You are on page 1of 12

YhocData.

com

quá trình hoại tử mô (ví dụ đau như kim đâm, nóng rát,

CHƯƠNG 1 đau quằn quại, đau như xé, cảm giác bị đè nén) hoặc
biểu hiện cảm xúc (lo sợ, buồn nôn, mệt mỏi). Hơn nữa, Page | 1
bất cứ cơn đau nào có mức độ vừa phải hoặc cao hơn
Đau: Bệnh lý học thường đi kèm với sự lo lắng và thôi thúc họ chấm dứt
cảm giác đó. Các tính chất này thể hiện hai khía cạnh
và điều trị. của cơn đau: cảm giác và cảm xúc. Trường hợp cơn đau
cấp tính thì sẽ biểu hiện các phản ứng căng thẳng như
tăng huyết áp, tăng nhịp tim, dãn đồng tử, tăng cortisol
James P. Rathmell
huyết tương. Ngoài ra còn có co cơ cục bộ (gập chi,
Howard L.Fields cứng màng bụng)

Nhiệm vụ của ngành y là giữ gìn phục hồi sức khỏe và  CƠ CHẾ NGOẠI BIÊN
giảm bớt cơn đau cho bệnh nhân. Sự am hiểu về cơn
Thụ thể đau hướng tâm thứ nhất
đau là yếu tố cần thiết cho cả hai mục tiêu trên. Một
cách đơn giản, đau là dấu hiệu của bệnh, là triệu chứng Dây thần kinh ngoại biên gồm các sợ trục của ba loại tế
đơn giản nhất khiến người bệnh tìm đến bác sĩ. Hệ bào thần kinh khác nhau: thần kinh cảm giác hướng tâm
thống cảm giác đau có nhiệm vụ bảo vệ và cân bằng nội thứ nhất, thần kinh vận động, thần kinh hậu hạch giao
môi cơ thể. Để thực hiện được điều này, hệ thống cảm cảm. Thân tế bào của dây cảm giác hướng tâm thứ nhất
giác đau phải phát hiện, khu trú và nhận ra tiến triển của nằm ở hạch rễ lưng thần kinh gai sống (H. 11-1). Sợi
các mô bị tổn thương hay có nguy cơ bị tổn thương. Vì trục dây hướng tâm thứ nhất có hai nhánh: nhánh trung
các bệnh khác nhau có các biểu hiện tổn thương mô ương nằm ở tủy sống, nhánh ngoại biên nằm ở các mô.
khác nhau về đặc tính, thời gian xảy ra, vị trí cơn đau Dây hướng tâm thứ nhất được phân loại dựa theo đường
mà bệnh nhân than phiền sẽ cung cấp các chẩn đoán kính sợi, số bao myelin và tốc độ dẫn truyền. Sợi A-β
quan trọng. Đó là trách nhiệm của người thầy thuốc có đường kính lớn nhất đáp ứng tối đa các kích thích và
phải đưa ra cách chữa trị làm giảm cơn đau nhanh dẫn truyền kích thích. Sợ A-β có nhiều ở da. Ở một
chóng và hiệu quả. người bình thường, các sợi này hoạt động không gây ra
cảm giác đau. Có hai loại dây hướng tâm thứ nhất khác
HỆ THỐNG CẢM GIÁC ĐAU
là sợi A-delta (A-δ) có bao myelin và đường kính nhỏ
Đau là cảm giác khó chịu khu trú ở một vùng trên cơ hơn, sợi trục không bao myelin (sợi C) (H. 11-1). Các
thể và thường được diễn tả bằng những từ liên quan đến bao sợi nằm trong dây thần kinh ở da và sâu trong các

