You are on page 1of 51

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG

“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2022

CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO – NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Thuộc nhóm ngành khoa học: xã hội

Năm học 2022


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT THƯỞNG

“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2022”

CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO – NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Thuộc nhóm ngành khoa học: xã hội

Sinh viên thực hiện: Thái Vân Anh Nam, Nữ: Nữ

Dân tộc: Kinh

Lớp, khoa: 4526, Khoa pháp luật Kinh tế

Năm thứ: 2/4

Ngành học: Luật Kinh tế

Người Hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Bích


3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực, đề tài...........................................5

2. Lí do lựa chọn đề tài...............................................................................................6

3. Mục tiêu đề tài........................................................................................................6

4. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................7

5. Cách tiếp cận..........................................................................................................7

6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................7

7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu.................................................................................7

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ.............................................8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO, PHÁP


LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO..........................................................................8

1.1 Khái niệm cái chết nhân đạo và quyền an tử.....................................................8

1.1.1 An tử và cái chết nhân đạo..........................................................................8

1.1.2 Quyền an tử (hay “Quyền được chết” - “right to die”...............................11

1.2 Cái chết nhân đạo và các góc nhìn xã hội........................................................13

1.2.1. Một số quan điểm phản đối......................................................................13

1.2.2. Một số quan điểm ủng hộ.........................................................................14

1.3 Vai trò của pháp luật trong quy định cái chết nhân đạo...................................16

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO VÀ MỘT SỐ KIẾN


NGHỊ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO Ở VIỆT NAM....19

2.1. Pháp luật Việt Nam về cái chết nhân đạo.......................................................19

2.1.1. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về cái chết nhân đạo.....................19

2.1.2. Bàn luận về việc quy định cái chết nhân đạo vào hệ thống pháp luật Việt
Nam................................................................................................................... 20

2.2 Yếu tố ảnh hưởng đến quy định pháp luật về cái chết nhân đạo......................25

2.2.1 Các yếu tố cản trở VN ghi nhận cái chết nhân đạo....................................25
4

2.2.2. Các yếu tố thúc đẩy VN ghi nhận cái chết nhân đạo................................28

2.3. Quy định pháp luật của một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam..............30

2.3.1. Pháp luật một số quốc gia về cái chết nhân đạo.......................................31

2.3.2. Kinh nghiệm quy định cái chết nhân đạo của một số nước trên thế giới.. 37

2.4. Kiến nghị xây dựng pháp luật về cái chết nhân đạo.......................................39

2.4.1. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để pháp luật hóa cái chết nhân đạo.......39

2.4.2. Kiến nghị xây dựng dựng pháp luật về cái chết nhân đạo........................41

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................................48

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................49


5

MỞ ĐẦU

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực, đề tài

Đối với khía cạnh nghiên cứu khoa học pháp lý, theo tìm hiểu của nhóm nghiên
cứu, cho đến hiện nay, có một vài đề tài hoặc bài viết nghiên cứu, tìm hiểu, chia sẻ về
chủ để này như sau:

- Khóa luận tốt nghiệp: “Quyền an tử: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn trên thế
giới và ở Việt Nam” - Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Lân. Trong bài nghiên cứu
này, tác giả đã trực tiếp đề cập đến các vấn đề quyền được sống, quyền được
chết của con người và quan điểm thực hiện của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tác giả
chưa phân tích được hết khía cạnh của quyền và chưa đánh giá được tình hình
công nhận hay thực hiện quyền này trên các phạm vi khác nhau (tại Việt Nam,
khu vực, quốc tế)

- Luận văn Thạc sĩ Luật Học: “Quyền an tử: Những vấn đề lí luận và thực tiễn” -
Tác giả: Nguyễn Mai Chi. Đây là một bài viết tương đối trọn vẹn và đầy đủ về
vấn đề cái chết nhân đạo. Tác giả đi sâu vào việc tìm hiểu và nghiên cứu về
những khía cạnh của cái chết nhân đạo, đặc biệt là dưới góc độ pháp luật. Trong
bài nghiên cứu của mình, tác giả có đưa ra các kiến nghị về quá trình xây dựng
pháp luật nhưng chưa đi sâu vào việc xây dựng như thế nào, cụ thể ra sao.

- Bài viết: “Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay”
- Tác giả: Trương Hồng Quang. Bài viết này đã mang đến những thông tin khá
lớn về quyền an tử, tuy nhiên lại thiếu mất sự phân tích một cách toàn diện về
phạm vi quyền an tử, sự khác biệt giữa an tử và trợ tử.

Nhìn chung, đối với khoa học pháp lý, quyền an tử vẫn còn là một đề tài khá
mới mẻ tại Việt Nam. Bên cạnh các bài viết khoa học chính thống như bên trên, cũng
có thêm các bài báo, bài phân tích bên lề về vấn đề pháp lý của quyền an tử. Trong quá
trình thực hiện nghiên cứu này, nhóm sinh viên cũng có thực hiện phân tích, đánh giá
và tham khảo một vài tài liệu nghiên cứu liên quan.
6

2. Lí do lựa chọn đề tài

Việt Nam trong những năm gần đây đã không ngừng đổi mới và phát triển trên
rất nhiều phương diện như kinh tế, đời sống xã hội. Quyền con người càng ngày càng
được đề cao, không chỉ trong phạm trù quyền được sống, quyền được bảo vệ,... mà còn
trong cả phạm trù quyền được “chết”. Nhiều quan điểm cho rằng, quyền sống là quyền
thiêng liêng nhất của một con người. Nhưng ngược lại, khi quyền con người thật sự
được tôn trọng thì bản thân họ có quyền để định đoạt việc chấm dứt mạng sống của
mình. Bên cạnh đó, từ những năm 2015, 2016 đến nay, mặc dù không có số liệu thống
kê chính thức nhưng có thể thấy, những trường hợp xuất hiện “cái chết nhân đạo” trở
nên nhiều hơn và thu hút được nhiều sự chú ý của dư luận hơn. Mặc dù y học đã phát
triển rất nhiều so với thời điểm trước, tuy nhiên vẫn tồn tại rất nhiều trường hợp nan y,
không thể cứu chữa và gây đau đớn, tổn thất thời gian dài với người bệnh và người nhà
bệnh nhân. Tiếp đó, cho đến 2021, đã có sáu quốc gia trên toàn cầu hợp pháp hóa và
thông qua các quy định pháp luật về cái chết nhân đạo, cùng với đó là một vài các
quốc gia đang nghiên cứu dự thảo luật. Cuối cùng, việc nghiên cứu về cái chết nhân
đạo dưới phương diện pháp lý cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân liên quan, đặc
biệt là với đội ngũ y tế, các bác sĩ. Nói như vậy bởi vì,cái chết nhân đạo là một vấn đề
rất nhạy cảm vì nó liên quan đến tính mạng con người, các bác sĩ có thể phải nhận hậu
quả pháp lý không mong muốn như bị buộc tội “giết người” hoặc bị chỉ trích vì không
làm tròn trách nhiệm trong cứu chữa. Việc có hành lang pháp lý rõ ràng cho vấn đề
này là cần thiết để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các cá nhân. Thấy được sự cấp
thiết trong thực tế cũng như ý nghĩa trong lý luận của vấn đề này liên quan đến quyền
con người, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài: “Những vấn đề pháp lý liên
quan đến cái chết nhân đạo” để thực hiện nghiên cứu.

3. Mục tiêu đề tài

Đề tài: “Cái chết nhân đạo - Những vấn đề pháp lý” tập trung khai thác về cái
chết nhân đạo dưới các góc độ y học, đạo đức, tôn giáo, pháp lý. Với nội dung này, bài
nghiên cứu thể hiện được những quan điểm trong xã hội hiện nay về cái chết nhân đạo,
những lý do từ thực tế mà chúng ta đưa ra để phản đối, ủng hộ vấn đề này. Tập trung
phân tích các yếu tố tác động đến cái chết nhân đạo ở Việt Nam hiện nay.
7

Đồng thời, bài nghiên cứu cũng đã đưa ra kiến nghị về xây dựng pháp luật về
cái chết nhân đạo ở Việt Nam hiện nay để giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, các mặt
trái có thể diễn ra cũng như đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của các bên khi pháp luật
về cái chết nhân đạo đi vào thực tế

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là cái chết nhân đạo dưới các góc độ y học,
đạo đức, tôn giáo, pháp lý và các kiến nghị xây dựng pháp luật về cái chết nhân đạo.
Vấn đề này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực ở nước ta như: văn hóa, truyền thống, kinh
tế, y học, lập pháp. Từ các lĩnh vực khác nhau, con người có góc nhìn và đưa ra các
quan điểm khác nhau về cái chết nhân đạo. Cũng chính vì thế, nhóm đặt ra các kiến
nghị xây dựng pháp luật về cái chết nhân đạo để đảm bảo các quyền, lợi ích khi thực
hiện vấn đề này

5. Cách tiếp cận

Cái chết nhân đạo có nội dung rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành
khoa học xã hội khác nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu khoa học này, chủ yếu tiếp
cận và phân tích các khía cạnh về khoa học pháp lý và xã hội cơ bản, các khía cạnh
tâm lý học, y tế, đạo đức xã hội của vấn đề để có cái nhìn tổng quan nhất về đề tài
nghiên cứu.

6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm một số phương pháp như phương pháp
phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê... Phương pháp phân tích, tổng hợp vừa
mang lại cho đề tài những cái nhìn tổng quan về vấn đề cần nghiên cứu vừa mang lại
chiều sâu cho đề tài. Phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng xuyên suốt trong quá
trình nghiên cứu, bởi chỉ khi đặt cái chết nhân đạo trong mối liên hệ với lịch sử của
các quốc gia, lịch sử lập pháp, đối chiếu với pháp luật trong và ngoài nước thì đề tài
mới được giải quyết triệt để vấn đề cần nghiên cứu.
8

7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu

Bài nghiên cứu bao gồm các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và 1
chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về cái chết nhân đạo, pháp luật về cái chết nhân đạo

Chương 2: Pháp luật về cái chết nhân đạo và một số kiến nghị xây dựng pháp luật về
cái chết nhân đạo ở Việt Nam

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO, PHÁP
LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO
1.1 Khái niệm cái chết nhân đạo và quyền an tử
1.1.1 An tử và cái chết nhân đạo

Về lịch sử hình thành và phát triển, từ thời cổ đại (thế kỷ V đến thế kỷ I TCN),
những người La Mã và Hy Lạp đã có xu hướng ủng hộ an tử và không tuân theo “lời
thề Hippocrates” một cách trung thành. Các bác sĩ có thể thực hiện việc giết người vì
mục đích nhân đạo (mercy killing), cả tự nguyện và không chủ ý. Tuy nhiên, khoảng
thời gian sau đó cho đến gần cuối thế kỷ XIX, an tử bị phản đối bởi quan điểm của các
tôn giáo lớn (Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái, Đạo Phật) và bị pháp luật ở nhiều quốc
gia cấm (đặc biệt là các quốc gia theo thông luật). Sang thế kỷ XX, với sự phát triển
của ngành y khoa, an tử đã có được những bước tiến lớn. Về mặt pháp lý, năm 1976,
California trở thành bang đầu tiên của Mỹ thông qua luật cho phép người bị bệnh nan
y quyền quyết định hủy bỏ các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được tin rằng
sắp xảy ra. Tính đến năm 1977, đã có 8 bang của Mỹ gồm California, New Mexico,
Arkansas, Nevada, Idaho, Oregon, North Carolina, và Texas đã thông qua các điều luật
về quyền an tử.

Bước sang đầu thế kỷ XXI, năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp
pháp hóa an tử; tiếp sau đó là Bỉ (năm 2002), Luxembourg (năm 2008); và ba bang của
Mỹ gồm Washington (năm 2008), Montana (năm 2008), Vermont (năm 2013). Tháng
3/2014, Bỉ đã hợp pháp hóa an tử đối với trẻ em bị bệnh nan y và không thể cứu chữa.
9

Tháng 2/2015, Tòa án Tối cao Canada đã bãi bỏ lệnh cấm tự sát có trợ giúp của bác sĩ.
Tháng 4/2015, Tòa án Nam Phi đã cho phép tự sát có trợ giúp đối với những người bị
bệnh nan y.1

Cái chết nhân đạo hay còn gọi là an tử (trong tiếng Trung), euthanatos (trong
tiếng Hy Lạp) đề cập đến việc thực hành chấm dứt sinh mạng của một con người với
mục đích làm giảm thời gian chịu đau đớn và đau khổ về mặt thể lý cho người bệnh.
Ủy ban đặc biệt của Thượng nghị viện Anh về Đạo đức y học (The British House of
Lords Select Committee on Medical Ethics) định nghĩa về an tử là “một sự can thiệp
cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc một cuộc sống, để xoa dịu sự đau
đớn khó chữa”.2 Từ định nghĩa trên, có thể xác định bốn yếu tố để định nghĩa an tử đó
là: i) tính cố ý của hành động chấm dứt sự sống (hay hành động có chủ ý); ii) đối
tượng là những người không còn khả năng cứu chữa; iii) cách thức thực hiện ít hoặc
không gây đau đớn; iv) vì lợi ích của người được an tử (mục đích nhân đạo).

Dựa trên tính chất tự nguyện, an tử được chia thành an tử tự nguyện (voluntary
euthanasia), an tử phi tự nguyện (non-voluntary euthanasia) và an tử trái nguyện vọng
(involuntary euthanasia).3 Trong đó, an tử tự nguyện là việc bệnh nhân đưa ra quyết
định chấm dứt sự sống trong điều kiện tỉnh táo và nhờ đến sự hỗ trợ của bác sĩ. An tử
phi tự nguyện là trường hợp bệnh nhân không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận của họ
vì lý do hôn mê, tổn thương não... và một người khác thay mặt người bệnh quyết định
(với điều kiện tiên quyết là người bệnh này trước đó đã thể hiện mong muốn kết thúc
sự sống nếu lâm vào tình trạng này). An tử trái nguyện vọng hay còn gọi là an tử ép
buộc là khi người bệnh hoàn toàn từ chối hoặc không hề bày tỏ ý muốn được giải thoát
dưới bất kỳ hình thức nào nhưng việc này vẫn được thực hiện, đi ngược lại ý chí của
họ. An tử trái nguyện vọng trong mọi trường hợp đều là hành vi giết người trái pháp
luật. Dựa trên tiêu chí phương thức thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ động
(active euthanasia) và an tử bị động (passive euthanasia). Theo đó, an tử chủ động là
trường hợp cố ý can thiệp để chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân, hành vi này hoàn
toàn phụ thuộc vào sự vận động của các cơ quan trong cơ thể người bệnh như việc lưu

1
“Quyền an tử theo luật nhân quyền quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và gợi mở cho Việt Nam”, theo PGS,
TS Vũ Công Giao, ThS. Nguyễn Minh Tâm, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Bài viết đăng tải trên ấn phẩm
Nghiên cứu lập pháp số 4(308) - tháng 2/2016: https://bitly.com.vn/2avz87
2
Harris, NM. (Oct 2001). “The euthanasia debate”. J R Army Med Corps 147 (iii): 367-70.
3
Perrett RW (Oct 1996), “Buddhism, euthanasia and the sanctity of life”
10

thông máu sẽ đưa chất độc đi khắp cơ thể, đây có thể được coi là cách thức có hiệu quả
trong mọi trường hợp dù tình trạng của bệnh nhân có như thế nào. Trong khi đó, an tử
bị động là việc thu hồi các biện pháp chữa trị, để bệnh nhân tự chết đi, vậy nên, an tử
còn được coi là biện pháp tự nhiên và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là tình trạng
bệnh nhân và tính chất của các phương pháp điều trị y học. An tử chủ động đem đến
sự giải thoát nhanh hơn và dễ dàng hơn cho người bệnh, tuyên nhiên trước đây mọi
hành vi an tử chủ động đều là bất hợp pháp, hiện nay một số hệ thống pháp luật của
các quốc gia đã hợp pháp hóa nó và không còn phân biệt rạch ròi giữa hai phương
pháp này.

Trợ tử là việc tự sát được cam kết bởi một người nào đó với sự trợ giúp từ
những người khác, thường là để chấm dứt sự đau đớn từ một bệnh tật thể lý trầm
trọng.4 Trong khi an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến
cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động
trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự tử,
chẳng hạn như một bác sĩ kê đơn theo yêu cầu của bệnh nhân một liều thuốc gây tử
vong, cái mà bệnh nhân muốn sử dụng để kết liễu cuộc đời của mình. Như vậy, điểm
khác biệt lớn nhất có thể thấy là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình này,
trong trợ tử là người bệnh sẽ thực hiện hành vi cuối cùng, và trong an tử là một người
khác thực hiện toàn bộ hành vi (bao gồm cả hành vi cuối cùng). Ở hầu hết các nước đã
thông qua luật an tử, hành vi trợ tử cũng được coi là hợp pháp và thường được dùng
chung với nhau. Tuy nhiên chiều ngược lại lại không đúng, ở những nước chỉ mới hợp
pháp hóa hành vi trợ tử, thì an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và dẫn
tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp cho người
thực hiện hành vi đó.

