You are on page 1of 55

'NGƯỜI Ở BẾN SÔNG CHÂU' CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

Sương Nguyệt Minh là một trong những nhà văn quân đội tiêu biểu. Chính vì ông từng là người
lính, ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến.
Truyện“Người ở bến sông Châu”được viết vào tháng 6 năm 1997, sau thời kỳ chiến tranh. Chiến tranh
có lẽ đã kết thúc, nhưng những người sống sót vẫn phải chịu đựng những tổn thương về cả thể xác và
tâm hồn. Qua câu chuyện về dì Mây, tác giả đã chia sẻ cảm nhận sâu sắc về số phận của những người
vượt qua gian khổ chiến tranh.

Tác giả đã mô tả chân thực về số phận không may của con người qua nhân vật dì Mây. Dì Mây là
người phụ nữ mang tinh thần yêu nước và gan dạ. Dì Mây đã hy sinh thanh xuân tươi đẹp nhất để tham
gia cách mạng. Tác giả chỉ cần vài chi tiết để làm nổi bật tinh thần chiến đấu của dì

Từ chiến tranh trở về, dì Mây lại phải đối mặt với việc đi khập khiễng do bị 'mảnh đạn phạt một
chân'. Tóc đen óng mượt của dì trước kia giờ đây đã rụng thưa, xơ rối. Chiến tranh đã cướp đi vẻ đẹp
thanh xuân của dì Mây. Vết thương từ chiến trường không bao giờ biến mất, và chiếc nạng gỗ cùng
những vết thương trong tâm hồn vẫn ở lại mãi mãi.

Câu chuyện kịch tính ở chỗ: ngày dì Mây từ chiến trường trở về cũng là ngày chú San - người yêu
của dì - lại đi lấy vợ. Điều này khiến cho trái tim dì tràn ngập nỗi đau, và dì đi theo chú San về xóm trại
'im lặng, tập tễnh'. Trong cuộc trò chuyện với chú San, dì đã kìm nước mắt để từ chối tình cảm. Tác giả
tạo nên một tình huống trái ngược, đau lòng, nhằm làm nổi bật nỗi đau trong tâm hồn của nhân vật. Cảm
xúc ban đầu của dì Mây là hỗn loạn và xúc động, sau đó là nỗi đau khổ, sự thất vọng và xót xa. Dì Mây
vẫn yêu chú San, nhưng dì hiểu rằng dì phải buông tay để chú San được hạnh phúc. Đây là hình ảnh của
một người phụ nữ hi sinh tình yêu cá nhân để bảo vệ hạnh phúc của người mình yêu.

Dì Mây còn là người phụ nữ thủy chung. Trong những ngày ở Trường Sơn, trang nhật ký nào dì
cũng viết tên người yêu. Tình yêu và nhớ về chú San luôn hiện hữu trong tâm trí dì. Dì nghĩ rằng sau
chiến tranh sẽ có thể đoàn tụ với người yêu, nhưng thực tế làm cho dì đau đớn. Mặc dù cô từ chối tình
cảm của chú San, nhưng sau đó, dì vẫn luôn ở trong tâm trạng buồn bã, và còn có những suy nghĩ 'Dì
ngồi rất lâu trước ngọn đèn dầu tù mù [...] Dì ngồi như tượng', 'Dì thở dài, nuối tiếc. Đôi mắt nhìn xa
xăm'. Dường như kí ức về chú San vẫn ẩn sâu trong tâm hồn dì

Không chỉ vậy, dì Mây còn là người phụ nữ giàu lòng nhân ái, biết quan tâm đến người khác.
Trong những ngày chèo đò giúp ông, dì không lấy tiền của nhóm trẻ. Khi trạm xá thiếu người, dì đã
đồng ý làm y tá. Trong những đêm mưa, dì không ngần ngại vất vả để đến nhà khám chữa bệnh cho mọi
người. Dù bị mảnh đạn 'phạt một chân', tấm lòng của dì vẫn không biết ngừng. Khi nghe tin vợ chú San
vượt cạn thiếu tháng, dì đã cử động cứu giúp. Dì Mây ở trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng với tình yêu

1
thương, cô đã giúp vợ chú San vượt cạn thành công. Ngay cả khi thím Ba qua đời, dì vẫn nhận nuôi
thằng Cún. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh dì Mây ru thằng Cún ngủ. Hình ảnh ấn tượng này chứa
đựng nhiều cảm xúc, thể hiện tình yêu thương của dì dành cho đứa trẻ. Dì Mây là người phụ nữ với
nhiều phẩm chất tốt đẹp

-> dì Mây là biểu tượng của sức mạnh và lòng nhân ái, là ngọn đuốc sáng bừng lên giữa cơn bão tố
cuộc đời. Cuộc sống của dì Mây là một câu chuyện đẹp về lòng kiên trì, sự hy sinh và tình yêu thương
vô điều kiện. Câu chuyện nhắc nhở mỗi người hãy trân trọng và biết ơn những hy sinh của thế hệ đi
trước, để chúng ta có cuộc sống như ngày hôm nay

Nghệ thuật: cốt truyện kịch tích (dì Mây trở về đúng vào ngày chú San lấy vợ); sử dụng điểm nhìn
linh hoạt, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, nhiều hình ảnh biểu tượng như con đò, dòng sông, nghệ thuật
tả cảnh đặc sắc…

ĐÀN GHI TA CỦA LOR CA


Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng
đã tạo được giọng điệu riêng ngay từ khi trình làng thi phẩm đầu tiên "Dấu chân qua trảng cỏ"
rồi đến "Những người đi tới biển" sau đó là "Khối vuông ru-bích". Ông luôn tìm tòi khám phá
sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do đem đến một mĩ cảm hiện đại cho
thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghi ta của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy
sáng tạo ấy

Thanh Thảo mở đầu bài thơ bằng chính di nguyện của Lor-ca "Khi tôi chết hãy chôn tôi
với cây đàn". Đây là một di nguyện vừa thiêng liêng vừa cao thượng. Anh không muốn suốt đời
là cái bóng ngăn cản sự phát triển của những tài năng trẻ của đất nước mình. Đây chính là cái
tâm của người nghệ sĩ lớn suốt đời hi sinh cho nghệ thuật và đấu tranh chống phát xít bạo tàn. Về
một ý nghĩa khác, đàn ghi ta đã gắn với giây phút cuối cùng của cuộc đời Lor-ca. Cái chết của
người nghệ sĩ ấy và những phẩm chất tài năng của anh đã bắt gặp hồn thơ Thanh Thảo làm nên
thi phẩm tuyệt bút này.

Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng
chảy của cảm xúc không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ
như một bản đàn ngân vang với âm thanh "li-la" mênh mang dìu dặt vút cao chắp cánh đưa
người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn và chết chóc.

những tiếng đàn bọt nước


Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chuếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

2
Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi
với tiếng ghi ta làm mê say lòng người những vũ nữ Digan với làn da rám nắng và vũ khúc
Flamenco cháy bỏng những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu
những miền thảo nguyên bao la xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió giữa bao la thiên địa Lorca
hiện lên ngời sáng trong thơ.

Sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác tạo nên "tiếng đàn bọt nước" đầy biến
ảo khi tròn to khi phập phồng thổn thức khi vỡ ra tức tưởi như một "thiên bạc mệnh" có tính dự
báo về những chông gai trắc trở mà số phận người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và
màu "áo choàng đỏ gắt" tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy chính là những trận đấu bò sinh tử.

Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã trở thành một đấu
trường chính trị khổng lồ ngột ngạt căng thẳng đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu áo của
kiếm sĩ "đỏ gắt" lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm
hãm sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi.

Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân dân nói chung của
Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật đó là cuộc xung đột giữa
khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì Lorca
cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.

Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng vang lên âm thanh du dương bổng trầm của
tiếng đàn: li-la li-la li-la một thanh âm trong trẻo thanh tao quyện hòa mùi hương hoa Lila dìu
dịu lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa khung cảnh bạo tàn và chết
chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Nghệ thuật chính là sức
mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù. Và chàng nghệ sỹ Lorca đang thăng hoa trong bản hòa
tấu ghi ta đầy lãng mạn. Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người
nghệ sỹ trên hành trình "lang thang về miền đơn độc" cùng với "vầng trăng – yên ngựa". Đây là
một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ Lorca- chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa
đen/ vầng trăng đỏ" với những bản đàn ghita phiêu bồng cùng giấc mơ tranh đấu.

Trong thơ Thanh Thảo Lorca hiện lên với dáng điệu "chuếnh choáng". Đây là một hình
ảnh mang cái hồn say của người nghệ sỹ không phải cái say tầm thường của những cốc rượu
vang đỏ mà là say trong tranh đấu say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê
trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với giấc mơ hiệp sĩ thì Lorca mãi "mỏi mòn" trong
hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô.

Nhưng đáng thương thay trong hành trình khát vọng ấy Lorca là một nghệ sĩ cô đơn trong
sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì thế "con họa mi của xứ Granada
lại ngừng hót". Chàng vẫn "Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc như cẩm thạch" (Thơ
Lorca).

3
Càng chiến đấu Lorca càng say mê càng "hát nghêu ngao". Nhưng phũ phàng thay "đường
chỉ tay đã đứt" định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca phải dở dang hành trình khát vọng. Phát
súng của bọn phát xít đã đánh hạ Lorca. Cả dân tộc Tây Ban Nha «bỗng kinh hoàng", bàng
hoàng. «bỗng kinh hoàng". Cả thế giới nín lặng bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút cao lên
theo "máu anh phun như lửa đạn cầu vồng".

Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ
pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin tình yêu và lạc quan khát vọng "hát nghêu ngao"
với sự thật phũ phàng "áo choàng bê bết đỏ". Đó là màu máu của Lorca làm tấm áo choàng đỏ
gắt càng thêm "bê bết đỏ". Đối với Lorca anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể
ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế.

Anh đã từng thốt lên "Tôi không muốn nhìn thấy máu !". Nhưng máu đã đổ. Người chiến
sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc nhưng lại bị kẻ thù hành
hình một cách lén lút bất minh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã chấp nhận
"Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa". Và
vì chấp nhận người anh hùng đã ung dung bình thản ra giữa pháp trường "chàng đi như người
mộng du". Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến mất
khỏi thể xác.

Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du đã
hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại
càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu. Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ
phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được
sức sống của anh đang bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng ghi
ta nồng nàn vi diệu:

tiếng ghi-ta nâu


bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy

Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn
trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn nó thay màu chuyển gam rất
lẹ biến ảo không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở giọt này vỡ đi giọt kia lại trào ra không
dứt. Đó chính là sức sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh
hoạt khi miêu tả tiếng đàn.

Màu nâu xuất hiện suy tư trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn màu nâu của
đất đai màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút
từ li chàng đã ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết "bầu trời cô gái ấy". Đó là bầu trời của khát

4
vọng bầu trời yêu thương nơi có bóng hình nàng Maria thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm
tĩnh là màu xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy".

Màu xanh là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu
xanh của những vườn cam màu xanh của thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương
nơi Lorca đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm
của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ Lorca – vẻ đẹp của người
chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.

Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối đường nét như hình hài của
sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói
đúng hơn đó là tiếng kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.

tiếng ghi-ta tròn


bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy

Hai tiếng vỡ tan vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó
đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản
ghita bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn nó ròng ròng máu chảy nó uất nghẹn tức tưởi
đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của
tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành.

Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
"Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay". Nỗi đau của Kiều khi hầu
đàn Hồ Tôn Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và
tâm hồn của người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh. Với
thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn
đầy sức sống mãnh liệt.

không ai chôn cất tiếng đàn


tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo
cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết
tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang
dại của nó như loài cỏ mọc hoang không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử sự vĩnh
hằng của nghệ thuật.

Dù Lorca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình nghệ thuật
của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng

5
thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên toàn thế giới.

Không chỉ bất tử tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng
trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của
nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật
chân chính qua bao thời gian công sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của
giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết.

Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng
giữa đời. Bất ngờ thay nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp
được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Ở khổ cuối
của bài thơ Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của Lorca:

đường chỉ tay đã đứt


dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la

Và cuối cùng chàng nghệ sĩ đã dừng bước trước dòng sông của định mệnh khi đường chỉ tay đã
đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông
vô hình dung là dòng sông cuộc đời dòng sông của số phận và cũng là đường ranh giới ngăn
cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy Lorca đang bơi sang ngang cùng di vật đàn
ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và
cuối cùng là màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh.

Lorca đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng bạc chở tình yêu và
nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian
ném lá bùa vào xoáy nước ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự
hiểm nguy trên dòng sông của định mệnh?

Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng đập? Có lẽ ta không cần
phải lí giải về nó. Bởi Lorca đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm vọng
của tiếng đàn li-la li-la li-la như bản nhạc thiết tha thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila đưa
người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới
bài thơ Ghi nhớ của anh:

Khi nào tôi chết

6
hãy vùi thây tôi
cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi tôi xin các người đó
nơi một chiếc chong chóng gió.

Có lẽ ở một nơi nào đó chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy
ánh nắng của tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.

Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài Lorca bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc.
Với lối thơ không viết hoa đầu dòng cảm xúc liền mạch Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc
một mĩ cảm hiện đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và
sức sáng tạo của Thanh Thảo đã cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc.

Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân
chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người chiến thắng và kẻ bại trận
nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với chiến thắng vĩ đại
nhất. Gacxia Lorca là một người như thế.
…………………………………………
TÔI YÊU EM – PUSKIN

A Pu-skin (1799 – 1837) được coi là “mặt trời của thi ca Nga”-người đã có những đóng góp lớn
lao cho sự phát triển của nền văn học Nga và thế giới nửa đầu thế kỉ XIX. Mặc dù xuất thân từ
tầng lớp đại quý tộc nhưng cuộc đời Puskin lại gắn bó sâu sắc với số phận của nhân dân, đất
nước. Nhà thơ dũng cảm đấu tranh chống chế độ chuyên chế độc đoán của Sa hoàng. Những
sáng tác của Puskin thể hiện tâm hồn Nga đôn hậu, trong sáng, khao khát tự do và tình yêu.

Tình yêu là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, bất tận trong thơ Puskin. Vì thế nên thơ lãng mạn
của ông thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Puskin viết về tình yêu như một sự thôi thúc,
khám phá. Qua thơ ông, những cung bậc tình cảm đa dạng, những sắc thái cảm xúc phong phú,
những rung động thầm kín của con tim, những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu con người
được diễn tả vô cùng chân thực. Sức hấp dẫn tuyệt vời trong thơ tình yêu của Puskin chính là sự
chân thành, cao thượng được thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Tôi yêu em là bài thơ
thể hiện thành công điều đó.

7
Bài thơ dường như là lời từ giã của một mối tình đơn phương vô vọng. Điểm độc đáo là lời
từ giã này cũng chính là lời giãi bày, thổ lộ, bộc bạch của trái tim yêu luôn sôi nổi, nồng nàn.
Bài thơ hấp dẫn người đọc không phải bằng ngôn từ cầu kì, trau chuốt mà là bằng tình cảm chân
thành, xúc động, giống như những đợt sóng lúc sôi nổi dạt dào, lúc dịu êm, sầu lắng. Bố cục bài
thơ có thể chia làm ba phần:

Bốn câu đầu: Những mâu thuẫn giằng xé.

Hai câu giữa: Nỗi khổ đau tuyệt vọng.

Hai câu cuối: Sự cao thượng chân thành.

Nhân vật em trong bài thơ là Ô-lê-nhi-na, một thiếu nữ xinh đẹp mà Puskin yêu say đắm và
dã dành cho nàng những vần thơ ca ngợi. Mùa hè năm 1828, thi sĩ đã ngỏ lời cầu hôn nhưng
nàng không chấp nhận. Nỗi thất vọng đắng cay âm thầm ấy là nguyên nhân ra đời của bài thơ
nổi tiếng này.

Cảm xúc chủ đạo của bài thơ được nhấn mạnh qua điệp khúc Tôi yêu em. Ba lần điệp khúc
này vang lên, mỗi lần gắn với một cung bậc tình cảm và diễn biến tâm trạng khác nhau của nhân
vật trữ tình. Tình yêu mà thi sĩ dành cho người con gái ấy đã được thử thách qua thời gian. Thi
sĩ khẳng định thời gian không thể làm cho tình yêu ấy phôi pha và ngọn lửa tình yêu không bao
giờ tắt trong lòng mình. Đại từ em được dùng với ý trân trọng, tạo cảm giác vừa thán thiết, vừa
xa cách. Cụm từ Tôi yêu em mở đầu bài thơ là lời thú nhận tình yêu chân thành của nhân vật trữ
tình:

Tôi yêu em: đến nay chừng có thể

Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,

Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Âm điệu thơ ngập ngừng, đứt quãng, giống như nhịp đập bất thường của trái tim đang thổn
thức bởi trĩu nặng nỗi đau. Cảm xúc thơ dàn trải, lan toả, phù hợp với tâm trạng suy tư, trái trở,
day dứt của nhân vật trữ tình về tình yêu đơn phương của mình.

