Professional Documents
Culture Documents
Đại cương văn hoá phương đông (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn)
ĐỀ TÀI: PHONG TỤC HÔN NHÂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG
NAM BỘ
4. NHỮNG NGHI LỄ TẬP TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI DÂN TỘC CHĂM Ở
NAM BỘ.................................................................................................................29
4.1 Các nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân truyền thống của người dân tộc
Để hoàn thành tiểu luận “Phong tục hôn nhân các dân tộc thiểu số vùng Nam Bộ”
nhóm em xin được bày tỏ lòng biết ơn đến giảng viên ThS. Trương Thị Lam Hà đã
truyền đạt cho nhóm những nền tảng kiến thức, kỹ năng cần thiết để hoàn thiện bài tiểu
luận chúng em.
Cảm ơn giảng viên đã chỉ dạy, quan tâm và cho chúng em những lời động viên
cũng như bài học kinh nghiệm hữu ích để nhóm hoàn thành bài tiểu luận.
Mặc dù, đã rất cố gắng nhưng do trình độ chuyên môn còn hạn chế, trong quá
trình nghiên cứu nhóm còn gặp nhiều khó khăn và không tránh khỏi những sai sót. Qua
bài tiểu luận trên chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phản hồi từ cô
để đề tài của nhóm em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chúc quý thầy cô, quý cơ quan mạnh khỏe thành công trong công
việc và cuộc sống.
1. DẪN NHẬP:
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trước sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã khiến cho quá trình
giao lưu học hỏi giữa các nước và khu vực trở nên dễ dàng, kéo theo đó là sự thay đổi về
văn hóa trong quá trình này. Trong đó phong tục hôn nhân của người Việt cũng không
ngoại lệ, đặc biệt khi khu vực Nam Bộ là nơi giao thoa, tiếp xúc của nhiều nền văn hóa
khác nhau đã làm cho phong tục hôn nhân có nhiều sự biến đổi nhưng trước những sự đổi
thay của bối cảnh thời đại, vùng văn hóa Nam Bộ vẫn còn lưu giữ nhiều nét đặc trưng
khó trộn lẫn trong phong tục hôn nhân của các dân tộc thiểu số. Phong tục hôn nhân được
hình thành trong quá trình lịch sử ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận và
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục hôn nhân thể hiện tư duy nhận thức,
cách thức tổ chức đời sống, ứng xử của cộng đồng. Nghiên cứu phong tục hôn nhân
chính là một cách tiếp cận văn hóa của dân tộc đó một cách độc đáo. Từ những vấn đề
trên, nhóm sẽ đi sâu vào nghiên cứu phong tục hôn nhân của dân tộc thiểu số vùng Nam
Bộ, điển hình là dân tộc Khmer và Chăm - hai dân tộc có một lịch sử sinh sống lâu đời
trên mảnh đất Nam Bộ với nhiều biến động về lịch sử - văn hóa.
Mục đích chọn đề tài nhằm trang bị nhiều kiến thức phong phú về phong tục hôn nhân
của người Khmer và Chăm ở vùng Nam Bộ giúp tăng cường sự hiểu biết về đa dạng văn
hóa và tạo cơ hội giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, tìm hiểu sự khác biệt và tương đồng
lẫn nhau trong quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa. Đặc biệt giúp bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống của hai dân tộc này. Việc hiểu về các nghi lễ, tập quán
và quy tắc trong hôn nhân sẽ giúp duy trì và truyền dạy cho thế hệ sau.
- Đối tượng nghiên cứu: Phong tục hôn nhân của hai dân tộc Khmer và Chăm
1.4. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp và phân tích các thông tin từ sách, bài nghiên
cứu, tài liệu của các ngành khoa học khác, tham khảo những trang báo, trang thông tin.
Từ những dữ liệu đó nhóm sẽ phân tích, chọn lọc những dữ liệu phù hợp với yêu cầu về
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề bài để đưa ra những kiến thức, những đối
chiếu chính xác, khách quan về đối tượng.
Trinh tiết với người Khmer( Phrum mchà rây) được hiểu như là những gì còn mới,
đó là sự tinh khiết đẹp như một bông hoa đang còn trong bẹ được bao bọc không một
loài ong, loài bướm nào có thể đến gần và chạm vào được.
Người Khmer quan niệm về sự trong trắng của người con gái qua hình ảnh hoa
cau còn trong buồng. Quan niệm đó liên quan tới việc cắt hoa cau từ trên cây, họ cho
rằng hoa cau được cắt từ trên cây xuống còn nguyên vẹn, không bị nứt ra thì người con
gái đó còn trong trắng. Ngược lại, nếu người được chọn lên cắt không cẩn thận và vô tình
làm hoa cau bị nứt lớp vỏ bên ngoài, họ cho rằng người con gái đó đã không còn sự
nguyên vẹn và mất đi sự trong trắng. Họ không nghĩ đó chỉ là hành động bất cẩn của
người cắt mà luôn quan niệm theo người xưa là hoa cau đem xuống bị nứt, người con gái
ấy dường
10
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
như làm ô uế, mất đi bản sắc của dân tộc. Người Khmer rất quan trọng trinh tiết của
người con gái trước khi cưới vì họ đề cao “tín duy nhất”, “đời người chỉ có một lần” của
hôn nhân.
3.3.2 Quan niệm về tuổi tác
Trước đây độ tuổi kết hôn của người Khmer khá trẻ nam từ 18 tuổi nữ 16 tuổi đã
có người lập gia đình và sinh con. Nếu so với pháp luật hiện nay đã ban hành quy định:
nữ từ đủ 18 tuổi, nam từ đủ 20 tuổi thì sự cách biệt không quá lớn. Tuy nhiên, hiện tại
bất kỳ dân tộc nào thuộc lãnh thổ của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều
phải tuân thủ theo quốc pháp.
Ngoài ra, người Khmer rất xem trọng vấn đề tuổi tác và hiện nay vẫn còn lưu giữ
tập tục này. Xưa kia, nếu xem tuổi của hai người không hợp, Achar Plia và gia đình hai
bên sẽ không cho tiến hành đám cưới.
Tuổi hợp nhau để kết hôn được người Khmer An Giang tính như sau:
Tuổi hợp nhau để kết hôn: Người ta lấy tuổi người nam cộng tuổi người nữ, rồi chia cho
7. Nếu số dư là: 2, 4, 5, 6 là hợp tuổi; còn số dư: 0, 1, 3, 7 là không hợp tuổi.
Ví dụ: Nam 18 tuổi, nữ 16 tuổi ((18 + 16) : 7 ) = 34 : 7 số dư còn lại là 6 (tuổi này hợp,
kết hôn được).
3.3.3 Quan niệm về ngày lành tháng tốt, hướng tốt để kết hôn
Coi tháng tốt để tổ chức l̀cưới: Lấy tuổi người nam cộng tuổi người nữ và cộng
tháng dự định tổ chức đám cưới (Tất cả tính theo Dương lịch) rồi chia cho 3. Nếu số dư
ứng với: 1, 2, 4, 5, 6, 7 là tốt sẽ cưới được. Nếu khác các số này, bắt buộc nhà trai và nhà
gái bàn tính, chuyển đám cưới sang tháng khác cho ứng với một trong những con số kể
trên. Theo phong tục truyền thống, ngày tổ chức lễ hỏi cưới không được cử hành vào
tháng thiếu (tháng giêng, tháng ba, tháng năm, tháng bảy, tháng chín, tháng mười một) và
ba tháng nhập hạ của các vị sư trong chùa theo phật giáo Nam Tông Khmer (Therevada).
11
Người Khmer An Giang thường tổ chức đám cưới trong 6 tháng đầu năm Dương lịch, đặc
biệt trong các tháng 1, 2, 3, 4, 5 Dương lịch. Tuyệt đối không đám cưới vào những tháng
“Vasaa”, tức là những tháng “Vào mưa” trong mùa nhập hạ của sư sãi (từ 15/6 đến 15/9
Âm lịch).
