chế vận hành của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị:
a/ Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Vị trí :Đảng cộng sản lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, định hướng hoạt động của hệ
thống chính trị.
- Chức năng (vai trò) : Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện cần thiết bảo đảm hệ thống chính trị
giữ vững bản chất của giai cấp công nhân; đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị:
+ Thứ nhất: Đảng đề ra đường lối, chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội; nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước và những quan hệ chủ yếu trong đời sống xã hội.
+ Thứ hai: Đảng giới thiệu các đảng viên có phẩm chất chính trị, năng lực, đạo đức để nhân dân lựa
chọn bầu vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
+ Thứ ba: Đảng kiểm tra các cơ quan Nhà nước, thể chế hóa đường lối, chủ trương thành các chính
sách Pháp luật, Nghị quyết của các tổ chức chính trị - xã hội và thông qua đó kiểm nhiệm và khắc phục,
hoàn thiện hơn nữa chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với quy luật của xã hội và lợi ích của nhân
dân. Mặc dù Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng các tổchức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn
-1-
khổ Hiến pháp và Pháp luật.
b/ Nhà nước trong hệ thống chính trị:
- Vị trí : Nhà nước là trung tâm, trụ cột của hệ thống chính trị, khi có Nhà nước mới có hệ thống
chính trị.
* Đặc trưng:
+ Đại diện XH quản lý mọi tổ chức, cá nhân trong XH.
+ Là bộ máy to lớn được thành lập từ Trung ương đến cơ sở thực hiện nhanh chóng các quyết định
của Nhà nước và thực hiện quyền cưỡng chế.
+ Ban hành pháp luật buộc mọi tổ chức, cá nhân phải thực hiện, nếu không thực hiện bị cưỡng chế.
+ Nắm nguồn tài chính to lớn trong XH, thu thuế, phát hành tiền, Ngân hàng Nhà nước.
+ Chủ thể quan hệ quốc tế ký kết các điều ước quốc tế.
- Chức năng (vai trò) : Nhà nước là bộ máy trực tiếp thực thi quyền lực chính trị, tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, ý chí nguyện vọng của nhân dân. Quản lý nền kinh tế, văn hóa, xã hội,
duy trì trật tự an ninh, quốc phòng.
- Phương thức hoạt động :
+ Nhà nước ban hành pháp luật, xác định phạm vi, thẩm quyền của mỗi cơ quan Nhà nước trong
quản lý XH, nhằm đảm bảo quyền lực Nhà nước hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật, có hiệu
lực và hiệu quả, tránh lạm quyền, làm trái pháp luật, đồng thời ban hành cơ chế phòng ngừa quan liêu, tham
nhũng, vô trách nhiệm của cán bộ, công chức Nhà nước.
+ Nhà nước ban hành Pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền công dân quản lý XH bằng pháp
luật, bảo đảm duy trì trật tự an ninh trong xã hội; xử lí nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Nhà nước có đủ năng lực quản lý và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trật tự an ninh và quốc
phòng nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước là bộ máy tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, thay mặt nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân và quản lý toàn bộ mọi hoạt động của XH, mà mục đích đề xây dựng
XHCN.
c/ Các tổ chức chính trị - xã hội :
- Khái niệm các tổ chức chính trị - XH: Là tập hợp quần chúng nhân dân liên kết theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho thành viên của mình.
- Vị trí :Thay mặt cho các thành viên của mình tham gia quyền lực chính trị.
- Chức năng (vai trò) : Tập hợp ý chí, nguyện vọng của các thành viên, phản biện, đóng góp các dự
thảo và đề nghị điều chỉnh, sửa đổi chính sách, pháp luật, giám sát hoạt động các cơ quan Nhà nước, cán
bộ, công chức thực thi quyền lực Nhà nước; tuyên truyền vận động các thành viên chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
- Phương thức hoạt động :
+ Tham gia vào quá trình thành lập các cơ quan Nhà nước, MTTQ, các tổ chức thành viên tiến hành
hội nghị hiệp thương xác định cơ cấu, tiêu chuẩn, lựa chọn người ra ứng cứu đại biểu Quốc hội, Hội đồng
-2-
nhân dân và xem xét tư cách đại biểu, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bầu cử, đề nghị Hội đồng
nhân dân bầu hội thẩm nhân dân, tham gia Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia gồm Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương MTTQ VN, BCH. Trung ương Hội luật
gia VN, Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cấp cao Ủy ban Trung ương MTTQ VN.
+ Tham gia vào quá trình phản biện, dự thảo chính sách, Pháp luật hoặc đề nghị Nhà nước điều
chỉnh, sửa đồi, hủy bỏ những văn bản quy phạm Pháp luật hiện hành. MTTQ, các tổ chức thành viên được