Dây thần kinh ngoại biên Hạch rễ lưng

Tủy sống

Sợi sau hạch Sợi trước hạch


giao cảm giao cảm
Hình 11-1. Cấu tạo điển hình của dây thần kinh ở da. Có 2 loại sợi trục với chức năng riêng biệt: Sợi hướng tâm
thứ nhất có thân tế bào nằm ở hạch rễ lưng, bó sợi trước hạch giao cảm có thân tế bào nằm ở hạch giao cảm.
Dây hướng tâm thứ nhất gồm sợi có bao myelin với đường kính lớn (Aβ), sợi có bao myelin với đường kính nhỏ
(Aδ) và sợi trục không có bao myelin (bó sợi C). Tất cả các bó sợi sau hạch giao cảm đều không có bao myelin.
YhocData.com
cơ quan nội tạng. Ở một số mô, như giác mạc, chỉ có
sợi A-δ và bao sợi C. Phần lớn các sợi A-δ và bao sợi C
chỉ đáp ứng tối đa các kích thích mạnh và cơn đau nội
tại thoáng qua khi có kích thích dòng điện. Các định
nghĩa trên được gọi là thụ thể đau hướng tâm thứ nhất
(thụ thể đau). Khả năng kích thích đau không xảy ra khi
Page | 2
sợi A-δ và bao sợi C bị chặn đường dẫn truyền.
Các thụ thể đau hướng tâm thứ nhất của một người nào
đó có thể đáp ứng nhiều kích thích khác nhau. Ví dụ, Hoạt hóa nguyên phát
hầu hết thụ thể đau đáp ứng nhiệt độ cao; nhiệt độ thấp;
các kích thích mạnh như tê buốt; thay đổi pH như môi
trường acid đặc biệt; sử dụng chất kích thích như
adenosine triphosphate (ATP), serotonin, bradykinin và
histamine.
Nhạy cảm hóa
Khi có các kích thích mạnh, lặp lại, kéo dài gây viêm
hoặc tổn thương mô, ngưỡng hoạt động của thụ thể đau
hướng tâm thứ nhất thấp đi và tần số kích thích các kích
thích có cường độ mạnh này sẽ phải cao hơn. Các chất
gây viêm gây ra hiện tượng trên như bradykinin, yếu tố
phát triển thần kinh, prostaglandin và leukotriene. Quá
trình này được gọi là nhạy cảm hóa. Nhạy cảm hóa xảy Hoạt hóa thứ phát
ra ở các đầu tận cùng của dây thần kinh ngoại biên
(nhạy cảm hóa ngoại biên) tương tự như ở dây thần
kinh sừng lưng của tủy sống (nhạy cảm hóa trung
ương). Nhạy cảm hóa ngoại biên thường xảy ra ở các
mô bị viêm hoặc tổn thương, khi các chất gây viêm hoạt
hóa tín hiệu nội bào truyền đến thụ thể đau, làm tăng Tiểu cầu
quá trình sản xuất, vận chuyển qua màng tế bào của các Dưỡng
kênh ion cổng điện thế và cổng hóa học. Sự thay đổi bào
này làm tăng kích thích đầu tận cùng của thụ thể đau và HÌnh 11-2. Diễn biến bắt đầu chuỗi hoạt hóa, nhạy cảm
làm giảm ngưỡng hoạt động bằng các kích thích cơ học, hóa và lan truyền nhạy cảm của đầu tận cùng thụ thể
hóa học và nhiệt. Nhạy cảm hóa trung ương xảy ra khi đau hướng tâm thứ nhất. Hình A. Hoạt hóa nguyên
các thụ thể đau hoạt động trong suốt quá trình viêm, phát bằng cách gia tăng áp lực và hậu quả để lại của tổn
làm tăng cường các kích thích tế bào thần kinh ở sừng thương tế bào. Tế bào tổn thương làm pH giảm (H+) dẫn
lưng tủy sống. Sau khi bị chấn thương và xảy ra nhạy đến giải phóng K+, tổng hợp prostaglandin (PG) và
cảm hóa, các kích thích vô hại cũng có thể làm đau. bradykinin (BK). Prostaglandin làm tăng độ nhạy của đầu
tận cùng với bradykinin và kích thích tạo ra các chất gây
Nhạy cảm hóa là một quá trình lâm sàng quan trọng tạo
đau khác.
nên sự đau đớn, nhức nhối và gây ra cơn đau dữ dội
Hình B. Hoạt hóa thứ phát. Xung động hình thành từ các
(tăng mức độ đau khi đáp ứng các kích thích vô hại, lực
kích thích đầu tận cùng truyền đến tủy sống và lan đến
tác động mạnh gây đau dữ dội). Ví dụ nổi bật của sự
các nhánh tận cùng khác nơi có nhiều chất P (SP). Chất P
nhạy cảm là da bị cháy nắng, chỉ cần tát nhẹ vào lưng
gây giãn mạch, phù nề do thần kinh với việc tích tụ
hay tắm nước nóng làm cơn đau này trở nên nghiêm
bradykinin (BK). Chất P còn gây tiết histamine (H) từ
trọng.
nguyên bào và serotonin (5HT) từ tiểu cầu.
Nhạy cảm hóa đặc biệt quan trọng trong các cơn đau
nằm sâu trong mô. Nội tạng tương đối không nhạy cảm
với các kích thích nhiệt và cơ học mặc dù khi chướng
bụng thường gây cảm giác khó chịu. Ngược lại, khi bị
YhocData.com
viêm, các cấu trúc nằm sâu bên trong như khớp hoặc  CƠ CHẾ TRUNG ƯƠNG
nội tạng trở nên nhạy cảm với kích thích cơ học.
Phần lớn các sợi A-δ và bao sợ C của nội tạng hoàn Tủy sống và đau quy chiếu
toàn không nhạy cảm với các mô không bị tổn thương. Sợi trục của dây thụ thể đau hướng tâm thứ nhất nằm
Nghĩa là, nó không được hoạt hóa bởi các kích thích trong cột sống xuất phát qua các rễ lưng. Các sợi trục
nhiệt hay cơ học một cách tự nhiên. Tuy nhiên, khi xuất này có tận cùng ở phần sừng lưng của chất xám (H. 11- Page | 3
hiện các yếu tố gây viêm, các sợi hướng tâm này sẽ 3). Đầu tận cùng sợi trục hướng tâm thứ nhất nối với
nhạy cảm với các kích thích cơ học. Như vậy các sợi dây thần kinh tủy sống để truyền tín hiệu đau lên trung
hướng tâm này được gọi là thụ thể đau câm, và dưới tâm cảm giác đau ở não bộ. Khi các sợi hướng tâm thứ
gốc nhìn bệnh học, các mô sâu tương đối không nhạy nhất bị hoạt hóa bởi các kích thích có hại, nó sẽ phóng
cảm có thể là gây ra cơn đau mạnh hoặc cảm giác suy thích ra chất dẫn truyền thần kinh từ đầu tận cùng làm
nhược. pH giảm, prostaglandin, leukotriene và các chất kích thích tế bào thần kinh tủy sống. Chất dẫn truyền
gây viêm khác như bradykinin có vai trò quan trọng thần kinh chủ yếu được tiết ra từ tế bào thần kinh của
trong nhạy cảm hóa. sừng lưng là glutamate. Các đầu tận cùng của sợi
hướng tâm thứ nhất còn tiết ra các peptide, bao gồm
Viêm thụ thể đau-đáp ứng
chất P và chất calcitonin gene-related peptide làm chậm
Các thụ thể đau hướng tâm thứ nhất còn là cơ quan và kéo dài thời gian phóng thích của các tế bào thần
phản ứng kích thích thần kinh. Hầu hết các thụ thể đau kinh sừng lưng. Sợi trục của mỗi sợi hướng tâm thứ
gồm các chất polypetide được tiết ra từ đầu tận cùng nhất nối với nhiều tế bào thần kinh tủy sống, và mỗi tế
của dây thần kinh ngoại biên khi chúng hoạt động. Một bào thần kinh tủy sống lại tiếp nhận từ nhiều sợi hướng
ví dụ về chất P, gồm 11 amino acide. Chất P này được tâm thứ nhất.
phóng thích từ thụ thể đau và có nhiều tính năng sinh
học. Đây là chất dãn mạch hiệu quả, làm mất hạt masto
bào, cũng là chất thu hút bạch cầu, tăng sản xuất và Sự sát nhập đầu vào cảm giác thành sợi thần kinh dẫn
phóng thích các chất gây viêm. Điều thú vị là sự hòa tan truyền cảm giác đau duy nhất là vô cùng quan trọng bởi
chất P ở khớp làm giảm mức độ nghiêm trọng của viêm vì nó là cơ sở cho các cơn đau quy chiếu. Tất cả các tế
khớp. Các thụ thể đau hướng tâm không chỉ mang bào thần kinh tủy nhận thông tin từ cơ quan nội tạng, cơ
thông tin từ các mô bị chấn thương mà còn đóng vai trò xương lớp sâu, cũng như nhận từ da. Dạng sát nhập này
tích cực trong bảo vệ mô thông qua chức năng phản được xác định bằng các đoạn hạch rễ lưng, cung cấp các
ứng kích thích thần kinh. thần kinh hướng tâm của một cấu trúc. Ví dụ, sợi hướng
tâm phụ trách trung tâm cơ hoành xuất phát từ hạch rễ
thần kinh ở đốt sống cổ III và IV. Các sợ hướng tâm thứ
Da nhất có thân tế bào nằm trong hạch tương tự sẽ phụ
trách da ở vai và dưới cổ. Vì vậy, các dây thần kinh đầu
vào cảm giác phụ trách da trên vai và trung tâm gân cơ
hoành sát nhập thành dây thần kinh dẫn truyền cảm giác
đau đi từ đoạn đốt sống cổ III và IV. Bởi vì sát nhập
này nên các tế bào thần kinh tuỷ sống thường được kích
hoạt bởi các đầu vào từ da, hoạt động trong tế bào thần
kinh tuỷ sống do đầu vào từ các cấu trúc sâu đặt nhầm
chỗ làm đáp ứng sai với kích thích như vùng da với
cùng một đoạn tuỷ sống. Vì vậy, khi bị viêm nhiễm gần
Nội Sợi trục
trung tâm cơ hoành thường sẽ gây khó chịu ở vai. Sự
tạng trước dịch chuyển cảm giác đau từ vị trí tổn thương tới chỗ
bên khác được gọi là đau quy chiếu.
Hình 11-3. Thuyết sát nhập của đau quy chiếu.
Hướng dẫn truyền lên não của đau
Theo giả thuyết này, thụ thể hướng tâm tạng hội tụ
Phần lớn thần kinh tủy sống nối với dây thụ thể đau
trên cùng một neuron đau như sợi hướng tâm từ các hướng tâm thứ nhất gửi tín hiệu đến vùng đối bên của
cấu trúc bản thể, nơi cơn đau được cảm nhận. Bộ đồi thị. Sợi trục xuất phát từ bó gai đồi thị đối bên, nằm
não không có cách nào biết được nguồn gốc thực sự
của đầu vào và nhầm lẫn với đầu cảm giác đến cấu
trúc bản thể.
YhocData.com
ở phía chất xám trước bên của tủy sống, cạnh bên cầu tạo ra cảm xúc khó chịu về đau . Theo chiều hướng này
não và não giữa. Đường bó gai đồi thị rất quan trọng nó tạo cơn đau và xu hướng kiểm soát mạnh hành vi.
trong cảm nhận cơn đau. Gián đoạn đường này sẽ gây Do đó, sợ hãi luôn kèm theo đau. Như một hệ quả, chấn
mất cảm giác đau thường xuyên và khả năng nhận biết thương hoặc tổn thương sau phẫu thuật ảnh hưởng đến
nhiệt độ. các vùng vỏ não trước kích hoạt bởi các kích thích đau
sẽ giảm bớt sự va chạm gây đau khi nhận ra những kích
Page | 4
thích độc hại như đau.
SỰ BIẾN ĐỔI CƠN ĐAU
Cơn đau xảy ra do chấn thương có cường độ giống nhau
dù tình huống và mỗi người là khác nhau. Ví dụ vận
động viên biết rằng gãy xương là nghiêm trọng nhưng
họ chỉ thấy đau nhẹ và từ những quan sát cổ điển của
Vùng đồi thị Vùng dưới đồi Beecher trong Thế Chiến Thứ 2 cho biết, nhiều người
lính không lo lắng khi bị thương cho thấy khác biệt với
cơn đau đớn của dân quân khi bị thương. Hơn nữa,
Não giữa
những lời khuyên chữa trị sẽ làm giảm đau có tác dụng
Bó gai đồi thị giảm đau đáng kể (hiệu ứng giả dược). Mặt khác, nhiều
bệnh nhân phát hiện ra các tổn thương nhỏ (ở tĩnh
mạch) cũng tạo cảm giác sợ sệt và khó chịu. Sự kì vọng
Hành tủy
đến cơn đau cũng có thể gây đau, mặc dù không có kích
Tổn thương
thích bất lợi nào. Một số quan niệm rằng đau có thể trở
nặng hơn khi dùng chất trơ làm tăng cường độ cơn đau
(hiệu ứng nocebo).