Coi hướng tốt để đưa rể sang nhà gái: Việc đưa rể sang nhà gái cũng phải xem
hướng tốt để xuất phát. Theo phong tục có 08 hướng để xuất phát, tuy nhiên, mỗi hướng
phù hợp với mỗi ngày trong tuần như sau: thứ Hai: di từ Nam đến Tây; thứ Ba và thứ Tư:
đi theo hướng Đông Bắc; thứ Năm: đi theo hướng Đông; thứ Sáu: đi theohướng Đông
Nam; thứ Bảy: đi từ hướng Nam và Chủ Nhật: đi từ hướng Bắc (Lưu ý: Nếu hướng đi
không tiện, thì cố gắng đi vài bước, sau đó trở lại đi theo hướng thuận tiện. Bởi vì, đây là
phong tục, tập quán cần phải giữ).
12
Trang phục cưới của chú rể người Khmer mang đậm tính truyền thống. Đó là bộ
xà rông và áp ngắn, bỏ ngoài màu đỏ, cổ đứng, cài khuy và xẻ phía trước và quàng thêm
một chiếc khăn truyền thống bên vai trái. Hoặc chú rể có thể mặc loại áo Khmer ngắn
màu đỏ hoặc màu trắng, kiểu cổ đứng, tay dài, cài cúc ở phía trước. Vai trai vắt dải khăn,
đeo thêm dao cưới để múa mở đường trong lễ cưới truyền thống, cắt trầu cao cho cô
dâu,...
Nhìn chung, trang phục cưới truyền thống của người Khmer vừa kín đáo, sang
trọng mà không làm mất đi sự duyên dáng., lộng lẫy của cả cô dâu và chú rể. Ngày nay,
trang phục cưới Khmer vẫn được gìn giữ và được nhiều cô dâu-chú rể lựa chọn trong
ngày trọng đại của mình. Đây là cách lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
hiệu quả cần được phát huy trong cuộc sống hiện đại.
3.5. Các nghi lễ cưới hỏi của người dân tộc Khmer
13
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
linh ông bà đã quá cố vào dùng những lễ vật của đàng trai và xin nói cháu gái của của
ông bà. Khi cha mẹ cô dâu thống nhất gả thì cha mẹ chú rể đưa mâm rượu mời cha mẹ
cô dâu dùng và đưa mâm trầu cau cho mẹ cô dâu dùng, sau đó đưa các lễ vật có đôi, có
cặp cho nhà gái.
3.5.2 L̀ăn hỏi( Si s’la kanh- sêng)
Sau khi thống nhất, nhà trai chuẩn bị như sau: Tìm Acha xem ngày lành tháng tốt
để cho con trai và con gái của họ được hạnh phúc sau này, thông báo cho gia tộc biết, và
chuẩn bị lễ vật gồm có: Trầu, cau, trà, bánh, rượu, thịt,…. Sau đó, sẽ báo cho nhà gái biết
ngày cụ thể để chuẩn bị. Đến ngày, nhà trai và nhà gái gặp nhau. Đối với gia đình giàu,
số lượng người nhà trai sang nhà gái từ 30 đến 40 người; đối với gia đình đủ ăn số người
đi dự từ 10 đến 15 người.
Ở lễ này, nhà gái mời họ hàng đến dự và bà mai phải mời mọi người dùng trầu
cau. Chi phí buổi tiệc do nhà gái đảm nhận. Khi nhà trai ra về, nhà gái biếu lại một ít lễ
vật do nhà trai đem qua trước đó
Sau khi thực hiện nghi lễ ăn hỏi xong, nhà trai thương lượng nhà gái tiến hành lễ
xin cưới. Trong lễ này, phần lễ vật nhà trai mang sang nhà gái cũng không khác so với lễ
vật ở lễ ăn hỏi (trầu cau, thịt heo, gà, vịt, thuốc hút, đèn cầy, rượu, bánh tét, bánh ít, dưa
hấu, khóm...). Ngoài ra, nhà trai mang theo nhẫn cưới, khăn, áo, váy cho cô dâu. Có một
ít đám cưới khi thực hiện lễ xin cưới nhà trai giao một phần sính lễ đã hứa cho cô dâu ở
lễ dạm hỏi như: vàng, tiền, giấy tờ đất (giấy viết tay), phần còn lại đến ngày lễ cưới nhà
trai sẽ giao đủ cho cô dâu. 夃 Ā nghĩa việc đeo nhẫn cưới là nhắc nhở cô dâu và thông
báo cho mọi người biết là mình đã có chồng. Do vậy, dù giàu hay nghèo người Khmer
cũng phải tiến hành lễ xin cưới mới được xem là đúng nghi thức phong tục.
Sau lễ xin cưới chú rể sang nhà gái ở rể từ1 đến 2 hoặc 3 năm. Mỗi năm đến ngày
lễ Đônta, nhà trai phải gánh lễ vật (thịt, trái cây, bánh) sang thăm nhà gái. Tùy điều kiện
14
Trong thời gian ở rể, gia đình hai bên có người mất hay xảy ra biến cố, dẫn đến không đủ
điều kiện tiến hành lễ cưới, lúc này có thể làm buổi tiệc nhỏ, nhưng ít nhất cũng phải có
mâm cơm để cúng tổ tiên, ông bà gồm: 4 chén cơm, 4 chén canh, 2 con gà luộc.
Có hai hình thức tổ chức đám cưới. Đám cưới Pơ-Ran (đám cưới truyền thống) và đám
cưới Lơ-T’rai (đám cưới hiện đại). Về đám cưới truyền thống (Pơ-Ran). Trong đám cưới
này có 3 người hướng dẫn: 伃 Ȁng Achar Pelia (Thầy lễ) và hai ông Maha (người đại
diện trưởng tộc nhà trai và nhà gái). Vai trò của bà mai không còn xuất hiện ở lễ cưới”.
Do tất cả các nghi thức đều diễn ra bên nhà gái nên nhà gái phải sửa sang nhà cửa,
phòng cưới chu đáo. Đến ngày nhập gia, nhà trai cử người sang phụ nhà gái dựng rạp,
trang trí nhà cửa. Theo phong tục xưa, rạp cưới phải rộng, vừa để đãi khách, vừa để làm
nơi nấu ăn và phải có chỗ để chú rể cũng như nhà trai nghỉ ngơi.
Cùng lúc đó, bên nhà trai tiến hành làm bánh tét, bánh ít, bánh gừng, chuẩn bị lễ
vật để hôm sau mang sang nhà gái. Dù nghèo hay giàu, dù sính lễ ít hay nhiều, dù đơn
giản hay cầu kỳ thì trong ngày lễ cưới buộc phải có trầu cau, đầu heo và buồng hoa cau.
Đến 18 giờ nhà gái tiến hành làm lễ chọn chỗ (Sen pale) để tổ chức đám cưới.
Trong lễ này gia chủ phải chuẩn bị 4 mâm (2mâm cơm và 2 mâm canh) để cúng. Ngoài
ra, người ta làm lễ cúng tổ tiên, xin phép ông bà cho con gái đi lấy chồng.
15
• Lễ dâng cơm sớt bát cho nhà sư: Nghi thức dâng cơm cho Sư thông thường được
diễn ra vào lúc 7 giờ sáng và tùy theo gia cảnh, đám cưới lớn, nhỏ mà nhà gái mời
từ 4, 6, 8, 10 vị sư. Tùy theo quan niệm mỗi nơi mà có 2 cách thực hiện. Trường
hợp thứ nhất, gia chủ mời sư đến dùng cơm tại nhà; trường hợp thứ hai, gia chủ
mời sư đến nhà khất thực (tại xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang). Ở trường
hợp thứ nhất, Sư đến dùng cơm tại nhà rồi quay về chùa; trường hợp thứ hai, Sư
đến trước cổng nhà cầm bình bát khất thực. Đối với trường hợp thứ hai, khi Sư
đến nhà khất thực, cô dâu chú rể cùng cha mẹ và họ hàng hai bên ra thực hiện nghi
thức sớt cơm cho sư (mỗi lần sớt cơm dùng muỗng mút để vào bát một lần. Vì
vậy, mọi người xếp hàng đi sớt cơm cho đến khi nào bát của quý sư đầy mới
ngưng), sau khi bát đã đầy cơm, quý sư quay về chùa. Riêng phần thức ăn, gia chủ
gửi cho đệ tử của quý sư mang về sau.