mời tham gia kì họp Quốc hội, HĐND, phiên họp của Chính phủ và UBND, phát biểu ý nguyện của nhân
dân để các cơ quan Nhà nước thảo luận quyết định.
+ Tham gia vào quá trình giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân và thực hiện thanh tra
nhân dân ở cơ sở, các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp; tham gia các phiên tòa xét xử bảo vệ lợi ích
thành viên của mình; tham gia Hội đồng khen thưởng, nâng bậc lương, kỉ luật đối với cán bộ, công chức.
+ MTTQ, các tổ chức chính trị - XH tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật các thành viên của
mình, tự giác chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2/ Thực trạng của hệ thống chính trị nước ta hiện nay:
Ưu điểm:
- Kinh tế tăng trưởng khá.
- Văn hóa xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội
cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng;
hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến
hành chủ động, tích cực và đạt kết quả tốt.
- Hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở, lắng nghe ý kiến nhân dân.
VD: trong tap – thảo luận
- Hệ thống chính trị ngày càng tinh gọn và hiệu quả.
VD: trong tap – thảo luận
- Các tổ chức chính trị - xã hội có đổi mới:
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân.
+ Tham gia xây dựng Đảng và củng cố chính quyền.
+ Bước đầu làm tốt giám sát và phản biện xã hội.
Hạn chế:
- Vận dụng chưa tốt các phương thức thực thi quyền lực chính trị
- Còn chưa thực hiện đúng các nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị
- Chưa vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ
- Còn quan niệm giản đơn về quyền lực thống nhất có phân công, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
- Còn hành chính hóa tổ chức chính trị - xã hội.
- Hiệu lực hiệu quả quản lý Nhà nước còn hạn chế.
- Chưa phân định rõ mô hình đô thị và nông thôn.
- Một số cán bộ công chức chưa gắn bó với quần chúng.
- Quan liêu, nhũng nhiễu chưa được khắc phục.
- Vai trò giám sát, phản biện còn yếu.
3/ Phương hướng xây dựng hệ thống chính trị:
- Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
-3-
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân.
- Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Câu 2: Phân tích các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN VN và những phương
hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đề xuất giải pháp
góp phần bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân?
1/ Khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
- Nhà nước XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý XH theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của
nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân
và sự giám sát của nhân dân.
2/ Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
- Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Của dân: Nhà nước pháp quyền của XHCN VN mang bản chất của giai cấp. Trong đó giai cấp
công nhân đại diện QHSX tiến bộ. Vì vậy, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân
dân và của dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức. Do
đó, nhân dân là chủ thể tối cao quyền lực Nhà nước hoặc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Do dân: nhằm thực thi quyền lực của mình, nhân dân ủy quyền cho Quốc hội, Hội đồng nhân
dân (cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan đại diện). Các cơ quan đã thay mặt nhân dân thành lập giám sát
hoạt động các cơ quan, Nhà nước khác. Các cơ quan đại diện chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của
nhân dân.
+ Vì dân: các chính sách, pháp luật, dự án kinh tế XH phải lấy tiêu chí, lợi ích của nhân dân trước
khi ban hành. Pháp luật phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước
CBCC, VC vì nhân dân phục vụ.
- Nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Quyền lực Nhà nước thống nhất là Nhà nước pháp quyền XHCN VN, không phân chia quyền lực
để tranh giành quyền lực giữa các nhóm lợi ích XH khác nhau, bởi vì quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân nhằm thực thi quyền lực của mình, nhân dân ủy quyền cho Quốc hội thông qua bầu cử theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Do đó Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất,
là cơ quan lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại.
Quyết định bố trí nhân sự quan trọng trong bộ máy Nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.
+ Phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực Nhà nước là nhằm phòng chống độc đoán, chuyên
quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Kiểm soát quyền lực Nhà nước nhằm phòng

