You are on page 1of 9

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” tiêu

biểu đóng góp công lớn cho


nền văn học thơ ca mới Việt Nam. Được biết đến là người đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức
sống mới, đem vào thơ những quan niệm sống mới mẻ, thơ của ông không chỉ thổi vào thơ một tâm hồn
cùng tình yêu mãnh liệt với đời, mà còn có những nỗi băn khoăn trăn trở vì sự ám ảnh về thời gian. Nổi
bật trong sáng tác thơ của ông là cái nhìn hướng vào thực tế đời sống, trong đó, “Vội vàng” là tác phẩm rõ
nét tiêu biểu tô đậm tâm trạng, nỗi khát vọng sống cho đáng từng giây, từng phút của cuộc đời. “Vội
vàng” là một khoảng không gian của thời gian, để mọi người chìm đắm vào đấy, suy ngẫm về từng
khoảnh khắc đi qua của tuổi trẻ người nghệ sĩ và cũng như chính bản thân mình.

Về cấu tứ bài thơ: Bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn: Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ
nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang
phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà
đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống "vội vàng" . Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc
với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng
dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.

Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi
trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống.

Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng
và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể
nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp.

Tác giả đã dùng những động từ mạnh: tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa,
muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Đó vốn là chuyện của đất trời, thiên nhiên nhưng vì khát vọng
lưu giữ khoảnh khắc hiện tại của cuộc đời mà nhà thơ muốn đoạt cả quyền tạo hóa. Tiếp đó, nhà thơ lại
hóa thân thành người họa sĩ vẽ ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân vô cùng, sinh
động, màu sắc, tràn đầy ánh sáng, hương thơm lẫn âm thanh. Tất cả đang trong độ tươi mới, đẹp để nhất,
căng tràn sức sống nhất. Nhà thơ căng mở các giác quan để cảm nhận mọi hương vị, thanh sắc của cuộc
đời qua lăng kính tinh tế của mình. Và, ông đã bày ra một bữa tiệc thịnh soạn với những vẻ đẹp của mùa
xuân trần thế, mùa xuân của tuổi trẻ và tình yêu.

Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật


Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự
thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt,
không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật
độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh
rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực
vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi


Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình
minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh
sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà.

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui.

Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái
mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân
Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa.

Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ: này đây dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của
mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với
những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban
cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ: tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn
đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê.

Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: "Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ,
êm đềm thu sang", nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm
vị tàn phài, cùng một lúc nhà thơ vừa được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa
thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ nghĩa là như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật
phũ phàng: Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho
cái đẹp - cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật


Không cho dài thời trẻ của nhân gian,...
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý
thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi
dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có
ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm
tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi
rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:
Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra
đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời
gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ "Ta muốn ôm" đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh
liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để
tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân
khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn...
Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ "Ta muốn" diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt,
vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động
nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của
cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận
hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:

Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn


Sống toàn thân và thức mọi giác quan.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân - tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc
lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ - một cái đẹp có thực nơi trần thế, không
phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải
biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời,
nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.

Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn câu rất ấn tượng.

"Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Bằng giọng điệu dồn dập, hỗi hả, ông đã lột tả cái tôi cá nhân mãnh liệt cũng mong ước táo bạo là tắt
nắng và buộc gió. Đó vốn là chuyện của đất trời, thiên nhiên nhưng vì khát vọng lưu giữ khoảnh khắc
hiện tại của cuộc đời mà nhà thơ muốn đoạt cả quyền tạo hóa. Tiếp đó, nhà thơ lại hóa thân thành người
họa sĩ vẽ ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân vô cùng, sinh động, màu sắc, tràn đầy
ánh sáng, hương thơm lẫn âm thanh. Tất cả đang trong độ tươi mới, đẹp để nhất, căng tràn sức sống nhất.
Nhà thơ căng mở các giác quan để cảm nhận mọi hương vị, thanh sắc của cuộc đời qua lăng kính tinh tế
của mình. Và, ông đã bày ra một bữa tiệc thịnh soạn với những vẻ đẹp của mùa xuân trần thế, mùa xuân
của tuổi trẻ và tình yêu.

Xuân Diệu không chỉ “đốt cảnh bồng lại để đưa ai nấy về hạ giới” mà đồng thời còn lột tả tình yêu tha
thiết, mãnh liệt của mình 1 đối với những ngày tháng hiện tại của cuộc đời thông qua phần đầu bài thơ.
Kết thúc niềm vui sướng trước vẻ đẹp đất trời, tác giả đã ngăn cách mạch cảm xúc bằng hai câu thơ:

“Tôi sung sướng. Nhưng với vàng một nửa


Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân .”

