You are on page 1of 80

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC


CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC


CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ HỮU NGHĨA

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Hải Yến


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1. Những công trình nghiên cứu về tư duy và tư duy chiến lược 5
1.2. Những công trình nghiên cứu về trình độ tư duy, tư duy chiến lược của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo 9
1.3. Những công trình về giải pháp nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo 13
1.4. Giá trị của các công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề luận
án tiếp tục nghiên cứu 20
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC VÀ VAI
TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO 24
2.1. Tư duy và tư duy chiến lược 24
2.2. Vai trò của tư duy chiến lược đối với cán bộ lãnh đạo 41
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao trình độ tư duy chiến lược 47
Chương 3: NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76
3.1. Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta
hiện nay - thực trạng và nguyên nhân 76
3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta 106
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ
DUY CHIẾN LƯỢC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở NƯỚC TA
TRONG TÌNH HÌNH MỚI HIỆN NAY 126
4.1. Đổi mới công tác lựa chọn, tuyển dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp
đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ tư duy chiến lược 126
4.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo theo hướng rèn
luyện tư duy chiến lược 129
4.3. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại và khoa học dự báo cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo 143
4.4. Phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ lãnh đạo 146
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Một quốc gia hưng thịnh hay suy vong, điều đó phụ thuộc đáng kể vào
đường lối lãnh đạo, vào tầng lớp tinh hoa của quốc gia đó có tìm được phương
thức đúng đắn để chấn hưng đất nước, thực sự vì dân, vì nước hay không.
Đường lối lãnh đạo, chất lượng của tầng lớp tinh hoa ở mỗi quốc gia lại phụ
thuộc đáng kể vào trình độ tư duy chiến lược của họ - những người cán bộ lãnh
đạo. Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay
thất bại là do cán bộ tốt hay kém" [67, tr.240]. Có thể nói rằng không một lĩnh
vực, một nội dung, nhiệm vụ nào của sự nghiệp cách mạng lại không cần đến đội
ngũ cán bộ lãnh đạo - những người đi đầu trong việc tham mưu, đề xuất và lãnh
đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng. Để cán bộ lãnh đạo
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đòi hỏi phải có những tố chất ưu trội cả về mặt
trình độ tư duy và hành động. Tư duy con người có nhiều cấp độ khác nhau,
người cán bộ lãnh đạo dù ở cương vị nào không thể chỉ có tư duy thông thường
mà cần phải có tư duy chiến lược.
Tư duy chiến lược là yêu cầu cần thiết đối với người cán bộ lãnh đạo. Tư
duy chiến lược định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người. Có tư duy chiến lược sẽ giúp cho chủ thể có tầm nhìn xa trông rộng,
sớm phát hiện được các tín hiệu của sự thay đổi, của bước ngoặt, kịp thời phát
hiện cái mới hợp quy luật, do vậy, dự báo được các tình huống có thể xảy ra.
Trên cơ sở những phán đoán, những dự báo đó, chủ thể chủ động đề ra các
phương án dự phòng cho những tình huống bất lợi, những kết quả không mong
muốn có khả năng xảy đến, khắc phục tầm nhìn hạn hẹp. Trước những biến đổi
nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới với nhiều thời cơ, nhưng cũng
nhiều thách thức thì người nào có được tư duy chiến lược đúng, vạch ra được
những chủ trương, chính sách phát triển mang tầm chiến lược sẽ là người chiến
2

thắng. Tư duy chiến lược là cần thiết cho bản thân mỗi người cán bộ lãnh đạo,
bởi họ là những người trực tiếp hoặc góp phần xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách trong phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, đối ngoại và là người tổ chức thực hiện.
Tuy có vai trò quan trọng đối với người cán bộ lãnh đạo như vậy, nhưng
trình độ tư duy chiến lược trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta hiện nay
còn những hạn chế, bất cập. Những hạn chế đó được bộc lộ ra khi có những
quyết sách, quyết định, chủ trương chưa thể hiện được tầm nhìn xa, trông rộng;
công tác dự báo, định hướng còn chưa phù hợp với thực tiễn, còn rơi vào tình
trạng bị động đối phó. Điều đó khiến những kế hoạch của đất nước và các địa
phương chưa mang tính dài hạn, tổng thể, trên thực tiễn ở những chủ trương
thiếu tính dự báo dễ dẫn đến tình trạng chắp vá, tùy tiện, gây tác hại tới phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương. Vì vậy, đòi hỏi phải nâng cao hơn
nữa trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta, nhằm đáp
ứng một cách có hiệu quả và thành công đối với sự nghiệp đổi mới trong bối
cảnh tình hình quốc tế và khu vực với những biến đổi phức tạp, nhanh chóng,
khó lường hiện nay.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: “Nâng cao trình độ tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về tư duy chiến lược và
thực trạng trình độ tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện
nay, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trình độ tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta, đáp ứng những yêu cầu,
nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
3

2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về tư duy chiến lược; tầm
quan trọng của nâng cao trình độ tư duy chiến lược đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nước ta hiện nay; những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao trình độ tư
duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo; thực chất của việc nâng cao trình độ tư
duy chiến lược.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc
nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trình độ tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói
chung ở nước ta, tập trung vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư duy, vai trò
của tư duy chiến lược, về cán bộ và vai trò của cán bộ lãnh đạo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Kết hợp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, lịch sử và logic, phương pháp liên ngành, phương pháp hệ thống - cấu trúc,
so sánh, phỏng vấn.
4

5. Đóng góp mới của luận án


- Bước đầu đưa ra khái niệm tư duy chiến lược ở mức độ khái quát, tạo cơ
sở, tiền đề cho việc nghiên cứu tư duy chiến lược trên từng đối tượng cán bộ,
lãnh đạo cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trình độ tư duy
chiến lược, hình thành và phát triển một phương pháp tư duy cần thiết cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo về tư duy chiến lược
cho công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong các trường Đảng,
trường Chính trị, Cao đẳng, Đại học cũng như trong công tác lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác
giả có liên quan đến luận án đã được công bố và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TƯ DUY VÀ TƯ DUY


CHIẾN LƯỢC
Tư duy và tư duy lý luận là những vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu
khá sớm trong lịch sử triết học từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, nhất là
triết học Mác - Lênin. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, ở đó tập
trung làm rõ khái niệm tư duy, tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận trong
quá trình lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta được đề cập trên những
bình diện khác nhau.
Trong tác phẩm Đổi mới phong cách tư duy [16], thông qua việc phân tích
những đặc điểm tư duy truyền thống với những ưu điểm và cả những hạn chế
của nó, tác giả Phạm Như Cương khẳng định cần kiên trì quan điểm cho rằng
trong đổi mới phong cách tư duy phải phát huy và phát triển phong cách tư duy
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh [81], tác giả
Trần Văn Phòng với nhiều bài viết khác nhau xoay quanh bàn về phong cách tư
duy Hồ Chí Minh, từ nguồn gốc tới những đặc trưng và giá trị của chúng đã làm
nổi bật phong cách tư duy đặc biệt ở Người. Chính những nét đặc sắc trong
phong cách tư duy Hồ Chí Minh đã giúp Người vận dụng sáng tạo và thành công
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta; làm rõ những đặc trưng
phong cách tư duy Hồ Chí Minh góp phần khắc phục những căn bệnh kinh
nghiệm, giáo điều, duy ý chí - những căn bệnh cản trở tầm nhìn xa trông rộng
đối với người cán bộ lãnh đạo. Qua đó góp phần từng bước xây dựng phong
cách tư duy khoa học, nâng cao trình độ tư duy lý luận, là những tiền đề không
thể thiếu để hình thành tư duy chiến lược.
Nguyễn Trọng Chuẩn với Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở
Việt Nam [11], đã tổng quan các hướng nghiên cứu về tư duy, bao gồm nghiên
cứu cơ bản về các mặt nhận thức luận, phương pháp luận, lôgíc học và nghiên
6

cứu ứng dụng, tập trung vào chủ đề thực trạng, nguyên nhân, giải pháp khắc
phục tình trạng lạc hậu của tư duy lý luận ở nước ta, tình trạng chính trị hóa tư
duy lý luận. Theo tác giả, lôgíc học là khoa học về tư duy, do vậy, nó cần phải
được giảng dạy trong tất cả các trường đại học. Có như vậy mới mới góp phần
nâng cao trình độ tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ trong tương lai.
Trong cuốn “Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của
Đảng” [12], hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Đặng Hữu Toàn bàn đến đặc
điểm tư duy của con người Việt Nam. Đặc biệt, đối với “những người có chức,
có quyền phải trau dồi đạo đức của người cộng sản”, nỗ lực phấn đấu nâng cao
năng lực trí tuệ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đối với Tổ quốc.
Tác giả Vũ Khoan với tác phẩm “Tư duy chiến lược và khoa học lãnh
đạo, quản lý - những thành tựu nghiên cứu trên thế giới và sự tham khảo, vận
dụng cho Việt Nam” [46], đề cập đến sự ra đời của khoa học lãnh đạo, quản lý
đã hình thành từ lâu đời. Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về
khoa học lãnh đạo, quản lý. Tư duy chiến lược là một trong những nội dung
quan trọng không thể thiếu trong tư duy người làm lãnh đạo, quản lý. Việt Nam
hiện nay, cùng với sự vận động, phát triển của thế giới, đứng trước những cơ hội
và thách thức cần nghiên cứu và học hỏi một cách đầy đủ và nghiêm túc về tư
duy chiến lược, về khoa học lãnh đạo, quản lý nhằm vạch ra những đường
hướng phát triển đúng đắn và hiệu quả cho đất nước.
Tác giả Nguyễn Ngọc Long với “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình
đổi mới tư duy” [57], phân tích về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó trong
đổi mới tư duy, thông qua việc nâng cao năng lực tư duy là sự ảnh hưởng đến
hiệu quả công việc thực tế. Đất nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, tiến
lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể kinh tế
trong việc đưa ra những định hướng, chiến lược phát triển của mình.
Bài viết “Bàn về năng lực tư duy” [101], tác giả Hồ Bá Thâm đề cập một
số nội dung quan trọng về tư duy. Bài viết cũng phân tích một cách chi tiết và
khoa học như khái niệm tư duy, các quan điểm khác nhau khi bàn về tư duy, sự
7

ảnh hưởng của tư duy đối với hoạt động thực tiễn. Tác phẩm là tài liệu quan
trọng cho việc nghiên cứu và nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý
luận” [44], tác giả Trần Đình Huỳnh, đề cập đến tư tưởng của Hồ Chí Minh về
vai trò của trí tuệ, về lý luận đối với thực tiễn; nhấn mạnh công tác lý luận luôn
phải gắn liền với thực tiễn. Bài viết cho thấy Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng
đến vai trò của trí tuệ. Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Người chủ
trương xóa nạn mù chữ để tiêu diệt giặc dốt; bồi dưỡng tri thức lý luận khoa
học để con người hiểu và nắm bắt được các quy luật khách quan; bồi dưỡng tri
thức khoa học - kỹ thuật để con người nâng cao sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội,
chuyên môn nghiệp vụ; tạo điều kiện để con người tiếp thu, làm chủ khoa học -
kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Về vai trò của lý luận đối với thực tiễn, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: trong hoạt động thực tiễn, bất cứ làm
việc gì muốn thành công phải có lý luận dẫn đường. Tuy nhiên, Người có một
nguyên tắc nhất quán trong học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận, đó là lý luận
phải gắn liền với thực tiễn, lý luận bắt nguồn từ sự khái quát thực tiễn. Người
căn dặn, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, lý luận
phải được vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo; phải chú trọng tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực cho quá trình
nhận thức và cho lý luận.
Tác giả Nguyễn Đức Quyền trong bài “Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay” [90], thông qua
nghiên cứu của mình đã chỉ ra năng lực tư duy lý luận là một vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu lý luận quan tâm trong quá trình đổi mới tư duy ở nước ta thời
gian qua. Mỗi công trình nghiên cứu làm rõ hơn về tư duy lý luận, khai thác và
bổ sung thêm vai trò, sự cần thiết của tư duy lý luận; trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp khác nhau nhằm nâng cao năng lực và trình độ của tư duy lý luận. Tác
giả Nguyễn Đức Quyền cho rằng: năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về
những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể
của sự tồn tại, vận động và phát triển. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy
8

khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm, phạm trù nhằm đem lại những
tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và có hệ thống, phù
hợp với quy luật khách quan của hiện thực, qua các khâu phân tích, so sánh, tổng
hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Với đặc tính khoa học của mình, năng lực tư
duy lý luận tốt có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, làm sáng tỏ hơn những
vấn đề lý luận trừu tượng, cụ thể hoá lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải
pháp khả thi để giải quyết các vấn đề của cuộc sống một cách có hiệu quả. Qua
công trình nghiên cứu này, tác giả đi tới khẳng định vai trò quan trọng không thể
thiếu của tư duy lý luận đối với người cán bộ chủ chốt cấp huyện, có giá trị định
hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của họ.
Tác giả Thái Ninh, thông qua “Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận” [78],
đã đề cập đến thực trạng đất nước, những đòi hỏi trong tình hình mới và những
yêu cầu đặt ra đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận; đề xuất một số yêu cầu cần
đạt để đổi mới tư duy lý luận. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới
đất nước nói chung và trong công tác xây dựng Đảng làm cho toàn Đảng trở
thành một Đảng trí tuệ, có trình độ và năng lực lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, đồng thời khắc phục độ trễ của lý luận để lý luận thực sự giữ vai
trò chỉ đạo thực tiễn một cách hiện quả.
Tư duy chiến lược cũng được nghiên cứu, trao đổi trong các diễn đàn,
trong các cuộc hội thảo khoa học với những quy mô của những tổ chức khác
nhau. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 6/2008 đã
tổ chức cuộc hội thảo với nội dung “Phát triển tư duy chiến lược cho các nhà
lãnh đạo khu vực công”. Tại hội thảo này đã thảo luận và làm rõ tầm quan trọng
của tư duy chiến lược trong lãnh đạo chính trị và khu vực công; nêu ra những
vấn đề lý thuyết cơ bản về tư duy chiến lược; những ứng dụng của tư duy chiến
lược trong lãnh đạo; các phương pháp và biện pháp tăng cường tư duy chiến
lược cho các nhà lãnh đạo. Với những mục tiêu như vậy, tại hội thảo, bản chất và
các đặc điểm cơ bản dưới góc độ tiếp cận trong cung cấp dịch vụ công của tư
duy chiến lược đã được tiếp cận và phân tích, vai trò của tư duy được khẳng định
và làm rõ.
9

Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến việc
đổi mới trong tổ chức, quản lý, xây dựng kế hoạch, những mô hình phát triển
trong tương lai ở những lĩnh vực khác nhau tuy không trực tiếp nghiên cứu về tư
duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược nhưng cũng có đề cập đến ở góc độ vai
trò, tầm quan trọng của nó.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRÌNH ĐỘ TƯ DUY, TƯ DUY


CHIẾN LƯỢC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
Thông qua những công trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận, tư duy
chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ngoài việc làm rõ vấn đề tư duy nói
chung, còn đề cập đến năng lực, trình độ tư duy, thực trạng của tư duy của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo từ đó đưa ra giải pháp nâng cao trình độ tư duy, tư duy lý
luận, tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo.
Với bài viết “Thực trạng tư duy lý luận của lãnh đạo quản lý nước ta
hiện nay trong quá trình học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” trong
cuốn Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh [81], tác giả Nguyễn Thế
Kiệt chỉ ra thực tế những năm qua cho thấy, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta đã năng động triển khai nghị quyết của Trung ương cũng như tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn, góp phần khuyến nghị với Trung ương kịp thời
bổ sung, phát triển lý luận và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cán bộ lãnh đạo
quản lý vẫn còn trông chờ sự chỉ đạo của Trung ương, chưa mạnh dạn đề
xuất những biện pháp sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương.
Vì thế, nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tế chưa được giải quyết kịp thời khiến
họ lúng túng, bị động. Trong khi đó, sự nghiệp đổi mới của đất nước đòi
hỏi phải kịp thời tổng kết thực tiễn, đề xuất được những giải pháp góp phần
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Cuốn sách “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ năm 1986
đến nay” [92] của nhóm tác giả Tô Huy Rứa và các cộng sự là tài liệu tham khảo
một cách có hệ thống về quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ Đại hội VI
đến nay, góp phần vào việc tổng kết lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
10

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước thềm Đại hội Đảng lần thứ
IX năm 2001. Từ việc tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta thấy rõ không
ít vấn đề thực tiễn đặt ra mà lý luận chưa giải quyết một cách thoả đáng, còn xa
với nhu cầu thực tiễn đổi mới. Bên cạnh những thành tựu nổi bật đã đạt được
vẫn còn sự bất cập trong tư duy và hành động, vẫn còn sự suy thoái về phẩm
chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham
nhũng vẫn còn là quốc nạn.
Cuốn sách “5 đương đại” [96], là công trình tập hợp các bài viết của các
học giả Trung Quốc, tập trung vào năm vấn đề lớn, trong đó có hai vấn đề liên
quan trực tiếp đến tư duy chiến lược, đó là:
- Bồi dưỡng tư duy chiến lược;
- Mở rộng tầm nhìn thế giới là yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý nỗ lực
quan sát, nắm bắt sâu sắc thực trạng và xu hướng cơ bản của sự phát triển thế
giới đương đại.
Cuốn sách Tư duy chiến lược và khoa học mới: Lập kế hoạch giữa tình
thế hỗn độn, phức tạp và thay đổi của tác giả T. Irene Sanders do Chu Tiến Ánh
dịch [94] viết về những câu chuyện của chính tác giả trên con đường tìm kiếm
nhận thức của mình đối với một lĩnh vực hoạt động hết sức quan trọng là tư duy
chiến lược và lập kế hoạch cho dự án phát triển trong các lĩnh vực kinh doanh,
kinh tế và xã hội.
Tác giả Bruce và Andy với tác phẩm Tư duy chiến lược [8], được Lê
Ngọc Phương Anh tổng hợp và biên dịch bàn về chiến lược kinh tế trên cơ sở
lập kế hoạch chiến lược và triển khai chiến lược. Có tư duy chiến lược ở đây là
có khả năng hoạt động dài hạn trong khi vẫn phát huy tối đa năng lực hoạt
động trong ngắn hạn là điều bắt buộc đối với các nhà quản lý. Tư duy chiến
lược sẽ giúp vạch ra con đường dẫn đến thành công, và xây dựng cho khả năng
phân tích và hoạch định tổng thể. Tất cả các khía cạnh quan trọng trong quá
trình phát triển và triển khai chiến lược - từ việc nghiên cứu và thu nhập những
thông tin cơ sở để hình thành một chiến lược mới cho đến việc đánh giá và điều
chỉnh thích nghi đều sẽ được giải thích thật rõ ràng. Ở tác phẩm tổng hợp
11

những lời khuyên thiết thực nhất, cùng với những câu hỏi để tự đánh giá hiệu
quả công việc.
Tác phẩm Tư duy chiến lược - Công cụ sắc bén trong chính trị, kinh
doanh và đời thường của hai tác giả Avinat Đixit và Beri NênBăp [1] đã đưa ra
một số phương pháp, kỹ thuật tính toán lựa chọn các giải pháp tối ưu cho những
tình huống điển hình ở những khâu khác nhau trong lĩnh vực hoạt động kinh tế
thông qua rất nhiều những câu chuyện, phát triển các phương pháp suy nghĩ, đưa
ra những chỉ dẫn chiến lược hữu hiệu. Nói cách khác, thông qua những câu
chuyện để chỉ ra những bài học về phương pháp tư duy, phát triển cách tư duy
chiến lược.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa với bài viết “Một số căn bệnh trong phương pháp
tư duy của cán bộ ta” [71] đề cập đến bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong
tư duy của cán bộ nước ta. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng, hành động
tuyệt đối hoá vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn,
thiếu quan điểm lịch sử cụ thể. Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng
tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học. Bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều tuy có liên quan tới chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo
điều nhưng dưới góc độ nhận thức lý luận, nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu là
do sự yếu kém về lý luận không nắm được tinh thần khoa học của đường lối, chủ
trương, chính sách. Sự yếu kém về nhận thức như vậy dĩ nhiên sẽ không tránh
được bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về nhận thức không chỉ dẫn đến
bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Chính vì vậy, để khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, phương hướng quan trọng hàng đầu là phải
nâng cao trình độ lý luận, trình độ hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính
sách… của cán bộ nói chung.
Trong bài viết “Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở nước ta hiện nay” [83], tác giả Trần Văn Phòng đề cập rõ nhất về tư duy
chiến lược, những đặc điểm cũng như yêu cầu để có được tư duy chiến lược đối
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Ở bài viết này, tác giả cũng đưa
ra khái niệm và một số đặc trưng về tư duy chiến lược; sự cần thiết phải có tư
duy chiến lược ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo đất nước ta hiện nay.
12