Sau những phân tích trên, có thể hiểu rằng an tử là một cái chết nhẹ nhàng, an
yên cho người chết và không buộc tội người thực hiện. Trong đó, an tử có hai đặc
điểm chính. Thứ nhất, an tử là cái chết nhân đạo vì nó giúp người bệnh thoát khỏi đau
đớn bệnh tật không hy vọng cứu chữa. Thứ hai, 2, an tử phải có sự can thiệp y khoa
(chủ động hoặc bị động) trong việc đánh giá tình trạng của bệnh nhân và quy trình
thực hiện an tử.

4
Theo “Definition of Assisted Suicide” https://bitly.com.vn/kcztyk
11

1.1.2 Quyền an tử (hay “Quyền được chết” - “right to die”

Thực tế, quyền này chỉ được đặt ra ở các quốc gia đã hợp pháp hóa an tử, quyền
được chết ban đầu xuất hiện gắn liền với khái niệm “cái chết êm dịu”, từ này bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp là euthanatos, trong đó eu là tốt, thanatos là chết. Biểu hiện
ban đầu của các chết êm ả chính là trợ tử, thuật ngữ này bắt đầu xuất hiện rộng rãi vào
thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sĩ quan tâm đến sự đau đớn của người bệnh
và giúp đỡ người sắp chết thoát khỏi thế giới này một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn.
Theo đó, quyền được chết là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ việc lựa chọn của con
người cụ thể để tìm đến cái chết một cách tự nguyện nhằm giải thoát khỏi đau khổ,
bệnh tật hoặc các lý do khác. Quyền được chết có thể được định nghĩa là quyền nhân
thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý không có khả năng
chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có
thẩm quyền và tuân theo các quy định chặt chẽ của pháp luật.

Định nghĩa về quyền an tử có thể khác nhau tùy thuộc vào quan niệm của các
nhà làm luật tại mỗi quốc gia nhưng nhìn chung tất cả đều loại bỏ hành vi an tử trái
nguyện vọng ra khỏi nội hàm của khái niệm này. Có quốc gia chấp nhận an tử chủ
động, có quốc gia không, dẫn đến việc thu hẹp phạm vi khái niệm quyền an tử chỉ
được thực hiện dưới hình thức bị động (bác sĩ dừng điều trị). Điều tương tự cũng xảy
ra với việc có nên đặt ra giới hạn về độ tuổi đối với chủ thể hưởng loại quyền nhân
thân đặc biệt này hay không?.

Quyền an tử là một quyền nhân thân. Về bản chất, quyền an tử gắn liền với một
chủ thể nhất định và không thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Ngay cả trong
trường hợp người bệnh có chúc thư y tế và trao quyền quyết định vào tay một người
khác trước khi mất khả năng tự quyết định thì cũng không thể coi là người bệnh đã
chuyển giao quyền an tử của họ cho người khác. Bởi việc được người bệnh trao quyền
sau đó sẽ quyết định như thế nào đều nằm trong dự tính của người bệnh nên khi người
bệnh thực hiện các thủ tục trên, đồng nghĩa với việc họ chấp nhận thực hiện quyền an
tử của mình trong trường hợp lâm vào tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa và nhằm
mục đích duy nhất là thoát khỏi đau đớn, khổ sở. Ngoài ra, quyền an tử còn mang tính
chất phi tài sản bởi quyền an tử không thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp... chủ thể
12

khác không thể đặt mình vào vị trí của người có quyền để hưởng thụ quyền này.

Quyền an tử là đặc quyền. Đặc quyền ở đây có nghĩa là quyền an tử chỉ phát
sinh khi chủ thể hưởng quyền ở trong tình trạng đặc biệt, khi rơi vào trạng thái bệnh lý
không còn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt giữa an tử và
hành vi tự tử, cũng như phân biệt giữa hành vi thực hiện an tử và hành vi trợ giúp, xúi
giục người khác tự tử. Nếu như quyền an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân mắc
bệnh nan y, không còn hy vọng cứu chữa, trong pháp luật một số quốc gia còn quy
định thêm rằng thời hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi xúi giục, trợ giúp tự
tử có thể được thực hiện đối với các chủ thể không mắc bệnh, vì thế bị coi là hành vi
có hại cho xã hội và bị luật pháp nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.

Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm
quyền. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua
sự trợ giúp của người khác, sự trợ giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động
(tiêm thuốc gây chết người) hoặc không hành động (không tiếp tục các biện pháp hỗ
trợ y tế). Mọi hành vi chấm dứt sự sống không có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền
đều mang tính chất chủ quan, bộc phát và đây chính là đặc điểm để phân biệt giữa
quyền an tử và tự tử dù chủ thể ở trong cùng một tình trạng bệnh lý không thể cứu
chữa. Ngoài ra, chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật, họ
phải là những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của
bệnh nhân cũng như có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để thực hiện an tử trong
trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện.

Quyền an tử được thực hiện chặt chẽ và nghiêm ngặt theo quy định của pháp
luật. Xuất phát từ tính chất nhân đạo và đặc quyền, quyền an tử chỉ được thực hiện khi
đáp ứng đầy đủ các điều kiện và thực hiện theo quy trình chặt chẽ do pháp luật quốc
gia quy định. Hiện nay ở nhiều quốc gia, thủ tục để tiến hành việc an tử cũng như để
hưởng thụ quyền an tử hết sức chặt chẽ và nghiêm ngặt nhằm mục đích tránh mọi
trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ việc sai phạm là không thể cứu chữa
bằng bất kỳ biện pháp nào. Việc không tuân thủ đúng theo các quy định này có thể làm
phát sinh trách nhiệm hình sự hoặc dân sự hoặc kỷ luật nghề nghiệp đối với người thực
hiện an tử cho bệnh nhân.
13

1.2 Cái chết nhân đạo và các góc nhìn xã hội

Từ khi xuất hiện đến nay, cái chết nhân đạo và quyền được chết luôn là vấn đề
gây tranh cãi, trong xã hội cũng tồn tại hai luồng quan điểm, một số quan điểm phản
đối cho rằng quyền sống là quyền không thể bị tước đoạt bởi bất kỳ lý do gì và cái chết
nhân đạo có thể bị lợi dụng vì mục đích xấu, một số quan điểm ủng hộ thì cho rằng
việc bảo vệ quyền sống không có nghĩa là cá nhân đó không có quyền tự quyết định
đối với cơ thể của mình, cái chết nhân đạo là sự tôn trọng giá trị cuộc sống, tôn trọng
nhân quyền, phẩm giá của con người vì mục đích nhân đạo.

1.2.1. Một số quan điểm phản đối

Quyền sống là quyền đáng được đề cao, quyền cơ bản tuyệt đối, gắn liền với
mỗi chủ thể và không thể bị tước đoạt vì bất kỳ lý do nào. Trong giới luật của Phật
giáo, đức hiếu sinh luôn được đề cao, do vậy tự mình sát hại, bảo người khác sát hại,
khen ngợi hay tán đồng sự sát hại đều phạm trọng tội. Theo quan điểm của Phật giáo,
chết không phải là chấm dứt, đau khổ sẽ không chấm dứt sau khi chết mà vẫn tiếp tục
cho đến khi nào giải được tất cả ác nghiệp, người bệnh dù tự sát vẫn phải tiếp tục chịu
đau đớn trong kiếp sau. Một con người dù ốm đau và không có khả năng thực hiện
những hoạt động đời sống phổ biến nhất thì vẫn là con người, con người đặc biệt cho
tới thời điểm cuối cùng của cuộc đời và sự sống phải được duy trì càng dài càng tốt,
con người không nên được trợ giúp để chết trong yên bình, êm ả mà phải sống đến khi
họ tự nhiên chết đi. Khi nhắc đến bệnh tật, con người sẽ coi chữa trị là hệ quả tất yếu,
tuy nhiên, với sự tồn tại của ung thư, HIV, cao huyết áp... thì chữa trị lại là một điều xa
vời, phương pháp được dùng lúc này là chăm sóc. Thực tế y học chứng minh rằng
nhiều bệnh nhân mong muốn kết thúc cuộc sống, họ làm vậy bởi họ mong được giải
thoát, họ tuyệt vọng hoặc do sự đau đớn và chịu đựng của họ không được quan tâm. Vì
vậy, thái độ tận tình, liệu pháp làm cho người bệnh có hy vọng, cách tiếp cận giảm nhẹ
nỗi đau và chăm sóc phục hồi chức năng mới là lối thoát cho những người bệnh. Khi
đối mặt với đau khổ, tìm được ý nghĩa cuộc sống, đề ra chiến lược và phấn đấu đạt
được chăm sóc tối ưu sẽ tốt hơn là tìm đến cái chết. Luôn có cách giải quyết kể cả
trong những tình trạng phức tạp nhất thay vì lựa chọn cái chết nhân đạo, nghĩa vụ của
người bác sĩ là chấm dứt đau đớn, không phải là chấm dứt cuộc sống của người bệnh.
14

Việc áp dụng các biện pháp giảm đau không hề bị hạn chế, phương pháp thì có nhiều,
dễ áp dụng, ngày càng tinh vi và không ngừng phát triển. Trong các trường hợp đặc
biệt, bác sĩ thậm chí còn có thể cho bệnh nhân dùng thuốc an thần nặng để đưa họ vào
giấc ngủ và chờ đợi tạo hóa thực hiện công việc của mình. Và, khi khoa học y khoa
không ngừng phát triển, một người bệnh có thể không tìm được cách chữa trị vào hôm
nay nhưng ngày mai thì chưa chắc, ngoài ra, nguy cơ chẩn đoán bệnh sai là hoàn toàn
có thể. Như vậy, nếu chỉ một sai lầm nhỏ dẫn đến việc thực hiện cái chết nhân đạo mà
hậu quả là không thể cứu vãn.

Cái chết nhân đạo có thể bị lợi dụng vì mục đích xấu. Cụ thể như, có thể bị lợi
dụng trở thành một biện pháp nhằm hạn chế chi phí y tế. Nếu quyền được chết được
hợp pháp hóa, có khả năng các bác sĩ sẽ áp dụng rộng rãi thay vì khả năng điều trị kéo
dài, để giảm chi phí cho người bệnh của họ. Người bệnh nan y là nhóm cần được bảo
vệ, họ là những người yếu thế trước áp lực do đau đớn bệnh tật, tuyệt vọng trong hoàn
cảnh vô phương cứu chữa và tác dụng của điều trị. Ngoài ra, người nhà bệnh nhân
cũng có thể thực hiện cái chết nhân đạo cho bệnh nhân không chỉ vì mục đích nhân
đạo mà còn vì những thứ của cải, vật chất mà bệnh nhân để lại, những thứ vật chất đó
của người bệnh có thể là lý do để người nhà thực hiện cái chết nhân đạo cho bệnh nhân
vì mục đích muốn hưởng thụ nó.

1.2.2. Một số quan điểm ủng hộ

Cái chết nhân đạo không phải là sự chối bỏ giá trị cuộc sống mà ngược lại, là sự
tôn trọng giá trị cuộc sống, tôn trọng nhân quyền, phẩm giá con người và vì mục đích
nhân đạo. Giá trị cuộc sống chỉ có thể đạt được khi cuộc sống có chất lượng, việc
người bệnh lâm vào tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa, với đau đớn dai dẳng, kéo
dài và không thể chịu đựng đã giảm chất lượng cuộc sống xuống dưới mức tối thiểu.
Vậy chính việc bắt buộc con người tiếp tục duy trì sự sống trong trường hợp này mới
là một sự phủ định giá trị cuộc sống. Nhất là khi xem xét đến hoàn cảnh của một số
nước nghèo, nền y học và cơ sở vật chất chưa phát triển thì sự chịu đựng của con
người còn lớn hơn nhiều lần, hơn nữa, con người vốn có quyền được chết. Con người
là một chủ thể sinh học độc lập, có quyền kiểm soát thân thể và cuộc sống của mình,
có quyền tự quyết và thực hiện quyết định đó, mọi sự hạn chế áp đặt lên quyền con
15

người đều là điều không cần thiết. Quyền được chết không nhắm đến mục đích khác
ngoài nhân đạo, những tiến bộ trong công nghệ ngày nay thường đưa đến việc con
người sống lâu hơn và cũng thường chịu đau khổ vì bệnh tật trong thời gian dài hơn,
và điều này đồng nghĩa với việc một cái chết đang hạnh hạ một cách chậm rãi, lúc này
cái chết nhân đạo được coi là những lựa chọn hợp lý nhất.

Cái chết nhân đạo không phải là biện pháp tối ưu nhưng là biện pháp cuối cùng.
Luật pháp không quy định bắt buộc người lâm vào trạng thái y tế không lối thoát phải
thực hiện cái chết nhân đạo, mà chỉ mở ra một cánh cửa cho những người có nhu cầu
tự nguyện bước qua. Nhiều nước và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa quyền được chết
quy định bác sĩ có nghĩa vụ cung cấp thông tin về các liệu pháp chăm sóc giảm nhẹ
cho người bệnh và những phương án khác. Có thể thấy, người bệnh một khi đã dùng
đến cái chết nhân đạo, có nghĩa là họ không còn lựa chọn nào khác và đây là biện pháp
cuối cùng. Việc không mở cánh cửa này sẽ khiến cho con người lâm vào tình trạng bế
tắc, tuyệt vọng, thậm chí phải sử dụng đến những biện pháp cực đoan như cái chết
nhân đạo trái pháp luật hoặc tự tử.

Cái chết nhân đạo, về bản chất là dựa trên cơ sở tự nguyện và kết luận y khoa
chính xác đã được kiểm định. Nếu có luật về cái chết nhân đạo thì tính tự nguyện cũng
như tính chính xác khi xác định tình trạng y tế của người bệnh sẽ càng được đảm bảo
hơn bởi được đặt trong khuôn khổ pháp luật quy định chặt chẽ. Lo ngại về việc thực
hiện quyền cái chết nhân đạo sai đối tượng cũng giống như lo ngại về việc xét xử hình
sự sai người, sai tội. Nhưng nếu cứ có khả năng sai sót thì là điều cần cấm đoán? Câu
trả lời ở đây là không, việc lường trước khả năng sai sót là điều cần thiết nhưng là để
đề ra cách khắc phục một khi đã đưa vào thực hiện. Pháp luật là để phục vụ số đông,
trong khi sai sót nếu có xảy ra chỉ nằm trong phạm vi đơn lẻ, nhỏ hẹp. Vì vậy, nếu thất
cần thiết, pháp luật vẫn cần thông qua một số chính sách, đề ra các quy định nhằm
giảm thiểu đến mức tối đa các sai phạm có thể xảy ra. Và nếu dùng lý do kinh tế để
biện hộ cho việc phản đối cái chết nhân đạo là điều không khả thi. Bởi trong nhiều
trường hợp, so với tính toán dự đoán của bác sĩ, việc bệnh nhân ra đi theo phương
pháp này chỉ diễn ra trước thời điểm tự nhiên một vài tháng, thậm chí một vài ngày.
Và trên thực tế, có người lựa chọn thực hiện cái chết nhân đạo ở những quốc gia khác
nhau, nơi đã hợp pháp hóa quyền này, khiến cho chi phí của việc thực hiện cái chết
16

nhân đạo không hề nhỏ nhưng cái chết nhân đạo đáp ứng được nguyện vọng ra đi nhẹ
nhàng trong vòng tay người thân của họ nên họ chấp nhận. Quyền được chết cũng sẽ
không bao giờ trở thành một loại nghĩa vụ vì mục đích kinh tế khi được quy định phải
gắn liền với trạng thái đau khổ về thể chất hoặc tinh thần được chứng thực của người
bệnh.

1.3 Vai trò của pháp luật trong quy định cái chết nhân đạo

Bàn về cái chết nhân đạo, có rất nhiều ý kiến trái chiều đã diễn ra. Nhiều người
ủng hộ việc quy định cái chết nhân đạo, cũng có nhiều người đưa ra các lý do để phản
đối điều này. Thế nhưng chúng ta không thể phủ nhận được cái chết nhân đạo có vai
trò lớn trong việc thể hiện quyền của mỗi cá nhân. Đặt trong mối tương quan xã hội,
mỗi cá nhân chính là một phần nhỏ của cuộc đời, có tác động lớn đến các tổ chức và
các cá nhân khác. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên, pháp
luật nên đặt ra quy định cái chết nhân đạo.

