You are on page 1of 39

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC


----🙞🙜🕮🙞🙜----

BÀI THẢO LUẬN


Liên hệ thực tiễn quản lý nhà nước về an sinh xã
hội ở Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn: Bùi Thị Thu Hà


Nhóm: 11
Lớp học phần: 2310HRMG2011

Hà Nội, 2023

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 6
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.......................................................................................7
1.1 Khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nước về an sinh xã hội.....................7
1.2. Nguyên tắc và cơ sở của quản lý nhà nước về an sinh xã hội.............................8
1.3. Nội dung chủ yếu của quản lý Nhà nước về an sinh xã hội...............................13
PHẦN 2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở
VN.................................................................................................................................... 15
2.1. Thực tiễn quản lý nhà nước về ASXH ở VN......................................................15
2.1.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách và văn bản pháp lý an sinh xã
hội ở Việt Nam.........................................................................................................15
2.1.2. Tổ chức bộ máy, hướng dẫn thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam.......................................................................................................................... 22
2.1.3. Thanh tra, giám sát, kiểm tra thực hiện chính sách an sinh xã hội ở VN. 24
2.2. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về an sinh xã hội ở VN...........................29
2.2.1. Ưu điểm..........................................................................................................29
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân...............................................................................31
PHẦN 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM..........................................................................36
KẾT LUẬN.....................................................................................................................38

2
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THÀNH VIÊN

STT Họ tên Lớp HC Nhiệm vụ Đánh


giá

Phần 3: Giải pháp nâng cao hiệu


95 Lục Thị Tươi K56U3 quả quản lý nhà nước về an sinh xã
hội ở VN

2.1.3. Thanh tra, giám sát, kiểm tra


Nguyễn Thị Thu
97 K56U4 thực hiện chính sách an sinh xã hội
Uyên
ở VN

Nguyễn Ngọc
98 K56U1 Thuyết trình
Vân

2.1.2. Tổ chức bộ máy, hướng dẫn


99 Nguyễn Thị Vân K56U2 thực hiện chính sách an sinh xã hội
ở VN

Nguyễn Thị Thảo


100 K56U3 Powerpoint
Vân

Nguyễn Thị Thảo 2.2. Đánh giá chung về quản lý nn


101 K56U4
Vân về an sinh xã hội ở VN

2.1. Thực tiễn quản lý nhà nước về


an sinh xã hội ở VN
102 Nguyễn Thị Vui K56U3 2.1.1. Xây dựng chiến lược, kế
hoạch, chính sách và văn bản pháp
lý an sinh xã hội ở VN

Bùi Thị Thanh


103 K56U4 Mở đầu, Kết luận, Word
Xuân

104 Nguyễn Hải Yến K56U4 Phần 1: Cơ sở lý thuyết

3
BIÊN BẢN HỌP NHÓM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2023


BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Về việc trao đổi và phân công công việc cho bài thảo luận
I. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, THÀNH PHẦN THAM GIA
1. Địa điểm: Phòng học V204
2. Thời gian: 9h00 ngày 10 tháng 3 năm 2023
3. Thành phần tham gia: Tất cả thành viên của nhóm 11
II. NỘI DUNG CUỘC HỌP
● Cả nhóm đọc và nghiên cứu về đề tài thảo luận.
● Các thành viên đưa ra ý kiến về các mảng nội dung cần có trong bài thảo
luận.
● Thư kí ghi lại các ý kiến của thành viên.
● Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho từng thành viên.
● Các thành viên nhận nhiệm vụ.
III. KẾT LUẬN CUỘC HỌP
● Các thành viên đều có mặt đầy đủ và tham gia tích cực trong việc xây dựng và
đóng góp ý kiến.
● Cuộc họp kết thúc vào lúc 10h00 cùng ngày. Nội dung cuộc họp đã được các
thành viên dự họp thông qua.

Nhóm trưởng Thư ký

Xuân Uyên

Bùi Thị Thanh Xuân Nguyễn Thị Thu Uyên

4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2023


BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Về sửa đổi cho bài thảo luận
IV. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, THÀNH PHẦN THAM GIA
4. Địa điểm: Phòng học V304
5. Thời gian: 9h00 ngày 20 tháng 3 năm 2023
6. Thành phần tham gia: Tất cả thành viên của nhóm 11
V. NỘI DUNG CUỘC HỌP
● Cả nhóm đọc và nghiên cứu nội dung thảo luận.
● Các thành viên đưa ra ý kiến về các nội dung cần chỉnh sửa trong bài thảo
luận.
● Thư kí ghi lại các ý kiến của thành viên.
● Tiến hành chỉnh sửa và tổng kết bài thảo luận.
VI. KẾT LUẬN CUỘC HỌP
● Các thành viên đều có mặt đầy đủ và tham gia tích cực trong việc xây dựng và
đóng góp ý kiến.
● Cuộc họp kết thúc vào lúc 10h00 cùng ngày. Nội dung cuộc họp đã được các
thành viên dự họp thông qua.

Nhóm trưởng Thư ký

Xuân Uyên

Bùi Thị Thanh Xuân Nguyễn Thị Thu Uyên

5
LỜI MỞ ĐẦU

Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã nhận
thức ngày càng đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các
vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII của Đảng trong bối cảnh Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái
Bình Dương (TPP) và hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, việc tiếp tục hoàn thiện hệ
thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế cũng như nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội là hết sức cần thiết.
Một trong các đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra là: “Đổi
mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”,
trong đó có quản lý phát triển an sinh xã hội. Trong quá trình này, Nhà nước sử dụng các
công cụ, cơ chế, chính sách, pháp luật,... để tác động, điều chỉnh, thúc đẩy, điều tiết, xử lý
các vấn đề an sinh xã hội phát sinh từ thực tiễn, bảo đảm quyền an sinh xã hội của người
dân nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước, vì con người.
Để tìm hiểu rõ hơn về công tác xây dựng chiến lược, chính sách, văn bản pháp lý về an
sinh xã hội ở Việt Nam; cách tổ chức, hướng dẫn thực hiện chính sách an sinh xã hội và
kiểm tra, giám sát thực hiện chính ách an sinh xã hội ở Việt Nam, nhóm 11 học phần An
sinh xã hội đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Liên hệ thực tiễn quản lý nhà nước về an sinh
xã hội ở Việt Nam”.

6
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nước về an sinh xã hội
Quản lý nhà nước về an sinh xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước nhằm xây dựng
chính sách, hoàn thiện thể chế, huy động và phân bổ các nguồn lực để giải quyết các vấn
đề xã hội liên quan trực tiếp tới cuộc sống của cá nhân và cộng đồng, bảo đảm an sinh
cho con người và cộng đồng xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế và văn hóa phát triển,
chính trị ổn định và xã hội đoàn kết - đồng thuận
Quản lý Nhà nước là cần thiết khách quan để xây dựng và phát triển một hệ thống an
sinh xã hội trên bình diện rộng, có chiều sâu, bền vững và hòa nhập quốc tế. an sinh xã
hội là hệ thống gồm nhiều chính sách khác nhau, do đó quản lý Nhà nước về an sinh xã
hội có vai trò đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Bằng những công cụ quản
lý như kế hoạch, chính sách, luật pháp.v.v Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc
phát triển một hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa dạng, đảm bảo sự hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nước lấy pháp luật và các chuẩn mực quốc tế
làm cơ sở để quản lý an sinh xã hội nhằm đảm bảo hệ thống an sinh xã hội hoạt động ổn
định và theo pháp luật. Nhà nước sử dụng các chính sách an sinh xã hội là công cụ để
đảm bảo hệ thống an sinh xã hội quốc gia từng bước bao phủ hết các đối tượng trợ cấp xã
hội và đối tượng trợ giúp; phát triển cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đặc biệt khi xu
hướng hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ. 
Thứ hai, nhanh chóng đưa chính sách an sinh xã hội vào cuộc sống. Mỗi chính sách
kinh tế xã hội bất kỳ đều có mục tiêu cụ thể. Mục tiêu đó chỉ được hiện thực hóa khi nó
được tổ chức thực thi trong thực tế. Quản lí Nhà nước về an sinh xã hội ảnh hưởng quyết
định tới việc thực hiện mục tiêu của hệ thống an sinh xã hội thông qua việc tổ chức thực
thi chính sách an sinh xã hội nhằm nhanh chóng đưa chính sách này vào cuộc sống. 
Thứ ba, điều phối các chính sách an sinh xã hội cho phù hợp. Quản lí Nhà nước về an
sinh xã hội tạo sự kết dính giữa các hợp phần của hệ thống an sinh xã hội và tạo mối liên