• Lễ thức đưa rể sang nhà gái: Khoảng 8 giờ sáng, dưới sự hướng dẫn của ông
Achar Plia và hai ông Maha, nhà trai đưa rể sang nhà gái. Việc đưa rể phải thực
hiện đi đúng hướng như đã định (đã đề cập phần trước). Đoàn đưa rể gồm: cha,
mẹ, họ hàng, thanh niên, thiếu nữ nhà trai. Tùy theo gia cảnh mà lễ vật nhà trai
mang sang nhà gái từ 12 hay 24, 36 hoặc 60 mâm (gồm: trầu cau, thịt heo, vịt
luộc, gà luộc, rượu, thuốc lá, bánh tét, bánh ít, xoài, mận, quýt, chôm chôm, măng
cụt và buồng hoa cau). Tất cả lễ vật phải đủ đôi, trong các lễ vật kể trên, buồng
hoa cau được xem là lễ vật quý nhất. Trên mâm buồng hoa cau có phủ tấm vải đỏ
thể hiện sự trang trọng, trên tấm vải đỏ có để thanh kiếm - mâm lễ vật này chính
tay chú rể bưng. Đám cưới của người Khmer nhà trai không chuẩn bị mùng, mền,
chiếu, gối mà những vật này do nhà gái chuẩn bị. Ngoài ra, nhà trai phải đem đủ
số sính lễ trước đó đã hứa tặng cô dâu trong dịp lễ dạm hỏi. Để tăng thêm sự sinh
động vui
16
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
vẻ, nhà trai mang theo dàn nhạc dân tộc để hát những bài hát truyền thống trong lễ
cưới.
• Lễ múa mở cổng rào: Trước khi đoàn đưa rể đến, nhà gái sẽ rào cổng bằng một
nhành tre. Khi đến trước cổng nhà gái, nhà trai muốn vào được thì ông Maha
bưng mâm lễ vật dâng cho nhà gái và nói lời cầu xin: xin đất làm nhà, xin giếng
múc nước. Tuy nhiên, nhà gái vẫn chưa mở cổng rào, vì vậy ông Maha phải đứng
ra múa mở cổng rào (Râm Bơ Krôbâng). Khi múa xong đủ ba điệu, nhà gái mới
mở cổng. Từ đó, trong đám cưới của người Khmer có tục múa mở cổng rào. Sau
khi cổng rào được mở, cô dâu ra đón chú rể, rồi hai người cầm bông cau đi vào
nhà. Trong lúc này, em cô dâu bưng nước trà mời anh rể uống. Sau khi ông Achar
Plia cúng xong, chú rể được bố trí ngồi một nơi được chỉ định. Khi Achar Plia
hướng dẫn vào làm lễ, lúc này chú rể mới được phép bước vào nhà và cúng, lạy
bàn thờ tổ tiên để được công nhận là thành viên trong gia đình. Lễ này mang ý
nghĩa là “Tượng trưng cho sự tinh khiết của người con gái chưa hề giao tiếp với ai
bên ngoài” 1
• Lễ trình diện Neak TàSau khi thực hiện lễ mở cổng rào xong, khoảng 9 giờ, ông
Achar Plia cùng chú rể và một số bạn bè của cô dâu và chú rể mang lễ vật gồm:
đầu heo luộc, trầu, cau, rượu, trà cùng dàn nhạc cưới đến chỗ thờ Neak Tà
(Thần hộ mệnh của phum, sóc). Địa điểm thờ Neak Tà của phum, sóc thường là
nơi có cây cổ thụ to giữa đồng vắng. Sau đó, đầu heo luộc phải mang tặng cho
Achar Plia. Mang ý nghĩa: “Là mong được công nhận trở thành thành viên mới
của phum, sóc” 2.
• Lễ cắt tóc: Diễn ra khoảng 10 giờ, sau khi chú rể đi dự lễ trình Neak Tà. Lễ được
diễn ra mang hình thức tượng trưng, dưới sự thực hiện của hai thành viên trong
dàn nhạc. Một người cầm kéo và lượt, một người cầm nước vừa múa, vừa hát
bài
1Theo Ban Chỉ đạo phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa huyện Tri Tôn (2006), Giữ gìn phát huy bản sắc
văn hóa Khmer Tri Tôn.
2 Theo Nguyễn Văn Lữ (2007), Những nghi lễ vòng đời chủ yếu của người Khmer xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn
tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.(Trang 20)
17
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
hát cắt tóc kèm theo động tác mô phỏng cắt tóc, rửa mặt, rửa tay. Sau hai người
này, cha mẹ hai bên lần lượt cắt tóc cho cô dâu chú rể. Tuy nhiên cũng theo quan
niệm của mỗi ông Achar Plia mà lễ cắt tóc diễn ra hai cách. Cách thứ nhất, chú rể
cắt tóc ở phía dưới nhà, cô dâu cắt tóc phía trên nhà. Cách thứ hai, chú rể và cô
dâu đều cắt tóc ở phía trên nhà. Khoảng 13 giờ chiều nhà gái tiến hành đãi tiệc
cho bà con, quan khách, bạn bè hai họ. Lúc này cô dâu chú rể đến từng bàn tiệc
chào hỏi, ra mắt hai họ. Tiệc này có thể kéo dài đến 17 giờ.
• Lễ tụng kinh cầu phước: Đến 18 giờ trong ngày, gia đình mời sư đến tụng kinh
cầu phúc cho cô dâu chú rể với sự tham dự của cha mẹ và họ hàng hai bên. Dưới
sự hướng dẫn của ông Achar Plia và ông Maha, cô dâu chú rể ngồi vào vị trí được
sắp xếp. Cô dâu ngồi đối diện với sư, chú rể ngồi phía bên trái ông Achar Plia. Cô
dâu và chú rể ngồi xấp bằng, người cúi xuống, tỳ hai tay lên gối, chấp tay lạy và
chú ý lắng nghe sư đọc kinh chúc phúc. Kinh chúc phúc có nội dung chúc cô dâu
chú rể luôn được bình an, vợ chồng sống phải chung thủy, sống hiếu thảo với cha
mẹ hai bên và không quên ơn những người quá cố.
• Lễ nhuộm răng: Theo ông Chau Kung - Achar Plia chùa Sà Lôn cho biết: “Trước
kia lễ nhuộm răng cho cô dâu được tiến hành vào khoảng 21 giờ 30 phút. Việc
nhuộm răng nhằm nhắc cô dâu sau khi có chồng, trước khi nói chuyện phải suy
nghĩ cẩn thận, đừng thốt ra lời “không hay, ý không đẹp” làm phật lòng bên
chồng hoặc đừng “lắm lời, nhiều chuyện” sẽ không đem lại lợi ích, không khéo
mang lại nhiều rắc rối cho bản thân”.3
• Lễ tri ân cha mẹ: Thành phần tham dự bao gồm cô dâu, chú rể, ông Achar Plia
cùng cha mẹ hai bên. 伃 Ȁng Achar Plia dạy bảo cô dâu chú rể phải nhớ ơn sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ, phải biết kính trọng và cư xử đúng theo đạo lý làm
con. Ngoài ra, cô dâu thực hiện nghi thức đứng che dù và dâng trầu cau cho mẹ
ruột (trường hợp mẹ mất, người dì hoặc người cô thay thế). Dựa vào gia cảnh
nhà trai (giàu, đủ ăn, nghèo) mà gửi cho nhà gái một khoản tiền nho nhỏ, khoản
tiền
3 Theo Nguyễn Văn Lữ (2007), Những nghi lễ vòng đời chủ yếu của người Khmer xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn
tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
18
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
này được đặt trong mâm trầu và cô dâu chính là người dâng lên cho mẹ mình. Số
tiền trên gọi là tiền đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục. Đồng thời, sau đám
cưới, số tiền này tặng riêng cho cha mẹ ruột cô dâu (Điều lưu ý là, nếu cha mẹ
ruột đã mất thì người thân nhất sẽ được nhận). Đây là luật tục của người Khmer!
• Lễ đón giờ tốt: Khoảng 5 giờ sáng (theo Hòa thượng Chau Sơn Hy) Dưới sự chỉ
dẫn của ông Maha chú rể đến bàn thờ tổ tiên vái, lạy. Sau đó, chú rể đến bàn
Trời (Tevađa) đặt quay hướng đông để đón giờ tốt. Khi giờ tốt đến, ông Achar
Plia đánh một tiếng cồng báo hiệu và chú rể được hướng dẫn đi vào nhà. Khi vào
nhà, chú rể tiến hành lễ tổ tiên, bên nhà gái đón nhận các lễ vật: 3 ly trầu cau,
đèn cầy, nhang. Tiếp đó dàn nhạc được mở lên và tấu bài múa mở buồng cô dâu,
dưới sự hướng dẫn ông Maha cô dâu từ trong buồng đi ra ngồi cạnh chú rể.