Đang trong niềm vui được tận hưởng cuộc đời nhưng dấu chấm giữa dòng xuất hiện như một sự khủng lại
và giật mình của thi nhân trước một niềm vui không trọn vẹn. Cuộc sống đang đẹp phơi phới, căng mọng,
nhưng nó cũng chẳng kéo dài như vậy được mãi. Dấu chấm đó dường như đã chuyển sung sướng yêu đời
trở nên tiếc nuối và vội vàng. Hơn thế, nó đã chuyển mạch cảm xúc trở thành mạch luân lí cùng những
quan niệm, triết lí về thời gian ở mười sáu câu thơ tiếp theo.

“Xuân đường tới, nghĩa là xuân đương qua


Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.”

Trước Xuân Diệu, ta từng thấy một nữ thư sĩ cũng có quan niệm về thời gian rất mới mẻ đó chính là Hồ
Xuân Hưởng. Trong bài thơ Tự tình" Bà chúa thơ Nôm” từng có câu:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.”

Hết mùa xuân này sẽ tới một mùa xuân khác, lẽ ra con người ta phải thấy vui nhưng nữ thi sĩ lại cảm thấy
chán chường. Bởi lẽ, tuổi xuân của con người không giống như mùa xuân tuần hoàn của trời đất.
Ở đây, cả hai thi sĩ đã cùng chung một quan điểm về thời gian. Thời gian không tuần hoàn, không lặp lại
như quan niệm cũ “xuân qua trăm hoa rụng, xuân tới trăm hoa tươi.” Với Xuân Diệu, thời gian là tuyến
tính, là một đi không trở lại. Cách ngắt nhịp 3/2/3 kết hợp việc sử dụng điệp cấu trúc và kiểu câu định
nghĩa “nghĩa là” đã gợi lên cảm giác đều đặn như nhịp bước đi lạnh lùng, vô tình của thời gian. Đó chính
là quy cách nào thay đổi. Từ "nghĩa là” lặp đi lặp lại ba lần nhấn mạnh khẳng định thời gian là hữu hạn.
Ngoài ra, với các cặp từ đối lập như “tới” - “qua”, “non” - "già” càng khắc sâu quy luật trường tồn về sự
vận hành của thiên nhiên, của thời quy gian. Cũng chính vì sự quyến rũ của “mật đời” cùng những khát
khao “ôm” cuộc sống ấy vào lòng tận hưởng một cách trọn vẹn đã gây nên những băn khoăn và trăn trở
về thời gian cho nhà thơ. Xuân của đất trời một đi không trở lại, “xuân” của tác giả cũng vậy. Cái “xuân”
ấy là những tháng năm ngắn ngủi của tuổi trẻ với sức sống, và niềm kiểu hành bất diệt, một khi đã qua
làm sao có thể lấy lại nguyên vẹn như vậy được. Triết lí nhân sinh ấy khiến tác giả rơi vào những nỗi
niềm trăn trở, băn khoăn bởi suy nghĩ lấy sinh mệnh của cá nhân, của tuổi trẻ - khoảng thời gian ngắn ngủ
nhất đời người làm thước đo thời gian. Điều này cũng đẩy sâu tâm trạng của thi nhân vào những nỗi buồn,
nuối tiếc, dằn vặt. Dòng thời gian tuyến tính vô tình đã tác động tiêu cực đến con người. Xuân hết, mỗi
con người, trong đó có “tôi” sẽ phải mất đi một phần đời đáng giá của mình. Thế mới thấy thời gian thật
lạnh lùng đối với thi nhân - con người ham sống đến cuồng nhiệt.

" Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật


Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói lắm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời,”

Cuộc đời của mỗi người rất đáng quý, nhất là những giây phút tuổi trẻ ngắn ngủ. Đó là lúc con người ta
tràn trề sức sống nhất cùng với những khát khao, đam mê cháy bỏng không ngừng. Lại một lần nữa sử
dụng những cặp từ đối lập “rộng - chật”; “xuân vẫn tuần hoàn - tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, “còn trời
đất - chẳng còn tôi mãi”. Ta thấy dường như tạo hóa đã đối xử quá hẹp hòi với thi nhân còn khao khát của
thi nhân lại trở thành một món quà vô cùng xa xỉ. Những dòng thơ như những lời oán trách, nhưng cũng
là lời nuối tiếc bởi tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Cuộc đời này không đối đãi ưu ái cho riêng ai, chúng ta
đều chỉ có một thời trẻ trọn vẹn, ngắn ngủi. Đất trời văn còn mãi, nhưng thanh xuân rồi sẽ qua đi nhanh
chóng, không chờ một ai. Để rồi lại đẩy nhân vật trữ tình vào cảm giác bâng khuâng, tuyệt vọng. Tất cả
rồi cũng sẽ trở thành hoài niệm, cũng chỉ là câu nói đã từng.