7
hệ giữa các mức chuẩn trợ cấp xã hội, trợ giúp xã hội với tiền lương tối thiểu hoặc mức
sống trung bình của cộng đồng dân cư.
Thứ tư, tạo điều kiện cho tất cả các chính sách an sinh xã hội hoạt động hiệu quả. Chỉ
có Nhà nước với vai trò quản lý xã hội mới có thể huy động được các nguồn nhân tài, vật
lực và tạo điều kiện thuận lợi (về kinh tế - chính trị - xã hội, kết cấu hạ tầng.v.v.) cho các
chính sách an sinh xã hội hoạt động. Bên cạnh đó, Ngân sách Nhà nước luôn là một trong
những nguồn tài chính quan trọng bậc nhất của hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Đồng
thời chỉ có Nhà nước mới có thể đầu tư và kêu gọi đầu tư có hiệu quả vào một hệ thống
an sinh xã hội hiện đại, có tính chất lồng ghép, giúp người dân đương đầu được với mọi
rủi ro, tránh rơi trở lại vào vòng đói nghèo vì ốm đau, bệnh tật, mất việc làm.v.v. 
Thứ năm, vai trò trong quan hệ quốc tế. Quản lý Nhà nước về an sinh xã hội góp phần
đưa hệ thống an sinh xã hội quốc gia phát triển đúng hướng, phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế. Đồng thời, huy động được sự giúp đỡ quốc tế trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống an sinh xã hội của đất nước.
1.2. Nguyên tắc và cơ sở của quản lý nhà nước về an sinh xã hội
 Nguyên tắc
Đảm bảo đúng pháp luật và chuẩn mực quốc tế
Đây là nguyên tắc đòi hỏi hoạt động quản lý Nhà nước về an sinh xã hội phải dựa trên
cơ sở pháp luật, các chuẩn mực quốc tế và sự đông đảo nhân dân tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động quản lý Nhà nước về an sinh xã hội.
Đảm bảo công khai dân chủ
Hoạt động của hệ thống an sinh xã hội thực chất là thông qua sự trợ giúp cả về vật chất
và tinh thần của toàn xã hội để khắc phục và hạn chế những khó khăn, bất hạnh của con
người, góp phần làm cho xã hội công bằng, văn minh và phát triển bền vững. Muốn vậy,
trong quản lí Nhà nước về an sinh xã hội, Nhà nước luôn phải quán triệt nguyên tắc công
khai, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Cụ thể, công khai hóa các
chương trình, kế hoạch, dự án, công tác tổ chức, phân bổ Ngân sách, nguồn quỹ....Đồng
thời, trong quá trình quản lí hệ thống an sinh xã hội Nhà nước phải coi trọng quyền làm
chủ của nhân dân, phải luôn khẳng định đúng vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Hoạt

8
động quản lí Nhà nước về an sinh xã hội phải xuất phát từ nguyện vọng của mọi tầng lớp
dân cư, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong việc tham gia quản lí Nhà
nước. Nhà nước phải dựa vào dân để thực hiện vận động quần chúng, kết hợp với các tổ
chức, đoàn thể phát động phong trào quần chúng. Do đó cơ quan Nhà nước phải thường
xuyên tham khảo ý kiến của quần chúng nhân dân trước khi đưa ra các quyết định về hệ
thống an sinh xã hội, đồng thời tạo điều kiện để mọi người hoàn thành tốt trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình. Có như vậy mới có điều kiện tạo lập, củng cố lòng tin và thu hút
được.
Nhà nước quản lý thống nhất
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng, ảnh hưởng tới sự thành công của hệ
thống an sinh xã hội quốc gia. Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì phần lớn các công việc
của xã hội đều do Nhà nước quản lý nhằm thỏa mãn các quyền nhu cầu hợp pháp của
người dân. Nhà nước là người đại diện cho toàn bộ xã hội, là tổ chức duy nhất trong hệ
thống chính trị có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ý chí và thực
hiện quyền lực của mọi người dân trong việc thực hiện an sinh xã hội. Nhà nước thống
nhất quản lý an sinh xã hội từ định ra các chính sách xã hội, đến ban hành hệ thống pháp
luật an sinh xã hội và kiểm tra việc tổ chức, thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã
hội.
Nhà nước phải giữ quyền quản lý thống nhất trong tay, đồng thời phải giao quyền hạn
và trách nhiệm giải quyết cho các địa phương, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong xã
hội. Nhà nước quản lý thống nhất và tổ chức thực hiện an sinh xã hội nhưng cần giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể xã hội
khác, đồng thời thu hút họ cung tham gia xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện cho
thành viên trong xã hội.
Đảm bảo tính linh hoạt
Quản lý Nhà  nước mang tính quyền lực đặc biệt và tính tổ chức rất cao không thể
thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo. Chỉ có như vậy, hệ thống chính sách an sinh xã hội mới
luôn theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của điều kiện kinh tế - xã hội  mà không cần phải
thay đổi quá nhanh chóng và liên tục. Đồng thời, Nhà nước mới phát huy được tính chủ

9
động, sáng tạo, linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động lực lượng phát huy
sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực thi chính sách an sinh xã hội.
 Cơ sở quản lý nhà nước về an sinh xã hội
Định hướng và mục tiêu của nhà nước
Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì để đánh giá sự phát triển của một
quốc gia, người ta không chỉ căn cứ vào sự phát triển kinh tế đơn thuần mà còn căn cứ
vào một số chi tiêu khác, trong đo có tỷ lệ đói nghèo, hệ thống an sinh xã hội...Như vậy,
đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn, phải quán triệt định
hướng và mục tiêu Nhà nước. 
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền, Nhà nước là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị nước ta, là cơ sở
để tạo sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội, cúng như lôi cuốn được
đông đảo nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ quản lí Nhà nước. Đây là một trong
những nhân tố vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và quản lí hệ thống an sinh xã hội
quốc gia. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện những mục tiêu chiến lược về hệ thống an
sinh xã hội thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược, định hướng...Nội dung quản lí
Nhà nước về an sinh xã hội phải căn cứ vào đường lối, chủ trương và định hướng đó của
Đảng. Nhà nước phải quán triệt thật tốt chủ trương của Đảng "Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”. Có thể nói, khi bước sang thế kỉ
XXI, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, chính trị xã hội ổn định, vị
thế nước ta được nâng cao trên trường quốc tế, nhân dân ngày càng tin tưởng vào đường
lối đổi mới. Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh
đạo và quản lí về mọi lĩnh vực, trong đó có an sinh xã hội.
Luật pháp quốc gia và chuẩn mực quốc tế
Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính chất bắt buộc nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội, do Nhà nước ban hành để thể hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước đảm
bảo thực hiện. Trong quá trình quản lí Nhà nước về an sinh xã hội đòi hỏi các cơ quan

10
Nhà nước không được thực hiện một cách chủ quan, tùy tiện mà phải dựa vào pháp luật,
làm đúng pháp luật của Nhà nước.
Ở nước ta, pháp luật Nhà nước được xây dựng và phát triển theo định hướng của
Đảng; là một hệ thống pháp luật thống nhất, các ngành luật đều có mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ, trong đó Hiến pháp có tính pháp lí cao nhất. Luật về an sinh xã hội có sự ràng
buộc trong thể thống nhất với nhiều bộ luật khác có đối tượng điều chỉnh tương đối gần
gũi với luật an sinh xã hội như luật Hành chính, luật Lao động...Do đó, quản lí Nhà nước
về an sinh xã hội phải dựa trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia hiện hành.
Tuy nhiên, hệ thống an sinh xã hội quốc gia lại ràng buộc trong mối quan hệ quốc tế
thông qua hệ thống các chuẩn mực quốc tế về an sinh xã hội nhằm đảm bảo dù an sinh xã
hội được thực hiện ở quốc gia nào, trong điều kiện cụ thể nào cũng đều nhằm đạt mục
tiêu bảo vệ an toàn cho tất cả các thành viên trong xã hội trước mọi rủi ro, không để họ
rơi vào cảnh bần cùng hóa, tạo nên một xã hội đồng thuận, công bằng, ổn định và phát
triển bền vững. an sinh xã hội là hệ thống gồm nhiều chính sách hợp thành nên hệ thống
các chuẩn mực quốc tế về an sinh xã hội rất phong phủ như hệ thống công ước của ILO
về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội; hệ thống tiêu chuẩn, chuẩn nghèo quốc tế.v.v. Vì vậy,
quản lí Nhà nước về an sinh xã hội phải dựa trên cơ sở kết hợp giữa các chuẩn mực quốc
tế và pháp luật quốc gia.
Điều kiện kinh tế xã hội
Sự ra đời và phát triển của hệ thống an sinh xã hội có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của quốc gia trong từng thời kì. Khi kinh tế - xã hội cảng
phát triển thì vấn đề an sinh xã hội càng trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm đặc biệt
của toàn xã hội. Hàng loạt các vấn đề về an sinh xã hội nảy sinh trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực BHYT và an sinh xã hội cho người nghèo, cho các
nhóm cư dân bị thiệt thòi như trẻ em, người già, người khuyết tật.v.v. kinh tế - xã hội
phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của an sinh xã hội như thu nhập gia
tăng, nhiều người dân có điều kiện tham gia an sinh xã hội; khoa học kỹ thuật phát triển
làm cho việc thực hiện và quản lí hệ thống an sinh xã hội dễ dàng hơn, chặt chẽ hơn;
nhận thức của người dân về quyền lợi và trách nhiệm của họ đối với an sinh xã hội cũng