Tác giả Trần Văn Phòng trong bài viết “Năng lực tư duy lý luận với hoạt
động của đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu số”
[82], đề cập đến vai trò của tư duy lý luận, thực trạng năng lực tư duy lý luận
của cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu số - những mặt
mạnh và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho đội ngũ này. Bên cạnh đặc trưng chung của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện, người cán bộ lãnh đạo dân tộc thiểu số cũng có những đặc thù riêng.
Tuy nhiên, họ là những người đứng đầu, trực tiếp lãnh đạo, quản lý triển khai
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
đồng thời, chịu trách nhiệm đề ra và tổ chức thực hiện các chủ trương, chương
trình kế hoạch phát triển của đơn vị và địa phương mình phụ trách. Với trọng
trách như thế, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện phải có năng lực tư duy thích
ứng mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, năng lực tư duy
của một bộ phận trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu
số vẫn còn những hạn chế như: trình độ tư duy còn thấp; trong công tác lãnh
đạo còn nhiều biểu hiện của bệnh giáo điều; công tác dự đoán, dự báo tình hình
chưa theo kịp thực tế; việc nắm bắt, xử lý thông tin thiếu kịp thời; trong chỉ
đạo, còn biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí, còn dựa vào kinh nghiệm trực
quan, sự tùy tiện trong công tác tổ chức thực tiễn. Trên cơ sở đó đề ra một số
giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế và nâng cao trình độ tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ này, góp phần phát triển đất nước.
Bài viết “Hội nhập quốc tế và yêu cầu về tư duy chiến lược của người
lãnh đạo hiện nay” [84] của tác giả Trần Văn Phòng khẳng định, tư duy chiến
lược đóng vai trò hết sức quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động của
người lãnh đạo, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết
đưa ra những yếu tố hình thành tư duy chiến lược của người lãnh đạo, gồm: tố
chất bẩm sinh của người lãnh đạo; tri thức qua học tập, rèn luyện; môi trường
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội; hoạt động của người lãnh đạo. Tác giả còn chỉ
ra một số nội dung chủ yếu của tư duy chiến lược: tư duy chiến lược toàn cầu
cho hành động quốc gia; tư duy chiến lược về quản trị xã hội; tư duy chiến lược
13

về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; tư duy chiến lược về mô
hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Từ đó bài viết đi tới khẳng định, muốn bồi
dưỡng tư duy chiến lược của người lãnh đạo Việt Nam hiện nay cần tính tới các
nhân tố tác động và người lãnh đạo cần chủ động: học tập, trau dồi phương pháp
biện chứng duy vật; rèn luyện năng lực tư duy chiến lược thông qua thực tiễn
hoạt động lãnh đạo; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ khoa học
và công nghệ hiện đại; tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng; dân chủ trong
hoạt động lãnh đạo.
Tại “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới” [27], Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
tổng kết, đã trình bày một cách đầy đủ và hệ thống bối cảnh quốc tế và trong
nước trong chặng đường đổi mới 30 năm qua; chỉ ra những thành tựu, hạn chế
cũng như nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó; nhấn mạnh những
nội dung cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tầm nhìn tới 2030.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận và cũng đã có công trình đề cập đến vấn đề
bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay. Tư
duy chiến lược ngày càng được quan tâm nghiên cứu trong bối cảnh hiện nay
trên phạm vi toàn cầu do đòi hỏi sự phát triển của nhân loại. Việc bồi dưỡng,
nâng cao trình độ tư duy chiến lược là quan trọng, thiết thực, đặc biệt với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung đi sâu
nghiên cứu về vấn đề: Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề cần được triển khai nghiên cứu và
đưa ra những đề xuất hữu ích.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY
CHIẾN LƯỢC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
Với việc tư duy chiến lược ngày càng được chú trọng quan tâm, đi sâu
nghiên cứu thì những giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ tư
duy chiến lược đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng được các tác giả của những
công trình nghiên cứu đề cập đến.
14

Các tác giả Trung Quốc Thái Kiến Ba, Chu Minh và Vĩ Học Cơ “Một số
vấn đề cán bộ lãnh đạo cần chú ý nắm bắt khi bồi dưỡng tố chất tư duy chiến
lược” [3], Tạp chí Diễn đàn Công đoàn, kỳ thứ 3, quyển thứ 9 (Phan Huy Quang
dịch) đưa ra quan điểm của mình về tư duy chiến lược và những đặc trưng cần
có để có được tố chất tư duy chiến lược. Người cán bộ lãnh đạo cần phải có được
tư duy chiến lược, phải tự giác bồi dưỡng tố chất tư duy chiến lược. Những nội
dung cần chú trọng để bồi dưỡng tố chất tư duy chiến lược được các tác giả nêu
ra ở đây là: vấn đề thế giới quan, chú ý vấn đề hiện thực, chú trọng vấn đề
phương pháp. Bài viết cũng đưa ra một số phương pháp để bồi dưỡng tư duy
chiến lược: tầm nhìn cần rộng mở, nhãn quan phải thấu tỏ, nhãn quan cần nhìn
xa trông rộng, nhãn quan cần vượt trước.
Hoàng Chí Bảo, trong bài viết “Năng lực lãnh đạo chiến lược - quan
niệm, vấn đề và giải pháp” [4], đã chỉ ra đối tượng lãnh đạo chiến lược, những
yêu cầu đối với đội ngũ này và từ đó đề ra một số giải pháp để xây dựng đội ngũ
lãnh đạo chiến lược trong tình hình hiện nay. Theo đó, lãnh đạo chiến lược được
chỉ ra là lãnh đạo ở tầm vĩ mô, quốc gia, tổng thể và chỉnh thể. Lãnh đạo chiến
lược là lãnh đạo việc soạn thảo đường lối, hoạch định chiến lược và chính sách
có quan hệ tới phát triển chung hay phát triển từng lĩnh vực trong phát triển quốc
gia, trong đối nội và đối ngoại. Lãnh đạo chiến lược là thể hiện tầm vóc, sức ảnh
hưởng, quy mô, chiều kích tác động của nhà lãnh đạo và cơ quan lãnh đạo đối
với sự phát triển của cộng đồng xã hội. Lãnh đạo chiến lược cũng được tác giả
xác định là đội ngũ lãnh đạo ở tất cả các cấp, các ngành. Theo tác giả, cấp tỉnh,
cấp vùng, miền cũng phải được coi là cấp chiến lược, các lãnh đạo ở khu vực
này hỗ trợ, bổ sung, điều chỉnh các vấn đề liên quan tới phát triển của địa
phương, vùng miền với tư cách là hình ảnh thu nhỏ của quốc gia; cấp cơ sở - vi
mô có tầm quan trọng đặc biệt vì nó là những tế bào khởi phát làm nên xã hội,
cộng đồng và nhà nước cùng với chính thể của mình. Trên cơ sở những yêu cầu
về nhiệm vụ, bài viết cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo chiến lược đối với đội ngũ lãnh đạo chiến lược ở nước ta.
15

Tác giả Trung Quốc Vương Như Cần với bài viết “Tư duy chiến lược của
cán bộ lãnh đạo cần đủ bốn quan điểm”, Tạp chí Tiền tuyến (Phan Huy Quang
dịch) [9] khẳng định, tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo vừa là một vấn đề lý
luận, cũng là một vấn đề thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của tư duy chiến lược của cán
bộ lãnh đạo là: vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác để quan sát vấn đề, từ phương hướng toàn cục và sự lâu dài để suy xét vấn
đề, vừa có thể tiến hành sắp xếp và phân loại các yếu tố phức tạp trong nội bộ vấn
đề. Tác giả cũng cho rằng, phương thức tư duy chiến lược là hình thái cao của
phương thức tư duy, tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo cần hội đủ bốn yếu tố:
triết học quan trong tư duy chiến lược; thời đại quan của tư duy chiến lược; toàn
cục quan trong tư duy thời đại; thực tiễn quan của tư duy chiến lược. Và sau cùng,
tính đúng đắn của tư duy chiến lược phải được kiểm nghiệm bằng thực tiễn.
Cuốn sách “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tham mưu chiến lược”
[15] của tác giả Đỗ Minh Cương và Nguyễn Viết Lộc nêu lên tầm quan trọng
của chiến lược, vai trò của tham mưu chiến lược, của nguồn nhân lực tham mưu
chiến lược đối với sự phát triển của đất nước trong thời đại ngày nay. Thông qua
khảo sát thực trạng, các tác giả cũng đề xuất những giải pháp trong công tác bồi
dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tạo ra một đội ngũ tham mưu chiến
lược đối với nước ta hiện nay. Thông qua cuốn sách này, nhóm tác giả cùng làm
rõ các khái niệm như: khái niệm tham mưu chiến lược, cán bộ chiến lược và vai
trò của đội ngũ này. Nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán
bộ chiến lược, người giữ vai trò đứng đầu của các nước cũng được đưa vào
nghiên cứu, đánh giá, qua đó có những sự vận dụng nhất định trong việc xây
dựng các giải pháp cho việc phát triển đội ngũ cán bộ chiến lược ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Luận án tiến sỹ của Dương Minh Đức: “Nâng cao năng lực tư duy lý
luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện
nay” [31] nhấn mạnh, sức mạnh trí tuệ của con người có cơ sở nền tảng của
nó là tư duy lý luận. Tư duy lý luận là khả năng tổng hợp các phẩm chất trí
tuệ của chủ thể, đáp ứng yêu cầu phát hiện ra những yếu tố mới, nhận thức
16

nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận. Bằng tư duy lý
luận, chủ thể có những đề xuất thiết thực, cụ thể, sắc bén, sáng tạo, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Ở vùng đồng bằng sông Hồng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đang đứng
trước mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao với trình độ và khả
năng đáp ứng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở đây nhiều mặt chưa ngang tầm,
nhất là về năng lực tư duy lý luận. Muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận,
luận án đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể.
Bài viết của Ngô Huy Đức, “Nâng cao năng lực tư duy của cán bộ lãnh
đạo cấp chiến lược” [32] đề cập đến những tố chất cần có đối với người lãnh
đạo để thực hiện công việc lãnh đạo. Bên cạnh các yếu tố về đạo đức, sức khỏe,
tính cách..., tư duy của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định
hiệu quả lãnh đạo. Nâng cao năng lực tư duy của cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược
phụ thuộc vào chính việc xác định đúng các thách thức lãnh đạo trong môi
trường, bối cảnh cụ thể của người lãnh đạo đó; đồng thời, cùng với tư duy khoa
học, đội ngũ lãnh đạo cấp chiến lược cần phải nâng cao năng lực tư duy khác,
như tư duy hệ thống và tính sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình
hình hiện nay.
Bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ở nước ta hiện nay -
quan niệm, đặc điểm và những mâu thuẫn cần giải quyết” [43] của tác giả Đoàn
Minh Huấn đề cập đến tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược đối với toàn bộ công tác cán bộ của Đảng. Vì vậy, chăm lo xây dựng
cán bộ cấp chiến lược phải được xem là trọng tâm trong công tác cán bộ. Muốn
vậy, cần phải nhận diện được các đặc điểm, phát hiện các mâu thuẫn và đề xuất
phương thức giải quyết mâu thuẫn, tìm động lực cho cán bộ cấp chiến lược phát
triển, xứng đáng với vị thế, trách nhiệm trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới.
Tác giả Trung Quốc Tăng Quảng Lạc, “Bàn về nguyên tắc cơ bản của tư duy
chiến lược của cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới” [49], Tạp chí Trường Đảng tỉnh ủy Tứ
Xuyên (Phan Huy Quang dịch) đưa ra những tìm tòi bước đầu những nguyên tắc cơ
bản của tư duy chiến lược mà đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần tuân thủ. Các nguyên tắc
17

được tác giả chỉ ra trong bài viết bao gồm: nguyên tắc giá trị với mục đích được đặt
ra là vì ai, vì cái gì; nguyên tắc tính khoa học mà xét về căn bản chính là yêu cầu
quá trình tư duy chiến lược tuân thủ quy luật khách quan sự tồn tại, phát triển của
giới tự nhiên và xã hội loài người, nội dung của tư duy chiến lược phù hợp với quy
luật khách quan; nguyên tắc tính dân chủ là hình thức tổ chức, hình thức tự quyết và
tự trị của nhân dân, bảo vệ quyền uy của đa số và đồng thời tôn trọng thiểu số bảo
lưu ý kiến với quyết sách dân chủ, lợi ích và ý chí của quần chúng nhân dân được
đảm bảo và tôn trọng, được tôn trọng; nguyên tắc tính sáng tạo, đây là yêu cầu rất
cần thiết đối với tư duy chiến lược để đảm bảo tính toàn cục, tính dài hạn, lược bỏ
đi những tư duy chết cứng, lạc hậu, đối diện với điều kiện xã hội mới, đưa ra những
quan niệm mới, góc nhìn mới, đưa ra những hoạch định mới phát triển.
Bài viết “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu đối với lãnh đạo
chiến lược” [86] của tác giả Đỗ Văn Quân, Nguyễn Ngọc Lam nêu lên những
đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư với những thuận lợi và bất cập
đối với nước ta hiện nay. Trước những biến động và đòi hỏi mới của thực tại,
bao gồm cả những thuận lợi và những rào cản đối với đội ngũ lãnh đạo chiến
lược, bài viết chỉ ra yêu cầu đối với đội ngũ lãnh đạo chiến lược để có thể nắm
bắt kịp thời những diễn biến của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
ảnh hưởng mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu này.
Tác giả Trung Quốc Đoạn Bồi Quân với bài viết “Nội hàm thời đại và kết
cấu của tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo” [87], Tạp chí Trường Bạch
(Phan Huy Quang dịch) khai thác yêu cầu “thạo sử dụng tư duy chiến lược” mà
Đại hội Đảng lần thứ 16 của Trung Quốc đặt ra đối với đội ngũ lãnh đạo trong
tình hình mới. Tác giả phân tích những đặc điểm của tình hình thế giới, từ đó đi
tới khẳng định: “thạo sử dụng tư duy chiến lược” là yêu cầu tất yếu của sứ mệnh
lịch sử xây dựng toàn diện xã hội khá giả. Theo tác giả, đặc trưng cơ bản của
chiến lược là sự kết hợp thống nhất của ba góc độ: chiến lược từ góc độ thực
tiễn, từ góc độ không gian và thời gian. Triển khai năng lực tư duy chiến lược
theo ba góc độ trên có thể khái quát thành: năng lực hoạch định chiến lược theo
góc độ mục tiêu và phương thức, năng lực toàn cục chiến lược theo góc độ toàn
18

cục và cục bộ, năng lực dự báo và phát triển chiến lược theo góc độ hiện tại và
tương lai.
Tác giả Nguyễn Đức Quyền với“Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay” [90] đề cập đến năng
lực tư duy lý luận có vai trò quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là đối với
người cán bộ lãnh đạo. Với vị trí đặc thù là khâu trung gian, là cầu nối trong
quy trình lãnh đạo, quản lý từ trung ương và tỉnh đến cơ sở, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện cần phải rèn luyện để có trình độ và năng lực tư duy lý luận
nhất định để hoàn thành tốt các chức năng và nhiệm vụ cầu nối đó; đảm bảo
thông tin thông suốt, đúng tinh thần của chủ trương, chính sách từ cấp trên,
nhưng cũng phải phù hợp với đặc thù địa phương, đảm bảo cán bộ cơ sở và
nhân dân có thể lĩnh hội tốt nhất những chủ trương chính sách ấy. Từ đó, bài
viết đưa ra những nguyên tắc và giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp huyện trên cơ sở xác định rõ các căn bệnh để
khắc phục. Bài viết cho thấy việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa
lâu dài và mang ý nghĩa chiến lược trong công tác cán bộ. Từ thực trạng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và năng lực tư duy lý luận của họ, tác giả nêu
một số nguyên tắc cơ bản để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ này: Nâng cao năng lực tư duy lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải gắn
với quá trình tổng kết thực tiễn trên địa bàn người cán bộ chủ chốt phụ trách;
nâng cao năng lực tư duy lý luận phải gắn với công tác đào đạo, bồi dưỡng và
sử dụng cán bộ; nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện phải gắn với nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của họ và nâng cao trình độ dân trí cộng đồng; phải gắn việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận với việc giải quyết nhiệm vụ chính trị là phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện mà người cán bộ chủ chốt trực tiếp phụ
trách; nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
phải gắn liền với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng. Trên cơ sở những
nguyên tắc này, tác giả nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện.
19

Tác phẩm “Tư duy lý luận với hoạt động của người lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn” [99] của tác giả Trần Thành nhấn mạnh tư duy lý luận đối với người
cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn như là “chìa khoá” mở ra cho hoạt động nhận
thức và thực tiễn của họ; giúp họ nắm được thực chất đường lối, chủ trương,
chính cách của Đảng và Nhà nước; nâng cao khả năng phân tích luận giải được
tính đa dạng và phong phú và những diễn biến phức tạp của cuộc sống, thực tiễn
ở trình độ lý luận, từ đó biết tổ chức thực tiễn một cách có hiệu quả, biết tổng kết
thực tiễn để bổ sung, sửa đổi để phát triển nhận thức, phát triển lý luận đường
lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn mới.
Tác giả Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã hiện nay” [102] thông qua tác phẩm bàn về một số nội dung về tư
duy lý luận và năng lực tư duy lý luận, vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với
hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã; những nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã.
Tác gỉả cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã.
Bài viết “Kinh nghiệm đào tạo lãnh đạo chiến lược của Xin-ga-po” [110],
tác giả Trần Thị Thanh Thủy đưa đến một số tìm hiểu về chương trình đào tạo
người lãnh đạo ở Xin-ga-po. Ở Xin-ga-po, đào tạo lãnh đạo các cấp, trong đó có
lãnh đạo cấp chiến lược được thực hiện bởi trước nhất là Trường Công vụ Xin-
ga-po (Civil Service College Singapore) với chức năng tổ chức các chương trình
đào tạo các nhà lãnh đạo cấp cao và cấp trung. Các chương trình, khóa và
chuyên đề đào tạo rất đa dạng về thời gian, đối tượng và phương thức đào tạo.
Các chương trình có một số điểm chung là chú trọng đào tạo tư duy. Các chương
trình, nội dung đào tạo được thiết kế nhằm tạo ra một số phẩm chất quan trọng
trong tư duy lãnh đạo chiến lược; tư duy đại cục, tổng thể dựa trên tri thức về bối
cảnh. Việc này không những đòi hỏi phải hiểu thấu đáo khía cạnh kỹ thuật, mà
còn phải biết vận dụng linh hoạt các khái niệm có liên quan, bao gồm việc lập ra
một trình tự và môi trường kinh tế chính trị tổng thể; Chú trọng tính lâu dài, nhấn
mạnh tư duy chiến lược, tầm nhìn, chú trọng nhìn xa, trông rộng, nhưng sát với
thực tiễn, có tính thực tế.
20

Có thể nói vấn đề về tư duy, tư duy lý luận gắn với người cán bộ lãnh
đạo đã được khá nhiều các công trình nghiên cứu đề cập tới. Thông qua
những công trình nghiên cứu đó khái niệm tư duy, tư duy lý luận cùng vai trò
của nó được phân tích và làm rõ. Thực trạng về trình độ, năng lực tư duy, tư
duy lý luận trong độ ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta tùy từng phạm vi nghiên
cứu được các tác giả tìm hiểu và đánh giá nghiêm túc, từ đó xây dựng các giải
pháp thiết thực nâng cao trình độ, năng lực tư duy, tư duy lý luận. Hiểu rõ về
tư duy, tư duy lý luận là nền tảng quan trọng có thể kế thừa để hình thành và
xây dựng tư duy chiến lược. Tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
nước ta hiện nay ngày càng được nghiên cứu, tìm hiểu một cách phổ biến hơn
do yêu cầu phát triển đất nước trong thời đại.