Nỗi niềm tâm trạng của Xuân Diệu đã lan toả sang cả vạn vật:

“Mùi tháng năm đầu sớm vị chia phôi,


Khắp núi sông vẫn than thần tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hơn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Lại một lần nữa, tháng năm vốn vô hình, trừu tượng, lại được chuyển đổi cảm giác trở nên có mùi, có vị.
Nếu tháng giêng ở phần đầu bài thơ có vị “ngon như cặp môi gần” thì bấy giờ lại sớm vị của sự chia phôi.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” quả thật không sai. Cả thiên nhiên vũ trụ đều nhuốm màu của sự
chia li, mất mát. Mỗi sự vật đang từng giây từng phút ngậm ngùi tiễn biệt cuộc đời còn lại của mình. Nỗi
buồn, sự nuối tiếc bao trùm khắp không gian bởi những cuộc chia li có lẽ là mãi mãi. Từng câu hỏi thốt
lên chua xót đến nghẹn lời. Nhưng quy luật của cuộc đời vốn là như thế, bông hoa đẹp rồi cũng phải tàn,
gió vẫn phải bay, chim cũng không thể cứ ca mãi. Mọi thứ đều có những giây phút huy hoàng nhất của
nó, tuy nhiên thời huy hoàng chẳng bao giờ kéo dài mãi. Chẳng ai muốn những cuộc chia phôi, nhưng tạo
hóa không bao giờ có thể thay đổi quy luật của nó. Mỗi người cũng chỉ có một phần đời, một tuổi trẻ, một
thành xuân. Sự nuối tiếc như được dồn nén đến tột cùng khi Xuân Diệu kết thúc đoạn thơ bằng câu:

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Tiếng kêu tuyệt vọng, đau đớn nhất thốt ra trong vô vàng, cảm xúc hỗn độn. Đó là sự thức tỉnh sâu sắc
của cái tôi về sự tồn tại của mỗi cá nhân trên cuộc đời giữa dòng giữa dòng chảy thời gian chỉ chảy xuôi
không bao giờ chảy ngược. Đồng thời cũng như một lời cảnh tỉnh hãy trân trọng từng giây phút tươi đẹp
của cuộc đời mình khi còn có thể, đặc biệt là những tháng năm tuổi trẻ quý báu. Câu thơ không chỉ kết
thúc đoạn thơ bằng sự nuối tiếc, dằn vặt mà còn là bước đệm, mở ra mạch cảm xúc mới cho đoạn thơ cuối
cùng. Vì càng nuối tiếc, hoài niệm lại càng vội vàng, cuống quýt với những khát khao mãnh liệt được
sống đến cháy bỏng.
Trong khi bạn thân của Xuân Diệu là Huy Cận chịu nỗi dằn vặt về không gian thì với chính Xuân Diệu lại
bị ám ảnh bởi thời gian. Đoạn thơ đã cho thấy sâu sắc nỗi ám ảnh ấy. Chính nỗi ám ảnh ấy càng khiến
ông buồn rầu, bâng khuâng, nuối tiếc hơn vì sự trôi chảy của nó. Qua quan niệm về thời gian, Xuân Diệu
đã làm nổi bật về cái tôi cá nhân của mình cũng suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ và đầy triết lí. Giọng thơ lúc thì
nhẹ nhàng, tha thiết, lúc thì dồn dập như thôi thúc, tạo âm điệu càng tạo nên sức hút, cuốn độc giả vào
luồng những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, con có thể người và tuổi trẻ.

Có thể thấy ở nhà thơ Xuân Diệu, dù đắm say trong giấc mộng đẹp thời tươi của tuổi trẻ những vẫn có cái
nhìn thực tế về thời gian, về những quy luật nhân sinh trong đời sống. Để rồi từ yêu đời, tha thiết, rạo rực
lại cảm thấy băn khoăn. Nhưng như thế lại càng trỗi dậy lời giục giã, khát vọng ham sống đến cuồng
nhiệt, vồ vập những vần thơ sau. “Vội vàng” là bài thơ trữ tình thấm đẫm những giá trị nhân văn qua lăng
kính mới mẻ của Xuân Diệu.