11
rõ ràng hơn..Mặt khác kinh tế - xã hội phát triển đòi hỏi hệ thống chính sách an sinh xã
hội phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng được nhu cầu thực tế. Ví dụ,
cạnh tranh gay gắt khi gia nhập WTO có thể làm cho một số doanh nghiệp nước ta, trước
hết là các doanh nghiệp vẫn tồn tại dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp
có công nghệ sản xuất kinh doanh lạc hậu rơi vào cảnh khó khăn, phá sản, kéo theo đó là
tình trạng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Do đó, khi hoàn thiện và
phát triển hệ thống an sinh xã hội trong điều kiện mới đòi hỏi phải tính đến việc xử lí vấn
đề lao động bị nghỉ việc, mất việc làm trong các lĩnh vực, các ngành có sức cạnh tranh
kém, các lĩnh vực, các doanh nghiệp được Nhà nước bảo hộ trước đây. Khi nước ta đạt
được những tiến bộ về mặt kinh tế - xã hội thì việc cung cấp an sinh xã hội cần phải theo
kịp nhằm trợ giúp cho một lực lượng dân số đang gia tăng và đầy năng động thông qua
các chương trình được lồng ghép tốt phục vụ các chính sách về y tế, chăm sóc trẻ em,
giáo dục, đảm bảo việc làm và lương hưu...Tóm lại, quản lí Nhà nước về an sinh xã hội
phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, phải biết kết hợp hài hòa
giữa chính sách kinh tế và chính sách an sinh xã hội.
Nhận thức của công chúng về an sinh xã hội
Nhận thức của công chúng là một trong những cơ sở đòi hỏi quản lí Nhà nước về an
sinh xã hội luôn phải quan tâm. Mỗi xã hội là một cộng đồng người đông đảo và phức
tạp. Trong đó, mỗi thành viên sẽ có những hoàn cảnh, khả năng và nhu cầu khác nhau:
người giàu, kẻ nghèo; người thu nhập cao, kẻ thu nhập thấp; người có việc làm, kẻ thất
nghiệp...Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì sự phân cực này của xã hội sẽ
càng lớn theo. Khi đó, an sinh xã hội sẽ phải do toàn xã hội cùng gánh vác dưới sự quản
lí thống nhất của Nhà nước và nhận thức của công chúng về an sinh xã hội sẽ đóng vai trò
quan trọng trong sự thành công của quản lí Nhà nước về an sinh xã hội.
Thật vậy, để mọi thành viên trong xã hội cùng tự nguyện, tự giác tham gia vào hệ
thống an sinh xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh luật an sinh xã hội thì trước tiên họ phải
hiểu về hệ thống an sinh xã hội. Một khi họ chưa hiểu hoặc hiểu không cặn kẽ thì họ sẽ
không tham gia hoặc tham gia theo cách thức đối phó. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay, mặc
dù điều kiện kinh tế - xã hội đã tương đối phát triển, nhận thức của người dân về bảo

12
hiểm xã hội đã được nâng lên nhưng cũng còn không ít bộ phận người lao động còn chưa
hiểu hoặc chỉ hiểu chút ít về bảo hiểm xã hội. Do đó, họ chỉ tham gia vi pháp luật bắt
buộc còn không hiểu họ sẽ có quyền gì khi đã tham gia; hoặc có rất nhiều người không
biết rằng mình phải tham gia bảo hiểm xã hội và có quyền yêu cầu người sử dụng lao
động phải tham gia bảo hiểm xã hội mình. Thêm nữa, muốn đảm bảo nguyên tắc “Nhân
dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí”, muốn nhân dân tham gia vào quá trình
quản lí Nhà nước về an sinh xã hội thì đòi hỏi người dân phải có nhận thức đúng đắn về
hệ thống an sinh xã hội.
Như vậy, quản lí Nhà nước phải lấy nhận thức của công chúng về an sinh xã hội làm
cơ sở để từ đó chiến lược, chính sách phát triển thích hợp và phải thường xuyên tuyên
truyền để nâng cao nhận thức của toàn xã hội về an sinh xã hội.
1.3. Nội dung chủ yếu của quản lý Nhà nước về an sinh xã hội
Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển an sinh xã hội
Chiến lược, kế hoạch phát triển an sinh xã hội là một trong những công cụ quản lí của
Nhà nước về an sinh xã hội. Chiến lược và kế hoạch có sự khác nhau rất lớn về phạm vi,
quy mô và thời gian tác động. Tuy nhiên, khi nói đến hai khái niệm này đều muốn nói tới
dự kiến phát triển hệ thống an sinh xã hội trong tương lai. 
Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển an sinh xã hội có ý nghĩa quan trọng đối
với sự thành công của hệ thống an sinh xã hội. Chiến rát lược và kế hoạch sẽ chỉ rõ mục
tiêu, hướng đi đúng đắn cho hệ thống an sinh xã hội, đồng thời giúp Nhà nước có các
bước đi và giải pháp thích ứng được với sự biến đổi của xu hướng phát triển KT- XH nói
chung và an sinh xã hội nói riêng.
Hoạch định hệ thống chính sách an sinh xã hội
Để cụ thể hóa chiến lược và kế hoạch an sinh xã hội, Nhà nước phải hoạch định chính
sách an sinh xã hội. Đây là mắt xích đầu tiên rất quan trọng của chu trình chính sách an
sinh xã hội quốc gia. Hoạch định hệ thống các chính sách an sinh xã hội là một quá trình
trong đó các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu tìm ra vấn đề cần giải quyết của hệ
thống an sinh xã hội quốc gia, đề xuất ra các mục tiêu, giải pháp, công cụ để đạt mục tiêu,
trình lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thông qua và ban hành dưới hình thức văn bản

13
quy phạm pháp luật. Kết quả tốt nhất của quá trình hoạch định hệ thống các chính sách
bảo hiểm xã hội là tạo ra các chính sách an sinh xã hội phù hợp và đáp ứng được các yêu
cầu nhất định của sự phát triển hệ thống an sinh xã hội quốc gia trong từng thời kỳ.
Ban hành văn bản pháp quy
Để chính sách thực sự đi vào đời sống xã hội Nhà nước ban hành hệ thống văn bản
pháp lý về an sinh xã hội nhằm thể chế hóa các chính sách an sinh xã hội. Thực chất là
ban hành các văn bản pháp quy tạo khuôn khổ pháp luật cho hệ thống an sinh xã hội phát
triển trong thực tế. Hệ thống văn bản pháp quy hoàn chỉnh gồm luật và văn bản dưới luật
nhằm biến những chủ trương, chính sách an sinh xã hội thành những điều quy định bắt
buộc các bên tham gia phải nghiêm chỉnh thực hiện và đề ra các chế tài xử phạt thích
ứng. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội đa dạng đòi hỏi hệ thống văn bản pháp quy
phải được ban hành đầy đủ và kịp thời.
Tổ chức bộ máy, hướng dẫn, giám sát, thanh tra và kiểm tra thực hiện chính sách an
sinh xã hội
Đây là quá trình tổ chức bộ máy thực hiện chính sách và nhằm đảm bảo các cơ quan
quản lý Nhà nước về an sinh xã hội thực hiện đúng chức năng, đúng thẩm quyền, tuân thủ
quy định của pháp luật về an sinh xã hội, pháp luật về thanh tra, kiểm tra và tuân thủ theo
sự phân cấp đã được quy định tại các văn bản pháp luật. Hướng dẫn, giám sát, thanh tra,
kiểm tra được tiến hành định kỳ hoặc bất thường khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật về an sinh xã hội. Cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức năng của mình, trước khi
tiến hành thanh tra, kiểm tra cần thông báo cho cơ quan quản lí Nhà nước đầu mối và cơ
quan, chính quyền địa phương biết để cùng phối hợp để việc thanh tra, kiểm tra nhanh
chóng và hiệu quả.

14
PHẦN 2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI
Ở VN
2.1. Thực tiễn quản lý nhà nước về ASXH ở VN
2.1.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách và văn bản pháp lý an sinh xã
hội ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội gồm tạo việc làm, bảo
hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và giảm nghèo do nhà nước làm chủ đạo, tạo ra một lưới an
toàn nhiều tầng cho tất cả các thành viên, các nhóm xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế,
dễ bị tổn thương khi bị suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập, khi gặp rủi ro, hoạn nạn, đau
ốm, bệnh tật,... an sinh xã hội còn nhằm nâng cao khả năng ứng phó khi mất việc làm,
đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân, và vì vậy, an sinh xã hội góp phần quan trọng
vào phát triển xã hội bền vững. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang tàn phá mạnh mẽ
trên quy mô toàn cầu, kinh tế suy thoái và tình hình an ninh quốc tế biến động khó lường,
an sinh xã hội trở thành một trụ cột quan trọng, góp phần ổn định chính trị-xã hội ở nhiều
quốc gia, khu vực trên thế giới.
Hệ thống an sinh xã hội nước ta là một ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, như được
ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Việt Nam. Bản Hiến pháp công nhận
quyền được hưởng bảo hiểm xã hội của công nhân viên chức nhà nước, chăm sóc những
người già cả, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Truyền thống nhân ái, sẻ chia, “lá lành
đùm lá rách” được nhấn mạnh trong các hoạt động tập thể và sinh hoạt cộng đồng. Ngay
từ trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, an sinh xã hội đã được quan tâm. Việc
khám chữa bệnh, học hành, phân công việc làm được nhà nước đảm bảo và dựa trên
nguồn lực bao cấp. Bảo trợ xã hội trong giai đoạn này tuy ở mức tối thiểu nhưng đã góp
phần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bước sang giai
đoạn phát triển kinh tế thị trường, an sinh xã hội theo mô hình bao cấp không còn phù
hợp, đòi hỏi huy động các nguồn lực trong xã hội, với sự tham gia của những chủ thể
ngoài nhà nước, cũng như nhận thức đầy đủ hơn về sự vận hành bền vững của hệ thống
an sinh trong dài hạn.