Tủy sống Những tác dụng mạnh của sự kì vọng cũng như các biến
đổi tâm lý về mức độ đau được điều hòa bởi não bộ. Hệ
Bó gai đồi thị hướng đến nhiều vùng của đồi thị. Sự lan thống này liên kết với vùng dưới đồi, não giữa, hành
tín hiệu đau từ vùng đồi thị mở rộng tới vùng vỏ não tủy và nó cũng điều hòa có chọn lọc đường dẫn truyền
đau ở tủy sống thông qua đường dẫn truyền hướng
Hình 11-4. Đường tích hợp và dẫn truyền cơn đau. Hình
xuống (H. 11-4).
A. Hệ thống dẫn truyền thông tin từ thụ thể đau. Các
kích thích có hại hoạt hóa cảm giác ngoại biên nằm cuối Nghiên cứu hình chụp của não người cho thấy có liên
thụ thể đau hướng tâm thứ nhất thông qua quá trình quan đến hệ thống điều hòa cơn đau trong tác dụng làm
dẫn truyền xung. Sau đó, các thông tin được chuyển từ giảm đau, có đề nghị là dùng thuốc opioid làm giảm đau
dây thần kinh ngoại biên đến tủy sống, chỗ liên tiếp với (H. 11-5). Hơn nữa, cấu thành đường dẫn truyền gồm
các tế bào thần kinh hướng lên não được gọi là bó gai các thụ thể opioid và nó nhạy cảm với tác dụng trực tiếp
đồi thị. Thông tin này được chuyển tiếp trong đồi thị đến
các loại thuốc opioid. Ở động vật, các san thương của
hồi hải mã trước (C), phía trước đảo (F), và vỏ não cảm
hệ thống điều hòa đường dẫn truyền hướng xuống có
giác bản thể (SS). B. Mạng lưới biến đổi đau. Đầu vào từ
tác dụng làm giảm đau khi sử dụng các chất opioid như
vùng vỏ não trước và vùng dưới đồi kích hoạt các tế bào
morphine. Cùng với thụ thể opioid, các nhân của hệ
não giữa, kiểm soát các tế bào dẫn truyền đau tuỷ sống
thống điều hòa cơn đau chứa yếu tố opioid peptide nội
qua tế bào trong tủy.
sinh như enkephalin và β-endorphin.
gây ra những cảm giác khác nhau của cơn đau (H. 11-4.
Cách hữu hiệu nhất để hoạt hóa opioid nội sinh qua
Một trong những hướng mở rộng đồi thị là vỏ não cảm
trung gian hệ thống điều hòa là giảm đau hoặc giảm
giác thân thể, làm trung gian cảm giác đau, tức là về vị
cảm xúc mạnh từ chỗ gây chấn thương (trong tình
trí, cường độ, và tính chất. Hướng mở rộng tế bào thần
huống nghiêm trọng hoặc cuộc thi thể thao). Trong thực
kinh đồi thị khác đến các vùng vỏ não được liên kết đến
tế, yếu tố opioid nội sinh làm giảm đau được phóng
phản ứng cảm xúc, chẳng hạn như các nếp cuộn hồi hải
thích sau phẫu thuật và ở các bệnh nhân dùng giả dược
mã và các khu vực khác của thùy trước, bao gồm cả các
để giảm đau.
vỏ não dang đảo. Những con đường tới vỏ não trước
YhocData.com
Mô hình hoạt động của não trong giảm dẫn truyền đau ở tủy sống. Vì tế bào thần kinh dẫn
truyền đau có thể hoạt hóa bởi tế bào thần kinh điều
đau bằng thuốc trấn an hòa, và theo lý thuyết, có thể tạo ra tín hiệu đau mà
không cần kích thích bất lợi phía ngoại biên. Thực tế,
nghiên cứu hình ảnh chức năng người chứng minh rằng,
sẽ tăng hoạt tính trong cơn nhức nửa đầu. Hệ thống
Page | 5
trung ương tạo điều kiện cho cơn đau xảy ra do tăng
cường bởi sự mong đợi và sự hiểu biết, các yếu tố tâm
lý có thể đóng góp cho đau mãn tính.
ĐAU DO RỐI LOẠN THẦN KINH
Các tổn thương trên đường dẫn truyền cảm giác đau
trung ương hoặc ngoại biên sẽ làm giảm hoặc mất cảm
giác đau. Tuy nhiên, sự hư hỏng hoặc rối loạn chức
năng cũng có thể làm gây đau. Ví dụ, tổn thương dây
thần kinh ngoại biên xảy ra trong bệnh thần kinh do đái
tháo đường, hoặc tổn thương dây hướng tâm thứ nhất
do bệnh Herpes zoster, gây đau quy chiếu lên vùng cơ
thể mà chỗ đó dây thần kinh bị tổn thương. Tổn thương
hệ thần kinh trung ương (CNS) cũng gây đau, ví dụ,
một số bệnh nhân bị chấn thương mạch máu não đến
tủy sống, cuống não, vùng đồi thị - nơi chứa đường dẫn
truyền cảm giác đau. Đau do thần kinh thường nặng và
khó điều trị bằng các phương pháp tiêu chuẩn.
Đau do thần kinh thường có cảm giác ngứa rát bất
thường giống như shock điện, có thể phản ứng ngay
bằng một kích thích rất nhẹ. Những biểu hiện này khác
hẳn với các loại đau khác. Khi thăm khám, mất cảm
giác tại vùng bị đau trên bệnh nhân là điểm đặc trưng.
Hyperpathia, một cơn đau với cường độ quá mức do
Hình 11-5. Chụp cộng hưởng từ (fMRI) cho thấy kích thích thụ thể đau rất nhẹ hoặc gần như không có
hoạt tính giả dược tăng cường ở các vùng giải cũng là đặc điểm của đau do thần kinh. Bệnh nhân
phẫu ương ứng với hệ thống kiểm soát giảm đau thường than phiền rằng cử động rất nhẹ nhàng cũng gây
bằng opioidergic. Phía trên bảng, hình chụp trán đau (dị giác). Về vấn đề này, trong lâm sàng, phát đồ
cho thấy hoạt tính giả dược tăng cường nằm ở phía điều trị với 5% lidocaine dạng miếng có hiệu lực cho
bên của vỏ não trước trán. (DLPFC). Hình cắt dọc ở bệnh nhân bị đau thần kinh sau khi mắc chứng herpetic
dưới, hoạt tính này nằm ở phía trước mỏ của hồi (zona) những người dễ bị dị giác.
đai (rACC), the rostral ventral medullae (RVM), the Có nhiều cơ chế gây đau do thần kinh. Các thụ thể đau
periaqueductal gray (PAG) area, tuỷ mặt bụng mỏ ( hướng tâm thứ nhất gồm dây hướng tâm và các thụ thể
RVM ), chất xám xung quanh cống não ( PAG ) vùng bị tổn thương sẽ nhạy cảm cao với kích thích cơ học và
dưới đồi. Hoạt tính tăng cường giả dược nằm ở tất cũng có thể hình thành xung động nếu không có kích
cả các vùng bị thuyên giảm do naloxone, cho thấy thích. Tăng cường hoạt tính nhạy cảm và tự ý một phần
sự liên quan giữa hệ thống giảm đau bằng là do tăng nồng độ kênh natri. Tổn thương các dây
opioidergic và phản ứng giảm đau bằng giả dược hướng tâm thứ nhất cũng có thể làm tăng tính nhạy cảm
(Theo Eippert et al) do norepinephrine. Điều thú vị là thần kinh dẫn truyền
cảm giác đau ở tủy sống bị đứt ở đầu vào vẫn có thể tự
Hệ thống điều hòa đau có thể làm tăng hoặc giảm cơn ý hoạt động bình thường. Như vậy, cường động cả hệ
đau. Các tế bào thần kinh đau bị ức chế và đau được thần kinh trung ương và ngoại biên đều gây đau do
làm dễ trong hành tủy và điều khiển tế bào thần kinh thần kinh.
YhocData.com
Hệ giao cảm duy trì cảm giác đau giản xuất hiện không rõ ràng các chấn thương dây thần
kinh thì có tên là CRPS loại I (còn được gọi là phản xạ
Những bênh nhân bị chấn thương dây thần kinh ngoại
loạn dưỡng giao cảm). CRPS có thể do các chấn
biên thỉnh thoảng xuất hiện cơn đau tự phát ở vùng mà
thương nặng như gãy xương, tổn thương mô, nhồi máu
dây thần kinh đó chi phối. Biểu hiện của cơn đau khiến
cơ tim, đột quỵ (Chương 375). CRPS loại I thường giải
bệnh nhân nóng rát. Cơn đau điển hình xuất hiện trễ vài
quyết bằng điều trị triệu chứng; tuy nhiên, khi kiểm tra