8
Những cụm từ có thể, chưa hẳn biểu thị tính chất khó xác định dứt khoát của tâm hồn, tình
cảm. Nhân vật trữ tình không giấu giếm những uẩn khúc trong lòng mình. Trong trái tìm thi sĩ,
hình bóng người con gái đáng yêu không dễ phai mờ và tình yêu dành cho nàng chưa hẳn đã tàn
phai bởi ngọn lửa si mê vẫn âm ỉ cháy. Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm được thể hiện khá rõ,
qua đó Puskin đã bày tỏ khát vọng tình yêu cùng những băn khoăn, day dứt trong tâm trạng của
nhân vật trữ tình – hình bóng của chính thi sĩ.

Đến câu thơ 3 và 4, mạch thơ đột ngột chuyển hướng. Cụm từ phủ định Nhưng không như
nhấn mạnh một quyết định dứt khoát: Nhân vật trữ tình tự buộc mình phải cố mà quên và dường
như đã phải dùng đến sự cương quyết của lý trí để chế ngự trái tim đang rớm máu. Tôi yêu em
tha thiết, nồng nàn nhưng lại không muốn em phải bận lòng thêm nữa.

Tình cảm của nhân vật em được hé mở qua hai từ: bận lòng và u hoài. Người đọc có thể
thấy được sự éo le trong quan hệ tình cảm của nhân vật trữ tình và thiếu nữ anh yêu. Tình yêu
của nhân vật trữ tình (Tôi) không đem lại niềm vui và hạnh phúc mà chỉ mang lại nỗi bận lòng
và sự u hoài cho em mà thôi. Đó là điều đau xót và đáng tiếc. Tôn trọng người mình yêu, nhân
vật trữ tình lòng tự nhủ lòng phải cố quên đi tình yêu đơn phương, cho dù nỗi khổ đau đang
giằng xé tâm hồn:

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,

Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,

Điệp khúc Tôi yêu em mở đầu khổ thơ thứ hai gắn liền với các động từ chỉ trạng thái. Mỗi
từ như cô đặc một trạng thái cảm xúc cụ thể: nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè
lẫn hậm hực lòng ghen. Chỉ qua hai câu thơ mà tưởng như những tình cảm giấu kín tận đáy sâu
tâm hồn đã được bày tỏ và thi sĩ đã thể hiện rất thật cảm xúc của mình lúc này Những từ phủ
định liên tiếp nhấn mạnh tính chất đơn phương của mối tình và cho thấy nhân vật trữ tình luôn
băn khoăn, đau khổ. Anh đã chân thành giãi bày tất cả những yếu đuối, bất lực, những góc
khuất của tâm hồn – một tâm hồn yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt trong vô
vọng, đắm đuối đến bối rối, âu lo, thắc thỏm; một tâm hồn vật vã trăn trở, day dứt, không biết
đến sự nhẹ nhõm, an bình, thanh thản. Câu thơ nói đến sự bị động tiêu cực mà lại làm hiện lên
những nhịp đập sôi nổi, mạnh mẽ tràn đầy sinh lực của trái tim yêu. Những từ lúc, khi góp phần
diễn tả biến động dồn dập trong cảm xúc của nhân vật trữ tình. Tôi biết em không nhớ tới tôi

9
nhưng lúc nào trái tim tôi cũng hướng về em, bồn chồn day dứt và cả sự hậm hực đến cồn cào
của lòng ghen bị dồn nén.

Trong tình yêu, yêu và ghét là hai trạng thái vừa đối lập vừa thống nhất, giống như hai mặt
của một tờ giấy. Ghét thực ra cũng là một biểu hiện của tình yêu nhưng xét về bản chất, đó là
biểu hiện của thứ tình yêu sở hữu ích kỉ. Lòng ghen tuông mù quáng dễ làm cho con người rơi
vào sự nghi kị thấp hèn. Đối với Puskin, ghen tuông gợi nỗi buồn đen tối. Nhấn mạnh lòng
ghen, câu thơ gợi tâm trạng nặng nề, u ám. Tưởng như nhân vật trữ tình đang rơi vào vực sâu
của nỗi đớn đau, tuyệt vọng.

Điệp khúc thứ ba Tôi yêu em gắn với hai câu thơ cuối:

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Cảm xúc bị kìm hãm trong hai câu thơ trước giờ đây như được giải tỏa bởi tình yêu cao
thượng, chân thành, đằm thắm. Nhịp điệu chậm rãi cùng âm hưởng da diết, sâu lắng góp phần
diễn tả cảm xúc thiết tha và đem lại cho câu thơ sức hấp dẫn lạ lùng, vượt lên nỗi buồn đau u
ám và lòng ghen tuông ích kỷ, nhân vật trữ tình cầu chúc: Cầu em được người tình như tôi đã
yêu em. Tuy nhiên, đây không đơn thuần chỉ là lời cầu chúc tế nhị thay cho lời vĩnh biệt một
tình yêu không thành mà còn vừa mang niềm nuối tiếc, xót xa vừa ẩn chứa sự tự tin và niềm
kiêu hãnh. Có thể sẽ chẳng có người nào yêu em chân thành, đằm thắm như tôi đã yêu em.
Cũng có thể tôi và em, chúng ta đã để mất một tình yêu quý giá chẳng thể tìm lại được bao giờ.
Câu thơ cuối là lời khẳng định, là sự thăng hoa của tình yêu cao thượng. Nó đã đưa tình yêu lên
ngôi, làm chói sáng nhân cách của con người.

Bài thơ Tôi yêu em đã phản ánh sinh động tâm hồn trong sáng và tình yêu chân thành của
nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình đã vượt lên thói ích kỷ thường tình để trao gửi đến người
mình yêu ước mong cho nàng được hạnh phúc. Chàng trai ấy đã giữ lại những khổ đau dằn vặt
cho riêng mình để dâng hiến cho người con gái mình yêu tất cả những gì đẹp nhất của tình yêu.
Dẫu là lời từ giã tình yêu song nỗi buồn ở đây không sướt mướt, ủy mị mà nhân hậu, vị tha. Đó
là tình yêu biết vượt qua những dục vọng ích kỷ của bản thân để cầu mong cho người mình yêu
được hạnh phúc.

10
TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH

"LÍNH ĐẢO HÁT TÌNH CA TRÊN ĐẢO"- TRẦN ĐĂNG KHOA

Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (puskin). Thơ là một thể loại văn học
thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người
trước cuộc đời. Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi
chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn
không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi là những cơn gió rít
lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện
lên đầy chất phác đến đáng yêu. Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi
vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình
ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy. nhí nhảnh, vui tươi. Trần Đăng Khoa
thật khéo léo khi khai thác đề tài người lính từ điều bình dị và thân thuộc. Qua tác phẩm này, ta càng
thêm trân trọng, biết ơn công lao to lớn của thế hệ đi trước.
Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc
sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse.
Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng
ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng
khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung
cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những
năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiện khắc
nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài
hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước. Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ
vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề
biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu
cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.

“Đá san hô kê lên thành sân khấu


Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa”
Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông
dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không
11
có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn. Nếu ta đã
quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ
Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ
quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về
người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ
và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước
thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi
liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ,
nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng biển
khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ
chốn hoang sơ của mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính. Ta đã quen với
một sân khấu với dàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở những
người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế.
Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi
biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc
sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển
đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn
ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời
phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho
sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với
cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không
kính của Phạm Tiến Duật:

“ Xe không kính không phải vì xe không có kính


Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”
Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó.

Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt
đến bội phần:

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng


Sỏi cát bay như lũ chim hoang
12
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác
bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo
mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong
lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh
khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế
nhưng thật thú vị, người lính nói về điều đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần
hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại
họ vẫn sống lạc quan yêu đời.

“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu


Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các
chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối
lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới
của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần đăng khoa đã mượn gian nan, khắc
nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người
lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu.
Sân khấu đứng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân
khấu ấy thiếu phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi.

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc


Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”

13
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trở người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà
còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi
biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm
thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng. Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của
những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da
thịt… ta mới hiểu được câu thơ “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu
trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong tây tiến của Quang Dũng:

“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc


Quân xanh màu lá giữ oai hùm…”
Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn
cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu”
trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại
nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây. Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm
đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy
còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu
nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn,
gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu
nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng
ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng.
Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng
chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng.
Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau lắng nghe khúc
tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có
lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm
dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa làm một, con
người là trung tâm của vũ trụ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm
ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì
thầm của biển cả.

Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế:

14
“Các giai điệu ngang tàng như gió biển
Những lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”
Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ
lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng
đậm hương vị mặn mà của biển. Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả
vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như
sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ
và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ
con tim của người chiến sĩ. Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm
gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống,
màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng
mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc
cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn.

“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo


Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”
Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì
chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được nắm tay người mình yêu
đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật
lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai
tiếng sóng vỗ rì rào. Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ
vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở

15
đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là
mây nước lồng lộng.

“Nào hát lên cho mấy nước biết


Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao
cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người
nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy. Lời hát cất lên như một lời thề son
sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn
đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi
đây. Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp
hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót


Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chững lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8
thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó
bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là
một câu cảm thán dùng ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện
thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu
nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng
để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu
sóng ngọn gió.

16
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập
khác lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân
ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được
những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của
tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần
Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành

NGƯỜI DỆT TẦM GAI

Vi Thùy Linh

Người yêu!

Chúng mình ở hai miền

Ngày nào em cũng khóc...

Anh yêu của em

Em yêu Anh cuồng điên

Yêu đến tan cả em

Ào tung ký ức

Tim em rộn lên

Em đếm từng ngày Anh đến

Ngày dài hơn mùa

Em mong mỏi

Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi

...Em nghe thấy nhịp cách êm ái ân

Gió làn gió thổi sương thao thác

17
Đêm run theo tiếng nấc

Về đi Anh!

Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi Anh

Đưa em vào giấc ngủ nồng nàn, quên đi những đêm chập chờn, trĩu nặng

Ngày nối ngày bằng hy vọng

Em là người dệt tầm gai...

Em nhẫn nại chắt chiu từng niềm vui

Nhưng lại gặp rất nhiều nỗi khổ

Truân chuyên đè lên thanh thản

Ôi sự trái ngược - những sợi tầm gai!

Không kỳ vọng những điều lớn lao

Em lặng lẽ dệt hạnh phúc từ những nỗi buồn - những sợi tầm gai - không
ai nhìn thấy

Gai tầm gai đâm em đau đớn

Em chờ Anh mãi...

Tưởng chừng không thể vượt qua nổi cái lạnh, em đã khóc trên hai bàn
tay trầy xước

Những giọt tâm hồn thấm xót mười ngón tay rớm máu

Ngay cả khi Anh làm em thảng thốt

Em vẫn hướng về Anh bằng tình yêu trọn vẹn của mình

18
Dệt tầm gai đến bao giờ?

Mỗi ngày dài hơn một mùa

Dệt tầm gai đến bao giờ?

Về đi Anh!

Cài then những ngón tay trầy xước của em bằng Anh!

Về đi Anh!

Cài then em

Bằng Anh!

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả:

1.1 Tiểu sử, con người:

- Tiểu sử:
+ Vi Thùy Linh sinh ngày 4/4/1980 tại Hà Nội, là một nhà thơ nữ của Việt Nam, bút danh
ViLi, tốt nghiệp Phân viện Báo chí -Tuyên truyền, hiện hoạt động trong lĩnh vực báo chí.
+ Tuy là thế hệ nhà thơ trẻ nhưng Vi Thùy Linh đã nhanh chóng trở thành một "hiện
tượng" trong nền thi ca Việt Nam đương đại. Vi Thùy Linh là nhà thơ Việt Nam đầu tiên được
mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên "Tình tự Hà Nội", cũng là nhà thơ đầu tiên
thực hiện tour diễn Pháp – Châu Âu. Vi Thùy Linh thuộc lớp những nhà thơ trẻ nhưng sớm nổi
tiếng và trở thành một “hiện tượng” trong nền thi ca Việt Nam đương đại
+ Vi Thùy Linh được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam, trở thành hội viên trẻ nhất ở
tuổi 27.
- Con người:
+ Lớn lên trong gia đình nghệ thuật. Ông nội và chú là họa sĩ, bố là đạo diễn, Vi Thùy
Linh được nuôi dưỡng trong không khí nghệ thuật và là một người đa cảm từ thủa bé.
+ Nền tảng học vấn vững vàng cộng với sự quảng giao đã cho phép nữ sỹ họ Vi nhìn sâu
vào những vấn đề của đời sống, mang đến cho thơ mình một giọng điệu
+ Là người có trách nhiệm và quyết tâm theo đuổi nghề văn “Đêm nào cũng cắt bỏ giấc
ngủ của mình đến 3 giờ sáng để cặm cụi trên trang giấy. Và phải lao động âm thầm ấy chỉ

19
để chờ một ngày nào đó, mình rất thích cảm giác mình có thể được khóc vì có một người đọc ra
một câu thơ của mình..”
1.2 Sự nghiệp:

- Tác phẩm tiêu biểu: Khát (1999); Linh (2000); Đồng Tử (2005); ViLi in love (2008)...

- Đặc điểm sáng tác:

+ Cô viết nhiều về đề tài tình yêu. Cô tình nguyện làm “nô lệ” cho tình lang của mình mà
không cầu giải phóng. Ngay cả những đổ vỡ trong thơ Linh cũng sắc lạnh, nhói buốt. Trước Vi
Thùy Linh rất nhiều nữ sĩ đã viết về tình yêu như: Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Dư Thị
Hoàn… nhưng phải đến Vi Thùy Linh, ý thức về nữ quyền, ái quyền trong tình yêu mới được
cảm nhận một cách đầy đầy đủ. Ái quyền luôn là phần mang sức nặng trong toàn bộ thi phẩm
của nữ sĩ nhưng khi nói về Vi Thùy Linh, thơ cô không chỉ giới hạn ở những vấn đề thuộc về đời
tư mà hơn thế Vi Thùy Linh đã đứng từ góc nhìn bản thể cắt nghĩa đời sống, định giá những hiện
tượng.

+ Thơ Vi Thùy Linh nữ tính, cô quan niệm viết thơ để “ đề cao những vẻ đẹp của đức
hạnh, của truyền thống, của ước mơ những đứa con, cùng với việc yêu chung thuỷ một người,
một người đàn ông, một mối tình lớn, chứ không cổ suý cho những cái gì mà nó đồi truỵ, bệnh
hoạn, bởi vì tôi là một người thờ một chữ lớn, đó là "duy mỹ"”.

+ Không lựa chọn những hình thức thể loại truyền thống mà dùng hình thức thơ tự do để
truyền tải những ý tưởng của mình. Thể thơ tự do với kiểu ngắt dòng ngắn dài không đều nhau
chính là phương tiện đắc dụng hàm tải ý tưởng có phần mới lạ và mang hơi hướng triết học của
thơ Vi Thùy Linh.

+ Ngôn ngữ gồ ghề, sắc cạnh

- Vị trí: Là nhà thơ tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ sau 1975, gương mặt nổi bật của thơ ca
đương đại, một trong những đại diện của trào lưu sáng tác mới trong làng văn học Việt Nam.

2. Tác phẩm:

2.1 Vị trí, xuất xứ:

- Bài thơ sáng tác ngày 9/7/1998, in trong tập thơ Khát (1999)

- Là tác phẩm tiêu biểu của Vi Thùy Linh, đã đóng góp vào mảng thơ ca về tình yêu trong
văn học Việt Nam bức chân dung tình yêu rất mới mang dấu ấn của nhà thơ họ Vi

- Bài thơ được nhạc sĩ Ngọc Đại phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng “Dệt tầm gai”

20
2.2 Giá trị nội dung và nghệ thuật

- Giá trị nội dung:

+ Bộc lộ những cung bậc cảm xúc của tình yêu: nỗi nhớ, sự yếu đuối, chờ đợi, khao
khát…

+ Thể hiện tâm hồn nữ tính, giàu cảm xúc của nhà thơ

- Giá trị nghệ thuật:

+ Thể thơ tự do không gò bó, cho phép bộc lộ sâu sắc cung bậc cảm xúc

+ Thủ pháp tạo dựng không gian, thời gian để nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng

+ Xây dựng biểu tượng độc đáo, mới lạ về tình yêu: tầm gai

+ Sử dụng dày đặc các động từ, tính từ giàu giá trị biểu cảm

- Điệp từ, điệp cấu trúc câu khắc sâu ấn tượng cho người đọc

II. Đọc hiểu tác phẩm:

1. Không gian, thời gian tình yêu của bài thơ:

* Không gian:

- Đại từ nhân xưng “chúng mình” chỉ sự kết hợp giữa “anh” và “em”, thể hiện tình cảm
gắn bó, gần gũi giữa hai người yêu nhau.