15
ASXH ngày nay được đảm bảo và trở thành quyền hiến định tại điều 34 của Hiến pháp
2013: “Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội”. Chiến lược an sinh xã hội giai
đoạn 2011-2020 xác định: “An sinh xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi
thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện
pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh
kế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ một trong
những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, đó là “Quản lý phát triển xã
hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc
làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn
diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng còn
đề cập khá cụ thể những vấn đề cần tiếp tục đổi mới như chính sách bảo hiểm thất
nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động khu vực phi chính thức; thực hiện các biện pháp
chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm,... Qua đó, xác định đúng vị trí, vai trò của
an sinh xã hội đối với sự phát triển đất nước, phù hợp với tình hình mới, là cơ sở và điều
kiện để người dân được thụ hưởng nhiều hơn thành quả tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các chủ trương, chiến lược phù
hợp, từng bước đáp ứng các nhu cầu an sinh như hỗ trợ việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, và các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo
dục, nhà ở, nước sạch, thông tin, v.v...). Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người
càng trở nên phong phú, nhu cầu an sinh xã hội chưa được đáp ứng của các tầng lớp dân
cư trở nên đa dạng. Do đó, đối tượng thụ hưởng được mở rộng cùng với việc nâng cao
chất lượng dịch vụ công, hướng tới mục tiêu công bằng cho tất cả mọi người. Công bằng
xã hội vừa là mục đích, vừa là sự biểu hiện tập trung nhất mục đích của an sinh xã hội, đó
là thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người, trợ giúp các nhóm yếu thế, dễ bị
tổn thương nhằm tạo dựng bao trùm xã hội.
Để có một hệ thống an sinh xã hội bền vững ở Việt Nam thì cần định rõ vị trí của an
sinh xã hội trong chiến lược phát triển, tăng cường chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nước,
doanh nghiệp, người dân, cộng đồng và các tổ chức xã hội, trong đó nhà nước là chủ thể

16
chính với vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó mở rộng độ che phủ, bảo đảm cho mọi người
dân đều có quyền và trách nhiệm tham gia, thụ hưởng và chia sẻ lợi ích của an sinh xã
hội. Cần ưu tiên các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không loại trừ hay bỏ sót đối tượng
nào, dựa trên sự kết hợp đồng bộ ba chức năng phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và
khắc phục rủi ro của an sinh xã hội.
Ví dụ:
 Giai đoạn 2021 – 2030 là giai đoạn có tính bứt phá về phát triển kinh tế - xã hội đất
nước theo hướng tăng trưởng sáng tạo và bảo đảm an sinh xã hội (ASXH). Bởi vậy, Nhà
nước đã xây dựng chiến lược an sinh xã hội theo cách tiếp cận mới:
- Phương hướng tiếp cận:
+ Xây dựng theo cách tiếp cận mọi người dân thực sự có quyền được bảo đảm an sinh
xã hội: lấy các tiêu chuẩn về quyền được bảo đảm an sinh xã hội của con người làm cơ sở
xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình
hành động hướng đến thúc đẩy đạt được kết quả là bảo vệ con người.
+ Tiếp cập chuẩn mực quốc tế về bảo đảm an sinh xã hội và phù hợp với xu hướng
chung của các nước trên thế giới: tiếp cận dựa trên quyền được tiêu chuẩn hóa và quy
định trong nhiều công ước quốc tế của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
+ Tiếp cận kế thừa và tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội hiện hành.
- Định hướng chiến lược:
+ Xây dựng chuẩn an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
giai đoạn 2021 – 2030 và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.
+ Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có khả
năng hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau.
+ Phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ,
cân bằng với phát triển và hoàn thiện hệ thống chăm sóc xã hội đáp ứng nhu cầu cung cấp
dịch vụ ngày càng tăng của người dân.
+ Cơ cấu lại nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội
+ Đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý lĩnh vực an sinh xã hội.

17
Bên canh việc xây dựng các chiến lược an sinh xã hội, nhà nước cũng xây dựng các
chính sách để xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng
diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư
trong một thế hệ và giữa các thế hệ. Theo đó, chính sách an sinh xã hội tập trung vào các
nội dung:
(1) Tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền
vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản
xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động.
(2) Mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm thất nghiệp.
(3) Hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho
người dân khi gặp các rủi ro, như: mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo,…
do ngân sách nhà nước bảo đảm.
(4) Tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như: giáo
dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin…
Mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm toàn diện và tốt hơn quyền con người, góp phần phát triển
bền vững đất nước. Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về lĩnh vực an sinh xã hội; nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa;
phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân,
chăm lo cho con người, tạo động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền an sinh xã hội cơ bản cho người
dân: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34); “Nhà nước tạo bình
đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”
(Điều 59). Trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020” cũng
đặt ra yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

18
Phấn đấu đến năm 2030, cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân
với các yêu cầu: bảo đảm cho người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo
hiểm xã hội; bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm cho
người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an
toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ
sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
nâng cao mức sống người có công.
Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội.
Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc
thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số… Khuyến khích nâng cao
khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân… Mở rộng đối tượng tham gia, nâng
cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo
hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng
cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội….
Thể chế hóa quan điểm của Đảng và thực hiện Hiến pháp năm 2013, việc bảo đảm an
sinh xã hội cho mọi người dân được thực hiện đồng bộ, thông qua tăng cường phát triển
việc làm, mở rộng sự tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cải cách
chính sách trợ giúp xã hội và giảm nghèo bền vững. Hệ thống pháp luật cũng từng bước
được hoàn thiện để bảo đảm quyền an sinh xã hội cho mọi người dân.
Theo đó, các nội dung phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động
của các đối tác tham gia thị trường lao động (nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi
giới trung gian và người lao động); tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao
động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm; tiếp tục mở
rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc
trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia
bảo hiểm thất nghiệp) đã được chú trọng.

19
Đồng thời, mở rộng sự tham gia của người dân vào bảo hiểm y tế (hoàn thiện chế độ
đóng, chế độ hưởng và điều kiện hưởng bảo hiểm y tế); mở rộng đối tượng được Nhà
nước bảo hộ một phần và toàn phần để tham gia bảo hiểm y tế; mở rộng diện tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên;
hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều
kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; hiện đại hóa
công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Các chính sách an sinh xã hội cụ thể mà nhà nước ban hành có thể kể đến như:
-  Tăng trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu: Theo Nghị định số
20/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo
trợ xã hội, từ ngày 1/7/2021, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ cấp xã hội lên 360.000
đồng/tháng, thay mức 270.000 đồng hiện nay. Theo đó, các đối tượng người cao tuổi
thuộc đối tượng bảo trợ xã hội sẽ được trợ cấp xã hội hàng tháng.
- Thêm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội, cấp thẻ BHYT miễn phí: Nghị định số
20/2021/NĐ-CP, từ ngày 1/7/2021, bổ sung thêm một số đối tượng được hưởng trợ cấp
xã hội, được cấp thẻ BHYT miễn phí.
- Người có công và thân nhân được hưởng chính sách BHYT: Kể từ ngày 1/7/2021,
Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 02/2020/UBTVQH14 chính thức có
hiệu lực. Theo Pháp lệnh mới, chính sách BHYT đối với người có công với cách mạng.
- Tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội: Theo Nghị định 108/2021/NĐ-CP điều
chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng, những người đang
hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng sẽ được tăng thêm 7,4%
so với tháng 12/2021. Mức tăng này sẽ áp dụng từ ngày 1/1/2022.
- Thu nhập dưới 2 triệu đồng/tháng ở thành phố được coi là nghèo: Theo Nghị định
07/2021/NĐ-CP về chuẩn nghèo đa chiều, thay thế cho Quyết định 59/QĐ-TTg được ban
hành năm 2015.
- Thay đổi cách tính thuế với người cho thuê nhà: Có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 là
Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế GTGT,