1.4. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ TỔNG QUAN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.4.1. Giá trị của những công trình nghiên cứu đã tổng quan
Qua tổng quan có thể nhận thấy, những công trình nghiên cứu về tư duy
và tư duy lý luận được nghiên cứu sâu sắc ở nhiều góc độ khác nhau. Tư duy và
tư duy lý luận là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu khá sớm trong lịch sử triết
học từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, nhất là triết học Mác - Lênin. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu được công bố, ở đó tập trung làm rõ khái niệm tư
duy, tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận trong quá trình lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta được đề cập những bình diện khác nhau.
Nghiên cứu về tư duy, có những công trình chỉ rõ nguồn gốc, quá trình
hình thành tư duy của con người; các cấp độ, các loại hình tư duy và vai trò của
nó với nhiều góc độ được nghiên cứu sâu sắc. Mặc dù tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau nhưng vai trò của tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược đều được
khẳng định với tính chất cần thiết không thể thiếu trong cả hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Những người đứng đầu, người cán bộ lãnh
đạo ở mọi thời kỳ lịch sử đều được đánh giá là những người có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của tổ chức, quốc gia, dân tộc, theo đó ở đội ngũ này
luôn được đặt ra và đòi hỏi khả năng tư duy ở trình độ cao hơn, đặc biệt hơn, nổi
trội hơn so với những người khác.
21

Trước yêu cầu đó, nhiều công trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận
cũng được đặt ra và nghiên cứu ở đối tượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Người cán
bộ lãnh đạo nói chung, trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể nói riêng được
khảo sát, đánh giá một cách khá sâu sắc về đặc điểm, thực trạng tư duy, tư duy lý
luận. Qua những công trình nghiên cứu này có thể thấy, người cán bộ lãnh đạo
nước ta luôn được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, trình
độ tư duy của mình. Mặc dù có những hạn chế trong tư duy do chịu ảnh hưởng
của yếu tố lịch sử, vị trí địa lý, nhưng tư duy nói chung của người cán bộ lãnh
đạo nước ta đang không ngừng được nâng tầm. Trên cơ sở khảo sát thực tế, phân
tích thực trạng đặc điểm tư duy của người cán bộ lãnh đạo của nước ta, có nhiều
giải pháp cũng được xây dựng để góp phần nâng tầm tư duy cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo. Mỗi công trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược
đối với người cán bộ lãnh đạo nói chung ở Việt Nam đều đóng góp những giá trị
quan trọng, là cơ sở để người cán bộ lãnh đạo học tập, bồi dưỡng hoàn thiện tư
duy của mình trong công cuộc lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước phát triển toàn
diện theo định hướng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, mà ngàn
đời người dân Việt Nam đã dày công vun đắp và gìn giữ.
Những nội dung liên quan đến sự phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ lãnh
đạo nước ta hiện nay ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng.
Điều này được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng. Mặc dù sau Nghị
quyết Trung ương VII, khóa XII với việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược đã có nhiều bài viết liên quan đến tư duy chiến lược của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp chiến lược được bàn tới, tuy vậy, hiện nay trong nước còn rất ít
công trình nghiên cứu chuyên sâu về tư duy chiến lược, thường chỉ đề cập đến tư
duy, tư duy lý luận nói chung. Tư duy chiến lược được một số công trình nghiên
cứu đề cập đến thông qua bài tạp chí, hội thảo khoa học; một số sách đề cập đến
tư duy chiến lược thì gắn với tư duy chiến lược cho lĩnh vực cụ thể. Hầu hết các
ngành, các lĩnh vực đều xác định cho mình những chiến lược phát triển, từ đó có
kế hoạch cụ thể để đảm bảo và hướng tới sự phát triển cho tương lai. Chúng ta
không khó để tìm thấy chiến lược cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,
22

quân sự trong khoảng thời gian 10 năm, 20 năm, 50 năm ở những phạm vi, quy
mô khác nhau. Việc nghiên cứu tư duy chiến lược với tính cách là một quá trình
của tư duy, một trình độ tư duy, năng lực tư duy khái quát thì chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập tới. Đây là một khoảng trống lớn có thể tiếp cận khai
thác, tìm tòi để là sáng rõ đặc trưng của tư duy chiến lược - yếu tố tư duy không
thể thiếu đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo trước tình hình mới ở nước ta hiện nay.
Quan niệm thế nào là tư duy chiến lược, trình độ tư duy chiến lược cùng
những đặc trưng của nó còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các tác giả. Có sự khác
nhau ấy là bởi các tác giả nghiên cứu về tư duy chiến lược gắn với tư duy theo
ngành, theo lĩnh vực mà không phải là tư duy chiến lược chung, tổng thể, cách
thức và khả năng tư duy ra những điều mới mang tầm nhìn dài hạn. Do vậy, các
tác giả thường mới chỉ ra cách làm thế nào để có được một chiến lược, ít đề cập
đến để chỉ ra con đường hình thành tư duy chiến lược, để từ đó bồi dưỡng, nâng
cao trình độ tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo. Để có cái nhìn khái quát hơn
về tư duy chiến lược, nâng cao trình độ tư duy chiến lược thì đây là nội dung cần
tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung
của luận án, tác giả nhận thấy việc đề cập trực tiếp, cụ thể về trình độ tư duy
chiến lược còn ít được khai thác. Với khoảng trống đó, tại luận án này, nghiên
cứu sinh tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số nội dung sau:
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về tư duy chiến lược; tầm quan
trọng của nâng cao trình độ tư duy chiến lược đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở
nước ta hiện nay; những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao trình độ tư duy chiến
lược cho cán bộ lãnh đạo; thực chất của việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược
- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phân tích rõ những ưu điểm, hạn
chế và những vấn đề đặt ra về trình độ tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao có hiệu quả trình độ tư
duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
23

Như vậy, có thể nói, luận án có sự kế thừa nhất định từ kết quả nghiên cứu
trước về tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược, về đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói
chung, đồng thời cũng đưa ra một số nội dung mới xoay quanh vấn đề về nâng
cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Bàn về trình độ tư duy chiến lược là nội dung khó, ít công trình ở nước ta đề cập
đến, đặc biệt dưới góc độ triết học, tài liệu tham khảo còn hạn chế. Tuy vậy đây
lại là vấn đề lớn, thực sự cần thiết cho sự phát triển của đất nước, do đó nghiên
cứu sinh lựa chọn đề tài “Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” với mong muốn đóng góp một cái nhìn hệ
thống, tổng quát hơn về tư duy chiến lược trong sự phát triển của tư duy nói
chung của con người.

Tiểu kết chương 1

Tư duy là vấn đề được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
loài người, được khai thác ở nhiều cấp độ, nhiều khía cạnh, qua nhiều công trình
nghiên cứu lớn nhỏ khác nhau. Tư duy chiến lược là một loại hình của tư duy,
ngày càng trở nên cần thiết trong đời sống thực tiễn. Bởi thế, việc rèn luyện nâng
cao trình độ tư duy chiến lược là không thể thiếu đối với mỗi người, đặc biệt là ở
những người cán bộ lãnh đạo. Đã có nhiều công trình nghiên cứu có đề cập đến
tư duy chiến lược, nhưng nội dung trình bày về những chiến lược cụ thể đối với
từng lĩnh vực cụ thể, mà chủ yếu là đưa ra những chiến lược nhằm phát triển các
mặt khác nhau của kinh tế. Tuy nhiên, tư duy chiến lược là gì, thực chất tư duy
cần những yếu tố nào sẽ có được tư duy chiến lược, làm gì để rèn luyện và nâng
cao trình độ tư duy chiến lược thì chưa được đề cập. Như vậy, những vấn đề lý
luận về tư duy chiến lược, những nhân tố hình thành, vai trò của tư duy chiến
lược cần được bàn đến một cách hệ thống hơn. Chương tiếp theo của luận án
phần nào đi vào giải quyết những vấn đề đặt ra đó.
24

Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

2.1. TƯ DUY VÀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC


2.1.1. Khái niệm tư duy
Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan và dĩ nhiên nếu không có cái được phản ánh thì không
thể có cái phản ánh, nhưng cái được phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh.
Bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ
óc con người. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết
mâu thuẫn chứ không phải quá trình phản ánh máy móc, giản đơn, thụ động và
nhất thời:
Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể.
Phản ánh của thế giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được
hiểu không phải một cách chết cứng, trừu tượng, không phải không
vận động, không mâu thuẫn, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận
động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó
[54, tr.207-208].
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến
đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, không phải nhận thức một lần là xong, mà có
phát triển, có bổ sung và hoàn thiện. Nhận thức là quá trình tác động biện chứng
giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Hoạt
động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới tính chân lý
khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn.
25

Từ sự phân tích trên đây chúng ta có thể thấy, nhận thức là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con
người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể. Nhận thức là quá trình
phản ánh và tái tạo hiện thực ở trong tư duy của con người, bị chi phối và
được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và không thể tách rời
với hoạt động thực tiễn. Quá trình phản ánh đó là một quá trình phức tạp của
hàng loạt hoạt động trí tuệ với tính tích cực, sáng tạo, chủ động tiếp cận cái
mới và sẵn sàng tạo dựng nên cái mới. Bởi lẽ con người không chỉ phản ánh
thế giới khách quan, mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan, tạo ra thiên
nhiên thứ hai cho mình thông qua và bằng hoạt động thực tiễn. Con người,
với hoạt động thực tiễn của mình chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng
làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, trên cơ sở đó, con người hiểu biết và nắm
bắt được quy luật vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng. Nhận thức là một
quá trình biện chứng gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính thống nhất hữu cơ đem lại cho con người sự hiểu biết ngày càng đầy đủ
hơn, toàn diện hơn về các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới.
Mục đích của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan. Trong quá trình nhận
thức, con người thu nhận được những kiến thức, những khái niệm về những
hiện tượng thực tế nhằm hiểu rõ thế giới xung quanh, nắm bắt được những
quy luật khách quan. Những kiến thức đó được sử dụng trong hoạt động thực
tiễn nhằm mục đích cải tạo thế giới, phục vụ những nhu cầu của con người.
Những tri thức có được qua quá trình nhận thức là những dữ liệu cung cấp
cho quá trình tư duy và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là đối
tượng phức tạp, được đề cập đến với nhiều lát cắt khác nhau.
“Tư duy - sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận…” [42, tr.634].
“Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt - Bộ não, quá trình phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các
khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v…” [116, tr.701].
26

“Tư duy là nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng
những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý” [117, tr.1756].
Qua những khái niệm về tư duy được đưa ra cho thấy, tư duy là thuộc tính
chỉ có ở con người, là sự phản ánh ở cấp độ cao nhất trong thế giới vật chất. Tư
duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như triết học,
tâm lý học, loogic học, điều khiển học, v.v... Triết học xem xét tư duy dưới lát
cắt lý luận phản ánh. Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức; đó là quá
trình khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực, sáng tạo. Nó có tính gián
tiếp và gắn liền với ngôn ngữ; tư duy hướng sâu vào nhận thức bản chất, tìm và
chỉ ra quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tư duy xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất xã hội của con người.
Trong quá trình đó, con người so sánh các thông tin, dữ liệu thu được từ nhận
thức cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau. Trải qua các quá trình khái quát hóa,
trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả
thuyết, lý thuyết. Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là sự phản ánh thực
tại một cách gián tiếp, sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ cơ
bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ, mà còn ở một nhóm
sự vật nhất định, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại. Vì vậy,
tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đã nắm
được từ trước.
Như vậy, qua những phân tích về tư duy, ý thức và nhận thức có thể thấy
chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đều phản ánh hiện thực khách quan
thông qua bộ óc trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Tất cả những yếu tố này đều bị
chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội, trong đó các quy luật xã hội giữ
vai trò quyết định. Tuy vậy, chúng là những khái niệm chứa đựng nội hàm khác
biệt. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, ý thức có
nhiều cấp độ khác nhau. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là kết quả
của nhận thức đồng thời là sự phát triển ở cấp độ cao của nhận thức. Như vậy, tư
duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của con người. Theo Ph.Ănghen, tư duy của con người, vừa tối cao, vừa
27

không tối cao, tuy vào những góc độ nhìn nhận khác nhau. Tư duy ở phương
diện không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể
của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì
tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Xuất phát điểm của nhận thức là
những cảm giác, tri giác và biểu tượng được phản ánh từ thực tiễn khách quan
với những thông tin về hình dạng, hiện tượng bên ngoài được phản ánh một
cách riêng lẻ. Ở giai đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư duy
tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt, quy
nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối quan hệ phổ biến, lọc bỏ
những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản
chất của sự vật, hiện tượng, khái quát thành những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Đây chính là quá trình tư duy trừu tượng. Như vậy, cả nhận thức và tư
duy đều là những quá trình hoạt động để mang lại những tri thức mới về sự
vật, hiện tượng, đối tượng nghiên cứu.
Bản chất của tư duy luôn là tìm tới chân lý khách quan, phát hiện ra bản
chất của sự vật, hiện tượng. Bởi thế, mặc dù tư duy, ý thức là phạm trù của triết
học nhưng ngày nay nó còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học cụ thể
khác với mục đích là bồi dưỡng, phát triển nhằm kích hoạt, tăng cường khả năng
sáng tạo tư duy của con người hay một tập thể cộng đồng người, giúp cá nhân
hay tập thể đó tìm ra các phương án, lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các
vấn đề nan giải trong xã hội.
Tư duy hoàn toàn không tồn tại ngoài hoạt động sống của con người. Nếu
con người chỉ tạo ra hết hoạt động logic này đến hoạt động logic khác mà trên
thực tế lại không nhận thấy, không cảm thấy, không thể nghiệm sự đối chiếu
thường xuyên ý nghĩa của các khái niệm của mình với những hoạt động tích cực
và những cảm biết về hiện thực thì sẽ không hiểu được và không nhận thức được
hiện thực và không hiểu được ngay bản thân mình, tức là sẽ không có ý thức.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo. Tư duy, trên cơ sở hoạt
động thực tiễn luôn có xu hướng vươn tới những nhận thức mới và thực tiễn
chính là cơ sở, động lực, là mục đích của tư duy. Trên cơ sở phép biện chứng
28

duy vật, xét những duy luật xã hội đã được khái quát thì khi những điều kiện
và hoạt động thực tiễn còn ở trình độ thấp thì tương ứng với nó là cấp độ tư
duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn, cùng
với những điều kiện của thực tiễn phát triển thì trình độ tư duy cũng theo đó
được nâng lên. Tùy thuộc vào việc xem xét, nhìn nhận mà có thể chia ra
những kiểu tư duy khác nhau. Nếu xét theo trình độ, có thể chia thành tư duy
kinh nghiệm và tư duy lý luận; xét theo tầm nhìn, có thể chia thành tư duy
sách lược và tư duy chiến lược…
Tư duy kinh nghiệm là một trình độ tư duy của con người, đã thể hiện
năng lực trừu tượng hóa nhưng ở trình độ thấp. Với tư duy kinh nghiệm, người
ta cũng có thể rút ra những kết luận tương đối chính xác về sự vật, hiện tượng,
nhưng đó chỉ là sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà chưa khái quát lên được mối liên
hệ bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Ở tư duy kinh nghiệm, các
phương pháp và thao tác lôgíc được hình thành một cách tự phát, dựa trên những
nếp nghĩ quen thuộc, dựa trên những tri thức kinh nghiệm. Do tính khoa học của
tư duy kinh nghiệm còn ở mức độ thấp nên nó phản ánh bản chất sự vật, hiện
tượng ở cấp độ chưa thực sự sâu sắc, việc chỉ ra những quy luật cũng chỉ mang
tính kinh nghiệm, yếu tố dự báo với độ tin cậy chưa cao.
Tư duy lý luận là một trình độ tư duy của con người, xét về trình độ phản
ánh thì nó phản ánh sâu sắc bản chất của sự vật, hiện tượng. Nó đi sâu phản ánh
các thuộc tính, mối liên hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của đối tượng.
Bởi thế, tư duy lý luận có khả năng nhìn nhận, đánh giá, phê phán sâu sắc và triệt
để vấn đề mà nó phản ánh; có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Ở tư duy lý luận, các phương pháp được hình
thành dựa trên những tri thức lý luận, được chủ thể nhận thức, sử dụng một cách
chủ động, tự giác.
Tư duy lý luận là tư duy được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức kinh
nghiệm nhờ sức mạnh của sự trừu tượng hoá và khái quát hoá của tư duy. Tư
duy lý luận, xét về bản chất đối lập với tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận là tư
duy mang tính gián tiếp và khái quát hoá cao do nó đã qua rất nhiều bước trung
29

gian hoá, trừu tượng hoá. Tri thức lý luận có khả năng phản ánh được hiện thực
ở mặt bản chất, trong những mối liên hệ bên trong mang tính qui luật. Tư duy lý
luận là tri thức được hệ thống hoá nên nó đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể
bao quát, đầy đủ và toàn vẹn về đối tượng phản ánh. Bằng tư duy lý luận, chủ thể
có thể chỉ ra được bản chất bên trong của chính sự vật, hiện tượng. Tư duy lý
luận đã giúp cho nhận thức của con người trở thành nhận thức lý luận đích thực
khi nhận thức ấy thông qua biểu hiện vận động bề ngoài mà suy luận được sự
vận động bên trong, những đặc điểm bản chất của những hiện tượng đó. Với
những đặc điểm đó tư duy lý luận không những chỉ ra những phương hướng mới
cho hoạt động thực tiễn của con người, mà còn làm cho hoạt động đó mang tính
chủ động, tự giác và sáng tạo.
Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư
duy bằng phương pháp khoa học. Lý luận chứa đựng trong nó khả năng trở
thành phương pháp, nhưng bản thân lý luận tự nó chưa phải là phương pháp.
Lý luận là tri thức, nguyên lý, qui luật, nhưng phương pháp lại là hệ thống
những nguyên tắc, được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan, tri thức
lý luận để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tieenc của con
người nhằm đạt mục tiêu đề ra. Bằng lối tư duy kinh nghiệm, các phương
pháp và các thao tác lôgíc được hình thành một cách tự phát, dựa trên những
nếp nghĩ quen thuộc hoặc dựa trên những tri thức kinh nghiệm. Ngược lại,
đối với tư duy lý luận, các phương pháp được hình thành dựa trên những tri
thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác, kết quả
của quá trình tư duy đó là những thành quả trong thực tiễn đã được hình
dung trước.
Từ những đặc trưng trên có thể hiểu, tư duy lý luận khoa học là tư duy ở
cấp độ nhận thức cao của con người, có vai trò quan trọng trong nhận thức và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người; được thực hiện dựa trên nguyên tắc
phương pháp luận biện chứng duy vật và các thao tác tư duy lôgic để nắm bắt
các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn
trong khách thể nhận thức, từ đó có thể tạo ra những mô hình lý luận phù hợp
30

với hiện thực khách quan chỉ đạo thực tiễn ngày càng có hiệu quả. Tuy vậy, do
những đặc điểm của mình, tư duy lý luận có mặt hạn chế là dễ thoát ly thực tế,
dễ rơi vào tư biện.
Tư duy lý luận và tư duy chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để
đạt được những mục tiêu khác nhau tùy vào mục đích xác định, trên cơ sở nền
tảng của trình độ tư duy lý luận, người lãnh đạo xây dựng các kế hoạch, phương
thức để đạt được những mục tiêu, trong đó có những kế hoạch ngắn hạn trước
mắt, có kế hoạch dài hạn; có những nội dung có thể linh hoạt tùy vào hoàn cảnh
cụ thể, cũng có những nội dung phải kiên định; thực hiện những sách lược và
chiến lược phù hợp.
Sách lược là những kế sách, chiến thuật nhằm đạt đến mục tiêu chiến
lược theo lập trường đã định. Sách lược có thể “co giãn”, “mềm dẻo”, “linh
hoạt”, “uyển chuyển” tùy từng hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt mục tiêu đã xây
dựng, là phương thức, cách thức và thời điểm để thực hiện chiến lược. Như vậy
tư duy sách lược có nghĩa là tư duy về những quyết định cụ thể cho những hành
động trong mục tiêu trước mắt, mục tiêu gần, thực hiện những mắt khâu trong
chiến lược.
Tư duy chiến lược là một bước phát triển quan trọng trong quá trình tư
duy của con người. Ngày nay, trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, để có sự phát triển tối ưu đều cần tư duy ở tầm chiến lược. Đặc biệt đối với
nước ta đang cần những bước đi dài, đi tắt, đón đầu để bắt kịp sự phát triển của
thế giới lại càng đòi hỏi phải có tư duy chiến lược, nhất là trong bối cảnh tình
hình quốc tế biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện nay.
2.1.2. Khái niệm tư duy chiến lược
Chiến lược và chiến thuật là hai thuật ngữ xuất phát từ nghệ thuật quân sự,
nó thường gắn với mưu lược, kế sách. Chiến lược là phương cách để chiến thắng
một cuộc chiến tranh. Ngày nay đó là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các
lĩnh vực khác nhau. Đối với lĩnh vực quân sự, nếu không có chiến lược đúng sẽ
không thể chiến thắng. Điều khác biệt giữa việc có chiến lược hay không có
chiến lược là ở chỗ:
31

Người không có chiến lược đánh trận nào chỉ biết trận đó. Họ có thể chiến
thắng trong nhiều trận đánh lớn, nhưng không có ý niệm về diễn biến và chiều
hướng, phản ứng một cách thụ động trước các diễn biến của cuộc chiến. Người
không có chiến lược sẽ không nắm được các cơ hội, không lường trước được các
tình huống có khả năng sẽ xảy đến và do vậy thường không phải là người chiến
thắng cuối cùng.
Người có chiến lược biết lường trước về trận chiến. Họ chú tâm vào diễn
biến và chiều hướng của cuộc chiến, biết tích lũy và phát triển lực lượng, huy
động các nguồn lực, chiếm lĩnh và bảo vệ những vị trí trọng yếu. Người chiến
thắng cuối cùng thường là một trong số những người có chiến lược tốt nhất.
Ngày nay thuật ngữ chiến lược được sử dụng một cách rộng rãi cho nhiều
các lĩnh vực, nhiều cách xem xét khác nhau. Phạm vi rộng, hẹp về không gian
không phải là một đặc điểm chủ yếu của chiến lược. Không có một cái ngưỡng
về phạm vi phải đạt tới thì mới được coi là chiến lược. Có thể có chiến lược toàn
cầu, chiến lược quốc gia, chiến lược trong từng lĩnh vực, cũng có thể có chiến
lược gia đình, chiến lược cá nhân từng người. Có thể có chiến lược đối ngoại,
chiến lược kinh tế, chiến lược bảo vệ Tổ quốc... Trong các đối tượng cụ thể hơn
trong từng lĩnh vực có thể có chiến lược nhân sự, chiến lược kinh doanh, chiến
lược sản phẩm…
Bản chất của chiến lược là cực kỳ quan trọng, nó quyết định cả mục đích,
phương châm và biện pháp để đạt mục tiêu; song, bản chất các chiến lược rất
khác nhau, phải xét từng trường hợp cụ thể. Chiến lược cần thiết không chỉ với
những người có tham vọng là người chiến thắng cuối cùng, hay là những ai
mạnh, mà cần thiết với bất cứ ai. Đặc biệt, đối với những người giữ vai trò lãnh
đạo, để đưa đến sự phát triển, lớn mạnh thì không thể thiếu một chiến lược.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về chiến lược, nguyên nhân cơ
bản có sự khác nhau đó là do các phương pháp tiếp cận khác nhau và thường gắn
với tổ chức hay lĩnh vực công việc cụ thể. Các định nghĩa đó đều giải thích theo
nghĩa chiến lược quân sự hay chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, chiến lược ngành, chiến lược địa phương...
32

Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Chiến lược cách mạng là phương
châm và kế hoạch có tính chất toàn cục, xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp
lực lượng trong suốt một thời kỳ của cuộc đấu tranh xã hội, chính trị” [79, tr.157].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Chiến lược là nghệ thuật xác
định mục tiêu, sắp xếp, quy tụ lực lượng, đề ra giải pháp nhằm đạt tới một mục
đích nhất định bằng con đường có lợi nhất tạo ra trạng thái phát triển mới của
một lĩnh vực” [42, tr.1024].
Theo cách hiểu thông thường: Chiến lược là một từ có nguồn gốc từ lĩnh
vực quân sự, đó là phương cách để chiến thắng trong một cuộc chiến tranh; đó là
chương trình, kế hoạch hành động được thiết kế, hoạch định nhằm đạt được một
mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các mục tiêu dài hạn, trong đó bao gồm cả các biện
pháp, các cách thức, con đường đạt đến mục tiêu đó. Gọi là chiến lược khi trong
đó chứa đựng cả ba yếu tố: xác định chính xác mục tiêu cần đạt; xác định con
đường hay phương thức để đạt mục tiêu; định hướng, phân bổ nguồn lực để đạt
được mục tiêu đã lựa chọn. Như vậy, theo định nghĩa này thì nhiệm vụ của chiến
lược là tìm ra phương thức sử dụng các nguồn lực có hạn của tổ chức để đạt
được mục tiêu một cách hiệu quả nhất.
Giữa chiến lược và sách lược có mối liên hệ với nhau, chúng đều được
hành động với sự chính xác để giành được mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, chúng
có những điểm khác nhau căn bản. Về mặt quy mô, chiến lược đặt ra mục tiêu
to lớn, còn sách lược thì có giới hạn; về phạm vi hoạt động, chiến lược ở mức
rộng lớn và tổng thể còn sách lược có điểm tập trung cụ thể; chiến lược tuy
cũng cần phải linh hoạt nhưng không thay đổi quá nhanh còn sách lược thì
linh hoạt và nhanh chóng. Với nhiệm vụ chiến lược, một kế hoạch được bắt
đầu với việc đưa ra viễn cảnh tương lai nhưng phải đưa ra được những bước
đi chính xác tới mục tiêu, do đó nó phải được thiết lập một cách cẩn thận bởi
trong thời gian dài, mọi thứ đều có thể có rất nhiều biến đổi.
Như trên đã nêu, có rất nhiều định nghĩa về chiến lược, nhưng có thể khái
quát lại rằng: “Chiến lược là định hướng cơ bản về mục tiêu lâu dài. Ở đó chứa
đựng nội dung, phương thức để hoạch định, sắp xếp, chuẩn bị lực lượng, đề ra
33

giải pháp đạt được mục tiêu lâu dài ấy bằng con đường hiệu quả nhất, tạo ra
trạng thái phát triển mới của một lĩnh vực, nhiều lĩnh vực khác nhau trong thời
kỳ nhất định”. Cần chú ý đó là những mục tiêu dài hạn nhằm thực hiện một hoặc
một loạt các hoạt động cho sự phát triển.
Vậy tư duy chiến lược là gì? Như đã biết, trong quá trình tồn tại của mình,
ở con người luôn diễn ra hai loại hoạt động đó là hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Ngày nay, ở bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng cần thiết phải
nhìn nhận, suy tính một cách chiến lược. Tính chiến lược được thể hiện ra thông
qua sự hoạch định, việc xây dựng những kế hoạch mang tính dài hạn, có những
sự tính toán trước cho những bước đi cụ thể trong tương lai nhằm đạt tới một
mục tiêu nhất định. Theo đó, tính chiến lược này được hiểu là chiến lược trong
hoạt động thực tiễn.
Tư duy chiến lược được xác định là hoạt động của tư duy, hoạt động này sẽ
diễn ra trước chiến lược trong thực tiễn một bước, cần có tư duy chiến lược tốt
mới có được chiến lược trong thực tiễn đúng đắn, hiệu quả. Tư duy chiến lược
thể hiện ở khả năng nhìn ra tính toàn cục, tầm nhìn xa, trông rộng, tầm nhìn có
tính sáng tạo, tính vượt trước về những đối tượng mà nó phản ánh. Xa và rộng ở
đây bao hàm cả không gian và thời gian vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thực tế tồn tại của nó. Tư duy chiến lược là quá trình nhận thức lý
tính về đối tượng, là một sức nhìn, tầm nhìn, nhưng không phải là cái nhìn thông
thường của mắt, mà là cái “nhìn” của tư duy, trí tuệ, có khả năng đi sâu vào bản
chất, tìm ra quy luật vận động của nó để đi đến lựa chọn sự tác động đạt kết quả
tốt nhất. Tư duy chiến lược. Khi chủ thể có được tư duy chiến lược là có khả
năng hiểu sát tình hình, xác định đúng mục đích, có tính sáng tạo cao của tư duy,
từ đó phát hiện sớm những tín hiệu báo trước sự thay đổi hay những mầm mống
của cái mới, để đạt đến mục tiêu với hiệu quả cao.
Tư duy chiến lược được thể hiện ở tầm nhìn sâu về lịch sử, nhìn đúng về
hiện tại, nhìn rõ về tương lai, từ đó lựa chọn chính xác điểm cốt lõi, cơ bản, đề ra
được các biện pháp thực hiện mục đích đạt kết quả tối ưu.
34

Tư duy chiến lược dự báo xu hướng vận động, biến đổi của đối tượng
khách quan, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người trong việc cải tạo đối tượng khách quan đó. Bằng tư duy chiến
lược, con người có tầm nhìn xa, trông rộng trong hoạt động của mình; dự báo
được các tình huống có thể xảy ra; xác định được xu thế vận động của thực tiễn,
của đối tượng mà nó phản ánh, trên cơ sở đó chủ động đề ra các phương án dự
phòng cho những biến cố, những tình huống khác nhau. Do vậy, có thể nói, tư
duy chiến lược giúp con người chủ động, tự giác trong hoạt động, làm chủ được
các hoạt động của mình một cách rõ rang, hiệu quả.
Để có được tư duy chiến lược không thể thiếu tư duy biện chứng và tư duy
lý luận. Đây có thể được coi là những chất liệu để trên cơ sở đó hình thành tư
duy chiến lược. Tư duy biện chứng ở trình độ lý luận phải là cơ sở cho tư duy
chiến lược. Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh các sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan với những mối liên hệ, sự vận động, phát triển. Bằng tư duy
biện chứng, chủ thể luôn nhìn nhận đối tượng trong trạng thái vận động, biến đổi
và đặt chúng trong mối liên hệ, trong sự phát triển để có được đánh giá toàn diện
nhất về đối tượng. Tư duy lý luận là bước phát triển cao về mặt tư duy của con
người. Thông qua cái nhìn biện chứng, chủ thể đạt tới trình độ khái quát hóa,
trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính
tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện tượng, khi đó chủ thể có được tư duy lý
luận. Như vậy, tư duy lý luận là trình độ tư duy có thể thâm nhập sâu vào bản
chất của đối tượng, đồng thời có thể vận dụng được những tri thức về đối tượng
vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở nắm
rõ đối tượng và khả năng vận dụng sự hiểu biết vào quá trình nhận thức và cải
tạo thực tiễn, tư duy lý luận sẽ giúp chủ thể có những suy luận, tiên đoán, định
hướng, là cơ sở cho việc xây dựng những kế hoạch cho sự phát triển trong tương
lai và đó chính là hình thành khả năng tư duy chiến lược. Tư duy chiến lược sẽ
giúp chủ thể tìm kiếm và phát triển năng lực tầm nhìn chiến lược, để dự đoán
tương lai. Tư duy chiến lược không chỉ dừng lại trả lời câu hỏi “cái gì” mà còn
cần trả lời được những câu hỏi “tại sao”, “như thế nào”, “sẽ như thế nào”. Người
35

có tư duy chiến lược phải có khả năng phân tích và tổng hợp, khả năng xử lý
thông tin hợp lý từ những dữ liệu đã có trong nhận thức và cả trong thực tiễn.
Cho tới nay chưa có một định nghĩa hay công trình nghiên cứu riêng biệt
nào để đánh giá về năng lực, trình độ tư duy chiến lược. Tuy nhiên, tư duy
chiến lược vẫn được biết thông qua các mô hình lập kế hoạch, căn cứ vào các
kế hoạch được xây dựng để thực thi, triển khai trong thực tế. Và để thực hiện
chiến lược tốt hơn đòi hỏi người có tư duy chiến lược, người có thể khám phá
những ý tưởng mới mẻ, gắn kết, xây dựng xâu chuỗi các sự kiện để hình
thành các kế hoạch với kết quả tốt trong tương lai. Tư duy và kế hoạch chiến
lược là "các quá trình khác nhau nhưng có sự liên quan và bổ sung" cần phải
duy trì và hỗ trợ nhau để đạt hiệu quả công việc trong thực tế. Người có tư
duy chiến lược biết kết nối các dữ liệu mà họ quan sát được trong thực tế, từ
trong những kinh nghiệm của cá nhân và của nhiều người khác, tổng hợp
thành một tầm nhìn xa và rộng cho tương lai, định hình hướng đi cho bản
thân, cho cơ quan, tổ chức.
Như vậy, tư duy chiến lược là một loại hình của tư duy ở cấp độ cao của
con người. Tư duy chiến lược phản ánh được bản chất, quy luật, xu hướng vận
động của hiện thực khách quan, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, có tính sáng
tạo, từ đó đưa ra những dự báo, định hướng đúng để đạt mục tiêu chiến lược
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phù hợp với quy luật phát
triển của khách quan.
Sự cần thiết của tư duy chiến lược và việc nâng cao trình độ tư duy chiến
lược không chỉ dành cho các nhà điều hành, các nhà lãnh đạo cấp cao, mà nó
có thể, và cần phải ở mọi cấp của tổ chức, thậm chí ở cá nhân. Tư duy chiến
lược giúp chủ thể đưa ra các kế hoạch hiệu quả cũng như các bước để thực
hiện thành công các kế hoạch đó. Tư duy chiến lược là sự cần thiết, thậm chí
là trách nhiệm của mọi người, nhưng đặc biệt cần thiết đối với những người
giữ vai trò là những người lãnh đạo, những người đứng đầu trong cơ quan, tổ
chức do đặc điểm của hoạt động lãnh đạo đòi hỏi.
36

Có những đặc điểm khác nhau giữa những người có tư duy chiến lược
với tư duy thông thường khi được xem xét trên cùng một vấn đề. Những người
có tư duy chiến lược nhìn thấy những khả năng để từ đó dự báo sự thay đổi và
tìm kiếm, xác định những cơ hội cũng như xác định những khó khăn có thể nảy
sinh; họ quan tâm đến những gì đang diễn ra xung quanh vấn đề mà họ hướng
tới. Đối với tư duy thông thường thường ít khi chủ động tìm kiếm ý tưởng,
không quan sát nhìn ra những tác động tiềm ẩn tới mục tiêu của mình, khả năng
bao quát vấn đề hạn hẹp, dễ hài lòng với những gì đã có, đã quen thuộc.
Nói đến người có tư duy chiến lược cũng có nghĩa người đó có khả
năng dự báo, định hướng sự phát triển của sự vật, có nghĩa là đưa ra những dự
đoán về những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng ở đây không phải là đưa
ra những vấn đề trong tương lai một cách thần bí, không phải là “đoán mò”,
mà trên cơ sở những dữ kiện đã có trong thực tế, được coi như những yếu tố
dữ liệu đầu vào và sau đó thông qua quá trình xử lý thông tin bằng nhiều
phương pháp khác nhau như phân tích, chứng minh, so sánh, đối chiếu…, đây
là sự phán đoán một cách khoa học mà đưa ra những dự báo. Việc xem xét
tương lai, đưa ra dự báo có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nói
chung. Những người có tư duy chiến lược tạo ra mối liên hệ giữa ý tưởng, kế
hoạch và những người mà người khác không nhìn thấy.
Tư duy chiến lược ngày càng trở nên cần thiết đối với tất cả mọi người
và đặc biệt không thể thiếu đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo bởi sản phẩm của
tư duy chiến lược của họ không thuần túy phục vụ cho những mục tiêu cá
nhân, trong phạm vi nhỏ hẹp mà nó có ảnh hưởng, mang tính quyết định tới
sự phát triển của cộng đồng, của vùng miền, của quốc gia dân tộc. Tư duy
chiến lược của nhà lãnh đạo thể hiện những đặc trưng cơ bản gắn với hoạt
động lãnh đạo. Tư duy chiến lược của nhà lãnh đạo mang tính tổng hợp, hệ
thống, có tầm nhìn xa trông rộng, có tính dự báo, thấy được xu thế phát triển
và hướng tới các phương án thực hiện tối ưu. Tư duy chiến lược mang tính
định hướng và sáng tạo, có khả năng vận dụng một cách nhuần nhuyễn phép
biện chứng, nhận thức rõ quy luật khách quan, bản chất của sự kiện, tình hình
37

vận động của sự vật, biết phát hiện mâu thuẫn của sự vật, phát hiện cái mới
phù hợp với sự phát triển của thực tiễn; tư duy chiến lược của nhà lãnh đạo có
phạm vi phản ánh sâu rộng, trong thời gian tương đối dài, tiếp cận vấn đề ở
quy mô toàn cục; tư duy chiến lược ở người cán bộ lãnh đạo mang tầm nhìn
thời đại và những thành quả văn minh của nhân loại. Tư duy chiến lược dược
dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, là tư duy tổng hợp của
tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy văn hóa, tư duy quân sự, tư duy đối
ngoại, từ đó hình thành nên một tầm nhìn vừa khái quát, vừa sâu rộng lại đáp
ứng được nhu cầu phát triển lâu dài của thực tiễn.
2.1.3. Thực chất của việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược
Nói đến trình độ tư duy là nói đến khả năng tư duy của con người trong quá
trình nhận thức và hoạt động thực tiễn ở những mức độ nhất định. Như trên đã nói,
tư duy là quá trình ý thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực, là hình thức cao
của sự phản ánh tích cực, chủ động, có mục đích về hiện thực khách quan và được
thể hiện ra là sự nhận thức có tính trung gian, gián tiếp khái quát về các mối liên hệ
của sự vật và hiện tượng. Trình độ tư duy có mối quan hệ gắn bó mật thiết với năng
lực tư duy. Muốn nâng cao trình độ tư duy thì trước hết phải khẳng định ở đối
tượng cần nâng cao đó có đầy đủ những năng lực tư duy. Năng lực tư duy là tổng
hợp những khả năng bao gồm: ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa, khái
quát hóa; sau đó là quá trình xử lí tri thức đã được phản ánh; cuối cùng là đi tới vận
dụng và phát triển chúng vào những tình huống thực tiễn cụ thể. Năng lực tư duy
giữ vai trò quan trọng trong nhận thức khoa học; là khả năng nắm bắt và vận dụng
những tri thức vào cuộc sống; là năng lực phản ánh bằng liên tưởng, phát hiện và xử
lí thông tin trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể; là một lực lượng tinh thần
đang nhận thức, một cơ chế đang vận động, sự tổng hợp của các quy luật tư duy
trên cơ sở quy luật của đời sống hiện thực. Năng lực tư duy chiến lược là tổng hợp
những phẩm chất tâm, sinh lí, trí tuệ của chủ thể, là sự thống nhất biện chứng giữa
vốn tri thức và sự nắm vững, vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo các tri
thức khoa học, khả năng tổng kết thực tiễn cũng như các thao tác tư duy logic phù
hợp nhằm đưa ra những dự báo, định hướng cho tương lai đối với những đối tượng
38

mà chủ thể hướng tới nghiên cứu, giải quyết. Việc phát huy năng lực tư duy chiến
lược được thể hiện qua những nấc thang trình độ của tư duy chiến lược.
Trình độ tư duy được thể hiện ở các cấp độ khác nhau, có tư duy tiền khoa
học và tư duy khoa học, có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy chiến
lược là tư duy ở trình độ cao trong quá trình con người nhận thức. Tư duy chiến
lược được đặc trưng ở khả năng tư duy có tầm nhìn xa trông rộng, tính sáng tạo,
tính vượt trước để dưa ra những dự báo chính xác xu hướng vận động trong
tương lai về vấn đề mà chủ thể hướng tới nghiên cứu, cải tạo. Trình độ tư duy
chiến lược được thể hiện qua khả năng nhận định, đánh giá về đối tượng, để từ
đó vạch ra những kế hoạch, chính sách định hướng phát triển cho tương lai trong
khoảng thời gian dài, đem lại kết quả như dự kiến, phù hợp với xu hướng vận
động, biến đổi. Người có trình độ tư duy chiến lược càng cao thì những phán
đoán, những dự báo về sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng càng chính
xác, từ đó đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp với những sự vận động,
biến đổi đó, phù hợp với quy luật khách quan. Theo đó, nâng cao trình độ tư duy
chiến lược thực chất cần bảo đảm nâng cao được trình độ tư duy ở tất cả những
yếu tố đặc trưng của nó, đó là:
Thứ nhất, nâng cao tầm nhìn xa trông rộng của tư duy. Nâng cao tầm nhìn
tầm nhìn xa, trông rộng của tư duy để không mắc phải lối tư duy nhiệm kỳ, chỉ
thấy được cái trước mắt mà không thấy được lâu dài. Điều này đòi hỏi chủ thể
phải có được khả năng nhìn xa, trông rộng trong cả không gian và thời gian, tức
là phải có được cái nhìn mang tính toàn diện trước mọi vấn đề. Luôn đặt đối
tượng hướng tới vào trong môi trường rộng mở để xem xét, so sánh trong mối
quan hệ tương quan cả với quá khứ và tương lai nhằm xác định chính xác trạng
thái tồn tại của đối tượng với đầy đủ những ưu điểm và hạn chế, những thuận lợi
và khó khăn, những thời cơ và thách thức của nó. Trong cả hoạt động nhận thức
và thực tiễn yêu cầu phải xem xét từ nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, xem xét nó
trong lịch sử phát triển được cấu thành từ những yếu tố, bộ phận nào với những
mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, qua đó phát hiện ra những thuộc tính
chung, thuộc tính cơ bản của đối tượng nghiên cứu. Thực hiện điều này sẽ giúp
39

chủ thể tránh được hoặc hạn chế về sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một
chiều trong nhận thức cũng như trong giải quyết các tình huống thực tiễn. Nhờ
đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật, hiện tượng như nó vốn có trong
thực tế. Đây là cơ sở, là căn cứ để có thể xử lý chính xác, có hiệu quả đối với
những vấn đề của thực tiễn. Tư duy chiến lược không cho phép giới hạn đối
tượng nghiên cứu ở một bình diện nào đó mà cần bóc tách được cả những hiện
tượng bề mặt để nhìn thấy thấu đáo thực chất nội tại của sự việc, bản chất sự vận
động, biến đổi và xu thế biến đổi của đối tượng, phải gạt bỏ bằng được cái nhìn
phiến diện mới đảm bảo được tính chuẩn xác. Có được cái nhìn toàn diện là một
trong những yếu tố mấu chốt để có được tư duy chiến lược.
Thứ hai, nâng cao tính sáng tạo của tư duy. Tư duy chiến lược phải được
thể hiện bằng tư duy mang tính sáng tạo, vượt trước. Sự sáng tạo của con người
là vô hạn, nhưng không phải ai cũng dám hiện thức hóa những ý tưởng sáng tạo
của mình vào thực tế vì nhiều lý do khác nhau. Chính những lý do đó trở thành
rào cản tư duy sáng tạo và nếu không vượt qua những rào cản đó sẽ không có
được tư duy chiến lược. Để có được tư duy sáng tạo chủ thể cần gạt bỏ, vượt qua
và khắc phục một số lối tư duy cũ, là những yếu tố lạc hậu, lực cản của tư duy
sáng tạo. Tư duy kinh nghiệm với sự tin tưởng vào những kinh nghiệm có sẵn dễ
dẫn tới sự ỷ lại, điều này sẽ cản trở lớn đối với tư duy sáng tạo. Để phát huy
được sự sáng tạo của tư duy cũng cần phải vượt qua nỗi sợ thất bại. Những cách
nghĩ mới, cách làm mới thường phải đối mặt với nhiều rủi ro và sự thất bại cao.
Vì thế, nhiều người chọn cách an toàn là cứ theo kinh nghiệm sẵn có mà làm.
Chính suy nghĩ như vậy sẽ khiến chủ thể dễ trở thành lười biếng, nhát gan,
không dám khám phá, thử những cái mới, dần dần sẽ làm thui chột sự tư duy
sáng tạo của chính mình. Sáng tạo nghĩa là phải có những suy nghĩ hoặc hướng
giải quyết công việc khác với cách nghĩ, cách làm cũ. Những người có tư duy
sáng tạo là những người dám vượt qua những quy tắc, chuẩn mực có sẵn trước
đó. Với tư duy sáng tạo, chủ thể phải gạt bỏ được sự ràng buộc và những ảnh
hưởng của những quan niệm truyền thống, những quan niệm, định chế, lối tư
duy chết cứng, lạc hậu để đối diện với cái mới, tư tưởng, quan niệm, góc nhìn,
40