- Không gian: hai miền. Tình yêu được đặt trong hoàn cảnh chia li, xa cách: “chúng mình
ở hai miền”. Điều đó đã dẫn tới những cách trở, cản ngăn trong tình yêu.

- Tâm trạng của cô gái: “Ngày nào em cũng khóc”. Đó là nỗi buồn, nỗi nhớ nhung luôn
rực cháy trong lòng người phụ nữ.

* Thời gian:

- Thời gian trong bài thơ được cảm nhận rất dài: “Ngày dài hơn mùa”, “Ngày nối ngày
bằng hi vọng”, “Mỗi ngày dài hơn một mùa”

- Nghệ thuật điệp ngữ “ngày dài” tạo ấn tượng thời gian lặp đi lặp lại, bất biến, diễn tả
tâm trạng chán chường của người con gái trước sự trôi chảy của thời gian. Với cô, mỗi ngày
không có anh là mỗi ngày giống nhau, buồn tẻ và dài đằng đẵng.

21
- Ẩn sau dòng thời gian là tiếng thở dài của một tâm hồn mệt mỏi và tuyệt vọng. Ở đây sự
chờ đợi tuyệt vọng được gia tăng tỉ lệ thuận với cấp độ thời gian.

=> Không gian, thời gian bài thơ đã dần hé mở người đọc cảm nhận về cảm xúc của nhân
vật trữ tình

2. Những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ trong tình yêu

* Tình yêu được gửi gắm qua biểu tượng mới lạ: biểu tượng tầm gai

- Nguồn gốc:

+ Biểu tượng tầm gai từng xuất hiện trong câu chuyện cổ tích về nàng Lidơ. Xưa kia
nàng công chúa Lidơ xinh đẹp tuyệt trần may áo bằng sợi tầm gai để giải thoát các anh trai mình
khỏi lốt chim thiên nga do lời nguyền của mụ phù thủy độc ác.

+ Áo may xong cũng là lúc nàng giải thoát cho các anh, đồng thời đạt được hạnh phúc
lớn nhất trong cuộc đời: có được người mình yêu thương.

- Trong tác phẩm:

+ Biểu tượng tầm gai xuất hiện trở đi trở lại nhiều lần trong bài thơ, trở thành nỗi ám ảnh
không ngừng trong tâm trí người đọc.

+ Tầm gai trở thành biểu tượng cho tình yêu, cho hạnh phúc mà cô gái theo đuổi bằng tất
cả sự nhiệt tình và khao khát của mình. Như nàng Lidơ dệt áo tầm gai với những ngón tay rớm
máu, nhân vật trữ tình trong bài thơ khao khát dệt nên hạnh phúc bằng niềm vui và cũng bằng cả
nỗi buồn, nỗi đau.

* Những cung bậc cảm xúc của cô gái trong tình yêu:

- Tình cảm yêu thương nồng nàn:

+ Cách xưng hô “Anh yêu của em” đầy tình cảm yêu thương nồng nàn.

+ Từ ngữ biểu thị trạng thái cảm xúc trực tiếp: “yêu anh cuồng điên”, “yêu đến tan cả
em”, “ào tung kí ức”, “rộn lên”.

+ Nhịp thơ gấp gáp, cuồng nhiệt như hơi thở hổn hển trong vầng ngực căng tràn của
người phụ nữ đang không thể nào kiềm chế, kiểm soát được cảm xúc yêu đương rất bản năng của
mình.

- Nỗi nhớ cồn cào, cháy bỏng:

22
+ So sánh mình “như một tội đồ mong mỏi”, Vi Thùy Linh đã thể hiện hết nỗi nhớ trào
dâng tột độ.

+ Những câu thơ tràn ngập khát khao tình yêu và nỗi nhớ mãnh. Đó là tiếng gọi dậy của
cảm xúc khát thèm hạnh phúc rất cụ thể và chính đáng của người phụ nữ.

- Chấp nhận những niềm vui, nỗi khổ:

+ Có một nghịch lí trong mối tình của cô gái. Cô gái khao khát yêu thương, khao khát
hạnh phúc và gồng mình lên để đấu tranh cho hạnh phúc ấy. Nhưng cuối cùng thì cô lại chỉ nhận
được “rất nhiều nỗi khổ” bởi chính thứ hạnh phúc cô đang đeo đuổi đã gây ra những đau đớn cho
cô. “Người dệt tầm gai” là người đan dệt nên hạnh phúc đời mình, nhưng cô gái phải nhận lại cả
những nỗi đau.

+ Bỏ qua nỗi đau về thể xác khi bị những chiếc tầm gai đâm phải, ở đây còn là nỗi đau
trong lòng. “Những sợi tầm gai-không ai nhìn thấy/Gai tầm gai đâm em đau đớn”. Vì khi càng cố
gắng khát khao, càng không nhận lại sự hồi đáp, nỗi trống trải, tổn thương càng khắc sâu hơn
trong lòng người phụ nữ

- Sự thủy chung tuyệt đối:

+ Kể cả khi đau đớn, nhân vật trữ tình ở đây luôn một lòng một dạ hướng về người mình
yêu thương. Cô khẳng định “Ngay cả khi Anh làm em thảng thốt/ Em vẫn hướng về Anh bằng
tình yêu trọn vẹn của mình”

+ Đó là vẻ đẹp truyền thống trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.

- Sự chờ mong mòn mỏi gắn liền với niềm khát khao hạnh phúc tột độ:

+ Sự lặp lại của câu hỏi “Dệt tầm gai đến bao giờ?” là biểu hiện của một sự vô vọng. Vô
vọng trong tình yêu xa cách của người con gái đối với người con trai, vô vọng trong nỗi cô đơn
cùng cực. Bởi vậy câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại thành nỗi ám ảnh

+ Câu thơ “Về đi Anh!” lặp lại hai lần như một lời cầu khẩn tha thiết

+ Hình ảnh ẩn dụ “cài then em” ý chỉ sự khỏa lấp nỗi trống trải, cô đơn của người phụ nữ.
Cô mong muốn người yêu của mình xuất hiện, để vơi đi nỗi đau trong lòng, lấp đầy sự cô đơn.
Trên hết, nhân vật trữ tình mong muốn nhận được tình yêu trọn vẹn. Người phụ nữ ấy yêu mà
như quên mất cả chính bản thân mình, chứng minh một tình yêu nồng nàn, trọn vẹn, tận hiến.

=> Sau Xuân Diệu từng cuống quýt khát thèm “ôm”, “hôn”, “thâu”, “say”, “riết”, “cắn”,
“uống” tình yêu ... sự xuất hiện của Vi Thùy Linh với ngôn ngữ sắc mạnh bốc lửa, với tiếng yêu

23
táo bạo, nồng cháy hết mình đã đánh thức nhịp đập yêu đương của con người đang yêu. Tình yêu
ấy là khát khao hạnh phúc, hi vọng gắn kết đầy nhân bản giữa người với người.

III.Tổng kết:

1. Nội dung:

- Người dệt tầm gai là một bài thơ tình diễn tả nỗi nhớ và sự chờ mong khắc khoải của
người con gái khi yêu, chất chứa cái đong đầy của khao khát yêu đương mê đắm. Các cung bậc
cảm xúc của người con gái khi yêu được khúc xạ qua từng câu, từng chữ trong bài. Vi Thùy Linh
đã nói thay, nói hộ cho tâm trạng của biết bao người con gái chưa dám bộc lộ. Vì thế, bài thơ là
tiếng nói chân thực của tâm hồn người phụ nữ ngàn đời.

- Bài thơ chứa đựng giá trị nhân bản sâu sắc của hồn thơ Vi Thùy Linh.

2. Nghệ thuật:

- Thể thơ tự do phóng túng, rạo rực trong từng câu, chữ.

- Xây dựng hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

- Ngôn ngữ dung dị, táo bạo mà dịu dàng, đằm thắm.

- Giọng điệu quấn quýt, sôi nổi, say mê, thể hiện khao khát cháy bỏng trong tâm hồn con
người.

THẰNG GÙ Ở NHÀ THỜ ĐỨC BÀ- VICTOR HUGO

Nhân vật chính Quasimodo dưới ngòi bút của Victor Hugo hiện lên với một hình nhân dị dạng, một con
quái vật thật sự với vẻ ngoài không một ai dám đến gần, là chàng trai tật nguyền, méo mó, thảm hại, bị xã hội
khinh thường . Quasimodo là một thằng gù xấu xí, mồ côi khốn khổ được người ta đưa về nhà thờ nuôi dưỡng
và trở thành người kéo chuông cho nhà thờ. Một thằng gù sống hoang dại, trơ lỳ, tưởng như trái tim đã bị đánh
cắp, tưởng rằng không còn điều gì có thể lay động nổi trái tim ấy nữa. Vậy mà thằng gù xấu xa đó đã biết yêu,
yêu một tình yêu say đắm, cuồng nhiệt. Hắn yêu nàng Esmerald, trong khi nàng lại sợ sệt cái hình dạng xấu xí
của hắn. Thật trớ trêu khi nàng thiếu nữ Bohemien xinh đẹp ấy đã đem lòng yêu một con người khác. Mối tình
ấy là một mối tình câm lặng, tuyệt vọng. Nhưng chính nó là sự cứu rỗi vô cùng với tâm hồn Quasimodo, để
hắn biết yêu, biết khóc, biết hận thù, và đi đến tận cùng của những cung bậc cảm xúc của loài người. Tình yêu
chính là nguyên nhân của tất cả những điều mà Quasimodo đã làm. Hắn chấp nhận đánh đổi tất cả những gì đã
tồn tại trước đây để có được những khoảnh khắc sống thật với tình yêu của mình. Và đó là con đường mà hắn
lựa chọn từ đầu cho tới khi kết thúc tác phẩm. Khi hắn đã dám giết chết người đã cưu mang hắn từ nhỏ, để giải
thoát cho nàng Esmerald, và cũng tự giây phút ấy, hắn kết thúc cuộc sống của mình.

Khép lại tác phẩm cũng là lúc mọi bi kịch và đau thương được giải thoát, nhưng dư âm của tác phẩm vẫn
còn đọng mãi trong ta những nỗi đau âm ỉ, qua đó ta thấy được cả một thời kì tăm tối, phản ánh lên một xã hội
24
chứa đầy những giả dối, những xấu xa thông qua hình tượng trong sáng, tươi đẹp. Thành công vang dội của hai
tác phẩm “Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà” đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng. Tác
phẩm đã thể hiện được sự vươn đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả một định mệnh đã dẫn các nhân vật
gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết, chỗ hủy diệt. Tính cách của các nhân vật trong tuyệt phẩm
được khắc họa đậm nét. Mối tình đau khổ dẫn đến ghen tuông của Đức cha Frollo biến ông thành kẻ ích kỷ,
độc ác. Viên đại úy Phoebus với nét hào hoa, đỏm dáng nhưng tâm hồn vô cùng hời hợt. Người đẹp Digan
Esméralda trong trắng, ngây thơ và có số phận bất hạnh. Còn Quasimodo, một tên gù mồ côi giữ nhiệm vụ kéo
chuông tại Nhà thờ Đức Bà Paris, là một tâm hồn đầy thống khổ với nỗi cô đơn và tình yêu, sự hy sinh cao cả
dành cho người con gái mà mình tôn thờ.

-> thông điệp là dù cho hoàn cảnh có tăm tối thế nào thì cũng không thể ngăn cản được cái đẹp
hiện hữu, vươn lên, mặc cho sau cùng có phải tuyệt diệt đi nữa

NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ- VICTOR HUGO

"Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất,
trong sự nghiệp cầm bút của mình. Victor Hugo

Tóm tắt: Giăng Van-giăng nuôi một đàn cháu nhỏ, vì nghèo mà một hôm phải đánh cắp bánh mì. Anh
bị bắt và bị kết án năm năm tù. Bốn lần vượt ngục không thoát, anh bị giam mười bốn năm. Sau bao thăng trầm
của cuộc sông, Giăng Van-giăng cũng có được một chút địa vị trong xã hội, nhưng không phải là với cái tên
Giăng Van-giăng ngày xưa. Lúc này anh có tên là Ma-đơ-len, thị trưởng của một thành phố nhỏ, được mọi
người yêu mến, kính trọng. Trong nhà máy của Ma-đơ-len, cô thợ Phăng-tin, vì có một đứa con hoang nên bị
giám thị ghét bỏ và đuổi đi mà Giăng Van-giăng không biết. Cô đã phải gửi con là Cô-dét ở nhà Tê-nát-đi-ê,
một gã lưu manh, ở đây, Cô-dét bị hành hạ khổ cực. Mất việc, Phăng-tin phải đi ở, rồi bán tóc, bán răng của
mình, cuối cùng phải làm gái điếm lấy tiền nuôi con. Lúc cô gần chết, ông Ma-đơ-len mới biết nỗĩ oan ức của
cô, ông hứa sẽ chăm sóc Cô-dét. Vừa lúc ấy, để cứu một người khác bị tội oan, Giăng Van-giăng ra thú nhận
trước tòa về chân tướng của mình. Một lần nữa ông bị tù, và lần này ông đã vượt ngục. Ông liền trở về chuộc
Cô-dét ra khỏi tay Tê- nát-đi-ê và cùng cô bé sống lẩn trốn ở Pa-ri trong suốt mười năm trời. Trong suốt thời
gian ấy, ông bị mật thám Gia-ve rình mò, theo dõi. Đến cuộc cách mạng 1832, ông chiến đấu ngoài chiến lũy
bên cạnh các chiến sĩ cộng hòa.. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Giăng Van-giãng còn gặp nhiều nỗi oan
khổ. Lúc ấy Cô-dét trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Cô gặp Ma- ri-uýt, một thanh niên cộng hòa có lí tưởng.
Đôi trai gái yêu nhau và nhờ có sự hi sinh của Giăng Van-giãng, họ lấy được nhau. Giăng Van-giăng chết giữa
lúc Cô-dét và Ma-ri-uýt sống với nhau hạnh phúc.
Những người khốn khổ thể hiện niềm tin sâu sắc vào phẩm chất tốt đẹp của những người lao khổ. Bao
trùm toàn bộ tác phẩm là tấm lòng thương cảm sâu xa của Vích-to Huy-gô đối với những người cùng khổ bị xã
hội ruồng bỏ, chà đạp; là lòng tin sắt đá vào phẩm chất đạo đức, tâm hồn cao thượng của họ qua một số nhân
vật điển hình. Giăng Van-giăng, nhân vật chính của truyện, sau mười chín năm bị khổ sai, được cảm hóa trở
thành con người nhân ái, luôn luôn thương yêu, hi sinh vì những người khốn khổ. ông thương yêu Phăng-tin,
giữ lời hứa tìm lại đứa con cho nàng, CƯU mang Cô-dét, xả thân cứu Ma-ri- uýt, chịu bị bắt để cứu người hàm
oan. Gần như cuộc đời Giăng Van- giăng là một chuỗi khốn khổ triền miên, nhưng ông luôn luôn chịu đựng
một cách đau khổ và dũng cảm hi sinh triệt để cá nhân mình vì hạnh phúc của những người khôn khổ.

25
Nhân vật thứ hai là Phăng-tin, người mẹ tuy bị xã hội chà đạp nhưng vẫn là tấm gương về tình mẫu tử,
đức hi sinh và lòng nhân ái. Phăng-tin đã hi sinh cả đời mình để lo cho con gái. Còn Gia-vơ-rốt tuy là đứa trẻ bị
vứt trên hè phố Pa-ri nhưng vẫn tràn đầy lòng thơ ngây, yêu đời, dũng cảm và nghĩa hiệp.
Những con người khốn khổ và cao thượng đó tỏa ánh sáng rực rỡ từ bên dưới xã hội. Tác phẩm còn phê
phán quyền lực của chế độ tư sản. Chế độ đó đã gây nên bao cảnh lầm than cho nhân dân với hệ thống pháp
luật nhằm bảo vệ trật tự phi lí của nó là nhà tù, bạo lực và tôn giáo. Đại diện cho chế độ đó là thanh tra cảnh sát
Gia-ve, một hung thần ngu dốt, lạnh lùng.
->Dưới ngòi bút của Vích-to Huy-gô, thế giới của những người cùng khổ là thế giới của những tâm hồn
siêu việt, sáng ngời đạo đức, tượng trưng cho sự vươn lên đầy đau khổ nhưng cũng hết sức vinh quang của con
người. -> Triết lí: “Trên đời chỉ có một điều ấy thôi, đó là thương yêu nhau”
3.Khâm Thiên- Lưu Quang Vũ

Đã có biết bao nhiêu bài viết về tội ác dã man của giặc Mỹ trong trận thảm sát dân thường tại phố Khâm
Thiên. Ngày 26/12 hàng năm đã thành ngày giỗ chung của 278 công dân Khâm Thiên. Trong Di cảo để lại của
nhà thơ, nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ đã có bài thơ mang tên con phố này với lòng đau thương và sự căm thù
không dễ nào vơi. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã chia sẻ bài thơ "Khâm Thiên" trên FB cá nhân của
mình với sự trân trọng: "Bài thơ này nhà thơ Lưu Quang Vũ viết năm 1972, sau cuộc ném bom B52 xuống khu
phố Khâm Thiên. Năm ấy anh Vũ 24 tuổi. Một bài thơ tôi đã từng ví như bức tranh Gernica của P. Picasso.
Trong thơ Việt Nam chưa ai viết được thế như Lưu Quang Vũ".