• Lễ xoay vòng đèn: Sau khi cô dâu ra ngồi bên cạnh chú rể, ông Achar Plia cầm
đèn cầy quay (quay theo chiều kim đồng hồ) và chuyền cho 9 người (4 nam, 5
nữ), những người này đã có gia đình và còn đủ đôi, vợ chồng hạnh phúc, con,
cháu ngoan hiền. Họ được sắp xếp ngồi ở đó và quay đủ 9 vòng (Bon Pil pưl), vừa
quay vừa đọc kinh Phật chúc phúc cô dâu, chú rể. Tiếp theo, ông Achar Plia thực
hiện nghi lễ cắt buồng hoa cau.
• Lễ mở buồng hoa cau: Hoa cau là vật quan trọng, không thể thiếu được. Hoa cau
vừa tượng trưng cho sự trong trắng của người con gái, vừa biểu thị lòng biết ơn
đối với cha mẹ, anh chị. Vì vậy, lễ mở hoa cau được tiến hành rất thiêng liêng,
trang trọng. Người thực hiện mở hoa cau không ai khác là mẹ cô dâu, người có
công sinh thành, dưỡng dục. Dưới sự hướng dẫn của ông Maha, mẹ cô dâu cầm 3
nén nhang, khấn cầu xin ơn trên ban điều tốt lành cho con của mình, bà xức nước
thơm lên bông cau, vuốt 3 lần, sau đó dùng tay rạch 3 đường dọc theo buồng
cau.伃 Ȁng Achar Plia xức nước thơm lên hoa cau lần nữa rồi tách nhẹ buồng
cau ra. Buồng hoa cau chia thành 3 bó: bó tượng trưng công cha, bó tượng trưng
nghĩa mẹ, bó tượng trưng ơn anh và tất cả được đem cắm vào bình hoa.
19
4 Theo Đặng Thị Kim Oanh (2002), Hôn nhân của người Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
20
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
về chứng kiến đám cưới của con cháu. Trong trường hợp cô dâu có nghén hay một
trong hai người (cô dâu, chú rể) có người kết hôn lần hai thì nghi thức này bỏ qua.
Ở trường hợp 1 nếu thực hiện nghi thức này, khi đứa bé sinh ra sẽ không minh
mẫn; ở trường hợp 2, tổ tiên, ông bà sẽ không về chứng kiến, vì tổ tiên, ông bà chỉ
chứng kiến một lần ở lần kết hôn lần đầu của mỗi người con cháu.
• Lễ nhập phòng: Sau khi thực hiện lễ cột chỉ cổ tay, ông Maha hướng dẫn cô dâu
chú rể theo đường đã rắc hoa cau vào phòng tân hôn. Cô dâu đi trước, tay cầm
đĩa Paipơlưng (tượng trưng cho linh hồn của cô dâu) gồm: vải, gạo, nhang, đèn,
lá trầu, chuối. Chú rể nắm vạt áo cô dâu bước theo sau.
• Lễ dâng cơm cho ông bà cha mẹ: Sau khi cơm và thức ăn đã được dọn sẵn, cô dâu
xới cơm và bưng chén cơm, canh đưa cho cha mẹ của chú rể và ngược lại chú rể
nhận chén cơm, canh từ tay cô dâu đưa cho cha mẹ cô dâu và lấy thức ăn mời ông
bà, cha mẹ hai bên. Lúc này, cô dâu cùng chú rể được ông bà, cha mẹ hai bên
chúc trăm năm hạnh phúc. Sau khi ông bà, cha mẹ dùng xong thì đi ra ngoài, lúc
này, cô dâu chú rể mới được dùng. Mâm cơm này phải được bố trí ngay trước bàn
thờ tổ tiên. Đây là một nghi lễ thể hiện lòng biết ơn sinh thành, dưỡng dục của con
cháu đối với ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, còn có ý nghĩa là xin tổ tiên, ông bà, cha
mẹ đồng ý tác hợp cho hai trẻ nên vợ nên chồng.
• Lễ quét chiếu: ( Theo ông Chau Kung - Achar Plia chùa Sà Lôn): Trước đây, lễ
quét chiếu (Sa kate) tiến hành khoảng 18 giờ (Hiện nay ở An Giang, lễ này được
tiến hành sau tổ chức tiệc buổi sáng). Khi cô dâu chú rể vào phòng, có 3 người
phụ nữ lớn tuổi hơn cô dâu chú rể (gia đình ấm yêm, vợ chồng đầy đủ, con, cháu
ngoan hiền) mang chiếu ra nói: “Chiếu này chiếu vàng, chiếu bạc, ai được nằm
trên chiếu sẽ làm ăn khá giả, đông con”. Sau đó, chú rể đứng ra mua chiếu. Chú rể
trải chiếu mời ông Maha và cô dâu cùng ngồi. Tiếp đó, ông Maha giáo huấn vợ
chồng phải cư xử tốt và thủy chung với nhau suốt đời. Để cảm ơn ông Maha, chú
rể và cô dâu sẽ đặt tiền hoặc lễ vật có giá trị biếu ông Maha.
• Lễ chung giường: Sau lễ quét chiếu người ta tổ chức lễ chung giường cho cô dâu
chú rể. Theo phong tục, chọn 3 người phụ nữ cao tuổi (có nhiều kinh nghiệm,
gia
21
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
đình thuận hòa, chồng vợ đầy đủ, con cháu ngoan hiền) đến phòng tân hôn và ngồi
xen kẽ giữa cô dâu, chú rể. Vợ chồng mới cưới này tiến hành thắp nhang đèn và
cả 3 người phụ nữ đều chúc phúc cho vợ chồng mới trăm năm hạnh phúc. Cùng
lúc đó, người ta lấy trà, bánh đem cúng tổ tiên rồi mang đến cho cô dâu chú rể ăn.
Ngoài ra, cô dâu chú rể còn đút cơm vắt, chuối, trái cây, nước dừa cho nhau ăn
uống thể hiện tình yêu thương đậm đà và gắn bó của đôi vợ chồng. Sau khi ăn
uống xong, cô dâu chú rể vào giường, người vợ vào trước, người chồng theo sau.
Sau khi hướng dẫn hai vợ chồng cách trải chiếu, giăng mùng, nằm ngủ (chú rể
nằm bên tay phải, cô dâu nằm bên tay trái) thể hiện cả hai vợ chồng tôn trọng lẫn
nhau. Lúc này, 3 người phụ nữ đi ra ngoài. Nghi lễ đám cưới đến đây xem như đã
kết thúc. Sau đám cưới 3 ngày, cô dâu chú rể mang cơm lên chùa dâng Sư Cả,
nhằm đền ơn trước đây Sư nuôi, dạy chú rể khi ở chùa. Tại đây, cô dâu và chú rể
được Sư Cả làm lễ chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ cùng với sự tham gia của cha
mẹ, họ hàng hai bên (thông thường họ hàng hay hàng xóm gần nhà bên vợ là chủ
yếu). Sau đám cưới cô dâu làm bánh Nôm Klanh đem biếu bà con bên chồng.
Nhân dịp này, cô dâu và chú rể được họ hàng bên nhà trai chúc phúc lần nữa qua
hình thức cột chỉ cổ tay.