20
thuế TNCN và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh với quy định mới về cách tính thuế đối
với người cho thuê nhà.
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp lý về an sinh xã hội
hướng tới xây dựng một hệ thống an sinh xã hội bền vững, đảm bảo công khai ,minh
bạch, tiêu biểu có thể kể đến như: 
- Bộ Luật lao động 2019: Khoản 3 Điều 93, Khoản 1 Điều 174,....
- Các quy định về điều kiện hưởng, thời gian hưởng, mức hưởng và các quy trình, thủ
tục để được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, bảo hiểm xã hội một lần (Khoản 7 Điều 18,
Điều 23 theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014); các thông tin liên quan đến mức đóng, mức
hưởng, điều kiện hưởng và các quy trình, thủ tục để được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn,
bệnh nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 62, Điều 84 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015),
các vấn đề về chế độ bảo hiểm thất nghiệp nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi bị mất việc làm, hỗ trợ những người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm
việc làm (Điều 29, Điều 36 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP); các quy định về đối tượng
hưởng, mức đóng, mức hưởng và các chế độ khác của Bảo hiểm y tế (theo Luật Bảo hiểm
y tế 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
- Các chế độ và quy trình, thủ tục xác định đối tượng hưởng trợ cấp xã hội bằng tiền
mặt hàng tháng tại cộng đồng, chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã
hội công lập và ngoài công lập, chính sách trợ giúp xã hội đột xuất khi gặp sự cố bất ngờ
(Điều 3 Nghị định  số 136/2013/NĐ-CP; Điểm b khoản 4 Điều III Quyết định số
488/QĐ-TTg năm 2017 phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn
2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030” ).
- Quyết định số 31/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Quy định việc công khai,
minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội.
- Các thông tin liên quan đến mức đóng, mức hưởng, điều kiện hưởng và các quy trình,
thủ tục để được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn, bệnh nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 62,
Điều 84 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015), các vấn đề về chế độ bảo hiểm thất
nghiệp nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ
những người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm (Điều 29, Điều 36 Nghị

21
định số 28/2015/NĐ-CP); các quy định về đối tượng hưởng, mức đóng, mức hưởng và
các chế độ khác của Bảo hiểm y tế (theo Luật Bảo hiểm y tế 2008 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2014).
- Điều 4 Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và
Quỹ quốc gia về việc làm.
- Các quy định về điều kiện hưởng, thời gian hưởng, mức hưởng và các quy trình, thủ
tục để được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, bảo hiểm xã hội một lần (Khoản 7 Điều 18,
Điều 23 theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014).
2.1.2. Tổ chức bộ máy, hướng dẫn thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chính sách an sinh xã hội được thực hiện bởi nhiều cơ quan, đơn vị khác
nhau. Tuy nhiên, chính phủ là cơ quan chủ trì quản lý và thực hiện chính sách này, với sự
hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức xã hội.
Cụ thể, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam gồm:
 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: là cơ quan có trách nhiệm chủ trì thực hiện
chính sách an sinh xã hội trên toàn quốc, định hướng, xây dựng và triển khai các chương
trình, dự án về an sinh xã hội. Bộ còn quản lý các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thai sản.
 Bộ Tài chính: là cơ quan có trách nhiệm đảm bảo nguồn vốn cho các chính sách an
sinh xã hội, định hướng về thu, chi ngân sách, quản lý các quỹ hỗ trợ an sinh xã hội.
 Bộ Y tế: là cơ quan có trách nhiệm thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, quản lý hệ
thống y tế, cung cấp dịch vụ y tế cho người dân.
 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: là cơ quan có trách nhiệm xây dựng và
thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội cho người nghèo, gia
đình chính sách và các đối tượng khó khăn tại vùng nông thôn.
 Các địa phương: cùng với cơ quan trung ương, các địa phương cũng đóng vai trò
quan trọng trong thực hiện chính sách an sinh xã hội. Các địa phương có trách nhiệm
triển khai và quản lý các chính sách an sinh xã hội tại địa phương, cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ cho người dân.

22
 Các tổ chức xã hội: đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp với cơ quan nhà
nước thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ an sinh xã hội. Các tổ chức xã hội đóng vai
trò tư vấn, đề xuất các giải pháp để cải thiện chính sách an sinh xã hội, tăng cường thông
tin, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về các quyền lợi và trách nhiệm trong
chính sách an sinh xã hội.
 Hệ thống giáo dục: giáo dục về chính sách an sinh xã hội là một phần quan trọng
của việc nâng cao nhận thức và tăng cường đối tượng hưởng lợi từ các chính sách này.
Hệ thống giáo dục tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và truyền
thông các kiến thức về chính sách an sinh xã hội đến sinh viên và học sinh.
 Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam: là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh
vực an sinh xã hội, tập trung vào việc hỗ trợ cho trẻ em và gia đình khó khăn tại Việt
Nam.
 Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): là một tổ chức liên quan đến Lao động của Liên
Hợp Quốc, hoạt động tại Việt Nam để hỗ trợ chính phủ và các đối tác trong việc phát
triển và thực hiện các chính sách về lao động và an sinh xã hội.
 Các tổ chức phi chính phủ khác: ngoài Quỹ Bảo trợ trẻ em, còn có nhiều tổ chức
khác hoạt động trong lĩnh vực an sinh xã hội tại Việt Nam như Save the Children, Plan
International, World Vision, Oxfam, CARE International, UNICEF, v.v. Từng tổ chức
này có những hoạt động hỗ trợ an sinh xã hội cụ thể như hỗ trợ giáo dục, nước sạch và vệ
sinh, bảo vệ trẻ em và phụ nữ, phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người dân nghèo.
Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam được tổ chức rất chặt
chẽ và có sự phân cấp rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số hạn
chế và khó khăn nhất định. Do đó, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của chính sách
an sinh xã hội vẫn là một thách thức lớn đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Một số hướng dẫn về việc thực hiện chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam:
 Tìm hiểu về các chính sách an sinh xã hội hiện hành: Có thể tìm hiểu về các chính
sách an sinh xã hội hiện hành tại Việt Nam thông qua các trang web chính phủ, báo chí

23
hoặc các tổ chức địa phương. Nắm vững những điều này sẽ hiểu rõ hơn về các chính sách
và quy định áp dụng, cũng như các đối tượng được hưởng lợi.
 Tìm hiểu về các tổ chức và cơ quan liên quan: Ngoài chính phủ, còn có nhiều tổ
chức, cơ quan phi chính phủ và các tổ chức xã hội khác liên quan đến chính sách an sinh
xã hội. Tìm hiểu về các tổ chức này sẽ biết rõ hơn về các hoạt động và dịch vụ được cung
cấp, và tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ khi cần thiết.
 Tham gia vào các hoạt động của cộng đồng: Các hoạt động của cộng đồng như
tình nguyện, đóng góp, hỗ trợ gia đình nghèo, trẻ em và người cao tuổi, hoặc tham gia
vào các chiến dịch cộng đồng có liên quan đến chính sách an sinh xã hội, sẽ cảm nhận và
hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội, đồng thời có cơ hội góp phần xây
dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
 Trao đổi, tư vấn với các chuyên gia và cố vấn: Nếu có những thắc mắc hay cần tư
vấn về các chính sách an sinh xã hội, có thể trao đổi với các chuyên gia, cố vấn hoặc các
nhà nghiên cứu đang hoạt động trong lĩnh vực này. Họ sẽ cung cấp những thông tin, kiến
thức và giải pháp phù hợp.
 Tìm hiểu về các quyền lợi và trách nhiệm của mình: Cần phải biết rõ về các quyền
lợi và trách nhiệm của bản thân khi tham gia các chính sách an sinh xã hội. Ví dụ như
quyền hưởng lợi từ các chế độ bảo hiểm xã hội, trách nhiệm đóng góp các khoản tiền bảo
hiểm, hoặc quyền lợi của người lao động trong quá trình thực hiện chính sách.
 Tìm kiếm thông tin về các dịch vụ hỗ trợ: Việc tìm kiếm thông tin về các dịch vụ
hỗ trợ như tài chính, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và hỗ trợ tâm lý
sẽ tạo cơ hội hưởng lợi từ các chính sách an sinh xã hội và cải thiện cuộc sống của từng
người dân Việt Nam.
 Đóng góp ý kiến và đề xuất cải tiến chính sách: Đóng góp ý kiến và đề xuất cải
tiến chính sách an sinh xã hội thông qua các kênh phản ánh của chính phủ hoặc các tổ
chức xã hội. Điều này sẽ giúp cải thiện chất lượng và hiệu quả của các chính sách và đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu của người dân.