yêu cầu mới để phát hiện ra vấn đề mới nhằm đề ra những con đường, hướng đi
mới. Trong bối cảnh xã hội, thời đại đang vận động, biến đổi, phát triển nhanh
chóng hiện nay thì tính sáng tạo là linh hồn cho sự tiến bộ của một dân tộc, là
động lực để quốc gia phát triển. Tính sáng tạo của tư duy đối lập với lối tư duy
bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới và thực tiễn xã hội cùng sự vận động của nó là bất
tận, tính sáng tạo của tư duy cũng không có giới hạn cuối cùng. Tư duy chiến
lược không thể là lối tư duy nhốt mình, bó hẹp trong những cái cũ, cái đã qua, vì
thế yêu cầu về tính sáng tạo trong tư duy không thể thiếu trong tư duy chiến
lược. Hiện nay, yêu cầu đổi mới, sáng tạo để phát triển đất nước nhanh và bền
vững của Đảng ta cũng chính là thể hiện tư duy chiến lược trong giai đoạn mới.
Thứ ba, tư duy dự báo xu hướng vận động của sự vật, hiện tượng. Tư
duy chiến lược phải được thể hiện bằng khả năng tư duy dự báo đúng xu
hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, của thực tiễn, phải đưa ra
được những phán đoán, những dự báo, từ đó có những định hướng đúng cho
sự vận động, phát triển trong tương lai, đặc biệt là trong tương lai xa, khẳng
định được tầm nhìn dài hạn. Người có tầm nhìn sẽ biết cách vạch ra những kế
hoạch dài hạn và có hướng giải quyết cho kế hoạch đó. Đối với những người
không có tầm nhìn, cách làm việc theo kiểu “nước tới đâu bắc cầu tới đó” thì
sẽ khó có được sự sáng tạo, vạch ra được bước phát triển cho tương lai của
công việc.Tư duy chiến lược được thể hiện tập trung vào việc hoạch định
đường lối, chính sách lâu dài, chứ không chỉ là lập kế hoạch, do vậy đòi hỏi
tầm nhìn và dự báo một cách sáng tạo nhưng phải có cơ sở khả thi, thu hút
được sự ủng hộ và đồng tình rộng rãi trong xã hội. Chúng ta đều biết, tương
lai luôn bao gồm cả yếu tố mang tính xác định và không xác định. Chính tính
không xác định dẫn tới sự phức tạp trong quá trình vận động, phát triển nói
chung. Tình hình nước ta hiện nay được xác định là, bên cạnh những thuận lợi
tồn tại cả những khó khăn, thách thức, do đó cần có được năng lực ứng phó
với những biến đổi ấy. Để ứng phó có hiệu quả, chủ thể phải có được năng
lực dự báo những khả năng biến đổi của đối tượng để vạch ra hướng đi cần
thiết, phù hợp trong tương lai. Đồng thời dự báo để xây dựng được cả những
41

phương án dự phòng, ứng phó với cả những khả năng biến đổi ngoài dự kiến,
ngoài mong muốn. Có được tư duy dự báo tốt giúp cho chủ thể nắm bắt được
những thời cơ, chủ động vạch ra những hướng đi tắt, đón đầu một cách hiệu
quả, đúng quy luật sẽ đưa đất nước nhanh chóng phát triển, hòa nhập kịp với
sự phát triển chung của thế giới hiện đại.

2.2. VAI TRÒ CỦA TƯ DUY CHIẾN LƯỢC ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
Hai thuật ngữ "lãnh đạo" và "quản lý" thường được dùng đôi khi thay thế
nhau trong các văn cảnh tương đương. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy ở một
số tác giả đã cố gắng phân biệt hai thuật ngữ này. Có thể nêu hai loại ý kiến khác
nhau về sự phân biệt giữa hai thuật ngữ.
Ý kiến thứ nhất cho rằng "lãnh đạo là một khía cạnh quan trọng của quản
lý... khả năng lãnh đạo có hiệu quả là một trong những chìa khóa để trở thành
nhà quản lý giỏi" [14, tr.418]. Cũng theo các tác giả này, lãnh đạo là một chức
năng cơ bản của quản lý, nhưng quản lý bao gồm nhiều vấn đề hơn lãnh đạo...
Công tác quản lý bao gồm việc xây dựng kế hoạch một cách cẩn thận, dựng lên
một cơ cấu tổ chức để giúp cho mọi người hoàn thành các kế hoạch, và biên chế
cho cơ cấu tổ chức với những con người có những năng lực cần thiết. Tuy nhiên,
tất cả các chức năng quản lý sẽ không hoàn thành tốt nếu các nhà quản lý không
hiểu được yếu tố con người trong các hoạt động của họ và không biết cách lãnh
đạo con người để đạt được kết quả như mong muốn.
Như thế, với quan điểm này, lãnh đạo chỉ là một bộ phận, một chức năng
của công tác quản lý, quản lý rộng hơn lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý bao hàm
trong nó cả công tác lãnh đạo. Đối với nhà quản lý, lãnh đạo chỉ là một trong
những phẩm chất mà thôi. Dường như quan điểm này được khái quát từ thực tiễn
quản lý doanh nghiệp trong các xã hội công nghiệp.
Tuy lãnh đạo và quản lý có sự khác nhau nhất định; song, ranh giới chỉ là
tương đối. Xét về bản chất, lãnh đạo hay quản lý đều là những quá trình điều
khiển, quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, chủ thể tác động đến khách
thể để điều khiển, hướng tới khách thể nhằm thực hiện mục đích nhất định. Lãnh
42

đạo hay quản lý phải gắn với con người hoặc tổ chức. Tùy theo chức năng, nhiệm
vụ của mỗi tổ chức mà người ta xác định tổ chức đó có chức năng chủ yếu là lãnh
đạo hay quản lý. Ví dụ, để phân biệt thẩm quyền hoặc trách nhiệm của Đảng với
Nhà nước thì Đảng có vai trò lãnh đạo (đề ra đường lối, các quyết định lãnh đạo,
tổ chức thực hiện, kiểm tra…), còn Nhà nước có vai trò chủ yếu là quản lý (ban
hành các quyết định quản lý, pháp luật, chính sách, biện pháp, tổ chức thực hiện..).
Ngược lại với quan điểm trên là quan điểm cho rằng lãnh đạo và quản lý
là khác nhau và trong đó nhiều tác giả cho rằng "lãnh đạo" bao gồm trong nó cả
"quản lý", "quản lý" chỉ là một bộ phận, một khía cạnh của "lãnh đạo".
Lãnh đạo và quản lý trong hoạt động của người cán bộ, kể cả cơ sở, về
bản chất đều là quá trình tác động, hướng dẫn, điều khiển những
người dưới quyền và quần chúng để hoàn thành những nhiệm vụ
chính trị nhất định. Lãnh đạo hay quản lý, xét về mặt bản chất, đều là
những quá trình điều khiển [38, tr.11-12].
Một ý kiến khác cho rằng:
Quy trình lãnh đạo và quy trình quản lý cũng giống nhau. Nhưng lãnh
đạo nặng về định hướng, còn quản lý nặng về tổ chức, sắp xếp, chỉ
huy. Lãnh đạo của cấp ủy Đảng trước hết định ra những nghị quyết,
tức là vạch ra phương hướng nhiệm vụ có tính chất chung. Sự quản lý
của chính quyền là thể chế hóa, cụ thể hóa những nghị quyết đó một
cách sáng tạo. Lãnh đạo và quản lý còn khác nhau ở phương thức,
phương pháp tác động, lãnh đạo nặng về thuyết phục, quản lý nặng về
"bắt buộc" [102, tr.27].
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ
chức, động viên thực hiện"; còn "Quản lý: 1) trông coi và giữ gìn theo những
yêu cầu nhất định. 2) Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định" [79, tr.540]
Với cách định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì rõ ràng, lãnh đạo bao trùm
lên quản lý, còn quản lý là thực thi một nhiệm vụ nào đó được cấp trên chỉ đạo,
lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý không chỉ là một bộ phận cấu thành công tác lãnh
43

đạo, mà quản lý thực chất là sự triển khai cụ thể của lãnh đạo. Như vậy, nói đến
công tác lãnh đạo là nói đến việc vạch ra phương hướng, đường lối, việc chỉ đạo
thực tiễn và kiểm tra công tác thực hiện ở tầm vĩ mô. Những chủ trương, đường
lối chung này sẽ được thực hiện bởi các cấp khác nhau trong hệ thống quản lý
thực tiễn cụ thể của Nhà nước.
Cán bộ lãnh đạo trước hết là chỉ những người đứng đầu, phụ trách một tổ
chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Người cán bộ lãnh đạo
có trách nhiệm đề ra những chủ trương, phương hướng thực hiện, những quyết
định phù hợp với đặc thù và có tính chiến lược cho đơn vị mình phụ trách. Cán bộ
lãnh đạo còn là người định hướng, tổ chức đơn vị, phong trào theo hướng đi cụ
thể, điều chỉnh những quyết định phù hợp với sự thay đổi của điều kiện khách
quan, kiểm tra việc thực hiện những chủ trương, quyết định, đánh giá, tổng kết
mức độ hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Dù tiếp cận công tác lãnh đạo ở góc độ nào ta cũng nhận thấy người lãnh
đạo cần có hai phẩm chất cơ bản: 1) khả năng lựa chọn và ra quyết định đúng, và
2) khả năng tổ chức thực hiện thành công một cách tối ưu các quyết định đó. Với
hai phẩm chất này rõ ràng, đối với một người lãnh đạo đồng thời diễn ra hai quá
trình với hai năng lực khác nhau, đó là tư duy và hành động. Đối với người lãnh
đạo có tầm chiến lược thì năng lực tư duy là quan trọng nhất. Năng lực tư duy
của cán bộ lãnh đạo luôn luôn mang tính chất quyết định sự thành bại của họ.
Cán bộ lãnh đạo phải là các cán bộ ưu tú, họ là những cán bộ được Đảng và nhân
dân tin cậy giao cho các trọng trách để thực hiện các nhiệm vụ lớn lao của cách
mạng. Đồng thời cán bộ lãnh đạo phải có năng lực kiểm tra việc thực hiện vì
“không kiểm tra coi như không lãnh đạo”.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động mang tính chất định hướng của chủ thể
lãnh đạo đến đối tượng lãnh đạo bằng nhiều phương pháp (giáo dục, thuyết
phục, động viên,…) nhằm đạt mục đích nhất định. Như vậy, bản chất của hoạt
động lãnh đạo là sự tác động định hướng, điều chỉnh hoạt động của con người
đạt tới mục đích nhất định. Tính định hướng đòi hỏi người lãnh đạo đứng đầu
các cơ quan, đoàn thể, tổ chức nói chung phải có trình độ nhất định về tư duy
44

chiến lược. Bởi lẽ tư duy chiến lược có vai trò rất quan trọng trong định hướng
hoạt động lãnh đạo. Hoạt động của người cán bộ lãnh đạo là quá trình tác động,
điều khiển giữa chủ thể lãnh đạo với khách thể. Khách thể ở đây là những người
dưới quyền và quần chúng nhân dân nhằm đạt được mục tiêu cao nhất trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước,
có thể diễn đạt thành: Nắm bắt và xử lý thông tin, ra quyết định, tổ chức lực
lượng thực hiện quyết định, tổ chức kiểm tra việc thực hiện quyết định… Tất cả
những bước này đều cần tư duy chiến lược.
Người cán bộ lãnh đạo là những người có chức vụ quan trọng trong hệ
thống chính trị các cấp (Đảng, Nhà nước, các tổ chức Chính trị - xã hội) từ
Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là những người đứng đầu các cấp ủy đảng, tổ
chức chính quyền và đoàn thể nhân dân với trách nhiệm lớn lao. Với vị trí, vai
trò như vậy hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo vừa mang tính chất
định hướng chung vừa mang tính chỉ đạo thực tiễn cụ thể ở địa bàn, ở đơn vị
nơi họ phụ trách.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay đối với người cán bộ lãnh đạo ở nước ta
đặt ra những yêu cầu cao hơn so với giai đoạn trước. Trước hết, yêu cầu chung
cho đội ngũ cán bộ nước ta là kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, người cán bộ lãnh đạo
phải có đạo đức cách mạng trong sáng, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng vì lợi ích giai cấp, lợi ích nhân dân và lợi ích dân tộc; biết vận
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng vào lĩnh vực lãnh đạo do mình đảm
nhiệm và tổ chức thực hiện chúng thật tốt; thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
của Đảng và Nhà nước giao phó; biết tôn trọng dân, lấy dân làm gốc và lắng
nghe ý kiến dân trong khi thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình để tránh những
sai lầm có thể xảy ra. Những cán bộ lãnh đạo luôn luôn phải là những người tiêu
biểu cho thực hiện công bằng, chấp hành luật pháp; học và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, v.v..
45

Với tất cả những yêu cầu trên, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo một mặt,
phải nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương chung của Đảng; mặt khác
phải tường tận tình hình thực tế của đất nước, của từng địa phương về mọi mặt
và xu hướng vận động của nó. Từ đó xây dựng được các chương trình, kế hoạch,
có những giải pháp, kiến nghị phù hợp với thực tiễn cụ thể, tạo điều kiện phát
huy thế mạnh của từng vùng, từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể làm cho kinh tế -
xã hội đất nước ngày càng phát triển. Để đáp ứng được những yêu cầu chung đó,
đòi hỏi người lãnh đạo cần không ngừng học tập, rèn luyện nằm nâng cao năng
lực cá nhân ở mọi phương diện.
Con người trong cuộc sống đều có mục tiêu, lý tưởng của mình. Việc áp
dụng các kỹ năng tư duy chiến lược trong mọi lĩnh vực của cuộc sống là cần
thiết đối với bất cứ ai, bởi nó sẽ đưa lại cơ hội tốt hơn, đưa tầm nhìn của chủ thể
vào thực tiễn hiệu quả, đem lại những thành công trong cuộc sống. Nhưng hơn ai
hết, người cán bộ lãnh đạo phải là những người có tư duy chiến lược. Người cán
bộ lãnh đạo ở cả góc độ nhận thức hay hoạt động thực tiễn đều đòi hỏi phải có
cái nhìn khái quát, toàn diện, tổng thể, nhưng đồng thời cũng phải hiểu sâu sắc
về các vấn đề cả ở lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Trên cơ sở đó phải xử lý thông
tin, đưa ra được các quyết định đúng đắn nhằm giải quyết các vấn đề liên quan,
đề xuất những phương án có tính chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội. Như
vậy, nâng cao trình độ tư duy chiến lược có vai trò to lớn cả về mặt nhận thức và
hoạt động thực tiễn đối với người cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Về mặt nhận thức, việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược sẽ nâng cao
khả năng nhận thức của người cán bộ lãnh đạo trước mọi vấn đề đặt ra. Trước
thế giới đầy biến động, nhiều thời cơ nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách
thức như hiện nay, sự nhìn nhận đúng các thách thức, nguy cơ từ thực tiễn có vai
trò rất quan trọng. Những thách thức cơ bản đang đặt ra hiện nay mà chúng ta có
thể thấy đó là: tính bất định cao trong mọi khía cạnh với rất nhiều yếu tố mới
xuất hiện, bên cạnh đó đòi hỏi về sự tương tác trong xã hội ngày càng cao. Điều
này dẫn đến khó khăn trong việc xác định bản chất của những nguy cơ, thách
thức; thêm vào đó, do là những yếu tố mới nên chưa có hệ thống quy trình, thủ
46

tục và căn cứ để giải quyết mà những quy định cũ lại trở nên bất cập. Vậy, trước
những diễn biến mới trong mớ chằng chịt những mối quan hệ mới ấy, đâu là yếu
tố cốt lõi, là cái cơ bản và phải giải quyết những mối quan hệ như thế nào để bảo
đảm cho sư phát triển bền vững? Do vậy, vấn đề về nhận diện cái bản chất, cùng
đó là các thách thức, đặc biệt là các tính chất mới của chúng là vấn đề cơ bản
trong quá trình tư duy. Đây là những yêu cầu tất yếu về mặt nhận thức ở người
cán bộ lãnh đạo, đòi hỏi họ phải là những người có trình độ tư duy chiến lược
vượt lên tư duy thông thường.
Tư duy chiến lược cung cấp cho người cán bộ lãnh đạo những phương
pháp tư duy có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgic chặt chẽ, giúp người
cán bộ lãnh đạo có khả năng xem xét, phân tích sự vật, hiện tượng một cách
khách quan, toàn diện, lịch sử, phát triển, linh hoạt, sáng tạo và nhạy bén trước
sự vận động của những mối liên hệ chằng chịt của nó. Nâng cao trình độ tư duy
chiến lược sẽ làm tăng khả năng thu nhận tri thức, tăng năng lực khái quát hóa tri
thức và khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Trên cơ sở đó, bản thân tri
thức, tư duy lý luận của người cán bộ, lãnh đạo được nâng cao, phát triển, hình
thành khả năng tư duy khoa học về những vấn đề chung tổng thể, có tầm nhìn
toàn cục trước những vấn đề đặt ra, có những sáng tạo trong tư duy, thoát khỏi
những lối mòn của tư duy cũ, đồng thời vận dụng nó một cách nhuần nhuyễn
trong hoạt động lãnh đạo của mình.
Đối với hoạt động lãnh đạo, việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược có
vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động lãnh đạo, đặc biệt trong bối cảnh công
cuộc đổi mới và hội nhập ở nước ta hiện nay. Tình hình thế giới và khu vực
những năm qua và đặc biệt thời gian gần đây có nhiều diễn biến rất phức tạp,
khó lường. Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đã tạo ra nhiều hệ lụy, bao
gồm cả cơ hội lẫn thách thức đối với các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đầy bất định, bất ổn và bất an đó,
Việt Nam bên cạnh giữ vững mục tiêu, kiên trì đường lối phát triển đất nước
theo đúng định hướng, đồng thời triển khai chính sách đối ngoại, thực hiện sự
hội nhập một cách chủ động, tích cực và linh hoạt. Trên tất cả các mặt hoạt động
47

ngoại giao, hoạt động chính trị, hoạt động kinh tế, văn hóa… yêu cầu phải được
đẩy mạnh trên cả bình diện song phương lẫn đa phương. Tính chất khó khăn,
phức tạp của công cuộc đổi mới đặt ra yêu cầu phải có những bước đi đúng đắn,
tạo lập sự phát triển quan trọng thông qua những phương pháp khác nhau, bao
gồm cả đi tắt đón đầu. Thực tiễn đó đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi người cán
bộ lãnh đạo phải biết phân tích, lý giải để nhận thức và lãnh đạo quần chúng đạt
hiệu quả. Nếu không được bồi dưỡng, nâng cao trình độ tư duy chiến lược, nâng
cao năng lực tư duy lý luận sẽ gặp khó khăn trong công tác lãnh đạo để đáp ứng
những đòi hỏi của thời kỳ cách mạng mới hiện nay và trong tương lai. Nâng cao
trình độ tư duy chiến lược sẽ giúp người cán bộ lãnh đạo nâng cao năng lực tổng
kết thực tiễn, tránh bị rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, có tầm nhìn xa trông rộng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, hoạch định
được những chính sách cho sự phát triển lâu dài, có những phương án dự phòng
khắc phục những diễn biến bất lợi bất ngờ từ thực tiễn. Tư duy chiến lược giúp
cho việc lãnh đạo có tính kế hoạch, tính khoa học, tính dự báo và tính định
hướng sâu sắc.
Nâng cao trình độ tư duy chiến lược là tiền đề quan trọng để người cán bộ
lãnh đạo xây dựng được những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mang tính
dài hạn cho đất nước và các vùng miền, nâng cao được năng lực dự báo, định
hướng trong hoạt động lãnh đạo của họ, tạo ra bước tiến vững chắc. Như vậy,
việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược có vai trò quan trọng không chỉ đối với
nhận thức mà cả đối với hoạt động thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo ở nước ta
hiện nay.