Danh mục bài bản âm nhạc sử dụng trong lễ cưới cổ truyền của người Khmer
STT TÊN BẢN NHẠC NGHI THỨC
1 Hum rôông ( bài 1) Lễ nhóm họ
Hum rôông (bài 2)
2 Mlup đôn Lễ cắt hoa cau từ trên cây xuống
3 Phka lơ mêk
4 Đơm rây thngôn phluk Đưa chú rể sang nhà gái
5 Đơm rây Xo
6 Bơk Rô boong Hát múa mở cổng rào
7 Kăt Xok (03 bài) Lễ cắt tóc cô dâu – chú rể
8 Phat chêay
9 Tropeng Pêay Đưa cô dâu chú rể đi tắm
10 Preah Thông – Neang Neak Lễ nhuộm răng
22
Gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng góp phần đảm bảo sự ổn định và phát
triển của một quốc gia, dân tộc. Gia đình là chức năng tế bào của xã hội góp phần vào sự
23
Tuy nhiên trong phong tục của người Khmer những gia đình có hai con trở lên
người con út trong gia đình bắt buộc phải ở lại nhà để lo hương quả. Vậy để giải quyết
hài hoà giữa vấn đề mẫu hệ và con út trong gia đình, một điều bổ sung thêm trong phong
tục này là người con trai phải sống ở nhà vợ tối thiểu 3 ngày, sau 3 ngày ấy người con
trai, người chồng có thể quay về để lo hương quả cùng với vợ. Mặc dù quy luật này áp
dụng cho người con út trong gia đình nhưng cùng với sự phát triển ngày càng hiện đại
của xã hội thì quy luật này cũng được áp dụng rộng rãi với cả những gia đình bình
thường nhưng trong bất kì hoàn cảnh nào, chàng trai phải ở nhà vợ trong ba ngày mới có
thể quay về nhà mình hoặc hai vợ chồng sống tách biệt với cha mẹ hai bên.
3.7. So sánh phong tục hôn nhân của người Việt và người
• Quan niệm:
- Dù là dân tộc Kinh hay dân tộc Khmer, một điều luôn được đề cao và coi trọng
trong hôn nhân đó là sự chung thủy (sự duy nhất).
- Việc đề cao trinh tiết, sự trong trắng của người con gái cũng là một điểm chung
trong quan niệm của người Kinh (Nho giáo) và người Khmer nói chung.
24
- Đám cưới thường ban đầu bằng lễ đám cưới, sau đó là lễ đám hỏi tại nhà trai hay căn
nhà gái. Trong 1 lễ cưới cổ điển, bộ đôi đeo nhẫn, đính ước, triển khai những nghi lễ, lễ
vật và triển khai những lễ thức chúc phúc cho cuộc hôn nhân gia đình đang tới. Ngoài
ra, ăn hỏi còn có sự góp mặt của họ dãy, anh em, làng xóm, đặc biệt là sự góp mặt của
hàng ngũ những thành viên chuyên nghiệp ca, múa càng làm tăng thêm không khí vui
mắt của sự kiện.
Khác nhau
25
3.8. Biến đổi về phong tục tập quán cưới hỏi của người dân tộc Khmer xưa và nay
Quyền quyết định hôn nhân: Theo truyền thống của người Khmer xưa, hôn nhân
của con cái đa phần do cha mẹ quyết định “ cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Con cái khi
đến tuổi trưởng thành không có quyền được tìm hiểu hay lựa chọn người bạn đời khi
chưa có sự đồng ý của cha mẹ. Bởi lẽ, cha mẹ được xem là người có vốn sống, có kinh
26
27
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
các cộng đồng người dân tộc Khmer đang dần mở rộng phạm vi giao tiếp thông qua việc
trao đổi trong học tập, lao động và làm việc.
Trang phục cưới và tổ chức hôn l̀: Hiện nay trang phục cưới của người Khmer có
sự cách tân đi đôi chút, xuất hiện xu hướng Tây hoá trong việc tổ chức hôn lễ. Lễ cưới
trước đây được tổ chức trong vòng ba ngày hai đêm nhưng ngày nay đã được thu ngắn lại
trong hai ngày một đêm.
Về biến đổi tích cực: Trong việc tìm hiểu trước hôn nhân, đôi trai gái được thoải
mái và tự do tìm hiểu. Việc mai mối cũng được giản lược đi cho phù hợp với xu thế biến
đổi. Thời gian trước, việc kết hôn giữa những người trong họ với nhau là một trong
những tập tục của người Khmer. Tuy nhiên, cho đến nay, nhờ việc tự ý thức của bà con
và công tác tuyên truyền chính sách pháp luật về hôn nhân gia đình mang lại hiệu quả,
mà tập tục này gần như đã được xóa bỏ. Ngày nay tục hỏi cưới của người Khmer đã giảm
bớt một số nghi thức cho phù hợp với điều kiện sống mới, nhằm tiết kiệm chi phí và thời
gian nhưng đảm bảo tính truyền thống, giữ lại những nghi thức cơ bản là nét đẹp truyền
thống trong phong tục cưới hỏi của người tộc mình.
Tiểu kết: Ở mỗi dân tộc sẽ có những nghi lễ cưới khác nhau do chịu ảnh hưởng của
phong tục tập quán, văn hóa của dân tộc mình. Vì vậy, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa qua phong tục hôn nhân người Việt Tây Nam Bộ nói chung và người dân tộc Khmer
nói riêng chính là gìn giữ những yếu tố văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếp nhận có chọn
lọc những yếu tố văn hóa của các tộc người cùng cộng cư và cả yếu tố văn hóa bên ngoài
du nhập vào. Trải qua sự biến thiên hôn nhân của người Khmer xưa và nay đã có nhiều
sự thay đổi nhưng nhìn chung “cái cốt lõi nhất” vẫn được lưu giữ một cách trọn vẹn.
28
Với người Chăm Islam ở An Giang, nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hôn nhân là hôn
nhân đồng tôn giáo. Nếu một người Chăm Islam muốn kết hôn với một người khác đạo
thì buộc người đó phải học và nhập đạo Islam trước khi làm lễ cưới. Ngoài ra, người
Chăm Islam An Giang ngày trước còn có xu hướng kết hôn với những người cùng dòng
họ, bởi vì mong muốn tăng cường quan hệ gắn kết gia đình trong tộc họ thêm chặt chẽ.
4.2 Quan niệm về cưới xin
Người Chăm Islam ở An Giang, coi việc kết hôn xây dựng gia đình là bổn phận
của tín đồ làm hài lòng Thượng đế và ngược lại sự độc thân là điều tội lỗi. Quan niệm đó
chi phối tinh thần của mỗi tín đồ Islam khi đến tuổi lập gia đình, nam và nữ cũng như cha
mẹ của họ đều chú trọng việc lập gia đình, tạo lập hôn nhân. Đó là trách nhiệm của
những người làm cha, làm mẹ và cũng là nhu cầu thiết thực của con người khi đến tuổi
kết hôn. Tuổi kết hôn của người Chăm Islam ở An Giang hiện nay thường 18 - 25 tuổi.
Do ảnh hưởng từ giáo luật Islam nên ở người Chăm Islam hầu như không có tình trạng
sống chung, sống thử trước hôn nhân. Việc sống chung, sống thử hay quan hệ tình dục
trước hôn nhân được người Chăm Islam An Giang chú trọng giữ giới luật của mình. Nếu
vi phạm sẽ bị cộng đồng lên án, cô lập, bị đồng đạo coi thường. Giáo luật Islam giáo quy
định những người quan hệ tình dục trước hôn nhân dẫn đến có thai trước khi tổ chức đám
cưới sẽ ảnh hưởng không chỉ với bản thân họ mà còn ảnh hưởng đến con cái của họ sau
này. Con của họ sau này sẽ không được làm chủ hôn khi trong gia đình có đám cưới, bởi
người Chăm Islam coi đó là con ngoài giá thú, không phải đứa con của người cha, mà chỉ
là đứa con của người mẹ.
Người Chăm quan niệm đời người có 3 lần sinh. Cưới là lần sinh thứ hai. Ở đây
không phải cha mẹ sinh thành đứng ra “sinh” mà là ông Inư Amư có thể dịch là cha mẹ
29
Tiêu chí chọn một người chồng lý tưởng trong xã hội Chăm cần có các đặc tính
như: vui vẻ, tháo vát, cần cù, gần gũi và có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng. Trong
lao động, nam giới phải thạo tất cả các việc của nam giới như cày bừa, làm rẫy, ruộng,
dựng nhà… Đặc biệt phải có học vấn cao, họ rất trọng người có học vấn. Ngoài ra người
Chăm Nam Bộ quan niệm nam giới phải buộc thông thạo kinh “Cran”
4.3.2. Tiêu chí chọn một người vợ tốt
Tiêu chuẩn của người vợ phải nết na, thùy mị, giỏi công việc nội trợ như nấu ăn,
quản lý nhà cửa. Ngoài ra phải biết dệt vải, kéo sợi và đặc biệt nuôi con phải giỏi…
Tập quán truyền thống của người Chăm xưa không coi sắc đẹp là điều chính yếu
tạo nên hạnh phúc, đảm bảo hạnh phúc gia đình, nhưng nam cũng như nữ, vừa có sắc lại
vừa có đức có tài thì được mọi người yêu mến và là đối tượng của lớp trẻ. Quan niệm đó
đã xuyên suốt nhiều thế kỷ và tồn tại cho đến ngày nay. Ngược lại, nếu cô gái chỉ có sắc
đẹp mà không biết lao động, không có đủ các đức tính cần thiết của người vợ thì bị dư
luận chê cười, khó lấy chồng.