24
Tóm lại, để thực hiện chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam, có sự phối hợp và hỗ trợ
từ nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị khác nhau, với mục tiêu tạo ra một môi trường xã hội
bình đẳng, công bằng và phát triển bền vững.
2.1.3. Thanh tra, giám sát, kiểm tra thực hiện chính sách an sinh xã hội ở VN
Công tác kiểm tra được thực hiện bởi Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội và cơ
quan, tổ chức thực hiện việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng
góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân.
Ngoài ra, việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội cũng chịu sự giám sát
của các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên, tổ
chức xã hội, cơ quan truyền thông, báo chí và người dân.
Theo đó, quy định việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy
định pháp luật về an sinh xã hội nhằm đảm bảo tổ chức thực hiện các quy định này đúng
mục đích, đúng đối tượng; ngăn chặn những sai phạm và phòng, chống tham nhũng, lãng
phí trong việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội; giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân hiểu đầy đủ, chính xác về mục đích, ý nghĩa, nội dung quy định pháp luật, đối tượng
thụ hưởng, thứ tự ưu tiên, trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện quy định pháp luật về an
sinh xã hội; nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy
định pháp luật về an sinh xã hội; phòng ngừa vi phạm pháp luật; theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức thực hiện quy định pháp luật về
an sinh xã hội, đảm bảo tính chính xác, kịp thời và hiệu quả.
Chủ thể chịu trách nhiệm công khai, minh bạch là cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện
pháp luật về Bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm y tế; trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; ưu
đãi đối với người có công; vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng
góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm
trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo; hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và cơ
sở bảo trợ xã hội; các chương trình xã hội. Có thể lựa chọn trong số các hình thức công
khai, minh bạch: Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ sở
làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn

25
vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng; đăng tải trên trang thông tin điện tử (nếu có); cung cấp thông tin theo yêu cầu của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Những nội dung phải công khai bao gồm: Quy định pháp luật
an sinh xã hội; cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện quy định
pháp luật; điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng thụ hưởng; hồ sơ, quy trình, phương pháp
lựa chọn đối tượng thụ hưởng, thời hạn thực hiện; danh sách đối tượng, thứ tự ưu tiên,
mức được thụ hưởng từ quy định pháp luật; báo cáo kết quả thực hiện quy định pháp luật
về an sinh xã hội trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày báo cáo quyết toán được phê duyệt.
Thời gian công khai, minh bạch ít nhất là 05 ngày kể từ ngày thực hiện.
Theo Quyết định, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm tổ chức kiểm
tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý
của mình trong việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội. Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội có trách nhiệm
thường xuyên tự kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, của cán bộ, công chức,
viên chức. Cơ quan, tổ chức thực hiện việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các
nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra đảm
bảo việc thực hiện đúng mục đích, đối tượng được thụ hưởng. Tùy theo tình hình thực tế,
người có trách nhiệm kiểm tra tổ chức việc kiểm tra dưới hình thức kiểm tra thường
xuyên và kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được kiểm tra có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời,
chính xác các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm tra theo quy định cho người
có trách nhiệm kiểm tra; giải trình về những vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm tra;
thực hiện kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm tra và chấp hành các quyết định xử lý kết
quả kiểm tra.
Người có thẩm quyền kiểm tra có trách nhiệm công khai kết quả kiểm tra và việc xử lý
kết quả kiểm tra; chấn chỉnh công tác quản lý việc thực hiện quy định pháp luật về an
sinh xã hội, hướng dẫn thực hiện đúng quy định pháp luật về an sinh xã hội; áp dụng các
biện pháp theo thẩm quyền để thu hồi tiền, tài sản bị thất thoát; trường hợp phát hiện có

26
hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà chuyển cơ quan
thanh tra hoặc cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.
Cũng theo Quyết định này, các cơ quan quản lý nhà nước về an sinh xã hội giám sát
việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội theo các văn bản pháp luật có liên
quan; Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội, các cơ quan
truyền thông, báo chí thực hiện giám sát theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình; công dân, cá nhân, tổ chức trực tiếp giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về
an sinh xã hội hoặc giám sát thông qua Ban thanh tra nhân dân theo quy định của pháp
luật. Nội dung giám sát là việc thực hiện công khai, minh bạch quy định pháp luật về an
sinh xã hội; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách
nhiệm thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội; danh sách đối tượng, thứ tự ưu
tiên, mức được thụ hưởng từ quy định pháp luật về an sinh xã hội; việc áp dụng quy định
pháp luật về an sinh xã hội với từng đối tượng cụ thể; tiến độ và tính kịp thời của việc tổ
chức thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội; kết quả, hiệu  quả của việc thực hiện
quy định pháp luật về an sinh xã hội…
Theo đó, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, chủ động quán triệt, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cán bộ, công nhân viên trong thực hiện các chính sách xã hội, xem
đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục; chủ động nắm bắt tình hình,
bám sát cơ sở, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh đột xuất; xây dựng các giải pháp
thiết thực chăm lo, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân trên
địa bàn, tập trung chỉ đạo, triển khai một số nội dung sau:
Tập trung nỗ lực cao nhất cho công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, thực hiện
nghiêm các quy định về phòng, chống dịch; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh
giác; đề cao trách nhiệm người đứng đầu, sẵn sàng ứng phó mọi tình huống, đồng bộ các
biện pháp thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19 tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình phụ trách nhằm bảo đảm vừa phòng, chống dịch,
vừa khôi phục sản xuất. Có kế hoạch cụ thể, bố trí cán bộ, công chức, viên chức, nhân
viên trực Tết để kịp thời xử lý, giải quyết hiệu quả công việc, tình huống phát sinh; thực

27
hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo trong dịp nghỉ Tết; hạn chế tối đa tổ chức các hoạt
động tập trung đông người để bảo đảm yêu cầu phòng, chống dịch.
Triển khai thực hiện đồng bộ các nội dung chỉ đạo của Ban Bí thư tại Chỉ thị số 11-
CT/TW ngày 08 tháng 12 năm 2021 “về việc tổ chức Tết Nhâm Dần năm 2022”; kiểm tra
việc thực hiện tốt công tác trợ giúp xã hội dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm 2022;
theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, thiên tai, rà soát, nắm bắt tình hình đời sống nhân
dân để có phương án trợ giúp kịp thời cho người dân bị ảnh hưởng, không để người dân
bị thiếu đói, để mọi người đều được đón Xuân, vui Tết, no ấm. Chủ động hướng dẫn các
đơn vị, địa phương thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi các đối tượng chín
Theo dõi, kịp thời cập nhật việc chi trả tiền lương, tiền thưởng cho người lao động tại
các doanh nghiệp trong dịp Tết Nguyên đán; tình hình biến động lao động trong các
doanh nghiệp, nhất là tại các khu công nghiệp sau Tết nguyên đán để có biện pháp hỗ trợ
kịp thời, đề xuất giải pháp xử lý những vấn đề mới phát sinh; giám sát chặt chẽ việc thực
hiện các quy định của pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
không để ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh và an ninh trật tự trên địa bàn.
Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh
phát triển nhanh và bền vững; thực hiện đầy đủ, đúng, kịp thời các chính sách về tạo việc
làm, y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng
bào dân tộc thiểu số, miền núi đã ban hành, đặc biệt là chính sách đối với người có công
với cách mạng, người già cô đơn, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn; lồng ghép các chương trình, dự án, nhất là đào tạo nghề, nâng cao kiến thức, trình
độ tay nghề, phát triển sản xuất kinh doanh gắn với các dự án vay vốn ưu đãi cho người
nghèo, cận nghèo, người mới thoát nghèo, người sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn để tạo việc làm tại chỗ, tham gia lao động trong tỉnh, ngoài tỉnh và tham gia
làm việc ở nước ngoài có thời hạn theo hợp đồng.
Phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội tăng cường,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra; tập trung vào lĩnh vực thực hiện
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chính sách bảo hiểm xã hội và trợ giúp
xã hội; thanh tra các doanh nghiệp có tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn, vệ sinh lao

28
động. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tại Hội thảo “Đổi mới và nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với thực
thi chính sách pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030” do
Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội phối hợp với Đại học Kinh tế Quốc dân tổ
chức vừa qua, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Bùi Sỹ Lợi đã đề xuất những giải pháp trọng tâm
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật về an sinh xã hội.
Sau khi ban hành các kế hoạch và văn bản chỉ đạo, trong quá trình triển khai thực hiện
chính sách an sinh xã hội, UBND thị xã và Phòng Lao động – Thương binh & Xã hội thị
xã thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra, giám sát UBND các xã, phường thực hiện
đúng tiến độ, kế hoạch đặt ra, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện chương
trình. Từ đó đã nhanh chóng phát hiện những thiếu sót, bất cập để bổ sung kịp thời những
chủ trương, giải pháp chỉ đạo thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn. Về thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo, công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện thường xuyên. UBND thị
xã, Uỷ ban MTTQ Việt Nam thị xã, Ban Chỉ đạo giảm nghèo thị xã và các xã, phường đã
tăng cường trách nhiệm, tổ chức kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến thôn, khối phố và công tác giúp hộ nghèo
đăng ký thoát nghèo. “Hộ nghèo cũng có đi kiểm tra. Ví dụ hộ nghèo họ đưa ra 10 người
thì mình cũng phải thẩm định hồ sơ để xem các hộ đó có đúng tiêu chí thoát nghèo của
mình không. Cùng phối hợp với các ban, ngành đi kiểm tra nông thôn mới, trong đó có
hộ nghèo”. Về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, UBND thị xã Điện Bàn thường
xuyên theo dõi và chỉ đạo chặt chẽ công tác phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội, BHTN, bảo hiểm xã hội tự nguyện; đôn đốc các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng
ký tham gia bảo hiểm xã hội, BHTN cho người lao động đầy đủ, kịp thời nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, chủ sử dụng lao động và nhân dân, bảo
đảm an sinh xã hội, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. UBND thị xã đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công
tác phát triển đối tượng, vận động người dân tham gia bảo hiểm xã hội, BHTN, bảo hiểm
xã hội tự nguyện; các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội và các xã, phường đã