-4-
chống lạm quyền, lập quyền, làm trái pháp luật, đứng trên pháp luật trong quá trình thực thi, quyền lực Nhà
nước. Bảo đảm thực thi quyền lực Nhà nước nhằm phục vụ nhân dân.
3/ Những phương hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay:
Giáo trình trang 40 – 70.
a) Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
b) Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.
c) Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt độn của Quốc hội.
d) Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước.
e) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
f) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
g) Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước.
h) Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
4/ Giải pháp góp phần thực hiện quyền lực của nhân dân:
Bảo đảm nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân” là nội dung cơ bản nhất của
dân chủ xã hội chủ nghĩa, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể
của quyền lực và được thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và
vận hành của Nhà nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về
kinh tế, chính trị, xã hội, từng bước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành
tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 
Tuy nhiên, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực;
tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang diễn ra mà
chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được; không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, dân chủ không
đi liền với kỷ luật và pháp luật, cơ chế và pháp luật bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân chưa
được cụ thể hoá đầy đủ. 
Trong điều kiện hiện nay, để phát huy mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước;
củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, tạo tiền để đẩy mạnh sự phát triển toàn diện
của đất nước đòi hỏi phải đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, và để thực hiện được điều này cần
tập trung vào thực hiện tốt các giải pháp sau:
 Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất thật sự là công bộc của
dân.
Cán bộ là gốc của công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho
quyền lợi của dân tộc, vì thế “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công
bộc của dân,... việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”-Hồ Chí
-5-
Minh. Chính vì vậy, ngay trong lần Tổng tuyển cử lần đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1946). Những người được Hồ Chủ tịch, Đảng và nhân dân ta đề cử, giới thiệu hầu hết là những người của
dân, do dân, vì dân, những người ưu tú, tiên phong, gương mẫu trong phong trào cách mạng của quần
chúng và trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, bảo đảm là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi Ðảng cần chăm lo xây dựng bộ máy
và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đạo đức cách mạng, phẩm chất, năng lực và phong cách
công tác gần dân, hiểu dân, học dân; là người am hiểu chính sách, pháp luật, có liên hệ mật thiết với nhân
dân; là người có tinh thần trách nhiệm, bao dung, thật sự là công bộc của dân, thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân, làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình; là
người dám nói, dám làm.
Để đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất thật sự là công bộc của dân đòi hỏi phải làm
tốt việc gắn giáo dục tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, công chức với thực hiện có chiều sâu, hiệu quả
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đẩy mạnh việc tự phê bình và phê
bình trong tất cả các cơ quan hành chính các cấp; xây dựng chế độ trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý
cán bộ các cấp; có quy định rõ về chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức được giao thực hiện cơ chế
“một cửa”; xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức; thực hiện tốt
các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ; mỗi cán
bộ, công chức phải gương mẫu đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; gương mẫu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, trong rèn luyện và
nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong thực thi công vụ xứng đáng là “công bộc” của nhân dân sẽ
là động lực, là điều kiện quan trọng để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện đúng ý
chí, lợi ích, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp
luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện
vọng và quyền lợi của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và quyền lực của một bộ
phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản.
Trong khi đó, pháp luật XHCN là pháp luật của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ý chí,
nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động hợp với quy luật, với sự vận động và phát triển
của thực tiễn khách quan chứ không phải là ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực chủ quan của từng cá
nhân cộng lại. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đó chính là những giá trị
mà xã hội có, xã hội cần, xã hội ủng hộ được thừa nhận chung. Có hệ thống pháp luật và pháp chế hoàn
chỉnh, là điều kiện quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực và đội ngũ công bộc của mình, để tạo điều
kiện thuận lợi cho những công bộc thực sự của dân phát huy được vai trò, trách nhiệm trong phục vụ nhân
dân và để đào thải những công bộc đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội,
cuộc sống yên bình, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu

-6-
sắc của hệ thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật phải tuân thủ việc bảo đảm sự
phù hợp giữa ý chí chủ quan với tồn tại khách quan; bảo đảm dân chủ, pháp chế, khoa học; bảo đảm tính cụ
thể, khả thi, hiệu quả của các quy định trong văn bản pháp luật; bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật quốc
gia với luật pháp quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật.
Ba là, nâng cao vai trò giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.
Quyền lực Nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền và nhân dân phải có quyền
giám sát nhà nước. Sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước là vấn đề đặc biệt quan trọng, là
tất yếu trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm
nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, dân
chủ xã hội chủ nghĩa, là phương thức mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ nhân dân ở nước ta hiện
nay.
Mục đích của giám sát nhằm bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân trong quá trình tổ chức,
hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan đại diện quyền lực, của các cơ quan chấp hành và hoạt động của
các cơ quan tư pháp, để tìm ra những bất cập nhằm hoàn thiện cơ chế, thể chế, hình thức giám sát hướng tới
xây dựng nhà nước trong sạch, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn.
Trong những năm qua, sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước đã góp phần quan
trọng trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, sự giám sát của nhân dân đối
với quyền lực Nhà nước chưa đạt được những kết quả mong muốn, chưa phát huy hết được vai trò to lớn
của nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước. Trên thực tế còn nhiều bất cập, bức xúc trong nhận
thức, tính chủ động, sáng tạo, tính chính trị của nhân dân, phương thức nhân dân thực hiện quyền giám sát
còn nhiều lúng túng. Để khắc phục tình trạng đó cần phải thực hiện nhiều giải pháp, cả về hệ thống chính
trị nói chung và quyền lực Nhà nước nói riêng, năng lực làm chủ quyền lực nhà nước của nhân dân. Cần
xây dựng cơ chế đồng bộ thực hiện quyền lực của dân; cơ chế minh bạch, công khai về quyền lực Nhà
nước.
Bốn là, giải quyết tốt vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân.
Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà
nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã
hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Như vậy, cầu nối giữa Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội chính là việc giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân, là việc
thực thi pháp luật, thực hiện quyền dân chủ và công khai trong xã hội. Bởi vì, chỉ khi nào người dân tự ý
thức được quyền cũng như nghĩa vụ công dân của mình thì lúc đó dân chủ hóa mới được thực thi trong xã
hội và xã hội mới thực sự trở thành xã hội dân sự.
Trong điều kiện xã hội ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ giáo dục cho người dân hiểu và thực hiện đầy
đủ quyền, nghĩa vụ công dân của họ chủ yếu thuộc về Nhà nước và các đoàn thể xã hội. Nhà nước phải có
trách nhiệm trong việc nâng cao sự hiểu biết, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân, giúp và
tạo điều kiện cho họ rèn luyện thói quen sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật; đồng thời, giúp họ tự ý
-7-
thức được các quyền cá nhân nói riêng, dân chủ nói chung, làm cho họ tự giác và chủ động tham gia vào
các hoạt động xã hội, đặc biệt là đời sống chính trị của đất nước; gắn với thực hiện dân chủ hóa đời sống xã
hội cần phải tiến hành công khai hóa hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là về mặt tài
chính và cơ chế hoạt động. Nhà nước cần tổ chức một hệ thống truyền thông đại chúng đa dạng, chính xác,
rộng rãi, cập nhật và có định hướng để giúp cho người dân nắm bắt được một cách đúng đắn và kịp thời
những thông tin cần thiết. Có như vậy, người dân mới có cơ sở để thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân
của mình đối với Nhà nước, đối với xã hội.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước là tổ chức cốt yếu để thực
thi quyền lực của nhân dân. Đảng có vai trò lãnh đạo Nhà nước và Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng. Công tác lãnh đạo bao gồm nhiều nội dung, trong đó có
vấn đề xây dựng bản thân đảng chính trị. Ở tất cả các công đoạn của quá trình lãnh đạo, Đảng đều phải
kiểm tra, giám sát. Đó là nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi cho công tác lãnh đạo nó thuộc về
chức năng lãnh đạo của Đảng, là thành tố quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Không kiểm tra là không lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát, kể cả kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước ở cấp vĩ
mô, thông qua hoạt động này để nắm tình hình, để đôn đốc, thúc đẩy việc thực hiện có kết quả cao các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách của Nhà nước; phát hiện những thiếu sót, lệch lạc trong hoạt động của
Nhà nước để kịp thời uốn nắn những lệch lạc để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đường lối, cơ chế, chính sách
của Đảng, Nhà nước; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phòng
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Đảng kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước phải thông qua tổ chức đảng, đảng viên;
thường xuyên làm tốt công tác lãnh đạo tổ chức, động viên quần chúng kiểm tra, giám sát các công việc và
hoạt động của Nhà nước; phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu kém, đẩy lùi tiêu cực; tăng cường giám sát,
quản lý cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước trên tinh thần kỷ luật và đạo đức cộng sản. Chỉ có như
vậy thì các cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng và Nhà nước mới “tự giác” đặt mọi hoạt động của mình
trong tổ chức để tự điều chỉnh trong lĩnh vực đạo đức, để không ngừng “nâng cao ý thức trách nhiệm, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Sáu là, nâng cao dân trí.
Muốn thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thì phải nâng cao dân trí để giúp cho nhân dân hiểu
biết đúng đắn về chính sách, pháp luật để thực hiện quyền làm chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của mình, đồng thời hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện của cán bộ,
đảng viên; dân trí được nâng lên thì nhân dân mới có khả năng, sáng kiến tham gia xây dựng nhà nước,
sáng suốt chọn lựa đại biểu, bổ sung chính sách, luật pháp. Chính vì vậy, cùng với quá trình phát triển kinh
tế phải chú trọng nâng cao dân trí.
Để nâng cao dân trí, Nhà nước cần có chiến lược phát triển giáo dục một cách toàn diện, vừa bảo
đảm trang bị những kiến thức cơ bản cần thiết cho con người, vừa chú trọng phát triển giáo dục ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chấm dứt tình trạng thất học, mù chữ; giáo dục ý thức, quan điểm,
-8-
tư tưởng, xác định lập trường vững vàng cho công dân, tránh tình trạng dễ bị lôi kéo, mua chuộc, nhận thức
sai lầm dẫn đến tự do vô chính phủ; thường xuyên tuyên truyền giáo dục pháp luật, đạo đức, lối sống để
nâng cao trình độ nhận thức và xây dựng văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật và văn hoá về quyền con
người trong các tầng lớp nhân dân và cả cho những người thực thi quyền lực nhà nước nhằm tạo tiền đề tốt
cho việc thực hành, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì thế, thực hiện có hệ
thống các giải pháp này sẽ góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể
của quyền lực. Là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia
hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quyền làm chủ của
người dân ngày càng được phát huy, sẽ tạo động lực trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị.