Đôi nét về trang phục
Đúng ngày định, nhà trai mang đến nhà gái một mâm trái cây làm lễ vật và những
vật dụng cần thiết cho cô dâu trong đời sống riêng sau này như áo dài cưới, xà rông, khăn
đội đầu, kim chỉ... Ít hôm sau, nhà gái “trả lễ” nhà trai một mâm bánh và nhà trai trao
một phong bì tiền cho nhà gái. Gần tới ngày cưới, thầy cả cùng với nhà trai mang giường
(người Chăm gọi là ghế) sang nhà gái. Thầy cả cầu nguyện trong phòng cưới và những
người cùng đi sẽ giúp dọn và trang trí phòng cưới. Điểm đặc biệt của một đám cưới
30
Chú rể Facốp mặc chiếc áo dài truyền thống màu trắng của người Hồi giáo, đầu
quấn khăn sà pạnh (một loại khăn đội đầu đặc trưng của người Chăm, chỉ sử dụng trong
những dịp lễ hội trọng đại). Cũng có nhiều chú rể không đội khăn sà pạnh mà diện nón
capé, một loại mũ có hình tròn, không vành, trang trí rất đẹp. Phía ngoài bộ trang phục
truyền thống, chú rể diện một áo vest đen.
4.4. Các nghi lễ cưới hỏi của người dân tộc Chăm
4.4.1 L̀mai mối
Hôn nhân của người Chăm ở An Giang mang đặc tính của Islam giáo với những
ảnh hưởng của giáo luật Hồi giáo mà người Chăm tin theo. Gia đình của người Chăm ở
đây thuộc gia đình phụ quyền, nam giới là chủ gia đình. Chồng cưới vợ, nhưng phải ở rể,
sinh sống bên nhà vợ (Huỳnh Thị Hiếu, 2011). Theo đó, người Chăm nơi đây khi có con
trai ở độ tuổi kết hôn (18 - 20 tuổi), cha mẹ đều chú ý đến việc xây dựng gia đình cho
con. Bắt đầu từ việc chọn dâu, nhất là những đêm “nhóm họ” (Màlằm nuwk tàgà) bên cô
dâu. Vào dịp này, hầu hết những thiếu nữ chưa chồng, kể cả những cô gái bị “cấm cung”
đêm đó cũng đến tham dự, chúc mừng cô dâu. Đây là dịp tốt để những bà mẹ có con trai,
dù rất bận cũng tìm cách đến lân la trò chuyện để chọn cô dâu tương lai cho con mình.
Khi đã tìm được cô gái ưng ý, gia đình đồng tình, nhà trai nhờ cậy ông mai (ôn maha)
hay bà mai (mụ hama) đi qua nhà gái bàn bạc, trao đổi. Nếu nhà gái nhận lời, ông
mai/bà mai cần đi lại nhiều lần để thống nhất ngày làm đám cưới (Võ Văn Thắng,
2010).
Trong hôn nhân của người Chăm Islam theo truyền thống, có khi do bà con, hàng
xóm quen thân giới thiệu, gia đình nhà trai đồng ý, và thường nhờ người giới thiệu đó
làm mai luôn. Sau khi hai bên gia đình đều đồng ý, mỗi bên cha mẹ mới thông báo cho
con mình biết
31
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
4.4.2 L̀dạm hỏi
Lễ hỏi hay đám nói (Pakloh panuốik): Theo ý nghĩa của người Chăm, đó là lễ
“dứt khoát, lời nói”. Bên nhà trai lập một đoàn gồm 5 - 6 người và mời ông Ahly (người
phụ trách Surao, thường là trưởng xóm, ấp) sang nhà gái với lễ vật thường là một mâm
lớn trái cây. Bên nhà gái cũng có cha mẹ, thân nhân, họ hàng, ông Ahly tham dự để
chứng kiến lễ nói (Đỗ Thị Thanh Hà, 2011). Sau đó, khoảng một tháng trước ngày cưới,
bên nhà trai đem tiền chợ (Pa lan chơ) sang nộp cho nhà gái, cùng với vải, áo, chăn cho
cô dâu.
4.4.3 L̀cưới (Ia khah)
Thông thường lễ cưới được tổ chức hai ngày. Với người Chăm Islam ở An Giang,
trong lễ cưới có lễ nhóm họ (Hagây padung bariuk), có nghĩa là ngày dựng việc của gia
đình và cộng đồng. Trong ngày đó, cô dâu, chú rể ở nhà của mình đều làm lễ “Tàcộ
Kghề” (Lễ lên ghế) để chuẩn bị kết hôn. Lễ này, bên chú rể có “ôn Uốk” còn bên cô dâu
có “mụ Uốk” phụ trách. Đám cưới của người Chăm ở đây bắt buộc phải có ôn Uốk và
mụ Uốk. Đây là những người có nhiều am hiểu về tập tục dân tộc để hướng dẫn cho cô
dâu, chú rể về cách ăn mặc, trang phục, trang sức, bày trí giường của đôi tân hôn trong
ngày nhóm họ, nhất là trang trí phòng hoa chúc để khi làm lễ “động phòng” theo đúng
tập tục của người Chăm theo Islam giáo. Cô dâu chú rể phải làm theo sự hướng dẫn của
ông, bà này (Võ Văn Thẳng, 2010; Huỳnh Thị Hiếu, 2011).
Khi cô dâu chú rể mặc trang phục mang đồ trang sức lên ngồi ghế lễ xong, ôn
Uốk, mụ Uốk bắt đầu làm lễ cho hai người ở hai chỗ khác nhau. Một bô lão đứng ra
khấn vái, đọc kinh. Những người xung quanh đọc phụ họa theo và tung hô chúc tụng cô
dâu, chú rể trước đĩa hương trầm nghi ngút. Khi làm lễ xong, “chú rể” mới được gọi
chính thức là “Pa nganh tanh la cây” và “cô dâu” là “Pa nganh tanh ca mây”. Đến tối, cô
dâu và chú rể đều tiếp bạn bè đến chúc tụng. Đặc biệt bên cô dâu, những cô gái “cấm
cung” được gia đình, cha mẹ đưa đến tham dự cùng với những thanh nữ trong xóm làng,
người Chăm gọi là “Malầm nức Tàgà” (đêm của con gái
32
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
4.4.4 Ngày cưới (Hagây He - ngày đưa rể)
Đây là ngày gia đình họ nhà trai đưa rễ sang bên nhà gái. Lúc chú rể bước xuống
cầu thang, bạn bè thanh niên hát vang bài “La mệ La mi” - bài hát giã từ cha mẹ. Nội
dung bài hát nói lên lòng nhớ ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục với bao nỗi niềm, tâm sự
khi bước chân rời khỏi gia đình. Đoàn đưa rể gồm những bộ lão đi đầu, trong số này có
mặt ông Hakim hay ông Ahly và 3 em thiếu niên trai ăn mặc đẹp, mỗi em bưng 1 khay
bên trong đựng các đồ lễ gồm bánh dân tộc, trầu cau, vôi, thuốc lá, gạo và 8 trái chuối.
Trước khi đến nhà gái, chú rể được đưa đến thánh đường làm lễ.
Tại thánh đường, chú rể được bố trí ngồi đối diện với cha vợ, cũng là chủ hôn;
ngồi 2 bên chủ hôn là các vị bô lão bên nhà gái - những người có uy tín được lựa chọn
cẩn thận. Một người khác có uy tín sẽ đọc bài kinh dạy bảo chú rể về bổn phận làm
chồng đúng như giáo luật Islam, theo phong tục tập quán của người Chăm và pháp luật
Nhà nước. Sau đó, cha vợ bắt tay con rể và nói “Cha gả con gái tên là... cho con với số
tiền đồng (Sây kavanh) là...”. Chàng rể kính cẩn đáp lại: “Con nhận cưới con cha tên là...
với số tiền đồng là…”. Tiếp theo, mọi người cầu nguyện chú rể được sống mạnh khỏe,
may mắn và hạnh phúc cùng cô dâu.