29
tích cực kiểm tra, đôn đốc thực hiện, nhờ đó tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội,
BHTN, bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng dần qua các năm. Bên cạnh đó, UBND thị xã
cũng chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tổ chức kiểm tra, giám sát các đơn vị có dấu hiệu
vi phạm về việc trích đóng bảo hiểm xã hội, BHYT, BHTN cho người lao động.
2.2. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về an sinh xã hội ở VN
2.2.1. Ưu điểm 
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã thực hiện chỉ đạo chặt chẽ cùng với
những chính sách phát triển kinh tế - xã hội, qua đó nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao, bền vững và đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội của nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng góp phần khắc phục khó khăn, ổn định đời sống người
dân, cụ thể:
Thứ nhất, thành công của chính sách bảo hiểm xã hội. Việc chi trả bảo hiểm xã hội
bảo đảm đúng đối tượng, chính sách và là nguồn thu nhập đáng kể đối với các đối tượng
được hưởng. Hội nhập kinh tế, CMCN 4.0 có quy mô và tốc độ phát triển rất nhanh đã
tạo ra cơ hội thúc đẩy an sinh xã hội, như mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội... 
Thứ hai, hoạt động bảo trợ xã hội. Do việc mở rộng đối tượng hưởng chính sách cứu
trợ xã hội nên đã góp phần giúp những người yếu thế trong xã hội cải thiện được cuộc
sống, giảm bớt nghèo đói. Công tác xã hội hóa công tác cứu trợ đã huy động được nhiều
cá nhân, tổ chức xã hội có tấm lòng tương thân tương ái tham gia, nhằm giảm bớt khó
khăn trong cuộc sống của những người thiếu may mắn, đặc biệt là trợ cấp các trường hợp
rủi ro đột xuất khi bị thiên tai lũ lụt, bệnh tật hiểm nghèo,...
Thứ ba, chính sách với người có công với cách mạng đã được mở rộng đối tượng
hưởng, đã động viên, giúp đỡ kịp thời các đối tượng có tham gia cách mạng nhưng do
quy định nên trước đó chưa được hưởng chính sách đãi ngộ.
Thứ tư, các chính sách giảm nghèo ngày càng được đổi mới và hoàn thiện như: hỗ trợ
sinh kế, hỗ trợ giáo dục, giải quyết việc làm.... Đời sống của người dân ngày càng được
quan tâm, được trợ cấp thường xuyên, cuộc sống được cải thiện rõ rệt và hòa nhập tốt
hơn vào cộng đồng.

30
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc số đông trong phòng ngừa rủi ro toàn xã hội (nguyên
tắc đoàn kết). Nguyên tắc của an sinh xã hội là lấy số đông người đóng góp để phân tán
rủi ro cho số ít người, qua đó phòng ngừa rủi ro cho toàn xã hội. Vì thế, nhà nước luôn cố
gắng mở rộng mức độ bao phủ bảo hiểm xã hội, BHYT, số người tham gia càng lớn thì
tần suất rủi ro xảy ra với mỗi cá nhân càng ít và mức bù đắp khi bị rủi ro càng cao. Đồng
thời, phạm vi bao phủ hay số người tham gia càng rộng sẽ nâng cao được quy mô tài
chính của Quỹ an sinh xã hội, hạ thấp chi phí đơn vị của quản lý quỹ.
Thứ sáu, thống nhất được quyền lợi và nghĩa vụ. Sự vận hành của các quỹ an sinh xã
hội trong nền kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc “đóng - hưởng” của Nhà nước, xã
hội và cá nhân. Có đóng góp mới được thụ hưởng. Tỷ lệ đóng góp càng cao thì tỷ lệ thụ
hưởng càng cao. Điều này đúng với cả các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp
xã hội. Qua đó, giúp người tham gia vào hệ thống an sinh xã hội coi việc hoàn thành
nghĩa vụ đóng làm cơ sở để hưởng quyền lợi. Trong toàn hệ thống, coi trọng việc quản
lý, bảo toàn và tăng trưởng giá trị của quỹ. Nếu để sai sót ở khâu nào đó sẽ làm cho kết
quả hoạt động của quỹ an sinh xã hội bị thất thoát lớn, có nguy cơ mất cân bằng.
Thứ bảy, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội ở Việt
Nam. Kinh tế thị trường phát triển một mặt thúc đẩy sức sản xuất, tăng sức cạnh tranh,
nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế nhưng mặt khác nó cũng tạo ra những rủi ro xã
hội. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng là những mặt trái vốn có của nền kinh
tế thị trường không tránh khỏi. Chính điều này tạo nên sự bất ổn định xã hội, xung đột xã
hội. Và phát triển hệ thống an sinh xã hội là một trong các công cụ quan trọng của nước
ta trong việc đảm bảo công bằng xã hội, làm công cụ để giảm thiểu, hạn chế và khắc phục
những rủi ro, bất bình đẳng xã hội.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được hệ thống an sinh xã hội của nước ta vẫn còn có
những hạn chế cần khắc phục.
Thứ nhất, hệ thống an sinh xã hội chưa đồng bộ, một số chương trình mang tính khả
thi thấp. 

31
Hiện nay, những bộ phận cơ bản của hệ thống an sinh đã được thực hiện nhưng còn
chưa đầy đủ. Một số chương trình như bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế tự
nguyện rất khó có khả năng thực hiện nhưng cơ quan quản lý nhà nước chưa đưa ra các
biện pháp giải quyết nên tính khả thi của các chương trình này còn thấp. 
Việc xác định và theo dõi đối tượng tham gia an sinh xã hội có những nơi vẫn làm
chậm dẫn đến hạn chế trong thực hiện chính sách an sinh xã hội. Sự phối hợp giữa ngành
chủ quản với cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội và các địa phương chưa chặt chẽ, chưa chủ
động trong phối hợp giữa bảo hiểm xã hội tỉnh với cơ quan quản lý về bảo hiểm xã hội và
các tổ chức chính trị, xã hội địa phương để tuyên truyền, vận động và xử lý đối với các
đơn vị sử dụng lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Thứ hai, nguồn tài chính thực hiện các chương trình an sinh xã hội thiếu bền vững. 
Nguồn kinh phí phân bổ cho các chương trình an sinh xã hội thấp, trong khi số đối
tượng gia tăng, giá cả thị trường thay đổi mạnh. Đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội
bắt buộc được coi là loại hình an sinh xã hội có nguồn tài chính được đảm bảo nhất trong
các loại hình an sinh xã hội nhưng đôi lúc vấn đề bền vững về nguồn tài chính vẫn đứng
trước những khó khăn, thách thức, chưa có cơ chế đủ mạnh cho hoạt động đầu tư quỹ bảo
hiểm xã hội. Hiện tại, quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn, những hoạt
động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội trong thời gian qua còn đơn điệu. 
Đối với tài chính cho BHYT, theo quy định hiện hành, quỹ BHYT bắt buộc được hình
thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, ngân sách Nhà nước,
nguồn thu từ hoạt động đầu tư tiền nhàn rỗi và các nguồn thu khác. Tuy nhiên, trong thực
tế ngân sách Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quy mô quỹ bảo hiểm y tế. Quỹ
khám chữa bệnh BHYT mất cân đối thu – chi do nhiều nguyên nhân:
 Mức đóng bảo hiểm y tế của các đối tượng thấp so với mức gia tăng chi phí y tế và
giá cả khác, nhất là mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện và bảo hiểm y tế người nghèo.
 Cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ y, bác sĩ ở các cơ sở khám chữa bệnh,
bệnh viện có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ngày
càng cao của người dân, nhiều nơi người dân phải chờ rất lâu mới đến lượt khám bệnh. 

32
Các điểm, khu vui chơi cho trẻ em còn thiếu, đặc biệt là đối với các vùng nông thôn; tỷ
lệ cấp phường có khu vui chơi cho trẻ em còn ít. Nguyên nhân là nguồn kinh phí sự
nghiệp Bảo vệ chăm sóc trẻ em do ngân sách nhà nước cấp chưa đảm bảo, nhiều địa
phương chưa chủ động tích cực trong việc lập quy hoạch xây dựng các khu trung tâm vui
chơi, giải trí cho trẻ em.
Thứ ba, nhận thức về chính sách an sinh xã hội mặc dù được cải thiện nhưng vẫn
chưa đầy đủ. 
Công tác tuyên truyền từng lúc, từng nơi chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn mang tính
hình thức nên còn một số người dân chưa nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa và tính nhân
đạo, nhân văn của chính sách bảo hiểm y tế; chưa nhận thức được tinh thần cộng đồng
chia sẻ, ý thức quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nên chưa tích cực tham gia. 
Đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc, việc ban hành và thực thi chính sách bảo hiểm xã
hội trải qua một thời kỳ dài, song đến nay nhận thức của xã hội về chính sách này thường
rất hạn chế. Phần đông người lao động và người dân chưa hiểu biết về bản chất, vai trò
của chính sách bảo hiểm xã hội đối với đời sống người lao động cũng như đối với sự phát
triển của xã hội. Ngoài ra, người dân chưa có hiểu biết về bảo hiểm xã hội nói chung, bảo
hiểm xã hội tự nguyện nói riêng chiếm tỷ lệ khá cao, nhất là nông dân tự do mà nguyên
nhân là do trình độ dân trí thấp.
Trong lĩnh vực BHYT, tương tự như bảo hiểm xã hội, vẫn còn tình trạng chưa hiểu
biết đầy đủ về BHYT nói chung và BHYT tự nguyện nói riêng. Quỹ BHYT là quỹ tài
chính do những người tham gia đóng góp và để thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho
chính họ nếu rủi ro ốm đau. Do đó quỹ BHYT là nguồn tài chính có hạn, phụ thuộc vào
sự đóng góp của cộng đồng những người tham gia BHYT. Nhưng hiện nay vẫn còn nhiều
doanh nghiệp, nhiều người lao động không quan tâm đến việc đóng BHYT để được
hưởng quyền lợi khi ốm đau.
Trong chính sách trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội, nhận thức về trợ giúp xã hội vẫn
nặng nề các hoạt động nhân đạo từ thiện, “lá lành đùm lá rách”, chưa phải sự chia sẻ
trách nhiệm xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền của đối tượng và đảm bảo an toàn cho
mọi thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro. Bên cạnh đó, hiện nay nước ta đang còn là