giờ đến vài ngày, thậm chí cả tuần thường đi kèm với Page | 6
kĩ thường phát hiện dấu vết của tổn thương dây thần
sưng đầu chi, tổn thương xung quanh khớp, bất thường
kinh do hội chứng nãy vẫn chưa hết hẳn. Mặc dù hiểu
các khớp ngoại biên. Cơn đau có thể thuyên giảm bằng
biết về sinh lý bệnh của CRPS còn hạn chế, nhưng cơn
cách dùng thuốc gây mê cục bộ tại vùng thần kinh chi
đau và dấu hiệu viêm nhiễm khi cấp tính vẫn có thể làm
phối tới chi. Tổn thương thụ thể đau hướng tâm thứ
giảm bằng cách ức chế hệ thần kinh giao cảm. Nghĩa là
nhất nhạy cảm với adrenergic và có thể được hoạt hóa
làm hoạt tính hệ giao cảm có thể hoạt động không gây
bởi hoạt động của hệ giao cảm. Chuỗi cơn đau tự phát
tổn thương đến thụ thể đau khi bị viêm nhiễm. Dấu
và dấu hiệu rối loạn chức năng giao cảm do chấn
hiệu tăng động giao cảm tìm thấy ở bệnh nhân đau,
thương gọi là hội chứng đau vùng phức hợp (CRPS).
viêm nhiễm sau chấn thương và đau không rõ nguyên
Khi cơn đau này xảy ra sau tổn thương dây thần kinh thì
nhân.
được gọi là hội chứng đau vùng phức hợp loại II ( hay
còn gọi là đau dây thần kinh sau chấn thương, nặng
hơn thì gọi là causalgia). Khi hình ảnh lâm sàng đơn
ĐIỀU Đau cấp tính dạ dày dẫn tới xuất huyết hoặc thủng dạ dày. Vì aspirin
không thể acetyl hóa oxygenase vòng ở tiểu cầu nên cản
TRỊ trở quá trình đông máu, dẫn tới nguy cơ xuất huyết. Vấn
đề tuổi tác và tiền sử bệnh tiêu hóa làm tăng yếu tố
Cách điều trị lý tưởng các cơn đau là loại bỏ nguyên nguy cơ ảnh hưởng do aspirin và NSAIDs. Ngoài tình
nhân gây đau; vì vậy, khi việc điều trị diễn ra nhanh trạng gây độc cho hệ tiêu hóa như được biết của
chóng, các nỗ lực xác định nguyên nhân cơ bản gây đau NSAIDs thì thận cũng là một cơ quan chịu ảnh hưởng
nên được tiến hành ngay khi điều trị. Thỉnh thoảng, việc đối với bệnh nhân sử dụng thuốc điều trị mãn tính.
điều trị các bệnh lý nền không làm giảm đau ngay. Hơn Bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị suy thận, đặc biệt bệnh
nữa, một số tình trạng rất đau cần phải giảm đau nhanh nhân có co giảm thể tích nội mạch đáng kể khi dùng
chóng và hiệu quả (giai đoạn sau phẫu thuật, bị bỏng, thuốc lợi tiểu mãn tính hoặc tăng thể tích máu cấp tính
chấn thương, ung thư, rối loạn sinh lý). Thuốc giảm đau cần được theo dõi thường xuyên. NSAIDs còn làm tăng
là phát đồ đầu tiên của điều trị, nên các bác sĩnh phải huyết áp ở một số người. Khi điều trị dài hạn với thuốc
làm quen với việc dùng các thuốc này. NSAIDs thì cần theo dõi huyết áp thường xuyên và cần
điều trị tăng huyết áp nếu cần thiết. Mặc dù có thể gây
ASPIRIN, ACETAMINOPHEN VÀ CÁC CHẤT độc cho gan nếu dùng liều cao nhưng acetaminophen
KHÁNG VIÊM KHÔNG STEROID (NSAIDS). Các hiếm khi gây kích ứng dạ dày và không ảnh hưởng đến
thuốc này có cách sử dụng giống nhau vì cùng cơ chế chức năng đông máu của tiểu cầu.
và hoạt động. (Bảng 11-1). Tất cả các hợp chất kháng
cyclooxygenase (COX), ngoại trừ acetaminophen, tất cả Giới thiệu về hình thức sử dụng NSAIDs không ảnh
đều có tác dụng chống viêm, đặc biệt là ở liều cao. hưởng đường tiêu hóa, ketorolac, loại hợp chất này, có
Thuốc này có hiệu quả cao đối với các cơn đau đầu nhẹ ích trong việc điều trị đau cấp tính nặng. Ketorolac đủ
và vừa hoặc cơn đau của cơ xương. mạnh và nhanh chóng khởi phát thay thế cho opioid ở
các bệnh nhân đau đầu và đau cơ xương cấp tính
Vì thuốc này có hiệu quả cho hầu hết các cơn đau
thường gặp mà không cần bác sĩ kê toa nên COX được Có 2 loại COX là COX-1 chiếm phần lớn hoạt chất,
dùng phổ biến. Thuốc hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, ít COX-2 có tác dụng gây viêm. Thuốc COX-2 chọn lọc
tác dụng phụ khi sử dụng thường xuyên. Việc sử dụng có hiệu lực cao hơn, ít kích ứng dạ dày hơn là các chất
cho các cơn đau mãn tính, gây kích ứng dạ dày là tác ức chế COX không chọn lọc. Việc sử dụng thuốc COX-
dụng phụ phổ biến của aspirin và NSAIDs và thường 2 có chọn lọc là giảm nguy cơ nhiễm độc thận so với
được cân nhắc liều lượng khi kê đơn. Kích ứng dạ dày thuốc NSAIDs không chọn lọc. Mặt khác, thuốc COX-2
là nguy hiểm khi dùng aspirin, nó gây lở loét niêm mạc có chọn lọc có lợi ích cao trong việc điều trị cơn đau
YhocData.com
sau phẫu thuật vì nó không ảnh hưởng đến cơ chế đông đến tác động của opioid, có hiệu quả tốt cho bệnh nhân
máu. Chất ức chế COX không chọn lọc cấm chỉ định khi dùng giảm đau và tác dụng phụ của chúng. Vì vậy
điều trị sau phẫu thuật do nó làm giảm lượng tiểu cầu khi bắt đầu điều trị cần phải điều chỉnh liều và thời gian
có vai trò trong đông máu, dẫn đến xuất huyết ngay chỗ đến tối ưu. Nguyên tắc quan trọng để điều trị là phải
phẫu thuật. Chất ức chế COX-2 chứa celecoxib cung cấp đầy đủ thuốc giảm đau. Cần xác định xem
(celebrex) có nguy cơ về bênh tim mạch. Có thể đây là thuốc có giảm đau hiệu quả chưa và tái kiểm tra thường
Page | 7
một loại tác dụng của NSAIDs, trừ aspirin. Các thuốc xuyên để xác định thời gian tối ưu cho liều thuốc. Các
trên cấm chỉ định ở bệnh nhân ngay sau phẫu thuật bắt sai lầm thường gặp của bác sĩ trong điều trị cơn đau dữ
cầu động mạch vành và nên sử dụng cẩn thận ở bệnh dội với opioid là không đủ liều. Vì nhiều bệnh nhân
nhân có tiền sử hoặc yếu tố nguy cơ cao về bệnh tim không muốn than phiền điều trị này gây ra các khó chịu
mạch. không muốn. Trong trường hợp không giảm đau như dự
kiến thì người bác sĩ có thể lặp lại liều để giảm đau triệt
THUỐC GIẢM ĐAU OPIOID Opioid là thuốc giảm
để.
đau có hiệu quả cao nhất hiện nay. Trong tất cả các loại
thuốc giảm đau thì opioid có phạm vi hoạt động rộng Một cách tiếp cận vấn đề mới phù hợp để giảm đau
nhất hiệu quả nhất là giảm đau nhanh chóng. Opioid có triệt để là sử dụng phương pháp bệnh nhân kiểm soát
nhiều tác dụng phụ hay gặp như buồn nôn, nôn ói, giảm đau (PCA). PCA sử dụng thiết bị vi xử lý truyền
ngứa; táo bón là thường gặp và gây khó chịu nhất. Suy dịch kiểm soát được có thể cung cấp một liều liên tục
hô hấp ít gặp trong điều trị giảm đau chuẩn, nhưng cũng thuốc opioid và các liều bổ sung được lập trình sẵn
có thể gây nguy hiểm tính mạng. Tác dụng phụ liên được tim vào cơ thể bất cứ khi nào bệnh nhân nhất nút.
quan opioid diễn ra nhanh chóng do các chất naloxone Bệnh nhân có thể điều chỉnh liều tới mức tối ức. Cách
kháng gây mê. Người thầy thuốc không nên lưỡng lự tiếp cận này được sử dụng rộng rãi trong việc điêu trị
khi sử dụng thuốc giảm đau opioid cho bênh nhân có các cơn đau sau phẫu thuật, nhưng không có lý do nào