Tái hiện lại kí ức đau thương năm 1972: tấm màn trắng xóa /xé chia nhau chít vội lên đầu /cả khu phố già
đi hàng chục tuổi /những bó hương bên đường nghi ngút khói /những bó hương châm nát cả bầu trời
/người trồng rau, chữa khóa, vá may /người nhặt củi, quét đường lam lũ /từ nay chung buổi giỗ…………….

những cụ già vịn nhau dò dẫm /máu ròng ròng trên những chiếc cáng thương……………

năm 72! Có thể thế được chăng /hãy mở mắt ra trông //vụ thảm sát xưa nay chưa từng có

Lời căm phẫn tội ác kẻ thù: kẻ làm chứng trung thành /trước phiên tòa lịch sử /giữa tột cùng đau khổ //đâu
dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ / /nhân danh cuộc sống, nói về cái chết //nhân danh niềm vui, nói về nước
mắt /nhân danh tình yêu, tôi mãi mãi căm thù.

MUỐI CỦA RỪNG

(Nguyễn Huy Thiệp)

I/ Hệ thống câu hỏi gợi dẫn và yêu cầu soạn bài dựa theo lí thuyết đọc - hiểu văn bản tự sự

1/ Tìm hiểu một số thông tin về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp phục vụ cho việc đọc - hiểu văn bản
tác phẩm

26
2/ Tóm tắt cốt truyện và xác định tình huống truyện

3/ Kết cấu truyện?

4/ Nhận xét nghệ thuật trần thuật?

5/ Phân tích hình tượng nhân vật ông Diểu: khai thác các chi tiết ngoại hình, hành động, trang
phục, suy nghĩ, tâm trạng,... Không gian và thời gian cuộc đi săn của ông Diểu gợi cho em suy
nghĩ gì?

6/ Thông điệp của tác phẩm? Sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm của bản thân em sau
khi đọc câu chuyện?

II/ Định hướng tiếp nhận văn bản

1/ Tác giả Nguyễn Huy Thiệp

* Cuộc đời

- Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Từ nhỏ ông
đã cùng gia đình lưu lạc khắp các miền nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và miền núi Phú Thọ, Thái
Nguyên, bởi vậy những hình ảnh về con người, cảnh vật nơi thôn quê và miền núi đã in đậm
trong ký ức của ông.

- Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

- Ông được nhận xét là một bông hoa nở muộn trên văn đàn văn học Việt Nam.
Những truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện trên báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam
năm 1986. Không lâu sau đó các tác phẩm của ông được bàn luận sôi nổi trong làng văn cả trong
lẫn ngoài nước.

* Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có một số điểm nổi bật:

- Giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, bức
tranh cuộc sống luôn hiện ra một cách trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Độc giả
được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình.

27
- Đưa thơ vào văn xuôi làm tăng hiệu ứng thẩm mỹ: Các tác giả trước đây chủ yếu lấy thơ
làm đề từ cho văn xuôi, Nguyễn Huy Thiệp sử dụng thơ trong tác phẩm tự sự như một phương
tiện nghệ thuật độc đáo và tạo được hiệu ứng thẩm mỹ rõ nét và làm nên nét đặc trưng cho phong
cách tác giả.

- Kết cấu truyện : Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường triển khai kết cấu theo dòng thời
gian tuyến tính. Nhà văn thường dùng cách mở đầu mỗi truyện theo lối truyền thống - thường
giới thiệu thông tin ngắn gọn, khái quát về nhân vật ở ngay mở đầu tác phẩm. Trái với cách mở
đầu mang tính truyền thống, kết thúc của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường kết thúc mở.
Để tạo ra kết thúc mở, nhà văn thường dùng những yếu tố mang tính hư cấu, những chi tiết mang
đậm chất huyền thoại hoặc những lời đồn đại trong dân gian tùy người đọc phán xét, suy ngẫm.
Cách kết thúc này nhiều khi cũng tạo nên chất thơ cho tác phẩm.

Xét riêng thể truyện ngắn, phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa
khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là truyện kể qua
ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.

2/ Tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác: Thời kì đổi mới đất nước. Bước vào thời kì hòa bình, xây dựng đất
nước, bên cạnh những thành tựu thì đời sống xã hội và nhân tâm vỡ ra nhiều bất ổn. Mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên, cách ứng xử của con người với thế giới tự nhiên cũng đòi hỏi
phải được nhìn nhận lại.

- Thể loại: truyện ngắn.

- Tóm tắt cốt truyện và nhận xét kết cấu truyện

+ Tóm tắt: Mùa xuân, sau tết nguyên đán một tháng là thời gian thích nhất ở rừng. Mưa
xuân ấm áp, rừng ẩm ướt, cây cối đâm chồi nảy lộc,... Đúng lúc ấy, ông Diểu đi săn. Ông đội
mũ, đi giầy, nai nịt quần áo gọn gàng, và mang theo khẩu súng hai nòng tuyệt vời mà thằng con
ông từ nước ngoài gửi về cho. Ông Diểu đi sâu vào rừng, men theo chân núi đá vôi đến cánh
rừng dâu da săn khỉ. Ông nhìn thấy gia đình nhà khỉ có khỉ đực, khỉ cái và khỉ con đang chăm
28
sóc nhau. Cho rằng hành động chọn quả ngon chén trước rồi mới ném cho “vợ”, con của khỉ bố
thật là đê tiện, ông Diểu nhắm bắn vào khỉ bố. Ngay sau đó, một cảm giác sợ hãi và có chút hối
hận xuất hiện trong ông. Khỉ mẹ và khỉ con hoảng sợ chạy theo đàn nhưng được một đoạn thì
khỉ mẹ quay lại. Ông cho đó là hành động đạo đức giả nên giương súng toan bắn khỉ cái. Khỉ
cái sợ hãi bỏ chạy nhưng rồi ngay sau đó nó lại tiếp tục quay trở lại, ôm khỉ đực vào lòng và bỏ
chạy. Ông ném khẩu súng đuổi theo thì khỉ con từ đâu xông ra vồ lấy. Để cứu khỉ bố và khỉ mẹ,
khỉ con ôm theo cây súng lao mình xuống vực. Hành trình đuổi theo con mồi, bắt được con mồi
rồi băng bó cho nó, chứng kiến tình nghĩa thủy chung của loài vật đã khiến ông Diểu thay đổi
suy nghĩ và nhận thức về tự nhiên. Cuối cùng, ông quyết định buông bỏ con mồi. Ông ra về trần
truồng trong mưa xuân. Trên đường đi, ông Diểu may mắn gặp được loài hoa tử huyền ba mươi
năm mới nở một lần. Khi hoa tử huyền nở là rừng kết muối, điềm báo đất nước thanh bình, mùa
màng phong túc...

+ Kết cấu: Truyện được kết cấu theo trình tự thời gian cuộc đi săn của ông Diểu từ lúc bắt
đầu đến khi ông trở về. Truyện kết thúc theo lối mở với chi tiết đậm màu sắc huyền thoại đó là
sự xuất hiện của loài hoa tử huyền. Cái kết này mang lại chất thơ cho tác phẩm và cũng góp phần
khắc sâu chủ đề của tác phẩm.

- Tình huống truyện: Sự kiện ông Diểu đi săn và bắn được khỉ bố trong gia đình nhà khỉ.
Hành trình đuổi theo để bắt lại con mồi cho ông chứng kiến tình nghĩa của thế giới loài vật.
Chính điều đó đã làm ông thay đổi.

- Nhận xét nghệ thuật trần thuật:

+ Ngôi kể: Ngôi thứ ba - người kể chuyện đứng ngoài cuộc.

+ Điểm nhìn trần thuật đặt vào chính nhân vật ông Diểu

+ Giọng điệu trần thuật: khách quan, trung tính.

3/ Phân tích nhân vật ông Diểu trong cuộc đi săn

a/ Không gian, thời gian cuộc đi săn

29
- Thời gian: sau Tết Nguyên đán một tháng - thời gian thích nhất/đẹp nhất ở rừng.

- Không gian:

Khu rừng mùa xuân thật đẹp đẽ và thơ mộng. “Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt
và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm.” “Khoảng thời gian này đi trong rừng,
chân giẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một
giọt nước trên cây rỏ xuống vai trần thì thật là tuyệt thú. Tất cả những nhố nhăng đê tiện vấp
phải hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc trên cành dâu da.”

Thiên nhiên thơ mộng đôi lúc còn trở lại trong hành trình săn bắn của ông Diểu: loài cây lá
bạc phếch như lá nhót, có những bông hoa vàng như hoa tai rủ xuống tận đất. Thời tiết ấm hơn
lên, không gian huyền ảo thêm lên bởi những làn mưa xuân mỏng và mịn dịu dàng buông xuống.

Thế nhưng tất cả vẻ đẹp thơ mộng, sự tĩnh lặng bình thản cao cả của rừng hoàn toàn không
có ý nghĩa gì, không gây một nỗi xúc động gì với ông Diểu khi ông bước vào khu rừng mùa xuân
không phải với tâm thế của kẻ thưởng ngoạn tự nhiên mà chỉ bằng tâm thế của kẻ đi săn, của kẻ
đi chinh phục, khai thác tự nhiên. Mưa xuân vẫn lặng lẽ buông, những bông hoa vàng vẫn dịu
dàng rủ xuống từng chùm,… Thiên nhiên vẫn bình thản và nhẫn nại dâng hiến cái đẹp cho con
người. Mặc, tâm trí ông Diểu vẫn còn đang bận rộn với những toan tính: Bắn chim xanh? Hay
bắn đàn gà rừng sặc sỡ? Bắn sơn dương ư? Thật đã đời, nhưng hơi khó! Ông quyết định sẽ săn
một chú khỉ.

b/ Hành trang của ông Diểu

- Vũ khí, trang phục:

Ông Diểu bước vào cuộc đi săn với tâm trạng đầy hứng khởi và tâm thế rất tự tin, có
phần kiêu ngạo của kẻ đi chinh phục đã được trang bị đầy đủ. Vũ khí của ông là cây súng –
khẩu súng hai nòng, “nhẹ bỗng, hệt như một thứ đồ chơi”, thằng con ông Diểu gửi từ nước ngoài
về. Ông rất tự tin với thứ vũ khí ấy. Cây súng là biểu tượng cho sức mạnh của con người ở thời
đại văn minh kĩ trị trong cuộc chiến với thiên nhiên. Với cây súng trong tay, con người xuất hiện
ở tư cách là “kẻ tội đồ”, kẻ hủy diệt tự nhiên, kẻ thù đáng sợ nhất của giới tự nhiên.
30
Ngoài ra, ông còn nai nịt, mặc quần áo ấm, đội mũ lông và dận đôi giày cao cổ để chống
lại cái rét và bảo vệ mình khỏi những mối nguy hiểm khác từ rừng. Cẩn thận hơn, ông mang theo
cả nắm xôi nếp dự phòng cho cuộc đi săn kéo dài.

- Tri thức của ông Diểu về khu rừng: Ông Diểu có vốn hiểu biết khá dày dặn về khu
rừng và đặc tính của các loài vật. Ông men theo suối cạn ngược lên mó nước đầu nguồn, đi
chừng một dặm nữa để đến hang động đá vôi. Nơi đây có nhiều sơn dương. Săn được một chú
sơn dương thì “thật đã đời”. Nhưng ông cũng biết bắn được giống này hơi khó. Cuối cùng, ông
quyết định men theo chân núi đá vôi sang rừng dâu da săn khỉ.

Ông cũng có kinh nghiệm nhất định trong nghề đi săn. Nhìn thấy đàn gà rừng sặc sỡ,
ông định bắn, nhưng rồi sợ động rừng thì cuộc đi săn sáng nay của ông sẽ chẳng có kết quả gì.
Bởi vậy, ông “ngồi bất động trong tư thế như vậy rất lâu”. Đến rừng dâu da, ông ngồi lặng lẽ
quan sát. Ông hiểu tập tính của loài khỉ, chúng “khôn tựa như người, khi kiếm ăn bao giờ cũng
có canh gác, con gác rất thính”, phải thấy nó thì cuộc săn mới thắng lợi. Ông ngồi im nửa giờ
quan sát cho đến khi con khỉ đầu đàn xuất hiện.

c/ Diễn biến tâm trạng ông Diểu trong cuộc đi săn

- Ông bắt đầu cuộc săn với tâm trạng vui vẻ, hào hứng và tâm thế rất tự tin, kiêu ngạo bởi
những thứ trang bị mà mình có. Bước vào khu rừng, trong lúc ngồi yên đợi con khỉ đầu đàn, ông
“không nghĩ gì, không buồn không vui, không lo lắng, cũng không tính toán”. Trong lòng ông
nhuốm cái tĩnh lặng bình thản của khu rừng.

- Con khỉ đầu đàn xuất hiện với nghi lễ vương chủ, đường hoàng và dũng mãnh “văng
mình rất nhanh” qua ông. Ông cũng phải thầm thán phục sự nhanh nhẹn dẻo dai của nó. Nhưng
rồi, con khỉ đế vương ấy biến mất, trong ông nhói lên một nỗi xót xa: “Số phận của bậc đế
vương không trùng với số phận ông”- kiểu độc thoại theo nguyên lí tảng băng trôi. “Nhà văn - kẻ
đi săn, ông Diểu (Diểu - vị chúa Trời nhỏ) biết mình không có “chân mệnh đế vương” nên hắn
yên tâm với thân phận dân đen của hắn, hắn không đi tranh hùng, không đi gây loạn và hoắng
huýt, […]. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục và chấp nhận chung sống với bọn khỉ cái, khỉ con, với các

31
đồng loại khỉ độc và khỉ gió.” (GS Đỗ Đức Hiểu). Ý nghĩ ấy khiến “niềm vui nhen lên từ khi ở
nhà ra đi trong ông vơi đi một nửa”.

- Cách ông Diểu nhìn nhận về gia đình nhà khỉ: Nhìn gia đình nhà khỉ 3 “người” cứ quấn
lấy nhau, ngay lập tức ông quyết định sẽ chọn khỉ bố làm con mồi, bởi ông căm ghét cái giống
đực ấy: “Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn! Nhà lập
pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn!” Ông nhìn thiên nhiên như cách ông đánh giá về con
người trong xã hội mà ông đang sống, một cái nhìn đầy định kiến, một cách tiếp cận con người
và cuộc sống từ phía tiêu cực chứ không phải từ phía cái đẹp. Bởi vậy ông đã gắn những suy
nghĩ đầy cay đắng cho loài vật. Với giống cái, cái nhìn của ông cũng chẳng thiện cảm hơn. Nhận
ra khỉ mẹ làm nhiệm vụ canh gác, ông yên tâm, “Bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm. Đấy,
thấy chưa? Đang canh gác mà lại đi bắt rận ở người thì còn gì nữa?Với giống cái thì thân thể
mình là quan trọng nhất.” Cho nên ông tin là dù mình có đi mạnh chân một chút, “gây nên một
sự bất cẩn nhố nhăng nào đó cũng chẳng hề gì”.

Cái nhìn đầy định kiến, hay cũng là kiểu tư tưởng biện minh cho hành động tội ác của con
người, còn tiếp tục khi ông Diểu đánh giá hành động của khỉ bố bứt quả trên cây ném xuống cho
hai mẹ con “trước khi ném, bao giờ nó cũng chọn quả ngon chén trước. Hành động ấy thật là đê
tiện.” Ngay lập tức, ông hạ gục con mồi bằng một tiếng nổ dữ dội.

- Tâm trạng của ông Diểu – kẻ đi săn khi hạ gục con mồi: Là người đi săn, là kẻ đi chinh
phục nhưng ông Diểu không có cảm giác hả hê, thỏa mãn hay kiêu hãnh, tự hào ở giây phút hạ
gục được con mồi. Trong kẻ đi săn (có lẽ là không chuyên nghiệp) ấy vẫn còn lương tri và nhân
tính cho nên khác với tâm thế của ông lúc ban đầu, ngay sau tiếng súng dữ dội hạ gục khỉ bố,
“ông Diểu sợ hãi run lên. Ông vừa làm điều ác. Chân tay ông rủn ra”. Lúc khỉ cái tiến lại gần
khỉ đực, thay cho nỗi vui mừng vì có cơ hội “lập cú đúp” hại gục hai con mồi, ông Diểu thầm rên
lên đầy thảng thốt “Chạy đi!”. Dường như đó là sự lên tiếng của con người thứ hai trong ông
Diểu – con người nhân văn, nhân đạo bên cạnh con người – kẻ tội đồ, kẻ thù của tự nhiên. Hai
con người ấy đồng hiện, xâm lấn lẫn nhau trong ông Diểu, cho nên đồng thời với sự thảng thốt,
lo lắng cho số phận khỉ cái, ông vẫn giương cây súng hướng về phía nó.