Kết thúc các thủ tục hành lễ tại thánh đường, chú rể được mọi người đưa đến nhà
gái. Khi đến nơi, có một người trong tộc họ nhà gái ra đón đoàn nhà trai, rồi dẫn chú rể
đến phòng cô dâu cùng 3 thiếu niên với 3 khay đồ lễ. Từ cửa nhà đến thẳng phòng cô
dâu, thường trải một tấm vải trắng hoặc tấm thảm đẹp, để cho chú rể đi. Trong phòng
cưới, cô dâu được mụ Uốk trang diện tươm tất, ngồi ở giữa giường hơi chếch về phía bên
trái. Cô dâu ngồi trên giường cưới, trang điểm lộng lẫy, mặc trang phục cưới, có cài 3
cây trâm Sujok trên đầu. Cô dâu trang điểm theo lối tóc được búi cao lớn đỉnh đầu, quấn
quanh đầu là chiếc băng nhưng đính hạt cườm có công dụng làm chỗ tựa để cắm ba chiếc
trâm đứng thẳng. Trong ba chiếc trâm này, chiếc ở giữa lớn nhất có hình mảnh trăng lưỡi
liềm và ngôi sao, biểu tượng của đạo Islam. Vì vậy, trong ngày cưới, khi làm lễ, chú rể sẽ
rút cây trâm trên đầu có dấu với ý nghĩa xác nhận cô dâu là một Muslim đích thực. Lúc
33
Tối đến, mụ Uốk phủ lên đầu cô dâu và chú rể một miếng vải to, rồi mời những bà
con còn đầy đủ vợ chồng, đông con, làm ăn khá giả đến giăng mùng, ám mùng để cầu
mong cho đôi vợ chồng mới được hạnh phúc như những bà sửa soạn giường hợp cẩn.
Đêm hợp cẩn, trước tiên đôi tân hôn cùng nhau dùng cơm tượng trưng trong một mâm và
một đĩa, tiếp đó những bô lão lại bày tiền ra cho vợ chồng giành lấy. Họ tin, nếu vợ giành
được nhiều tiền, sau này người vợ sẽ nắm quyền hành, tiền bạc, tài sản trong gia đình;
ngược lại mọi việc sẽ do người chồng nắm giữ, quyết định (Lâm Tâm, 1994, tr. 61-70).
4.4.6 L̀trả áo
Đến ngày thứ ba sau lễ cưới, đôi vợ chồng chuẩn bị mâm vật lễ gồm trầu cau,
bánh trái, bánh tét, bánh sakaya,…mang về nhà trai để trả lễ. Người Chăm gọi lễ này là lễ
trả áo (taleh khan aw). Nhà trai sẽ đón đôi vợ chồng trẻ một cách trịnh trọng vào dịp này,
cha mẹ, dòng họ chú rể sẽ trao tặng cho đôi vợ chồng những tấm vải lụa, tiền, trang sức
và những vật dụng quan trọng xem như là của hồi môn của nhà trai. Theo phong tục lễ
cưới hỏi của người Chăm, lễ cưới đến đây được xem là hoàn thành. Cô dâu chú rể chính
thức được công nhận là vợ chồng.
4.5.Biến đổi về phong tục tập quán cưới xin của người dân tộc Chăm xưa và nay.
Độ tuổi kết hôn: Trong lễ cưới trước đây, nam nữ Chăm do cha mẹ sắp đặt nên
tuổi kết hôn rất sớm: nữ thường kết hôn ở tuổi 15 - 18, nam ở tuổi 16- 20. Ngày nay,
nam
34
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
khoảng 18 - 25, nữ từ 18 – 20 tuổi, đặc biệt là nam hay nữ người Chăm hiện nay khi đến
tuổi kết hôn còn được tự do tìm hiểu.
Nguyên tắc kết hôn cùng dòng họ: Người Chăm Nam bộ ngày trước có xu hướng
kết hôn với những người cùng dòng họ, bởi vì mong muốn tăng cường quan hệ gắn kết
gia đình trong tộc họ thêm chặt chẽ. Gần đây, xu hướng này đã thay đổi, kết hôn với
người ngoài dòng họ ngày càng phát triển.
Trang phục cưới: Trong lễ cưới hiện nay, nhiều nam nữ, cô dâu chú rể thay vì mặc
trang phục cổ truyền thì chú rể mặc đồ Tây như áo vest, thắt cà vạt, mang giày Tây
nhưng đội mũ kapeak - dấu hiệu của một Muslim (tín đồ Hồi giáo). Cô dâu thì thuê mặc
những bộ váy cưới kiểu phương Tây. Với người Chăm Nam bộ trước đây, trong lễ cưới
truyền thống, cô dâu thường được mụ Uốk trang điểm và cài trâm. Trong đám cưới hiện
nay có dâu rất ít khi cài trâm, thay cho việc rút cây trâm thì chú rể chỉ cần đặt tay lên trán
có dấu như một biểu hiện của sự xác tín.
Phương tiện đưa rể trong ngày cưới. Nếu trước kia trong lễ cưới truyền thống của
người Chăm Nam bộ chú rể thưởng ngồi trên xe lôi có lọng che hoặc đi bộ cùng đoàn nhà
trai đưa đến nhà gái, thì nay chú rể có thể dùng ô tô được trang trí hoa, đôi khi là xe hai
bánh. Trường hợp cưới cùng làng, khoảng cách rất gần thì họ đi bộ, che ô5.(1)
Niềm tin về uy quyền của ôn Uôk và mụ Uôk: Người Chăm trước đây còn tin ôn
Uốk và mụ Uốk có nhiều khả năng chống phá lại những người biết “bùa phép” đùa
nghịch, quấy rối đám cưới hay chú rể cô dâu. Ví dụ như ngày cưới, khi nhà trai đưa ra
đến cầu thang nhà gái chợt thấy rắn rít bò đầy dưới chân, phải bỏ chạy tán loạn, hoặc chú
rể khi bước lên cầu thang mà không bỏ hai nấc thang đầu, có thể bị kẻ phá rối làm cho
sụm gối, không đi đứng được; cũng có khi chúng phá lúc tân hôn động phòng hoa chúc,
đỡ mùng lên thấy ông Hổ nằm rình, phải la hoảng bỏ chạy. Hay, lúc chàng rể vào mùng
có dâu sẽ lén ra ngoài và ngược lại như chơi kiểu bắt hú tim với nhau. Cũng có trường
5 Theo Võ Văn Thắng (2010), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang : Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Trường , An Giang : Trường Đại học An Giang. Số phân loại: 390.0959791/Th116 / NCKH00107
35
6 Theo Đỗ Thị Thanh Hà, (2011), Đời sống tôn giáo của công đồng người Chăm Islam ở tỉnh An Giang nay :
hiêṇ
Luâṇ văn Thạc sĩ Chủ nghĩa xã hôị khoa học, Tp. Hồ Chí Minh : Trường Đại học Khoa học xã hôị & nhân văn. Số
phân loại: 297.5/H100 / LV00075
36
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
nhiệm của người chồng với gia đình; kết quả của tác động từ các cuộc vận động tuyên
truyền Luật Hôn nhân và Gia đình trong cộng đồng người Chăm Islam.
Về biến đổi tích cực: Người Chăm ở Nam Bộ trong quá trình phát triển đã từng bước
dung hòa yếu tố Islam với văn hóa truyền thống dân tộc Chăm. Sức mạnh của giáo lý
Islam đã làm thay đổi nhiều quan niệm, nếp sống đặc trưng của dân tộc nhưng không
hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ. Dân tộc Chăm trong quá khứ có một số đặc điểm về
hôn nhân mà hiện đại hóa và tương tác với các nền văn hóa khác đã gây ra sự thay đổi.
Trước đây, hôn nhân trong cộng đồng Chăm thường được sắp xếp bởi gia đình hai bên,
thường là gia đình của người cha. Những cuộc hẹn hò và gặp gỡ giữa hai người trước khi
kết hôn thường không xảy ra và vai trò của gia đình trong lựa chọn đối tác rất quan
trọng. Tuy nhiên, ngày nay, hôn nhân trong dân tộc Chăm đã trở nên tự do hơn và cho
phép sự chọn lựa của cá nhân. Gặp gỡ và tìm hiểu nhau trước khi quyết định kết hôn đã
trở thành một phần quan trọng của hôn nhân hiện đại của dân tộc Chăm. Sự thay đổi này
phản ánh xu hướng tự do cá nhân và ảnh hưởng của các giá trị hiện đại.