Thứ nhất, quy định cái chết nhân đạo sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn về quyền
được chết. Mặc dù, cụm từ “cái chết nhân đạo” đã được biết đến rộng rãi, tuy nhiên,
nhiều người vẫn hiểu sai về mục đích và ý nghĩa của nó. Cho đến hiện nay, tại Việt
Nam, các khái niệm về cái chết nhân đạo được đưa ra nhưng vẫn chưa có sự thống
nhất, thậm chí còn có nhiều khái niệm chồng chéo lẫn nhau. Không những thế, việc
tiếp cận của người dân đối với khái niệm cái chết nhân đạo vẫn còn hạn chế. Nếu
không được giải thích, không được tiếp cận đến những giá trị, mục đích của cái chết
nhân đạo thì chắc chắn người dân sẽ có cái nhìn phiến diện và không nhận thức được
những giá trị của quyền này. Bởi, thực tế cho thấy không chỉ riêng Việt Nam, cách
nhìn đối với cái chết của người dân nhiều nước trên thế giới còn rất hạn chế. Do đó, sẽ
có rất nhiều trường hợp, họ nhìn cái chết nhân đạo theo hướng là hành vi giết người.
Từ đó, những tranh cãi sẽ xảy ra, dẫn đến việc không có sự thống nhất về quyền an tử
trong pháp luật cũng như trong đời sống con người. Việc quy định các điều luật cụ thể,
cùng với đó là giải thích các thuật ngữ liên quan sẽ giúp người dân tiếp cận gần hơn
với an tử, giúp họ hiểu và nhận thức được những giá trị, cách thức, phương pháp cũng
như ý nghĩa của cái chết nhân đạo. Kết hợp các quy định của luật với các phương tiện
truyền thông, chắc chắn khi người dân nhận thức được ý nghĩa thực sự của cái chết
17

nhân đạo, họ sẽ dần xóa bỏ khoảng cách và có cái nhìn bao quát hơn đối với quyền
này.

Thứ hai, việc quy định cái chết nhân đạo thể hiện thái độ tôn trọng quyền tự do,
tự quyết của con người. Con người có quyền mưu cầu hạnh phúc, được tự do lựa chọn,
tự do quyết định các vấn đề không vi phạm pháp luật. Đối với các bệnh nhân nan y
giai đoạn cuối đang ngày đêm chịu đớn đau do bệnh tật dày vò thì họ sẽ có những
quyết định, những lựa chọn mà họ nghĩ sẽ tốt nhất cho bản thân mà không vi phạm
pháp luật. Khi chắc chắn không còn cơ hội sống, người ta có quyền lựa chọn cách ra
đi. Ra đi trong đau đớn hay ra đi trong bình an, chắc hẳn khi đặt lên bàn cân, chúng ta
đều biết rõ lựa chọn của mình. Vậy tại sao chúng ta lại không đặt mình vào đó để tôn
trọng quyết định của họ, tôn trọng những suy nghĩ của chính bản thân họ. Không
những thế, mỗi người dân đều có quyền mưu cầu hạnh phúc. Vậy những người bệnh
nhân đang ngày đêm bị bệnh tật hành hạ mà không có khả năng chữa khỏi, những
người đang ngày ngày phụ thuộc vào máy móc để duy trì sự sống thì liệu họ có đang
hạnh phúc? Việc quy định cái chết nhân đạo thể hiện được cái nhìn khách quan, tôn
trọng của pháp luật đối với người lựa chọn quyền này. Trong khi pháp luật Việt Nam,
pháp luật các nước trong khu vực và quốc tế ngày càng đề cao quyền tự do của con
người thì chúng ta cũng nên tôn trọng quyền lựa chọn được chết. Đó là quyền tự quyết
- quyền tự do cơ bản nhất gắn liền với mỗi con người.

Thứ ba, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Pháp luật Việt Nam, đặc biệt là
pháp luật Hình sự luôn thể hiện được sự nhân đạo trong từng quy định. Thế nhưng,
không chấp nhận lựa chọn cái chết nhẹ nhàng đối với những người đang ngày đêm
chịu dày vò, đau đớn của bệnh tật, liệu có nhân đạo? Có bác sĩ đặt câu hỏi: "Thứ nhất
là trường hợp chết não, người bệnh sống được hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ
như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo. Rút máy ra thì coi như xong. Vậy có
nên duy trì tình trạng này không? Thứ hai là trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài
và không còn khả năng hồi phục, bản thân họ cũng chẳng biết vui buồn sướng khổ, thì
có nên để họ tiếp tục kéo dài nữa hay không và để làm gì?" 5 Những bệnh nhân thực
vật, những người đang thập tử nhất sinh ngày đêm đau đớn đếm từng ngày để “tồn tại”

5
“Cái chết nhân đạo - Hai mặt của một vấn đề”, theo Xuân Hòa, Báo Công an nhân dân:
https://bitly.com.vn/np24aj
18

với thế giới, hơn tất cả, họ cần sự “giải thoát” để tránh khỏi những dày vò của bệnh tật
về thể xác. Thay vì vẫn giữ họ lại để chống chọi với đau đớn thì “an tử” chính là sự
nhân đạo, sự thương xót đáng quý mà những người bệnh nan y cần lúc này.

Thứ tư, quy định “cái chết nhân đạo” sẽ là công cụ để giải quyết các hoạt động
an tử và các bế tắc trong quy định của luật khi nhu cầu về cái chết nhân đạo ngày một
tăng. Vì không được quy định cụ thể, nên thực tế, nhiều trường hợp, bác sĩ thực hiện
hoạt động an tử đối với các bệnh nhân chết não, bệnh nhân thực vật đều được xem là
vi phạm pháp luật. Cụ thể hơn là tội giết người. Vậy việc áp dụng tội danh trên cho
hành động mang tính nhân văn của bác sĩ liệu có hợp lý? Bên cạnh đó, việc đặt ra quy
định chặt chẽ về cái chết nhân đạo cũng góp phần giải quyết được các sự cố cố tình lợi
dụng tình trạng của bệnh nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của những kẻ
xấu. Ngày nay, số lượng bệnh nhân nan y ngày một lớn, trong khi đó, những cơn đau,
những giày vò mà bệnh tật mang lại ngày một nặng.

Thứ năm, hạn chế tình trạng trốn tránh trách nhiệm điều trị, không chăm sóc
bệnh nhân của bác sĩ, người nhà; lợi dụng tình trạng của bệnh nhân để giết người nhằm
được thừa kế, trục lợi bảo hiểm… và các tranh chấp phát sinh khi một người mắc
bệnh, tai nạn. Tuy chưa được pháp luật công nhận cái chết nhân đạo nhưng đã có rất
nhiều trường hợp ở thực tế áp dụng biện pháp này. Điều này đặt ra nhiều vấn đề liên
quan đến an tử. Trước hết là trách nhiệm của các bác sĩ. Việc đặt ra các quy định về an
tử đặt ra các nghĩa vụ của bác sĩ đối với người bệnh của mình. Trách nhiệm đó không
chỉ là trách nhiệm về chẩn đoán, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân mà còn là trách nhiệm
đối với tính mạng của họ. Nghĩa vụ này đòi hỏi bác sĩ vừa phải có tâm, vừa phải có
tầm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của bản thân. Đồng thời, việc pháp luật đặt ra quy
định về cái chết nhân đạo cũng góp phần tránh trước hợp bác sĩ chối bỏ trách nhiệm
của mình đối với bệnh nhân, sử dụng cái chết nhân đạo để lấp liếm những sai sót của
mình trong quá trình khám, chữa bệnh cho người bệnh. Bên cạnh đó, cần cân nhắc đến
các trường hợp lợi dụng cái chết nhân đạo để trục lợi của người nhà. Đối tượng mà
những người có hành vi xấu này muốn hướng đến đó chính là những tài sản có thể
thừa kế, bảo hiểm…Đứng trước những lợi ích, con người ta thường bị cám dỗ. Thực tế
rất nhiều trường hợp, con giết cha, vợ giết chồng chỉ để lấy tài sản thừa kế. Và cái chết
nhân đạo cũng không ngoại lệ. Nếu không có các quy định cụ thể, không có hành lang
19

pháp lý đưa ra các điều kiện để bảo vệ người bệnh thì với những trường hợp áp dụng
cái chết nhân đạo sẽ dễ dàng bị lợi dụng.

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ CÁI CHẾT NHÂN ĐẠO Ở VIỆT NAM
2.1. Pháp luật Việt Nam về cái chết nhân đạo
2.1.1. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về cái chết nhân đạo

Ở Việt Nam, cái chết nhân đạo đã được đề cập từ lâu, vì vậy không phải là vấn
đề hoàn toàn mới mẻ. Năm 2004, trong quá trình dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm
1995, Quốc hội đã có một buổi thảo luận về những ý kiến đề xuất mới trong luật, trong
đó có quyền an tử. Tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thạc Nhượng cũng khẳng định
quan điểm của mình trong quy định cái chết nhân đạo: nhiều người mắc bệnh nan y,
việc kéo dài sự sống là một cực hình. Họ có nhu cầu được chết nhưng không ai dám
giải quyết vì luật không cho phép. "Trong trường hợp đặc biệt, nên quy định quyền
được chết, đó là thể hiện tính nhân đạo” 6. Năm 2013, trong quá trình dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), quyền an tử cũng được đề cập đến nhưng
được cho là vấn đề mới nên cần được tiếp tục nghiên cứu 7. Đến năm 2015, khi Quốc
hội thảo luận về Bộ luật dân sự sửa đổi, Bộ Y tế mạnh dạn đề xuất đưa vào luật với
nguyện vọng thể hiện rằng sức khỏe, sinh mệnh mỗi người đều có quyền tự quyết
định, nhất là việc quyết định chết trong những trường hợp đặc biệt 8. Trong quá trình
này, vấn đề quyền được chết lại được bàn luận sôi nổi từ nhiều góc độ (luật học, y học,
văn hóa,…) và từ nhiều phía (bác sĩ, bệnh nhân, luật sư,…). Tiến sĩ Nguyễn Huy
Quang, vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Y tế), là người rất tâm huyết về vấn đề này cho
hay “Trên thực tế những người bệnh nặng, y học bó tay, chịu đau đớn kéo dài cũng
mong được chết một cách êm dịu và tôi nghĩ rằng nên chấp thuận mong muốn ấy của
họ”. Cũng theo ông Quang, vì làm luật trong nghề y nên ông thấu hiểu nỗi đau đớn của
người bệnh nan y, khi ông đề xuất điều này thì cũng có nhiều người đồng cảm 9.Tuy

6
“Quyền được chết, chuyển giới tính có đưa vào pháp luật”, theo Việt Anh, báo điện tử VNExpress:
https://bitly.com.vn/obap4r
7
“Chưa quy định “quyền được chết” vào Hiến pháp” - Công Anh, Theo Viết, Báo Tiền phong:
https://bitly.com.vn/stakly
8
Nguồn: “Cái chết nhân đạo” - Tranh cãi nơi ta, xứ người!, Fanpage Bộ trưởng Bộ Y tế:
https://bitly.com.vn/g4l39f
9
“Xin chết nhân đạo, được không?” - Theo Trần Kim Anh, Lan Anh, Ái Nhân, Báo Tuổi trẻ:
ttps://bitly.com.vn/0bjfa7
20

nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về chủ đề này ở Việt Nam vẫn còn ít
và còn rất nhiều băn khoăn liên quan đến vấn đề văn hóa, đạo đức, yếu tố nhân văn,
tôn giáo nên vẫn chưa thể đặt ra các quy định về cái chết nhân đạo.

Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa công nhận các quy định về cái chết nhân đạo,
nhưng thực tế cho thấy rằng, có rất nhiều trường hợp đã áp dụng cái chết nhân đạo,
bệnh nhân thực vật, bệnh nhân chết não,... buộc những người làm bác sĩ phải chấm dứt
cuộc sống của họ (tất nhiên đã có sự đồng ý của gia đình). Trong những hoàn cảnh đó,
thay vì “cứu” bệnh nhân, để bệnh nhân sống với đau đớn, sống mà vô cảm xúc, thì
việc lựa chọn “cái chết nhân đạo” của bác sĩ cũng là lựa chọn “cứu” những giá trị,
những cảm giác của bệnh nhân. Thế nhưng, với những hành động này, theo pháp luật
mà nói, bác sĩ đang có hành vi giết người, theo đạo đức thì họ đang trái với luân
thường đạo lý. Liệu có công bằng cho bác sĩ khi họ phải gánh chịu những “tội danh”
mà vốn dĩ xuất phát từ lòng nhân hậu, sự thấu hiểu của họ?

2.1.2. Bàn luận về việc quy định cái chết nhân đạo vào hệ thống pháp luật Việt
Nam

Tại Việt Nam, quyền được chết chưa được pháp luật ghi nhận và quy định trong
bất cứ văn bản pháp lý nào. Tuy nhiên, với bản chất là một quyền nhân thân cần thiết
và hoàn toàn vì mục đích nhân đạo, quyền được chết được đánh giá là có khả năng
công nhận cao tại Việt Nam, điều cần thiết chỉ còn là vấn đề thời gian. Tại Điều 19 của
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được
pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Ngoại trừ trường
hợp cảnh sát được giao nhiệm vụ thi hành bản án tử, hành vi tước đoạt tính mạng
người khác là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người
khác, của Nhà nước (nằm trong giới hạn phạm vi quyền phòng vệ chính đáng) sẽ
không bị coi là hành vi tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Và
nếu, pháp luật Việt Nam hợp pháp hóa cái chết nhân đạo thì người thực hiện hành vi
cái chết nhân đạo cho người khác cũng sẽ không bị coi là hành vi tước đoạt tính mạng
người khác một cách trái pháp luật (không trái với Hiến pháp). Hiện nay, Việt Nam
chưa có quy định nào nhằm điều chỉnh trường hợp cá nhân được quyền tìm giải pháp
chết một cách thanh thản, tuy nhiên nếu xét về lĩnh vực pháp luật liên quan đến quyền
21

của con người thì vấn đề quyền được chết cũng nên được đặt ra và xem xét, đánh giá
trong một phạm vi nhất định và một hoàn cảnh cụ thể. Việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ
sung các quy định liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong hệ
thống pháp luật Việt Nam là một điều cần thiết, bao gồm cả quyền được chết. Mọi hạn
chế đối với việc hợp pháp hóa quyền được chết như vấn đề văn hóa, kinh tế, xã hội và
các yếu tố cấu trúc thượng tầng đều có khả năng cải thiện và thực tế đang được các
nhà quản lý nỗ lực khắc phục từng ngày. Trong đó có kể đến các biện pháp như tuyên
truyền, phổ biến kiến thức để cái chết nhân đạo dần đi sâu vào đời sống, thay đổi nhận
thức của nhân dân và biện pháp như việc mời chuyên gia, học hỏi kinh nghiệm lập
pháp của những nước đã đi trước trong vấn đề hợp pháp hóa quyền được chết.

Hiện nay, do sự hiểu biết chưa đầy đủ của người dân mà việc hưởng thụ quyền
được chết hay hành vi thực hiện cái chết nhân đạo cho người khác dễ bị nhầm lẫn với
các hành vi phạm tội, vì vậy phải chịu cái nhìn định kiến cũng như không nhận được
sự ủng hộ từ xã hội. Cần khẳng định một điều rằng việc hưởng thụ quyền được chết và
hành vi thực hiện cái chết nhân đạo theo đúng tính chất quyền (tự nguyện, vì mục đích
nhân đạo, dựa trên yêu cầu của người bệnh...) và tuân thủ các quy định nghiêm ngặt
(quy định về tình trạng y tế, yêu cầu đối với bác sĩ, quy trình thực hiện...) nếu được
pháp luật công nhận sẽ được coi là hành vi hợp pháp, không mâu thuẫn với các quy
định khác, đặc biệt là các quy định về đặc điểm cấu thành tội phạm trong Bộ luật hình
sự 2015 như tội giúp người khác tự sát, tội giết người, không cứu giúp người đang
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng...

+ Hành vi thực hiện cái chết nhân đạo khác với hành vi giết người (Điều 123
Bộ luật hình sự 2015). Hiện nay, ở Việt Nam chưa công nhận quyền được chết nên
hành vi thực hiện cái chết nhân đạo có thể bị đánh đồng với hành vi giết người và bị
xét xử theo tội giết người. Nhiều nhà nghiên cứu phân biệt cái chết nhân đạo với giết
người trên cơ sở mong muốn của người đã chấm dứt sự sống. Nếu người được thực
hiện hành vi cái chết nhân đạo thể hiện mong muốn được chết thì nạn nhân của tội giết
người không hề hy vọng tính mạng mình bị tước đoạt. Nhưng vấn đề nằm ở quan niệm
của những chủ thể lập pháp và hành pháp, cấu thành tội giết người chỉ bao gồm mặt
khách quan là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật, hậu quả là
người đó chết, hậu quả có mối quan hệ với hành vi và mặt chủ quan là người thực hiện
22

hành vi với lỗi cố ý, hoàn toàn không dựa vào tính chất có mong muốn hay không của
người đã chấm dứt sự sống, nên dù có hay không có mong muốn cũng không quan
trọng. Như vậy, rõ ràng bản chất của hai hành vi là khác nhau nhưng việc có nhìn nhận
sự khác biệt này hay không phụ thuộc vào quan điểm của các nhà lập pháp ở mỗi quốc
gia khác nhau.