cơn đau ác tính dữ dội. Bảng 11-1 liệt kê các loại thuốc khiến phương pháp này không được sử dụng cho bất kì
giảm đau opioid thường dùng. Opioid tác động vào hệ bệnh nhân có cơn đau nặng phải nhập viện. PCA còn
thần kinh trung ương làm giảm đau. Nó kích hoạt tế bào được sử dụng để điều trị ngắn hạn tại nhà với bệnh nhân
thần kinh ức chế - đau và trực tiếp ức chế tế bào thần có cơn đau khó chữa do ung thư di căn.
kinh dẫn truyền cảm giác đau. Hầu hết các thuốc opioid
Điều quan trọng là phải biết thiết bị PCA chỉ cung
thương mại hoạt động giống nhau ở thụ thể opioid (thụ
cấp một liều lượng nhỏ nên cần dùng lặp lại để duy trì
thể µ), chúng khác nhau ở hiệu lực, tốc độ khởi phát,
giảm đau. Đối với các bệnh nhân có cơn đau nặng,
thời gian tác dụng và lộ trình. Một số tác dụng phụ do
trước hết chúng phải được kiểm soát bằng một liều
tích tụ chất chuyển hóa không phải opioid chỉ có ở mỗi
giảm đau trước khi sử dụng thiếc bị PCA. Các liều
người khác nhau. Ví dụ normeperidine, chất chuyển hóa
thuốc với viên lớn (thường là 1 mg morphine, 0.2 mg
của meperidine. Normeperidine gây kích động, co giật
hydromorphone hoặc 10 µg fentanyl) có thể được sử
không thể chuyển hoá ngược khi dùng naloxone. Tích
dụng nhiều khi cần thiết
lũy normeperidine tăng nguy cơ suy thận.
Khi thăm khám, cần quan tâm xem bệnh nhân có lưu
Opioid có tác dụng nhanh khi tiêm bằng đường tĩnh
ý tới vùng bị đau hay không, tư thế hay cử động có làm
mạch; điều trị bằng đường uống thì chậm hơn. Tác
đau hay không. Phát hiện ra một tác động cơ học gây
dụng phụ hay gặp là buồn nôn, nôn ói, táo bón, an thần.
đau có thể hữu ích cho chuẩn đoán và điều trị. Vùng bị
Tác dụng phụ nguy hiểm nhất là ức chế hô hấp. Bênh
đau cần được kiểm tra nhẹ nhàng các chỗ nằm sâu như
nhân có bất cứ tình trạng suy hô hấp nào cần phải được
cơ, khớp, dây chằng. Đau cân cơ mạn tính thường phổ
theo dõi sau khi điều trị opioid; và thở oxy là cần thiết
biến, ở bệnh nhân này, khi sờ nắn có thể phát hiện ra
khi có tình trạng trên. Opioid làm giảm đau đáng kể đi
các điểm kích thích nằm sâu trong các lớp cơ. Giảm đau
kèm với suy hô hấp và giảm tỉ lệ hô hấp. Độ bão hòa
sau khi tiêm thuốc gây tê tại chỗ ở các điểm kích thích
oxy ở mức thấp cho thấy mức độ quan trọng của suy hô
có ích trong việc chuẩn đoán. Bệnh thần kinh có thể gây
hấp và cần can thiệp ngay để ngăn chặn đe dọa tính
đau được xác định bằng tổn thương dây thần kinh như
mạng do thiếu máu. Máy trợ hô hấp sẽ được sử dụng
suy giảm cảm giác, da nhạy cảm, ốm yếu, teo cơ, gân
khi suy hô hấp do opioid. Chất naloxone kháng opioid
mất chức năng co dãn. Bằng chứng cho thấy hệ thần
luôn cần thiết khi sử dụng opioid liều cao ở bệnh nhân
kinh giao cảm cũng gây ra sưng, thay đổi màu sắc, nhiệt
suy chức năng trao đổi khí. Đây là liều thuốc liên quan
YhocData.com
độ da, da quá nhạy cảm, đau khớp. Giảm đau bằng việc hạn chế; methylnaltrexone có hiệu lực khi sử dụng tiêm
khóa hệ giao cảm cũng là một chuẩn đoán. Để phòng dưới da và hầu như không ảnh hưởng đến hệ thần kinh
ngừa dùng thuốc quá liều, thiết bị PCA được lập trình trung ương. Cả hai chất hoạt động bằng cách gắn vào
sẵn với thời gian dừng xác định sau khi thuốc được thụ thể µ, do đó ức chế hoặc đảo ngược tác dụng của
truyền vào (5 đến 10 phút) và có giới hạn tổng số liều opioid ở ngoại biên. Hoạt động của hai chất này chỉ giới
cần dùng trong một giờ. Trong khi đó, một số quan hạn ở các thụ thể nằm ngoài hệ thần kinh trung ương; vì
Page | 8
điểm lại muốn sử dụng thuốc PCA một các liên tục và vậy thuốc có thể đảo ngược những tác động bất lợi của
đồng thời, điều này làm tăng nguy cơ suy hô hấp và opioid qua trung gian các thụ thể ngoại biên mà vẫn
phương pháp này không được liệt kê trong tổng quan không mất tác dụng làm giảm đau. Hai thuốc này có tác
hiệu quả của kĩ thuật này. dụng loại bỏ tình trạng tắc ruột sau phẫu thuật bụng dai
dẳng đến mức phải dùng opioid để kiểm soát cơn đau.
Nhiều bác sĩ, điều dưỡng và cả bệnh nhân còn e dè
Tương tự, hai tác nhân này đã được thử nghiệm cho
đôi chút trong việc sử dụng thuốc opioid do có sự lo
hiệu quả cao trong điều trị opioid gây rối loạn chức
lắng quá mức. Trên thực tế, có một tai biến nhỏ trong
năng đường ruột (táo bón) ở bệnh nhân giảm đau bằng
tiên lượng là bệnh nhân bị nghiện thuốc mê, điều đó
opioid. Mặc dù có vẻ mâu thuẫn khi có bằng chứng chỉ
như là kết quả của việc sử dụng dịch vụ y tế phù hợp.
ra rằng alvimopan có thể làm giảm tỉ lệ mắc và thời
Hiệu lực của luật quản lý thuốc mới cho phép mở gian tắt ruột sau phẫu thuật bụng và methylnaltrexone
rộng tính có ích của thuốc giảm đau opioid. Quan trọng có thể nhanh chóng làm giảm táo bón ở bệnh nhân dùng
nhất là có thể điều trị được trong cột sống. Opioid có opioid điều trị mãn tính.
thể được truyền qua một ống thông đặt trong lớp vỏ
Sự kết hợp opioid và chất ức chế COX
hoặc màng cứng. Đưa trực tiếp chất opioid vào cột sống Khi được sử dụng đồng thời, opioid và thuốc ức chế
hoặc khoang giữa màng cứng kề ngay tủy sống giúp COX đều gây tác dụng phụ. Bởi vì một liều thấp của
vùng giảm đau được bắt đầu khi sử dụng liều thấp. Thật chúng có thể tạo ra cùng một mức độ giảm đau và tác
vậy, liều cần thiết để giảm đau cục bộ khi sử dụng dụng phụ không nhiều, sự kết hợp này làm giảm mức
morphine trong vỏ (0,1-0,3 mg) là một phần nhỏ cần độ nghiêm trọng của tác dụng phụ. Tuy nhiên, sự kết
thiết để sản xuất thuốc giảm đau tương tự khi tiêm tĩnh hợp opioid với acetaminophen với tỷ lệ cố định mang
mạch (5-10 mg. Bằng cách này, tác dụng phụ như buồn nguy cơ đặc biệt. Kết quả là liều lượng tăng dần khi
ngủ, buồn nôn, suy hô hấp có thể được giảm thiểu. tăng mức độ đau hoặc giảm tác dụng opioid có thể dẫn
Phương thức này được sử dụng rộng rã trong sản khoa đến mức độ acetaminophen gây độc cho gan. Mặc dù
và giảm đau sau phẫu thuật chi dưới. độc gan do acetaminophen là không phổ biến, nhưng nó
vẫn là nguyên nhân hàng đầu cho suy gan. Vì vậy,
Bổ sung armamentarium cho điều trị tác dụng phụ nhiều bác sĩ đã bỏ việc sử dụng thuốc giảm đau opioid
khi dùng opioid là opioid antagonists alvimopan kết hợp acetaminophen để tránh nguy cơ tiếp xúc quá
(Entereg) and methylnaltrexone (Rellistor) có hoạt tính mức acetaminophen cũng như với thuốc giảm đau.
ở ngoại biên. Alvimopan có hiệu quả khi một chất sử
dụng đường uống được đưa vào ruột bằng cách hấp thụ
YhocData.com
BẢNG 11-1 Thuốc giảm đau

