You are on page 1of 5

Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa

án nhân dân tỉnh Tiền Giang.


Chủ thể: Nguyên đơn là Nguyễn Văn Ôn và Lê Thị Xanh, bị đơn là Nguyễn Văn
Rành.
Đây là tranh chấp về: Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 30/08/1995, vợ chồng ông Võ VĂn Ôn và bà Lê THị Xanh
cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm
ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản với giá 30 chỉ vàng 24k, thỏa thuận 3
năm sẽ chuộc, quá hạn không chuộc sẽ giao phần đất với số vàng đã cầm cố. Theo lời
khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất.
Quyết định của Tòa án: Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Tiền Giang xin rút đoạn “thứ nhất” về phần thủ tục, còn đoạn “thứ hai” trong
kháng nghị về phần nội dung thì vẫn giữ nguyên và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm hủy bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét
thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ
chấp nhận.
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
Chủ thể: Nguyên đơn là Ngân hàng Liên doanh V, bị đơn là Công ty PT.
Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
Lý do tranh chấp: Vào năm 2014, giữa Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT đã
ký kết các hợp đồng tín dụng với mục đích vay vốn bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt
động sản xuất và ngân hàng cấp đã hạn mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng. Trên
cơ sở hợp đồng hạn mức nêu trên, ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT. Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015 với hạn mức tín dụng tối đa
10.000.000.000 đồng mục đích vay vốn là bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản
xuất và ngân hàng đã giải ngân ngày 14/5/2015 với số tiền 1.700.000.000 đồng. Để đảm
bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết các hợp đồng thế
chấp. Sau khi Ngân hàng giải ngân các khoản vay cho Công ty PT thì đến tháng 4/2015
phía Công ty PT đã vi phạm về thời hạn thanh toán lãi và gốc cho Ngân hàng. Khi Công
ty PT không thanh toán nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì phía Ngân hàng có mời những
người bảo lãnh lên để làm việc và bà Dương Thúy G, ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V đã
thanh toán cho Ngân hàng số tiền 1.600.000.000 đồng và lấy tài sản thế chấp về. Trong
quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị T đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền là
700.000.000 đồng và Ngân hàng đã giải chấp tài sản thế chấp đối với bà T. Ngoài ra, bà
Nguyễn Thị X cũng đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 600.000.000 đồng và
Ngân hàng cũng đã giải chấp đối với phần tài sản của bà X. Đối với các tài sản mà phía
Công ty PT thế chấp bảo lãnh cho khoản vay theo Hợp đồng thế chấp số 07/2013/HĐTC
ngày 22/3/2013, qua xác minh hiện nay không biết ở đâu, do Công ty đã di chuyển tài sản
đi nơi khác. Tính đến ngày 05/9/2019, Công ty PT còn thiếu Ngân hàng Liên doanh V -
Chi nhánh Thành phố H số tiền là 5.235.426.579 đồng và 69.444,52 USD (bao gồm cả nợ
gốc và lãi).
Quyết định của Tòa án: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên buộc Công ty PT
phải trả số nợ trên và tiếp tục trả lãi phát sinh cho Ngân hàng từ ngày 05/9/2019 cho đến
khi trả xong khoản nợ. Do hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm
hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông
T, bà H.
Tóm tắt Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Chủ thể: Nguyên đơn là ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, bị đơn là ông
Lê Vĩnh Thọ và bà Nguyễn Thị Ngọc Loan.
Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
Lý do tranh chấp: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng và ông Thọ, bà Loan
ký kết hợp đồng vay tiền với nội dung: 822.000.000 đồng, lãi suất 8,99%/năm cố định
trong 24 tháng đầu tiên, có điều chỉnh lãi suất định kỳ 3 tháng/lần, thời hạn vay là 72
tháng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Ông Thọ, bà Loan nhiều lần vi phạm nghĩa
vụ trả nợ, dư nợ thực tế là 592.618.832 đồng (nợ gốc 502.324.000 đồng, nợ lãi:
90,294.832 đồng) và đem tài sản thế chấp là 01 chiếc ô-tô tải giao dịch trái pháp luật với
bà Giao, rồi từ bà Giao chuyển nhượng cho ông Tân.
Quyết định của Tòa án:
Giữ nguyên bản án về phần buộc ông Lê Vĩnh Thọ và bà Nguyễn Thị Ngọc Loan