+ Hành vi thực hiện cái chết nhân đạo khác hành vi giúp người khác tự sát.
Hành vi giúp người khác tự sát được coi là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam, tuy nhiên có sự khác biệt rõ ràng giữa hành vi thực hiện cái chết nhân đạo
và hành vi giúp người khác tự sát đó là: Hành vi thực hiện cái chết nhân đạo chỉ do các
bác sĩ có thẩm quyền thực hiện, các bác sĩ này không chỉ phải đáp ứng được yêu cầu
về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm mà trong nhiều trường hợp còn phải phối kết hợp
với nhau để đưa ra được chuẩn đoán chính xác nhất không chỉ về tình trạng thể chất
mà còn về tinh thần, độ minh mẫn của người bệnh khi đưa ra yêu cầu. Việc thực hiện
cái chết nhân đạo không có sự cho phép hoặc giám sát của người hành nghề y có thể
khiến người thực hiện hành vi phải gánh chịu hậu quả pháp lý. Trong khi đó, chủ thể
xúi giục hoặc giúp đỡ người khác tự sát có thể là bất cứ ai trên 16 tuổi, không phân
biệt dựa trên bất cứ tiêu chí hoặc đòi hỏi nào khác. Và trong hành vi thực hiện cái chết
nhân đạo, bác sĩ không xúi giục bệnh nhân mà chỉ cung cấp tình hình thực tế cho bệnh
nhân dựa trên sự hiểu biết về khoa học bệnh lý, và hành vi cái chết nhân đạo khác
hoàn toàn hành vi tự tử nên việc bác sĩ tham gia vào quá trình thực hiện cái chết nhân
đạo, giúp đỡ người bệnh thực hiện cái chết nhân đạo không phải hành vi giúp người
khác tự sát.

Ngoài ra còn tồn tại quan điểm cho rằng hành vi thực hiện cái chết nhân đạo
khác hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
(Điều 132 Bộ luật hình sự 2015), bởi hành vi thực hiện cái chết nhân đạo theo hình
thức bị động (không tiếp tục áp dụng các biện pháp kéo dài sự sống) và hành vi không
cứu giúp có sự khác biệt, một bên bệnh nhân được yêu cầu bỏ mặc, còn một bên nạn
nhân mong muốn không bị bỏ mặc. Tuy nhiên việc có nhìn nhận sự khác biệt này
không cũng dựa sự trên quan điểm của cơ quan có thẩm quyền.
23

Pháp luật Việt Nam nên có những quy định về cái chết nhân đạo, bởi việc quy
định cái chết nhân đạo cũng là việc tôn trọng quyền con người: quyền tự quyết, quyền
riêng tư, quyền mưu cầu hạnh phúc. Mỗi người đều có quyền đưa ra các quyết định đối
với bản thân (trừ các trường hợp xâm phạm đến lợi ích xã hội, an ninh quốc phòng,
ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc) và mọi người phải tôn trọng các quyết định đó. Lựa
chọn quyền được chết như thế nào là quyền của bản thân mỗi người. Chúng ta vẫn
thường thấy các di thư, di chúc của những người thân khi mất đi để lại. Như thế, pháp
luật vẫn tôn trọng quyền tự quyết của mỗi người ngay cả đối với những người đã
khuất, chúng ta vẫn tôn trọng quyền tự quyết, quyền quyết định của họ. Thật ra, đối
với những người lựa chọn cái chết nhân đạo, chắc chắn họ đã phải suy nghĩ, trăn trở
rất nhiều. Không ai trên cuộc đời này lấy việc sống còn ra để làm trò đùa cho bản thân
và cho mọi người. Khi họ lựa chọn cái chết nhân đạo nghĩa là khi họ thấy được so với
lựa chọn cái chết thì cuộc sống đã mang lại cho họ nhiều đau khổ, đưa đến cho họ
những day dứt, những sự thất vọng, chán chường. Vậy nên, hơn tất cả, chúng ta cần
tôn trọng quyết định của họ. Trong cuộc khảo sát nhóm tiến hành trong quá trình
nghiên cứu, đã có rất nhiều người ủng hộ đối với vấn đề này. Họ đều đưa ra những lý
do khá thuyết phục để pháp luật xem xét quy định quyền được chết. Có người cho
rằng: “Your body - your choice, đó là cơ thể của họ và chính họ mới biết bản thân
mình thật sự muốn, thật sự cần gì. Theo mình, khi một người đã đưa ra quyết định tiến
hành cái chết nhân đạo, bản thân họ cũng đã phải chịu nhiều đau đớn - không chỉ về
thể xác mà còn về tinh thần. Dẫu biết việc cái chết nhân đạo có thể đem lại những mất
mát cho người ở lại, song nếu đặt mình vào hoàn cảnh của họ, chắc hẳn thứ họ muốn
không phải là “chỉ tồn tại” và chịu đau đớn. Việc chúng ta, kể cả có quen biết họ hay
không, đánh giá lựa chọn của họ cho chính cơ thể, chính bản thân mình, theo mình vô
hình trung đã đi ngược lại với di nguyện của người đã khuất. Từ góc nhìn của mình,
nên tôn trọng quyết định của họ và tưởng nhớ họ bằng những ký ức đẹp, những giá trị,
dù lớn hay nhỏ, mà họ đã đem lại cho cuộc sống.” Song song với quyền tự quyết thì
việc lựa chọn cái chết nhân đạo còn được xem là quyền riêng tư của nhiều bệnh nhân.
Đó là chuyện riêng tư, là câu chuyện của chính bản thân họ. Chúng ta không có quyền
quyết định thay, cũng không có quyền đánh giá những vấn đề riêng tư của họ. Có
người cho rằng, con người có quyền lựa chọn sinh ra thì cũng có quyền lựa chọn chết
24

như thế nào. Chính vì thế chúng ta cần tôn trọng những quyết định đến bản thân của
những người trong cuộc.

Một câu hỏi được đặt ra là liệu cái chết nhân đạo có đáp ứng được quyền mưu
cầu hạnh phúc không? Theo Wikipedia, “Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con
người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một
cảm xúc bậc cao. Ở con người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động
của lý trí. Hạnh phúc gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống” 10. Con
người sinh ra để tìm kiếm hạnh phúc cho không chỉ chính mình mà còn cho những
người xung quanh. Đối với những người bị chết não, người thực vật không còn khả
năng ý thức liệu họ có cảm nhận được những hạnh phúc mà cuộc sống mang lại. Đối
với họ, đó không còn là sống mà đó chính là tồn tại. Tồn tại giữa cuộc đời này mà
không có cảm xúc, không có ý thức, không một cảm nhận. Với những người bệnh nan
y ngày ngày đếm thời gian còn lại của cuộc đời, họ liệu có hạnh phúc khi phải chịu sự
dày vò của bệnh tật, chịu những cơn đau hành hạ sau mỗi lần hóa trị, xạ trị? Họ liệu có
hạnh phúc khi phải chứng kiến người thân đau xót cho bản thân, chứng kiến người
thân vì cứu mình mà phải lam lũ vất vả chắt góp? nếu chúng ta nhìn vào bản thân của
những người bệnh, nhìn vào sự thống khổ mà họ đang phải chịu đựng thì việc lựa chọn
một cái chết nhẹ nhàng chính là sự giải thoát, là cơ hội để họ không còn áy náy với
cuộc đời, với bản thân và với mọi người. Và sự kết thúc này là để "quên" đi những đau
khổ của cuộc sống, khi không còn sự lựa chọn nào khác thì cái chết nhân đạo là một sự
phù hợp.

Và việc quy định cái chết nhân đạo sẽ đặt ra một hành lang pháp lý để bảo vệ
người bệnh. Việc quy định cái chết nhân đạo sẽ giúp cho mọi người nắm rõ được đối
tượng, phạm vi, điều kiện áp dụng cái chết nhân đạo. Như đã phân tích, thực tế cho
thấy, Việt Nam đã có rất nhiều trường hợp lựa chọn cái chết nhân đạo. Nhưng lại
không có một văn bản nào quy định cụ thể về cái chết nhân đạo. Liệu sẽ công bằng
cho bác sĩ khi họ thực hiện cái chết nhân đạo chỉ vì xuất phát từ sự thấu hiểu đối với
người bệnh và gia đình người bệnh. Liệu xã hội sẽ không phê phán những người nhà,
những người bác sĩ khi họ tiến hành thực hiện cái chết cho bệnh nhân. Và đặt vào
trường hợp, nếu không có các quy định cụ thể thì sẽ xử lý như nào đối với các trường

10
Hạnh phúc, wikipedia https://bitly.com.vn/5u7016
25

hợp không được sử dụng quyền được chết nhưng người nhà, bác sĩ cấu kết với nhau để
trục lợi cho mình? Chính vì thế, việc đặt ra các quy định sẽ tạo ra một hành lang pháp
lý vững chắc, nhằm đảm bảo các nghĩa vụ, quyền của các bên liên quan trong trường
hợp lựa chọn cái chết nhân đạo. Pháp luật Việt Nam nên công nhận cái chết nhân đạo,
tuy nhiên, khi đưa vào luật, các nhà làm luật cần lường trước các mặt trái khi quy định
vấn đề này. Cụ thể, khi đưa vào quy định của luật sẽ có những trường hợp lợi dụng cái
chết nhân đạo để nhằm mục đích xấu cho cá nhân. Chính vì thế, chúng ta cần có một
hành lang pháp lý chặt chẽ để có thể bảo vệ được quyền lợi của những người bệnh;
đồng thời ngăn chặn các hành vi xấu làm ảnh hưởng đến mục đích nhân đạo của quyền
được chết.

Việc pháp luật Việt Nam có những quy định về cái chết nhân đạo cũng giống
như việc có những quy định mới thể hiện nhận thức tiến bộ của các nhà lập pháp Việt
Nam về quyền con người, quyền cơ bản của công dân ví dụ như quyền hiến tạng trong
Hiến pháp, quyền chuyển đổi giới tính trong Bộ luật dân sự. Để hợp pháp hóa quyền
được chết, điều mà nhà nước cần làm trước tiên là làm cho thuật ngữ “cái chết nhân
đạo” không còn xa lạ với người dân, để người dân có thể hiểu đúng, có cái nhìn đúng
đắn về cái chết nhân đạo, sau đó nhà nước cần ghi nhận quyền được chết là quyền
nhân thân chính thức, quyền dân sự cơ bản trong các đạo luật gốc là Hiến pháp và Bộ
luật dân sự, cũng có thể được cụ thể hóa trong một luật chuyên ngành. Tuy nhiên, khi
ban hành các điều luật liên quan đến quyền được chết, nhà nước cũng cần phải có sự
kết hợp sửa đổi, bổ sung các luật khác cho phù hợp, đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất
của hệ thống pháp luật. Và điều quan trọng là nhà nước cần quan tâm lắng nghe phản
hồi từ nhiều hướng khác nhau trong quá trình xây dựng đạo luật này để có sự điều
chỉnh kịp thời và phù hợp.

2.2 Yếu tố ảnh hưởng đến quy định pháp luật về cái chết nhân đạo
2.2.1 Các yếu tố cản trở Việt Nam ghi nhận cái chết nhân đạo
a. Điều kiện kinh tế - xã hội

Việt Nam còn là một nước đang phát triển, điều kiện về cơ sở vật chất cũng như
khả năng, chăm sóc khám chữa bệnh còn thấp. Hoàn cảnh này rất dễ dẫn đến hệ quả
quyền an tử bị lạm dụng, làm sai lệch bản chất và mục đích nhân đạo của quyền. Thứ
26

nhất, khả năng y học thấp là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc
chuẩn đoán sai người, sai bệnh. Thứ hai, khoa học kỹ thuật chưa phát triển sẽ không
cung cấp cho người bệnh được những lựa chọn chăm sóc giảm đau đớn, hay nói cách
khác, nếu thông qua quyền an tử sẽ khiến cho đây trở thành một lựa chọn không phải
cuối cùng nhưng là duy nhất. Cuối cùng, lo ngại các chủ thể có liên quan sẽ vì mục
đích kinh tế mà lợi dụng các chính sách của nhà nước để ép buộc an tử, hoặc tiến hành
an tử cho những đối tượng yếu thế như người già, người khuyết tật, người bệnh cần
điều trị lâu dài.

Bên cạnh đó, số lượng người dân có mong muốn áp dụng cái chết nhân đạo còn
chưa nhiều. Tình trạng này đến từ nhiều nguyên nhân. Không phải là Việt Nam là một
đất nước ít bệnh tật, không phải Việt Nam là một đất nước với trình độ y khoa phát
triển chữa trị được hầu hết những căn bệnh khiến giới y học thế giới đầu hàng, mà bởi
tại Việt Nam vấn đề an tử còn mới mẻ, nếu chưa từng được nghe đến, biết đến thì sẽ
không phát sinh nhu cầu thụ hưởng.

Ngoài ra, Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các quan niệm sinh - tử. Nước ta là một
đất nước truyền thống, quan niệm phương Đông coi trọng sự sống đã bám sâu vào nền
văn hóa cũng như tư tưởng của nhiều thế hệ con người. Chúng ta đề cao sự sống và
phê phán, lên án kịch liệt những hành vi đi ngược lại với những quan niệm đó. Hiện
nay, việc chấm dứt sự sống của một người chính là hành vi giết người. Đây là được
xem là sự vô nhân đạo, trái với luân thường đạo lý. Thực tế cho thấy ở nước ta gia
đình người bệnh vẫn luôn giữ quan điểm “còn nước còn tát” hay “có bệnh vái tứ
phương” dù cho đã có kết luận về tình trạng y tế không lối thoát hay người bệnh đang
phải sống trong hoàn cảnh đau đớn kéo dài. Không những thế, một số quan niệm của
người dân phương Đông còn cho rằng, “sống chết do trời”, khi con người ra đi thì có
giờ, có khắc. Hay nói một cách dễ hiểu là số mệnh đã sắp đặt. Cho nên, con người
không có quyền được giết hại hay xâm phạm đến bất cứ sinh mạng của một người nào.
Mặt khác quan niệm về sống thọ là quý không chỉ của cá nhân mà gia đình, dòng họ,
đối lập với đó nếu gia đình có tang là đen đủi, là có vận hạn đã cản trở người ốm đau,
bệnh tật bày tỏ nguyện vọng được chết đến cùng với người thân, bác sĩ. Chính vì thế,
nhiều người vẫn còn ái ngại đối với việc lựa chọn cái chết nhân đạo. Đối với các tôn
giáo, tính mạng của con người cũng rất được coi trọng. Đặc biệt, đối với những người
27

theo Phật giáo, mọi hành động can thiệp hay giúp đỡ người bệnh chết "nhân tạo" đều
bị coi là giết người. Theo công giáo, sự sống của con người là do Thiên Chúa tặng ban
và phải được nuôi dưỡng, phát triển và bảo vệ như ý Chúa muốn. Giáo lý Giáo hội cho
biết: “Hủy hoại mạng sống không phải là quyền của con người mà là đặc quyền của
Thiên Chúa.”11 Do đó, không ai có thể can thiệp vào quyền sống của con người.