Câu 3: Vẽ sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp hiện hành (dùng → chỉ
mối quan hệ hình thành, dùng - - - > chỉ mối quan hệ lãnh đạo, kiểm tra, giám sát).
Sơ đồ anh chị nao vẽ đc thì vẽ nha
Sơ đồ Bộ máy Nhà nước Việt Nam (Theo luật mới nhất năm 2015)

Quốc hội Chính phủ Chủ tịch TAND TC VKSND TC


UBNDTV Thủ tướng nước Chánh án Viện trưởng
QH

-9-
TAND VKSND
cấp cap cấp cao

HĐND UBND TAND VKSND


cấp tỉnh cấp tỉnh cấp tỉnh cấp tỉnh

HĐND UBND TAND VKSND


cấp huyện cấp huyện cấp huyện cấp huyện

HĐND UBND
cấp xã cấp xã

Mối quan hệ hình thành


- - - - - > Mối quan hệ lãnh đạo, kiểm tra, giám sát.

Câu 4: So sánh (giống và khác nhau) về vị trí pháp lý và chức năng giữa Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, giữa Chính phủ và UBND?
1. Giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân :
a/ Giống nhau:
- Đều là cơ quan quyền lực của Nhà nước;
- Đều là cơ quan đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân;
- Đều do nhân dân bầu ra trên nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín;
- Đều có cơ quan thường trực;
- Đều hoạt động theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.
b/ Khác nhau:
Quốc hội Hội đồng nhân dân
- Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
- Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. - Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
- Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra

- 10 -
mình và của nhân dân cả nước.
- Do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
- Do nhân dân cả nước bầu ra, chịu trách nhiệm
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
trước nhân dân cả nước.
nhà nước cấp trên..
- Lập hiến và lập pháp. - Ban hành Nghị quyết (lập quy định)
- Quyết định những vấn đề quan trọng của đất
- Quyết định những vấn đề quan trọng và giám
nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
sát ở địa phương.
động của Nhà nước.

2. Giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân:


a/ Giống nhau:
- Đều là cơ quan hành chính Nhà nước;
- Đều là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp;
- Đều là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Người đứng đầu đều do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm;
- Đều có chế độ làm việc tập thể và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
b/ Khác nhau:
Chính phủ Ủy ban nhân dân
- Là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất - Là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
cả nước. phương.
- Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
- Là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
dân cùng cấp.
- Chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
- Chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
- Là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước - Là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
trên phạm vi cả nước. trên phạm vi ở địa phương.
- Ban hành Nghị quyết, Nghị định. - Ban hành Quyết định, Chỉ thị.
- Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, - Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân
bãi nhiệm. dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Câu 5: Phân tích bản chất, chức năng và các mối quan hệ của pháp luật XHCN VN?
Pháp luật là một hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chếnhà nước.
Pháp luật XHCN là hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước XHCN ban hành hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
vàđược đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước, trên cơ sở giáo
- 11 -
dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước nhằm xây dựng chế độ XHCN.
1. Bản chất của Pháp luật XHCN Việt Nam được nhìn nhận dưới hai góc độ :
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị : Pháp luật Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân Việt
Nam. Vì :
Chỉ có mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam thì khi đó Nhà nước Việt Nam mới có
được hai điều : đi đúng hướng và đạt mục đích. Nhà nước ta đang đi lên CNXH để “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giai cấp công nhân Việt Nam được trang bị hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nên đã giúp Nhà nước Việt Nam đi đúng hướng, đúng hướng mới có thể đạt được mục đích.
Thứ hai, dưới góc độ xã hội : Pháp luật Việt Nam là pháp luật của dân, do dân và vì dân. Điều đó
đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận tại Điều 2 : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.” Lợi ích của giai cấp công nhân
Việt Nam hoàn toàn phù hợp với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Trong lịch sử xã hội, tương ứng với bốn kiểu nhà nước thì có bốn kiểu pháp luật :
- Kiểu pháp luật chủ nô là ý chí của giai cấp chủ nô công khai qui định quyền lực vô hạn của chủ
nô còn giai cấp nô lệ thì không có quyền gì.
- Kiểu pháp luật phong kiến là công cụ của nhà nước phong kiến thể hiện ý chí của giai cấp địa
chủ, phong kiến.
- Kiểu pháp luật tư sản : Pháp luật tư sản đã có mầm mống từ trong lòng xã hội phong kiến, đến
khi nhà nước tư bản được thiết lập bởi các cuộc cách mạng tư sản thì pháp luật tư sản được hình thành một
cách có hệ thống. Pháp luật tưsản là một phương tiện của Nhà nước tư sản để thực hiện nên chuyên chính
tưsản, bảo vệ chế độ tư hữu tư bản và địa vị, quyền lợi của giai cấp tư sản.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động
Như vậy, pháp luật XHCN có bản chất tốt đẹp hơn các loại Pháp luật khác.
2. Chức năng của Pháp luật XHCN Việt Nam: Pháp luật XHCN Việt Nam có 3 chức năng :
Thứ nhất, chức năng điều chỉnh : Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội vàđịnh hướng cho chúng
vận động, phát triển theo ý chí của Nhà nước. Pháp luật Việt Nam không điều chỉnh mọi quan hệ xã hội mà
chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội nào mà Nhà nước cho là cần thiết. Ví dụ :
Quan hệ bạn bè, yêu thương, ... pháp luật không điều chỉnh.
Quan hệ vợ chồng, ông cháu, ... thì Luật Hôn nhân và Gia đình sẽ điều chỉnh.
Thứ hai, chức năng bảo vệ : Pháp luật bảo vệ các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh, tránh cho
chúng bị xâm hại. Ví dụ : Luật Giao thông đường bộ cấm vượt đèn đỏ. Nếu vi phạm thì sẽ bị phạt.
Thứ ba, chức năng giáo dục : Pháp luật tác động đến ý thức con người giúp họtôn trọng, thực hiện
đúng pháp luật. Pháp luật giáo dục người vi phạm pháp luật và giáo dục người khác. Ví dụ : tử hình một
- 12 -
người nào đó vì tội giết người. Xét về bản thân người bị xử tội thì không còn chức năng giáo dục nhưng với
những người còn lại thì pháp luật giáo dục họ không vi phạm vào tội danh trên.
3. Vai trò của Pháp luật XHCN Việt Nam: Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đồi năm 2001) quy
định : “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Vai trò của pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau đây :
Thứ nhất, vai trò của pháp luật đối với kinh tế :
Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lí bình đẳng đối với các
chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các “khung pháp lí” để các chủ thể quản lí nhà nước dựa vào các