Tên thuốc Liều, mg Khoảng thời gian Chú thích

Thuốc giảm đau không có chất gây mê: liều thông thường và khoảng
Acetylsalisylic acid 650 PO q4h Có sẵn tác dụng tráng ruột
Acetaminophen 650 PO q4h Các tác dụng phụ hiếm gặp Page | 9
Ibuprofen 400 PO q 4–6 h Có sẵn mà không cần toa bác sĩ
Naproxen 250–500 PO q 12 h Tác dụng trì hoãn có thể là do thời gian bán hủy dài
Fenoprofen 200 PO q 4–6 h Chống chỉ định trong bệnh thận
Indomethacin 25–50 PO q8h Tác dụng phụ đường tiêu hóa thường gặp
Ketorolac 15–60 IM/IV q 4–6 h Có sẵn để sử dụng đường tiêm
Celecoxib 100–200 PO q 12–24 h Có lợi cho bệnh viêm khớp
Valdecoxib 10–20 PO q 12–24 h Loại bỏ khỏi thị trường Hoa Kỳ năm 2005

Tên thuốc Liều, mg Khoảng thời gian Chú thích

Thuốc giảm đau có chất gây mê: liều thông thường và khoảng
30–60 q 4 buồn nôn
Codeine 30–60 q4 h
h
5–10 q4–6 Thường có sẵn với acetaminophen hoặc aspirin
Oxycodone —
h
Morphine 5q4h 30 q 4 h
15–60 bid Tác dụng chậm khi uống
Morphine sustained release —
to tid
Hydromorphone 1–2 q 4 h 2–4 q 4 h Hoạt tính ngắn hơn morphine sulfate
Levorphanol 2 q 6–8 h 4 q 6–8 h Hoạt tính chậm hơn morphine sulfate; hấp thu tốt PO
Giảm đau kém do thời gian bán hủy dài; điều trị không nên
5-20 q 6–8
Methadone 5-10 q 6–8 h bắt đầu với hơn 40 mg/ngày và tăng liều sau 3 ngày nhưng
h
không thường xuyên
Hấp thụ kém PO; normeperidine một chất chuyển hóa độc
Meperidine 50–100 q 3–4 h 300 q 4 h hại; thói quen sử dụng của thuốc này không được khuyến
cáo
Butorphanol — 1–2 q 4 h xịt mũi
Fentanyl 25–100 μg/h — 72-h miếng dán
50–100 q opoioid hỗn hợp/ hoạt động của adrenergic
Tramadol —
4–6 h
Hấp thu- Chặn Hiệu lực
Hiệu lực
kháng Tư thế hạ Liều Khoảng,
Tên thuốc thuốc an Loạn nhịp tim
5-HT NE cholinergi huyết áp Ave. mg/d mg/d
thần
c
Antidepressantsa (Thuốc chống trầm cảm)
Doxepin ++ + Cao Vừa phải Vừa phải Ít nhất 200 75–400
Amitriptyline ++++ ++ Cao Cao nhất Vừa phải Có 150 25–300
Imipramine ++++ ++ Vừa phải Vừa phải Cao Có 200 75–400
Nortriptyline +++ ++ Vừa phải Vừa phải Thấp Có 100 40–150
Desipramine +++ ++++ Thấp Thấp Thấp Có 150 50–300
Venlafaxine +++ ++ Thấp Không sd Không sd Không 150 75–400
Duloxetine +++ +++ Thấp Không sd Không sd Không 40 30–60

Tên thuốc PO Dose, mg Khoảng Tên thuốc PO Dose, mg Khoảng


Anticonvulsants and antiarrhythmics a (Thuốc chống co giật và chống loạn nhịp)
Phenytoin 300 Hàng ngày/qhs Clonazepam 1 q6h
Carbamazepine 200–300 q6h Gabapentinb 600–1200 q8h
Oxcarbazepine 300 bid Pregabalin 150–600 bid
YhocData.com
a Antidepressants, anticonvulsants, and antiarrhythmics have not been approved by the U.S. Food and Drug Administration
(FDA) for the treatment of pain. b Gabapentin in doses up to 1800 mg/d is FDA approved for postherpetic neuralgia. 
Note: 5-
HT, serotonin; NE, norepinephrine. (Thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật, thuốc chống loạn nhịp không được chấp
thuận bởi các Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) để điều trị các cơn đau. b Gabapentin ở liều lên đến 1800 mg / d được
FDA chấp thuận cho đau thần kinh sau zona. Lưu ý: 5-HT, serotonin; NE, norepinephrine.)