Đồng thời, xét theo góc độ y học, mục tiêu hàng đầu của ngành y là cứu người.
lương y như từ mẫu của ngành y tế. Mục đích xương sống của ngành y tế chính là cứu
người, vậy việc dùng cái chết nhân đạo đang đi ngược lại với mục đích, nghĩa cử cao
đẹp mà các bác sĩ, các nhân viên ngành y đang hướng đến. Trong một bài viết trên
trang fanpage “Bộ trưởng Bộ Y tế”, một người dùng facebook có để lại bình luận: “Ai
sẽ là người thực hiện quyền được chết của bệnh nhân? bác sĩ? Điều dưỡng? Xin lỗi
chúng tôi chỉ được dạy cách cứu người chứ không được dạy cách giết người đừng giao
thêm cái nhiệm vụ nặng nề đó”. Có thể thấy, thiên chức của người bác sĩ chính là cứu
người, là đưa những người bệnh thoát khỏi bàn tay của thần chết. Chính vì thế, đôi khi,
việc áp dụng cái chết nhân đạo hay việc đưa ra các ý kiến lựa chọn cái chết nhân đạo
đối với bệnh nhân là một việc vô cùng khó khăn và đi ngược lại với thiên chức của
những người bác sĩ.

b. Trình độ lập pháp

Mặc dù hiện nay, trình độ lập pháp của Việt Nam đã có những bước tiến đáng
kể song vẫn còn ở mức thấp, do đó, khi đưa ra các quy định mới, đặc biệt là quy định
cái chết nhân đạo sẽ gặp nhiều khó khăn. Nước ta đã có được hệ thống pháp luật cơ
bản đầy đủ, đồng bộ, thống nhất. Công tác xây dựng pháp luật có nhiều cải tiến, đổi
mới, xác định được quy trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật theo hướng
dân chủ, công khai, minh bạch.12 Tuy nhiên, pháp luật nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế, một số quy định chưa đồng bộ, thống nhất, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Trong khi đó, cái chết nhân đạo là
một vấn đề khá nhạy cảm bởi nó còn có nhiều tranh cãi. Việc quy định một vấn đề mới

11
“Cái chết nhân đạo dưới nhãn quan của giáo hội Công giáo” - theo Lm. Phaolô Bùi Đình Cao
https://bitly.com.vn/wws8ts
12
“Hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế cho sự phát triển của đất nước”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam: https://bitly.com.vn/i7dg2e
28

và chưa được nhiệt tình ủng hộ của người dân như cái chết nhân đạo sẽ ảnh hưởng rất
lớn, gây khó khăn, chồng chéo trong việc xây dựng pháp luật.

Cái chết nhân đạo là vấn đề nhạy cảm nên việc quy định vào trong pháp luật đòi
hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng, không nóng vội. Không chỉ Việt Nam, tại các quốc
gia trên thế giới, vấn đề về cái chết nhân đạo đã tạo ra một luồng tranh cãi rất lớn. Có
rất nhiều quan điểm đồng tình nhưng cũng có không ít quan điểm phản đối. Mỗi bên
đều đưa ra các lý lẽ vô cùng hợp lý và thuyết phục. Tại Việt Nam, vấn đề về cái chết
luôn là vấn đề nhạy cảm từ trước đến nay, đặc biệt là việc lựa chọn cái chết cho người
đang sống. Trong bối cảnh còn nhiều tranh cãi, việc vội vàng đưa ra quy định về cái
chết nhân đạo sẽ gặp phải phản đối của nhiều người, làm cho pháp luật không thể đi
vào thực tế. Không những thế, việc vội vàng đưa các quy định cái chết nhân đạo vào
pháp luật sẽ xuất hiện những lỗ hổng. Điều này làm cho các đối tượng có ý đồ xấu dễ
dàng lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người bệnh. Chính vì thế, để đưa cái chết nhân đạo vào pháp luật cần phải nghiên cứu
một thời gian dài, đảm bảo các điều kiện hợp lý để tránh đưa ra các quy định sai sót.

Và quy định về cái chết nhân đạo chưa phải là vấn đề cấp thiết trong thời đại
hiện nay của Việt Nam. Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện
đại hóa với cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, pháp luật cần tập trung xây dựng và
hoàn thiện các vấn đề về kinh tế - xã hội. Tiêu biểu là các vấn đề về an ninh mạng, các
hoạt động tuyên truyền văn hóa, vấn đề mở cửa hội nhập nhưng vẫn đảm bảo chủ
quyền quốc gia… Những vấn đề đó là những vấn đề “nóng bỏng” nhất không chỉ các
nhà lập pháp mà người dân luôn hướng đến. Trong khi đó, đối với cái chết nhân đạo,
mặc dù, nó xuất phát từ nhu cầu, xuất phát từ các trường hợp thực tế, song phạm vi đối
tượng nó còn hẹp và cũng không phải là vấn đề cần phải đưa ra quy định ngay.

2.2.2. Các yếu tố thúc đẩy Việt Nam ghi nhận cái chết nhân đạo

Kinh phí để duy trì sự tồn lại của những người không còn khả năng duy trì sự
sống bình thường cao hơn với mức sống của người dân. Mặc dù nền kinh tế nước ta
đang ngày càng phát triển nhưng hiện nay, người dân Việt Nam vẫn phải đối mặt với
gánh nặng kinh tế. Và việc điều trị các bệnh nhân không nhằm mục đích khỏi bệnh cần
một số tiền không nhỏ. Ngay cả giới bác sĩ đã chứng minh rằng sự thật đằng sau việc
29

thực thi “cái chết êm dịu” là một chính sách dựa trên nền tảng kinh tế hơn là về quyền
con người hoặc nền tảng nhân đạo. Việc thực thi "cái chết êm dịu" giúp các chính phủ
tiết kiệm rất nhiều ngân sách chăm sóc y tế, sức khỏe người dân bởi chỉ cần tiêm một
mũi thuốc khoảng 10 đôla hoặc rút ống thở... là giúp người bệnh ra đi thanh thản. Điều
này có nghĩa chi phí sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với hàng tỉ đôla mà chính phủ phải chi
cho việc chăm sóc sức khỏe hay chăm sóc y tế cho người bệnh. Thực tế cho thấy,
nhiều gia đình đã phải chi trả một số tiền rất lớn, thậm chí là phải bán hết các gia tài
trong nhà chỉ để duy trì cuộc sống của người thân đang hết hi vọng được cứu sống.
Trong dẫn chứng ở trên, “Tôi không còn tiền, còn sức nữa rồi. Tôi cũng không muốn
các con tôi “chết chìm” cùng bố mẹ. Có bác sĩ đã khuyên tôi nên rút máy thở cho anh
ấy. Tôi có về nói lại và hỏi ý kiến nhà chồng. Nhưng khi vừa nghe điều đó, mẹ chồng
tôi đã chửi mắng tôi lăng loàn, thất đức... Cứ thế này ít lâu nữa, đời tôi kể như cũng đã
chết rồi” - đó là những lời tâm sự đầy thống khổ của người thân bệnh nhân khi phải
đối mặt với áp lực kinh tế, với cuộc sống hằng hàng của gia đình.

Bảo đảm quyền tự quyết về sự sống của cá nhân, giải thoát cá nhân khỏi đau
đớn về thể xác và tinh thần do tình trạng bệnh tật, chấn thương,… Mỗi người bệnh
nhân khi lựa chọn cái chết nhân đạo, họ đã phải trải quan những lần điều trị đầy dày
vò, phải trải qua những cơn đau hành hạ thể xác. Nhiều bệnh nhân, vì phải chống chọi
với mà kiệt quệ sức khỏe, không còn sức lực để tiếp tục các hoạt động cơ bản nhẹ
nhàng như đi lại, ăn uống. Không chỉ đối mặt với những cơn đau về thể xác, người
bệnh còn phải chống chọi nỗi đau về tình thần. Hầu hết các bệnh nhân ý thức được tiến
trình bất khả kháng của bệnh tật ở giai đoạn cuối. Và không ai có thể vui vẻ khi biết
mình không còn được sống bao nhiêu với cuộc đời này. Họ buồn bã, thất vọng vì
những điều ấp ủ chưa được thực hiện, họ dằn vặt vì mình là gánh nặng của gia đình.
Theo kết quả đánh giá nhanh của Bộ Y tế về chăm sóc giảm nhẹ tại 5 tỉnh thành, bệnh
nhân ung thư phải chịu đựng nặng nề về tâm lý và tình cảm. 48% cảm thấy hoàn toàn
hoặc một phần không hài lòng về cuộc sống của họ, 87% bệnh nhân ung thư buồng
hoặc rất buồn.13 Thậm chí có nhiều bệnh nhân vì tâm trạng sa sút mà dẫn đến trầm
cảm. Với các trường hợp hợp này, chúng ta tôn trọng quyền lựa chọn về sự sống của
họ. Không ai muốn mình mất đi, nhưng nếu sống mà quá đau khổ, quá dằn vặt thì ra đi

13
“5 khủng hoảng tâm lý của người bị ung thư”, Trung tâm y học hạt nhân và ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai:
https://bitly.com.vn/dcj4kn
30

là một sự giải thoát. Việc chúng ta tôn trọng, đưa cái chết vào quy định của pháp luật
góp phần đảm bảo được quyền tự quyết đối với sự sống, đặt ra các hành lang pháp lý
để giúp bệnh nhân thoát khỏi những đau đớn về thể xác và tinh thần.

Tạo hành lang pháp lý cho các bác sĩ đưa ra các quyết định đúng đắn trong
chăm sóc, điều trị bệnh nhân; bảo vệ bác sĩ và hạn chế các tranh chấp xảy ra khi bệnh
nhân yêu cầu được giúp đỡ. Khi đưa các quy định về cái chết nhân đạo vào pháp luật,
các quy định đó sẽ đưa ra các điều kiện, tiêu chí cụ thể đối với các bệnh nhân để bác sĩ
có thể dựa vào đó đưa ra ý kiến đối với việc thực hiện an tử cho bệnh nhân của mình.
Không những thế, việc có cơ quan kiểm duyệt, có hội đồng phân tích các điều kiện áp
dụng cái chết nhân đạo sẽ giúp cho bác sĩ điều trị đưa ra các quyết định đúng đắn trong
việc xây dựng phác đồ điều trị, chăm sóc cho bệnh nhân. Đồng thời, khi có các bên
tham gia vào hoạt động kiểm duyệt cái chết nhân đạo sẽ làm cho quyết định đưa ra
mang tính khách quan, chính xác hơn, tránh trường hợp gây tranh chấp giữa các bên
khi tham gia vào cái chết nhân đạo.

2.3. Quy định pháp luật của một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam

Dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế, quyền an tử là một chủ đề còn mới, chưa
được thảo luận nhiều. Ủy ban Nhân quyền (HRC - cơ quan giám sát thực thi Công ước
quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị - ICCPR) cũng chỉ mới đề cập đến quyền này
một lần trong Nhận xét kết luận về báo cáo của Hà Lan năm 2001 - thời điểm quốc gia
này thông qua đạo luật về an tử. Trong Nhận xét này, Ủy ban Nhân quyền cho rằng an
tử tự nguyện chỉ nên được phép trong những tình huống hãn hữu nhất mà mọi điều
kiện về thủ tục và nội dung được đảm bảo, trong đó bao gồm cần phải thể hiện được ý
chí rõ ràng của bệnh nhân. Tuy nhiên, Ủy ban Nhân quyền không đồng tình với các
quy định về việc chấp thuận chấm dứt cuộc sống của trẻ em, bởi cho rằng trẻ em chưa
đủ trưởng thành để bày tỏ ý chí về một vấn đề quan trọng như vậy với cuộc sống của
mình.

Như vậy, nhìn chung an tử không đi ngược lại với Bộ luật Nhân quyền quốc tế.
Tuy nhiên, để quyền an tử được thừa nhận một cách rộng rãi ở các quốc gia là điều
tương đối khó. Hiện nay, những tranh luận về an tử có xu hướng diễn ra chủ yếu ở khu
vực Bắc Mỹ, châu Âu và Úc hơn là ở châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, và Trung Đông, mặc
31

dù vẫn có những ngoại lệ trong xu hướng này. Ở châu Âu, nơi luôn đi đầu trong lĩnh
vực nhân quyền, trong Khuyến nghị số 1418 của Nghị viện Hội đồng châu Âu năm
1999 tại đoạn 9 (a) (viii) nêu rõ: [các quốc gia thành viên] “cần bảo đảm rằng, trừ khi
người bệnh lựa chọn cách khác, một người bị bệnh nan y hoặc sắp chết sẽ được nhận
đầy đủ các biện pháp chăm sóc để làm giảm sự đau đớn, ngay cả khi các biện pháp này
có thể gây ra tác dụng phụ làm rút ngắn cuộc sống của họ”. Nội dung khuyến nghị này
cho thấy ý chí của bệnh nhân là rất quan trọng, và nó cũng hàm ý rằng an tử có thể
được phép. Tuy nhiên, hiện nay ở châu Âu cũng mới chỉ có một số quốc gia hợp pháp
hóa an tử (sẽ được nêu cụ thể dưới đây).

2.3.1. Pháp luật một số quốc gia về cái chết nhân đạo.
a. Tại Hà Lan

Đạo luật Chấm dứt cuộc sống theo yêu cầu và trợ tử (Termination of Life on
Request and Assisted Suicide Act) năm 2001 có hiệu lực vào ngày 01/4/2002. Đạo luật
này hợp pháp hóa an tử và trợ tử trong những trường hợp và hoàn cảnh rất đặc biệt và
phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) nỗi đau của bệnh nhân là không thể chịu đựng
được và không có triển vọng cải thiện; (ii) yêu cầu an tử của bệnh nhân phải tự nguyện
(không chịu ảnh hưởng của người khác, tâm lý bệnh tật hoặc của thuốc) và kiên trì
theo thời gian; (iii) bệnh nhân phải nhận thức được đầy đủ về tình trạng của mình,
triển vọng và các lựa chọn; (iv) phải có sự tham vấn với ít nhất một bác sĩ độc lập khác
là người mà cần xác nhận các điều kiện nêu trên; (v) cái chết phải được thực hiện theo
cách phù hợp về mặt y tế bởi bác sĩ hoặc bệnh nhân và bác sĩ phải có mặt; (vi) bệnh
nhân ít nhất 12 tuổi (bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi đòi hỏi có sự chấp thuận của cha
mẹ). 14

Về cơ bản, có một số điểm đáng chú ý của Luật Yêu cầu chấm dứt sự sống và
Trợ tử như sau:15

- Quy định yêu cầu bác sĩ thực hiện chấm dứt sự sống hoặc trợ tử với thái
độ cẩn trọng. Các quy định này đối chiếu theo Điều 2, Chương 2, là những quy định về

14
The Termination of Life on Request and Assisted Suicide (Review Procedures) Act in practice
15
Dutch law on Termination of life on request and assisted suicide (complete text) - The World
Federation of Right to Die Societies
32

điều kiện đã được nêu ở trên. Mặt khác, bác sĩ có thể chứng nhận người bệnh đủ điều
kiện an tử hoặc trợ tử khi bản thân họ tin rằng những đau khổ của người bệnh sẽ kéo
dài và không thể chịu đựng được, không bắt buộc phải là đau đớn về thể xác hay các
bệnh nan y.

- Quy định về điều kiện an tử đối với trẻ em, chia ra các mốc tuổi từ 12
đến 16, và từ 16 đến 18. Nếu như 12 đến 16 tuổi, bố hoặc mẹ hoặc cả bố và mẹ hoặc
người giám hộ phải đồng ý với việc chấm dứt cuộc sống hoặc trợ tử thì trẻ từ 16 đến
18 tuổi có thể tham gia vào quá trình quyết định nhưng không cần phải chấp thuận.

- Quá trình an tử phải được giám sát bởi một ủy ban phi tư pháp. Mọi hoạt
động an tử và trợ tử phải được một Ủy ban địa phương xét duyệt theo yêu cầu chấm
dứt sự sống và trợ tử giám sát. Quy định cụ thể về ủy ban địa phương này có thể tìm
được ở Điều 3, Chương 3, Khoản 2.

Là một trong những nước đầu tiên đưa ra một đạo luật cụ thể về an tử, các quy
định của Hà Lan đã tạo nền móng khá tốt về cả mặt định nghĩa, lí luận và các quy định
thực hiện liên quan, là bài học để các nước khác có thể tham khảo và noi theo.

b. Tại Bỉ

Đạo luật về An tử của Bỉ (The Belgian Act on Euthanasia) được thông qua vào
ngày 28/5/2002 và được sửa đổi bởi Luật ngày 13/02/2014, trong đó có một số nội
dung đáng chú ý sau :16 (i) bệnh nhân là một người trưởng thành có năng lực pháp lý,
trẻ vị thành niên sống tự lập (emancipated minor) có năng lực pháp lý, hoặc trẻ vị
thành niên có năng lực về nhận thức và ý thức tại thời điểm đưa ra yêu cầu; (ii) yêu
cầu là tự nguyện, được xem xét thận trọng và được lặp lại và không là kết quả của bất
kỳ áp lực bên ngoài nào; (iii) bệnh nhân là người trưởng thành hoặc trẻ vị thành niên
sống tự lập ở trong tình trạng y tế vô vọng không thay đổi, và đau khổ thể xác hoặc
tinh thần không chịu đựng nổi mà không thể giảm bớt, và là kết quả từ một rối loạn
nghiêm trọng và không thể cứu chữa gây ra bởi bệnh tật hoặc tai nạn; (iv) trẻ vị thành
niên có năng lực nhận thức ở trong tình trạng y tế vô vọng không thay đổi và đau khổ
thể xác không chịu đựng nổi mà không thể giảm bớt và sẽ gây ra cái chết trong thời

16
RECENT BELGIAN LAW REFORM Law of 28 May 2002 on Euthanasia, amended by the Law of 13
February 2014 – Consolidated version [cha
33

gian ngắn, và là kết quả từ một rối loạn nghiêm trọng và không thể cứu chữa gây ra
bởi bệnh tật hoặc tai nạn.