chuẩn mực pháp lí để điều khiển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi
trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện
có hiệu quả.
Pháp luật là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật. Khi đó, pháp
luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên
tham gia hoạt động kinh tế.
Pháp luật là phương tiện củng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế thị trường
như : tính quy định của lợi ích, nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, bảo đảm tôn trọng sựcạnh
tranh, cạnh tranh lành mạnh, ... Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế tốt nhất cho
các bên hoạt động kinh tế trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh tế, ...
Thứ hai, vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị :
Đối với sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật là phương tiện để chế hóa đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Đồng
thời, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn. Mặt khác, pháp luật
còn là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lí, điều hành của Nhà
nước.
Đối với Nhà nước, pháp luật là cơ sởpháp lí tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận
về mặt pháp lí trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân, công dân, là phương tiện quản lí có
hiệu lực đối với mọi mặt đời sống xã hội. Pháp luật là phương tiện chứa đựng trong nó sự kết hợp giữa
thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động, sáng tạo với kỉ cương, kỉ luật. Do đó,
khi thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước không thể không sử dụng phương tiện pháp luật.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lí bảo đảm cho nhân dân tham gia
vào quản lí Nhà nước, quản lí xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình. Pháp luật thể chế và
phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm cho tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa
vào pháp luật để phản ứng, đấu tranh với các hành vi lạm quyền, cưỡng chế ngoài quy định của pháp luật.
Tóm lại, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, có thể xem pháp luật là phương tiện thiết lập các
nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống hoạt động
nhịp nhàng, ăn khớp, là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợpđạo lí của mọi yếu tố tạo nên hệ thống
- 13 -
và của cả các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Thứ ba, vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng :
Đối với đạo đức, các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hóa thành các quy phạm pháp
luật, hay nói cách khác, giữa đạo đức và pháp luật có sự đan xen về mặt nội dung. Do vậy, pháp luật XHCN
bảo vệ và phát triển đạo đức XHCN, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương
tâm con người. Sự ghi nhận bằng pháp luật các nghĩa vụ, đạo đức trước xã hội nhằm củng cố và bảo vệ
hạnh phúc gia đình, giáo dục thế hệ trẻ, khuyến khích sự giúp đỡ đồng chí, tính lương thiện, trung thực, ...
thể hiện vai trò của pháp luật.
Đối với tư tưởng, có thể nói, pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các tư
tưởng tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, pháp luật XHCN có vai trò quan trọng trong củng cố và nâng
cao nhận thức, tư tưởng cho con người dưới CNXH. Điều đó được thểhiện :
Một mặt, pháp luật ghi nhận, thừa nhận và khuyến khích sự phát triển của một hoặc nhiều hệ tư
tưởng;
Mặt khác, pháp luật phủ nhận, không ghi nhận hoặc cấm sự tồn tại hoặc hạn chế sự phát triển của
những hệ tư tưởng không phù hợp với hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị, với lợi ích hoặc mục đích của giai
cấp thống trị.
Thứ tư, vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập quốc tế :
Trong thời đại ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan của mọi quốc gia. Nhưng
hội nhập quốc tếtrên cơ sở nào, phương tiện nào là những vấn đề được các quốc gia quan tâm. Cùng với
những tuyên bố chính trị, các quốc gia đang hướng xây dựng một hệthống pháp luật, tạo cơ sở vững chắc
cho quá trình hội nhập quốc tế.
Hệ thống pháp luật này, một mặt, ghi nhận chủ quyền của mọi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế;
mặt khác, khẳng định mỗi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế phải tôn trọng các cam kết đã kí, phải gánh
chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra ...với ý nghĩa đó, pháp luật là công cụ, phương tiện thực
hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của các quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, pháp luật còn là
phương tiện bảo vệlợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình hội nhập quốc tế.
Với phương châm “là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, những năm
vừa qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có bước phát triển mới : toàn diện hơn, phù hợp hơn, vừa thể hiện
tính dân tộc, vừa thể hiện tính thời đại. Hệ thống pháp luật đó bước đầu đã tạo được môi trường pháp lí
đáng tin cậy cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của quốc tế
hiện nay, Việt Nam muốn hội nhập có hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và
toàn diện hơn.