Ngoài ra, dưới tác động từ sự tuyên truyền của Nhà nước trong việc loại bỏ những
quan niệm và tập tục không còn phù hợp với đời sống xã hội mới, thêm vào đó là trong
quá trình hiện đại hóa và tương tác với các nền văn hóa khác, hôn nhân của dân tộc Chăm
cũng chịu ảnh hưởng từ các quy tắc và truyền thống của xã hội xung quanh cho nên nghi
lễ hôn nhân của người Chăm ngày nay có nhiều biến đổi tích cực.
Trong hôn nhân của người Chăm ngày nay độ tuổi kết hôn của nam khoảng 18 -
25, nữ từ 18 – 20 tuổi, không còn việc kết hôn sớm như trước đây là nam ở tuổi 16- 20,
nữ ở tuổi 15- 18. Nguyên nhân sự thay đổi về độ tuổi kết hôn chủ yếu do tác động của
các cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mà Nhà nước đã và đang triển khai rộng
khắp các cộng đồng dân cư nông thôn. Nguyên nhân khác do nhận thức của nam nữ
thanh niên người Chăm hiện nay đã có những tiến bộ. Trong bối cảnh mới, thế hệ trẻ đã ý
thức hơn về việc tìm kiếm việc làm, ổn định nghề nghiệp trước khi làm lễ cưới để có điều
kiện tốt cho việc nuôi dạy con cái. Đây là điểm tích cực, cho thấy hiệu quả của việc tuyên
truyền chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta.
37
Tiểu kết: Người Chăm Islam ở mọi nơi đều thực hiện đúng theo giáo lý , giáo luật của
Islam giáo trong đời sống, nhất là thể hiện được đức tin trong năm trụ cột và năm lần lễ
trong ngày . Đám cưới của người Chăm ở mỗi vùng dù có những phonng tục và nghi
thức tổ chức khác nhau nhưng đó là một đám cưới rất trang trọng, ấm áp không xa hoa
phù phiếm. Nếu trước kia đám cưới được diễn ra trong ba ngày thì hiện nay chỉ diễn ra
trong một hoặc hai ngày những vẫn giữ được vẻ đẹp cổ truyền và kín đáo. Bởi Islam giáo
từ lâu đã trở thành “món ăn tinh thần”, thước đo chuẩn mực đạo đức xã hội không thể
thiếu trong đời sống của người Chăm . Các phong tục , tập quán của người Chăm đều
được cá nhân, gia đình, dòng tộc gìn giữ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên cuộc sống hiện đại đã ảnh hưởng phần nào đến một số phong tục, tập wuasn
của người Chăm do tính giao thoa văn hóa. Để gìn giữ những văn hóa, tập quán , luật tục
của người Chăm Islam cần có những giải pháp bảo tồn và phát huy những phong tục tập
quán tốt
38
Downloaded by Lam Thanh Dung B2307382 (dungb2307382@student.ctu.edu.vn)
đẹp, nếu không sẽ dần mai một thậm chí thất truyền trong khoảng thời gian tới do nhiều
nguyên nhân tác động. Các nghi lễ phong tục trong hôn nhân là một nét đẹp dân tộc cần
được gìn giữ bởi chính những phong tục đó đã góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng
của văn hóa dân tộc Việt Nam.
SO SÁNH PHONG TỤC HÔN NHÂN GIỮA DÂN TỘC KINH VÀ DÂN
TỘC KHMER, DÂN TỘC CHĂM
Giống nhau
• Quan niệm:
Dù là dân tộc Kinh hay dân tộc Khmer, Chăm một điều luôn được đề cao và coi trọng
trong hôn nhân đó là sự chung thủy (sự duy nhất). Việc đề cao trinh tiết, sự trong trắng
của người con gái cũng là một điểm chung trong quan niệm
• Quy trình tổ chức:
- Đối đám cưới thì đều gồm các lễ chính như: lễ nói/ lễ mai mối (hai họ xem ngày tháng
năm sinh của chú rể và cô dâu có hợp tuổi hay không. Nếu hợp, lúc bấy giờ sẽ tiến
hành các bước tiếp theo), lễ hỏi và lễ cưới, trong đó lễ cưới là quan trọng nhất.
39
Quan - “Tại gia tòng phụ, xuất giá - Quan niệm hôn nhân có phần - Quan niệm
niệm tòng phu, phu tử tòng tử”; “ cởi mở hơn. hôn nhân có
Nam nữ thọ thọ bất tương - Quan niệm cái chết là nhẹ phần khắt
thân” -> ảnh hưởng các nhàng, không ảnh hưởng gì khe, coi việc
giáo điều Nho giáo hà khắc đến hôn nhân của con cái. kết hôn xây
- Nếu bố mẹ mất thì con cái dựng gia
phải chịu tang 3 năm, sau 3 đình là bổn
năm mới được làm đám phận của tín
cưới đồ làm hài
lòng
Thượng đế
và ngược lại
sự độc thân
là điều tội
lỗi
- Hầu như
không có
tình trạng
sống chung,
sống thử
trước hôn
nhân.
Quy 6 lễ chính, đó là Lễ nạp thái 4 Lễ: Lễ dạm hỏi( Si s’la 6 lễ: Lễ mai
trình (kén chọn); Lễ vấn danh, Lễ dok), mối
nạp cát, Lễ thỉnh kỳ, Lễ nạp Lễ ăn hỏi( Si s’la kanh- sêng), Lễ dạm hỏi
tệ, Lễ thân nghinh (tức lễ rước Lễ xin cưới( Si s’la banh Lễ cưới (Ia
dâu hay lễ cưới). Tuy nhiên, cheak peak), khah)
ngày nay, các nghi lễ đã có Lễ cưới( Si s’ la com- not) Ngày cưới
phần giản tiện đi rất nhiều, chỉ (Hagây He -
40
dài hay
ngắn, thường
thì vài ba
năm, cũng
có khi do
điều kiện
làm ăn xa
mà đôi bạn
trẻ được ở
riêng. Nhưng
thông
thường đôi
nam nữ sau
khi cưới
thường ở nhà
vợ 3 - 5 năm
cho đến khi
ra ở riêng
42
[1]. Ban Chỉ đạo phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa huyện Tri Tôn (2006),
Giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa Khmer Tri Tôn.
[2] Nguyễn Thị Hoàng Phượng (2020). Đám cưới truyền thống của người Khmer tại An
Giang. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, tập 9 ( số 2), tr 42-51.
[3]. Sơn Phước Hoan, Sơn Ngọc Sang (1998), Các l̀hội truyền thống của đồng bào
Khmer Nam Bộ, NXB Giáo dục.
[4]. Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Văn Lữ (2007), Những nghi l̀vòng đời chủ yếu của người Khmer xã Châu
Lăng, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
[6]. Đặng Thị Kim Oanh (2002), Hôn nhân của người Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu
Long, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
[7]. Lê Thị Diễm Phúc (2015), ““Sốt” và nghi thức “Chong - Đai” trong đời sống người
Khmer Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn, số 20, tháng 12/2015, tr. 36-42
[8]. Võ Văn Thắng (2010), Nghi l̀vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang: Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Trường , An Giang : Trường Đại học An Giang. Số phân
loại: 390.0959791/Th116 / NCKH00107
[10]. Huỳnh Thị Hiểu (2011), Tìm hiểu về tôn giáo trong đời sống xã hội của dân tộc
Chăm xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học An Giang
[11]. Hứa Kim Oanh (2015), Người Chăm Islam sông Hậu (An Giang) và quá trình giao
lưu văn hóa - hội nhập, trên trang ttp://sites.google.com/site/vhlsangiang
[12]. Lâm Tâm (1994) Một số tập tục người Chăm An Giang. Chi hội Văn nghệ dân gian
An Giang
[13]. Lý Tùng Hiếu (2019). Văn hóa Việt Nam Tiếp cận hệ thống- Liên ngành. Nhà xuất
bản văn hóa- Văn nghệ TPHCM