32
- Cách hành xử của loài vật đã buộc ông Diểu phải thay đổi cách nhìn nhận về chúng.

Thoạt tiên, ông Diểu căm ghét và tức giận khi thấy cách hành xử của các thành viên trong
gia đình nhà khỉ trong “cơn gia biến”, nó như một sự đối chọi gay gắt với những suy nghĩ áp đặt
và sai lạc của ông về chúng, đồng thời như một sự mỉa mai đối với đạo đức con người. Từ lâu,
sống trong xã hội đầy giả dối, xảo trá, lọc lừa, ông Diểu đang bị mất niềm tin vào các giá trị, và
dần trở nên vô cảm. Bất cứ một hành vi nào khoác áo đạo đức cũng khiến ông hoài nghi. Bởi thế,
ông chỉ thấy hành động “liều thí mạng” của khỉ cái khi bất chấp nguy hiểm để tiến lại gần cứu
khỉ bố là hành động đạo đức giả, điều ấy khiến ông căm ghét và nguyền rủa.

Nhìn thấy nòng súng đang chĩa về phía mình, khỉ cái sợ hãi kinh hoàng, vứt phịch khỉ đực
xuống đất rồi bỏ chạy. Phản ứng của khỉ cái khiến ông Diểu hả hê bật cười bởi nó củng cố trong
ông niềm tin rằng đạo đức không có thật trên đời. Ông tự tin nhô người ra khỏi chỗ nấp, tiến về
thu lượm “chiến lợi phẩm” nhưng cũng ngay sau đó ông phải hối hận bởi hành động chủ quan
vội vàng ấy khi thấy khỉ cái, sau phút hoảng sợ, đã liều mạng quay trở lại. Nó kịp định thần và
nhận ra kẻ thù nguy hiểm trước mắt chính là con người. Trong mắt tự nhiên, con người đã lộ mặt
là “tên ám sát”, là kẻ thù số một! Khỉ cái ghì khỉ đực vào lòng lăn tròn trên đất, rất nhanh.

"Ông đã lộ mặt là tên ám sát! Bất luận thế nào ông cũng đau đớn, sẽ thao thức, thậm chí
ông sẽ chết sớm hai năm." Như vậy là, có một thứ quy luật ngoài quy luật. Sát hại con khỉ, ông
Diểu bị điểm âm.

Khai thác chi tiết tiêu biểu khỉ nhỏ đoạt súng: Thiên nhiên đã tính sổ một cách sòng
phẳng khi con người tôn thờ bạo lực, bất chấp nguyên tắc ứng xử hòa bình, bình đẳng và thân
thiện với muôn loài. Hành động đoạt súng không chỉ là hành động của một con khỉ nữa mà là lời
lên án của thiên nhiên dành cho con người, là sự phản đối của thiên nhiên trước hành động của
con người. Sự hi sinh “không chút chần chừ” cùng với “tiếng rú thê thảm của con khỉ nhỏ” là
lời cảnh báo, là phản ứng của thiên nhiên không chỉ với ông Diểu mà còn cho cả loài người.

Mất đi khẩu súng – điểm tựa sức mạnh của con người văn minh - có nghĩa là cơ hội sử
dụng bạo lực đã bị triệt tiêu. Trơ trọi một mình đối mặt với tự nhiên, ông Diểu thấy mình thật lố
bịch và thảm hại! Mất điểm tựa sức mạnh, trong ông chỉ còn cảm giác hoang mang, sợ hãi.
33
- Ông Diểu vẫn kiên trì mục tiêu chiếm đoạt con mồi khi phát hiện khỉ đực đang ở một
mình. Ôm con khỉ, ông giật mình rút phắt tay lại khi chạm vào vết thương trên cơ thể nó, do ông
gây ra. Con khỉ “đưa đôi mắt đờ dại nhìn ông cầu khẩn”. Ông bỗng thấy thương hại, lấy nắm cỏ
dịt vào vết thương để cầm máu cho nó. Nhưng cách hành xử của loài vật, hết lần này đến lần
khác khiến ông bất ngờ. Mọi ý nghĩ, quan niệm về thế giới loài vật trong ông dần bị đảo lộn.
Trước hành động (ngỡ là nhân đạo) của ông, khỉ đực “co rúm người lại và nghiêng đôi mắt ươn
ướt nhìn ông”, rồi một lát, nó rúc hẳn vào hai lòng tay ông, miệng lắp bắp như tiếng trẻ con. Lần
đầu tiên, ông hiểu nó đang van xin ở ông một sự giúp rập. Ông Diểu tránh nhìn vào đôi mắt nó,
“Ông rất khó chịu”! Bởi sự bao dung của khỉ, niềm tin cậy của loài vật vào con người đã ép ông
vào thế phải làm người tốt, phải đóng vai thiện trong khi ông đã là kẻ ác và vẫn không hề có ý
định từ bỏ mục tiêu tóm lấy con mồi. Hành động tránh nhìn vào đôi mắt van lơn tội nghiệp của
khỉ báo hiệu sự chuyển biến nội tâm trong nhân vật ông Diểu. Ông sợ sẽ mủi lòng, và như vậy
mục đích của chuyến đi săn có thể sẽ thất bại. Cuộc đấu tranh và xung đột thiện – ác, giữa tình
thương và tham vọng, giữa bản năng sinh vật thấp hèn và phẩm chất người cao quý trong ông bắt
đầu nảy sinh.

- Sự thay đổi của ông Diểu trong sự nhìn nhận, đánh giá về khỉ đực, khỉ cái ở cuối tác
phẩm: Lòng bao dung của khỉ đực, lòng tận tụy, thủy chung và tình yêu của khỉ cái đã khiến ông
Diểu nhận ra rằng thế giới loài vật cũng có sinh mệnh thật sự với số phận, tính cách, tâm hồn và
đời sống tình cảm như con người. Hơn thế nữa, bản tính tự nhiên của loài vật là bản tính thiện,
vô tư, hồn nhiên, trong sáng. Thế giới tình cảm của giới tự nhiên là một đối trọng, một sự phản
biện lại thế giới con người vốn đầy xảo trá, lọc lừa. Đối sánh với tự nhiên, con người thấy mình
thật xấu xa, hèn hạ và tồi tệ, đầy những khiếm khuyết. Tự nhiên cho con người thức nhận giá trị
của tình yêu thương. Sự xuất hiện của cái đẹp, cái thiện đã cứu rỗi và nâng đỡ tâm hồn con người
trong thế giới mà cái ác đang bủa vây.

d/ Hình ảnh ông Diểu trần truồng đi về trong mưa xuân

Con người với đầy đủ vũ khí, trang bị ra đi với ý định hủy diệt thiên nhiên cuối cùng lại
trần truồng, độc trọi trở về. Ông trở về với hai bàn tay trắng, trong hình hài nguyên thủy của con
người như tự nhiên sinh ra, cũng là trở về với bản tính thiện của muôn loài. Hành trình đi săn của
34
ông Diểu chính là hành trình của con người từ thế giới văn minh vốn đầy bất ổn, từ “thế giới
người” đầy xảo trá, lọc lừa về với tự nhiên, về với nguồn cội, về với cái thuần khiết, cái thiện.

Hành động tha bổng con khỉ như một sự chuộc lỗi với tự nhiên. Trong cuộc đấu tranh âm
thầm diễn ra trong ông, cuối cùng phần người, cái thiện và tình thương đã thắng thế. Thiên nhiên
vẫn luôn mở lòng bao dung và hành xử cao thượng với con người. Những hạt mưa xuân dịu dàng
thanh khiết bao bọc và che chở thân thể ông. Thế giới tự nhiên tuy bí hiểm khôn lường nhưng có
một thuộc tính đáng quý là rất công bằng nếu con người ứng xử với nó trên tinh thần bè bạn.

Trên đường về, ông Diểu chọn đi con đường vắng người, ông sững sờ gặp hoa tử huyền
nhiều không kể xiết. Loài hoa ba chục năm mới nở một lần, màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm,
người ta gọi nó là muối của rừng. “Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình,
mùa màng phong túc.” Đó như một sự ân thưởng của thiên nhiên khi con người biết phục thiện
và nhận thức ra bài học đúng đắn về cách hành xử với thiên nhiên. Từ nhiều thế kỷ qua, con
người luôn ảo tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của văn minh công nghiệp, đem luật chơi của kẻ
mạnh áp đặt vào đời sống cộng sinh, tàn sát thiên nhiên làm thiên nhiên nổi giận. Con người cần
hiểu rằng: Đối xử với thiên nhiên bằng bạo lực chính là hành động tự sát!

4/ Thông điệp từ tác phẩm

Viết về cái xấu xa, cái tiêu cực nhưng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp vẫn luôn lấp lánh
chất nhân văn bởi niềm tin vào khát khao hướng thiện, niềm tin vào nhân tính con người trong xã
hội đầy khủng hoảng sau chiến tranh và những năm đầu đổi mới. Đó là sức hút của văn NHT,
như Nguyễn Khải từng phát biểu: “Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa,
cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt
đẹp, cái thủy chung”.

Nguyễn Huy Thiệp: “Muối của rừng là cuộc đi săn tìm lẽ sống, lẽ đời. Nó là cuộc đi săn
tìm danh vọng và lợi lộc. Tất cả đều trò khỉ. Cuộc sống là những trò khỉ. Cuối cùng mình trần
thân trụi cả, tất cả đều về với cát bụi. Cuộc sống là cuộc đi săn tìm thói xấu trong bản thân ta
để tự mình trục độc, tự mình thoát thân từ khỉ thành người.”

35
Cùng với sự phát triển của nền văn minh, nhân loại ngày càng phải đối mặt với những
hiểm họa to lớn từ môi trường sinh thái. Nó đe dọa sự sống của con người và tất cả các sinh vật
tồn tại trên trái đất này. Đứng trước những hiểm họa ấy, văn chương cũng phải có trách nhiệm
lên tiếng. Tác phẩm văn học chủ đề sinh thái cảnh báo hiểm họa môi trường, hướng tới tương lai
phát triển bền vững của nhân loại.

Tác phẩm hình thành trong con người nhân sinh quan tiến bộ của chủ nghĩa nhân văn
sinh thái: Tư tưởng coi trọng tự nhiên, đối xử bình đẳng với tự nhiên trên tinh thần bè bạn, lối
sống hòa hợp với thiên nhiên thay cho chinh phục và chiếm đoạt thiên nhiên; con người phải biết
đồng cảm với tự nhiên bị chà đạp, bị thương tổn. Quay về với thiên nhiên, con người sẽ trở về
bản tính thiện vốn có.

Phản ánh cuộc đấu tranh của con người bên trong con người để vươn tới cái cao cả, cái tốt
đẹp, tác phẩm thể hiện niềm tin vào tương lai tốt đẹp hơn khi con người ý thức được quyền sống
của tự nhiên, quyền sống của muôn loài. Hành trình từ chỗ nhận thức về quyền sống của con
người đến quyền sống của thiên nhiên là bước tiến dài trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại.

“Độc Tiểu Thanh kí”.

Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII, đầu
thế kỉ XIX với “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”. Những người phụ
nữ có tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh là cảm hứng lớn trong sáng tác của
Nguyễn Du. Và nàng Tiểu Thanh cũng là một kiếp người tài hoa bạc mệnh như thế. Là người
con gái tài sắc, vốn thông minh nên từ nhỏ nàng Tiểu Thanh đã thông hiểu các môn nghệ thuật
cầm kỳ thi họa. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế.
Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Côn Sơn, gần Tây Hồ. Vì đau buồn,
nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Những đau khổ, muộn phiền được
gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại.
Khi đọc những dòng thơ cuối cùng còn sót lại của nàng, nhà thơ thương xót, đồng cảm với số
phận của người con gái tài sắc vẹn tròn mà số mệnh ngắn ngủi-> viết bài thơ “Độc Tiểu Thanh
36
kí”. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc, suy tư sâu sắc của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của
người phụ nữ mà còn thể hiện niềm xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

Hai câu đầu là hai câu tả cảnh nhưng để kể việc:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang)
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Ta bắt gặp một vườn hoa với sắc hương và hình dáng trong quá khứ. Cái đẹp ấy tưởng
chừng sẽ trường tồn vĩnh cửu với thời gian nhưng dần theo năm tháng cũng lụi tàn dần, một sự
lụi tàn đến ngỡ ngàng và chua xót. Vườn hoa bình yên, êm ả ngày nào giờ đã trở thành một bãi
hoang phế trơ trụi và tiêu điều. Từ “tẫn” được Nguyễn Du sử dụng để miêu tả nhưng lại mang
một hàm ý thể hiện sự thương tiếc, có thể thấy thời gian đã tàn phá mọi thứ. Đứng trước sự nuối
tiếc, thương xót pha lẫn chút ngậm ngùi. Nguyễn Du mượn sự biến đổi của thiên nhiên mà ngụ ý
sự biến đổi khôn lường của cuộc sống, con người. Đó là sự ý thức về cái vô hạn của trời đất và
cái hữu hạn của con người. Nó gợi lên sự tàn lụi không thể nào tránh khỏi cho một kiếp người,
cho hồng nhan.

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

Một khung cửa sổ tương thông lòng người với vũ trụ, tương thông lòng người với tình
người. Bên những mảnh thơ tàn của một tài hoa bị vùi dập, Nguyễn Du cảm nhận và thổn thức
đau thương. Ông muốn níu giữ tất cả, níu kéo tất cả nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự tàn tạ. Sâu
sắc của câu thơ nằm ở chỗ từ “độc” và từ “nhất” đều mang ý nghĩa lại “một” lại cùng hiện hữu.
“Độc” là một mà “nhất” cũng là một, nhưng nếu “nhất chỉ thư” là số từ chỉ lượng một tập thơ thì
“độc điếu” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà thơ một trạng thái cô độc một mình. Việc dùng cùng
một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn
mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất
hạnh. Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh – khóc nàng qua một tập sách nhỏ. Lòng Nguyễn Du
mênh mông mà sâu lắng quá!

Nguyễn Du có cảm giác mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, còn phảng phất
đến tận bây giờ. Ông xót xa cho thân phận bạc mệnh đó:

37
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu(Son phấn có thần chôn vẫn hận)
Văn chương vô mệnh lụy phần dư” (Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Hai câu thơ gói trọn tiếng lòng xót xa của Nguyễn Du, chua xót đến tột độ khi nghĩ đến người
con gái bạc mệnh ấy. Trước phần di cảo của một tài năng, Nguyễn Du cảm nhận được cả cái tài,
cái tình Tiểu Thanh, “chi phấn” được hiểu là son phấn ẩn dụ cho nhan sắc, thì “văn chương”
chính là ẩn dụ cho tài năng của nàng. Đó đều là những giá trị đáng quý, nhưng đau xót thay
những giá trị tốt đẹp ấy đều bị dập vùi dập, chà đạp bởi một xã hội tàn ác, xấu xa .. Người con
gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, trái ngang. Những nghiệt ngã đời nàng
là nỗi sầu vạn kỉ. Dưới suối vàng, Tiểu Thanh chắc còn đau đớn, u uất...

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Phong vận kỳ oan ngã tự cư” Cái án phong lưu khách tự mang)

Hai câu thơ cất lên đầy sự tuyệt vọng, ai oán và u sầu nặng nề. Tài hoa nhưng bạc mệnh
có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự”, xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người
cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời
cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm
thấm thía,... khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực
bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục. Người tài tử buộc phải chấp nhận cái án phong lưu
mang nặng tình nhân thế. Từ xúc cảm xót thương cho Tiểu Thanh đến tình thương dành cho
những kiếp người tài hoa bạc mệnh nói chung rồi nhìn lại thì tự thương mình, tự coi mình cũng
cùng mang nỗi oan lạ lùng, sự vận động của cảm xúc nhà thơ như từng lớp sóng lòng âm ỉ nhưng
thấm thía, từng lớp từng lớp dần dần cho thấy sự đồng cảm đã đạt đến mức tri ân, chủ nghĩa nhân
đạo đã biểu hiện ở mức cao nhất, để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:

“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Đứng trước số phận của nàng Tiểu Thanh Nguyễn Du trở lại lòng mình mà “Giật mình
mình lại thương mình xót xa” và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại - cảm
hứng tự thương. Hai câu thơ cuối như xoáy chặt vào lòng ta một nỗi đau đớn, tuyệt vọng của một
trang tài tử:

38
“Bất tri tam bách dư niên hậu (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” Người đời ai khóc Tố Như chăng)
Hai câu thơ mở ra như cả thế giới nội tâm của Nguyễn Du, lời thơ như vừa tuyệt vọng,
vừa hy vọng, vừa cô đơn, vừa tìm kiếm. “tam bách dư niên hậu”- con số 300 năm chỉ mang tính
chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại Nguyễn Du tự đặt
ra để kiếm tìm cho mình một người tri âm tri kỷ như ông đã khóc cho Tiểu Thanh, như Thúy
Kiều đã từng khóc cho Đạm Tiên. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn
tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm
kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa
bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ
đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn
khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là
sự tự thương chính bản thân mình.