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY
CHIẾN LƯỢC
2.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế, đưa nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đó là
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn thiện thể chế, phát triển
48

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững, đưa nước ta sớm trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Tại Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 (Văn kiện Đại hội XII) nêu rõ về tình hình kinh tế - xã hội
nước trước những biến đổi của thế giới, trong đó có cả thuận lợi và không ít khó
khăn. Từ sau Đại hội XII đến nay, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt. Kinh tế vĩ
mô ổn định và liên tục tăng trưởng, tốc độ cao hơn nhiệm kỳ trước; lạm phát
được kiểm soát, chất lượng, sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô về kinh tế được
nâng cao. Ba đột phá chiến lược đã đề ra được tập trung thực hiện và đạt kết quả
tích cực (Ba đột phá chiến lược đó là: 1) Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và
năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện. 2) Phát triển nguồn nhân lực và ứng
dụng khoa học - công nghệ đạt được những kết quả tích cực. 3) Huy động các
nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả
quan trọng); cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được
kết quả bước đầu; văn hóa, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được
bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường; hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước được nâng lên; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng
cường; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh và đạt được nhiều
thành tựu nổi bật; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết
quả quan trọng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế - xã hội nước ta cũng còn
tồn tại những hạn chế, yếu kém, bất cập. Đó là kinh tế vĩ mô tuy cơ bản được ổn
định nhưng chưa vững chắc, mặc dù có sự phát triển nhưng ở nhiều ngành được
đánh giá là phát triển nóng, chưa thực sự bền vững; thực hiện cơ cấu lại nền kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đồng bộ. Năng suất,
49

chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao là nguyên nhân làm cho sức cạnh
tranh của nền kinh tế ở nước ta còn thấp. Do những nguyên nhân đó mà việc
thực hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại cho tới thời điểm này
được xác định là chưa đạt mục tiêu đề ra. Cùng với kinh tế thì trên các lĩnh vực
văn hóa, xã hội cũng được đánh giá là còn nhiều mặt yếu kém và việc khắc phục
còn chậm. Một trong những vấn đề được toàn cầu chú ý hiện nay đó là ứng phó
với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ở nước ta tuy đã
có nhiều nỗ lực nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Đối với hoạt động quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động
quản lý cũng còn hạn chế ở nhiều nhiều mặt, nhiều khâu, nhiều công đoạn. Ở
mỗi quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội phải có sự gắn kết với bảo đảm quốc
phòng an ninh. Đối với nước ta, mối quan hệ gắn kết này chưa thực sự chặt chẽ.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, công tác đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế cần phải được đẩy mạnh, tuy vậy chúng ta, trong lĩnh vực
công tác này có mặt chưa thật sự chủ động và hiệu quả chưa cao. Như vậy, trong
những năm qua, tuy nền kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những bước phát
triển mang dấu ấn lịch sử nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm cần
phải khắc phục.
Như vậy, cùng với những thuận lợi, chúng ta cũng đứng trước nhiều khó
khăn phải đối mặt, vượt qua để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Những
điều này đặt ra một loạt những vấn đề đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tập trung
giải quyết bằng cách xử lý tốt các mối quan hệ lớn đã được xác định, đó là:
“quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
50

chủ” [28, tr.80]. Đứng trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường
của tình hình thế giới ảnh hưởng, bao gồm cả những nhân tố thuận lợi, cả khó
khăn, thách thức đều đặt ra cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta yêu cầu mới về
mặt tư duy, đó là phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, đòi hỏi người cán bộ lãnh
đạo nâng cao hơn nữa trình độ tư duy chiến lược, từ đó có được những bước đi
vững chắc, vượt qua được những khó khăn thách thức, hòa nhịp cùng sự phát triển
chung của thế giới, hơn nữa còn có được những cống hiến vì sự tiến bộ của toàn
nhân loại.
2.3.2. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Đúng như dự báo của C. Mác trước đây, khi khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp nó đã thực sự làm một cuộc đảo lộn toàn bộ đời sống của xã
hội loài người. Với các phát minh vạch thời đại, khoa học đã tạo ra một hệ thống
công nghệ mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chỉ một thời gian ngắn
với một sức mạnh như vũ bão nó đã cuốn mọi quốc gia vào một quá trình toàn cầu
hóa hết sức sâu sắc ở mọi lĩnh vực của đời sống con người. Có thể nói thời đại
ngày nay là thời đại toàn cầu hóa. Với một sức mạnh đặc biệt, cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ cuối thế kỷ XX đã đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên
mới. Đặc biệt, với công nghệ vũ trụ, công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ gen và công nghệ thông tin - cuộc cách mạng công nghệ đang từng
bước làm thay đổi một cách căn bản tư duy của toàn nhân loại nói chung.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi
quốc gia, trong đó có cả nước ta. Nó yêu cầu chúng ta cần phải đổi mới tư duy,
trong đó có tư duy chiến lược. Việt Nam đang bắt đầu bước vào một giai đoạn
phát triển và hội nhập mới. Trong giai đoạn 2016-2020, công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại hóa đã được xác định là trọng tâm của chiến lược phát triển quốc
gia. Hiện nay, cuộc cách mạng sản xuất mới có thể mang lại cho Việt Nam nhiều
cơ hội để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời cũng đưa đến
những khó khăn, thách thức đối với quá trình phát triển. Cuộc cách mạng công
51

nghiệp lần thứ tư đã mở ra những cơ hội có thể tranh thủ để thúc đẩy sự phát
triển của của Việt Nam. Cụ thể là: nó có thể tạo ra lợi thế của những nước đi sau
như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế bởi quy mô cồng
kềnh, quán tính lớn tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, vượt qua
các quốc gia khác cho dù xuất phát sau; việc ứng dụng những công nghệ mới
cho phép thúc đẩy năng suất lao động và tạo khả năng nâng cao mức thu nhập và
cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân; khả năng biến đổi các hệ thống
sản xuất, quản lý và quản trị cho doanh nghiệp trong nước; trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, những phát triển về công nghệ có thể rút ngắn khoảng cách
chênh lệch về tiềm lực của các quốc gia khác nhau. Chúng ta cần tận dụng
những sức mạnh sẵn có và nắm lấy cơ hội tham gia vào cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện đổi mới, sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Muốn
làm được điều này, cần hình thành một tầm nhìn toàn diện và thống nhất mang
tính toàn cầu về cách thức công nghệ tác động tới cuộc sống cũng như định hình
lại môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa và con người Việt Nam.
Để cả thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này
không phải là một sớm, một chiều mà nó là thành tựu của nhân loại trải qua hơn
hai trăm năm, kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ra đời vào cuối
thế kỷ XVIII. Tốc độ phát triển và phạm vi ứng dụng những thành tựu của các
cuộc cách mạng này ngày càng sâu rộng và đem lại hiệu quả lớn trên nhiều
phương diện được ứng dụng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có phạm
vi ứng dụng trên nhiều lĩnh vực, vượt xa so với những cuộc cách mạng trước.
Cùng với giá trị mà nó đem lại thì đồng thời cũng đặt con người vào hàng loạt
vấn đề lớn cần lý giải, ứng dụng và tiếp tục hoàn thiện.
Trước hết, chúng ta đều có thể nhận thấy những giá trị đem lại từ cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là rất lớn ở nhiều lĩnh vực. Với sự xuất hiện
của robot mang lại nhiều ứng dụng trong xã hội, nhờ công nghệ trí tuệ nhân tạo,
người máy làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, có
khả năng thay thế con người ở nhiều vị trí. Trong cuộc cách mạng công nghiệp
52

lần thứ tư, những yếu tố mà các nước như Việt Nam đã và đang tự coi là có ưu
thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không còn là thế mạnh nữa,
thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Trong lĩnh vực dệt may, trước đây các nước có
ngành dệt may phát triển như Mỹ, Anh vì thiếu lao động nên đã dịch chuyển
thuê nhân công sang nước ta - nơi có lực lượng lao động thủ công giá rẻ dồi dào.
Nhưng với công nghệ robot trong cuộc cách mạng lần thứ tư này, nhiều nhà máy
dệt may trước đây đặt ở Việt Nam có thể quay ngược lại đặt ở Mỹ, bởi họ đã bắt
đầu sử dụng rất nhiều robot. Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cung
cấp số liệu đáng lo ngại khi mà hơn 2/3 trong số 9,2 triệu lao động ngành dệt may
và da giày tại Đông Nam Á đang bị đe dọa bởi sự bùng nổ nhanh chóng của ứng
dụng khoa học và công nghệ trong ngành này. Cụ thể, khoảng 86% lao động của
Việt Nam, 88% lao động của Campuchia và 64% lao động Indonesia trong ngành
may mặc, da giày sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự động hóa, công
nghiệp hóa trong ngành. Robot cũng đã hiện diện ở những vị trí công việc vốn
được cho rằng không thể thay thế con người như lễ tân khách sạn, cơ quan, nhà
hàng,... Khi có khách đến robot có thể tự động nhận dạng, ghi nhớ để chào hỏi,
nhớ được sở thích, trả lời các nhu cầu của khách hàng bằng giọng nói hoàn toàn
như con người. Trong lĩnh vực giao thông, thế hệ xe không người lái sẽ phát triển
nhờ đảm bảo an toàn cao gấp nhiều lần so với người lái bởi nó được cài đặt chế độ
an toàn nhất có thể và trong quá trình lái không bị cảm xúc chi phối.
Trong lĩnh vực Y tế, cỗ máy IBM Watson có biệt danh "Bác sỹ biết tuốt"
có thể lướt duyệt cùng lúc hàng triệu hồ sơ bệnh án để cung cấp cho các bác sĩ
những lựa chọn điều trị dựa trên bằng chứng chỉ trong vòng vài giây nhờ khả
năng tổng hợp dữ liệu khổng lồ và tốc độ xử lý mạnh mẽ. Cỗ máy này còn cho
phép con người tra thông tin về tình hình sức khỏe của mình. Các bác sĩ chỉ cần
nhập dữ liệu người bệnh để được phân tích, so sánh với kho dữ liệu khổng lồ có
sẵn và đưa ra gợi ý hướng điều trị chính xác. Đầu năm 2017, một số bệnh viện
tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã thực hiện ca mổ với sự hỗ trợ của
robot. Với bốn cánh tay, đầu camera thông minh, góc phẫu thuật rộng 540 độ,
hình ảnh 3D, robot có thể phẫu thuật ở những vị trí khó, hỗ trợ các bác sĩ tiến
53

hành ca mổ với sự xâm lấn tối thiểu và độ chính xác, hiệu quả an toàn hơn, giúp
bệnh nhân ít mất máu, ít đau, giảm nguy cơ tai biến và mau hồi phục.
Trong lĩnh vực giáo dục, công nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy và
học. Với công nghệ mới đó, người học có thể đeo kính VR và có cảm giác như
đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, có thể được nhập vai để chứng kiến những
trận đánh giả lập, trực tiếp quan sát di tích, điều này mang lại cảm xúc và sự ghi
nhớ sâu sắc, giúp bài học thấm thía, khắc học lại trong não tốt hơn. Trong lĩnh
vực học tập cụ thể khi đào tạo nghề phi công, học viên đeo kính và thấy phía
trước là cabin và học lái máy bay như thật. Đây là những điều kiện đối với việc
thực hành, tạo điều kiện cho người học được thực hành đến khi nhuần nhuyễn
rồi mới lái. Công nghệ mới như vậy sẽ giảm thiểu rủi ro trong công việc khi
được tiến hành trong thực tế.
Lĩnh vực nông nghiệp cũng không còn là nông nghiệp thuần túy. Công
nghệ IoT với hàng loạt hệ thống cảm biến và đầu đo (sensor) có thể giúp tưới cây,
bón phân đúng thời điểm và khoa học với lượng cần thiết vừa đủ cho cây, giúp tiết
kiệm chi phí so với phương thức truyền thống hiện nay. Khi đó, nông dân - nhóm
người vốn bấp bênh nhất về công việc - sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Như vậy, đây không phải câu chuyện tương lai mà là câu chuyện của hiện
tại. Một cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tác
động lên nhiều lĩnh vực và Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài sự ảnh
hưởng của cuộc cách mạng này. Rõ ràng, lợi ích của những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư không thể phủ nhận, nhưng những
thách thức và nguy cơ tiềm ẩn cũng rất rõ ràng. Dù phải đối mặt với các nguy cơ,
cơ hội sẽ còn lớn hơn cho những quốc gia nhận thức sớm được xu hướng chuyển
đổi. Khi đó, việc ứng xử phù hợp với những thuận lợi và khó khăn mang lại sự
chiếm lĩnh cơ hội sớm. Khi biết được xu thế xã hội, định hướng của các quốc gia
về đào tạo và định hướng nghề nghiệp của cá nhân mỗi người cũng sẽ chuyển đổi
theo. Các công ty, tập đoàn lớn sẽ đặt các kế hoạch, chiến lược của mình 5-10
năm tới trong bối cảnh thế giới thay đổi thành thế giới số, xã hội số để làm sao tiếp
54

tục tồn tại và phát triển. Nếu chúng ta vẫn giữ cách làm cũ, sẽ phải đối diện với
nguy cơ trì trệ, tụt hậu không xa.
Những thách thức đặt ra từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với
Việt Nam đó là: thách thức trong việc phải có nhận thức đầy đủ về bản chất, tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và khả năng tư duy, quản lý
điều phối tích hợp các yếu tố công nghệ, phi công nghệ, giữa thực và ảo, giữa
con người và máy móc; để gia nhập vào xu thế cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đòi hỏi phải có sự phát triển dựa trên tích lũy nền tảng lâu dài của nhiều lĩnh
vực nghiên cứu cơ bản định hướng trong lĩnh khoa học và công nghệ đặc biệt là
vật lý, sinh học, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo, các lĩnh vực công nghệ
mới, nghiên cứu các công nghệ mang tính đột phá; nghiên cứu và phát triển trở
thành chìa khóa quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội; cần gắn kết
chặt chẽ hơn nữa nghiên cứu khoa học và sản xuất; gia tăng bức xúc xã hội do sự
thâm nhập của các công nghệ kỹ thuật số và các động lực của việc chia sẻ thông
tin tiêu biểu của truyền thông xã hội; đặt ra những vấn đề lớn về giải quyết việc
làm, ô nhiễm môi trường, đạo đức xã hội, rủi ro công nghệ; thêm vào đó, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra với tốc độ vô cùng nhanh chắc chắn sẽ
đặt Việt Nam trước nguy cơ tụt hậu hơn nữa trong phát triển so với thế giới và
rơi vào thế bị động trong đối phó với những mặt trái của cuộc cách mạng này.
Trước tất cả những cơ hội và thách thức ấy, trước hết bản thân người cán
bộ lãnh đạo buộc phải nhận thức, nắm bắt tình hình một cách nhanh chóng, kịp
thời nhận diện tình hình để sớm đưa ra những quyết sách phù hợp. Đứng trong
một thế giới hội nhập, để tồn tại, chúng ta không thể là một quốc gia đứng ngoài
sự hội nhập đó. Điều này đặt chúng ta, trước hết là đội ngũ những người cán bộ
lãnh đạo không ngừng vận động, vận động về tư duy, trí tuệ để nắm bắt cho kịp
sự vận động của thời đại. Trong sự vận động đó, đối với nước ta có những điều
còn thực sự mới mẻ, có những yếu tố chúng ta còn đi chậm hơn sự phát triển của
thế giới, vậy người cán bộ lãnh đạo phải có tầm tư duy bao quát, có cái nhìn xa
trông rộng, nhanh nhạy, sáng tạo, trên cơ sở có cái nhìn toàn diện để nắm bắt và
dự báo được xu thế biến đổi của sự vật. Như thế, yếu tố thời đại kể cả cơ hội và
55

thách thức đều không ngừng tác động tạo ra những con người nhạy bén và toàn
diện, với những bước tiến bộ nhanh chóng hơn những thời kỳ trước. Đồng thời,
cũng chính sự tác động của thời đại tạo ra những điều kiện mới đòi hỏi đội ngũ
cán bộ lãnh đạo nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy, đổi mới tư
duy, nâng tầm tư duy chiến lược của mình để vươn lên có đủ năng lực và trình độ
phù hợp để kịp với thời đại, đáp ứng được những sự biến đổi mà thực tiễn đặt ra.
2.3.3. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác
cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, đào tạo, thử thách, rèn luyện đến sử dụng và đãi
ngộ. Người cho rằng “cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người giải thích rõ: Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, cán bộ cũng là người đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng. Hiểu rõ được dân, đặt chính sách đúng mới đáp ứng được yêu cầu
nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo sự phát triển, tiến bộ.
Quán triệt lời dạy của Người, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm công tác xây dựng và
chỉnh đốn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, xác định rõ xây dựng Đảng là then chốt thì
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là then chốt của then chốt trong sự nghiệp phát
triển đất nước. Cho tới nay, quan điểm, tư tưởng đối với công tác tổ chức, cán bộ
được điều chỉnh qua mỗi kỳ đại hội Đảng nhằm đảm bảo phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Đại hội VI của Đảng (1986) xác định: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp
là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc
cải cách có ý nghĩa cách mạng” [20, tr.140].
Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) nhấn mạnh: “Cần làm tốt việc phát
hiện, lựa chọn, rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo…” và chỉ ra “vấn đề cán bộ vẫn là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định
toàn bộ sự nghiệp cách mạng” [21, tr.63].
56

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”
[22, tr.237-240]. Theo đó, tại nghị quyết thể hiện rõ chủ trương của Đảng ta là lấy
việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững; phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện cả về trí tuệ, sức khỏe,
đạo đức, thái độ của bản thân con người đó. Đồng thời, Đảng ta cũng chú ý xây
dựng những điều kiện khách quan bên ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá
nhân chủ thể cán bộ lãnh đạo phát triển. Tại Nghị quyết Đảng ta chỉ rõ vai trò,
trách nhiệm của Đảng trong việc phát triển nguồn lực con người cho đất nước, với
quan điểm được đưa ra là: phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi sự quan tâm và trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo
dục và đào tạo là then chốt. Đảng ta cũng xác định, để thành công với mục tiêu
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng thì
mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đều phải đặt trong mối quan hệ
không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình
cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt
Nam. Như vậy là yếu tố cá nhân đối với từng cá nhân con người rất được Đảng
quan tâm, chú trọng. Đây là lần đầu tiên vấn đề cán bộ và công tác cán bộ được
Ban Chấp hành Trung ương bàn sâu và toàn diện thông qua ban hành nghị quyết
chuyên đề riêng biệt nhưng thể hiện được cái nhìn toàn diện và sâu sắc.
Đại hội IX nhấn mạnh: “Sau khi có đường lối đúng, phẩm chất và năng lực
của cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định, không những quyết định việc tổ chức
thực hiện thành công mà còn quyết định cả mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân
dân”, tiếp đó, đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực và “hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và
đạo đức”, “Quan tâm... cán bộ lãnh đạo, quản lý... Trước hết là đội ngũ cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị” [23, tr.135].
Tại kết luận Hội nghị Trung ương 9 khóa X và Nghị quyết Đại hội XI tiếp
tục xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then
57

chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ
cán bộ giai đoạn 2011 - 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp
cao, tận tụy phục vụ nhân dân” [26, tr.41].
Hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, không thể
chỉ dừng lại ở cơ chế phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ theo phương
thức cũ, mà cần có nhận thức mới, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng mới phù hợp
hơn nhằm đáp ứng với tình hình mới. Nhận thức rõ những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác cán bộ, Đại hội XII thẳng thắn nhận định “... Việc đổi mới công
tác cán bộ chưa có đột phá lớn… Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng
đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược”... Vì thế, cần “Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử
dụng nhân tài” [28, tr.49].
Kể từ sau Đại hội VI của Đảng, công tác cán bộ liên tiếp có những đổi mới
quan trọng, có tính bước ngoặt cả về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn từ các cấp
ủy đảng, mà trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên
nhiều phương diện. Đổi mới được tiến hành từ việc xác định tiêu chuẩn, đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bố trí, luân chuyển, sử dụng, quản lý, chính sách đối với cán bộ.
Việc đổi mới về tư duy, cách làm trong công tác tổ chức, cán bộ được bắt nguồn từ
mục tiêu, bám sát đường lối đổi mới của Đảng với tinh thần vừa kế thừa những
thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất
nước, vừa chủ động hội nhập quốc tế, đảm bảo thích ừng được với sự biến đổi
không ngừng của thực tiễn.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế,... về công tác cán
bộ, như:
Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Với vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, là nhân tố quyết định sự
58

thành bại của cách mạng của mọi thời kỳ và nay là bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước những nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề,
khó khăn, phức tạp thì việc xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đổi mới là vấn
đề cấp bách. Nghị quyết đã phân tích những mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ
cán bộ cũng như công tác cán bộ, chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém,
khuyết điểm, trên cơ sở đó, nghị quyết đưa ra phương hướng xây dựng đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ, đề ra những tiêu chuẩn chung và những tiêu chuẩn
cụ thể đối với cán bộ trong thời kỳ mới;
Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp” và Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về “Công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ phát triển toàn
diện. Đồng thời đưa đội ngũ cán bộ vào rèn luyện trong thử thách, thông qua đó
phát hiện năng lực, sở trường của cán bộ để quy hoạch, bố trí, sắp xếp phù hợp
đúng người, đúng việc, và điều đó sẽ tạo hiệu quả trong công tác của cán bộ. Nội
dung này tiếp tục được đề cập đến tại Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị
khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo” nhằm bổ sung thêm những
giải pháp mới phù hợp với những biến chuyển của đất nước trong tình mới.
Kết luận số 37-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
“Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ đến năm 2020”. Trên cơ sở
tổng kết Nghị quyết 03-NQ/TW về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị rút ra những mặt được cũng như
những yếu kém còn tồn tại, những nguy cơ phát sinh trong đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ, từ đó Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo phải tiếp tục xây dựng
chương trình, kế hoạch tiếp theo nhằm đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ
đến năm 2020, đáp ứng sự phát triển đất nước, trước những đòi hỏi mới trong
tình hình mới.
Nghị quyết số 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ ra nguy cơ
59

giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Một trong những nguyên nhân
dẫn tới sự giảm sút lòng tin đó là do có những biểu hiện suy thoái tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ. Từ đó Nghị quyết đưa ra các
nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, bao gồm
cả về trình độ chuyên môn và phẩm chất, đạo đức.
Nghị quyết TW 4 khóa XII với nội dung về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chăn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cho thấy công tác cán bộ,
người cán bộ lãnh đạo được đặc biệt chú trọng. Trong Nghị quyết đã đánh giá những
mặt đã làm được nhưng đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế đòi hỏi phải có sự thay
đổi, chỉnh đốn ở người cán bộ lãnh đạo nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của đất
nước. Nghị quyết TW 4 khóa XII cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân của nó, đó là: việc chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả
thi và thiếu chế tài xử lý; nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có
quyết tâm chính trị cao, việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức
thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn
trông chờ, ỷ lại cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán
bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chưa kịp thời; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy
thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để
định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông
tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ; việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải
pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn
chính trị… Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần phải có
sự chỉnh đốn để thay đổi một cách sâu sắc và toàn diện để có được tầm tư duy bao
quát, tư duy chiến lược nhằm đáp ứng chỉ đạo thành công công cuộc đổi mới của đất
nước trên con đường phát triển hội nhập.
60