Đạo luật này cũng yêu cầu quá trình đưa ra yêu cầu của bệnh nhân cần có sự
tham vấn của một bác sĩ khác là bác sĩ tâm thần hoặc một chuyên gia; với trẻ vị thành
niên sống tự lập cần tham vấn một bác sĩ tâm thần trẻ em hoặc một nhà tâm lý học và
thông báo về lý do được tham vấn. Mọi yêu cầu phải được đưa ra bằng văn bản, và với
bệnh nhân là trẻ vị thành niên sẽ cần sự đồng ý của người đại diện hợp pháp.

Đạo luật về an tử của Bỉ có một vài điểm khác biệt lớn như sau:17

- Người trưởng thành trong tình trạng y tế vô vọng với đau khổ về mặt thể
xác hoặc tinh thần dai dẳng và không thể chịu đựng cũng như làm thuyên giảm được
được yêu cầu an tử (Điều 3 Chương 2, Khoản 1). Trong quá trình quyết định an tử hay
không, phải có ít nhất hai bác sĩ tham gia vào quá trình và thêm một bác sĩ tâm lý nếu
nghi ngờ về khả năng biểu đạt của người bệnh. Cả người bệnh và bác sĩ sẽ cùng nhau
quyết định biện pháp an tử phù hợp và theo nguyện vọng của bệnh nhân.

- Nhằm tránh các hậu quả pháp lý không phù hợp với các bác sĩ thực hiện
an tử, Đạo luật của Bỉ có một vài điều kiện cụ thể như sau: (i) người bệnh phải là
người trưởng thành hoặc trẻ vị thành niên, đủ tư cách công dân có năng lực pháp lý và
nhận thức được điều mình làm khi đưa ra yêu cầu; (ii) yêu cầu được lập trên cơ sở tự
nguyện, cẩn trọng và làm nhiều lần, không do yếu tố bên ngoài tác động vào; (iii) tình
trạng y tế của bệnh nhân là vô vọng, người bệnh trải qua đau đớn kéo dài (thể xác, tinh
thần) và không thể thuyên giảm hay cứu chữa.

- Đạo luật này quy định cho phép bệnh nhân được tiếp cận với thuốc giảm
đau miễn phí trong quá trình điều chị. Quy định này mang đến một giá trị tích cực
trong quá trình điều trị, khi sẽ giảm thiểu các trường hợp bệnh nhân yêu cầu an tử vì lí
do chi phí dịch vụ y tế.

- Vào năm 2014, đã có những sửa đổi trong Đạo luật này.

17
The Belgian Act on Euthanasia of May, 28th 2002*
34

+ Hiện nay, trẻ vị thanh niên có thể yêu cầu an tử bằng cách tiêm thuốc độc
(dựa trên yêu cầu của đối tượng).

+ Đối tượng trẻ em không còn bị giới hạn độ tuổi cho việc an tử. trẻ em khi đưa
ra yêu cầu cần có khả năng nhận thức đầy đủ và có năng lực phân biệt quyết định của
mình.

+ Yêu cầu an tử được yêu cầu thực hiện bằng văn bản, được xự đảm bảo của
bác sĩ điều trị và một bác sĩ khác. Cùng với đó là quá trình kiểm tra tâm thần để đảm
bảo điều kiện tỉnh táo, đầy đủ nhận thức của trẻ em.

c. Tại một vài quốc gia khác

Bên cạnh các quy định trực tiếp và được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc tại Hà
Lan và Bỉ, chúng ta còn có thể tìm kiếm được các quy định nhỏ lẻ hoặc không trực tiếp
tại một vài quốc gia khác, như Mỹ và Thụy Sỹ.

Đối với Mỹ, những quy định về an tử được sử dụng theo cấp độ bang. Cho đến
tháng 02/2022, có 3 bang là Oregon, Vermont và Washington thông qua luật hợp pháp
hóa an tử (trợ tử). Điểm chung là bệnh nhân phải cư trú trên lãnh thổ của các bang và
phải thỏa mãn các điều kiện: (i) độ tuổi tối thiểu của bệnh nhân là 18; (ii) bệnh nhân có
khả năng thực hiện và truyền đạt các quyết định chăm sóc y tế cho mình; (iii) thời gian
dự kiến cái chết sẽ xảy ra trong 06 tháng hoặc ít hơn; (iv) yêu cầu được thực hiện 02
lần bằng miệng (cách nhau ít nhất 15 ngày) và 01 lần bằng văn bản. 18

Đối với Thụy Sĩ, những đánh giá về luật an tử không được trực tiếp, mà phải
suy ra từ một vài điều khoản có liên quan. Theo Điều 115 - Bộ luật Hình sự Thụy Sĩ
năm 194219, trong đó quy định rằng: “Xúi giục và hỗ trợ tự tử: Bất kỳ người nào vì
động cơ ích kỷ xúi giục hoặc trợ giúp người khác thực hiện hoặc cố gắng thực hiện tự
tử mà sau đó người này thực hiện hoặc cố gắng thực hiện tự tử thì sẽ phải chịu án tù
không quá 05 năm hoặc bị phạt tiền”. Như vậy, trợ tử (an tử) chỉ bị coi là tội phạm khi
động cơ thực hiện là “ích kỷ” (ví dụ: thu lợi cá nhân). Ngoài ra, pháp luật Thụy Sỹ

18
“Quyền an tử của một số nước trên thế giới và quy định của pháp luật Việt Nam”, theo Quỳnh Ny,
Nhân sự nghề luật - https://bitly.com.vn/c6j7zt
19
Bộ luật Hình sự Thụy Sỹ năm 1942 - Điều 115 (Trang 397): Euthanasia under the Swiss Penal
Code
35

cũng quy định rõ rằng “nghĩa vụ cứu sống không đứng cao hơn hành vi trợ tử vị tha”,
thể hiện sự tôn trọng đến quyền được chết của từng cá nhân và đồng thời để bảo vệ
những người thực hiện trợ tử, miễn là vì động cơ nhân đạo.

Bên cạnh đó, gần đây vào tháng 12/2020, một nước phương Tây khác là Tây
Ban Nha cũng đã thông qua dự luật hợp pháp hóa về cái chết nhân đạo. Sau 3 tháng
cân nhắc và sửa đổi, Quốc hội nước này đã chính thức thông qua luật an tử, trở thành
một luật riêng của quốc gia này.20

Nhận xét quy định về cái chết nhân đạo tại các quốc gia

Về mặt tích cực, pháp luật các quốc gia đã quy định rõ thế nào là cái chết nhân
đạo, điều kiện để thực hiện cái chết nhân đạo, thẩm quyền, thủ tục thực hiện, trách
nhiệm của các bên liên quan,...Đây đều là những nền móng vững chắc để việc áp dụng
cái chết nhân đạo trong thực tế tại những quốc gia này được đảm bảo. Đây đều trở
thành những quy định vô cùng nhân văn và hữu dụng đối với việc quyết định và thực
hiện cái chết nhân đạo ở con người. Các nước đều đặt sự tôn trọng gần như tuyệt đối
với ý chí của cá nhân mong muốn thực hiện cái chết nhân đạo Trước hết, những quy
định này giúp tất cả mọi người đảm bảo sự an toàn của bản thân mình. Ta đều biết
rằng, chủ nghĩa phản đối cái chết nhân đạo cho rằng nỗi lo lớn nhất chính là khi hình
thức an tử bị lợi dụng cho những mục đích tước đoạt mạng sống của người khác. Do
đó, khi có những thông tin, điều kiện rõ ràng để xác định đâu là một trường hợp có thể
thực hiện an tử (luôn xuất phát từ ý chí chủ động của chủ thể trước) sẽ giúp tránh khỏi
những rủi ro về mặt an toàn thân thể. Tiếp đó, một trong những quan điểm khi xây
dựng quy định pháp luật về cái chết nhân đạo đó là: “thẩm phán duy nhất quyết định
chất lượng cuộc sống và phẩm giá những phút cuối cuộc đời của chính họ là chính
họ”. Quan điểm này thật sự tôn trọng nhân quyền dù nó ở bất kì góc độ nào. Đối với
người trưởng thành, đây là một điều có thể quyết định dựa trên ý chí cá nhân của họ.
Tuy nhiên đối với các lứa tuổi nhỏ hơn (dưới 18 tuổi) thì sẽ cần những sự hỗ trợ cả về
tâm lí lẫn thể xác của gia đình hoặc người đại diện nhiều hơn. Trẻ em luôn có những
quy định đặc biệt để giúp các em hiểu hơn về cuộc sống, có thể nhờ đó mà thay đổi

20
Euthanasia in Spain - Wikipedia
36

suy nghĩ, nguyện vọng. Phân tách rõ ràng tức mức tuổi theo các mốc của tuổi trưởng
thành cũng thể hiện được sự bao quát của các Luật, Đạo luật tại các quốc gia hiện thời.

Ngược lại, vẫn có một vài các quy định về an tử đang gây khá nhiều tranh cãi,
cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn. Có những báo cáo cho rằng những quy định hiện tại quá
“mở”, còn lỏng lẻo và đôi khi quên mất đi các điều kiện xã hội khác liên quan đến
từng cá nhân có mong muốn thực hiện cái chết an tử.

- Với các quy định của Hà Lan - một quốc gia vẫn đang liên tục mở rộng phạm vi
của quyền an tử đã từng vấp phải phản đối lớn cho quy định về việc chấp nhận
cái chết nhân đạo đối với cả vấn đề về tinh thần riêng rẽ, không cần thiết phải là
thể chất, sức khỏe mắc phải căn bệnh nan y. Theo số liệu vào năm 2017, 4% cái
chết ở Hà Lan, tương đương 6.091 trường hợp, là an tử. Mặc dù đa số trường
hợp an tử hiện nay chiếm phần lớn với những trường hợp do bệnh nặng bệnh
nan y thì tỉ lệ các cái chết nhân đạo do vấn đề tâm lí cũng ngày một tăng lên. Ở
một khía cạnh nào đấy, có thể thấy được quy định này có xu hướng “quá rộng”.
Thực tế, quyền “được chết” nên và chỉ nên được áp dụng khi không thể duy trì
một trạng thái độ cả về thể chất lẫn tinh thần của một người. Đối với sức khỏe
tinh thần, việc nên làm ở đây với tình huống như vậy là tăng cường hệ thống hỗ
trợ đối với các đối tượng yếu thế, ví dụ như người già, trẻ nhỏ, phụ nữ. Những
vấn đề về tâm lí có thể coi như một căn bệnh bình thường và có thể tiến hành
giúp đỡ, chữa trị trước khi chấp nhận hoàn toàn yêu cầu an tử hoặc trợ tử của
những đối tượng này.

- Về việc không buộc là công dân vẫn có thể thực hiện an tử tại quốc gia đó. Việc
“mở cửa” rộng như vậy tại một số quốc gia tạo ra khái niệm “du lịch an tử”, khi
người từ quốc gia này có thể sang quốc gia khác để “được chết”. Thực tế việc
này xuất hiện do không có những quy định cụ thể cấm các bác sĩ thực hiện an tử
cho người không mang quốc tịch nước mình. Việc di chuyển nhằm mục đích
thực hiện cái chết nhân đạo như vậy khiến cho khó quản lý nhân thân thực tế
hơn, có thể là điều kiện để các đường dây tội phạm xuyên quốc gia lợi dụng để
thực hiện hành vi vi pháp. Với việc di chuyển dễ dàng giữ các nước châu Âu
với nhau, các cá nhân có thể đổ xô sang một quốc gia nào đó để thực hiện an tử,
37

về lâu dài có thể gây ra sự quá tải hoặc những định kiến sai lầm về một quốc gia
nào đó.

2.3.2. Kinh nghiệm quy định về cái chết nhân đạo của một số nước trên thế giới.

Nhìn vào hệ thống pháp luật, cụ thể là các Luật, các Đạo luật liên quan trên toàn
thế giới, ta có thể thấy được một số bài học kinh nghiệm đáng giá mà ta có thể áp dụng
tại Việt Nam.

Về vấn đề hình thức, khuôn khổ của những quy định trên thế giới, có hai cách
thực hiện cơ bản: một là quy định riêng rẽ thành hẳn một Luật, Đạo Luật về vấn đề an
tử, hai là quy định đơn lẻ một vài yếu tố phù hợp được chấp thuận trong các Luật, Bộ
luật khác liên quan, điển hình như Bộ luật Dân sự, Luật y tế,... Với điều kiện như hiện
tại của Việt Nam, trước mắt có thể theo dõi việc quy định trong các ngành luật liên
quan trước và trong tương lai xa, nhu cầu của xã hội được rõ ràng, cụ thể hơn thì có
thể cân nhắc việc quy định riêng thành một Luật độc lập, riêng rẽ là Luật An tử.

Trước tiên, việc quy định rõ và thống nhất về cái chết nhân đạo (an tử) ngay từ
đầu là vô cùng cần thiết. Việc này giúp cho hệ thống pháp luật được thống nhất, bài
bản. Bên cạnh khái niệm an tử đã nêu ở trên trong luật pháp của Bỉ, nhóm nghiên cứu
cũng đã chỉ ra được khái niệm phù hợp nhất để quy định về cái chết nhân đạo (an tử)
trong hệ thống luật Việt Nam.

Bên cạnh đó, còn thấy được rằng cần phải quy định rõ ràng về ý chí cá nhân khi
quyết định lựa chọn cái chết nhân đạo hay không. Do hiện nay, Việt Nam vẫn chưa
thừa nhận và ủng hộ cái chết nhân đạo vậy nên việc tôn trọng quyền con người, quyền
sống và quyền “chết” để phát triển thêm các quy định về ý chí cá nhân là vô cùng quan
trọng. Người Việt Nam có xu hướng sống tập thể, quyết định của bản thân có thể được
hoặc bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố xung quanh. Khi áp dụng các quy định này lại
Việt Nam, cần cân nhắc kỹ về yếu tố độc lập ý chí của bệnh nhân, bên cạnh đấy còn là
các quy định khác liên quan để thực sự đảm bảo được sự bảo mật và độc lập ý chí (có
thề đề đạt nguyện vọng đến một ủy ban riêng về cái chết nhân đạo).

Sau khi đã có thể đảm bảo yếu tố tự do, độc lập ý chí trong lựa chọn của người
bệnh, ta có thể học hỏi thêm những kinh nghiệm về việc quy định hành lang pháp lý,
38

vừa là hình thức bảo vệ, vừa là các giới hạn để kiểm soát đội ngũ y bác sĩ. Theo nhiều
quan điểm y khoa hiện nay từ các bác sĩ của Việt Nam, có rất nhiều lí do khiến những
ý kiến ủng hộ cái chết nhân đạo chưa nhiều. Lí do đầu tiên có thể do việc xác định tình
trạng của bệnh nhân chưa rõ ràng, thống nhất. Đôi khi đối với bác sĩ A, tình trạng của
bệnh nhân này là không thể cứu chữa nhưng bác sĩ B lại không đồng ý như vậy. Việt
Nam có thể học hỏi các quốc gia khác trên thế giới về điều kiện đánh giá tình hình
thực tế của bệnh nhân cũng như việc hợp tác cùng nhiều bộ phận khác nhau (bác sĩ
thần kinh, bác sĩ tâm lí) để có thể đưa ra chẩn đoán phù hợp nhất. Lí do thứ hai chính
là do rào cản pháp lý chưa đủ đảm bảo đối với các bác sĩ tham gia thực hiện cái chết
nhân đạo. Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, các quy định về khía cạnh này của
các quốc gia như Bỉ hay Hà Lan đã phát triển tương đối đầy đủ, giúp tạo điều kiện tốt
nhất cả về mặt tư tưởng và các hành động thực tiễn nhằm bảo vệ bác sĩ khỏi những
thiệt thòi không đáng có.