33
một nước nông nghiệp, dân số nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng lớn. Tâm lý xã
hội “trẻ cậy cha, già cậy con” vẫn còn nặng; những hiểu biết và ý thức chấp hành pháp
luật về bảo hiểm xã hội thường chưa được đầy đủ, hoạt động nông nghiệp thường có thu
nhập thấp, do đó khả năng kinh tế tham gia an sinh xã hội thường gặp khó khăn.
Thứ tư, hệ thống văn bản pháp luật quy định về an sinh xã hội chưa đầy đủ và chưa
hoàn thiện. 
Nhiều cơ chế, chính sách mới được xây dựng và thực hiện cho bảo hiểm xã hội tự
nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, nhưng các quy định hướng dẫn thực hiện còn chưa được
hoàn thiện và kịp thời; chính sách BHYT thường xuyên thay đổi và có nhiều bất cập, gây
khó khăn cho việc tổ chức thực hiện ở cơ sở, một số chính sách chưa thu hút được sự
quan tâm và tham gia của người dân, trong khi đó việc nghiên cứu thử nghiệm, hoạt động
tuyên truyền, quảng bá và tư vấn chính sách chưa hiệu quả.
Thứ năm, năng lực tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội chưa theo kịp với yêu
cầu. 
Tính đa dạng của chính sách, tổ chức hoạt động, phục vụ chính sách an sinh xã hội
chưa cao. Tính liên thông và hỗ trợ lẫn nhau giữa các hình thức an sinh xã hội còn thiếu.
Điều đó gây tâm lý lo ngại và thiệt thòi về quyền lợi của người tham gia vào các chương
trình an sinh xã hội. Thiếu chế tài đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp phải thực hiện
nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, BHYT cho người lao động.
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về việc không tham gia bảo hiểm xã hội,
BHYT cho người lao động của các cơ quan chức năng quản lý về an sinh xã hội chưa
thường xuyên hoặc còn mang tính hình thức. Thực tế cho thấy, số doanh nghiệp đã thanh
tra, kiểm tra là rất ít so với yêu cầu. Trong chỉ đạo các cấp còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các ban, ngành, tổ chức đoàn thể nhất là trong việc thực hiện các giải pháp. Bên
cạnh đó, sự tự lực vươn lên của các hộ nghèo cũng chưa cao, còn trông chờ, ỷ lại vào sự
hỗ trợ của Nhà nước là nguyên nhân chính dẫn đến tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới.
Thứ sáu, thể chế tài chính còn nhiều vướng mắc. 
Trách nhiệm của một số địa phương, đơn vị trong thực hiện an sinh xã hội chưa cao.
Đối với bảo hiểm xã hội thì đã có văn bản hướng dẫn cụ thể việc chấp hành chế độ chi

34
tiêu theo quy định chưa triệt để, việc thanh quyết toán chi phí giữa cơ quan bảo hiểm xã
hội với các cơ sở y tế chưa kịp thời. Việc cấp thẻ, đổi thẻ bảo hiểm y tế của một số đối
tượng, nhất là ở miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tham gia BHYT và khó khăn, vướng mắc trong thực hiện khám chữa bệnh, thanh toán chi
phí khám chữa bệnh BHYT.
Tài chính cho trợ giúp xã hội còn thiếu công khai, minh bạch ở các cấp địa phương,
chưa xác định rõ tỷ lệ. Thể chế tài chính cho ưu đãi xã hội cũng rất bị động, chưa có các
dự báo và phương pháp tính toán khoa học cho trung hạn và dài hạn.
Thứ bảy, đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội còn thiếu và tính chuyên nghiệp
chưa cao. 
Đến nay, lượng cán bộ làm công tác an sinh xã hội của một số nơi còn rất ít và hầu như
còn thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhiều cán bộ làm công tác an sinh xã hội chuyển từ lĩnh
vực công tác khác sang. Việc tổ chức đào tạo cán bộ cho hệ thống an sinh xã hội chưa
được quan tâm đầu tư đúng mức. 
Nguyên nhân:
Trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề an sinh xã hội mới phát sinh, phức tạp,
khó có thể giải đáp, đưa ra biện pháp quản lý một cách nhanh chóng, toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội theo mô hình hiện này
chưa theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến
trình hội nhập quốc tế.
Cùng với sự phát triển thì đi kèm với đó là các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày
càng có xu hướng tăng, gây khó khăn trong quản lý hệ thống an sinh xã hội. Một số nơi
đang phát triển với điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế đặc thù, dễ gặp phải rủi ro về
thiên tai, lũ lụt, ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống, làm việc và thu nhập của người dân.
Trong khi đó, do nguồn lực còn hạn chế, nên chúng ta chưa thật chủ động bảo đảm an
sinh xã hội cho đông đảo dân cư.
Xây dựng mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp lý, chưa đảm bảo cuộc
sống cho các đối tượng tham gia. Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các

35
chế độ, chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập nên vẫn chưa thu hút được các đối
tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện.

PHẦN 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 
Một là, tiếp tục bảo đảm mục tiêu, định hướng an sinh xã hội đến năm 2025. Theo đó,
cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân, bảo đảm cho người dân tiếp
cận đến các chính sách việc làm, giảm nghèo, tham gia bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những
người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối
thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm
cuộc sống an toàn, bình đẳng của nhân dân.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm an sinh
xã hội. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội, trong
đó cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Cứu trợ xã hội, Luật Ưu đãi xã hội...;
nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về an sinh xã hội cộng đồng nhằm bảo đảm
cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định,
chính sách, chế độ an sinh xã hội.
Phối hợp đồng bộ chính sách an sinh xã hội với các chính sách kinh tế – xã hội khác,
như chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện các chương trình
hỗ trợ tích cực, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững

36
Ba là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, BHYT, bảo hiểm thất
nghiệp theo hướng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế; Có chính sách ưu tiên nguồn
lực tài chính cho an sinh xã hội, nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước dựa trên sự đóng
góp, chia sẻ của cộng đồng doanh nghiệp và khu vực tư nhân.
Bốn là, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính
sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên
tục, trên cơ sở đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt an
sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống cho người dân. Tăng cường thực hiện công
tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ
và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về các chính sách an sinh xã hội.
Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo nên nguồn lực to lớn của toàn xã hội
vì mục tiêu bảo đảm an sinh cho người dân, đồng thời có cơ chế phát huy sự tham gia của
xã hội và người dân trong việc thực hiện. Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách an
sinh xã hội trên từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích
hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho
người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội.
Năm là, chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát trong lĩnh vực an sinh
xã hội nhằm công khai, minh bạch an sinh xã hội của những chủ thể có trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ được giao, từ đó kịp thời phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp
luật.

37
KẾT LUẬN
Trong thế giới đương đại, phát triển an sinh xã hội bền vững thực chất là giải quyết hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội công bằng, vì con người.
Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững là vấn đề chiến lược, có vị trí quan trọng
trong tổng thể hệ thống quản lý phát triển xã hội bền vững của quốc gia nhằm xây dựng
một xã hội ổn định, hài hòa, đồng thuận, bao trùm, không có sự loại trừ, tạo động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước. Quản nhà nước về an sinh
xã hội bền vững cũng là chỉ báo thể hiện bản chất, tính ưu việt của một chế độ. Bất kỳ
một quốc gia nào muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải gắn kết chặt chẽ giữa quản
lý phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng kinh tế với quản lý phát triển xã hội, an sinh xã
hội bền vững.
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong
lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân,
thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh. Đảng và Nhà
nước ta cũng đã xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện

38
bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong
một thế hệ và giữa các thế hệ; không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
lĩnh vực ASXH; nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa; phát huy được sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, chăm lo cho con
người, tạo động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

39

You might also like