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược được
quan tâm chỉ đạo, triển khai tích cực. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt,
triển khai Kết luận số 24 của Bộ Chính trị (khóa XI), vấn đề quy hoạch và luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý một lần nữa được tập trung bàn thảo và tìm
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cán bộ, tuyển chọn đội ngũ cán bộ vừa đủ
tầm và cũng là những người có tâm đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Luân chuyển cán bộ là một trong những biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện cán bộ một cách toàn diện, đặc biệt là cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến
lược không thể xem nhẹ. Do vậy, đồng thời với việc xây dựng đường lối chính
trị, chiến lược cho phát triển kinh tế - xã hội cũng phải chuẩn bị chiến lược cán
bộ, phải xây dựng quy hoạch cán bộ cho tương lai. Ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi
địa phương lại có yêu cầu riêng đối với đội ngũ cán bộ. Giữa đội ngũ cán bộ và
đường lối chính trị của đất nước có mối quan hệ mất thiết. Người cán bộ phải
thấm nhuần và phục vụ sự phát triển của đường lối chính trị đáp ứng nhu cầu
chung của sự phát triển; mặt khác cán bộ quyết định cả đường lối chính trị,
nhất là cán bộ cấp chiến lược, họ có vai trò lớn, thậm chí mang tính quyết định
trong việc đề ra những đường lối chính trị. Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọng, phải
rất tỉnh táo trong công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nếu lựa chọn,
bố trí cán bộ sai sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, có những hậu quả để
lại phải khắc phục lâu dài ở cả những thế hệ sau, làm cản trở tiến trình phát
triển của đất nước, của giống nòi.
Nhằm đảm bảo sự phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được tăng cường với nhiều hình thức đa dạng hơn;
nội dung, phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới, có sự kết hợp ngày
càng phù hợp giữa học lý luận với nâng cao kỹ năng thực hành. Những yếu tố
khách quan bên ngoài tác tác động đến môi trường làm việc của đội ngũ cán bộ
cũng được quan tâm thực hiện nghiêm túc như: công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí được tăng cường và đạt được một số kết quả bước đầu;
nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng đã được kịp thời phát
hiện, điều tra và xử lý nghiêm minh, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng
61

hộ. Kết quả này vừa tạo cho đội ngũ cán bộ có được môi trường làm việc trong
sạch, phát huy được sức sáng tạo, nhưng đồng thời nó còn đặt ra yêu cầu người
cán bộ phải nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của bản thân trước những biểu hiện yếu kém, sai trái
còn tồn tại, trước những diễn biến suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ
phận cán bộ nước ta hiện nay.
Có thể nói, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta ngày càng được quan
tâm, chú trọng toàn diện nhằm phát huy cao nhất trách nhiệm, nhiệm vụ mà đội
ngũ này phải đảm nhiệm trước đất nước, trước nhân dân. Qua những kỳ họp của
nhiệm kỳ khóa XII, yêu cầu về cán bộ và công tác cán bộ luôn được đặt ra xem
xét và đề ra những yêu cầu mới nhằm đáp ứng những sự biến đổi của tình hình
trong nước cũng như quốc tế. Tại Nghị quyết Trung ương VII, khóa XII tiếp tục
đưa ra nghị quyết về cán bộ với nội dung “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ”. Trung ương đã chỉ rõ đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược mà
chúng ta tập trung xây dựng trong thời gian tới, phải có đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế số, kinh tế tri thức và ứng phó với biến
đổi khí hậu; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Nghị quyết cũng yêu cầu siết chặt kỷ
luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế và điều kiện để thúc đẩy đổi
mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng
buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực
và xử lý nghiêm minh sai phạm. Đổi mới công tác cán bộ cũng là nhiệm vụ được
chú trọng trong nghị quyết này. Đổi mới nhằm bảo đảm tính khách quan, đúng
đắn, đồng bộ và phù hợp với tình hình thực tiễn. Đặc biệt, Trung ương đã xác
62

định xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp
là của các cấp uỷ, tổ chức Đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham
mưu về công tác tổ chức, cán bộ của Đảng. Điểm nhấn của Nghị quyết lần này là
Trung ương yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan,
chính xác; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực tiễn có
nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ và đề cao giải pháp kiểm soát
quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương,
họ hàng trong công tác cán bộ; coi đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp
quan trọng để đấu tranh ngăn chặn sự tha hoá quyền lực trong bộ máy công
quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để củng cố và
nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Theo đó,
Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm soát
quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền, thân quen, cánh hẩu, lợi ích nhóm
trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát
chặt chẽ bằng cơ chế và quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm. Kiên
quyết huỷ bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời
xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, có hành vi tham nhũng trong
công tác cán bộ. Cụ thể hoá để thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn,
dân giám sát công tác cán bộ; mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài
lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị một cách phù hợp.
Tại Nghị quyết Trung ương VIII, khóa XII, yêu cầu về vai trò của người
cán bộ lãnh đạo tiếp tục được quan tâm và đẩy cao hơn nữa khi Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã xem xét, quyết định việc ban hành Quy định về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Như vậy có thể thấy, trong thời gian
qua, vai trò của người cán bộ lãnh đạo luôn được đề cao, được Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm, chú trọng trên tất cả các mặt. Đã có nhiều chủ trương,
đường lối, quyết nghị được đưa ra nhằm đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng
lực ở những mặt khác nhau của người cán bộ lãnh đạo. Những chủ trương,
đường lối đó có sự ảnh hưởng trực tiếp tới đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta
63

từ trong tư duy cho tới hoạt động thực tiễn. Các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta giúp họ ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển tư duy, tầm nhìn
cũng như nâng cao trình độ, năng lực trong hoạt động thực tiễn nói chung và
nâng cao trình độ tư duy chiến lược nói riêng, đáp ứng cho sự phát triển của đất
nước trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng nhanh, mạnh mẽ và sâu rộng.
2.3.4. Truyền thống, văn hóa
Theo các nghiên cứu khoa học thì Việt Nam đã từng tạo dựng lên một nền
văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ trong lịch sử. Tuy nhiên
cũng chính vì vậy mà người Việt bị trói chặt vào kinh tế nông nghiệp. Do đó,
những căn tính nông dân, những đặc trưng của xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng
rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam bao gồm mặt tích cực và cả mặt
hạn chế đối với việc phát triển tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay. Nền
sản xuất tiểu nông của Việt Nam mà nhiều nhà nghiên cứu đồng tình với cách
gọi của C. Mác là phương thức sản xuất châu Á và các công xã nông thôn tồn tại
suốt hàng ngàn năm lịch sử dân tộc là một nhân tố căn bản tạo nên truyền thống
tư duy của dân tộc. Điều ấy được thể hiện không những ở trình độ, mà cả phong
cách, năng lực và hướng tư duy của con người Việt Nam.
Nền nông nghiệp tiểu nông phát triển đã tạo lập nên truyền thống tư
duy của cha ông ta là óc thực tế, coi trọng kinh nghiệm trong lao động sản
xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và chu kỳ. Cùng với nền sản xuất nông
nghiệp truyền thống, người dân phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời
tiết; đây là điều kiện hình thành nên cách nghĩ, lối sống hòa hợp với thiên
nhiên, tôn trọng thiên nhiên, sống và hành động thuận quy luật của tự nhiên.
Ngày nay, quán triệt nguyên tắc khách quan mà triết học Mác - Lênin đã chỉ
ra, cũng yêu cầu con người, để hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
đúng đắn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và tôn trọng quy luật khách
quan, hành động đúng theo quy luật khách quan. Chính bởi vậy, lối sống hiểu
và hòa hợp với tự nhiên, coi trọng tự nhiên ngày nay được coi là nguyên tắc
không thể đi ngược, đòi hỏi con người mới, hiện đại phải quay trở lại nghiên
cứu để thực hiện một cách nghiêm túc.
64

Tuy vậy, với một nền sản xuất nông nghiệp manh mún, tự túc tự cấp,
khép kín và phụ thuộc vào tự nhiên đã tạo nên một phong cách tư duy hết sức
hạn chế, đó là loại tư duy tôn sùng kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là chuẩn mực.
Bệnh sùng bái kinh nghiệm dẫn đến cách suy nghĩ và hành động rập khuôn theo
những bậc cao niên, già làng, trưởng bản. Tục ngữ có câu: "Trứng khôn hơn
rận", "Ngựa non háu đá" là cách nói coi thường, là nhằm chê bai, nhắc nhở, phê
phán những người trẻ tuổi không an phận, muốn tìm tòi sáng tạo, đổi mới. Đó là
thứ tư duy ứng phó trong nhiều trường hợp là thụ động và nhằm đạt hiệu quả
kinh tế tức thì chứ không phải dạng tư duy có tầm chiến lược với kế hoạch lâu
dài. Về điều này đã được nhiều nhà lý luận của chúng ta nghiên cứu và khẳng
định. Khi đã coi tư duy của các thế hệ cha anh làm chuẩn mực thì sẽ hạn chế và
cản trở năng lực tư duy sáng tạo của các thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, đặc điểm vị trí địa lý tự nhiên nước ta với sự bất trắc của
thiên tai, địch họa cũng ảnh hưởng tới tư duy người Việt. Trước những biến đổi
bất thường khôn lường của thời tiết, người Việt hình thành lối tư duy kiên
cường, linh hoạt, sẵn sàng đối mặt với khó khăn thử thách và cũng nghĩ ra
phương án để khắc phục những khó khăn ấy. Tuy vậy, những ảnh hưởng từ điều
kiện tự nhiên đó không cho phép người dân có những kế hoạch, những tính toán
lâu dài được. Để bảo đảm cuộc sống, để "chắc ăn" họ đành phải thực hiện công
việc với suy nghĩ "xanh nhà hơn già đồng". Những tính toán theo kiểu ăn chắc,
ăn non, trước mắt, thời vụ theo kiểu “khôn vặt” của người tiểu nông còn in đậm
trong phong cách tư duy của không ít người Việt Nam chúng ta đến tận ngày
hôm nay. Ở người cán bộ lãnh đạo ngày nay, với lối tư duy đó được khái quát là
kiểu “tư duy nhiệm kỳ”, lối tư duy này cũng được Đảng ta phê phán một cách
nghiêm khắc.
Tương ứng với nền sản xuất tiểu nông là một xã hội nông thôn, cùng với
những ảnh hưởng của Khổng giáo du nhập vào trong nước tạo ra sự phân tầng xã
hội theo thứ bậc được đề cao là: sĩ - nông - công - thương. Sự phân hóa giàu
nghèo cũng như phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam cổ truyền không giống
như ở các xã hội phương Tây truyền thống. Với sự phân tầng xã hội này, chúng
65

ta nhận thấy, rõ ràng yếu tố trí thức, người có học rất được coi trọng; học rồi mới
ra làm quan, tức người làm quan phải là người có học, có hiểu biết. Dưới ảnh
hưởng của Khổng giáo, người có học, có tri thức được đề cao trong xã hội.
Người được tiến cử làm quan, làm người lãnh đạo trong xã hội phải là người có
học, có trình độ, nếu không học hành đỗ đạt không thể nhận được những vị trí
quan lại, làm vị trí lãnh đạo, quản lý. Người làm quan không ngừng trau dồi, mở
rộng kiến thức học thuật của mình thông qua học và đọc sách, đồng thời người
làm quan cũng là người được trọng vọng trong xã hội bởi họ là những người
nhiều kiến thức, là người trí thức. Người cán bộ lãnh đạo hiện nay, dù ở các vị trí
cụ thể, đảm nhận những công việc cụ thể khác nhau cũng không thể là người
thiếu hiểu biết, thiếu sự am tường, thiếu kiến thức; hơn hết, họ phải là những
người có nền hiểu biết sâu rộng ở cả lĩnh vực chuyên môn đảm nhận và ở nhiều
mặt kiến thức khác.
Việc phân tầng xã hội trong xã hội truyền thống với đặc điểm đề cao kẻ sỹ,
đề cao người có học đem lại sự kích thích tinh thần học tập, phấn đấu học tập ở
nhiều thế hệ người Việt Nam, góp phần nâng cao trình độ tư duy nói chung là
những ưu điểm không thể phủ nhận. Tuy vậy, việc phân tầng xã hội ở nước ta nhìn
chung không mang tính sâu sắc. Vì thế, về mặt xã hội nó không thường xuyên tạo
ra những lực lượng xã hội mâu thuẫn đối kháng đấu tranh với nhau tạo ra động lực
thúc đẩy sự phát triển xã hội. Cùng với đó, tính chất tự cung tự cấp của nền sản xuất
tiểu nông nên gia đình trở thành một đơn vị xã hội tự sản tự tiêu, nó trở thành một
kiểu xã hội thu nhỏ, làng xã trở thành một pháo đài, một xã hội khép kín. Ở đó, bên
cạnh sản xuất nông nghiệp là nghề sản xuất chính còn có các nghề thủ công và buôn
bán nhỏ. Có thể thấy trong lịch sử dân tộc ta, mức độ chuyên môn hóa sản xuất hầu
như chưa tồn tại, tất cả các ngành nghề khác ngoài nghề nông đều được gọi với một
cái tên chung là nghề phụ. Với truyền thống và tổ chức sản xuất theo hộ gia đình,
theo các làng xã như thế nên lực lượng sản xuất của chúng ta không có điều kiện
phát triển. Chính vì lẽ đó mà quan hệ sản xuất cả ngàn năm nay hầu như luôn luôn
phù hợp với lực lượng sản xuất khó nhận ra sự thay thế nhau một cách triệt để của
các phương thức sản xuất trong suốt quá trình phát triển của đất nước.
66

Như chúng ta biết, sự biến đổi của phương thức sản xuất là yếu tố quyết
định sự biến đổi của tồn tại xã hội, sự phát triển của hình thái xã hội và theo đó,
sự biến đổi của tồn tại xã hội sẽ tất yếu đưa đến sự biến đổi của tư duy con
người. Từ lôgíc này, có thể khẳng định trong suốt quá trình phát triển của xã hội
truyền thống Việt Nam hầu như không diễn ra một cuộc cách mạng nào trong
phương thức sản xuất và như vậy cũng có nghĩa là không có cuộc cách mạng
nào dẫn tới bước đột phá trong tư duy dân tộc.
Về mặt vị trí địa lý, Việt Nam nằm trong khu vực giao lưu của hai nền văn
minh lớn của nhân loại là Trung Hoa và Ấn Độ. Với hàng ngàn năm lịch sử giao
lưu và hội nhập văn hóa, mặc dù bản sắc văn hóa dân tộc ta có sức sống vô cùng
mãnh liệt không bị các nền văn hóa bá quyền bành trướng đồng hóa, nhưng
chúng ta cũng chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ hai nền văn hóa này. Trong lịch sử,
có ba hệ tư tưởng được du nhập vào Việt Nam, tồn tại trong đời sống xã hội Việt
Nam - đó là Nho, Phật và Lão. Nếu Nho giáo để lại những dấu ấn sâu nặng đối
với giới trí thức, thiết lập một hệ thống giá trị chính thống của xã hội truyền
thống thì Lão giáo và Phật giáo lại ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống bình dân.
Nếu Nho giáo dẫn dắt con người ta nhập thế, dấn thân thì Lão giáo và Phật giáo
lại dẫn dắt con người ta xuất thế, lánh đời, hướng tâm trí con người ta tới thế giới
tinh thần siêu hình quay lưng lại cuộc đời. Lão giáo tạo nên một lối sống, lối
nghĩ tránh né đấu tranh, giản đơn thô sơ, cầu ái và vô vi, còn Phật giáo tạo nên
truyền thống nhân ái, vị tha và bao dung của con người Việt Nam. Đó là những
ưu điểm cơ bản góp phần tạo nên những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt
Nam. Nhưng đồng thời đó cũng là những nhược điểm hết sức cơ bản, làm hạn
chế vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo C.
Mác, không có nhu cầu thì không có sản xuất, nhưng chính tiêu dùng lại tái sản
xuất ra nhu cầu. Rõ ràng, một xã hội mà sản xuất vật chất không được coi trọng
dẫn tới tư tưởng dễ bằng lòng với thực tại, đó lại là lực cản đối với sự sáng tạo
của tư duy.
Có thể nói, Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp trí thức, quan lại
của xã hội và gắn liền với đời sống kinh tế - chính trị xã hội nước ta. Về mặt tư
67

tưởng, Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội, là hệ tư tưởng chính thống trong
suốt hàng ngàn năm của nhà nước phong kiến Việt Nam. Do vậy, Nho giáo để
lại những dấu ấn mạnh mẽ nhất trong đời sống xã hội và con người Việt Nam,
nhất là trong lĩnh vực tư duy. Nho giáo có nhiều ưu điểm trong việc quản lý xã
hội và xây dựng con người, để lại cho người dân nước ta thái độ coi trọng tri
thức, coi trọng học tập, khát vọng kiến thức; đặc biệt, ở đội ngũ những người có
vị trí đứng đầu, những cán bộ lãnh đạo càng yêu cầu cao hơn về tri thức, về tinh
thần học tập mà ngày nay chúng ta cần duy trì và phát huy để nâng cao trình độ
tư duy chiến lược.
Tuy nhiên, ở phương diện khác, Nho giáo cũng để lại những di căn hết
sức nặng nề trong lối sống, nếp sống, cách ứng xử, cách suy nghĩ, tư duy của con
người Việt Nam, là một trong những mặt hạn chế đối với sự giải phóng tư duy,
mở đường cho tư duy chiến lược, đó là:
Thứ nhất, coi các giá trị cổ truyền là chuẩn mực để xây dựng xã hội hiện
tại. Thái độ tôn thờ, sùng bái quá khứ một cách thái quá của Nho giáo đã khiến
con người sống theo các giá trị, kinh nghiệm cũ. Khi đã coi kinh nghiệm của cổ
nhân, coi chữ nghĩa của thánh hiền là chuẩn mực thì rõ ràng cái gì khác hay trái
với cổ nhân và thánh hiền đều là lệch lạc và sai trái. Như thế, cái mới khó có
điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển. Trong môi trường như thế rõ ràng tư duy
kinh nghiệm được đề cao và nó kìm hãm tư duy sáng tạo. Thực tế đã tạo nên một
phong cách tư duy ỷ lại, trông chờ, trì trệ và hết sức bảo thủ.
Thứ hai, để xây dựng một xã hội đức trị thì hệ thống đào tạo nhân tài cho
đất nước của Nho giáo cũng chỉ xoay quanh chuyện văn chương chữ nghĩa, đi
vào tầm chương trích cú và ứng xử đạo đức chứ không dạy con người ta về sự
khám phá, tìm tòi cái mới. Mục tiêu của hệ thống giáo dục chế độ phong kiến là
nhằm đào tạo ra người làm quan mà cụ thể là có hai loại: quan là quan văn và
quan võ. Vì thế, về cơ bản các vị quan cai trị hầu như không có tri thức về khoa
học nói chung.
Thứ ba, do đề cao lễ nghĩa mà trong xử lý công việc cha ông ta thường
nghiêng về tình, mà ít nghiêng về lý, dùng giáo hóa chứ không dùng pháp luật,
68