Page | 10
ĐAU MẠN TÍNH Trong thăm khám, đặc biệt cần chú ý xem bệnh nhân
Điều trị bệnh nhân bị đau mãn tính đòi hỏi phải có kiến có che chỗ đau hay không, có thực hiện động tác, cử
thức và am hiểu tâm lý . Vấn đề của bệnh nhân là rất động nào giảm đau hay không. Tìm ra một tác động cơ
khó và không thể chẩn đoán một cách chắc chắn; những học vào cơn đau có thể hữu ích cho cả chẩn đoán và
bệnh nhân này cần nhiều thời gian của bác sĩ và thường điều trị. Vùng đau cần được thăm khám nhẹ nhàng, bất
xuất hiện tình trạng quẫn trí mạnh. Phương pháp y học kể đây là cơ bắp, cấu trúc dây chằng hay ổ khớp. Đau
cổ truyền trong việc tìm kiếm bệnh lý cơ hữu chưa làm gân cơ mãn tính là rất phổ biến, và, ở những bệnh nhân
được làm rõ là vô ích. Mặt khác, đánh giá tâm lý và này, sờ nắn có thể tìm ra các điểm kích thích khu trú,
điều trị dựa trên hành vi thường hữu ích, đặc biệt là nằm trong bó cơ bắp. Giảm các cơn đau sau khi tiêm
trong sự điều chỉnh của trung tâm điều trị cơn đau đa kĩ thuốc gây tê cục bộ vào các điểm kích thích có ích trong
thuật. Thật không may, phương pháp vẫn hiệu quả, chuẩn đoán. Bệnh do thần kinh có thể gây đau được xác
nhưng phần lớn vẫn ít được sử dụng trong y học hiện định bằng tổn thương dây thần kinh như suy giảm cảm
nay. giác, da cực kỳ nhạy, ốm yếu và teo cơ, hoặc mất phản
xạ gân sâu. Bằng chứng cho thấy sự tham gia của hệ
Có một số yếu tố có thể gây ra, duy trì, hoặc làm tăng
thần kinh giao cũng gây sưng lan tỏa, thay đổi màu sắc
cơn đau mãn tính. Đầu tiên, tất nhiên, bệnh nhân có thể
và nhiệt độ da, da quá nhạy cảm hay đau khớp. Chẩn
chỉ đơn giản là mắc một căn bệnh mà cơn đau đặc trưng
đoán chỉ định giảm đau bằng cách chặn hệ giao cảm.
hiện chưa có thuốc chữa. Viêm khớp, ung thư, đau đầu
hàng ngày mãn tính, đau cơ xơ, và đái tháo do rối loạn Một nguyên tắc hàng đầu trong việc đánh giá bệnh
thần kinh đường là những ví dụ điển hình. Thứ hai, có nhân bị đau mãn tính là phải đánh giá cả yếu tố tình
thể là yếu tố duy trì thứ phát được khởi phát do bệnh và cảm và thể chất trước khi bắt đầu điều trị. Nên điều trị
tồn tại sau khi bệnh đã được chữa lành. Ví dụ, dây thần những vấn đề cùng lúc, thay vì chờ đợi để chữa lành
kinh cảm giác bị tổn thương, hoạt động ly tâm giao cảm các vấn đề về cảm xúc sau khi nguyên nhân cơ hữu gây
và đau do co cơ phản xạ. Cuối cùng, các trạng thái tâm đau, cần tuân thủ nguyên tắc vì nó đảm bảo bệnh nhân
lý có thể làm trầm trọng thêm hoặc thậm chí gây đau. rằng, kiểm tra tâm lý không có nghĩa là bác sĩ đang nghi
ngờ về phàn nàn của họ. Ngay cả khi một nguyên nhân
Có một số chỗ cần đặc biệt lưu ý trong bệnh sử của
cơ hữu được tìm thấy, tốt hơn nếu tìm thêm các nguyên
bệnh nhân. Bởi vì trầm cảm là rối loạn cảm xúc phổ
nhân khác. Ví dụ, một bệnh nhân ung thư có di căn gây
biến nhất ở những bệnh nhân bị đau mạn tính, bệnh
đau ở xương có thể bị đau thêm do tổn thương thần
nhân sẽ được hỏi về tâm trạng, chế độ ăn uống, giấc
kinh và cũng có thể bị trầm cảm. Liệu pháp tối ưu đòi
ngủ, và các hoạt động hàng ngày. Một câu hỏi tiêu
hỏi rằng mỗi yếu tố được xem xét và điều trị.
chuẩn đơn giản, chẳng hạn như Đánh Giá Trầm Cảm
Beck, có thể là một phương pháp sàng lọc hữu ích. Điều ĐIỀU TRỊ Đau mạn tính
quan trọng là phải nhớ rằng trầm cảm là một căn bệnh Một khi quá trình đánh giá thực hiện xong và có khả
phổ biến, có thể điều trị khỏi, và cũng có khả năng gây năng gây bệnh, xác định được các yếu tố làm nặng
tử vong. thêm, một phát đồ điều trị rõ ràng cần được tiến hành.
Một phần quan trọng của quá trình này là xác định các
Một số quan niệm khác là rối loạn cảm xúc góp phần
mục tiêu chức năng cụ thể và thực tế để điều trị, chẳng
vào bệnh sử gồm cơn đau ở nhiều vị trí không liên
hạn như để có được một đêm ngon giấc, có thể đi mua
quan; một dạng bệnh tái phát; nhưng khác ở chỗ là cơn
sắm, hoặc trở lại làm việc. Một cách tiếp cận đa kĩ thuật
đau xảy ra lúc còn nhỏ hay ở tuổi vị thành niên; cơn đau
như sử dụng thuốc, tư vấn, vật lý trị liệu, chặn dây thần
xảy ra lúc tổn thương về tình cảm, chẳng hạn như sự
kinh, và thậm chí phẫu thuật để cải thiện chất lượng của
mất mát của người thân, tiền sử lạm dụng thể chất hoặc
cuộc sống bệnh nhân. Ngoài ra còn có một số phương
tình dục; và lạm dụng thuốc trong quá khứ hay hiện tại.
pháp tiên tiến hơn, như liệu pháp xâm lấn tương đối có
YhocData.com
thể hữu ích cho một số bệnh nhân có cơn đau đau khó Các TCAs đó đã được chứng minh làm giảm đau và
chữa. Phương pháp này bao gồm các biện pháp can gây tác dụng phụ đáng kể (Bảng 11-1;. Chap 390). Một
thiệp hình ảnh như tiêm glucocorticoid ngoài màng số tác dụng phụ, chẳng hạn như hạ huyết áp thế đứng,
cứng cho cơn đau rễ thần kinh cấp tính, điều trị bằng buồn ngủ, trì hoãn dẫn truyền điện tim, suy giảm trí
tần số sóng âm cho các cơn đau mặt khớp mãn tính, nhớ, táo bón, và ứ đọng nước tiểu, đặc biệt là vấn đề ở
phương pháp điều trị qua da cho cả cơn đau trục và rễ những bệnh nhân lớn tuổi, và một số có tác dụng phụ
Page | 11
thần kinh, và vị trí điện cực cấy ghép trong tuỷ sống và giống thuốc giảm đau opioid. Các chất ức chế tái hấp
cấy trong vỏ của hệ thống dẫn thuốc cho cơn đau dữ dội thu serotonin có chọn lọc như fluoxetine (Prozac) có tác
và dai dẳng mà không đáp ứng với điều trị duy trì. dụng phụ ít hơn và ít nghiêm trọng hơn so với TCAs,
Không có tiêu chí quy định để đoán được bệnh nhân sẽ nhưng chúng ít hiệu quả giảm đau. Bất ngờ là
đáp ứng liệu pháp này. Họ thường dành cho những venlafaxine (Effexor) và duloxetine (Cymbalta), là
bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thuốc chống trầm cảm không vòng chặn cả tái hấp thu
bằng thuốc thông thường. Giới thiệu đến phòng khám serotonin và norepinephrine, được dùng để giữ lại hầu
đau đa kĩ thuật cho một đánh giá đầy đủ nên trước bất hết tác dụng giảm đau của TCAs cùng với một tác
kỳ các liệu pháp xâm lấn. Làm như vậy không hẳn là dụng phụ hơn các chất ức chế tái hấp thu serotonin có
cần thiết cho tất cả các bệnh nhân đau mãn tính. Đối với chọn lọc. Những loại thuốc này có thể đặc biệt hữu ích
một số người, dược sỹ cũng có thể cung cấp đủ thuốc ở những bệnh nhân không thể chịu đựng được các tác
giảm đau. dụng phụ của TCAs.
BẢNG 11-2 Tình trạng đau đáp ứng chất chống
THUỐC CHỐNG CO GIẬT VÀ CHỐNG
trầm cảm dạng ba vòng
LOẠN NHỊP Những loại thuốc này rất hữu ích chủ
Đau thần kinh sau zonaa
Bệnh thần kinh do đái tháo đường a
yếu cho bệnh nhân đau do thần kinh. Phenytoin
Đau đầu căng thẳnga (Dilantin) và carbamazepine (Tegretol) lần đầu tiên
Đau nửa đầua được dùng để làm giảm đau dây thần kinh sinh ba. Cơn
Viêm khớp do thấpa,b đau này có một đặc tính là nhanh, giống sốc điện.
Đau dưới lưng mạn tínhb Trong thực tế, chống co giật dường như là đặc biệt hữu
Ung thư ích cho cơn đau nhức nhối. Thuốc chống co giật mới
Đau sau đột quỵ trung tâm hơn như gabapentin (Neurontin) và pregabalin (Lyrica),