trả nợ cho ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng.
Hủy bản án về phần buộc ông Phan Thái Tân trả lại xe ô tô cho ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng và về phần xử lý xe ô tô này để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông
Thọ, bà Loan.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm về phần bản án bị hủy nói trên.
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Chủ thể: Nguyên đơn là Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân, bị đơn
là Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận.
Đây là tranh chấp về giao dịch tiền đặt cọc.
Lý do tranh chấp: Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận ký kết
biên bản bán cổ phiếu thuộc sở hữu của SCIC cho công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc
Hoàng Quân. Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân đã chuyển 1 tỷ đồng tiền
đặt cọc mua cổ phiếu và công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh tỉnh Ninh Thuận. Ngân hàng đã trích
tài khoản này để thu nợ vay của công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận. Thỏa thuận mua
bán không thành. Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận đổi thành Công ty TNHH du lịch
Ninh Thuận và sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long
Thuận hoặc Ngân hàng hoàn trả 1 tỷ đồng, không yêu cầu lãi suất.
Quyết định của Tòa án: Không chấp nhận kháng nghị của giám đốc thẩm số
160/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 24/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp cao tại
thành phố Hồ Chí Minh và giữ nguyên bản án sơ thẩm và phúc thẩm, cụ thể: chấp nhận
yêu cầu khởi kiện và buộc Ngân hàng phải trả 1 tỷ đồng.
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Chủ thể: Nguyên đơn là Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương - Chi nhánh Đồng
Nai. bị đơn là bà Đỗ Thị Tỉnh - chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân.
Tranh chấp về nghĩa vụ trả tiền và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 26/9/2006, Quỹ tín dụng cho Doanh nghiệp tư nhân vay
900.000.000 đồng và tài sản đảm bảo là quyền sử dụng 20.408 m2 đất để đảm bảo nghĩa
vụ trả nợ của chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất của người thứ ba. Bà Đỗ Thị Tỉnh- Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân
không trả tiền cho Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương.
Quyết định của Tòa:
Tuyên “số tiền trên...của người thứ ba...” là không đúng, phải tuân theo đúng quy
định tại Điều 361 BLDS 2005.
Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi đối với
khoản tiền nợ gốc, kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm cho đến khi thanh toán hết nợ
theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng.
Xác định lại nguyên đơn là Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương mới đúng theo quy định
tại Điều 92 BLDS 2005.
Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
Chủ thể: Nguyên đơn là bà Vũ Thị Hồng Nhung, bị đơn là bà Nguyễn Thị Thắng.
Đây là tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh.
Lý do tranh chấp: Bà Nhung cho bà Mát vay 500.000.000 đồng, với lãi suất
1,2%/tháng. Các bên thỏa thuận trả lãi hàng tháng còn tiền gốc sẽ trả vào tháng 10 năm
2006, có lập giấy biên nhân có sự bảo lãnh của ông Ân (Nhơn) và bà Thắng. Bà Mát trả
được 8 tháng tiền lãi, sau đó bà Mát không trả cả tiền gốc và tiền lãi nên bà Nhung khởi
kiện yêu cầu bà Mát và bà Thắng phải có trách nhiệm trả tiền cho bà. Sau đó, do Tòa
hướng dẫn nên bà Nhung khởi kiện yêu cầu bà Thắng có trách nhiệm trả tiền cho bà cả
tiền gốc và tiền lãi.
Quyết định của Tòa án:
Tòa án các cấp chưa thu thập, xác định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của
bà Mát, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc bà Thắng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự
cùng bà Mát là chưa chính xác. Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm hướng dẫn
đương sự lựa chọn có thể khởi kiện bà Mát hoặc bà Thắng là không đúng quy định của
pháp luật.
Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai buộc bà Thắng phải thực hiện nghĩa vụ thay bà Mát cũng là không đúng.
Quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân huyện Tràng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo quy
định của pháp luật.

You might also like