đánh giá con người và sử dụng con người thì trọng nghĩa khinh tài, trong ứng xử
thì coi danh hơn lợi..., tất cả những tư tưởng này đều hạn chế sự phát triển của tư
duy chiến lược.
Thứ tư, Nho giáo còn đề cao tư tưởng coi mình là trung tâm thế giới, là
văn minh nhất, còn ngoài ra đều là thấp kém. Cùng với tư tưởng đề cao tư duy
kinh nghiệm thì tư tưởng "nội hạ, ngoại di" lại khuếch trương tính tự cao tự
đại, điều này củng cố tư tưởng bảo thủ, coi thường người khác, thành kiến với
các tư tưởng khác. Chính vì thế mà "bế quan tỏa cảng" không cần giao lưu và
trao đổi, học hỏi. Điều này hết sức tai hại vì các xã hội Nho giáo không quan
tâm phát triển tư duy khoa học mà lại "đóng cửa" thì rõ ràng sẽ không mở
mang được tầm nhìn.
Những ảnh hưởng tiêu cực nêu trên của Nho giáo còn để lại tàn dư trong
lối sống và nếp tư duy của con người đến tận ngày hôm nay mặc dù gần hai
trăm năm qua xã hội Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng mới.
Trong đó có sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp tới đời sống và tư duy của con
người Việt Nam.
Thực dân Pháp đô hộ nước ta gần 100 năm, để thúc đẩy sự khai thác
thuộc địa đạt hiệu quả cao hơn, để vơ vét được nhiều tài nguyên hơn, chúng
đầu tư xây dựng một số kết cấu hạ tầng như mở mang giao thông, xây dựng
bến cảng, phát triển các đô thị... và mở một số trường đào tạo, đưa một số
thanh niên ưu tú đi du học các chuyên ngành khoa học hiện đại. Mặc dù mục
đích của việc phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển một số ngành kinh tế mới
và đào tạo khoa học kỹ thuật là nhằm khai thác và vơ vét thuộc địa của thực
dân Pháp, nhưng trên thực tế điều đó cũng đã tạo ra một sự phát triển tích cực
cho nền kinh tế cũng như lối tư duy người Việt. Những tri thức do người Pháp
truyền bá khi đó là những tri thức khoa học hiện đại của phương Tây thực sự
mới mẻ đối với cách tư duy của con người Việt Nam. Có thể nói, sự ảnh
hưởng của văn hóa Pháp đối với con người Việt Nam chính là bước khởi đầu
tạo ra sự giao lưu của văn hóa truyền thống phương Đông với văn hóa
phương Tây hiện đại, trong đó đặc biệt nhất là tiếp xúc của tư duy. Sự tiếp
69

xúc với văn hóa Pháp mới dừng lại ở điểm khởi đầu của cuộc "cách mạng"
trong tư duy nói chung của con người Việt Nam.
Từ tháng 7 năm 1954, sau hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ thay chân
Pháp xâm chiếm miền Nam nước ta. Để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược
và thống trị miền Nam, đế quốc Mỹ đã xây dựng một loạt ác kết cấu hạ tầng như
các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, đường sá, giao thông liên lạc, một số nhà
máy xí nghiệp, đồng thời cũng phát triển kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường ở
nước ta. Điều đó xét về mặt khách quan đã tạo ra sự phát triển nhất định về khoa
học kỹ thuật, thông qua đó, có tác động đến tư duy của đội ngũ cán bộ sau khi
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Điều này giải thích vì sao đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ở miền Nam nói chung có tư duy năng động sáng tạo hơn đội
ngũ cán bộ lãnh đạo miền Bắc trước đây.
Đối với miền Bắc, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mặc dù trong
điều kiện chiến tranh nhưng chúng ta đã thu được những kết quả to lớn về mặt
kinh tế. Với phong trào tập thể hóa và hợp tác hóa, miền Bắc đã thực sự trở
thành hậu phương lớn của cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã trong nông nghiệp đã thực sự tạo ra một lối suy
nghĩ mới - chưa từng có trong truyền thống tư duy của dân tộc. Tuy vậy, sau khi
thống nhất đất nước, chúng ta đã chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển kinh
tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp. Với cơ chế kinh tế đó
ngày càng bộc lộ những hạn chế và nhược điểm. Nó đã trở thành lực cản của sự
phát triển và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Tác động tiêu cực của nó
biểu hiện rất rõ trên các khía cạnh: không tạo được động lực cho phát triển kinh
tế, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, giảm năng suất, chất lượng và
hiệu quả, hạn chế tính chủ động, năng động, sáng tạo của người dân nói chung
và đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng.
Về mặt tư duy, đây là thời kỳ bộc lộ rõ nhất của phương pháp tư duy siêu
hình và các căn bệnh cố hữu trong phương pháp tư duy như bệnh kinh nghiệm,
giáo điều, hành chính quan liêu, bảo thủ, trông chờ ỷ lại, chủ quan duy ý chí, cực
đoan phiến diện... trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo của chúng ta. Mặt khác, do
70

phần lớn cán bộ lãnh đạo thời kỳ này là cán bộ lãnh đạo quân đội chuyển sang
nên trong quá trình thực hiện hoạt động lãnh đạo họ thường mang thói quen và
tác phong lãnh đạo quân sự vào lãnh đạo tất cả các lĩnh vực khác trong xã hội,
bởi vậy thường thấy tư duy kiểu mệnh lệnh, thiếu linh hoạt. Những hạn chế
trong phương pháp tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của chúng ta thời kỳ này
đã trở nên hết sức nghiêm trọng. Chính vì vậy, khi bước vào thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra rằng đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy.
Chủ trương đổi mới này có vai trò đặc biệt quan trọng, có sức ảnh hưởng to lớn
đối với sự phát triển của đất nước sau này.
Sơ lược về sự hình thành và phát triển truyền thống, văn hóa của nước
ta cho thấy chúng ta có nhiều yếu tố tốt đẹp mà ngày nay chúng ta vẫn cần
phải duy trì, gìn giữ, phát huy. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, có
những đặc trưng truyền thống, văn hóa có ảnh hưởng tích cực cho sự phát
triển của tư duy chiến lược không nổi bật, có những yếu tố cần cho sự phát
triển tư duy chiến lược thì chưa được khai thác đúng mức, có những yếu tố tốt
lại bị quên lãng, và nhiều yếu tố kìm hãm sự phát triển của tư duy này lại
chưa được khắc phục, loại bỏ. Xuất phát là một đất nước thuần nông với hình
thái kinh tế nông nghiệp lạc hậu, manh mún, lại liên tiếp chịu ách xâm lăng,
đô hộ thì có nhiều yếu tố là cơ sở của tư duy ngắn hạn, tư duy kinh nghiệm ăn
sâu bám rễ mà việc khắc phục những hạn chế trong tư duy này không phải dễ
dàng và nhanh chóng. Đây chính là những khó khăn làm cho việc nâng cao
trình độ tư duy chiến lược không thể nhanh chóng đạt được. Đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, những con người được sinh ra từ cái nôi văn hóa, ảnh hưởng từ tư
duy truyền thống, việc khắc phục những hạn chế, mạnh dạn bước qua những
rào cản, sẵn sàng đưa ra cái mới, mang tầm nhìn dài hạn chưa phổ biến, kết
quả đạt được trên thực tiễn chưa cao.
2.3.5. Nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
Giữa phẩm chất và năng lực cá nhân của người cán bộ lãnh đạo với tư
duy chiến lược có mối quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại ảnh hưởng,
chi phối lẫn nhau. Về mặt triết học, người ta có thể tiếp cận vấn đề này thông
71

qua mối quan hệ giữa tư duy khoa học và phẩm chất đạo đức nhưng không phải
như những hình thái ý thức xã hội riêng biệt, mà là sự thể hiện trong thực tiễn
của sự phát triển tài năng trí tuệ và phẩm cách con người.
Về phẩm chất, lãnh đạo là một hoạt động mang tính khoa học, tính nghệ
thuật, mặt khác nó cũng hàm chứa tính khó khăn, phức tạp. Muốn thành công
trong công việc lãnh đạo thì người lãnh đạo phải có thêm những phẩm chất đặc
biệt. Những phẩm chất này xuất phát từ vai trò, vị trí của người lãnh đạo; từ đặc
điểm, tính chất của lĩnh vực, đối tượng cụ thể. Mỗi người lãnh đạo cần có một
tính cách lãnh đạo phù hợp với yêu cầu đặc điểm công tác của mình, sao cho tập
trung và phát huy được những mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những
nét tiêu cực bởi mỗi hoạt động của họ có sự ảnh hưởng tới rất nhiều con người,
nhiều lĩnh vực, nhiều vùng miền của đất nước. Trong những bài nói và bài viết,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những người đạt các tiêu chuẩn dưới đây thì có
thể cử làm cán bộ lãnh đạo: những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái
trong công việc, trong đấu tranh; những người liên hệ mật thiết với dân chúng,
hiểu biết dân chúng, luôn luôn chú đến lợi ích của dân chúng; những người có
thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn, ai sợ phụ
trách và không có sáng kiến thì không phải là người lãnh đạo. Người lãnh đạo
đúng đắn cần phải: khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu
ngạo, khi thi hành các nghị quyết thì kiên quyết, gan góc, không sợ khó khăn, là
những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Về năng lực, trước hết người cán bộ lãnh đạo phải là những người có trình độ
chuyên môn vững chắc, bên cạnh đó còn có óc sáng tạo. Người lãnh đạo giỏi phải
biết xây dựng phương án cho tương lai, nhưng họ cũng phải là nhà thực tiễn, họ
không chỉ biết mơ tưởng về những con đường sáng tạo mới, mà còn có khả năng
thực sự thực hiện được những cái mới. Khi xây dựng kế hoạch cho tương lai, họ
không chỉ tưởng tượng, mà còn phải nhìn thấy mục tiêu lành mạnh. Phải có khả năng
hiểu biết toàn diện những nguồn lực mà mình có, những nguồn lực có thể phát huy.
Từ đó, tìm được cách giải quyết và những hướng đi thích hợp. Người cán bộ lãnh đạo
72

phải có năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin cao. Trong bất kỳ hoàn cảnh bất lợi nào
người lãnh đạo cũng đủ tỉnh táo để nhận diện và có phương án khắc phục.
Phẩm chất và năng lực tư duy của con người đều có hai mặt tình cảm và
lý trí. Năng lực tư duy trong mỗi con người ở cấp độ lý tính, hoàn toàn không
phải chỉ phát triển thuần tuý theo những quy luật vận động lôgíc một cách lạnh
lùng. Ngược lại trong khi suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo thì chính những tình cảm
lớn lao, cao cả là động lực và nguồn cảm hứng vô tận, khiến cho tư duy của con
người đạt đến tự do, và nhờ đó, tư duy tiếp cận được chân lý. Trong đó tình cảm
cao cả như vậy có thể bắt nguồn từ nhu cầu sáng tạo, nhu cầu đạt đến hiểu biết
ngày càng cao, nhưng bền vững hơn cả, đó là những nhu cầu đạo đức trong đời
sống. Mặt khác, những phẩm chất đạo đức của con người, những yếu tố được
xem như chủ yếu là hướng nội nhằm hoàn thiện cá nhân thì cũng không hoàn
toàn chỉ dừng ở ước muốn, ở lý tưởng hay lòng trắc ẩn, tức là ở những nhu cầu
mang tính chất tình cảm, mà chính việc hoàn thiện cá nhân, cũng phải dựa trên
những cơ sở khoa học và do đó nó phải cần tới lý trí. Chính lý trí, tư duy sáng
tạo, nhận thức giúp con người định hướng các hoạt động của mình hướng tới cái
thiện, cái được coi là thiện, không phải chỉ vì nó là cái thiện thuần túy mà chính
vì nó chứa đựng cái chân lý. Bản thân nội dung ‘‘cái thiện’’ cũng không phải là
cái vĩnh viễn “nhất thành, bất biến” mà cùng với sự thay đổi của lịch sử, nội
dung cái thiện cũng thay đổi theo, do đó nó là một phạm trù lịch sử. Vì vậy, nhận
thức và ‘‘cái thiện’’ không thể chỉ bắt nguồn từ những năng lực phân tích, tích
hợp và lựa chọn. Điều đó cho thấy rằng, phẩm chất đạo đức và năng lực tư duy
của con người là hai lĩnh vực khác nhau có tính độc lập tương đối với nhau,
nhưng lại luôn luôn có quan hệ mật thiết, tác động và nương tựa vào nhau.
Để nâng cao trình độ tư duy chiến lược, đáp ứng yêu cầu công tác lãnh đạo
trong điều kiện đầy biến động, phức tạp như hiện nay, đối với cán bộ lãnh đạo
chưa bao giờ là việc đơn giản. Điều đó đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có nỗ
lực cao trong học tập, nghiên cứu, khổ công rèn luyện trong trực tiễn. Thiếu động
cơ học tập đúng đắn, thiếu nhiệt tình, lòng say mê cũng như ý thức trách nhiệm
trước công việc, trước sự nghiệp cách mạng khó có thể đạt được yêu cầu đó.
73

Gắn việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược, rèn luyện phẩm chất, đạo
đức cách mạng cùng với phát triển năng lực cá nhân là một trong những yêu cầu
cơ bản đối với tất cả cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, từ trung ương tới địa
phương. Bởi vì, đối với mỗi người cán bộ lãnh đạo, dù ở cương vị nào, nhiệm vụ
nào, cũng đều phải gương mẫu trước quần chúng, phải làm cho “dân tin, dân
phục, dân yêu” để tập hợp, tổ chức quần chúng xung quanh Đảng nhằm thực
hiện đúng đắn và có hiệu quả đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu
một người cán bộ lãnh đạo ở một cấp nào đó mà yếu kém về phẩm chất đạo đức,
thiếu hiểu biết về lý luận, tư duy lẫn lộn, thiếu sáng tạo, bảo thủ, trì trệ thì những
quyết định của họ sẽ mạng lại những tác hại lớn cho cách mạng.
Đối với việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược yêu cầu người cán bộ
lãnh đạo phải có được và không ngừng nâng cao năng lực tham mưu, đề xuất
những chủ trương, đường lối, chính sách ở tầm chiến lược. Để thực hiện được
yêu cầu này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải nắm và hiểu đầy đủ các chủ
trương, đường lối, chính sách, chế độ của Đảng và Chính phủ đã, đang được
xác định trong quá khứ, hiện tại và tương lai; hiểu rõ những khó khăn, thuận lợi
trong việc thực hiện để tham mưu các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện
các chủ trương, chính sách đó tốt hơn; hiểu rõ những tác động của việc thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ đến các địa phương, đến vùng,
miền, khu vực và toàn cầu. Sự hiểu biết này đòi hỏi được triển khai vào thực
tiễn cuộc sống với những tính toán cụ thể về giải pháp, nguồn, điều kiện cơ sở
vật chất, kỹ thuật, thời gian thực hiện tối ưu; phải bảo đảm tính khả thi và hiệu
quả thiết thực của các bản chương trình, kế hoạch; phải lường trước những khó
khăn, bất trắc, những tình huống phức tạp có thể xảy ra làm cho chương trình,
kế hoạch khó triển khai thực hiện, để từ đó có các đối sách và những giải pháp
Tải bản FULL (166 trang): https://bit.ly/3fQM1u2
khắc phục. Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

Có thể nói, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính là nòng cốt, là linh hồn, là
người trực tiếp chèo lái đưa quê hương, đất nước vươn tới những thành tựu mới,
hội nhập, sánh vai cũng các quốc gia khác trên toàn thế giới. Bằng năng lực và
trình độ cả về tư duy và hoạt động thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo đều tạo nên
74

những ảnh hưởng đối với sự phát triển trên quy mô rộng lớn. Trên thực tế, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta hiện nay đạt trình độ nhất định về tư duy chiến lược,
có những người có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ thực sự đạt ở mức độ
cao. Tuy nhiên, nâng cao trình độ tư duy chiến lược là đòi hỏi cấp thiết trong
tình hình mới. Việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ tư duy chiến lược thực
sự cần sự phát huy vai trò nhân tố chủ thể. Đó là lòng quyết tâm học tập bằng tất
cả tình cảm và phẩm chất đạo đức, trí tuệ của chủ thể; đó là khát khao được nâng
tầm tư duy, vươn tới tầm nhìn chiến lược trước thời đại đem lại sự phát triển cho
Tổ quốc; đó là mong muốn được cống hiến những cái mới, sự sáng tạo cho sự
phát triển bền vững của đất nước. Nhân tố chủ quan luôn giữ một vai trò quan
trọng đối với tất cả những hoạt động, một người cán bộ lãnh đạo có năng lực trí
tuệ tốt, có thể phát hiện ra nhiều yếu tố mới, nhưng không quyết tâm học tập
nâng cao trình độ, thiếu khát khao cống hiến, không đem những điều mới có lợi
cho sự phát triển ứng dụng vào thực tiễn thì vai trò của chủ thể đó cũng không
được ghi nhận đối với sự phát triển.
Tải bản FULL (166 trang): https://bit.ly/3fQM1u2
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

Tiểu kết chương 2


Tư duy chiến lược là một bước phát triển quan trọng trong quá trình tư
duy của con người. Ngày nay, trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, để có sự phát triển tối ưu đều cần tư duy ở tầm chiến lược. Đặc biệt đối với
nước ta đang cần những bước đi dài, đi tắt, đón đầu để bắt kịp sự phát triển của
thế giới lại càng đòi hỏi phải có tư duy chiến lược, nhất là trong bối cảnh tình
hình quốc tế biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện nay.
Người cán bộ lãnh đạo ở cả góc độ nhận thức hay hoạt động thực tiễn đều
đòi hỏi phải có cái nhìn khái quát, toàn diện, tổng thể nhưng đồng thời cũng phải
hiểu sâu sắc về các vấn đề cả ở lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Trên cơ sở đó phải
xử lý thông tin, đưa ra được các quyết định đúng đắn nhằm giải quyết các vấn đề
liên quan, đề xuất những phương án có tính chiến lược để phát triển kinh tế - xã
hội. Như vậy, nâng cao trình độ tư duy chiến lược có vai trò to lớn cả về mặt nhận
thức và hoạt động thực tiễn đối với người cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
75

Có thể nói, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính là nòng cốt, là linh hồn, là
người trực tiếp chèo lái đưa quê hương, đất nước vươn tới những thành tựu mới,
hội nhập, sánh vai cùng các quốc gia khác trên toàn thế giới. Bằng năng lực và
trình độ cả về tư duy và hoạt động thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo tạo nên
những ảnh hưởng đối với sự phát triển trên quy mô rộng lớn. Có nhiều nhân tố
ảnh hưởng, cả mặt tích cực và hạn chế đến việc nâng cao trình độ tư duy chiến
lược cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo nước ta hiện nay, đó là tình hình kinh tế - xã
hội; những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; yếu tố truyền thống văn hóa và sự nỗ lực của
chính bản thân nhân tố chủ quan người cán bộ, lãnh đạo.
Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta
hiện nay là yêu cầu tất yếu cho công cuộc phát triển đất nước. Để xây dựng được
nội dung cụ thể cho việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ,
lãnh đạo nước ta đảm bảo có được tầm nhìn xa, trông rộng, mang tính sáng tạo
vượt trước, có được những dự báo đúng xu hướng vận động của thực tiễn thì việc
tìm hiểu, đánh giá thực trạng tư duy chiến lược của đội ngũ này là cơ sở cần thiết.
76

Chương 3
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1.1. Những kết quả đạt được trong nâng cao trình độ tư duy chiến
lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta và nguyên nhân
3.1.1.1. Những kết quả đạt được
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta trong thời gian qua ngày càng trưởng
thành trên mọi lĩnh vực, từ trình độ tư duy đến năng lực hoạt động thực tiễn.
Trình độ tư duy chiến lược không ngừng được nâng cao, điều này được thể hiện
rõ trước hết thông qua các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng ta và cùng
với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách đó vào thực
tiễn đem lại những thành công đưa đến sự phát triển của đất nước trên nhiều mặt
khác nhau.
Thứ nhất, nâng cao tầm nhìn xa trông rộng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta khẳng định được tầm nhìn xa trông rộng qua
từng giai đoạn phát triển của đất nước, đã xây dựng và thực hiện đạt kết quả tốt
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội với những kế hoạch cho nhiều năm,
trong những giai đoạn đạt kết quả đáng ghi nhận. Những kết quả đạt được trong
nâng cao trình độ tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta hiện
nay là kết quả trực tiếp từ công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới tư duy do Đại
hội lần thứ VI của Đảng ta khởi xướng. Trước khi Đại hội Đảng VI diễn ra, đất
nước ta rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc do những sai lầm kéo dài của Đảng
về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Những sai lầm tồn tại trên nhiều mặt khác nhau, đặc biệt sai lầm về kinh tế là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan. Chúng ta đã mắc những sai lầm trong bố trí cơ cấu
kinh tế, nhất là ở lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976 -

6477531

You might also like