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” tiêu biểu đóng góp công lớn cho
nền văn học thơ ca mới Việt Nam. Được biết đến là người đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức
sống mới, đem vào thơ những quan niệm sống mới mẻ, thơ của ông không chỉ thổi vào thơ một tâm hồn
cùng tình yêu mãnh liệt với đời, mà còn có những nỗi băn khoăn trăn trở vì sự ám ảnh về thời gian. Nổi
bật trong sáng tác thơ của ông là cái nhìn hướng vào thực tế đời sống,trong đó, “Vội vàng” là tác phẩm rõ
nét tiêu biểu tô đậm tâm trạng, nỗi khát vọng sống cho đáng từng giây, từng phút của cuộc đời. “Vội
vàng” là một khoảng không gian của thời gian, để mọi người chìm đắm vào đấy, suy ngẫm về từng
khoảnh khắc đi qua của tuổi trẻ người nghệ sĩ và cũng như chính bản thân mình.

Về cấu tứ bài thơ: Bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn: Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ
nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang
phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà
đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống "vội vàng" . Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc
với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng
dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.

Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi
trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống.

Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng
và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể
nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp.

Tác giả đã dùng những động từ mạnh: tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa,
muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Đó vốn là chuyện của đất trời, thiên nhiên nhưng vì khát vọng
lưu giữ khoảnh khắc hiện tại của cuộc đời mà nhà thơ muốn đoạt cả quyền tạo hóa. Tiếp đó, nhà thơ lại
hóa thân thành người họa sĩ vẽ ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân vô cùng, sinh
động, màu sắc, tràn đầy ánh sáng, hương thơm lẫn âm thanh. Tất cả đang trong độ tươi mới, đẹp để nhất,
căng tràn sức sống nhất. Nhà thơ căng mở các giác quan để cảm nhận mọi hương vị, thanh sắc của cuộc
đời qua lăng kính tinh tế của mình. Và, ông đã bày ra một bữa tiệc thịnh soạn với những vẻ đẹp của mùa
xuân trần thế, mùa xuân của tuổi trẻ và tình yêu.

Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật


Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự
thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt,
không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật
độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh
rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực
vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi


Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình
minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh
sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà.

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui.

Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái
mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân
Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa.

Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ: này đây dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của
mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với
những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban
cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ: tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn
đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê.

Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Trước Xuân Diệu, ta từng thấy một nữ thư sĩ cũng có quan niệm về thời gian rất mới mẻ đó chính là Hồ
Xuân Hưởng. Trong bài thơ Tự tình" Bà chúa thơ Nôm” từng có câu:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.”

Hết mùa xuân này sẽ tới một mùa xuân khác, lẽ ra con người ta phải thấy vui nhưng nữ thi sĩ lại cảm thấy
chán chường. Bởi lẽ, tuổi xuân của con người không giống như mùa xuân tuần hoàn của trời đất.
Ở đây, cả hai thi sĩ đã cùng chung một quan điểm về thời gian. Thời gian không tuần hoàn, không lặp lại
như quan niệm cũ. Với Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính, là một đi không trở lại. Cách ngắt nhịp 3/2/3
kết hợp việc sử dụng điệp cấu trúc và kiểu câu định nghĩa “nghĩa là” đã gợi lên cảm giác đều đặn như
nhịp bước đi lạnh lùng, vô tình của thời gian. Đó chính là quy cách nào thay đổi. Từ "nghĩa là” lặp đi lặp
lại ba lần nhấn mạnh khẳng định thời gian là hữu hạn. Ngoài ra, với các cặp từ đối lập như “tới” - “qua”,
“non” - "già” càng khắc sâu quy luật trường tồn về sự vận hành của thiên nhiên, của thời quy gian. Cũng
chính vì sự quyến rũ của “mật đời” cùng những khát khao “ôm” cuộc sống ấy vào lòng tận hưởng một
cách trọn vẹn đã gây nên những băn khoăn và trăn trở về thời gian cho nhà thơ. Xuân của đất trời một đi
không trở lại, “xuân” của tác giả cũng vậy. Cái “xuân” ấy là những tháng năm ngắn ngủi của tuổi trẻ với
sức sống, và niềm kiêu hành bất diệt, một khi đã qua làm sao có thể lấy lại nguyên vẹn như vậy được.
Triết lý nhân sinh ấy khiến tác giả rơi vào những nỗi niềm trăn trở, băn khoăn bởi suy nghĩ lấy sinh mệnh
của cá nhân, của tuổi trẻ - khoảng thời gian ngắn ngủ nhất đời người làm thước đo thời gian. Điều này
cũng đẩy sâu tâm trạng của thi nhân vào những nỗi buồn, nuối tiếc, dằn vặt. Dòng thời gian tuyến tính vô
tình đã tác động tiêu cực đến con người. Xuân hết, mỗi con người, trong đó có “tôi” sẽ phải mất đi một
phần đời đáng giá của mình. Thế mới thấy thời gian thật lạnh lùng đối với thi nhân - con người ham sống
đến cuồng nhiệt.

" Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,


Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời,”

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý
thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi
dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có
ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm
tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Cuộc đời này không đối đãi ưu ái cho riêng ai, chúng ta đều chỉ có một
thời trẻ trọn vẹn, ngắn ngủi. Đất trời văn còn mãi, nhưng thanh xuân rồi sẽ qua đi nhanh chóng, không
chờ một ai. Để rồi lại đẩy nhân vật trữ tình vào cảm giác bâng khuâng, tuyệt vọng. Tất cả rồi cũng sẽ trở
thành hoài niệm, cũng chỉ là câu nói đã từng. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người:
lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên
của nó:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,


Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Lại một lần nữa, tháng năm vốn vô hình, trừu tượng, lại được chuyển đổi cảm giác trở nên có mùi, có vị.
Nếu tháng giêng ở phần đầu bài thơ có vị “ngon như cặp môi gần” thì bấy giờ lại sớm vị của sự chia phôi.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” quả thật không sai. Cả thiên nhiên vũ trụ đều nhuốm màu của sự
chia ly, mất mát. Mỗi sự vật đang từng giây từng phút ngậm ngùi tiễn biệt cuộc đời còn lại của mình. Nỗi
buồn, sự nuối tiếc bao trùm khắp không gian bởi những cuộc chia ly có lẽ là mãi mãi. Từng câu hỏi thốt
lên chua xót đến nghẹn lời. Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ
trụ. Mọi thứ đều có những giây phút huy hoàng nhất của nó, tuy nhiên thời huy hoàng chẳng bao giờ kéo
dài mãi. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ
chùng xuống buồn não nuột:

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Tiếng kêu tuyệt vọng, đau đớn nhất thốt ra trong vô vàn, cảm xúc hỗn độn. Đó là sự thức tỉnh sâu sắc của
cái tôi về sự tồn tại của mỗi cá nhân trên cuộc đời giữa dòng giữa dòng chảy thời gian chỉ chảy xuôi
không bao giờ chảy ngược. Đồng thời cũng như một lời cảnh tỉnh hãy trân trọng từng giây phút tươi đẹp
của cuộc đời mình khi còn có thể, đặc biệt là những tháng năm tuổi trẻ quý báu. Câu thơ không chỉ kết
thúc đoạn thơ bằng sự nuối tiếc, dằn vặt mà còn là bước đệm, mở ra mạch cảm xúc mới cho đoạn thơ cuối
cùng. Vì càng nuối tiếc, hoài niệm lại càng vội vàng, cuống quýt với những khát khao mãnh liệt được
sống đến cháy bỏng.

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ "Ta muốn ôm" đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh
liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để
tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân
khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn...
Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ "Ta muốn" diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt,
vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động
nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của
cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng.

Trong khi bạn thân của Xuân Diệu là Huy Cận chịu nỗi dằn vặt về không gian thì với chính Xuân Diệu lại
bị ám ảnh bởi thời gian. Đoạn thơ đã cho thấy sâu sắc nỗi ám ảnh ấy. Chính nỗi ám ảnh ấy càng khiến
ông buồn rầu, bâng khuâng, nuối tiếc hơn vì sự trôi chảy của nó. Qua quan niệm về thời gian, Xuân Diệu
đã làm nổi bật về cái tôi cá nhân của mình cũng suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ và đầy triết lý. Giọng thơ lúc thì
nhẹ nhàng, tha thiết, lúc thì dồn dập như thôi thúc, tạo âm điệu càng tạo nên sức hút, cuốn độc giả vào
luồng những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, con có thể người và tuổi trẻ.

Có thể thấy ở nhà thơ Xuân Diệu, dù đắm say trong giấc mộng đẹp thời tươi của tuổi trẻ nhưng vẫn có cái
nhìn thực tế về thời gian, về những quy luật nhân sinh trong đời sống. Để rồi từ yêu đời, tha thiết, rạo rực
lại cảm thấy băn khoăn. Nhưng như thế lại càng trỗi dậy lời giục giã, khát vọng ham sống đến cuồng
nhiệt, vồ vập những vần thơ sau. “Vội vàng” là bài thơ trữ tình thấm đẫm những giá trị nhân văn qua lăng
kính mới mẻ của Xuân Diệu.

You might also like