*Nghệ thuật: thể thơ đường luật, câu hỏi tu từ, những hình ảnh đối lập đem lại hiệu quả nghệ
thuật cao qua đó thể hiện sự thương cảm sâu sắc mà tác giả dành cho Tiểu Thanh - một hồng
nhan bạc mệnh, một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa
cùng, mà với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của người
nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên các giá trị văn hóa tinh thần.

CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN- NGUYỄN NGỌC TƯ

Cánh đồng bất tận hay Nguyễn Ngọc Tư như chất men say càng uống càng say và càng say càng
muốn uống.

Là truyện viết ở thời bình nhưng Cánh đồng bất tận lại mở ra nhiều chiều kích hỗn loạn khó
gọi tên, tựa như chính ta đang thể nghiệm những cuộc chiến chinh của một thời máu lửa mà chiến
trận ở đây là thế giới tâm hồn đầy rối ren, phức tạp của con người. Thế giới nhân vật trong Cánh
đồng bất tận quanh đi quẩn lại cũng chỉ “từng ấy mặt người, từng ấy dáng điệu” – nhưng tất cả những
số phận ấy, không một ai là bình thường bởi ẩn sâu trong họ là những hố đen sâu thẳm, mà như chính
Nguyễn Ngọc Tư đã nói “đầy mờ mịt, chơi vơi và dễ hụt chân”. Đó là Sương – vũng lầy bất tận của
những cô gái vì “cùng đường tuyệt lộ” mà phải bán rẻ thân mình cho những gã đàn ông cắt cỏ, chăn
vịt. Đó là Út Vũ – người đàn ông lấy nỗi đau của những người phụ nữ khác làm “vết băng bó” cho
39
chính nỗi đau vì bị phụ bạc của mình. Đó là Điền, là Nương – những đứa trẻ chưa lớn đã phải mang
trong mình hình hài của trái tim chi chít những vết đau vì nỗi cô đơn, lạc lõng ngay chính giữa cuộc
đời. Và đó còn là vợ của Út Vũ – nạn nhân của cái đói, cái nghèo, vì những thiếu thốn về tình cảm mà
bất đắc dĩ trở thành kẻ phụ tình. Nguyễn Ngọc Tư không phải là người đầu tiên để mảnh đất miền
Tây Nam Bộ được đứng trên văn đàn nước nhà, cũng không phải là cây bút đầu tiên tái hiện lại cuộc
sống đời thường của những người nông dân bình dị, quê mùa nơi đây; song chính chị, lại là người đầu
tiên để nỗi đau của họ được “cất tiếng” trên trang giấy – những tiếng kêu không đầu không cuối
nhưng bi thương, xót xa, như nghẹn đặc nơi cổ họng, như âm thầm nổi giông trong tâm hồn. Những
phận đời éo le ấy tựa như những đôi cánh vô định giữa không trung, cố gắng bay đi nhưng không tài
nào vươn cao hơn được, không tài nào thoát ra khỏi sự an bài của số phận lênh đênh được. Rốt cuộc,
trước mắt họ lại chính là những cánh đồng bất tận – những cánh đồng không tên không tuổi nhưng là
chứng nhân cho muôn vàn bi kịch của những kiếp người mỏi mòn nơi đây
Những mảng đời cơ cực đó không chỉ thấy ở miền đất mũi Cà Mau mà còn thấy rất nhiều
trên mọi miền quê nghèo của đất nước ta. Những người dân nghèo khổ, ít học. Họ hiểu về cuộc sống
đơn giản, cách suy nghĩ và hành xử đơn giản, bản năng mà thậm trí không nghĩ những hành động đó
có thể là tội ác. Nhưng dù ở bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào tôi cũng thấy đâu đó lấp lánh tình
người, tính hướng thiện và sự cảm thông.

Biểu tượng Cánh đồng:

*Cánh đồng – những nỗi đau

“Cánh đồng bất tận” là câu chuyện về một người đàn ông bị vợ phụ tình đâm ra căm ghét
đàn bà và say mê trong những ý định trả thù những người phụ nữ bước qua đời ông ta mà quên
đi trách nhiệm của mình với hai đứa con dứt ruột đẻ ra. Đến một ngày, một cô gái điếm len chân
vào cuộc đời họ, làm xáo trộn cuộc đời họ: thằng con đuổi theo hình bóng của cô gái không chịu
được sự bạc ác của người cha; đứa con gái trong tận cùng của tủi nhục và đau đớn gắng chìa tay
ra để kéo người cha về phía thế giới của mình nhưng vô vọng. Hai cha con gần sát nhau trong
cơn hoạn nạn mà vẫn thuộc về hai thế giới xa cách. Mỗi người là khối cô đơn tuyệt đối không chỉ
đối với thế giới của người khác mà ngay cả ở thế giới của chính mình.

Cốt truyện tưởng như chẳng thể hứa hẹn đem đến một câu chuyện hay thế nhưng có lẽ sự lấn
lướt của mạch tâm trạng so với ngôn ngữ miêu tả chính là sức hút của thiên truyện này. Qua
mạch tâm trạng, người ta thấy hiện lên những số kiếp con người, những số kiếp khổ đau và bất
40
hạnh. Nói khác đi, “Cánh đồng bất tận” là cánh đồng của những nỗi đau, những nỗi đau hiện
hình trong số phận của những con người cùng khổ trong xã hội đang quay trong cơn lốc. Chính
Nguyễn Ngọc Tư trong những lời phi lộ của “Cánh đồng bất tận” đã phải thốt lên “Khi nào bạn
bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù
chỉ một lời. Hãy im lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm
cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương) và chị cũng khẳng định “Trời ơi,
mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc
nhích, sao có thể hả hê?”. Và trong “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa những nỗi đau
mà chị dằn vặt, xa xót cho nhân vật của mình vào trong cõi hận.

“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại,
mùa hạn hán hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết
non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn”. Những
câu mở đầu của thiên truyện đã mở ra một trúc trắc, một lênh đênh, một khốn khó đang bủa vây
một gia đình du mục gồm ba người: Cha, Tôi, Điền – đứa em trai, cùng gia tài: một đàn vịt đang
độ lớn cần thức ăn còn sót lại trên đồng và nhất là cần nước trong một mùa nắng chát chúa, khô
rát mặt người. Từ cái bắt đầu này, những nhân vật khác xuất hiện mà phần lớn là những người
đàn bà không tên, trôi dạt. Tất cả những con người ở cái xứ sông nước, thổ ngư này đều nhuốm
một nỗi đau riêng trong cái nền xám chung của thiên truyện.

- Người cha: Út Vũ là cha của nhân vật xưng “tôi” trong “Cánh đồng bất tận”. Vì hận tình, hận
đời mà ông đã đốt nhà của mình rồi dẫn hai đứa con và đàn vịt vào những cánh đồng trong cõi
hận. Điều này bắt nguồn từ vết thương lòng của chính ông. Đó là nỗi hận người vợ trẻ không
chung tình, để rồi từ đó quay ra trả thù đời.
Trước hết là sự đánh đập đứa con gái chỉ vì nó giống mẹ. Đau đơn và xót xa biết bao khi đọc
những dòng này của Nguyễn Ngọc Tư “Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa
ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió
đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh… hay tại tôi càng lớn càng giống
má”. Khó chịu với những gì liên quan đến người vợ không chung tình, người cha ấy nâng nỗi
hận của mình thành nỗi hận phổ quát: hận tất cả những người đàn bà trên thế gian này. “Đàn bà
với ông càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng
41
toang hoác, không da thịt nào có thể lắp đầy”. Ông đã quyến rũ họ và khi họ vừa bỏ nhà, bỏ cửa,
bỏ chồng, bỏ con để “cuốn gói” theo… tiếng gọi tình yêu thì ngay lập tức ông bỏ rơi họ. “Cha tôi
tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ đúng lúc…tôi
có cảm giác cha quắp lấy người ấy vùi mặt vào da, vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh
ngắt… trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa
gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”. Rõ ràng hận thù đã ngự trị trong trái tim khô héo của người
cha, không cách gì tẩy được đến mức Nguyễn Ngọc Tư đã phải thốt lên “Trời ơi, trừ chị em tôi,
không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ
mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”.Nỗi đau của người cha là nỗi đau của con người bị quá khứ làm
cho tê liệt cả thể xác lẫn tâm hồn. Chính từ nỗi đau ấy mà ông đã luôn tạo ra nhiều nguyên nhân
cho đau khổ trổ quả. Cho nên sự mê muôi, sự đau đớn ở người cha làm cho người đọc vừa
thương vừa giận.

- Những người đàn bà

Biểu tượng về cánh đồng hoang hoải trong bức tranh quê buồn không chỉ gắn liền với nỗi
đau của người cha thù hận mà còn gắn liền với số kiếp của những người đàn bà – những kiếp
người mòn mỏi, sống tù túng nghèo nàn, không yêu thương và không hivọng. Đó là Má tôi, sống
cùng tiếng thở dài buồn não ruột “Má tôi thở dài khi nghe cha ghé bến… Má tôi thở dài khi
tắm… Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắm vào hai túi áo mỏng lẹp
kép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo”. Đó còn là những người đàn bà mà
“tôi” đã gặp trên những con sông cạn nước, trên những cánh đồng khô nẻ, trên những phiên chợ
đầy mùi người. Và hơn hết là những người đàn bà bị cha tôi gạt gẫm, bỏ rơi, bịt lối quay về. “Tôi
nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy…
người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình, người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng
con, người vừa phũ phàng chia xong tài sản…”. Mỗi người đàn bà mang một số phận như những
con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một nguồn riêng nhưng phần lớn đều cạn kiệt
trước khi hoà mình vào dòng lớn. Trong số những người đàn bà không tên ấy, “chị” là người gắn
với gia đình “tôi” như một định mệnh.

Nguyễn Ngọc Tư đã xoáy sâu miêu tả nỗi đau của “chị” – nỗi đau của một người đàn bà
42
làm điếm, bị đánh ghen. Sự đánh ghen thật tàn nhẫn và ác ý “người ta đổ keo dán sắt vào cửa
mình của chị”. Nỗi đau ấy thiết nghĩ bắt nguồn từ sự xô đẩy của cuộc đời “chị, cũng giống như
họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê”. Cho nên ở nhân vật này, người ta
thấy thương cảm hơn là miệt thị. Ngay cả khi kể lại những trò chơi giường chiếu, gạ gẫm lấy
một, hai triệu đồng xoá đói giảm nghèo của một gã nông dân háu ăn món lạ hoặc khi tự thốt ra
sau một đêm phải đi hối lộ thân xác cho cán bộ ấp trở về “Chị làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này
nhằm bà gì mà mấy cưng buồn” khiến người ta vẫn cảm thấy xót xa thương chị hơn là lên án.
Một con đĩ vẫn khát khao được làm vợ, được sống tình nghĩa yêu thương, khát khao đời thường
đơn giản vậy nhưng đối với chị tất cả là một sự tuyệt vọng. Tuyệt vọng làm sao khi người cha
thanh toán tiền sòng phẳng rồi sau đó điềm nhiên phớt lờ, hắt hủi, “khinh miệt và đắc thắng no
nê”. Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả rất hay cái tâm trạng chờ đợi và hivọng của người phụ nữ này
“Chị hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép… Thời
gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ và hivọng. Tôi biết, đi một quãng xa chị vẫn còn dỏng tai đợi một
tiếng gọi, quay lại đi, Sương. Nhưng chỉ gió nghêu ngao soi mói vào mảng thịt sau tà áo người
phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn”. Người phụ nữ da diết chờ đợi, mỏi mòn hivọng để lại
trong lòng người đọc cái cảm giác ngậm ngùi, đắng đót khôn nguôi.

- Hai chị em Nương và Điền: “Cánh đồng bất tận” là suy nghĩ của Nguyễn Ngọc Tư về nỗi đau
thân phận người. Đó không chỉ là nỗi đau về người đàn ông bị vợ phụ tình, về thân phận những
người đàn bà bị ruồng bỏ mà ở đó còn thổn thức về kiếp sống của hai chị em Nương và Điền lớn
lên trong cảnh thiếu vắng tình thương, chỉ biết “tự học” cách để mà sống, mà chứng kiến những
bất công.
Sống lang bạt cùng cha, đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác, Nương và Điền phải tự học
cách sống để làm người và học ngay cả bản năng để chứng kiến và… bỏ qua. “Những gì không
biết chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu
đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá rất cao”.

Nguyễn Ngọc Tư đã chú tâm hướng ngòi bút của mình để xây dựng nhân vật Điền – đứa
em trai mới lớn, một nhân vật không hoàn thiện (không được trở thành người đàn ông thực thụ).
Không phải ngẫu nhiên, tác giả để cho nhân vật Điền từ ngày “ngủ kẹt bồ lúa” mắc phải chứng
bệnh chảy nước mắt. Nhìn qua làn nước mắt chứng nhân cho một ngày đau đớn, nhục nhã khi
43
phải chứng kiến cái xấu, cái “bậy” rồi phải cô độc để “tự học lấy cách sống”, Điền đã phản
kháng bằng cách “trút sạch” những cái gì có cho là ác, là xấu… thậm chí “tự kìm hãm bản năng
trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù”. Buộc phải tự tìm lấy
con đường đi, bằng xúc cảm và trải nghiệm, làm sao có thể tránh được ngộ nhận nên có khi đủ
thấu hiểu một điều gì đó thì đã “phải trả một giá cao”. Đến khi sửng sốt trước sự hoan lạc của
bầy vịt “đầy ắp một thứ tình yêu”, “tuyệt không có gì là thô tục, cưỡng đoạt, gạ gẫm” như những
gì đã biết, Điền chới với, “nghi hoặc lan ra như những vòng sóng”. Và khi Sương xuất hiện thì
trong Điền “chỉ là một nỗi ân hận dày vò”. Điền yêu chị nhưng “tình yêu ấy đã bị khiếm khuyết
mất rồi”, sau giấc ngủ dài “bản năng nó không trở dậy”. Cho nên việc Điền phải hồng hộc chạy
đi giữa đất trời hoang vu phải chăng chính là cách để giải thoát chính mình.

Như vậy có thể thấy “cánh đồng” được nhìn nhận như là biểu tượng về những nỗi đau
của con người – nỗi đau nhân thế. Đó là cái nỗi đau của người mẹ khi hiểu ra hai đứa con đã thấy
tường tận việc phạm tội tà dâm của mình nên hoảng loạn bỏ nhà trốn đi. Rồi người cha uất ức,
đốt nhà bỏ đi. Đến lượt chị Sương cũng lao đi, khi nhận ra sự thật não nề: Má cưng ác một nhưng
người cha này của cưng ác tới mười. Rồi đến lượt Điền, chàng trai tuổi 18 cũng chạy hồng hộc
về phía đó. Tất cả đã lao đi giữa đất trời mênh mông, biền biệt tăm tích, không phương hướng,
không nơi chốn, chẳng biết về đâu. Thiết nghĩ suy cho cùng đó cũng chỉ là nỗi đau có tự ngàn
đời xưa, cho đến mãi ngàn đời sau khi con người vẫn tồn tại trên chốn nhân gian này. Phải chăng
chính cái nỗi đau không cùng của những con người ấy đã thấm sâu vào cảnh vật, vào cánh đồng
khiến cánh đồng trong văn Ngọc Tư cũng trở nên buồn và cô lạnh. Cứ sau mỗi trường đoạn sự
kiện, ngòi bút của nhà văn lại hướng về tả cánh đồng: rộng, hoang vắng, vô danh, vắng ngắt, ủ ê
tin buồn… tất cả đều nhuốm màu tâm trạng của những thân phận người, khiến người ta càng đọc
càng thấm thía, xót xa.
2.2.2. Cánh đồng – tình thương và niềm tin

Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” chứa đựng những nỗi buồn chan chứa, tuy
nhiên nỗi buồn ấy không làm ta bi quan mà cuồn cuộn khát khao được sống, được làm người.
Bởi vì lớn hơn hết thảy “cánh đồng” còn là biểu tượng của tình thương, lòng nhân ái, niềm tin và
những gì thuộc về giá trị nhân bản.Đó là tình thương của hai chị em với người đàn bà tên Sương,
tình thương của người cha đã tạo ra những tội lỗi bởi lòng thù hận với người vợ phụ tình nhưng

44
vẫn lờ mờ cảm thấy trách nhiệm đối với hai đứa con. Cái chi tiết ông mua cho đứa con gái cái
nhẫn để dành cho đám cưới cũng như việc “cởi cái áo trên người để đắp lên cho đứa con gái.
Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời” cho thấy tình
thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy.. Ý nghĩa rút ra từ biểu tượng chính là sự
khát khao, lòng mong mỏi đến thiết tha, cháy bỏng (bất tận) rằng hãy bảo vệ, giữ gìn những giá
trị người, hãy chống lại sự tha hoá con người. Đó cũng là chiều sâu nhân bản của tác phẩm. Điều
đó lí giải vì sao chi tiết cuối cùng của thiên truyện, cái chi tiết đứa con gái vừa bị làm nhục đến
nhàu nhừ vẫn ánh lên niềm tin và khát vọng. Trong cơn đau vật vã thể xác, nhân vật “tôi” vẫn
chứng tỏ bản lĩnh không cam chịu “không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết”. Cái
mầm thiện trong trái tim nhân vật “tôi” dù ngập trong máu nhưng nước mắt vẫn bừng xanh niềm
hi vọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như “bị có con” sau cuộc bạo hành thì “đứa bé không cha
nhưng chắc chắn sẽ được đến trường” sẽ sống hạnh phúc “vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên
tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Cho nên có thể nói, biểu tượng “cánh đồng” là biểu tượng về nỗi
khắc khoải của số phận con người nhưng cũng chính là biểu tượng về niềm tin vào lòng cuộc
sống “bất tận”. Nguyễn Ngọc Tư đến phút cuối đã để cho những thù hận qua đi, những vết
thương được cánh đồng mênh mông nước trắng làm cho lành lại, cho bùn đất dịt vào da thịt để
cảm nhận sự bất tận của nỗi đau và của tình yêu thương.