Câu 6: Lấy ví dụ về văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
Từ đó phân biệt hai loại văn bản trên?
Văn bản quy phạm pháp luật : là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có
chứa đựng các quy phạm pháp luật (tức là chứa đựng các quy tắc xử sự chung, áp dụng nhiều lần cho nhiều
- 14 -
đối tượng). Ví dụ: Bộ luật dân sự,luật hôn nhân và gia đình, Nghị định 15 của Chính phủ về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông ...
Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật: là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để áp dụng một lần cho một đối tượng cụ thể. Ví dụ:Quyết định xử phạt vi hành chính trong lĩnh vực
an toàn giao thông, Bản án của toà án, Quyết định kỷ luật, Quyết đinh khen thưởng ...
Dựa vào khái niệm trên, ta thấy văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật có những điểm giống và khác nhau cơ bản sau :
* Giống nhau :
Cả hai đều là văn bản do Nhà nước có thẩm quyền ban hành;
Đều là văn bản được ban hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định chặt chẽ,
Đều là văn bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đưa các quan hệ xã hội đó vào trật tự, ổn
định và phát triển.
* Khác nhau :
Tiêu chí Văn bản Quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật
- Do cơ quan nhà nước có thẩm
- Do cơ quan nhà nước, người có
quyền theo quy định của Hiến pháp
Chủ thể ban hành : thẩm quyền mà pháp luật quy định
và luật ban hành văn bản quy phạm
ban hành. (rộng hơn)
pháp luật. (hẹp hơn)
- Chứa đựng các quy tắc xử sự mang
Nội dung, phạm vi tác - Cụ thể hóa qui tắc xử sự và chỉ áp
tính bắt buộc chung đối với mọi
động : dụng đối với một chủ thể nhất định.
người.
- Áp dụng nhiều lần mà không làm - Áp dụng 1 lần, chấm dứt hiệu lực
Hiệu lực :
mất hiệu lực pháp lí. pháp lí.
Chủ thể thực hiện : - Không xác định cụ thể - Xác định cụ thể.
- Phức tạp hơn (về chủ thể, về trình
Trình tự ban hành : - Đơn giản hơn.
tự, ...)
Tên gọi : - Đa dạng. - Không đa dạng.
Câu 7: Phân tích tính tất yếu phải tăng cường pháp chế và các biện pháp tăng cường pháp
chế XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay?
1/ Pháp chế XHCN: Giáo trình tr 375
- Là việc thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, chính xác, đầy đủ và thống nhất của tất cả các
chủ thể pháp luật.
2/ Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế:
Pháp luật và pháp chế là hai khái niệm không giống nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau:
- Không có pháp luật thì không có pháp chế.

- 15 -
- Có pháp luật thì có thể có pháp chế.
- Pháp luật là tiền đề của pháp chế.
3/ Tính tất yếu phải tăng cường pháp chế:
- Tăng cường pháp chế để đưa pháp luật vào đời sống góp phần giữ gìn trật tự xã hội, nâng cao ý
thức pháp luật của nhân dân, xây dựng nước Việt Nam dân chủ hơn, văn minh hơn.
- Hiện nay tình trạng vi phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến nên phải tăng cường pháp chế để xử lý
các vi phạm pháp luật đó.
- Việt Nam đang đổi mới toàn diện, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
4/ Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: Giáo trình tr
383 – 392
- Phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
- Tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát.
- Tổ chức thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh.
- Tiếp tục cải cách hành chính.
- Đẩy mạnh cải cách tư pháp.
- Tăng cường các hoạt động bổ trợ tư pháp.

- 16 -

You might also like