Với hệ thống các cơ quan nhà nước của Việt Nam hiện nay, việc tổ chức thêm
một cơ quan chuyên trách về vấn đề cái chết nhân đạo từ cấp trung ương đến địa
phương hay tích hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát vào công việc của Ủy ban địa
phương là chưa hợp lý. Tuy nhiên, yêu cầu về việc có một đơn vị tự do, độc lập tham
gia kiểm duyệt, chứng minh,... về cái chết nhân đạo là không thể phủ nhận do tính
nhạy cảm giữa các bên liên quan vào từng trường hợp (bệnh nhân, bác sĩ, người
nhà,...). Với điều kiện của Việt Nam hiện tại, có thể cân nhắc đến việc thành lập một
Ủy ban riêng của Chính Phủ quản lý, từ đó có thể phân bổ đến các phòng ban khác tại
các bệnh viện tuyến trung ương. Đề xuất sắp xếp như vậy là do hiện nay, công tác thực
hiện cái chết nhân đạo nên được thực hiện ở tuyến trung ương với công nghệ y tế hiện
đại nhất và cơ chế quản lý hành chính cũng được tổ chức chặt chẽ hơn. Chỉ khi nào
thật sự các bệnh viện tuyến trung ương cũng “bó tay” thì thời điểm đó mới nên cân
nhắc đến việc thực hiện cái chết nhân đạo. Các tổ, phòng tại các bệnh viện đó cũng có
thể từ đó mà theo dõi, giám sát tình hình, đảm bảo pháp luật được thực thi đúng như
quy định.
39

2.4. Kiến nghị Xây dựng pháp luật về cái chết nhân đạo ở Việt Nam
2.4.1. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để pháp luật hóa cái chết nhân đạo

Như đã nói ở trên, để hợp pháp hóa một quyền mới vào hệ thống pháp luật Việt
Nam, điều mà nhà nước cần làm là giúp cho nhận thức của công chúng về quyền dần
thay đổi, sau đó ghi nhận quyền vào những văn bản pháp luật được coi là đạo luật gốc
của pháp luật Việt Nam như Hiến pháp và Bộ luật dân sự,... Để việc xây dựng các quy
định pháp luật về cái chết nhân đạo được tiến hành một cách thuận lợi, trước tiên phải
chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để hợp pháp hóa chúng, cụ thể như:

- Điều tra xã hội, thăm dò ý kiến dư luận xã hội đóng vai trò rất lớn trong quá
trình xây dựng luật, bởi kết quả không chỉ phản ánh chính xác nhu cầu và quan điểm
của quần chúng nhân dân, mà còn góp phần phổ biến những kiến thức pháp luật mới
cho người dân trên quy mô rộng với đa dạng thành phần. Thực tế chứng minh, tại các
quốc gia đã, đang, và chưa công nhận cái chết nhân đạo, các cuộc thăm dò ý kiến dư
luận xã hội vẫn đang diễn ra hàng ngày, kết quả cho thấy không có nơi nào tỷ lệ phản
đối vượt qua tỷ lệ ủng hộ. Nếu có thể thực hiện ở Việt Nam, đây sẽ là một căn cứ tham
khảo rất vững chắc để các nhà làm luật dựa vào, pháp luật trong thời đại nào cũng nên
vì con người và phục vụ nhu cầu của con người, một khi đã chứng minh được thực tế
có nhu cầu, sự xem xét điều chỉnh của pháp luật là điều tất yếu, để đảm bảo sự hòa hợp
giữa yếu tố kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, có thể tổ chức các buổi
tiếp xúc, trao đổi ý kiến với những người có mong muốn hưởng quyền và gia đình của
họ, có những khúc mắc, băn khoăn chỉ có thể giải quyết bằng con đường trò chuyện,
thảo luận trực tiếp, vì vậy, bên cạnh việc tuyên truyền hiểu biết về cái chết nhân đạo,
các tổ chức xã hội cần tổ chức các buổi tiếp xúc, trao đổi ý kiến với những người có
mong muốn hưởng thụ quyền. Tuy nhiên, các buổi tiếp xúc này cần đảm bảo tính minh
bạch, trực tiếp, không khí cởi mở để người đặt câu hỏi và người trả lời có thể thoải mái
bộc lộ suy nghĩ của mình; đảm bảo tính công bằng, đúng đắn, không để một số đối
tượng lợi dụng sự kiện này tuyên truyền tư tưởng chống đối, gây xung đột. Cuối cùng,
cần thống kê số lượng người có nguyện vọng được hưởng cái chết nhân đạo, việc
thống kê số lượng người có nguyện vọng hưởng quyền an tử nên được quy định thuộc
thẩm quyền của cơ quan y tế (Bộ y tế) và cơ quan hành chính địa phương quản lý vấn
đề khai sinh, khai tử (Ủy ban nhân dân cấp xã). Việc phối hợp thực hiện giữa hai cơ
40

quan này sẽ giúp cho việc thống kê chính xác hơn: cơ quan hành chính có thẩm quyền
sẽ tiếp nhận nguyện vọng từ phía người dân, còn cơ quan y tế có trách nhiệm thực hiện
kiểm tra tình trạng thể chất và tinh thần để chắc chắn đây là nguyện vọng xác đáng,
không nhằm che dấu một mục đích khác. Việc thực hiện thống kê số lượng người có
nguyện vọng hưởng cái chết nhân đạo sẽ không thể đem lại hiệu quả tuyên truyền tích
cực nếu các số liệu này chỉ được lưu trên hồ sơ của các cơ quan có thẩm quyền. Việc
công bố chính thức, minh bạch những số liệu này giúp cho cộng đồng hiểu rõ không
phải chỉ có một vài người mong muốn quyền an tử được công nhận, và họ xứng đáng
được hưởng quyền lợi này, tình hình nhu cầu trong xã hội sẽ đóng vai trò là cơ sở rất
thuyết phục.

- Tổ chức nghiên cứu, tọa đàm, hội thảo lấy ý kiến chuyên gia và học tập kinh
nghiệm của các quốc gia đã công nhận cái chết nhân đạo để từ đó dự đoán, phân tích
những khó khăn trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật về cái chết nhân đạo:
Giả sử pháp luật Việt Nam quy định cái chết nhân đạo, liệu có vấn đề gì phát sinh?
Cần phải khắc phục những vấn đề đó như thế nào? Đây là một vấn đề vô cùng quan
trọng bởi mỗi khi một quy định được luật hóa, các nhà lập pháp phải dự liệu phản ứng
của xã hội, từ đó có những biện pháp để kịp thời khắc phục, tránh tạo nên sự xung đột
quá lớn, quá đột ngột trong dư luận xã hội, ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện của quy
định pháp luật. Khi phân tích những vấn đề phát sinh nếu ghi nhận cái chết nhân đạo,
cần xem xét dưới hai góc độ là xã hội và pháp luật. Bởi pháp luật được xây dựng nhằm
điều chỉnh xã hội, xã hội là môi trường để thực thi pháp luật, từ đó tìm ra những hạn
chế của pháp luật để sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng
của xã hội. Xét trên bình diện xã hội, sẽ có một số vấn đề phát sinh như vấn đề nền
tảng tôn giáo, quyền thống của mỗi dân tộc sẽ bị ảnh hưởng như thế nào…Xét trên
bình diện pháp luật, một số vấn đề về quản lý và sửa đổi các lĩnh vực pháp luật khác
có thể gây nhiều tranh cãi. Đó là một trong số rất nhiều vấn đề có thể phát sinh khi
công nhận cái chết nhân đạo. Chắc chắn sẽ không thể dự liệu được tất cả các trường
hợp xảy ra, tuy nhiên cũng có thể lường trước phần nào và đưa ra các biện pháp khắc
phục sớm. Cần phải hiểu rằng chấp nhận thay đổi là chấp nhận thách thức, có khắc
phục được khó khăn thì thành công sẽ càng đáng tự hào hơn.
41

- Tuyên truyền, giáo dục về cái chết nhân đạo để thay đổi nhận thức của dân
chúng. Ở nước ta hiện nay, nhu cầu được hưởng cái chết nhân đạo không phải không
có nhưng việc xuất hiện hành lang pháp lý dành riêng cho đối tượng này là vấn đề hết
sức mới mẻ. Bên cạnh lý do tôn giáo, nhiều người phản đối cái chết nhân đạo bởi họ
chưa nhận thức được bản chất của vấn đề, coi đây là hành vi giết người, đi ngược lại
với đạo đức…Vì vậy, song song với việc công nhận cái chết nhân đạo, cần phải giúp
nhân dân tiếp cận hiểu rõ bản chất bằng những hành động cụ thể. Thực hiện cái chết
nhân đạo cho người bị bệnh nan y hiện nay trong xã hội vẫn còn là vấn đề nhạy cảm vì
vậy không mong ngay một lúc tất cả cộng đồng chấp nhận nó. Việc bắt ép người khác
chấp nhận một việc mà trong tư tưởng luôn có thành kiến với nó có thể dẫn đến hậu
quả nghiêm trọng như các hình thức chống đối, không thực hiện hoặc thực hiện sai.
Việc này chỉ có thể thực hiện dần dần, bằng nhiều cách khác nhau và quan trọng nhất
là dù thế nào cũng phải luôn tôn trọng truyền thống, những đức tính, tập quán, lối sống
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không dễ dàng thay đổi. Cũng có thể tuyên
truyền thay đổi nhận thức dân chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:
Sức mạnh của các phương tiện truyền thông thông tin trong việc phản ánh những vấn
đề xã hội ngày càng mạnh mẽ, trong đó không thể không kể đến vấn đề “cái chết nhân
đạo”. Vì vậy, nên có những bài viết, chuyên mục, chương trình bàn về vấn đề này trên
các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giúp người dân tiếp xúc một cách dễ dàng
nhất, mỗi công trình cần đảm bảo được các nội dung sau: Phân tích được bản chất và
mục đích tốt đẹp của việc công nhận và thực hiện quyền an tử; Ghi nhận ý kiến ủng hộ
nhưng không được phủ nhận những ý kiến phản đối của quần chúng nhân dân, điều
này chỉ khiến cho cộng đồng thêm bức xúc. Cần phải hiểu, họ phản đối có thể vì họ
chưa nhận thức đúng, chưa tiếp xúc vì vậy người làm chương trình phải tiếp thu đồng
thời giải đáp những vướng mắc của người dân. Việc này cần có đội ngũ những người
am hiểu về pháp luật nói chung, cái chết nhân đạo nói riêng và phải có vốn kiến thức
xã hội phong phú.

2.4.2. Kiến nghị xây dựng dựng pháp luật về cái chết nhân đạo ở Việt Nam

Để có thể đưa các quy định về cái chết nhân đạo, chúng ta cần phải xem xét,
sửa đổi các luật, bộ luật, các văn bản pháp luật liên quan đặc biệt là Hiến pháp để đảm
bảo các quy định không bị chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Không những thế, chúng
42

ta cũng cần phải xây dựng một văn bản luật chuyên ngành để đảm bảo các quy định về
cái chết nhân đạo được chặt chẽ, thống nhất.

Thứ nhất, cần bổ sung quy định cái chết nhân đạo trong Hiến pháp. Chương II
Hiến pháp nước ta đã quy định các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Tuy
nhiên, Hiến pháp nước ta chưa công nhận quyền an tử, nghĩa là chưa công nhận quyền
được lựa chọn cái chết. Do đó, khi sửa đổi chúng ta có thể bổ sung quy định “con
người có quyền lựa chọn cái chết cái chết nhân đạo theo yêu cầu của luật định” vào
chương II để đảm bảo được quyền được lựa chọn cái chết trong hệ thống pháp luật.

Thứ hai, bổ sung các quy định về cái chết nhân đạo trong một số quy định trong
các Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự. Đối với Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017, Bộ luật đã công nhận các quyền nhân thân đối với các cá nhân tại Mục
2 Chương III. Tại đây, các nhà lập pháp đã quy định các quyền nhân thân cơ bản như
quyền có họ tên (Điều 26), quyền được khai sinh, khai tử (Điều 30), quyền sống,
quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33). Đối với cái
chết nhân đạo, việc lựa chọn cái chết cho chính bản thân mình đó là quyền tự quyết
gắn liền với nhân thân của mỗi người. Do đó, tại Mục 2 Chương III Bộ luật Dân sự
năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có thể bổ sung quy định về quyền được lựa chọn
cái chết nhân đạo. Cụ thể, khi đưa vào quy định tại đây, có thể nêu ra các khoản sau:
“(i)Con người có quyền lựa chọn cái chết nhân đạo trong các trường hợp sau đây:
bệnh nhân chết não; người mất ý thức và mất năng lực hành vi dân sự, người mắc
bệnh nan y giai đoạn cuối; người sống phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc, thiết bị y tế.
(ii) Đối với bệnh nhân mất đi ý thức, không còn khả năng phân tích, suy nghĩ, người
nhà có quyền lựa chọn cái chết nhân đạo cho bệnh nhân. (iii) Việc thực hiện cái chết
nhân đạo cần đáp ứng các điều kiện theo luật định. (iv) Quá trình kiểm duyệt hồ sơ
thực hiện cái chết nhân đạo phải nghiêm minh, khách quan, công bằng. (v) Việc thực
hiện cái chết nhân đạo cần phải lấy ý kiến từ bác sĩ điều trị, bệnh nhân (trong trường
hợp bệnh nhân vẫn còn ý thức) người nhà, bác sĩ tâm lý. (vi) Việc thực hiện cái chết
nhân đạo không nhằm mục đích trục lợi, trốn tránh trách nhiệm…”

Đối với bộ luật Hình sự năm 2015, cần bổ sung quy định “Việc bác sĩ thực hiện
cái chết nhân đạo không được xem là hành vi giết người” tại Điều 123. Quy định này
43

góp phần bảo đảm quyền lợi của bác sĩ, người thực hiện cái chết nhân đạo khỏi tội giết
người. Bởi theo quy định cũ, việc thực hiện cái chết nhân đạo vẫn bị coi là hành vi cố
ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật. Tại Điều 131, bổ sung
quy định “Hoạt động thực hiện cái chết nhân đạo khi được cá nhân, người nhà cá
nhân đó yêu cầu theo luật định không được xem là hành vi giúp người khác tự sát”.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần đặt thêm các quy định về “Tội lợi dụng cái chết
nhân đạo để trốn tránh trách nhiệm hoặc để trục lợi”. Bởi khi quy định về cái chết
nhân đạo được đặt ra thì sẽ có các trường hợp lợi dụng các quy định của luật để thực
hiện các hành vi không mang mục đích tốt đẹp. Theo đó, có thể đặt ra các quy định
như sau: “(i) Người nào lợi dụng cái chết nhân đạo để trốn tránh trách nhiệm, để trục
lợi cho bản thân thì phạt tù. (ii) Người thân và bác sĩ cấu kết với nhau để thực hiện cái
chết pháp luật thì phạt tù (hình phạt tăng nặng). (iii) Người phạm tội có thể bị cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong một khoảng thời gian (hình phạt bổ
sung)”. Khách thể của tội này là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính
mạng. Về mặt khách quan tội phạm, hành vi khách quan của tội này là hành vi trực
tiếp gây thiệt hại về tính mạng dẫn đến hậu quả tổn hại tính mạng con người. Chủ thể
của tội phạm ở đây là những người có năng lực trách nhiệm hình sự, là người trực tiếp
trong hoạt động thực hiện cái chết nhân đạo đối với cá nhân như: cơ quan có thẩm
quyền quyết định áp dụng cái chết nhân đạo, bác sĩ điều trị, người nhà bệnh nhân, bác
sĩ tâm lý,... Và lỗi này là lỗi cố ý gây ra hậu quả chết người.

Thứ ba, xây dựng văn bản luật quy định về cái chết nhân đạo. Việc xây dựng
luật quy định về cái chết nhân đạo tạo điều kiện cho các quy định cụ thể được áp dụng
vào thực thế, làm cho hệ thống pháp luật trở nên chặt chẽ, đồng thời đảm bảo được
quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Những gợi mở về luật này trước mắt gồm có
hai chương: Chương I: các quy định chung và Chương II: Những quy định cụ thể..

Trong chương I, luật này sẽ đi vào phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải
thích từ ngữ, quyền và nghĩa vụ các bên:

Đối với phạm vi điều chỉnh: Luật về cái chết nhân đạo quy định về đối tượng,
điều kiện áp dụng cái chết nhân đạo, các trách nhiệm, nghĩa vụ các bên liên quan trong
việc thực hiện cái chết nhân đạo.
44

Về giải thích từ ngữ, được giải thích dựa vào những từ ngữ mang tính khoa học
trong từng quy định của luật. Cụ thể

- Cái chết nhân đạo (hoặc an tử) là việc thực hiện hành vi chấm dứt sinh mạng
của con người với mục đích làm giảm thời gian chịu đau đớn về mặt thể chất và
tinh thần.

- An tử tự nguyện là việc bệnh nhân đưa ra quyết định chấm dứt sự sống trong
điều kiện tỉnh táo và nhờ đến sự hỗ trợ của bác sĩ

- An tử phi tự nguyện không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận của họ vì lý do


hôn mê, tổn thương não… và một người khác thay mặt người bệnh quyết định
với điều kiện tiên quyết là người bệnh này trước đó đã thể hiện mong muốn kết
thúc sự sống nếu lâm vào tình trạng này

- An tử trái tự nguyện là một người không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận do
hôn mê hoặc tổn thương não,... và một người khác thay mặt người bệnh đưa ra
quyết định lựa chọn cái chết nhân đạo dựa trên thực tế bệnh nhân không thể cứu
chữa và duy trì tính mạng hoàn toàn bằng thiết bị y tế.