LÁ DIÊU BÔNG
TÁC GIẢ: HOÀNG CẦM

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng


Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
– Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày sau Em tìm thấy lá


Chị chau mày
– Đâu phải lá Diêu Bông

45
Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị


Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!…
…ới Diêu Bông!…

Hoàng Cầm – một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất xứ Kinh Bắc, mang trong mình một hồn
Việt đau đáu khôn nguôi, Hoàng Cầm “sống đã đủ một cuộc đời trọn vẹn” với những đóng góp
quan trọng cho văn học nước nhà. Tồn tại ở một cuộc đời nhiều sóng gió là một hồn thơ giản dị
chân chất, được dung hòa trong những hình tượng thơ không ai không biết. Hoàng Cầm đã tạo ra
những bài thơ được cho là kinh điển, mang tính ước lệ và điển hình cao.

Tiểu sử cuộc đời

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22/2/1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên,
tỉnh Bắc Giang, quê gốc ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Bùi Tằng Việt bước
vào thi đàn với một bút danh thật đẹp và cũng thật độc đáo - Hoàng Cầm xuất phát từ tên của
một vị thuốc quý. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về
dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Năm 1944, do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra
quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham
gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội,
thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch
rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một
thời gian rồi giải thể.

Những năm kháng chiến, Hoàng Cầm gia nhập quân đội, chuyên hoạt động trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật. Ông từng giữ chức Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Cuối năm 1955,

46
ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4/1957, ông là một
trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Tuy nhiên, không lâu sau, do
vụ án "Nhân văn Giai phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu năm 1970
lúc 48 tuổi. Có thể nói cuộc đời của Hoàng Cầm cũng như những nhà thơ đương thời, khá sóng
gió và chịu nhiều khó khăn. Đặc biệt với vụ án “Nhân văn giai phẩm” đã khiến cho sự nghiệp
sáng tác của ông có phần bị chững lại. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận những giá trị nổi bật mà
những tác phẩm của ông đã để lại cho văn học Việt Nam.

Những sáng tác chính

Nhà thơ có khá nhiều các tác phẩm, chủ yêu thuộc thể loại thơ, cũng có một vài tác phẩm thể loại
khác tuy nhiên không nổi bật. tác phẩm được độc giả biết đến nhiều nhất chính là “lá diêu bông”,
viết về mối tình không thành của chính nhà thơ dành cho người chị hơn tuổi của mình. Lá diêu
bông không có thật, tuy nhiên vì cái hay của nó, cho đến bây giờ lá diêu bông vẫn được coi là
biểu tượng của tình yêu chung thủy và vĩnh hằng. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đánh giá: “Thơ
Hoàng Cầm rất nhiều bài hay. Nhưng bài tôi tâm đắc nhất là bài “Lá diêu bông”. Vì ở đấy nó có
phẩm chất mà tất cả các nhà thơ của nhân loại đều phải có. Vì riêng chuyện ông sáng tạo ra lá
diêu bông đã là một câu chuyện. Hàn Mạc Tử cũng sáng tạo ra cõi phượng trì… rất mông lung
thì đến Hoàng Cầm ông lại nghĩ ra là Lá diêu bông. Bài thơ thể hiện tâm trạng đau đớn và khắc
khoải của chính nhà thơ khi tình yêu không thành.

Phong cách sáng tác

Như đã nói, Hoàng Cầm mang trong mình một hồn thơ Kinh Bắc đau đáu, khôn nguôi. Hoàng
Cầm là ông hoàng của thơ trữ tình duy mỹ và những sáng tác thơ của ông trong hơn nửa thế kỷ
qua đã nói lên điều ấy. Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong thái rất đặc biệt và đặc thù,
tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái nôi của nền văn hoá sông Hồng.
Tài năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển, nâng
cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người. Có ý kiến cho rằng, trong thơ
Hoàng Cầm thấp thoáng có những nét chạm khắc tinh hoa của kiến trúc đình-chùa vùng Kinh
Bắc, nó mang hơi thở và dấu ấn sáng tạo tuyệt kỹ của những nghệ nhân dân gian. Cái đẹp, cái
hay trọn vẹn trong trầm tích mang tên Kinh Bắc đã đằm rất sâu vào hồn thơ của Hoàng Cầm.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lá Diêu Bông

Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Lá diêu bông, thi sĩ Hoàng Cầm đã chia sẻ câu chuyện như sau:

Bài thơ “Lá diêu bông” tôi viết về một câu chuyện có thật, câu chuyện về mối tình đầu trong đời
tôi. Quá nửa đêm mùa rét năm 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn 6
47
(oát), bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con cũng đang ngủ say ở giường bên, tôi không
gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân.

Đêm nào khi lên giường nằm, tôi cũng để sẵn một tập giấy trắng và một cây bút chì. Nếu ngủ
được thì tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay bị thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì
phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy tôi vẫn không
ngủ được. Bốn bề yên tĩnh.

Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào bên trong nên tiếng xe cộ thưa thớt bên ngoài đường
cũng không lọt được vào tai. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành
rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…

Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà
cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, lòng tôi nhẹ
bẫng hẳn, một lát sau tôi ngủ thiếp đi.

Sớm hôm sau nhìn lại thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ nọ như
xóa mất chữ khác. Phải mất gần nửa tiếng đồng hồ tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như
những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Và đó là cách bài thơ
‘Lá diêu bông’ ra đời.

Nghệ Thuật Bài Thơ Lá Diêu Bông

Bài thơ Lá Diêu Bông được làm theo thể thơ tự do, không gò bó luật lệ, số lượng âm tiết từng
dòng không cố định, dài ngắn khác nhau.

Nhịp điệu của bài thơ mang âm hưởng dân ca Quan họ, vô cùng du dương, tha thiết.

Hình tượng thơ “Lá Diêu Bông” huyền ảo gây mê hoặc lòng người, cặp sóng đôi “chị” – “em”
làm nổi bật nỗi đau, bi kịch của nhân vật trữ tình.

Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, tự nhiên như lời kể chuyện.

Ý Nghĩa Bài Thơ Lá Diêu Bông

Bài thơ Lá diêu bông thể hiện nỗi khát khao không được thỏa mãn về một tình yêu đích thực, là
sự tái lặp nỗi đau bi kịch của tình yêu cha mẹ và là sự vô vọng của hành trình đi tìm bản ngã đích
thực của tác giả. Đồng thời thông qua bài thơ, Hoàng Cầm còn muốn gửi một thông điệp đến bạn
đọc để giãi bày cái đau tình, đau đời mà Thi sỹ ẩn nhẫn câm nín bao ngày không nói ra được.
48
Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Lá Diêu Bông

“Lá Diêu Bông” là một bài thơ tiêu biểu được rút ra trong tập thơ “Về Kinh Bắc” của Hoàng
Cầm. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một nhân tố quan trọng góp phần nên thành công của bài
thơ nói riêng cũng như tập thơ nói chung, trở thành nhân vật huyền thoại của bao mối tình dang
dở.

Nhân vật trữ tình của bài thơ được đặt trong một bối cảnh không gian thời gian đầy huyền thoại,
hư ảo; nó chính là hiện thân của tác giả; trong hành trình tìm kiếm tình yêu đầy khát vọng cũng
như đi tìm cái Đẹp đã mất, với những khoảnh khắc vụt hiện của dòng ý thức.

Cũng như nhiều bài thơ khác trong tập “Về Kinh Bắc”, tâm thế sáng tạo của thi sĩ Hoàng Cầm
khi viết “Lá Diêu Bông” là trong tình trạng chìm về quá khứ, vào sâu cõi tâm linh. Về với Kinh
Bắc, thi sĩ như chìm đắm, lắng sâu trong tâm tư của riêng mình, nửa trầm tư hoài niệm nửa khát
vọng sẻ chia. Không gian là mảnh đất Kinh Bắc….. nhưng lại là Kinh Bắc trong tâm tưởng,
trong sự hồi cố của tác giả. Không gian ấy vĩnh cửu và nằm ngoài mọi thời gian lịch sử.

Thời gian cũng là thời gian quá khứ, thời gian hồi cố, thời gian tâm linh mơ hồ, huyễn hoặc.
Trong tâm thế sáng tạo ấy, nhân vật và thiên nhiên đều ít khi tồn tại với ý nghĩa đen mà là hình
ảnh của thế giới hồi tưởng, thế giới cảm giác hoặc trở thành những ý niệm, kí ức, biểu tượng
không thể nhận thấy, không thể nắm bắt: “Chỉ với 24 dòng thơ thôi, thi sĩ đã dệt nên một câu
chuyện tình đượm màu cổ tích và thấm đẫm tính huyền thoại. Đọc “Lá Diêu Bông”, độc giả như
đang phiêu cùng nhân vật trữ tình trên cái ranh giới của ảo và thực”.

“Em” là nhân vật trữ tình của bài thơ, là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm
trạng trong tác phẩm. “Em” đặt trong mối tương quan với nhân vật “Chị”, là nguồn cơn của mọi
cảm xúc, suy nghĩ và hành động của nhân vật trữ tình. Mối quan hệ “Chị-Em” sẽ xuyên suốt tác
phẩm như một cảm hứng chủ đạo.

Câu chuyện xưa bắt đầu từ một buổi chiều quê Bắc Ninh như tác giả từng chia sẻ “một buổi
chiều mùa đông…Chị đi về phía cánh động chiều còn trơ cuống rạ. Những dãy núi xanh xanh
mờ xa in hình như dao khắc trên nền trời cuối hoàng hôn. Bí mật, tôi lặng lẽ lần theo chị. Tôi
thấy chị thẩn hơ tìm đồng chiều cuống rạ. Rồi chị lẩm bẩm một mình, dầu chị biết chắc tôi lẵng
nhẵng theo sau lưng: Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông, từ nay ta gọi là chồng…” .

Câu nói ấy in sâu vào tâm trí “Em”, như một lời nguyền nhức nhối đi theo suốt cả cuộc đời.
“Em” vì câu nói “bâng quơ” của “Chị” đã mải miết kiếm tìm. Thời gian sắp đặt nối tiếp với
khoảng cách tăng dần: Hai ngày sau…mùa đông sau…Ngày cưới chị…Chị ba con… cho ta thấy
nỗ lực của nhân vật trữ tình trên hành trình kiếm tìm chiếc lá Diêu Bông.

49
Thời gian phát triển từ thời gian thực tại đến thời gian tâm lý thể hiện sự kiên nhẫn, niềm hi vọng
tưởng chừng không bao giờ cạn của nhân vật trữ tình. Em đi tìm như muốn khẳng định điều có
thể của những thứ không thể. Bốn lần đi tìm, bốn lần đều tìm thấy lá, nhưng sắc điệu cảm xúc lại
khác nhau.

Lần đầu là vui mừng của người chiến thắng, những lần sau là sự khấp khởi hi vọng. Chị đố lá để
tìm tình yêu, Em kiếm lá cũng để tìm tình yêu nhưng hai hành trình kiếm tìm tình yêu của hai chị
em lại chỉ như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp thấy điểm chung. Trò chơi đố lá
bỗng trở nên nghiệt ngã.

Trong mối tương quan với nhân vật trữ tình, bốn lần Em tìm thấy lá với các sắc điệu cảm xúc
khác nhau thì cảm xúc của Chị cũng ngày một hiện ra rõ nét hơn: Từ “chau mày” không chấp
nhận chiếc lá đầu tiên em tìm là lá Diêu Bông, “lắc đầu” thẫn thờ “trông nắng vãn bên sông”,
cười gượng gạo “xe chỉ ấn trôn kim” đến đau khổ “xòe tay phủ mặt Chị không nhìn”. Mỗi lần em
tìm thấy là mỗi lần nỗi đau chị tăng lên.

Rõ ràng “Chị-Em” là cặp đại từ nhân xưng đặc biệt, được viết hoa và thể hiện mối quan hệ bất
thường. Nó vừa là danh từ riêng chỉ người, vừa là cặp đại từ xưng hô của nhân vật trữ tình dành
cho người con gái lớn tuổi hơn mình nhưng mình lại đem lòng thương mến. Cặp từ xưng hô ấy
lại trở thành rào cản, khiến cho khoảng cách của hai nhân vật ngày một xa hơn.

Chị mượn hình ảnh lá Diêu Bông đố em đi tìm nhưng nào đâu có chiếc lá đó. Trò chơi tìm lá hay
phải chăng là lời chối từ ý nhị của Chị khi biết em có tình cảm với mình, hay là nỗi đau
của Chị khi không thể vượt qua được những rào cản, định kiến của xã hội. Tất cả đều mông lung
trong thế giới huyền ảo của nhân vật trữ tình cũng là những hồi ức quá vãng của tác giả.

Lá Diêu Bông là bài thơ giàu tính nhạc với nhiều cách tổ chức nhịp điệu như hiệp các vần “ông”,
“im” giữa các câu “võng… chồng… Bông…sông”, “tìm… kim… nhìn” ; điệp cấu trúc “thời
gian + em tìm thấy lá”;… Cấu trúc ngữ pháp lặp lại 4 lần có ý nghĩa nhấn mạnh hành trình nỗ
lực kiếm tìm không mệt mỏi của nhân vật trữ tình.

Bài thơ rất khéo léo trong việc tạo ra một kết cấu đặc biệt. Với thể thơ tự do phóng túng, tác giả
sắp đặt 25 câu thơ dài ngắn khác nhau thành ba phần. Phần đầu gồm 7 câu thơ, là lời thách đố
của Chị đồng thời cũng là khởi nguồn cho câu chuyện của nhân vật trữ tình. 12 câu thơ tiếp theo
là hành trình song hành của hai chị em còn 6 câu thơ cuối cùng là dư âm của em.

Chị mở đầu câu chuyện, Em kết thúc câu chuyện và xuyên suốt từ đầu đến cuối là hình ảnh lá
Diêu Bông. Đến đây người đọc thấy nhân vật trữ tình đã một lần nữa dùng hình ảnh lá Diêu
Bông làm vĩ thanh cho câu chuyện tình của mình.

50
Lá Diêu Bông thành nỗi ám ảnh cho Em, trong cái ngẩn ngơ, khắc khoải, da diết. 6 câu thơ đã
khép lại bài thơ nhưng chuyện tình của nhân vật Em thì dường như chưa kết thúc. Lá Diêu Bông
ám ảnh nhân vật trữ tình hay ám ảnh bạn đọc về hình ảnh một chàng thi sĩ không biết từ bao giờ
cứ cầm chiếc lá như giữ bên mình kỉ niệm tuổi thơ, về hình bóng Chị xưa… để đi khắp mọi miền
đất nước.

Em là nhân vật trữ tình trong bài thơ, là Hoàng Cầm năm 12 tuổi với mối tình non thơ mà khắc
khoải nhưng bạn đọc hẳn không trách cứ được tâm hồn trong trắng và thật thà ấy bởi ta bắt gặp
một phần nào đó sự đồng điệu trong tâm hồn mình. Có phải chăng tình yêu trong “Lá Diêu
Bông” chỉ đơn thuần là tình Em-Chị, tình trẻ con- người lớn?

Tiếng lòng của Em cũng là tiếng lòng của tác giả, chàng thơ si tình biết cảm, biết yêu sớm với
cuộc đời. Nhưng nếu chỉ có thế thì câu chuyện tình yêu trầm buồn ấy không có sức sống lâu bền
và lay động nhiều thế hệ đến thế.