a
Đã kiểm soát thử nghiệm chứng minh giảm đau có hiệu quả cho một loạt các cơn đau do thần kinh. Hơn
b
Đã kiểm soát nghiên cứu chứng minh tác dụng nhưng nữa, vì các tác dụng phụ phù hợp, các thuốc chống co
không làm giảm đau giật mới hơn thường được sử dụng như loại thuốc đầu
THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM: Dạng ba vòng tiên.
của thuốc chống trầm cảm (TCAs), đặc biệt là
nortriptyline và desipramine (Bảng 11-1) rất hữu ích THUỐC GIẢM ĐAU MÃN TÍNH OPIOID:
cho việc điều trị các cơn đau mãn tính. Mặc dù phát Việc sử dụng lâu dài của nhóm opioid được chấp nhận
triển điều trị trầm cảm, các TCAs có một chuỗi các hoạt cho bệnh nhân đau do bệnh ác tính. Mặc dù sử dụng
tính sinh học liều liên quan gồm thuốc giảm đau trong opioid để giảm đau mãn tính có nguồn gốc không ác
một loạt các trường hợp lâm sàng mạn tính. Mặc dù cơ tính là gây tranh cãi,nhưng rõ ràng nhiều bệnh nhân như
chế chưa được biết, nhưng TCAs có tác dụng khởi phát vậy sử dụng thuốc giảm đau opioid là lựa chọn tốt nhất.
nhanh hơn và tác dụng ở liều thấp hơn thường cần thiết Điều này cũng dễ hiểu vì opioid có hiệu quả mạnh và
cho việc điều trị bệnh trầm cảm. Hơn nữa, bệnh nhân bị rộng nhất so với bất cứ loại thuốc giảm đau. Mặc dù
đau mãn tính không bị trầm cảm, cũng có thể giảm đau nghiện là hiếm ở những bệnh nhân đầu tiên sử dụng
bằng thuốc chống trầm cảm. Có bằng chứng cho thấy opioid giảm đau, nhưng một số người có mức độ chịu
TCAs giảm đau tương tự opioid, vì vậy chúng có thể đựng thuốc và sự phụ thuộc về thể chất cao có thể có
hữu ích cho việc điều trị các cơn đau nặng dai dẳng như thể sử dụng lâu dài. Vì vậy, trước khi bắt tay vào điều
khối u ác tính. Bảng 11-2 liệt kê một số các chứng đau trị opioid, nên thử dùng các thuốc giảm đau khác, và
có đáp ứng với TCAs. TCAs có giá trị đặc biệt trong những hạn chế và rủi ro của thuốc nhóm opioid cần giải
điều trị đau thần kinh như xảy ra trong bệnh thần kinh thích cho bệnh nhân. Cũng quan trọng để chỉ ra rằng
do tiểu đường và đau thần kinh sau zona, các trường một số loại thuốc giảm đau opioid có pha trộn tính chất
hợp ít lựa chọn điều trị khác. đồng vận-đối vận (ví dụ, pentazocine và butorphanol).
Từ một quan điểm thực tế, điều này có nghĩa là chúng
YhocData.com
có thể làm trầm trọng thêm cơn đau bằng các triệu có liều lượng tương đối cao nên bệnh nhân bị an thần là
chứng phụ ở những bệnh nhân có thể chất phụ thuộc rất phổ biến. An thần cũng là một vấn đề với TCAs
vào thuốc giảm đau opioid khác. nhưng ít hơn nhiều so với các chất ức chế serotonin/
norepinephrine tái hấp thu (SNRIs, ví dụ như,
Với việc điều trị ngoại trú dài hạn bằng opioid
venlafaxine và duloxetine). Như vậy, ở người già hoặc
đường uống, đó là mong muốn sử dụng các hợp chất tác
ở những bệnh nhân có các hoạt động hàng ngày đòi hỏi
dụng lâu dài như phanol levorphanol, methadone, hoặc Page | 12
tinh thần cao, các thuốc này nên được sự dụng đầu tiên.
duy trì tiết ra morphine (Bảng 11-1). Tim qua da chất
Ngược lại, các thuốc opioid nên được sử dụng như một
fentanyl là một lựa chọn tuyệt vời. Các đặc trưng dược
loại thuốc thứ hai hoặc thứ ba. Trong khi hiệu quả cao
động học của các chế phẩm thuốc giúp giảm đau kéo
cho nhiều trường hợp đau, thì opioid gây ra an thần, và
dài, giảm thiểu tác dụng phụ như với nồng độ tối đa
tác dụng của chúng có xu hướng giảm theo thời gian,
trong huyết tương cao, và làm giảm khả năng phục hồi
dẫn đến tăng liều và, đôi khi, cơn đau nặng đi do phụ
cơn đau liên quan tới việc giảm nhanh chóng nồng độ
thuộc vào cơ thể.. Thuốc của các nhóm khác nhau có
trong huyết tương opioid. Trong khi opioid tác dụng lâu
thể được sử dụng kết hợp để tối ưu hóa kiểm soát cơn
dài có thể làm giảm đau cao ở những bệnh nhân có tình
đau.
trạng đau liên tục, thì những người khác có cơn đau
ngắt quãng từng hồi nghiêm trọng và cảm thấy kiểm Cần nhấn mạnh rằng nhiều bệnh nhân, đặc biệt là
soát cơn đau tốt hơn và ít tác dụng phụ khi sử dụng định những người bị đau mạn tính, tìm kiếm sự chăm sóc y
kỳ các thuốc giảm đau opioid tác dụng ngắn. Táo bón là tế chủ yếu là vì họ đang đau khổ và vì chỉ có bác sĩ có
một tác dụng phụ hầu như phổ quát của việc sử dụng thể cung cấp các loại thuốc cần thiết để giảm đau. Một
chất gây nghiện và cần được điều trị triệt để. Một tiến trách nhiệm chính của tất cả các bác sĩ là giảm thiểu
bộ gần đây cho phép bệnh nhân tình trạng suy nhược khó chịu về thể chất và cảm xúc của bệnh nhân. Làm
mãn tính điều trị bằng methylnaltrexone, một chất hoạt quen với cơ chế giảm đau và các loại thuốc giảm đau là
tính ngoại biên đối vận opioid ngăn chặn táo bón và một bước quan trọng hướng tới mục tiêu này.
ngứa do sử dụng opioid mãn tính mà không can thiệp
giảm đau; liều thông thường là 0,15 mg /kg trọng lượng THAM KHẢO
cơ thể được tiêm dưới da, không dùng nhiều hơn một Costigan M: Neuropathic pain: A maladaptive response
lần mỗi ngày. of the nervous system to damage. Annu Rev Neurosci
32:1, 2009
ĐIỀU TRỊ ĐAU DO THẦN KINH Quan trọng để
điều trị cho bệnh nhân đau do thần kinh. Một số nguyên
Craig AD: How do you feel? Interoception: The sense
tắc chung điều trị cần hướng dẫn: đầu tiên là tiến hành
of the physi- ological condition of the body. Nat Rev
một cách nhanh chóng để giảm đau, và thứ hai là giảm
Neurosci 8:655, 2002
thiểu tác dụng phụ của thuốc. Ví dụ, ở những bệnh nhân
đau thần kinh sau zona và cường mẫn cảm đáng kể ở Dworkin RH: Pharmacologic management of
da, lidocaine cục bộ (bản Lidoderm) có thể giảm đau neuropathic pain: Evidence-based recommendations.
ngay lập tức mà không có tác dụng phụ. Thuốc chống Pain 123:237, 2007
co giật (gabapentin hoặc pregabalin, xem ở trên) hoặc
thuốc chống trầm cảm (nortriptyline, desipramine, Eippert F et al: Activation of the opioidergic descending
duloxetine, hay venlafaxine) có thể được sử dụng như là pain con- trol system underlies placebo analgesia.
thuốc hàng đầu cho bệnh nhân đau thần kinh. Điều trị Neuron 63:533, 2009
có hệ thống thuốc chống loạn nhịp như lidocaine và
mexiletene ít khả năng cho hiệu quả; mặc dù truyền tĩnh Fields HL: Should we be reluctant to prescribe opioids
mạch lidocaine có thể giảm đau ở những người có nhiều for chronic nonmalignant pain? Pain 129:233, 2007
dạng đau thần kinh, nhưng giảm đau thường là thoáng
qua, thường kéo dài chỉ vài giờ sau khi ngừng truyền Macintyre PE: Safety and efficacy of patient-controlled
dịch. Các lidocaine dạng uống dung nạp kém, thường analgesia. Br J Anaesth 87:36, 2001
gây tác dụng phụ đường tiêu hóa. Không có sự thống
nhất những nhóm thuốc nào nên được sử dụng như là Oaklander AL: Is reflex sympathetic
một điều trị hàng đầu cho bất kỳ trường hợp đau kinh dystrophy/complex regional pain syndrome type I a
niên. Tuy nhiên, vì giảm đau bằng thống chống co giật small-fiber neuropathy? Ann Neurol 64:629, 2009

You might also like