- Quyền an tử là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý không
có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với sự hỗ
trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo các quy định chặt chẽ của pháp luật

- Chúc thư y tế: là việc người bệnh viết nguyện vọng về việc được chết hoặc
được chăm sóc y tế trước khi mất ý thức không còn khả năng thể hiện ý chí,
nguyện vọng

- Bệnh nhân chết não là bệnh nhân đã mất hoàn toàn chức năng của não, không
phản ứng với các kích thích bên ngoài, hôn mê và không tự thở độc lập

- Bệnh nan y là căn bệnh nguy hiểm cho sức khỏe con người và rất khó chữa trị

- Bệnh nan y giai đoạn cuối là bệnh nguy hiểm cho sức khỏe con người đã phát
triển rất mạnh khiến cho tính mạng của con người bị đe dọa nghiêm trọng,
không có khả năng chữa trị và ngày sống của bệnh nhân còn lại rất ít.
45

Ngoài ra còn có thể bổ sung các thuật ngữ khác trong các quy định cụ thể.

Đối với quyền nghĩa vụ của các bên. Quy định này góp phần đảm bảo trách
nhiệm của các bên trong thực hiện cái chết nhân đạo một cách đúng đắn, nghiêm túc,
tránh các sai sót cũng như các trường hợp lợi dụng các quy định pháp luật để thực hiện
hành vi vi phạm. Đồng thời, đảm bảo được quyền và lợi ích của người bệnh, người
thân của họ khi thực hiện cái chết nhân đạo. Về quyền, người bệnh có quyền thay đổi
quyết định lựa chọn bất cứ lúc nào và các bên phải tôn trọng quyết định này. Một số
nghĩa vụ có thể kể đến như: (i). Tôn trọng quyết định của người bệnh. (ii) Thực hiện
nghiêm túc các quy định của luật về cái chết nhân đạo; (iii) đưa ra quyết định về cái
chết nhân đạo minh bạch, chính xác. (iii) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
thực hiện cái chết nhân đạo. (iv) Cung cấp các thông tin về đối tượng thực hiện cái
chết nhân đạo chính xác.

Về nguyên tắc thực hiện cái chết nhân đạo: (i) Áp dụng đúng đối tượng; (ii) Cơ
quan có thẩm quyền đưa ra quyết định cái chết nhân đạo phải lấy ý kiến từ các bên bao
gồm: bệnh nhân (nếu bệnh nhân chưa mất ý thức), người nhà bệnh nhân, bác sỹ điều
trị, bác sĩ tâm lý,...; ..

Các hành vi nghiêm cấm trong hoạt động an tử: (i) Lợi dụng cái chết nhân đạo
để thỏa mãn mục đích cá nhân; (ii) Các bên cấu kết để thực hiện cái chết nhân đạo
nhằm mục đích xấu; (iii) Đưa ra các thông tin giả, kết quả không đúng dẫn đến việc áp
dụng cái chết nhân đạo sai trường hợp; (iv) Thay đổi thông tin dẫn đối tượng áp dụng
cái chết nhân đạo. (v) Cơ quan có thẩm quyền không tiến hành lấy ý kiến các bên mà
tự đưa ra quyết định.

Chương II tập trung đi sâu vào các vấn đề như điều kiện áp dụng cái chết nhân
đạo; Phân loại cái chết nhân đạo; trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong việc thực
hiện cái chết nhân đạo; Trình tự thủ tục thực hiện cái chết nhân đạo; Hồ sơ đăng ký áp
dụng cái chết nhân đạo;...

Đối tượng có quyền thực hiện cái chết nhân đạo: Việc quy định đối tượng có
quyền thực hiện cái chết nhân đạo sẽ góp phần loại bỏ các trường hợp áp dụng cái chết
nhân đạo một cách tràn lan, đảm bảo được tính chính xác khi đưa ra quyết định, tránh
46

các trường hợp lợi dụng cái chết nhân đạo để thực hiện hành vi tự tử. Đối tượng có
quyền thực hiện cái chết nhân đạo bao gồm: (i) Người bệnh không còn ý thức và mất
năng lực hành vi dân sự trong thời gian dài (ii) Người bệnh chết não; (iii) Người bệnh
duy trì sự sống bằng các thiết bị hỗ trợ y tế; (iv) Người bệnh đang trong giai đoạn cuối
bệnh nan y, không có khả năng điều trị phải chịu nỗi đau hành hạ thể xác lẫn tinh thần.

Điều kiện thực hiện cái chết nhân đạo: Thuộc đối tượng có quyền thực hiện cái
chết nhân đạo (như đã nêu ở trên); Tự nguyện đưa ra yêu cầu xin được chết, không
chịu áp lực nào từ bên ngoài. Yêu cầu được lặp đi lặp lại nhiều lần; Người bệnh có
chúc thư y tế, thời điểm lập chúc thư y tế hoàn toàn tỉnh táo; phải được sự đồng thuận
của tất cả thành viên trong gia đình, người đại diện pháp lý; Phải có xác nhận của các
bác sĩ điều trị, bệnh viện đang điều trị; Không vì mục đích khác trái với ý nghĩa của
cái chết nhân đạo.

Các bên tham gia vào quá trình kiểm duyệt áp dụng cái chết nhân đạo: người
bệnh (nếu bệnh nhân vẫn còn có ý thức và tỉnh táo); đại diện theo pháp luật, người nhà
bệnh nhân; bác sĩ điều trị; bác sĩ tâm lý; đại diện bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh; cơ
quan có thẩm quyết quyết định áp dụng cái chết nhân đạo.

Trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên có liên quan: Trước hết là cơ quan có
thẩm quyền áp dụng cái chết nhân đạo. Đây là cơ quan tiến hành kiểm tra, xác nhận
các điều kiện để đưa ra quyết định thực hiện cái chết nhân đạo đối với các cá nhân có
nguyện vọng. Chính vì thế, cần đảm bảo trách nhiệm và nghĩa vụ sau: (i) xét duyệt các
hồ sơ đăng ký lựa chọn cái chết nhân đạo; (ii) cơ quan này có trách nhiệm liên hệ với
đội ngũ y tế, người nhà,... để xác nhận độ xác thực của hồ sơ; (iii) xác minh tính trung
thực về các báo cáo của bác sĩ điều trị. (iv) đưa ra quyết định áp dụng cái chết nhân
đạo. (v) phối hợp với cơ quan điều tra đối với hoạt động làm sáng tỏ mục đích đối với
bệnh nhân thực hiện cái chết nhân đạo; (vi) Đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan
trong các quyết định; (vii) Đảm bảo bí mật thông tin, quyền và lợi ích của các bên
tham gia, đặc biệt là bệnh nhân.

Tiếp theo, cá nhân có nguyện vọng thực hiện cái chết nhân đạo. Đây là đối
tượng chịu tác động trực tiếp trong vấn đề này, là đối tượng dễ bị tổn thương nhất,
đồng thời đây cũng là đối tượng trực tiếp đưa ra lựa chọn cái chết nhân đạo cho mình
47

(trừ trường hợp bệnh nhân không còn ý thức). Chính vì thế, cá nhân có nguyện vọng
thực hiện cái chết nhân đạo cần đảm bảo trách nhiệm, nghĩa vụ sau: (i) Đảm bảo quyết
định áp dụng cái chết nhân đạo xuất phát từ chính bản thân, không chịu tác động bởi
các cá nhân nào khác; (ii) cung cấp thông tin chính xác.

Đối với người nhà bệnh nhân, người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp
cá nhân có nguyện vọng áp dụng cái chết nhân đạo vẫn còn năng lực hành vi dân sự
hoặc cá nhân mất đi ý thức nhưng có chúc thư, người thân, đại diện pháp lý cần có
trách nhiệm quan tâm, động viên, tìm hiểu lý do cá nhân đó lựa chọn cái chết nhân
đạo; kiểm tra lại tình trạng của bệnh nhân có thỏa mãn các điều kiện của an tử hay
không khi thấy có điều sai trái.

Với bác sĩ điều trị, do đây là người trực tiếp chẩn đoán, đưa ra phác đồ điều trị,
thực hiện điều trị bệnh cho đối tượng thực hiện cái chết nhân đạo và chăm sóc, theo
dõi trực tiếp sức khỏe của họ. Chính vì thế, bác sĩ điều trị chính là người hiểu rõ nhất
về tình trạng bệnh, tình hình sức khỏe của các bệnh nhân. Do đó, bác sĩ điều trị phải
thực hiện nghĩa vụ sau: (i) báo cáo chính xác tình trạng sức khỏe của bệnh nhân (ii)
báo cáo phác đồ điều trị trong quá trình đã điều trị của bệnh nhân (iii) đánh giá khả
năng hồi phục sức khỏe, khả năng duy trì sự sống của bệnh nhân. (iv) Đảm bảo các
thông tin cung cấp chính xác, trung thực. (v) Đảm bảo mục đích đóng góp ý kiến vì
sức khỏe, sự sống của bệnh nhân.

Bác sỹ tâm lý có nhiệm vụ kiểm tra mức độ tỉnh táo về tinh thần của cá nhân
lựa chọn cái chết nhân đạo; kiểm tra nhận thức để đánh giá cá nhân đó có bị tác động
từ người khác hay không; báo cáo đúng sự thật với cơ quan có thẩm quyền quyết định
cái chết nhân đạo

Đối với bệnh viên, cơ sở khám chữa bệnh: Bệnh viên, cơ sở khám chữa bệnh
phải từ cấp tỉnh trở lên, đáp đứng được các quy chuẩn của Bộ y tế và đảm bảo những
điều kiện tốt nhất cho bệnh nhân trong khả năng có thể và phối hợp tốt với gia đình
bệnh nhân.

Về trình tự thủ tục thực hiện cái chết nhân đạo: (i) Cá nhân đủ điều kiện áp
dụng cái chết nhân đạo, hoặc người người nhà của cá nhân (trong trường cá nhân
48

không còn nhận thức) thực hiện đăng ký cái chết nhân đạo với cơ quan có thẩm quyền
theo các phương thức: Đăng ký cái chết nhân đạo tại cơ quan có thẩm quyền; Đăng ký
cái chết nhân đạo qua dịch vụ bưu chính. (ii) Hồ sơ đăng ký cái chết nhân đạo bao gồm
các nội dung được quy định trong Luật an tử; (iii) Trong vòng một thời gian nhất định,
cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ của hồ sơ; (iv) Chính phủ
quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục cụ thể trong đăng ký áp dụng cái chết nhân đạo.

Và đối với hồ sơ đăng ký cái chết nhân đạo bao gồm: (i) Đơn đăng ký áp dụng
cái chết nhân đạo (ii) Bản kê khai thông tin cá nhân. (iii) Xác nhận của người nhà (iii)
Xác nhận của bác sĩ trực tiếp điều trị, (iv) Xác nhận của bệnh viện, cơ sở y tế nơi bệnh
nhân điều trị. (v) Giấy cam đoan nội dung cung cấp đúng sự thật. (vi) Bản cam kết
chịu trách nhiệm về việc lựa chọn cái chết nhân đạo.

(Bỏ nội dung này vì cần mặc định luật đã quy định đủ, rất buồn cười khi chưa
có luật các em đã đề nghị ban hành nghị định để hướng dẫn luật) Thứ tư, xây dựng các
nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định trong Luật về cái chết nhân đạo.
Văn bản này hướng dẫn cụ thể các trình tự thực hiện đăng ký cái chết nhân đạo; các
hình thức, nội dung cụ thể của các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký cái chết nhân đạo,
có bản mẫu đi kèm; hướng dẫn các nội dung cụ thể cần thực hiện đối với cơ quan có
thẩm quyền, các bác sĩ, cá nhân, người thân, bệnh viện hoặc cơ sở y tế cá nhân đó điều
trị,....

(Nội dung này nên đưa lên phần 2.4.1 vì đây là những hoạt động chuẩn bị) Thứ
năm, nước ta có thể tham khảo các quy định của các nước đã áp dụng cái chết nhân
đạo vào thực tế. Cụ thể, nước ta có thể áp dụng quy định đối với các cá nhân đặc biệt
là trẻ em từ 12 tuổi đến 16 tuổi, quá trình thực hiện cái chết nhân đạo và trách nhiệm
của bác sĩ theo quy định của Luật An tử Hà Lan, tham khảo điều kiện áp dụng cái chết
nhân đạo của Bỉ, các hình thức an tử, trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện các
hình thức an tử đó của một số nước khác. Việc tham khảo từ luật các nước trên thế
giới sẽ giúp chúng ta nhìn nhận được hiệu quả khi áp dụng vào thực tế Việt Nam, đồng
thời đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của người thực hiện cái chết nhân đạo.
49

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Có thể thấy, cái chết nhân đạo không còn là một thuật ngữ xa lạ đối với nhiều
người dân nước ta. Bàn về cái chết nhân đạo, có rất nhiều luồng ý kiến đưa ra. Có
người phản đối, cũng có người ủng hộ về vấn đề nhạy cảm này. Sau nhiều lần dự thảo
đưa vào luật, cái chết nhân đạo vẫn còn bỏ ngỏ ở đó. Tuy nhiên, chúng ta không thể
phủ nhận được mục đích tốt đẹp, nhân văn của vấn đề này. Nhiều trường hợp có mong
muốn áp dụng cái chết nhân đạo, cũng có nhiều trường hợp áp dụng cái chết nhân đạo
trong thực tế. Không chỉ mục đích tốt, cái chết nhân đạo còn khẳng được được vai trò
lớn trong việc thể hiện quyền tự quyết của mỗi người. Đặt trong mối tương quan xã
hội, mỗi cá nhân chính là một phần nhỏ của cuộc đời, có tác động lớn đến các tổ chức
và các cá nhân khác. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên,
pháp luật nên đặt ra quy định cái chết nhân đạo. Cũng thông qua bài nghiên cứu, nhóm
đã đưa ra một số kinh nghiệm từ các quy định của nước khác, đồng thời có những gợi
mở trong việc xây dựng pháp luật đối với luật về cái chết nhân đạo ở nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp năm 2013


2. Bộ luật Hình sự năm 2015
3. Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
4. Luật An tử Hà Lan
5. Luật An tử Bỉ
6. The Termination of Life on Request and Assisted Suicide (Review Procedures)
Act in practice
7. Dutch law on Termination of life on request and assisted suicide (complete text)
- The World Federation of Right to Die Societies
8. RECENT BELGIAN LAW REFORM Law of 28 May 2002 on Euthanasia,
amended by the Law of 13 February 2014 – Consolidated version [cha
9. The Belgian Act on Euthanasia of May, 28th 2002*
10. “Quyền an tử theo luật nhân quyền quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và gợi
mở cho Việt Nam”, theo PGS, TS Vũ Công Giao, ThS. Nguyễn Minh Tâm,
50

Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên
cứu lập pháp số 4(308) - tháng 2/2016: https://bitly.com.vn/2avz87
11. Harris, NM. (Oct 2001). “The euthanasia debate”. J R Army Med Corps 147
(iii): 367-70.
12. Perrett RW (Oct 1996), “Buddhism, euthanasia and the sanctity of life”
13. Cái chết nhân đạo - Hai mặt của một vấn đề”, theo Xuân Hòa, Báo Công an
nhân dân: https://bitly.com.vn/np24aj
14. “Quyền được chết, chuyển giới tính có đưa vào pháp luật”, theo Việt Anh, báo
điện tử VNExpress: https://bitly.com.vn/obap4r
15. “Chưa quy định “quyền được chết” vào Hiến pháp” - Công Anh, Theo Viết,
Báo Tiền phong: https://bitly.com.vn/stakly
16. Nguồn: “Cái chết nhân đạo” - Tranh cãi nơi ta, xứ người!, Fanpage Bộ trưởng
Bộ Y tế: https://bitly.com.vn/g4l39f
17. “Xin chết nhân đạo, được không?” - Theo Trần Kim Anh, Lan Anh, Ái Nhân,
Báo Tuổi trẻ: ttps://bitly.com.vn/0bjfa7
18. Hạnh phúc, wikipedia https://bitly.com.vn/5u7016
19. “Cái chết nhân đạo dưới nhãn quan của giáo hội Công giáo” - theo Lm. Phaolô
Bùi Đình Cao https://bitly.com.vn/wws8ts
20. “Hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế cho sự phát triển của đất nước”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: https://bitly.com.vn/i7dg2e
21. “5 khủng hoảng tâm lý của người bị ung thư”, Trung tâm y học hạt nhân và ung
bướu - Bệnh viện Bạch Mai: https://bitly.com.vn/dcj4kn
22. “Quyền an tử của một số nước trên thế giới và quy định của pháp luật Việt
Nam”, theo Quỳnh Ny, Nhân sự nghề luật - https://bitly.com.vn/c6j7zt
23. Euthanasia in Spain - Wikipedia
51

You might also like