Nhân vật trữ tình Em trong “Lá Diêu Bông” của Hoàng Cầm hẳn phải mang tính khái quát cao
hơn. Nó phải phản ánh được gương mặt tinh thần của xã hội. Hoàng Cầm khi viết Lá Diêu Bông
chắc hẳn cũng không chỉ để giãi bày câu chuyện tình cá nhân của mình thông qua nhân vật trữ
tình Em mà còn muốn chạm đến một thứ tình cảm lớn lao, cao đẹp hơn.

Lá Diêu Bông là biểu tượng rất quan trọng của bài thơ cũng như của nhân vật trữ tình. Đây
không chỉ là sợi chỉ gắn kết mọi sự việc, mọi mối quan hệ, mọi nhân vật vào trong một câu
chuyện tình buồn. Nó còn là một biểu tượng đa nghĩa, biểu trưng cho mối tình hư ảo, lá bùa tình
yêu… và cũng biểu trưng cho cái Đẹp.

Trong tập thơ “Về Kinh Bắc” cùng với “Lá Diêu Bông” ta bắt gặp nhiều bài thơ có cái nhìn đồng
điệu ấy như “Cây tam cúc”, “Quả vườn ổi”, “Cỏ Bồng Thi”… Sự hoài niệm của tác giả, một mặt
là hồi tưởng kỉ niệm quá khứ, mặt khác còn mang ý nghĩa tìm về với truyền thống và cội nguồn,
với quê hương và hồn xưa dân tộc như sự trở về với những giá trị đạo đức thẩm mĩ mang tính lâu
bền, vĩnh cửu.

Lá Diêu Bông được viết bằng thể thơ tự do, không gò bó luật lệ, số lượng âm tiết từng dòng
không cố định, dài ngắn khác nhau. Trong bài thơ Lá Diêu Bông còn xuất hiện nhiều khoảng
trống, dấu lặng từ sự xuống dòng đột ngột, xé câu, tạo hình thang câu chữ, hay của sự vô ngôn,
lời nói bị hãm đột ngột và dấu … của sự im lặng. Thủ pháp độc đáo này đã giúp cho thế giới
nhân vật trữ tình trong Lá Diêu Bông là thế giới của giấc mơ.

Con người luôn hiện tồn trong hai thế giới chủ quan và khách quan. Thơ ca là cuộc dấn thân khai
phá thế giới chủ quan của con người, một miền đất vẫn được coi là tế vi, bí ẩn, khó nắm bắt. Thơ
ca tìm tòi bằng chính sự tinh tế mơ hồ của cảm xúc trữ tình, của nhân vật trữ tình.

51
Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm có thể nói đã chạm đến những
cảm xúc nguyên sơ, mỏng manh nhất của tâm hồn con người, khơi sâu hơn vào những “vùng
miền mờ lí tính” như vậy. Đây là một nhân vật bí ấn, đa chiều và chính nó là một trong những
nhân tố chủ đạo góp phần tạo nên thành công cũng như sự trường tồn bất tử với thời gian cho bài
thơ.

Sự Tích Bài Thơ Lá Diêu Bông - Hoàng Cầm

“Bài thơ “Lá diêu bông” tôi viết về một câu chuyện có thật, câu chuyện về mối tình đầu tiên
trong đời tôi. Vào một đêm năm 1959, khoảng 3 giờ sáng, tôi chợt tỉnh giấc rồi thao thức không
ngủ lại được. Căn nhà ở phố Lý Quốc Sư nằm sâu phía trong, lại thêm thuở ấy ban đêm không có
tiếng xe tiếng còi ầm ĩ như bây giờ, nên đêm khuya càng thêm thanh vắng. Chợt tôi thấy lóe
trong đầu văng vẳng mấy câu thơ do một người đàn bà đọc bằng giọng lanh lảnh: Váy Ðình
Bảng buông chùng cửa võng...

Tôi lấy ngay cây bút chì và tập giấy luôn để sẵn trên đầu giường ghi lại. Rồi từng mẩu ký ức cứ
hiện lên trong đầu tôi, hình ảnh người đàn bà, người Chị năm xưa cứ rõ nét dần để đi trọn hết bài
thơ.

Tôi nhớ đâu hồi lên 4 tuổi, cha mẹ tôi từ làng quê chuyển lên sống ở một phố nhỏ dọc đường
quốc lộ. Gọi là phố nhưng thực ra chỉ có khoảng 14, 15 ngôi nhà dựng dọc hai bên đường, cách
thị xã Bắc Giang chừng 6 cây số. Nhà tôi quay về hướng tây, phía trước là đường cái, sau nhà có
một mảnh vườn nhỏ có hàng rào dâm bụt, tiếp đấy là đường xe lửa. Người trong phố làm các
nghề thợ may, cắt tóc. Cha tôi có tủ thuốc bắc và gánh hàng xén của mẹ.

Lên 5, cha tôi đã cho tôi đến trường, cách nhà chừng 2 cây số. Nhưng đi học xa, dọc đường hay
bị trẻ chăn trâu bắt nạt, vì vậy năm sau ông gửi tôi lên tỉnh học. Lên 6 tôi đã đọc thông viết thạo,
lại thêm võ vẽ chữ Pháp, nên được nhận vào trường công ở thị xã Bắc Giang. Tôi được gửi ở nhà
thầy ký ga Núi Tiết. Mỗi chiều thứ bảy, tôi đi thẳng từ trường ra sân ga lấy vé, đi tàu mất 10 phút
là về đến ga gần nhà. Thuở ấy đi tàu dễ dàng nên trẻ con đi một mình cũng không sợ. Cuộc đời
của một thằng bé cứ lặng lẽ trôi nếu không có một biến đổi về tình cảm mà dấu ấn của nó sẽ để
lại trong lòng tôi nhiều cảm nghĩ đến tận sau này.

Năm đó tôi lên 10, đã học đến lớp ba (cour élémentaire). Một buổi chiều thứ bảy, tôi về nhà như
thường lệ. Ðang dừng lại ngoài sân nhìn vào trong nhà, tôi thấy có một người đàn bà đang cúi
xuống bồ hàng xén của mẹ tôi chọn mua một cái gì đó. Chị mặc chiếc áo phin trắng, ngoài có
chiếc gilê màu thẫm. Khi đó nắng xiên khoai dọi vào nhà, lúc chị ngửng đầu lên thì cả khuôn mặt
chị được ráng vàng chiếu sáng, tôi thấy bừng lên một khuôn mặt khiến tôi choáng váng cả người.
Không hiểu cái máu đa tình có từ bao giờ, mà chỉ mới lên chín lên mười, tôi đã bị khuôn mặt đó

52
làm cho tôi ngơ ngẩn suốt buổi chiều. Mua hàng xong chị ra về, khi đi ngang qua tôi trông theo,
thì biết chị là người hàng xóm, ở ngôi nhà ngay bên kia đường hơi xế cửa nhà tôi. Hỏi mẹ thì biết
gia đình nhà đó mới dọn về, có ba mẹ con, chị là con gái lớn, còn một cậu em trai nhỏ. Thảo nào
tuần trước tôi về chưa gặp. Tên chị là Vinh. Cả ngày chủ nhật hôm sau, tôi cứ ngong ngóng nhìn
sang nhà đàng trước, chờ xem chị có xuất hiện không. Ðến sáng thứ hai tôi lại quay trở về thị xã.

Về đến Bắc Giang, tôi làm ngay một bài thơ gửi chị, theo thể lục bát. Hồi đó tuy chưa học niêm
luật, nhưng tôi đã biết làm thơ lục bát. Nguyên tôi trọ học ở nhà ông ký ga, buổi tối nhà chủ
thường tập trung các bà ,các chị trong xóm đến làm hàng xáo. Buổi tối khoảng 9 giờ học xong,
trước khi đi ngủ, các bà các chị thường gọi tôi xuống nhà dưới đọc truyện cho mọi người nghe,
trong khi họ đang giần sàng thóc gạo. Mỗi tối tôi đọc chừng một tiếng rồi đi ngủ, các bà thường
thù lao, khi thì bát chè, khi thì phong kẹo. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi được đọc hết mọi truyện
thơ dân gian, từ Phạm Công Cúc Hoa, đến Nhị độ mai, rồi Hoàng Trừu... Tôi có giọng tốt, lại
biết ngâm nga, nên được các bà tín nhiệm, và cũng vì vậy mà thơ lục bát cứ ngấm vào người tôi,
không cần học cũng biết cách gieo vần.

Tôi chép bài thơ vào tờ giấy học sinh. Trang đầu chép bốn câu có vẽ hoa bướm, trang sau chép
nốt bài. Tôi không còn nhớ bài thơ tình đầu tiên đó viết những gì. Chỉ nhớ là tôi nắn nót viết lên
đầu trang giấy dòng chữ "Em gửi chị Vinh của em". Tôi bỏ thơ vào phong bì, chờ hôm về nhà,
tìm gặp chị trao tận tay nói: “Em gửi chị cái này.” Chị không mở ra xem, chỉ mỉm cười hơi bí
mật rồi bỏ vào túi, không nói gì. Sau đó chị không nhắc đến bài thơ đó, và tôi cũng không hỏi lại.

Từ đấy tôi không chỉ về nhà chiều thứ bảy, mà ngày thứ năm được nghỉ, tôi về cả chiều thứ tư.
Mục đích là để được gặp chị. Ngày nghỉ, hễ thấy chị đi đâu là tôi đi theo đấy, đôi khi chị thấy tôi
đi theo thì đưa tay dắt. Mỗi khi chị ôm chiếu ra sông giặt, tôi lại lẽo đẽo đi theo, ngồi trên bờ
nhìn chị cúi khom mình giặt chiếu ven sông. Tình yêu tôi dành cho chị chỉ có thế, nhưng nó cứ
đeo đẳng tôi hết năm này sang năm khác. Tôi càng lớn thì tình yêu đó càng thêm đằm thắm,
nhưng tôi chưa biết làm thế nào để bày tỏ mối tình của mình.

Lên 12 tuổi, những đêm sáng trăng, chị Vinh thường tập hợp trẻ em từ 10 đến 15 tuổi cả trai lẫn
gái, tụ tập trên bãi cỏ sau ga để tập hát. Chị Vinh có giọng ca tốt, thường cùng một vài chị trong
xóm hát Quan họ. Chúng tôi được chị dạy hát đủ loại dân ca như Trống quân, Cò lả... Mỗi khi
đứng hát, tôi thường chen vào đứng cạnh chị, có khi tôi đứng trước chị, đầu tôi vừa đúng ngang
tầm ngực của chị. Có khi chị ôm lấy vai tôi, tôi hơi ngả đầu vào người chị, chị khe khẽ vuốt cổ
xoa lên hai vai tôi. Tôi có một cảm giác là lạ, đó là những giờ phút say sưa nhất của tôi. Những
đêm tháng chín tháng mười, trời hơi se lạnh, đứng dưới gốc cây trên bãi cỏ, tôi được hơi ấm từ
người chị truyền sang. Hình như chị cũng cảm thấy sự ham muốn của tôi. Mặc dù lúc đó tôi còn
bé, nhưng là một cậu bé khôi ngô tuấn tú, lại có đi học, khác hẳn với những đứa trẻ khác trong
53
xóm. Ðược chị ôm trong lòng, nhưng tôi chưa bao giờ dám chủ động ôm người chị.

Lần ấy, trong dịp lễ Noel, tôi được nghỉ mấy ngày. Ðang đứng ở sân, tôi chợt thấy chị Vinh bỏ
cửa hàng đi ra cánh đồng. Tôi vội đi theo. Thấy chị rẽ xuống ruộng, bới các bụi cây ven bờ
ruộng. Tôi cũng nhảy xuống theo, không biết chị có nhìn thấy tôi hay không. Chợt chị ngẩng lên
hỏi: "Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng như thế này nhỉ?" Tôi không trả lời, nhưng thấy sung
sướng vì đã được chị chú ý tới. Rồi chị tiếp tục cúi xuống tìm, cuối cùng bước lên trên một cái
gò nhỏ có nhiều bụi cây dại. Tôi hỏi chị tìm cái gì. Chị dừng lại thẳng người lên, nhìn vào mắt
tôi nói: “Chị tìm cái lá...” (tôi không nhớ là chị gọi cái lá gì nữa). Rồi chị tiếp lời: “Ðứa nào tìm
được ta gọi làm chồng...” Nghe câu nói đó, tôi cảm thấy sung sướng vô cùng, người nóng ran
lên. Tôi nghĩ đó là một cái lá gì kỳ diệu lắm, có thể dùng làm thuốc, hoặc dùng đắp lên mặt như
các cô gái hồi đó thường làm. Tôi cảm thấy giữa chị và tôi có một tình yêu mãnh liệt. Mà tình
yêu đó giống như tình yêu tôi dành cho mẹ. Tôi không có chị gái, vì vậy đây là lần đầu tiên tôi
cảm thấy một tình yêu đối với người chị.

Hai mươi lăm năm sau, câu chuyện đi tìm lá của chị Vinh hiện lại trong bài thơ mà tôi đặt cho
cái tên là “Lá diêu bông.”

Chị thẩn thơ đi tìm


Ðồng chiều
cuống rạ
Chị bảo
- Ðứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng...

Một tuần sau, khi tôi từ trên tỉnh trở về, nhìn sang trước nhà thấy cửa đóng im ỉm. Tôi vội hỏi mẹ
nhà đó đi đâu rồi. Mẹ tôi trả lời, trong giọng nói như có nước mắt: "Nó đi lấy chồng rồi con ạ."
Tôi òa lên khóc, gục đầu vào lòng mẹ. Không biết mẹ tôi có biết mối tình của tôi đối với chị
Vinh không, mà sao mẹ lại nói bằng giọng nghẹn ngào? Khi đó cha tôi vừa về, tôi vội lau nước
mắt, không dám để cho cha nhìn thấy. Về sau mẹ kể cho tôi biết có một ông Quản khố xanh đi
qua đây, trông thấy chị đã mê vì nhan sắc. Chị bằng lòng lấy lẽ, ông Quản đưa cả mấy mẹ con về
Phủ Lý quê ông. Từ đấy tôi không gặp chị nữa.

Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đấy. Năm đó tôi đã 17 tuổi, vừa thi đỗ tú tài xong, đang sống
ở Hà Nội. Nhân ngày nghỉ, có một người bạn ở Sen Hồ có người anh cưới vợ, đã rủ tôi về nhà
chơi, luôn tiện ăn cỗ cưới. Cỗ bàn xong, chiều hôm đó tôi dạo ra phố Sen Hồ chờ tàu về Bắc
Giang. Lúc đó tôi đã viết báo nên cũng có tiền. Tôi mặc bộ complet, thắt ca vát, đầu đội mũ phớt,
ra dáng người dân chốn thị thành. Ðang thả bộ đi dọc phố, chợt nghe có tiếng gọi: "Cậu Việt ơi!"
54
Nghe giọng quen quen, tôi nhìn sang bên kia đường, thì thấy chị Vinh đang ngồi bên một cái tủ
bày bánh kẹo, cạnh một cái chõng bán nước chè. Tôi bước sang đường, chị Vinh mừng rỡ chạy
ra, đặt hai tay lên vai tôi rồi kéo vào nhà nói chuyện. Bà mẹ đã già nhưng còn nhớ tôi, hỏi thăm
cha mẹ tôi. Một lát sau bà bảo bà có việc phải đi vào làng, tối có thể không về, cậu cứ ở lại xơi
cơm. Cậu em đã lớn cũng theo mẹ đi. Hình như cả hai đều biết giữa tôi và chị Vinh còn có nhiều
điều muốn nói với nhau. Chị kéo tôi ngồi xuống chõng, chị ngồi cạnh ôm ngang lưng tôi. Tôi
nhẹ nhàng khẽ gỡ tay chị ra. Chị kể cho tôi biết tình cảnh của chị sau khi lấy chồng. Chị lấy ông
Quản đã có một mặt con. Mấy mẹ con chị về Phủ Lý cũng vẫn tiếp tục buôn bán làm ăn. Nhưng
dần dần ông Quản ruồng bỏ chị, đi theo người khác. Cuối cùng ông đã đuổi mấy mẹ con đi. Gia
đình chị không muốn trở về chốn cũ, nên đưa nhau về Sen Hồ.

Tôi ái ngại nhìn chị. Lúc này trong tôi không còn cái tình yêu say mê của thời thơ ấu. Tôi chỉ
cảm thấy thương cho một con người tiều tụy, nhan sắc đã tàn phai. Bảy tám năm đã trôi qua,
nhưng hình ảnh của chị năm tôi lên 10 vẫn còn đọng mãi trong tôi.

Ngày cưới Chị


Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.

Và cảm giác khi đánh mất chị như vẫn còn đi suốt đời thơ tôi:

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!...
... ới diêu bông!...”

Hoàng Cầm

(17-9-2004)

55

You might also like